Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Thần Long Đỗ

Thành Long Biên là thủ phủ của quận Giao Châu từ thời Sĩ Nhiếp nhà Hánsang cai trị (186). Các viên thái thú thời Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương sang cùngđóng thủ phủ tại đây. 

Tiền Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương sau khi đánh đuổibọn quan quân đô hộ, rồi xưng vương, cũng đóng đô tại đấy. Đến đời Tuỳ, Đường, quân Lâm Ấp, Nam Chiếu ở phía Nam thường hay raGiao Châu cướp phá. Trương Bá Nghi (đời Đường) mới đắp lại La Thành ở vịtrí mới, cách sông Tô Lịch khoảng 200 thước (vào năm 767) rồi dời nhiệm sởxuống. Sau đó, Cao Chính Bình sang thay. Phùng Hưng khởi nghĩa đánh CaoChính Bình rồi chiếm phủ đô hộ ở trong La Thành (năm 791). riệu Xương sang dụ hàng Phùng An, đắp thêm La Thành kiên cố hơn trước.Trương Chu thay Triệu Xương lại củng cố thêm một lần nữa. 

Đến Lý Nguyên Gia, "thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trongchâu có nhiều người sinh lòng làm phản", mới dời nhiệm sở xuống sát sôngTô Lịch và đắp thành nhỏ ở xung quanh (824).Khi Cao Biền sang, y đã nhiều lần đánh thắng quân Nam Chiếu và ổn địnhđược tình hình. Vua Đường phong Cao Biền làm Tiết độ sứ và ở lại cai trị GiaoChâu trong 8 năm (866 - 874) rồi sau đó triệu hồi về nước, cho Cao Tâm làcháu y lên thay...Biền cũng đóng phủ đô hộ tại nhiệm sở của Lý Nguyên Gia khi trước...

Cao Biền là dòng dõi con nhà võ lại thêm xuất thân nho học, nên y tinh thốnglý số, hiểu biết thiên văn địa lý và có nhiều mưu mẹo thâm hiểm. Phàm khi điđến đâu xem hình thế đất đai, thấy nơi nào "linh thiêng" y liền dùng thuậtpháp yểm bùa huyệt để triệt "nhân kiệt". Thuật pháp chủ yếu của Biền là lừabắt một người con gái chưa chồng đem mổ bụng moi ruột rồi nhồi cỏ bấcvào. Đoạn y mặc lại quần áo cho tử thi theo trang phục quan tước, rồi đặtngồi lên ngai. Y đem các thứ đến huyệt định yểm rồi giết thịt trâu bò tế cúngvà đọc thần chú. Hễ khi nào tử thi cử động, tức là thần linh ở đất ấy đã nhậpvào, là y lập tức dùng kiếm chém đầu. Như thế có nghĩa là y đã trừ yểmxong. Tuy vậy, với mọi người, bao giờ Biền cũng nói là dùng pháp thuật đểtiễu trừ tà ma.

Việc đầu tiên của Cao Biền khi ở lại Giao Châu làm Tiết độ sứ là cho đắp lại LaThành với quy mô to lớn và chắc chắn hơn trước. Vòng quanh thành rộng đến1.982 trượng lẻ 5 thước. Thân thành cao 2 trượng 6 thước. Chân thành rộng 2trượng 5 thước. Bốn mặt thành đắp các tường nhỏ bên trên cao 5 thước 5tấc... Lại đắp một con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước, cao 1 trượng5 thước, chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian, ở trong chânđê. 

Khi thành và đê đắp xong, một buổi trưa, Biền thủng thẳng đi ra cửa phíađông đình tìm "huyệt" để yểm. Bỗng nhiên mây đen ở đâu kéo đến, đất trờitối sầm, rồi mưa to gió lớn và sấm chớp đùng đùng. Biền tối tăm mặt mũi,liền chui tạm vào một gian lều của lính lúc ấy đang chưa có người ở. Vừa kịpđịnh thần lại, nhìn ra, Biền thấy ngay trước mặt một áng mây ngũ sắc từ dướiđất dâng lên, có ánh sáng chói chang. Trong áng mây hiện ra một người mặtmũi phương phi, cưỡi rồng vàng, đàu đội mũ hoa đỏ, mình mặc phẩm phụcmàu tía, chân đi hài thêu, tiến đến trước mặt Biền trong tiếng nhạc vang lừngvà trong mùi hương trầm thơm ngào ngạt. Biền kinh hoàng, mắt hoa, đầu ócchoáng váng, ngã lăn quay ra đất. Mấy tên lính hầu xúm lại, rồi đội mưa, lậptức đưa Biền về phủ. 

