Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

HỒI KÝ THỨ TƯ

Lời Giới Thiệu

Đây là tập Hồi Ký dài nhất từ trước đến giờ. Tập này dược viết giống như những lần trước, không phải tự ý Chị Lucia nhưng do lời yêu cầu của các vị bề trên của Chị. Vào ngày 7 tháng 10, năm 1941, Đức Giám Mục thành Leira và linh mục tiến sĩ Galamba, để chuẩn bị cho những cuộc thẩm vấn kế tiếp, đã đến Valença do Minho để gặp Chị Lucia. Các ngài đã đem theo tập Hồi Ký thứ ba, giải thích cho Chị những điều tiến sĩ Galamba muốn biết thêm và đưa lá thư yêu cầu chính thức của Đức Cha Dom Jose cho Chị. Họ cũng nhấn mạnh đến tính khẩn cấp của vấn đề vì thế Chị Lucia đã gởi bản thảo thứ nhất cho Đức Giám Mục ngay khi xong ngày mồng 5 tháng Mười Một. Tập thứ hai và thứ ba viết xong ngày 8 tháng Mười Hai.

Nhưng các vị này yêu cầu Chị Lucia điều gì? Người thì muốn Chị phải viết lại "tất cả mọi sự" không chậm trễ những điều Chị có thể nhớ được. Nhưng Đức Giám Mục đã khôn ngoan nói: "Không, tôi sẽ không yêu cầu Chị làm như vậy..." Tuy thế, Chị Lucia cũng đã được yêu cầu làm khá nhiều việc:

1. Tiến sĩ Galamba có rất nhiều câu hỏi, nhưng vì không đủ thì giờ, nên Chị sẽ phải viết ra.

2. Chị phải viết lại tất cả những gì liên quan tới Phanxicô mà Chị có thể nhớ được, giống như Chị đã viết về Jacinta.

3. Viết những chi tiết khác về việc Thiên Thần hiện ra.

4. Chị được yêu cầu viết lại một bản tường trình mới về những lần Đức Mẹ Hiện Ra.

5. Chị phải viết thêm những gì có thể nhớ được về Jacinta.

6. Chị cũng cần viết ra những bài hát phổ thông mà Chị và hai người em họ đã hát.

7. Chị phải đọc lại cuốn sách của cha Fonseca và sửa lại những gì Chị nghĩ là không đúng.

Chị Lucia đã không tiếc công đáp ứng những câu hỏi này. Chị đã trả lời rõ ràng và đầy đủ chi tiết một cách đáng khen. Quả tình Chị có thể đoan chắc với Đức Giám Mục rằng: "Con tin rằng ngay lúc này con đã viết xong tất cả những gì Đức Cha yêu cầu con viết."

Tuy nhiên Chị chỉ cố ý giữ lại phần thứ ba của bí mật mà thôi. Về mặt tinh thần thì không khác gì lắm với những lần trước: "... vâng lời và phó thác mọi sự cho Thiên Chúa là Đấng tác động trong tâm hồn con. Con thật sự không hơn gì một dụng cụ nghèo nàn và hèn mọn mà Chúa đã không nề hà sử dụng, và rồi chỉ một lát sau, giống như họa sĩ vất bỏ cây cọ không cần thiết nữa vào lửa để nó trở về với tro bụi, thì Đấng Toàn Năng cũng sẽ cho dụng cụ không còn hữu dụng nữa của Ngài trở về cát bụi trong nấm mồ, cho đến ngày vinh quang hát mừng Alleluia bất tận."

J.M.J.

LỜI MỞ ĐẦU

Tin Tưởng và Phó Thác

Kính Thưa Đức Cha,

Sau khi thành kính quỳ dưới chân Chúa chúng ta hiện diện trong Nhà Tạm, và trước Trái Tim vô Nhiễm Đức Mẹ Maria là Mẹ Thiên Quốc rất yêu qúy của chúng ta, để xin Chúa và Mẹ ban cho con ơn không viết dù một chữ hoặc ngay cả một nét nào nếu nó không tôn vinh Chúa và Mẹ, nay con xin được bắt đầu công việc này, trong niềm hân hoan và bình an tâm hồn của những người mà lương tâm cho họ biết chắc rằng họ làm mọi sự theo thánh ý Chúa.

Phó dâng hoàn toàn trong bàn tay của Chúa Cha nhân từ và trong sự che chở của Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, con xin được một lần nữa đặt vào tay Đức Cha hoa trái cây duy nhất của con, đó là cây vâng lời.

Cảm Hứng Trên Căn Gác Xép

Trước khi bắt đầu, con đã nghĩ đến việc mở cuốn Kinh Thánh, là cuốn sách duy nhất mà con muốn sở hữu trước mặt con trong góc xa vắng của căn gác xép này. Nơi đây ánh sáng duy nhất chiếu từ khung kính trên trần nhà, là nơi con vẫn đến mỗi khi có cơ hội để trốn tránh con mắt thế gian. Con để quyển vở trên lòng dùng làm bàn viết và lấy một thân cây gìa làm ghế ngồi.

Nhưng có người sẽ hỏi, "Tại sao chị không viết trong phòng của chị?"

Thiên Chúa yêu qúi đã thấy rất thích hợp khi không cho con một căn phòng dù trong nhà dòng vẫn còn vài phòng trống (1). Thật ra thì căn phòng cộng đồng dùng để làm việc và giải trí có vẻ thích hợp hơn cho con chu toàn công việc Chúa trao phó, nhưng nó không tiện để con ngồi viết lúc ban ngày, và buổi tối thì lại dễ gây buồn ngủ. Nhưng con hài lòng và cảm tạ Chúa vì đã ban cho con ơn được sanh ra trong hoàn cảnh nghèo khó và tiếp tục sống trong sự nghèo nàn vì lòng yêu mến Ngài.

Lạy Chúa kính yêu! Quả con không có ý định viết điều này ra.

Con phải trở lại điều Chúa cho con thấy khi mở cuốn Tân Ước.

Trong thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Phi-líp-phê đoạn 2 câu 5 đến câu 8 viết như sau: "Anh chị em hãy có một tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu... vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ... Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết." Sau một lúc suy niệm, con cũng đọc luôn câu 12 và 13 trong cùng đoạn ấy: "Anh chị em hãy biết run sợ và gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác đông đến ý chí cũng như việc làm của anh chị em theo như thánh ý thiện lành của Ngài."

Vậy là được rồi. Con thấy không cần phải tìm kiếm gì hơn là vâng lời và phó thác trong tay Chúa để Ngài tác động trong con. Thật sự con chẳng khác nào một dụng cụ nghèo hèn mộc mạc mà Ngài có ý muốn sử dụng và rồi không bao lâu nữa, giống như một họa sĩ quăng cây cọ vô dụng của mình vào lửa để nó cháy ra tro, thì Người Họa Sĩ của Vũ Trụ cũng sẽ vùi chôn dụng cụ của Ngài trong một nấm mồ cho nó được trở thành cát bụi, cho tới ngày trọng đại của những Alleluia vĩnh cửu. Vì nấm mồ cũng không tiêu hủy tất cả mọi thứ, vì thế lòng con cũng hân hoan ao ước ngày đó, và hạnh phúc cũng như tình yêu vĩnh cửu đã bắt đầu – từ giây phút này! (2)

Xức Dầu Của Thần Khí

Kính Thưa Đức Cha,

Ngày 7 tháng Mười, năm 1941, tại thành Valença, Linh mục Tiến Sĩ Galamba đã hỏi con câu sau đây:

"Thưa Chị, khi Chị nói rằng việc đền tội chỉ được thực hiện có một phần, thì đó là do Chị tự ý nói ra hay Chị đã được mặc khải?" Kính thưa Đức Cha, con nghĩ rằng trong những trường hợp như vậy, con không bao giờ dám tự ý nói hoặc viết ra một điều gì cả. Con phải cảm tạ Thiên Chúa đã luôn ban cho con sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, là Đấng mà con cảm thấy luôn hiện diện trong tâm hồn, hằng soi sáng cho con những điều phải viết hoặc phải nói. Nếu đôi khi, trí tưởng tượng hoặc sự hiểu biết của con đã gợi lên tư tưởng nào khác, thì lập tức con cảm nhận được ngay là con không có sự trợ giúp siêu nhiên nào, và con ngưng ngay công việc đang làm cho tới khi con cảm nhận từ tận đáy tâm hồn điều gì mà Chúa muốn con nói 3. Tại sao con lại thưa với Đức Cha điều này? Con không biết. Chỉ mình Chúa biết vì Ngài là Đấng đã soi sáng cho Đức Cha chỉ thị cho con kể hết mọi sự và không được tự ý giữ lại điều gì.

I. CÁ TÍNH CỦA PHANXICÔ

Linh Đạo của Phanxicô

Thưa Đức Cha, con xin phép bắt đầu viết những gì Chúa cho con nhớ được về Phanxicô. Con hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ cho em ở trên thiên đàng biết rằng con đang viết về em ở dưới trần thế, để em cũng có thể cầu bầu cùng Chúa Giêsu và Mẹ Maria đặc biệt cho những ngày sắp tới này.

Thân tình của con đối với em Phanxicô một phần là do liên hệ họ hàng (4), và phần khác là bắt nguồn từ ân sủng đã được ban cho chúng con từ thiên đàng.

Ngoại trừ khuôn mặt và việc tập luyện các nhân đức, Phanxicô không có cái vẻ gì là anh của Jacinta hết. Khác với Jacinta, Phanxicô không có tính nết bất thường hoặc linh hoạt như cô em gái. Trái lại, bản tính em trầm tĩnh và thụ động.

