Bí ẩn đường sắt London và Tây Nam (7) - (8)
Chương 7: Chuyển đoạn: Bóng ma
Nhật ký
Ngày 2 tháng 12 năm 1890
Giấc ngủ lại bị những cơn ác mộng ám ảnh, nên tôi hầu như chẳng chợp mắt được bao nhiêu. Song điều đó cũng không còn quan trọng. Tôi đã chìm trong một cơn mê mẩn do thuốc phiện gây ra, và những giấc mộng tỉnh – hay mê – cứ thay nhau lũ lượt kéo đến. Những bóng ma của dĩ vãng lướt qua tâm trí tôi như làn khói mỏng, và dạo gần đây, có một hình bóng đặc biệt cứ lặng lẽ trở lại.
Cô ấy tên là Bridget Hannigan. Con gái độc nhất của giáo sư môn Triết học Tự nhiên, lớn hơn tôi một tuổi. Nét xinh theo kiểu người Ireland tóc đen – tuy xinh nhưng không thể gọi là đẹp.
Cha cô đã đưa cô và bản thân rời khỏi Dublin sau khi trở thành góa vợ. Giống như tôi, cô khinh thường giao du với người khác. Chỉ còn một năm nữa là cô sẽ nhận học bổng vào Trường Girton. Còn tôi thì đã được mời vào học tại Sidney Sussex.
Năm mười bảy tuổi, tôi là một kẻ hướng nội, nhưng tôi học nhanh và giỏi. Tôi đã quen với việc giúp các thầy giáo chấm bài và làm những việc vặt trong học thuật. Trong vai trò ấy, thầy Hannigan đã nhờ tôi kèm môn hóa cho Bridget, nhưng trớ trêu thay, chính tôi mới là người trở thành học trò của cô ấy. Tôi nhận được những bài học đầu tiên về chuyện ái ân từ cô – và dù tôi không dám nói rằng mình đã thể hiện kĩ năng gì cho ra hồn, nhưng tôi phải thừa nhận rằng trải nghiệm đó thật đáng nhớ. Chúng tôi thường lén lút tìm đến nhau trong khu nghĩa trang nhà thờ, dưới tấm màn che của bóng tối.
Tôi đã tự cho rằng mình đang yêu – yêu thực sự – và tin chắc rằng cả hai sẽ cùng theo học tại Cambridge, rồi tôi sẽ cưới nàng làm vợ. Mức độ ngây thơ của tôi khi ấy thật không sao đo đếm nổi. Nhưng cô gái nhỏ dòng Gael ấy chẳng mất bao lâu để khiến tôi tỉnh mộng.
Thay vì nhận học bổng vào Girton, nàng lại đính hôn với một quý ngài tên là Henry Riley. Họ làm đám cưới vào mùa thu năm ấy.
Tôi không tức giận. Tôi trở nên lạnh lùng. Tôi đã thề sẽ không bao giờ phí hoài tình cảm cho cái giống đàn bà phản trắc nữa. Sau khi nàng rời bỏ tôi, tôi bắt đầu tập quyền Anh, như một cách để dồn nén cơn giận băng giá trong lòng. Tôi vùi đầu vào sách vở, và năm sau đó, tôi chính thức nhập học tại Sidney Sussex.
Hai năm sau, tôi đọc được cáo phó của phu nhân Bridget Riley – nàng đã qua đời khi sinh nở. Tôi không cảm thấy ăn năn, mà có lẽ còn đôi chút nhẹ nhõm, khi nghĩ rằng chính tôi có thể đã trở thành kẻ góa vợ. Mọi chuyện xảy ra như vậy, với tôi, là hoàn toàn thỏa đáng.
Giờ đây, tôi thấy nàng – đang ngồi xếp bằng trên chiếc ghế của Watson. Đầu hơi nghiêng, môi thoáng nụ cười mỉa mai pha chút xót thương.
Một cậu bé ngọt ngào, đầu lâu của cái chết cất tiếng nói.
Từ đó đến nay, tôi chỉ có vài cuộc gần gũi thân xác hiếm hoi. Tôi đã đi đến kết luận rằng, dịch vụ của một gái điếm nơi phố phường Paris còn đem lại sự thỏa mãn hơn thứ tình cảm giả tạo mà người ta vẫn gọi là yêu.
