Cây Chu
Trong sử thi "Đẻ Đất Đẻ Nước" của dân tộc Mường, cây Chu dẫu xưng tụng là phúc thần, có thể ban phát của cải vô tận, nhưng trong thân nó tồn tại "ma quỷ". Điều này có chút tương tự với Mộc tinh Xương Cuồng của người Kinh - vốn là cây thiêng nhưng biến thành quỷ quái. Cây Chu có liên quan mật thiết đến Moong, một trong những con quái vật ghê gớm nhất của thần thoại Việt Nam.
Lang Cun Khương, con trai của Lang Cun Cần, là ông lang giàu mạnh nhất Mường. Một hôm, Khương cùng với hai anh là Cun Tồi và Cun Tàng đi đánh cá. Họ bắt gặp một đàn kiến lửa, cõng theo cả chiêng vàng trống bạc, trông thích cả mắt. Lang Cun Khương bèn hỏi:
"Chúng bay đi đâu mà đem nhiều đồ thế?"
Kiến Chúa đáp:
"Ông Lang ơi, nhà ông giàu lắm, nhưng còn lâu mới bằng chúng tôi. Vì chúng tôi sùng bái Cây Chu, nên được cây cho biết bao nhiêu của cải."
Cun Tàng hỏi:
"Kiến Chúa ơi, Cây Chu mi nói đến nằm ở đâu thế? Dẫn ta đến đó đi!"
Kiến Chúa khinh thường đáp:
"Cây Chu mọc ở nơi đất trời gặp nhau, loài người không thể tới đó."
Nghe đến giàu hơn, sang hơn, thì ai chẳng thích. Ba anh em trở về hô hào dân Mường đi tìm Cây Chu, hứa hẹn ban thưởng hậu hĩnh. Bản thân Cun Khương cũng tự đi tìm. Đến đâu chàng cũng hỏi han, nhưng mọi người chẳng biết Cây Chu thần diệu ở đâu. Sau nhiều tháng ngày, mọi người cũng nản chí. Tưởng như vụ việc đi vào dĩ vãng.
Tậm Tạch là người đàn ông hiền lành, chăm chỉ. Lang Cun Khương quý mến Tậm Tạch, bèn gả con gái cho anh. Giữa lúc ở nhà nghỉ nơi, Tậm Tạch nghe tiếng trống chiêng, thúc giục dân Mường kiếm Cây Chu. Anh cũng tình nguyện đi tìm. Tậm Tạch đói thì xin ăn, hái quả dại, khát thì uống nước suối. Gặp ai cũng chào hỏi, nhưng chẳng ai biết Cây Chu thần đang ở đâu.
Một dạo kia, Tậm Tạch lạc trong rừng, trời đã tối heo hút. Anh bèn dọn một chỗ ngủ dưới cây to. Một con tu hú thình lình cất tiếng. Tậm Tạch giật mình, giương cung bắn. Con tú hú van xin tha mạng. Tậm Tạch hỏi:
"Mi có biết Cây Chu thần ở đâu không?"
Tu hú đáp:
"Ông đi xuống Mường Ống (Thanh Hóa) là có người biết! Ông còn phải băng qua vô số cánh rừng, đồi núi, thác ghềnh. Gian nan, vất vả lắm!"
Tậm Tạch thả con tu hú đi, rồi lên đường vào nam. Đến Mường Vong thì trời đã khuya. Anh sửa soạn chỗ nằm thì đụng phải một con đười ươi. Nó cứ hò hét làm anh càu nhàu, bảo nó đừng phá giấc ngủ. Con đười ươi nói:
"Tao là Thần Đười Ươi! Mồm to bụng rộng! Nhưng tao không có g.i.ế.t người, tao chỉ thích đấu vật thôi. Mày thua tao thì mày làm đệ tao. Rồi tao lo ăn ở cho mày!"
Tậm Tạch nghĩ bụng, ông thần này có khi biết Cây Chu, bèn nhận lời thách đấu. Nhưng anh đặt ra điều kiện:
"Ông muốn người ta đấu vật, thì ông phải tự trói mình lại, rồi đứng dưới thung lũng. Tôi đứng trên đồi lao xuống vật ông. Bên nào thua phải làm em chín tháng, làm họ chín đời."