Mỗi khi chơi trò gì mà em thắng, nếu có ai cãi để dành phần, em liền nhường ngay và nói rằng: "Bạn nghĩ mình thắng sao? Được rồi, thắng đi! Tôi đâu cần!"

Em không thích nhảy múa như Jacinta; nếu được phép chọn thì em thích thổi sáo cho người khác nhảy múa hơn.

Trong các trò chơi, em rất hoạt bát; nhưng ít ai muốn đứng về phía em vì hầu hết là em bị thua. Con cũng phải thú nhận rằng chính con cũng không luôn luôn đối xử tốt với em vì tánh trầm tĩnh của em quá cách biệt với tánh náo nhiệt của con. Đôi lúc con nắm tay em và bảo hãy ngồi yên dưới đất hoặc trên một tảng đá; thế là em hoàn toàn vâng lời giống như con có quyền đối với em vậy. Sau một lúc, thấy tội nghiệp, con đến nắm tay em thì em đứng lên vui vẻ đi theo như không có chuyện gì xảy ra. Nếu có đứa trẻ nào muốn lấy một đồ vật gì của em thì em liền nói: "Cứ để cho nó lấy, em không cần đâu."

Con còn nhớ một hôm em tới nhà con với nét mặt rạng rỡ để khoe với con một khăn tay có hình Đức Mẹ Nadarét mà một người đã đem từ miền biển về tặng cho em. Tất cả đám con nít xúm lại quanh em và trầm trồ khen ngợi. Tấm khăn được chuyền tay nhau và sau vài phút thì biến mất. Chúng con tìm kiếm khắp nơi nhưng không thấy. Sau đó con đã tìm thấy trong túi một bé trai. Con muốn lấy khăn lại, nhưng nó cứ nhất định nói rằng khăn đó là của nó, và cũng có người đem từ miền biển về cho nó. Để giải quyết vấn đề, Phanxicô bước tới và nói rằng: "Hãy để cho nó giữ vì cái khăn tay không quan trọng gì đối với em hết." Theo thiển ý của con, nếu em còn sống và trưởng thành thì nhược điểm lớn nhất của em là thái độ "sao cũng được!"

Khi con được bẩy tuổi và bắt đầu đi chăn cừu thì em cũng có vẻ rất thờ ơ. Vào những buổi chiều, em đợi con về trong sân nhà con với em Jacinta, không phải vì em quý mến con nhưng đúng hơn là để làm vui lòng Jacinta. Vì mỗi khi nghe tiếng chuông đeo trên cổ cừu thì Jacinta chạy ra đón con; trong khi đó thì Phanxicô ngồi đợi con ở bậc tam cấp trước cửa nhà. Sau đó em đến chơi với chúng con nơi sân phơi lúa cũ. Trong khi chúng con chờ Đức Mẹ và các Thiên Thần thắp đèn lên thì em cũng hăng hái đếm các ngôi sao với chúng con. Nhưng cảnh mà em ưa thích nhất là lúc rạng đông và cảnh hoàng hôn. Những khi em còn thấy chút xíu ánh sáng của cảnh hoàng hôn, thì em cũng chẳng thiết gì đón chờ các ngọn đèn trời thắp sáng.

"Không có đèn nào đẹp hơn đèn của Chúa" em thường nói thế với Jacinta. Còn Jacinta thì thích đèn của Đức Mẹ hơn vì em giải thích rằng: "nó không làm mình chói mắt". Em vui mừng ngắm nhìn ánh mặt trời phản chiếu trên cửa kính của các ngôi nhà trong làng, hoặc ánh nắng lung linh trong những hạt nước còn đọng trên những cành lá trên sườn đồi, ánh sáng phản chiếu giống như hàng vạn ánh sao; em cho rằng những cảnh này còn đẹp gấp vạn lần đèn của các Thiên Thần.

Khi em nài nỉ mẹ em để cũng được đi chăn cừu cùng với con, đó là để làm vui lòng Jacinta hơn là lý do nào khác vì mẹ em muốn Phanxicô cùng đi với anh Gioan của em. Một hôm vì thấy cứ bị quấy rầy hoài nên mẹ em đã trả lời là không được, em liền đáp lại như thường lệ: "Mẹ à, với con thì sao cũng được. Con chỉ chiều theo ý muốn của Jacinta thôi." Em đã nhắc lại câu này trong một dịp khác. Một hôm có người bạn đến rủ con cùng đi chung, con liền qua nhà cô để hỏi xem ai sẽ đi chăn cừu ngày hôm đó: Phanxicô và Jacinta hay là anh Gioan của hai em; vì nếu là Gioan thì con sẽ đi chung với bạn của con. Cô con thấy trời sắp mưa nên quyết định là Gioan sẽ đi nhưng Phanxicô đến xin mẹ cho đi. Khi cô vẫn không cho thì Phanxicô liền nói:

"Với con thì không sao nhưng Jacinta sẽ cảm thấy buồn lắm."

Khuynh Hướng Tự Nhiên

Điều mà Phanxicô thích nhất mỗi khi chúng con ở trên núi là ngồi trên tảng đá cao nhất để hát hoặc thổi sáo. Nếu Jacinta trèo xuống để chạy đua với con thì em vẫn cứ ngồi đó để thả hồn theo tiếng nhạc lời ca. Bài ca mà em thường hát lời lẽ như sau:

Địệp Khúc:

Con thương yêu Chúa ở trên thiên đàng,

Con cũng thương yêu Chúa ở dưới trần gian,

Con yêu mến những bông hoa đồng nội,

Con yêu mến những đàn chiên trên núi cao.

Con là bé gái chăn chiên nghèo hèn,

Nhưng con luôn dâng lời kinh lên Mẹ!

Đứng giữa những bầy chiên,

Thì con như mặt trời đứng bóng ban trưa.

Cùng với đám chiên con bé nhỏ,

Con học nhảy học múa bông đùa,

Con chính là niềm vui đồi núi,

Là hoa huệ tươi mát đồng hoang.

Mỗi khi chúng con rủ em cùng chơi thì em luôn đồng ý, nhưng ít khi hào hứng. Em trả lời: "Em sẽ chơi, nhưng em biết chắc thế nào em cũng thua." Những trò chơi của chúng con thường là: sỏi đá, được ăn cả ngã về không, chuyền vòng, nút áo, đánh dấu, ném vòng, đánh bài như bài bisca, lật ngửa các lá bài già, đầm, bồi, v.v... Chúng con có hai bộ bài; con có một bộ và hai em có một bộ. Phanxicô thích chơi bài nhất, và em thích chơi bài bisca hơn cả.

Phanxicô Được Thấy Thiên Thần

Trong lúc Thiên Thần hiện ra, em cũng phủ phục xuống đất giống như Jacinta và con, em cũng bị thu hút bởi sức mạnh siêu nhiên khiến chúng con làm như thế; nhưng em đã học lời cầu nguyện khi nghe chúng con lập lại, vì em cho hay rằng em không được nghe tiếng nói của Thiên Thần.

Sau đó, khi chúng con phủ phục để cầu nguyện, em là người cảm thấy bị mỏi mệt đầu tiên, nhưng em tiếp tục quỳ gối hoặc ngồi yên và vẫn cầu nguyện cho tới khi chúng con đọc xong. Sau này em nói rằng: "Em không thể giữ vị thế nguyên như vậy lâu giống chị và Jacinta được, lưng của em nó đau quá."

Khi Thiên Thần hiện ra lần thứ hai ở giếng nước, Phanxicô chờ một lúc sau khi xong mới hỏi rằng:

"Chị đã nói chuyện với Thiên Thần, ngài nói gì vậy?"

"Em không nghe gì sao?"

"Em không nghe được gì cả. Em có thể thấy ngài nói chuyện với chị và em nghe được những gì chị nói với ngài, nhưng ngài nói gì thì em không nghe."

Vì bầu không khí siêu nhiên mà Thiên Thần để lại chưa hoàn toàn phai nhạt đi nên con nói với em là hãy hỏi Jacinta hoặc hỏi lại con vào ngày hôm sau.

"Jacinta, em cho anh biết Thiên Thần đã nói gì?"

"Ngày mai em mới nói được, hôm nay em không thể diễn tả được."

Ngày hôm sau, ngay khi gặp con, em liền hỏi:

"Hôm qua chị có ngủ được không? Em cứ liên tưởng tới Thiên Thần và những điều ngài có thể đã nói."

Con liền kể lại cho em nghe những lời Thiên Thần nói trong lần hiện ra lần đầu cũng như lần vừa qua. Nhưng hình như em không hiểu hết nổi những lời Thiên Thần nói vì sau khi nghe em hỏi lại rằng:

"Ai là Đấng Tối Cao? 'Trái tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria sẽ luôn lắng nghe những lời thỉnh nguyện của con' nghĩa là gì?..."

Sau khi được giải đáp, em trầm lặng suy nghĩ một hồi rồi lại nhảy vào hỏi tiếp câu khác. Nhưng vì tâm trí con vẫn còn bị ảnh hưởng mạnh bởi những điều linh thiêng đã xảy ra nên con nói em hãy đợi đến ngày mai hỏi tiếp vì con không thể nói hơn được nữa. Em đã kiên nhẫn chờ đợi, nhưng hễ có cơ hội thuận tiện là em đặt ngay ra nhiều câu hỏi khác, khiến Jacinta phải nói:

"Anh à, chúng ta không nên nói nhiều thêm về vấn đề này nữa."