Tôi bắt đầu tỉnh táo trở lại. Đã đến lúc dùng thêm một liều nữa.
---
Chương 8: Trà và hoa hồng
Tôi đến phố Baker lúc tám giờ rưỡi, và thấy Sherlock Holmes đang cúi mình bên bàn ăn sáng. Anh có vẻ như đang đun nước để pha trà. Chưa từng thấy anh tự pha trà bao giờ, tôi lập tức lấy làm tò mò.
"Holmes," tôi nói, tiến lại gần bàn. "Sao anh lại pha trà vậy?"
"Tôi đang tiến hành một thí nghiệm," anh đáp, ra hiệu bảo tôi ngồi xuống. "Anh có muốn giúp tôi một tay không?"
"Không có thuốc phiện gì trong đó chứ?" tôi dè dặt hỏi, ngồi xuống ghế.
Anh bật cười. "Đừng lo, Watson. Chỉ là để kiểm tra một giả thuyết nho nhỏ của tôi thôi."
Anh lấy ra gói trà mà mình đã lấy từ chuyến hàng tối qua, cẩn thận mở lớp giấy bọc. Bên trong là một chiếc hộp mây đan tinh xảo, và trong đó là một lượng lá trà sẫm màu.
Holmes chia một ít trà vào hai tách rồi rót nước sôi vào. Anh để trà ngấm trong vài phút, sau đó nhấc một tách lên môi và nhấp một ngụm nhỏ.
"Thế nào?" tôi hỏi, cảm thấy mình thật ngớ ngẩn.
"Xuất sắc, nhưng tiếc là không phải loại danh tiếng — và tôi dám nói là hư cấu — mang tên Annapurna Purple Star," anh nhấp thêm một ngụm nữa rồi đặt tách xuống. "Đây là một loại Darjeeling hảo hạng, đứng đầu trong các loại trà Ấn Độ. Nếu tôi không nhầm thì là vụ Xuân."
Tôi nâng tách lên và nhấp một ngụm dè dặt. Quả thật, đó là một loại trà tuyệt hảo và đậm đà hương vị.
"Rất ngon, đúng như anh nói đấy, Holmes, nhưng điều đó chứng minh được gì?"
"Nó xác nhận điều mà tôi vẫn tin là sự thật," anh ngả lưng ra ghế, chống cằm lên những ngón tay đang đan vào nhau. "Ông Dover đã không thành thật với chúng ta. Hoàn toàn không. Watson, anh làm ơn lấy khẩu súng lục của tôi trong ngăn kéo bàn ra được không? Tôi nghĩ ta nên để nó trong tầm tay."
Bà Hudson mau chóng mang bữa sáng lên. Phần tôi thì đang đói lả, liền ăn ngấu nghiến món thịt nguội và khoai tây một cách hào hứng. Holmes thì gần như không đụng đến đồ ăn, chỉ ăn vài miếng bánh mì nướng khô. Anh ngồi trầm ngâm lặng lẽ, mắt lờ đờ và khép hờ. Đến mười giờ, chúng tôi nghe tiếng chuông cửa vang lên. Holmes đẩy khẩu súng về phía tôi, và tôi liền đút nó vào túi.
Malcolm Dover bước vào phòng, trông có vẻ phấn khích và vui vẻ. Ông ngồi xuống ghế sofa, chống khuỷu tay lên đầu gối, người nghiêng về phía trước với dáng vẻ háo hức.
"Tôi nhận được điện tín của ngài, ngài Holmes, và tôi rất mừng khi biết ngài đã tìm thấy lô hàng của tôi."
"Phải rồi," Holmes nói, đứng dậy khỏi ghế. "Ông Dover, ông có muốn dùng một tách trà không?"
"Không, cảm ơn," vị khách của chúng tôi đáp, vẻ mặt hơi khó hiểu.
"Ông chắc chứ?" Holmes hỏi dồn, môi thoáng nở một nụ cười. "Tôi vừa có được ít trà Darjeeling vụ Xuân hảo hạng."