Đêm ấy, Biền nằm ngủ trong nỗi khiếp đảm, sai lính chốt chặt các cửa vàdùng đến mấy chiếc chăn để đắp. Nửa đêm, trong giấc mơ màng, Biền lạithấy hiện ra hình ảnh của ông có gương mặt phương phi đã gặp buổi trưa.Ông tiến đến bên gường, miệng nở nụ cười rất tươi mà bảo Biền rằng: "Ta làLong Đỗ chính khí thần, từ thuở khai thiên lập địa đã cai quản đất này, thấyông mở dựng đô thành xong, thì đến chơi đó thôi. Lúc trưa đã toan nóichuyện nhưng thấy ông không được khoẻ, nên bây giờ lại đến. Ông chớ cóngại ngần gì. Phàm đã làm quan tước thì ai cũng phải hết lòng lo lắng chodân, như thế mới xứng đáng với danh vị. Biết ông là người có nhiều thuậtpháp nhưng ta vẫn đến, vì chẳng có thuật pháp nào có thể hại được đến ta.Vậy ta nói để ông biết trước mà lo sửa mình, chớ dùng thuật pháp để thaycho đức độ đó". 

Biền tỉnh dậy, sờ lên trán thấy mồ hôi ướt đầm, rồi ngồi chong đèn thức đếnsáng. 

Đến buổi họp quần thần dưới quyền, Biền kể lại với mọi người rằng đêm quanằm mơ thấy dị nhân về đòi cúng lễ, rồi y nói thêm rằng: "Chẳng lẽ takhông khuất phục nổi người ở phương Nam được ư?". 

Một viên quan dưới quyền đứng dậy: 

- Bẩm Sứ quân. Hạ quan nghĩ Ngài nên lập đàn tràng rồi dùng một nghìn cânsắt đúc tượng hình dạng thần nhân để làm bùa yểm. Nếu cúng lễ chẳng hóara ta phải đi cầu xin người ở phương Nam à?

Biền cho lời bàn ấy là hợp với ý mình, bèn bắt tay vào để thực hiện. 

Đàn lập xong, tượng yểm xong, Biền lại ngồi khấn vái và niệm thần chú, bắtquyết suốt ba ngày ba đêm liền. Đến tối ngày thứ ba bỗng nhiên trời đất tốisầm, mưa gió sấm chớp đùng đùng làm cho đèn nến trên đàn tràng tắt phụt,rồi các thứ đồ cúng lễ và cờ quạt cũng rơi xuống đất lả tả. Từ chỗ yểm tượng,một làn chớp loé sáng cùng với tiếng nổ long trời làm cho Biền kinh hãi ngãlăn quay ra đất. Nhưng trước khi ngất xỉu, Biền còn kịp nhìn thấy pho tượngnát vụn, hàng ngàn mảnh sắt từ đấy bay ra và cũng may, nếu không ngãxuống thì chắc chắn Biền đã bị mảnh sắt vụn băm cho nát nhừ rồi

Sau trận đó, Biền ốm đến cả tháng trời, nhưng là quan đứng đầu xứ, nên lúcchưa khỏi hẳn, vẫn phải gượng dậy đi lại hội họp và giải quyết các công việc.Tuy chỉ có đoạn đường ngắn từ nơi ở đến nơi đặt nhiệm sở mà Biền cũngphải dùng gậy chống để đi cho khỏi ngã. Trông y run rẩy chẳng khác nào thâncây non trước gió bão. Vì vậy, dân ta mới có câu chế nhạo: "Lẩy bẩy như CaoBiền dậy non". 

Trong những ngày đau ốm, nét mặt Biền bơ phờ thiểu não, còn tâm trạng thìngao ngán, chán nản. Y than thở với những người thân cận: "Ta chịu mệnhvua nên mới gắng gượng ở lại. Còn bây giờ chắc đã đến lúc ta phải vềphương Bắc rồi!"

Mấy tháng sau quả nhiên có lệnh triệu hồi Cao Biền về nước thật! Nghe nói ymang theo được hàng chục xe chở vàng bạc, châu báu và nhiều thứ quí giákhác. Tuy vậy, do ốm yếu mà y đi lại lẩy bẩy, còn lúc ngồi trên xe thì vẫn cứrun như cầy sẫy. Chắc là y vừa lo sợ có cướp xảy ra giữa đường, lại vừa lo sợcả Thần chính khí Long Đỗ hiện ra đòi tính mạng của y. Nhưng cũng may màThần đã làm ngơ để cho y về đến quê hương bản quán trót lọt rồi mới chết!