Khi chúng con nhắc đến việc Thiên Thần hiện ra, con không biết chúng con đã có cảm giác như thế nào. Jacinta thì nói rằng:

"Em không biết em cảm nghiệm như thế nào, nhưng em không muốn nói chuyện, hay hát, hay chơi đùa nữa. Em không còn đủ sức để làm gì nữa cả."

"Anh cũng vậy," Phanxicô tiếp lời, "nhưng có sao đâu? Thiên Thần tốt đẹp hơn tất cả những thứ đó. Chúng ta nên nghĩ về ngài."

Trong lần hiện ra thứ ba, bầu khí thiêng liêng bao phủ chúng con mạnh hơn mấy lần trước nhiều. Ngay Phanxicô cũng không dám mạo hiểm gợi chuyện mấy ngày liền. Sau đó em nói:

"Em rất thích được thấy Thiên Thần, nhưng có trở ngại nhất là sau đó mình không thể nào làm được việc gì nữa, ngay cả đi đứng cũng khó khăn đối với em. Em không hiểu có chuyện gì đối với em không."

Tuy thế nhưng sau khi Thiên Thần hiện ra lần thứ ba, chính em là người nhận ra rằng trời đã sụp tối và nhắc nhở chúng con lùa chiên về.

Vài ngày sau khi chúng con trở lại tình trạng bình thường, Phanxicô mới dám hỏi như sau:

"Thiên Thần cho chị Rước Lễ, nhưng còn em và Jacinta thì ngài cho rước cái gì vậy?"

"Đó cũng là Rước Lễ, Jacinta trả lời với một niềm vui mừng khôn tả xiết. Anh có thấy Máu Thánh chảy từ Mình Thánh xuống không?"

"Anh cảm thấy có Chúa trong tâm hồn anh, nhưng anh không hiểu tại sao!"

Rồi em cùng với Jacinta phủ phục ngay xuống đất trong một thời gian khá lâu và lập đi lập lại lời kinh Thiên Thần dạy: "Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi ..."

Dần dần, bầu khí linh thiêng cũng tan biến, và tới ngày 13 tháng Năm thì chúng con lại nô đùa vui vẻ như trước.

Ấn Tượng Của Lần Hiện Ra Đầu Tiên

Việc Đức Mẹ Hiện Ra lại bao trùm chúng con trong bầu khí thiêng liêng một lần nữa, nhưng lần này thì nhẹ nhàng hơn. Thay vì cảm thấy bất lực trước sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa, khiến cả thể xác cũng cảm thấy mệt mỏi, lần này chúng con cảm thấy tâm hồn tràn ngập bình an và vui mừng khôn tả nên không ngăn cản sự thể chúng con nói chuyện với nhau ngay sau đó. Tuy nhiên khi Đức Mẹ giang tay ra và ánh sáng chiếu rọi trên chúng con cùng với những điều liên hệ đến ánh sáng này thì chúng con cảm thấy một sự thôi thúc nội tâm đòi hỏi chúng con phải giữ in lặng.

Sau đó, chúng con cho Phanxicô biết hết mọi điều Đức Mẹ đã nói. Em lộ vẻ vô cùng hân hoan hạnh phúc khi biết được Đức Mẹ hứa sẽ đưa em về Thiên Đàng. Chấp hai tay trước ngực, em reo lên: "Lạy Mẹ mến yêu, con sẽ đọc thật nhiều chuỗi Mân Côi như ý Mẹ muốn!" Và từ đó, em hay tách khỏi chúng con như muốn thả bộ một mình. Khi chúng con gọi và hỏi em đang làm gì, thì em dơ tay lên cho chúng con thấy tràng chuỗi Mân Côi của em. Nếu chúng con kêu em tới chơi rồi sẽ lần chuỗi sau với chúng con thì em đáp:

"Được rồi, lúc đó em sẽ cầu nguyện thêm với chị. Chị không nhớ là Đức Mẹ nói em phải đọc thật nhiều kinh Mân Côi sao?"

Một lần khác em tâm sự rằng: "Em rất thích được thấy Thiên Thần nhưng em càng thích hơn khi được thấy Đức Mẹ. Điều mà em thích nhất là được thấy Chúa trong ánh sáng từ Đức Mẹ chiếu thẳng vào tim của chúng ta. Em yêu mến Chúa quá sức! Ngài quá buồn phiền vì người ta phạm tội quá nhiều! Chúng ta đừng bao giờ nên phạm tội nữa."

Trong bản tường trình thứ hai về Jacinta con đã kể lại việc Phanxicô cho con hay là Jacinta đã không giữ lời hứa là sẽ không tiết lộ điều gì như thế nào rồi. Trong khi em đồng ý với con là phải giữ kín chuyện này, em buồn rầu nói thêm: "Về phần em, khi mẹ em hỏi chuyện này có thật không thì em phải nói đó là chuyện có thật để khỏi phải nói dối."

Thỉnh thoảng em nói: "Đức Bà nói chúng ta sẽ phải đau khổ nhiều, nhưng em không sợ. Em sẽ chịu tất cả mọi đau khổ mà Đức Mẹ muốn, miễn sao em được lên Thiên Đàng thôi!"

Một hôm khi con lộ vẻ khổ tâm vì những hành hạ bên trong gia đình cũng như bên ngoài xã hội, Phanxicô khuyến khích con bằng những lời lẽ như sau:

"Chị đừng lo! Chị không nhớ rằng chính Đức Mẹ đã nói chúng ta phải chịu đau khổ nhiều để đền tạ cho những tội đã xúc phạm đến Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Mẹ hay sao? Chúa và Đức Mẹ buồn rầu lắm đó! Nếu chúng ta có thể an ủi các Ngài bằng những đau khổ của chúng ta thì vui sướng biết mấy!"

Khi chúng con ra đồng cỏ ít ngày sau khi Đức Mẹ Hiện Ra lần thứ nhất, em leo lên tận đỉnh một tảng đá cao chót vót và gọi xuống:

"Đừng leo lên đây; để em ở đây một mình nhá."

"Được rồi." Con đáp và chạy đi bắt bướm với Jacinta. Vừa bắt xong được bướm, chúng con lại thả cho bướm bay đi để hy sinh hãm mình. Cứ như thế chúng con quên mất thời gian và quên cả Phanxicô. Tới giờ ăn trưa, thấy vắng em, chúng con mới đi tìm:

"Phanxicô, em không muốn xuống ăn cơm sao?"

"Không, em không muốn ăn."

"Và lần chuỗi Mân Côi nữa?"

"Chuyện đó thì có, chị nhớ kêu nhắc em nhá."

Khi con kêu em để cầu nguyện thì em nói rằng:

"Chị và Jacinta lên đây và cầu nguyện với em."

Khi chúng con leo lên chóp tảng đá thì khó có đủ chỗ cho cả ba chúng con cùng quỳ, con liền hỏi em:

"Em làm gì từ sáng tới giờ ở đây?"

"Em suy nghĩ về Chúa, Ngài hết sức buồn rầu vì có quá nhiều người phạm tội! Ước gì chúng ta có thể đem niềm vui đến cho Ngài!" (5)

Một hôm, chúng con hát một bài hát vui tả cảnh hân hoan của đồi núi như sau:

Điệp khúc

A! Tra la la, la la

Tra la la, la la

La la la!

Mọi vật đều ca hát dưới trần gian

Có ai hát hay hơn em không?

Người chăn chiên ngoài đồng

Hay thôn nữ giặt áo trong dòng suối!

Chim oanh ca hát vang rền

Trời vừa bừng sáng em liền thức ngay

Mặt trời tỉnh giấc ngủ say

Cây xanh bóng cả vui vầy cùng oanh!

Tiếng cú gào kêu đêm khuya khoắt

Làm cho em hãi sợ quá đi,

Còn cô thôn nữ dưới trăng

Miệng ca tay hái bắp thơm mang về.

Chim họa mi lượn trên đồng cỏ

Hát cả ngày mà chẳng chán chê,

Chim cu gáy vang lừng rừng núi

Xe kéo hàng kẽo kẹt góp lời!

Cánh đồng cỏ trải dài trên núi

Luôn tươi cười đón hạt sương rơi,

Sáng tưng bừng lung linh ánh nước

Chiếu rạng ngời sườn núi chân trời.

Chúng con vừa hát được một lần và sắp sửa hát thêm lần nữa thì Phanxicô đột nhiên cản lại: "Thôi đừng hát nữa. Từ lúc chúng ta được thấy Thiên Thần và Đức Mẹ, em không còn cảm thấy hứng thú để ca hát nữa."

Ảnh Hưởng Của Lần Hiện Ra Thứ Hai

Trong lần Hiện Ra thứ hai ngày 13 tháng Sáu, 1917, như con đã kể trước đây, Phanxicô chịu ảnh hưởng mạnh của ánh sáng mà Đức Mẹ chiếu vào chúng con khi Mẹ nói: "Trái Tim Mẹ sẽ là nơi ẩn náu của các con và sẽ là đường dẫn các con về với Thiên Chúa." Lúc đó có vẻ như em chưa hiểu rõ ý nghĩa những biến cố đang xảy ra, có lẽ vì em không được nghe những lời nói kèm theo sự việc. Vì thế sau này em hỏi rằng:

"Tại sao Đức Mẹ lại cầm Trái Tim trên tay, chiếu tỏa ánh sáng Thiên Chúa bao trùm khắp cả thế gian? Chị thì đứng với Đức Mẹ trong ánh sáng ấy chiếu xuống trần gian, còn Jacinta và em thì ở trong ánh sáng chiếu lên trời!"

"Đó là vì em và Jacinta chẳng bao lâu nữa sẽ được về trời," con giải thích, "còn chị cùng với Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria sẽ còn phải ở lại trần gian một thời gian lâu hơn nữa."