Người đàn ông đến từ Texas lập tức đứng bật dậy, vẻ tức giận. "Ngài Holmes, tôi không biết ngài đang giở trò gì với tôi — "
Holmes giơ tay ra hiệu im lặng. Chậm rãi, anh thò tay vào túi áo trong và lấy ra một bông hồng đã khô. Vừa xoay nhẹ cành hoa giữa các ngón tay, anh vừa mỉm cười với khách hàng của mình như mèo nhìn chim hoàng yến.
"Ông có biết đây là gì không?"
Người đàn ông Texas ngồi xuống lại, liếm môi. "Đây là trò đùa gì sao?" ông ta hỏi, giọng yếu ớt.
"Tôi cam đoan là không, thưa ông," Holmes đáp, nụ cười trên môi càng lúc càng rộng. Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân nặng nề trên cầu thang. Bất chợt, thanh tra Lestrade và Gregson xuất hiện ở ngưỡng cửa.
"À, chào mừng các ông. Các ông đến vừa đúng lúc," Holmes nói.
"Ông Holmes," Lestrade gật đầu chào. "Tôi đoán là ông vẫn khỏe chứ? Tôi đã đưa Gregson đến theo như ông yêu cầu."
"Thế thì tốt quá," Gregson nói, cười khẩy một cách khó chịu. "Lúc nào tôi cũng sẵn lòng giúp đỡ những người kém khả năng hơn mình."
Lestrade lườm đối thủ của mình, rõ ràng đang cố nuốt lại một lời mỉa mai cay độc.
"Những người này là ai?" Dover hỏi, quay sang nhìn Holmes.
"Xin lỗi vì chưa giới thiệu," Holmes nói. "Đây là thanh tra Lestrade và thanh tra Gregson. Vì vụ việc này có một vài yếu tố tội phạm, tôi nghĩ tốt nhất là nên nhờ đến sự hỗ trợ của họ."
"Tôi tưởng tôi đã nói rõ rồi. Tôi không muốn có cảnh sát dính dáng vào chuyện này!" Dover rít lên, giận dữ.
"Thôi ngay đi, thưa ông," Gregson gắt. "Nếu ông Holmes cho rằng sự có mặt của chúng tôi là cần thiết, thì tốt nhất ông nên nghe theo ông ấy."
Bị quát như vậy, Dover trừng mắt nhìn ông ta, trông ngày càng giống một con thú bị dồn vào chân tường. Vẻ cao bồi gan lì của ông bắt đầu tan biến dần.
Holmes rút từ túi áo trong ra một mảnh giấy và mở nó ra. Đó chính là bức thư mà chúng tôi đã tìm thấy trong lô hàng.
"Tôi có ở đây một điều thú vị nữa từ cuộc phiêu lưu đêm qua. Nó được đánh máy, nhưng tôi tin là mình biết nó đến từ đâu. Tôi đọc lên nhé?"
Không chờ ai trả lời, anh bắt đầu đọc to:
"Jack thân mến,
Sau lần cuối cùng chúng ta chia tay, em không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ lại cầm bút viết cho anh. Em đã sống ở miền quê một thời gian, và khi đọc báo, em rất vui khi biết một người quen chung của chúng ta gần đây đã đặt chân đến London. Em biết chắc rằng anh cũng đang ở quanh đây, nên em đã vội vã lên London với ý định đến thăm anh.
Tuy nhiên, lần chia tay trước quá buồn bã, và em không đủ can đảm để gặp lại anh. Xin hãy tha thứ cho em, thay vào đó em để lại một món quà nhỏ như một biểu hiện tình cảm của mình.
Mãi yêu thương,
Jessie của anh.
Tái bút: Em rất ngạc nhiên và cảm kích khi nhận được món quà của anh, và xin cam đoan với anh rằng nó đã giúp xoa dịu rất nhiều những khúc mắc trong quá khứ."
Malcolm Dover không hề động đậy. Ông nhìn chằm chằm vào Holmes, toàn thân run rẩy. Bất ngờ, ông bật dậy và lao về phía cửa, nhưng Gregson đã kịp đuổi theo. Vị thanh tra to con tông thẳng vào người Dover, ép ông ta vào tường và giữ chặt trong khi Lestrade vội vàng tiến tới để còng tay.