Thần Đười Ươi làm theo giao ước. Tậm Tạch phi xuống đạp cho ngã lăn cù. Ông thần bị thua nhưng không chịu làm "đệ" con người. Vị thần nằm ăn vạ, rồi lại đòi thêm ba trận nữa. Nhưng cuối cùng Tậm Tạch vẫn thắng với tỉ số 3-1. Các loài vật vừa xem họ vật nhau, vừa cười đau ruột.
Thần Đười Ươi dẫn Tậm Tạch đến một khu rừng thiêng. Cây Chu sừng sững giữa trời đất. Các loài rồng, phượng, hổ, cùng muông thú đều cúi đầu bái lạy trước Cây Chu.
Tậm Tạch giương cung bắn một con vàng anh. Nó van xin anh đừng giết, và hứa sẽ lấy nhiều quả Cây Chu tặng anh. Tậm Tạch bèn tha nó một mạng. Con chim đúng y lời hẹn, đưa cho anh rất nhiều quả vàng, quả bạc, quả đồng. Nó dặn anh rằng:
"Có của phải biết giữ mồm miệng. Đừng nói việc Cây Chu với bất kỳ ai. Kẻo mang họa vào người."
Nhưng vì không giữ miệng, Tậm Tạch phải trả giá cực đắt, và còn khơi dậy một tai họa khủng khiếp, đau thương.
***
Tậm Tạch về quê thấy nhà cửa tiêu điều. Hỏi ra mới biết, vì anh đi vắng lâu ngày, Mường cho là anh trốn việc, nên bắt vợ nộp phạt. Tậm Tạch an ủi vợ, rồi chúng ta sẽ có nhiều hơn xưa. Một lát sau, dưới sân nhà bỗng nhiên có một đàn trâu, đàn bò, trên sàn nhà có đầy kho lúa gạo. Từ đấy bốn người sống giàu có, dư dả.
Vợ Tậm Tạch là nàng Dẻ, vốn là con gái Lang Cun Khương. Cô tò mò vì sao chồng mình bỗng dưng nhiều tiền của thế. Tậm Tạch không chịu nói, nàng Dẻ cứ hỏi mãi. Cuối cùng, Tậm Tạch mới hé lộ chuyện Cây Chu, rồi dặn vợ đừng nói cho người ngoài biết. Thế là... vợ anh chạy sang gặp bố, nói cho cả nhà nghe!(nhà vợ mà, có phải người ngoài đâu.)
Cun Tồi, Cun Tàng giận lắm, định cầm roi đánh Tậm Tạch. Nhưng Cun Khương bảo:
"Hai anh đừng nóng vội. Chúng mình chuốc say nó, rồi dụ nó kể cho mình nghe."
Đúng là rượu vào lời ra. Một khi đã say, Tậm Tạch kể hết cho ba anh em nhà Lang từ đầu đến cuối về Cây Chu. Họ bèn cướp lấy quả vàng, quả bạc đem giấu.
Tỉnh rượu, Tậm Tạch mới nhận ra mình khai sạch rồi. Nửa xót của, nửa giận dữ, anh rút dao đi đòi hai quả thần. Nhưng vừa nghĩ đến vợ con, lòng anh chùng lại. Vừa lúc ấy, Lang Cun Khương đi tới và bảo:
"Mày muốn giàu có, muốn sống bên vợ con, thì phải dẫn tao đi tìm Cây Chu. Cấm nói quanh co, cấm chỉ sai đường. Mày dám chống tao, thì đừng hòng sống!"
Tảng sáng, ba anh em nhà Lang cưỡi voi, đi kiệu, đôn đốc người nhà sắm sửa dụng cụ, mau mau lên đường. Họ bày lễ cúng linh đình, cầu cho đi đường bình an, sớm chặt gốc Chu.
Mất hàng tháng đi đường vất vả, đám người Lang Cun Khương mới tìm được Cây Chu. Từ sáng đến chiều, năm mươi trai tráng cật lực chặt cây. Nhưng đến hôm sau, những vết chém hoàn toàn biến mất.
Cun Khương bèn hỏi một tên hầu đã ngủ dưới gốc cây về chuyện này. Nó đáp:
"Tôi nghe bọn ma cây nói, chỉ sợ lưỡi rìu to bằng bàn tay, thân rìu làm từ cây lảy trảy. Cầm rìu ấy chặt thì Cây Chu mới đổ."