"Chị phải ở lại bao nhiêu năm nữa?" em hỏi tiếp.

"Chị không biết, nhưng có vẻ sẽ lâu lắm."

"Đức Mẹ nói như vậy sao?"

"Ừa, và chị cũng đã thấy như vậy trong ánh sáng mà Đức Mẹ chiếu vào tim chúng ta."

Jacinta cũng xác nhận như thế và nói:

"Đúng rồi, em cũng thấy hệt như vậy."

Đôi khi Phanxicô nói:

"Những người này cảm thấy hạnh phúc chỉ vì chị đã cho họ biết là Đức Mẹ muốn họ lần chuỗi Mân Côi, và chị sẽ được đi học! Họ sẽ cảm thấy thế nào khi họ được biết những gì Mẹ đã cho chúng ta thấy trong Chúa, trong Trái Tim vô Nhiễm của Mẹ và trong luồng ánh sáng vĩ đại ấy nhỉ? Nhưng đây là điều bí mật; chúng ta không được nói ra. Tốt hơn hết là không nên cho ai biết gì về điều này."

Sau lần Hiện Ra này, mỗi khi được hỏi là Đức Mẹ có còn nói điều gì nữa không, thì chúng con bắt đầu trả lời như sau: "Thưa có, Mẹ có nói, nhưng đó là điều bí mật." Nếu có ai hỏi rằng tại sao lại là điều bí mật, thì chúng con nhún vai, cúi đầu xuống và giữ im lặng. Nhưng sau ngày 13 tháng Bẩy thì chúng con trả lời rằng: "Đức Mẹ đã dặn chúng con không được nói điều này với ai cả," ám chỉ về bí mật mà Đức Mẹ đã dặn chúng con phải giữ kín.

Phanxicô Khuyến Khích cho Lucia Thêm Can Đảm

Trong vòng tháng này, người ta kéo đến đông hơn, và họ đặt nhiều câu hỏi và nhiều phản cung. Phanxicô khổ sở khá nhiều về chuyện này và phàn nàn với Jacinta rằng:

"Thật là khổ! Phải chi em giữ im lặng thì có ai biết gì đâu! Nếu đây không phải là tội nói dối thì chúng ta có thể nói cho họ là chúng ta không thấy gì cả và mọi chuyện sẽ chấm dứt. Nhưng không làm như vậy được!"

Khi em thấy con hoang mang và nghi ngờ, thì em khóc và nói rằng:

"Làm sao mà chị có thể nói đó là ma quỷ được chứ? Thế chị không thấy Đức Mẹ và Chúa trong ánh sáng chói chan đó sao? Làm sao chúng em có thể đến đó một mình mà không có chị vì chính chị là người nói chuyện mà?"

Tối hôm đó sau khi ăn cơm, em đến nhà con và gọi con ra sân đập lúa, hỏi rằng:

"Ngày mai chị có đi không?"

"Không, chị không đi. Chị đã nói rồi là chị không ra đó nữa đâu."

"Trời đất ơi! Tại sao bây giờ chị lại nghĩ như vậy? Chị không thấy rằng đây không phải là ma quỷ sao? Chúa đã buồn rầu quá nhiều rồi vì bao nhiêu tội lỗi, và bây giờ nếu chị không đi thì Chúa lại còn buồn hơn nữa! Đi đi chị, chị hãy nói là chị sẽ đi đi!"

"Chị đã nói rồi là chị không đi. Em không nên kêu chị đi nữa." Nói xong, con quay gót trở vô nhà.

Ít ngày sau đó em đã tâm sự rằng: "Chị biết không, tối hôm đó em không ngủ chút nào. Em đã thức cả đêm vừa khóc vừa cầu nguyện, van xin Đức Mẹ thúc đẩy cho chị đi.

Ảnh Hưởng Của Lần Hiện Ra Thứ Ba

Trong lần Hiện Ra thứ ba, Phanxicô có vẻ như ít bị ảnh hưởng nhất về mặc khải địa ngục, mặc dầu hậu quả trong tâm hồn em quả thật lớn lao. Điều làm cho em có một ấn tượng mạnh nhất và hoàn toàn thu hút em là Thiên Chúa, Chúa Ba Ngôi Cực Thánh mà em được thấy trong ánh sáng xuyên thấu tận đáy lòng chúng con. Sau đó em nói:

"Chúng ta bốc cháy trong luồng ánh sáng của Thiên Chúa nhưng lại không bị thiêu đốt! Thiên Chúa là gì?... Ta không thể nào diễn tả bằng từ ngữ thế gian được. Nhưng tội nghiệp Chúa quá vì em thấy Ngài thật buồn. Phải chi em có thể an ủi được Chúa!..."

Một hôm, người ta hỏi con rằng Đức Mẹ có bảo chúng con cầu nguyện cho những người có tội không, thì con trả lời là không. Nhân lúc mọi người đang hỏi chuyện Jacinta, em liền kêu con ra một góc và nói rằng:

"Chị mới vừa nói dối đấy! Làm sao mà chị có thể nói rằng Đức Mẹ đã không nói với chúng ta là hãy cầu nguyện cho những người có tội? Không phải Đức Mẹ đã yêu cầu chúng ta cầu nguyện cho người có tội sao?"

"Cầu cho người có tội ư, Đức Mẹ không nói. Đức Mẹ chỉ nói chúng ta hãy cầu nguyện cho hòa bình, cho chiến tranh chấm dứt. Còn đối với người tội lỗi thì Đức Mẹ nói chúng ta phải làm việc hy sinh cho họ."

"Ừ nhỉ, đúng đấy! Em lại nghĩ là chị nói dối!"

Phanxicô Trong Nhà Giam

Trước đây con đã kể về Phanxicô cầu nguyện và khóc lóc cả ngày như thế nào, có lẽ em còn khổ sở hơn con khi biết tin bố con được lệnh đem con tới gặp ông Thị Trưởng thành phố Vila Nova de Ourém (6). Còn ở trong tù, thì em lại rất can đảm và luôn cố gắng làm cho Jacinta bớt buồn khi nhớ nhà. Trong lúc chúng con lần chuỗi Mân Côi trong nhà tù, em thấy có một tù nhân đang quỳ gối mà vẫn còn đội mũ trên đầu. Phanxicô bước lại gần ông và nhắc ông rằng: "Nếu ông muốn cầu nguyện thì ông nên bỏ mũ ra." Ngay lập tức, ông ấy đã bỏ nón ra và đưa cho em. Em liền cầm nón và đem lại chiếc ghế dài rồi đặt nón của người này lên trên mũ của em.

Trong lúc Jacinta đang bị phỏng vấn, em đã rất vui vẻ và thản nhiên tâm sự với con: "Nếu họ giết chúng ta như lời họ nói thì chúng ta sẽ sớm được lên thiên đàng! Thật là tuyệt vời! Chẳng có gì đáng sợ cả!" Sau một lúc yên lặng, em nói tiếp: "Xin Chúa ban ơn cho Jacinta đừng sợ. Để em đọc một kinh Kính Mừng cầu nguyện cho Jacinta!" Em liền bỏ mũ ra và bắt đầu cầu nguyện. Người canh tù thấy em cầu nguyện liền hỏi:

"Mày nói gì đấy?"

"Tôi đang đọc kinh Kính Mừng cầu nguyện cho Jacinta đừng sợ."

Người lính canh tù tỏ vẻ miệt thị rồi để mặc em.

Một ngày sau khi chúng con được thả từ Vila Nova de Ourém về, chúng con cảm thấy có một không khí linh thiêng đang bao quanh chúng con và có cảm giác là chúng con sắp nhận được một thông điệp từ trời. Phanxicô liền tỏ vẻ lo lắng vì sự vắng mặt của Jacinta.

"Thật tội nghiệp nếu Jacinta không tới đây kịp."

Em liền năn nỉ anh của em đi gọi Jacinta và còn dặn thêm:

"Anh bảo nó chạy lẹ tới đây."

Sau khi anh của em đã ra đi rồi, Phanxicô liền nói:

"Jacinta sẽ buồn lắm nếu không tới đây kịp."

Sau lúc Hiện Ra, Jacinta muốn ở lại đó suốt buổi chiều, nhưng Phanxicô can: "Không được đâu! Em phải về nhà vì mẹ không cho em theo đàn cừu ra đây." Và để khuyến khích, Phanxicô đã cùng đi với Jacinta về nhà.

Trong nhà tù, khi thấy rằng trời đã quá trưa và họ sẽ không để chúng con lên đồi Cova da Iria, Phanxicô liền nói:

"Có lẽ Đức Mẹ sẽ tới và hiện ra với chúng ta tại đây."

Qua ngày hôm sau, không dấu được vẻ buồn phiền và gần như muốn khóc, em nói rằng:

"Đức Mẹ có lẽ buồn lắm vì chúng ta đã không tới đồi Cova da Iria, và Mẹ sẽ không hiện ra với chúng ta nữa. Em rất muốn được thấy Đức Mẹ!"

Trong lúc bị giam, Jacinta cay đắng khóc lóc vì nhớ nhà và nhớ mẹ. Phanxicô nói cho em bớt đau khổ:

"Phải kiên nhẫn dù chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại mẹ nữa! Chúng ta hãy dâng hy sinh này để cầu nguyện cho người tội lỗi. Điều tệ hại nhất là Đức Mẹ sẽ không đến với chúng ta nữa! Cái đó mới làm cho anh khổ sở hơn cả, tuy nhiên anh cũng dâng hy sinh này để cầu nguyện cho những người có tội."