Nhưng Dover đã vùng ra được một tay khỏi Gregson và rút ra khẩu súng lục Bulldog cỡ .38 giấu trong áo khoác. Khẩu súng nổ đoàng một tiếng chát chúa, khiến cả hai thanh tra đều giật lùi lại. Holmes lập tức bật dậy, nhảy qua ghế sofa và chụp lấy cổ tay cầm súng của Dover.
Anh đẩy lùi cánh tay đang cầm súng rồi đấm thẳng vào thái dương của Dover. Người đàn ông Texas loạng choạng, nhưng vẫn tiếp tục chống trả, và khẩu .38 lại nổ thêm phát nữa, viên đạn găm xuống sàn một cách vô hại. Tôi vòng ra phía sau hắn, dí nòng súng lục của mình vào sau đầu hắn.
"Bỏ xuống," tôi ra lệnh.
Dover để khẩu súng rơi xuống sàn. Holmes quỳ xuống, nhặt lấy khẩu súng, bật nắp ổ đạn và đổ hết đạn ra ngoài. Sau đó anh quay sang Lestrade và Gregson. "Hai ông có ai bị thương không?"
"Chỉ có lòng tự trọng của tôi thôi," Gregson nói, giơ tay áo lên — trên đó hiện rõ vết cháy do thuốc súng. "Xuýt nữa thì tiêu. Còn ông thì sao, Lestrade?"
"Tôi ổn, chỉ là tai còn ù đặc," Lestrade đáp. Rồi ông quay sang Dover. "Ông làm vậy để làm gì chứ? Giờ thì tự ông đưa mình lên thớt rồi đấy!"
"Vô ích thôi," Dover nói, giọng đờ đẫn vì cú đấm vừa rồi. "Tôi biết mình tiêu đời ngay khi tôi thấy cái thứ chết tiệt đó." Ông ta chỉ vào bông hồng khô đặt trên bàn ăn sáng.
"Ông nói cái quỷ gì vậy?" Lestrade quay sang Holmes. "Ông Holmes, ông phải giải thích chuyện này."
"Tất nhiên rồi," Holmes đáp, vẫn đang giữ chặt cổ tay của Dover. "Có lẽ ông nên đưa tôi chiếc còng tay đó, rồi tôi sẽ làm sáng tỏ mọi chuyện."
Lestrade ném còng tay qua, và Holmes nhanh chóng khóa chúng vào cổ tay của Dover. Sau đó anh gật đầu với tôi, và tôi đẩy Dover ngồi xuống ghế sofa, nòng súng lục vẫn chĩa thẳng vào đầu hắn.
"Thưa các quý ông," Holmes nói, chỉ vào kẻ bị bắt, người đang nhìn anh với ánh mắt đầy sát khí. "Cho phép tôi được giới thiệu: ông Jack Rose."
"Jack Rose!" Gregson kêu lên. "Jack Rose của băng đảng Bowery Rose sao?"
"Chính là hắn," Holmes đáp, rồi quay sang tôi. "Watson, anh làm ơn lấy tập 'R' trên kệ xuống được không?"
Tôi đưa khẩu súng lục cho Lestrade rồi đi đến kệ sách để lấy quyển từ điển.
"Tìm mục Rose, Jessica."
Tôi lật qua các trang và tìm được mục cần thiết, rồi bắt đầu đọc to:
"Jessica Rose, vợ của Jack Rose, kẻ khét tiếng trong đường dây buôn lậu vàng. Ông và bà Rose là hai thủ lĩnh của băng đảng Bowery Rose, một tổ chức tội phạm có trụ sở tại New York, hoạt động trong lĩnh vực buôn lậu vàng từ Ấn Độ và nhiều hoạt động phi pháp khác.
Băng đảng này đã tan rã sau khi bà Rose bị bắt và chồng bà ta trốn thoát. Người ta tin rằng chính ông Rose đã dàn dựng vụ bắt giữ vợ mình để đảm bảo sự tự do cho bản thân. Tuy nhiên, không lâu sau khi bị giam tại nhà tù Sing Sing, bà Rose đã trốn thoát thành công. Bà hiện không rõ tung tích, và bà vẫn đang lẩn trốn ngoài vòng pháp luật."