Cun Khương sai người chế tác cây rìu đúng y như vậy. Quả nhiên chỉ cần ba nhát rìu, Cây Chu đổ sập. Khi đó trời đất tối tăm, sét nổ đùng đoàng, quỷ thần đều kinh sợ.
Ma của Cây Chu giận dữ vô cùng. Nàng là vị thần quyền uy, được thần linh và muôn loài kính sợ. Nhưng vì tham lam, con người đã xúc phạm thân thể nàng. Cây Chu muốn loài người phải trả giá thật đắt.
Con người lấy thừng buộc chặt, ra sức kéo đến bở hơi tai mà Cây Chu vẫn không nhúc nhích. Lang Cun Khương bèn hỏi thầy cúng phải làm sao. Thầy cúng đáp:
"Phải h.i.ế.n t.ế người. Hãy g.i.ế.t thằng Tậm Tạch, đem n.ộ.i t.ạ.n.g nó, đem máu nó làm vật tế. Hãy dùng đ.ầ.u l.â.u nó làm mõ, dùng xương nó làm đà, dùng da nó làm dây. Như thế Cây sẽ về Mường."
Tậm Tạch lập tức bị đem ra hành hình. Nhớ về hai con, anh chảy nước mắt, cơn giận sôi trào. Những người chứng kiến dẫu vô cùng thương xót, nhưng họ sợ Lang Cun Khương, sợ Vua Trời và thần linh ở phe Khương. Chẳng ai dám lên tiếng. Chỉ một dao, cái đ.ầ.u của Tậm Tạch rơi xuống đất. Cảnh tiếp theo thực vô cùng kinh dị. Xác anh bị moi hết n.ộ.i t.ạ.n.g, x.ư.ơ.n.g t.h.ị.t, da dẻ bị xoắn làm dây thừng, không còn ra hình người.
Dân Mường hò nhau kéo Chu về. Nhưng dọc đường bị tuột dây, cả cây lăn xuống Ang Vận Chiếng. Hầu hết mọi người nản lòng, nhưng Lang Cun Khương vẫn quyết tâm đem thần mộc trở về. Tình cờ, Khương bắt gặp một đàn rái cá. Anh bèn vung dao dọa chém. Con đầu đàn vội xin tha, hứa dốc sức cho Lang. Khương mới hỏi về Cây Chu thì chúng đáp:
"Đầu cây hoá thành con Cá Kè, rễ cây hoá thành con Cá Cắn. Chúng sáng đi kiếm ăn, chiều lượn lờ quanh Ang Vận Chiếng."
Khương nói:
"Chúng mày giúp tao đem Chu về, cái gì tao cũng cho."
"Chúng tôi chỉ xin ông cho chúng tôi bơi lội tung tăng, được xé chài lưới mà kiếm ăn thôi."
Nhờ đàn rái cá, Cây Chu phải biến về hình dạng ban đầu. Mọi người hồ hởi kéo cây về Mường. Nhưng trên đường lại gặp ma quỷ tấn công, buộc họ phải đi đường vòng. Gần một năm mới về đến nơi. Họ dựng Nhà Chu để thờ cúng, dọn mâm cỗ linh đình. Ai cũng tưởng rằng, có Cây Chu thì họ sẽ ấm no.
Hai đứa trẻ biết tin cha bị c.h.ế.t thảm thương. Chúng căm hận ông ngoại (Lang Cun Khương) vì lòng tham mà g.i.ế.t h.ạ.i cha chúng. Điều này rất đúng ý Cây Chu. Bi kịch lại chồng chất bi kịch...
Từ ngày có Cây Chu, mường nước ăn uống no say, hả hê vui sướng. Nhưng ba mẹ con Tậm Tạch bị bỏ mặc, không được dự phần trong cuộc vui ấy. Hai đứa trẻ: thằng Tặm và con Tạch, căm hận nhìn sang nhà ông ngoại.
"Cha chúng ta tìm được Cây Chu, mà phải c.h.ế.t thảm thương."
"Ông ngoại không có tình người, vứt bỏ mẹ con chúng ta."
Nhưng thấy mẹ đói quá ngất đi, hai đứa trẻ đành sang nhà ông, mong kiếm được thức ăn thừa. Bọn canh cổng quát:
"Cơm thừa nhà ông Lang thì để cho chó, cho heo ăn! Không để chúng mày đâu!"