Một lúc sau, em hỏi con rằng:

"Chị này, liệu Đức Mẹ có còn đến gặp chúng ta nữa không nhỉ?"

"Chị không biết nhưng chị nghĩ là Mẹ sẽ tới nữa."

"Em nhớ Đức Mẹ quá đi!"

Vì thế lần Hiện Ra ở Valinhos em vui mừng gấp bội vì em đã bị dằn vặt lo âu là Đức Mẹ sẽ không đến nữa. Sau này em tâm sự với con:

"Chắc Đức Mẹ không hiện ra hôm 13 vừa qua là để tránh không đến nhà ông Thị Trưởng có lẽ vì ông ta quá xấu đi."

Ảnh Hưởng Của Những Lần Hiện Ra Sau Đó

Sau ngày 13 tháng Chín, khi con nói với Phanxicô rằng trong tháng Mười Chúa cũng sẽ đến, em đã tràn ngập niềm vui. "Ồ Chúa nhân từ quá! Em chỉ được gặp Chúa có hai lần và em đã yêu mến Ngài quá chừng." (7) Thỉnh thoảng em lại hỏi:

"Còn mấy ngày nữa mới tới ngày 13 vậy chị? Em mong chờ ngày đó mau tới để em được thấy Chúa lần nữa." Rồi em suy nghĩ một lát và nói tiếp:

"Nhưng chị ơi, Liệu lúc đó Chúa còn buồn nữa không? Em rất khổ khi thấy Chúa buồn như vậy! Em xin dâng lên Chúa tất cả những hy sinh mà em có thể nghĩ ra được. Có đôi khi em đã không chạy trốn đám đông để em có được thêm hy sinh mà dâng cho Chúa!"

Sau ngày 13 tháng Mười, em đã nói với con như sau:

"Em rất thích được thấy Chúa, nhưng em còn thích được thấy Chúa hơn trong luồng ánh sáng mà chúng ta đã được ở cùng Ngài. Chẳng còn bao lâu nữa là Chúa sẽ đem em về với Ngài. Lúc đó em sẽ được nhìn Ngài mãi mãi!"

Một hôm, con hỏi em:

"Khi người ta hỏi em, tại sao em cứ cúi đầu xuống và không muốn trả lời?"

"Vì em muốn chị và Jacinta trả lời. Em đâu có được nghe điều gì đâu, em chỉ có thể nói những gì em thấy thôi. Vả lại, lỡ em nói điều gì mà chị không muốn em nói thì sao?"

Có đôi khi em tách ra một mình mà không cho chúng con biết. Khi không thấy em, chúng con đi tìm và gọi tên em. Em lên tiếng đáp lại từ sau một bức tường thấp, một bụi cây hoặc một chỗ khuất nào khác, mà em đang qùy gối cầu nguyện ở đó.

"Tại sao em không nói cho Jacinta và chị biết để cùng tới cầu nguyện với em?"

"Bởi vì em muốn cầu nguyện một mình."

Trong bài con viết về cuốn sách nhan đề là "Jacinta", con đã kể lại chuyện liên hệ đến miếng đất được biết dưới cái tên là Varzea. Con nghĩ là không cần phải lập lại ra đây nữa.

Một hôm trên đường về nhà, chúng con phải đi ngang qua nhà mẹ đỡ đầu của con. Bà vừa mới chế xong loại nước pha mật ong, bà liền gọi chúng con vào để cho mỗi đứa một ly. Chúng con đi vào và bà đã đưa cho Phanxicô ly nước đầu tiên. Em đón lấy nhưng không uống mà đưa cho Jacinta để cho em và con uống trước. Trong lúc đó thì em quay gót và biến mất dạng.

"Phanxicô đâu rồi?" Mẹ đỡ đầu của con hỏi.

"Con không biết. Em mới vừa ở đây mà."

Em đã không trở lại, vì thế chúng con cám ơn bà và đi tìm Phanxicô. Chúng con biết ngay là Phanxicô đang ngồi bên bờ giếng mà con thường nhắc đến.

"Phanxicô, tại sao em không uống nước pha mật ong? Mẹ đỡ đầu của chị đã gọi em nhiều lần mà vẫn không thấy em đâu!"

"Khi cầm ly nước, em sực nhớ ra là em có thể dâng hy sinh đó lên để an ủi Chúa. Vì thế lúc chị và Jacinta uống thì em chạy liền về đây."

Những Câu Chuyện Vặt và Những Bài Hát Dân Gian

Nhà của bố Anastacio đỡ đầu của con nằm giữa nhà con và nhà Phanxicô. Bố cưới vợ đã lớn tuổi và không được một người con nào. Hai ông bà có nông trại và là người khá giả nên hai ông bà không phải đi làm. Bố ruột của con trông nom nông trại này và quản lý những người làm mướn công nhật cho ông bà. Để tỏ lòng biết ơn, hai ông bà thương con đặc biệt, nhất là vợ của bố mà con gọi là "vú" Têrêsa của con. Nếu ban ngày con không đến thăm thì buổi tối con phải đến ngủ qua đêm vì bà nói là bà không thể vui được nếu không có "con cưng" của bà, như bà thường gọi con.

Trong những dịp lễ, "vú" thích trang điểm cho con bằng những dây chuyền vàng và bông tai nặng chĩu đeo toòng teng dài xuống dưới bả vai, và cái mũ xinh xinh có những lông chim lớn màu sặc sỡ được đính kèm thêm những hột bằng vàng óng ánh. Trong các cuộc lễ lạc này không ai nổi bật hơn con, nên các chị và "vú" đều lấy làm hãnh diện. Những đứa trẻ khác xúm quanh con để trầm trồ khen ngợi vẻ hào nhoáng của đồ trang sức đeo trên mình con. Thật tình mà nói con rất thích những buổi tiệc như vậy, và con cũng vênh váo với danh vọng hão huyền này. Ai cũng tỏ vẻ thích con chỉ trừ một con bé mồ côi mà "vú" của con đã đem về nuôi khi mẹ nó chết. Nó có vẻ sợ rằng con sẽ chiếm mất một phần gia tài mà nó hy vọng sẽ được hưởng. Quả thật nó không lầm đâu, nếu Chúa không dành cho con một gia tài quý giá gấp bội.

Khi tin tức về việc Đức Mẹ Hiện Ra được loan truyền, bố đỡ đầu của con có vẻ không để ý còn "vú" thì chống lại hoàn toàn. Bà nói thẳng ra là bà không đồng ý với những chuyện "bịa đặt" đó. Vì thế con cũng bắt đầu bớt lui tới nhà "vú" càng nhiều càng tốt. Khi con không ở đó nữa thì bọn trẻ con thường hay tới lui để chơi đùa ca hát nhảy múa với con cũng biến luôn. Mỗi khi chúng con đến đó "vú" rất thích nhìn chúng con chơi đùa và cho chúng con ăn bánh trái đủ loại, nào là hạt dẻ, hạt điều v.v...

Một chiều Chúa Nhật nọ khi con cùng Phanxicô và Jacinta đi ngang qua nhà bà, thì bà gọi chúng con: "Vào đây, mấy tên ba xạo của bà! Lâu quá các con không đến đây!" Vừa bước vào là "vú" đã chăm sóc chúng con như mọi khi. Những đứa trẻ khác khi biết chúng con có mặt tại đó cũng kéo tới. "Vú" rất vui mừng khi thấy đám con nít chúng con tới đông đủ sau một thời gian vắng bóng, liền yêu cầu chúng con nhảy múa và hát ca.

Chúng con liền hỏi nhau muốn hát bài nào, nhưng "vú" đã yêu cầu hát bài "Lời khen không ảo ảnh", một bài hát chia làm hai bè cho con trai và con gái.

Điệp Khúc:

Thái dương vũ trụ bao la

Ánh sáng chan hòa đừng tiếc với nhau.

Nụ cười ấm cúng đầu xuân,

Đừng buồn não nuột, than dài làm chi.

Chúc mừng thiếu nữ hoa xuân,

Thơm tho mát dịu mùi sương sớm ngày,

Tươi cười chào đón hôm nay

Bình minh nhẹ vuốt ban mai ửng hồng!

Quanh năm hoa nở tưng bừng

Trái cây tươi tốt, của ngon thiếu gì!

Bước sang năm mới tươi vui

Tràn đầy hy vọng tặng cho bạn hiền.

Ước mong tuyệt diệu chúc mừng

Lời nào đẹp nhất ta dành cho em.

Trán cao ghi dấu nằm lòng,

Triều thiên sáng giá nhất trong cõi đời.

Năm cũ mà vẫn đẹp tươi,

Năm mới đến rồi cũng chẳng thua ai!

Từ biệt năm cũ qua đi

Đón chào năm mới kém gì hân hoan!

Tiệc đời vui vẻ thắm tươi,

Đại dương hoa nở rộn ràng xinh thay!

Hội hoa ca hát nhịp nhàng,

Khen người chăm sóc thửa vườn đẹp sao!

Tim em khao khát cánh hoa,

Tưng bừng đua nở trên đồng cỏ xanh,

Tình bên mái ấm trong lành,

Cùng nhau quấn quít quanh vầng tim em!

II.

Điệp Khúc

Ông ơi, có thật không ông,

Cánh buồm xuất hiện là ông tắt đèn?

Ôi! Vách núi Berlenga!

Ôi! Carvoeiro độc ác! (8)

Sao ngươi che khuất ánh đèn ta đi?

Nhưng sóng biển kêu gào giận dữ:

Suốt ngày đêm cuồn cuộn nhấp nhô!