"Làm cách quái nào mà cô ta trốn thoát được chứ?" Lestrade kinh ngạc hỏi.
"Chuyện này không được công khai rộng rãi, nhưng tôi có trao đổi thư từ với ngài Leverton thuộc Cơ quan Thám tử Pinkerton," Holmes nói. "Vài năm trước, ông ấy từng gửi cho tôi một báo cáo khá kỳ lạ về một tù nhân đã dùng phương pháp vô cùng độc đáo để trốn ngục. Jessie Rose vốn có thói quen đội tóc giả màu vàng để che giấu danh tính, và người làm thủ tục tiếp nhận cô ta vào nhà tù Sing Sing hẳn đã sơ suất khi bỏ qua chi tiết này.
Cô Rose đã giấu một miếng bọt biển tẩm đầy ê-te dưới lớp tóc giả đó. Khi luật sư bào chữa đến để gặp cô ta, cô đã dùng ê-te làm ông ta bất tỉnh, rồi ung dung thay quần áo của ông ấy mặc vào người mình. Sau đó cô ta mặc váy và đội tóc giả cho ông luật sư, rồi sắp xếp sao cho trông như một nữ tù nhân đang ngủ. Với chiếc mũ kéo thấp che kín mặt, việc bước ra khỏi nhà tù chẳng phải chuyện quá khó khăn đối với cô ta."
"Gan quá thể!" Gregson thốt lên, lắc đầu. "Tôi chưa từng nghe chuyện gì giống vậy."
"Tôi cũng nghĩ là chưa," Holmes vừa đáp vừa tiến đến nhồi thuốc vào tẩu đất của mình. "Cảnh sát New York đã rất nỗ lực để giấu nhẹm vụ việc trước báo chí, kẻo lại có tên tội phạm nào đó học theo mánh này."
"Nhưng làm sao cô ta lần ra được chỗ hắn?" Lestrade hỏi, trán nhăn lại vì suy nghĩ.
"À, giờ thì ông đang khiêm tốn rồi đấy, thanh tra à," Holmes cười lớn. "Ông và các đồng nghiệp chẳng phải vừa mới bắt được kẻ siết cổ Texarkana, Jacob Hackett đó sao? Jack Rose cũng đến từ vùng đó ở Texas, và họ vốn đã là đồng bọn lâu năm trong đường dây buôn lậu. Tôi cho rằng bọn chúng đã âm mưu cùng nhau rời khỏi nước Mỹ, bỏ mặc cô Rose lại với số phận của mình."
Holmes quay lại ghế, kéo một hơi thuốc rồi mở lá thư ra. "Chi tiết quan trọng nằm ở đây. Cô ta đọc được tin tức về Hackett trên báo và kết luận rằng hắn và Jack lại đang trở lại với trò cũ — lần này là buôn lậu vàng trong các chuyến hàng trà. Các anh còn nhớ Jacob Hackett làm việc trên một con tàu thuộc Công ty Vận chuyển Ấn Độ Mới chứ. Đó là chiếc Queen of Makalu, do công ty của ông Rose thuê.
Đối với Jessie Rose, việc xác định tuyến đường vận chuyển hàng hóa và nhận ra điểm yếu nhất nằm ở Salisbury hẳn chẳng có gì khó khăn. Cô ta có vừa đủ thời gian để chiêu mộ đồng bọn, cướp tàu 544, rồi chuyển hướng số vàng ấy dọc theo tuyến Salisbury–Portsmouth bằng một đoàn tàu đặc biệt khác. Từ đó, chuyển sang lục địa."
"Nhưng tại sao lại cần đến đoàn tàu thứ hai?" tôi hỏi. "Sao không lái luôn tàu 544 tới Portsmouth, khỏi phải lằng nhằng vụ Nine Elms làm gì?"
"Hai lý do," Holmes đáp nhanh. "Thứ nhất, cô Rose biết chắc rằng tàu 544 sẽ bị truy lùng dọc theo tuyến London và Tây Nam, và không muốn dẫn lực lượng chức năng lần theo dấu vết đến tận Portsmouth — nơi vàng được chuyển đi. Thứ hai, là vì trả thù. Mánh khóe tráo đổi số hiệu ở Nine Elms cho thấy, nếu tôi dám tự tâng bốc mình một chút, rằng cô ta đã biết đến danh tiếng của tôi và đoán rằng tôi sẽ được mời vào vụ này.