Tức quá, hai đứa trèo tường vào, nhặt mấy khúc xương rồi đập vỡ mặt trống. Nhà Lang um sùm lên. Người ta hô hào bắt trói hai đứa. Thằng bé vứt ống xương vào mặt đám lính và nói:
"Cha chúng tôi vì các người mà đi tìm Cây Chu. Các người đã g.i.ế.t cha tôi, lại còn bạc đãi mẹ con chúng tôi. Một bọn vô lương tâm!"
Nó trèo lên cửa sổ, ngửa mặt lên trời mà khấn:
"Cha ơi cứu chúng con!"
Tức thì mây đen kín trời, sét giật đùng đùng. Lửa đèn tắt ngúm. Mọi người hoảng sợ la hét. Hai đứa trẻ vội chạy một mạch vào rừng.
Sẩm tối, Dân Mường kéo đến bắt nàng Dẻ. Nghe tin mẹ bị người ta đánh gần c.h.ế.t, hai đứa phải ra chịu trói. Lang Cun Khương lạnh lùng nhìn hai cháu, ông bảo:
"Chúng mày đừng có mà phản tao. Nể tình máu mủ, tao chừa mạng chúng mày. Nhưng chúng mày phải bán nhà, bán ruộng, kiếm tiền mua chín con khỉ, một trăm con mèo. Đem đủ tới đây thì tao mới tha cho mẹ con nhà mày."
Hai đứa chạy tới ôm mẹ rồi oà khóc. Ai thấy cũng xót xa. Nhưng Lang Cun Khương là cháu Vua Trời. Lời của ông như lời thần linh. Phàm nhân nào dám không nghe. Đúng lúc ấy, có một bà lão gánh lúa đi đến. Bà ngồi xuống nghe câu chuyện đau lòng, rồi bày mưu cho hai đứa trẻ:
"Hai cháu hãy buộc rơm vào đuôi mèo, buộc lửa vào đuôi khỉ. Huấn luyện chúng nó đốt nhà bọn xấu."
Dứt lời, bà lão biến mất ngay.
Thằng Tặm, con Tạch mừng lắm. Chúng nó quyết chí báo thù cho cha, rửa hờn cho mẹ.
Cuối cùng, anh em nhà Tậm Tạch đã có chín con khỉ, một trăm con mèo được huấn luyện chu đáo. Họ buộc rơm vào đuôi thú, rồi đem sang nhà Lang. Đến nơi thì chúng châm lửa ngay. Bầy thú vội vã nhảy tứ tung, làm khu nhà gỗ cháy sáng ngùn ngụt. Lửa bốc cao suốt mười chín ngày đêm. Bao nhiêu của cải, châu báu, lụa là mất sạch. Cơ dinh bọn nhà giàu hoá tro than. Lửa theo gió bay đến đốt rừng, đốt nương. Cơn đại hoả tai chất đầy thù hận như muốn thiêu hết cả đất trời.
Lang Cun Khương và đám lính vác dao rượt đuổi hai đứa cháu. Nhưng dù sao chúng nó vẫn mang dòng máu thần linh, nên sở hữu khả năng biến hoá. Chúng ôm nhau biến thành cây si mọc giữa đồng, qua mặt đám người giận dữ.
Lang Cun Khương tìm mãi chẳng thấy hai đứa cháu, lòng càng bực bội. Ông quay lại gốc si trước đó rồi chém bừa mấy nhát cho hả tức. Ngờ đâu chém đúng người thật. Nhựa si trắng hoà với m.á.u tươi ồng ộc đổ ra. Đ.ầ.u hai đứa cháu rơi xuống đất.
Lúc bấy giờ Lang Cun Khương mới tỉnh ngộ. Vì lòng tham che mắt, ông đã hại chết gia đình con gái. Ôm xác hai cháu, Cun Khương bật khóc nức nở. Dân Mường cũng khóc theo.
Máu của hai anh em ngấm vào cây cỏ, từ đó sinh ra nhiều ác thú. Nhưng ghê gớm nhất là một tia máu đen sì - thứ cô đọng linh hồn đầy hận thù của họ - trở thành Moong. Trong tiếng Mường, moong nghĩa là "thú dữ", nhưng cũng là tên một con quái vật vô cùng khổng lồ, mạnh mẽ, tàn bạo...
Nguồn bài viết: tổng hợp từ fanpage Truyện thần thoại
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com