Đại dương kia chập chùng sóng nước

Làm mồ chôn đáy nước, giữa đất trời.

Này bãi cát Papoa (8) buồn thảm

Ôi, Estelas và Farihoes!

Vang tiếng thét hãi hùng khủng khiếp

Những con tàu chìm trong bọt sóng!

Tảng đá ngầm chìm sâu đáy nước

Là điềm báo bi thảm tử thần

Mỗi thánh giá là một tàu chìm

Mỗi tiếng sóng ảo não bài ca!

Hải đăng ơi, sao mi độc ác

Tắt ánh đèn chiếu sáng đêm đen,

Không soi đường cho tàu vượt sóng

Biết lối về tới bến bình an?

III.

Điệp Khúc

Em không khóc và buồn sầu nữa

Khi từ giã vĩnh biệt cùng ai,

Một giây thôi, một phút thôi

_Ôi! _

Mà em mất hết, trọn đời đau thương.

Thiên đàng ơi, đừng ban ơn nữa

Để hoa tàn lá úa sầu bi.

Chúng sẽ không ca lời tán tụng

Tình thương Ngài chăm sóc bấy lâu.

Hãy đi đi, không cần an ủi

Nỗi sầu này gánh chịu mình em!

Tháp kia ngạo nghễ từng trên

Chuông rền từng tiếng đem tin chết người.

Ai đi rồi, cô đơn buồn bã,

Một mình em lạnh giá nghĩa trang,

Mộ bia thin thít từng hàng,

Đời đời than khóc em còn biết chi.

Vườn kia vắng lặng hoang tàn

Đâu còn vẻ đẹp mịn màng trước đây.

Xưa kia tráng lệ khôn tầy

Nay người chăm sóc ra đi mất rồi.

Chúa Quan Phòng con dâng lời khấn

Xin ơn trên an ủi chúng con.

Hy vọng cho người vừa mới khuất,

Được an hưởng hạnh phúc trường sinh.

Phanxicô, Nhà Đạo Đức Tí Hon

Khi các bà sống gần đó nghe tiếng hát linh dộng liền kéo tới nhập bọn với chúng con. Lúc chúng con hát xong, họ yêu cầu chúng con hát lại một lần nữa. Phanxicô liền đến gần con và nói: "Chúng mình đừng hát bài đó nữa. Em nghĩ là Chúa không thích mình hát những bài như vậy đâu." Chúng con liền bỏ lại đám trẻ kia lẻn trốn ra ngoài chuồn thẳng tới giếng nước mà chúng con ưa thích.

Con phải thú thật rằng vì vâng lời mà ngồi đây chép lại lời của những bài hát này, con đã phải ôm mặt xấu hổ. Nhưng kính thưa Đức Cha, Linh mục Tiến sĩ đã ra lệnh cho con phải viết lời những bài ca mà chúng con đã hát, vì thế con đã tuân lệnh. Con không hiểu ngài muốn điều này để làm gì, nhưng về phần con, con chỉ biết là con đã vâng theo ý Chúa muốn.

Gần tới ngày Hội Lễ trong năm 1918, thanh niên thiếu nữ họp nhau lại để sửa soạn ẩm thực cho ngày lễ và các trò vui chơi trong mấy ngày lễ. Mỗi đứa đem theo một vài thứ từ nhà mình như dầu ô-liu, bột, thịt, và các thứ khác... đến nhà một người nào đó và các thiếu nữ cùng nấu ăn cho ngày Hội Lễ. Trong ba ngày này, mọi người ăn uống, ca hát, nhảy múa tới khuya, nhất là vào ngày cuối cùng.

Trẻ em dưới mười bốn tuổi thì mừng lễ với nhau ở một nhà khác. Một số bạn gái đến rủ con giúp chúng nó tổ chức cho ngày lễ. Lúc đầu con đã từ chối nhưng cuối cùng thì con cũng đã nhận lời, nhất là sau khi nghe các con của ông bà José Carreira nài nỉ. Ông bà là người đã xây nhà ở Casa Velha theo sự hướng dẫn của gia đình con. Hai ông bà cứ hỏi con hoài nên con đã chiều theo ý họ. Chúng con cùng đi với nhau đến xem địa điểm. Căn nhà có một phòng lớn gần bằng một hội trường, rất thích hợp cho các trò chơi, và có một sân rộng để ăn uống! Sau khi sắp đặt xong mọi thứ, con kiếu từ ra về. Bề ngoài con tỏ vẻ rất vui tươi, nhưng bên trong thì lương tâm con phản đối mạnh mẽ. Khi gặp Jacinta và Phanxicô, con liền kể lại những gì đã xảy ra.

"Chị còn trở lại với các trò vui chơi và những bữa tiệc liên hoan nữa sao?" Phanxicô nghiêm mặt hỏi con. "Bộ chị quên rằng mình đã hứa là sẽ không bao giờ tham dự những trò chơi như vậy nữa sao?"

"Chị đâu có muốn đi. Nếu em thấy họ đã năn nỉ và yêu cầu chị liên hồi như thế nào; bây giờ chị không biết phải tính sao!"

Từ hôm đó nhiều bạn gái đã đến nài nỉ con chơi với chúng. Có nhiều đứa đã đến từ các nơi xa xôi như Rosa, Ana Caetano và Ana Brogueira từ làng Moita; hai đứa con gái của ông Manuel Caracol từ Fatima, hai đứa con gái của ông Manuel da Ramira cùng hai đứa của ông Joaquim Chapeleta từ Boleiros, hai con gái nhà Silva từ Amoreira, Laura Gato và Josefa Valinho từ Currais, và những đứa bạn khác mà con quên tên. Làm sao con có thể để cho các bạn này thất vọng được và làm sao để nói cho họ biết rằng con sẽ không tham dự những buổi tiệc như thế này nữa, nhất là họ có vẻ như không thấy thích hội tiệc nếu không có con bên cạnh? Thiên Chúa đã soi sáng cho Phanxicô có câu trả lời như sau:

"Chị có biết sẽ phải làm gì không: Mọi người đều biết việc Đức Mẹ hiện ra với chúng mình, vì thế chị có thể nói cho họ biết rằng chị đã hứa với Đức Mẹ là chị sẽ không khiêu vũ nữa, và vì lý do đó chị sẽ không tham dự! Rồi trong những ngày đó chị hãy chạy trốn trên hang Cabeço. Không ai có thể tìm được chúng ta ở đó đâu!"

Con đồng ý ngay với em. Khi con không tham dự nữa thì cũng không có ai chịu đứng ra để lo tổ chức việc này. Thiên Chúa đã ban ơn cho chúng con. Những người bạn của con lúc trước vẫn đến tìm và rủ con đi chơi trong ngày hội, thì bây giờ cũng bắt chước con không tham dự mà còn tới tìm con vào trưa Chúa Nhật để cùng đi lên đồi Cova da Iria để lần chuỗi Mân Côi nữa.

Phanxicô, Người Yêu Mến Cô Quạnh và Cầu Nguyện

Phanxicô rất ít nói. Mỗi khi cầu nguyện hoặc dâng sự hy sinh, em thích ẩn náu vào một nơi hiu quạnh, ngay cả tránh né Jacinta và con nữa. Rất nhiều khi chúng con bắt gặp em trốn đàng sau một bức tường hoặc một bụi dâu, khéo léo tìm được chỗ nấp để quỳ gối cầu nguyện hoặc "suy gẫm", như em vẫn thường nói, "về Thiên Chúa, Đấng đang đau buồn vì nhân loại tội lỗi quá nhiều."

Nếu con hỏi em rằng: "Phanxicô, sao em không gọi chị và Jacinta để cùng cầu nguyện với em?"

"Em thích cầu nguyện một mình để em có thể nghĩ về Chúa và an ủi Ngài vì Ngài quá đau buồn!"

Một hôm con đã hỏi em:

"Phanxicô, em thích điều nào hơn: An ủi Thiên Chúa hay cứu rỗi các linh hồn để cho họ đừng xuống hỏa ngục nữa?"

"Em thích an ủi Chúa hơn. Chị không thấy sự buồn rầu của Đức Mẹ trong lần hiện ra vào tháng trước khi Mẹ nói rằng loài người đừng xúc phạm đến Thiên Chúa nữa vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều sao. Em thích an ủi Chúa trước rồi sau đó mới là cứu vớt các linh hồn để họ đừng xúc phạm đến Chúa nữa."

Nhiều lúc trên đường đi học, khi vừa tới Fatima, em nói với con:

"Chị à! Chị đi học đi. Em sẽ ở lại đây trong nhà thờ để được gần Chúa Giêsu Ẩn Mình. Em không cần học đọc làm gì vì em sắp được lên thiên đàng rồi. Khi nào chị về thì ghé vào gọi em."

Lúc đó Mình Thánh Chúa được giữ ở phía trái, gần cửa ra vào vì nhà thờ đang được tu sửa (9). Phanxicô liền đến đó, quỳ giữa khoảng giếng rửa tội và cung thánh. Đó cũng là nơi con tìm thấy em khi con đi học về.

Sau này, lúc em bị bịnh, em thường nhắn với con mỗi khi con ghé vào thăm em trên đường đến trường: "Chị à, nhớ ghé vào nhà thờ và dâng tình yêu của em lên cho Chúa Giêsu Ẩn Mình nhé. Điều làm em đau khổ nhất là em không được tự mình đi đến đó và cầu nguyện cùng với Chúa Giêsu Ẩn Mình."

Một hôm khi đến nhà em, con từ giã đám học sinh cùng về với con và ghé vào thăm em cùng với Jacinta. Vì em nghe thấy tiếng ồn ào bên ngoài nên em liền hỏi con rằng:

"Chị đã đến cùng với đám con nít đó à?"