Cô ta biết ông Rose cần một người đại diện không chính thức. Hắn đã thuê tôi — và phải trả giá vì điều đó — trong hy vọng mong manh là sẽ tìm lại được số vàng còn nguyên vẹn, mà không hề mảy may nghĩ đến việc một cái bẫy đang dần khép lại quanh mình. Cô ta tin chắc rằng tôi sẽ phát hiện ra số hiệu tàu bị tráo đổi, hàng hóa giả, người lái tàu, và đặc biệt là bức thư. Và dĩ nhiên, còn thứ này nữa.”
Holmes nâng đóa hồng lên, nhìn nó với một nụ cười chua chát.
“Cô ta đã đặt cược vào hiểu biết của tôi về giới tội phạm, và cố tình để lại bông hồng, biết rằng tôi sẽ lập tức hiểu được thông điệp trong đó và ra đòn trí mạng bằng cách trao ông Rose cho công lý.”
“Tuyệt thật. Ừm, xem ra ông đã giải quyết gần như xong xuôi cả rồi đấy, ông Holmes,” Lestrade nói. “Tốt nhất chúng ta nên đưa tên quỷ này về Sở Cảnh sát ngay. Đi thôi, Rose.”
Rose, hay còn gọi là Dover, giật mình tỉnh táo. Hắn nghiêng người về phía Holmes, rít qua kẽ răng một cách độc địa: “Tao sẽ gặp mày dưới địa ngục vì chuyện này, Holmes. Mày và con đĩ ấy, xin Chúa chứng giám.”
Gregson vung tay tát một cú vào đầu Rose. “Chúng tôi không chấp nhận thứ ngôn ngữ như vậy trong phòng khách của ông Holmes. Đi thôi.”
Hai viên thanh tra lôi nghi phạm xuống cầu thang một cách thô bạo. Chúng tôi đi theo phía sau và đứng nhìn khi hắn bị nhét vào chiếc xe tù Black Maria.
Lestrade quay sang Holmes: “Tôi phải nói rằng chúng tôi sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc buộc tội cô Rose. Nhân chứng duy nhất lại từ chối ra khai.”
Holmes nhún vai. “Tôi cũng đoán trước được điều đó. Nate Kelly không phải là người có thần kinh thép, mà chúng cũng đã ‘xử lý’ ông ta quá kỹ.”
“Có một đứa trẻ lang thang đứng ngoài phố hôm đó,” tôi gợi ý. “Có khả năng nó đã có mặt vào đêm xảy ra vụ việc.”
Holmes quay sang nhìn tôi, ánh mắt đầy thắc mắc. “Đứa trẻ lang thang nào cơ?”
“Đứa ở bến hàng. Tôi đưa nó hai đồng nửa crown để nó đi gọi xe ngựa cho chúng ta. Anh không thấy à?”
“Không, tôi không thấy,” anh đáp, một nếp nhăn nhẹ hiện lên giữa đôi lông mày. “Nhưng thôi, chuyện đó không quan trọng.”
“Chỉ còn một câu hỏi nữa thôi,” Gregson lên tiếng.
Holmes đã rút bông hồng ra khỏi túi, xoay xoay nó trong ngón tay, vẫn nhíu mày. Tôi hắng giọng ra hiệu rõ ràng. Anh không ngẩng lên, nhưng ra dấu cho viên thanh tra rằng mình đang lắng nghe.
“Chúng ta phải làm gì với Jessie Rose? Chúng ta đã bắt được một tên tội phạm, nhưng còn kẻ kia thì sao?”
Holmes ngắm nhìn đóa hồng thêm một lúc rồi cài nó vào khuy áo, quay sang nhìn Gregson.
“Lời khuyên của tôi, thưa thanh tra, là các ông không nên làm gì cả. Đó sẽ chỉ là công cốc mà thôi,” anh mỉm cười nhạt. “Ngay cả tôi, với tất cả mưu trí và kỹ năng của mình, cũng sẽ không dại dột mà lần theo dấu vết của một kẻ tội phạm liều lĩnh và tinh vi đến như vậy.”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com