***

Đầu mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Trong khitạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở giữa sông Cái ngay trướcthuyền ngự, nhân đó nhà vua đổi tên thành, gọi là thành Thăng Long.Sau buổi làm lễ động thổ để xây dựng cung điện, phủ đệ, ban đêm nhà vuanằm mộng thấy thần nhân cưỡi rồng hiện về xưng là Long Đỗ chính khí thầnvà nói lời chúc mừng. Nhà vua đáp lễ xong, rồi nhân đó hỏi thần xem đất nàyliệu có thể là kinh sư của mãi muôn đời được không, thần nhân vui vẻ đáp:"Được!"

Vua tỉnh dậy, sáng hôm sau sai giết súc vật làm cỗ rất hậu để tế lễ, lại sắcphong cho thần là "Thăng Long Thành hoàng đại vương" và tu sửa đền thờthần ở phường Hà Khẩu, tức phía đông của Kinh thành Thăng Long. (Đó làđền Bạch Mã ở Hàng Buồm hiện nay). 

Đến đời Lý Thái Tông, nhà vua cho mở phố chợ ở phía đông kinh thành, vì vậyhàng quán mọc chen chúc nhau ở sát ngay cạnh đền. Thời ấy hàng quán chủyếu mới là tranh tre nứa lá, nên hay bị hoả hoạn. Ấy vậy mà một lần có hoảhoạn lớn, nhà cửa trong phố cửa Đông gần như cháy trụi, nhưng chỉ riêngngôi đền thì vẫn còn nguyên vẹn, không bị thần lửa phạm tới. 

Vua Lý Thái Tông lấy làm lạ, rồi sau nghe kể rõ về hành trạng từ trước đến naycủa thần, bèn xuống chiếu sắc phong cho thần là "Quảng Lợi Vương". Lại cửquan sở tại trông nom tu bổ ngôi đền và đặt lệ tế lễ hàng năm vào đầu mùaxuân. 

Đến đời Trần, phố xá nhà cửa ở phường Hà Khẩu lại càng đông vui tấp nập,buôn bán sầm uất. Lại ba lần nữa, xảy ra hoả hoạn ở phố chợ cửa Đông này.Thế nhưng, cả ba lần ngôi đền vẫn nguyên vẹn, còn nhà cửa lều quán xungquanh thì cháy trụi.Sự kiện này làm cho mọi người đều kinh hãi, từ thường dân cho đến cả vuaquan. Nhân sắp sửa có giặc Nguyên tràn sang xâm lấn, Thái sư thượng tướngTrần Quang Khải đã cảm khái làm bài thơ đề ở đền như sau: 

Tích văn nhân đạo đại vương linh 

Kim nhật phương tri quỷ mị kinh 

Hoả bắc tam khu thiêu bất tận 

Phong trần nhất trận phiến nan khuynh 

Chỉ huy vọng lượng tan thiên chúng 

Đàn áp yêu ma bách vạn linh 

Nguyện trượng dư uy thanh Bắc khấu 

Đốn linh vũ trụ lạc thăng bình. 

Nghĩa: 

Trước vẫn nghe người ta nói: Đại Vương thiêng 

Nay mới biết: bọn ma quỷ đều khiếp sợ Đại Vương 

Lửa bốc ba lần đều không cháy được đền 

Gió bão một trận cũng không làm nghiêng được 

Chỉ huy ba nghìn quỷ binh 

Đàn áp được trăm vạn yêu ma 

Muốn cậy dư uy của Đại Vương dẹp giặc Bắc 

Để cho vũ trụ được yên bình

Bài thơ này hiện vẫn còn. Nó được người đời sau khắc lên biển sơn son thiếpvàng treo ở trong đền Bạch Mã. 

Nếu đến đền Bạch Mã ngày nay, ta thấy ngoài "Quảng Lợi Đại Vương" còn cóphối hợp thờ Mã Viện, và ở phía cổng, lại thờ thêm một cung phi thời Tốngnữa. Đó là vì từ mấy trăm năm trước, đây là khu vực người Hoa buôn bán rồiở lại sinh cư lập nghiệp. Họ bỏ tiền bạc ra xây dựng và tu bổ lại ngôi đềnkhang trang như ngày nay, nên có sự phối thờ như vậy cũng là điều dễ hiểu.

Nguồn bài viết: http://truyenxuatichcu.com/truyen-thuyet-viet-nam/than-chinh-khi-long-do.html

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com