"Đúng rồi."

"Chị đừng đi chung với tụi nó nữa vì chị có thể sẽ bắt chước chúng mà phạm tội. Khi tan trường, chị hãy đến nhà thờ ở lại với Chúa Giêsu Ẩn Mình một chút rồi sau đó sẽ về nhà một mình."

Trong một dịp khác, con hỏi em rằng:

"Phanxicô, em có thấy đau nhiều không?"

"Có chứ, nhưng em chịu những đau đớn này để an ủi Chúa."

Một hôm khi Jacinta và con cùng vào phòng của em, em liền nói với chúng con rằng:

"Hôm nay đừng nói chuyện nhiều vì em nhức đầu quá."

"Anh đừng quên đâng hy sinh này để cầu nguyện cho những người tội lỗi," Jacinta nhắc nhở anh mình.

"Có chứ, nhưng anh dâng lên để an ủi Chúa và Đức Mẹ trước, rồi mới đến phiên các người tội lỗi và Đức Thánh Cha."

Có một lần con thấy em rất vui vẻ khi con đến thăm.

"Bữa nay em thấy khỏe hơn hay sao?"

"Không, em thấy đau hơn. Nhưng chẳng còn bao lâu nữa thì em sẽ được lên thiên đàng. Khi lên đó, em sẽ an ủi Chúa và Đức Mẹ nhiều hơn. Còn Jacinta sẽ cầu nguyện thật nhiều cho những người có tội, cho Đức Thánh Cha và cho chị. Chị còn phải ở lại vì Đức Mẹ muốn vậy. Nhưng chị phải nhớ làm theo lời Đức Mẹ dạy."

Trong lúc Jacinta có vẻ như chỉ nghĩ tới việc cầu nguyện cho những người có tội được ăn năn trở lại và cứu các linh hồn khỏi sa hỏa ngục, thì Phanxicô lại có vẻ chỉ nghĩ tới việc an ủi Đức Mẹ, là người mà em cảm nhận thấy đang rất buồn phiền.

Phanxicô Thấy Ma Quỷ

Thái độ của em trên đây khác xa với một chuyện mà bây giờ con mới nhớ tới. Một hôm chúng con đến một địa điểm tên là Pedreira. Trong lúc đàn cừu đang gặm cỏ thì chúng con đùa giỡn nhảy từ tảng đá này qua tảng đá kia và la lớn để nghe tiếng của mình vang vọng dưới thung lũng sâu. Theo thói quen của em, Phanxicô liền rút lui và chui vào một khe đá.

Một thời gian khá dài trôi qua bỗng chúng con nghe em thét lớn gọi chúng con và gọi Đức Mẹ. Lo sợ không biết có chuyện gì xảy ra, chúng con liền chạy đi tìm và gọi tên em.

"Phanxicô, em ở đâu?"

" Ở đây này! Em ở đây này!"

Nhưng chúng con cũng phải mất vài phút mới tìm ra chỗ của em. Khi dến nơi, chúng con thấy em run cầm cập vì sợ hãi mà vẫn còn qùy gối. Em đã quá sợ hãi không thể đứng lên được.

"Chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy?"

Giọng nói lạc đi vì sợ hãi, em trả lời:

"Nó là một trong những con quái vật to lớn mà chúng ta đã thấy trong cảnh hỏa ngục. Nó đứng ngay tại đây và miệng phun ra lửa!"

Con không thấy gì, Jacinta cũng vậy, vì thế con cười bảo em:

"Em không bao giờ muốn nghĩ đến địa ngục để khỏi chết khiếp, vậy mà bây giờ em lại là người bị hết vía trước tiên."

Thật đúng vậy, vì mỗi khi Jacinta tỏ vẻ đặc biệt xúc động khi nghĩ đến cảnh địa ngục, thì em thường khuyên rằng:

"Đừng nghĩ nhiều về địa ngục! Em nên nghĩ về Thiên Chúa và về Đức Mẹ thì hơn. Anh không nghĩ về địa ngục vì thế anh đâu có thấy sợ."

Em không có vẻ gì là người nhát gan cả vì em có thể đi một mình ban đêm mà không sợ sệt chút nào. Em chơi với những con cắc kè, và khi thấy rắn em thường để nó cuốn vào một nhánh cây, có khi còn đổ sữa cừu vào lỗ các khe đá cho chúng uống nữa. Em cũng hay đi tìm hang chồn và hang thỏ, cũng như những dã thú khác.

Phanxicô và Các Bạn Chim Trời

Phanxicô yêu quý loài chim một cách đặc biệt và em không để cho ai bắt chim non. Em luôn dành một phần bánh mì trong bữa ăn trưa của em, bẻ nhỏ ra và rải trên các tảng đá để cho chim đến ăn. Tránh ra xa một chút, em gọi chúng làm như chúng có thể hiểu được tiếng người. Em không cho ai lại gần vì không muốn làm cho chúng sợ.

"Tội nghiệp bầy chim nhỏ bé, đói rồi. Lại đây ăn đi các con!" em nói chuyện với chúng như vậy.

Còn các chú chim, với tia mắt tinh anh, không cần phải mời gọi, đã ùa kéo đến chung quanh em. Em rất vui khi thấy chúng bay trở về đậu trên các cành cây với những mẫu bánh kẹp dưới chân. Chúng lớn tiếng ca hót và kêu chim chíp, khiến Phanxicô cùng họa theo với một năng khiếu đặc biệt.

Một hôm chúng con bắt gặp một bé trai đang cầm trong tay một con chim nhỏ nó vừa bắt được. Tội nghiệp cho con chim, em hứa cho đứa bé hai đồng xu nếu nó chịu thả cho chim bay đi. Đứa bé ưng chịu nhưng nó đòi phải đưa tiền trước. Phanxicô liền từ ao Carreira chạy vội về nhà, cách đồi Cova da Iria không xa mấy để lấy tiền chuộc mạng cho con chim nhỏ bé đó. Khi em đứng nhìn nó bay lên trời, em đã vỗ tay reo mừng và nói: "Phải cẩn thận nhé, kẻo lại bị bắt nữa à!"

Trong xóm có một bà cụ tên là Ti Maria Carreire mà mấy người con trai của bà thỉnh thoảng nhờ bà coi sóc dê và cừu dùm họ. Các con vật này ít được huấn luyện nên thường tản mát khắp nơi. Mỗi khi chúng con gặp bà Ti Maria ở những đồng cỏ này, Phanxicô thường là người đầu tiên chạy đến giúp bà. Em giúp bà hướng dẫn đàn chiên này tới đồng cỏ, rượt theo những con đi sai hướng và đuổi chúng về nhập bọn với cả đàn. Bà cụ cám ơn Phanxicô rối rít và gọi em là thiên thần bản mệnh của bà.

Mỗi khi chúng con gặp những người bệnh tật, Phanxicô sẵn có lòng thương người, thường nói rằng: "Em không thể đứng nhìn họ được vì em thấy thương họ quá. Chị nói với họ là em sẽ cầu nguyện thật nhiều cho họ."

Một hôm, người ta muốn dẫn chúng con tới nhà ông Joaquim Chapeleta ở làng Montelo. Phanxicô không muốn đi. "Em không muốn đi vì em không muốn thấy cảnh người ta muốn nói mà không nói được." (mẹ của ông bị câm).

Khi Jacinta và con về nhà tối hôm đó, con đã hỏi cô con Phanxicô đâu rồi.

"Cô không biết!" Cô trả lời, "Cô kiếm nó cả buổi chiều mà không thấy. Có mấy bà tới muốn nói chuyện với các con nhưng hai đứa con không có ở đây. Còn em thì nó đã biến đâu mất, bây giờ hai con hãy đi tìm em đi!"

Chúng con ngồi nghỉ trong bếp một chút và tưởng rằng mình sẽ phải đi Loca do Cabeço vì chắc chắn là sẽ thấy em ở đó. Tuy nhiên, khi cô vừa đi ra khỏi nhà thì chúng con nghe thấy tiếng của Phanxicô vọng xuống từ trên căn gác nhỏ qua một lỗ thủng trên trần. Em đã leo lên đó khi thấy có người tới tìm. Từ trên đó, em đã quan sát tất cả những việc xảy ra và kể lại cho chúng con nghe:

"Có rất nhiều người tới. Nếu họ bắt được em thì chỉ có Chúa giúp em được thôi! Em có biết nói gì với họ đâu!"

(Trong bếp có một cái cửa xép nhỏ mà em có thể đặt một cái ghế trên bàn để leo lên trần nhà được.)

Tình Yêu và Lòng Nhiệt Thành Của Phanxicô

Như con đã kể, cô con bán đàn cừu của cô trước rồi mới đến lượt mẹ con bán đàn cừu nhà con sau. Từ đó, mỗi khi dắt chiên ra đồng, con đều nói cho Jacinta và Phanxicô biết là hôm đó con sẽ đi cánh đồng nào; và khi có dịp là hai em tìm cách ra đồng gặp con.

Một hôm, hai em đợi sẵn trước khi con tới nơi.

"Ủa, sao hai em tới đây sớm thế?"

Phanxicô đáp, "Em tới, bởi vì – em không biết tại sao – hồi trước em tới là vì Jacinta; còn bây giờ, em không thể ngủ thêm vào buổi sáng vì em rất muốn được ở bên cạnh chị."

Khi sự kiện Đức Mẹ Hiện Ra vào ngày 13 mỗi tháng đã chấm dứt, em thường nói với chúng con vào mỗi chiều trước ngày 13 rằng:

"Ngày mai, lúc sáng sớm, em sẽ trốn ra bằng ngõ sau vườn để đến hang Cabeçẫo. Khi có thể được hai chị em đến gặp em ở đó nhé."

Ồ quên, con đang kể chuyện về lúc em bị bịnh và hấp hối, mà bây giờ con lại trở lại những giây phút vui vẻ mà chúng con đã có với nhau giữa tiếng chim ca trên đồng cỏ. Con xin Đức Cha tha lỗi. Trong khi viết lại những gì con nhớ được, thì con giống như con cua bò lui bò tới mà không cần biết đoạn cuối cuộc hành trình là chỗ nào. Con xin trao phó việc này cho Tiến sĩ Galamba, để ngài tùy nghi sử dụng những gì có trong đó, mặc dù con nghĩ là ngài chỉ dùng được rất ít hoặc là không dùng được gì cả.

Vì thế con xin được trở lại với lúc Phanxicô đang bị bịnh. Nhưng trước hết, con xin được phép nói qua về thời gian ngắn ngủi em đi học. Một hôm em từ nhà ra gặp con và chị Têrêsa, chị của con, là người đã lập gia đình và sống ở Lomba. Có một bà ở làng kế bên nhờ chị đến nói với con về việc con trai của bà đang bị điều tra về một tội phạm gì đó mà con quên rồi, và nếu anh ta không chứng minh được là mình vô tội thì anh sẽ bị kết án, hoặc là bị đày đi xa hay là sẽ bị giam tù nhiều năm. Chị Têrêsa đã đại diện cho bà, khẩn khoản xin con cầu nguyện với Đức Mẹ cho bà. Khi nghe xong, con liền đi tới trường, và dọc đường, con đã kể cho em nghe chuyện đó. Khi tới Fatima, Phanxicô nói với con rằng:

"Chị đi học đi, em sẽ ở lại đây với Chúa Giêsu Ẩn Mình để cầu xin Ngài ban cho ơn đó."

Khi tan trường, con tới gọi em về và hỏi:

"Em có cầu xin với Chúa ban ơn đó không?"

"Có chứ. Chị hãy nói với chị Têrêsa rằng vài hôm nữa anh đó sẽ được trở về nhà."

Và đúng như vậy, vài ngày sau, anh đó đã được thả ra. Trong ngày 13, anh và cả gia đình đã đến để cám ơn Đức Mẹ về ơn lành họ đã nhận được.

Có một lần, khi chúng con rời nhà, con thấy Phanxicô đi có vẻ chậm hơn mọi lần, con liền hỏi:

"Có chuyện gì vậy? Em có vẻ như không bước đi nổi vậy?"

"Em nhức đầu quá, em có cảm tưởng như mình sắp bị té."

"Vậy thì em đừng đi nữa. Hãy ở nhà bữa nay đi!"

"Em không muốn thế, em muốn được ở trong nhà thờ với Chúa Giêsu Ẩn Mình trong lúc chị đi học."

Trong lúc Phanxicô bị bịnh, em vẫn có thể đi bộ được một chút, vì thế một hôm, con đã đi với em tới hang ở Cabeço và tới Valinhos. Khi trở về, chúng con thấy trong nhà đầy ắp người. Có một bà đứng cạnh bàn, đang giả bộ ban phép lành cho những vật thánh như chuỗi mân côi, ảnh tượng và thánh giá... Jacinta và con thì bị bao vây bởi một đám người đang muốn hỏi han chúng con. Phanxicô thì bị bà "ban ơn" này kéo lại và mời em giúp bà.

"Cháu không ban phép lành được," em đã nghiêm trọng trả lời, "và ngay cả bà cũng vậy! Chỉ có các linh mục mới được quyền làm như thế."

Lời của em vang vọng cả căn phòng giống như tiếng sấm, như em đang nói trong loa. Người đàn bà liền lẻn nhanh ra khỏi nhà giữa những lời sỉ vả của đám đông. Mọi người đều muốn lấy lại những đồ vật mà họ đã đưa cho bà để "ban phép".

Con đã kể trong chuyện của Jacinta về việc em lên đồi Cova da Iria; về việc em đeo dây thừng trong người và đưa lại cho con; về việc em là người đầu tiên trong một ngày nóng bức đã dâng hy sinh không uống nước; và việc em thỉnh thoảng nhắc nhở Jacinta hãy chịu đau khổ để cầu nguyện cho những người có tội. Vì thế con nghĩ rằng không cần phải lập lại ở đây nữa.

Một hôm, con đến cạnh giường bệnh của em, và Jacinta mới thức dậy cũng đến đó luôn. Thình lình chị Têrêsa của em vào báo cho chúng con biết là có một đám đông đang trên đường và hình như đang tìm kiếm chúng con. Khi chị đi ra, con nói với Phanxicô rằng: "Hai em đợi họ ở đây, chị đi trốn bây giờ."

Jacinta cũng chạy theo con và chúng con đã thành công chui vào một cái thùng lật úp đàng sau cánh cửa cạnh lối dẫn ra vườn sau nhà. Chỉ ít lâu sau là có tiếng ồn ào của người ta đi lùng kiếm chúng con ở trong nhà, ngoài vườn và ngay cả bên cạnh cái thùng chúng con đang trốn; may mắn thay nắp thùng quay ngược về hướng họ nên chúng con đã được an toàn.

Khi biết là họ đi hết rồi, chúng con mới bò ra và trở lại với Phanxicô. Em đã kể lại như sau:

"Có rất nhiều người, họ muốn em nói cho họ biết là chị và Jacinta ở đâu, nhưng em đâu có biết. Họ muốn gặp chúng mình để hỏi rất nhiều chuyện. Ngoài việc đó, có một bà từ Alqueidao muốn mình cầu nguyện cho một người đang bị bịnh và cho một người được ơn ăn năn trở lại. Em sẽ cầu nguyện cho bà ấy và chị cùng Jacinta hãy cầu nguyện cho những người kia – vì có rất nhiều người cũng giống như vậy.

Một thời gian ngắn sau khi Phanxicô qua đời, người đàn bà này đã đến gặp chúng con và hỏi chỗ đặt ngôi mộ của em. Bà muốn tới đó để cám ơn em về hai ơn mà bà đã nhờ em cầu xin cho.

Một hôm khi chúng con mới vừa rời khỏi làng Aljustrel trên đường lên đồi Cova da Iria, thì có một đám đông bất thình lình gặp chúng con đằng sau một khúc đường cong. Để có thể nhìn và nghe chúng con rõ hơn, họ đặt chúng con ngồi trên một bức tường. Phanxicô không chịu ngồi trên đó lấy lý do là sợ bị té. Rồi em lẩn từ từ ra đàng sau bức tường. Có một bà cùng với đứa con trai khi thấy rằng họ khó lòng tới nói chuyện với chúng con được, liền tới quỳ trước mặt Phanxicô. Bà đã nhờ em cầu xin Đức Mẹ chữa bệnh cho chồng bà và để ông ấy khỏi phải nhập ngũ. Phanxicô cũng quỳ gối xuống, bỏ mũ ra và hỏi hai mẹ con có muốn lần chuỗi Mân Côi với em không. Họ đồng ý và bắt đầu cầu nguyện. Chẳng bao lâu, cả đám đông cũng ngừng hỏi han và cũng quỳ gối xuống để cầu nguyện. Sau đó họ cùng đi với chúng con lên đồi Cova da Iria, cùng lần chuỗi trong lúc đi đường. Khi tới nơi, chúng con lần thêm một chuỗi Mân Côi nữa và mọi người vui vẻ ra về. Người đàn bà hứa sẽ trở lại tạ ơn Đức Mẹ nếu được Đức Mẹ nhận lời. Bà đã trở lại vài lần sau, không riêng một mình mà có cả chồng bà là người đã được chữa khỏi bệnh. Họ đã tới từ giáo xứ S. Mamede và tên của ông bà đó là Casaleiros.

Phanxicô Bị Bệnh

Trong lúc bị bệnh, Phanxicô luôn có vẻ vui tươi. Đôi khi con hỏi em rằng:

"Phanxicô, em có đau nhiều không?"

"Nhiều chứ, nhưng không sao! Em chịu những đau đớn này để an ủi Chúa và chỉ một ít nữa thôi em sẽ được về thiên đàng rồi."

"Khi lên đó em đừng quên xin Đức Mẹ đưa chị lên đó sớm nhé."

"Điều đó thì em sẽ không xin đâu! Chị cũng đã biết rằng Đức Mẹ chưa muốn chị lên đó mà."

Hôm trước ngày em qua đời, em đã nói với con:

"Chị ơi, em thấy bệnh nặng lắm rồi, sẽ không bao lâu nữa em sẽ được lên thiên đàng."

"Vậy em hãy nghe chị nhắn đây này: khi ở trên đó, em đừng quên là phải cầu nguyện thật nhiều cho những người tội lỗi, cho Đức Thánh Cha, cho chị và cho Jacinta nữa."

"Có chứ, em sẽ cầu nguyện. Nhưng chị nên nhờ Jacinta cầu nguyện cho những ý này bởi vì em sợ em sẽ quên khi được thấy Thiên Chúa. Vả lại em chỉ muốn an ủi Chúa trên hết mọi sự khác."

Một hôm, vào sáng sớm, chị Têrêsa của em đến tìm con.

"Em tới nhanh lên, Phanxicô mệt lắm rồi và em nói là muốn nói chuyện gì với em đó."

Con mặc quần áo thật nhanh và chạy vội tới. Phanxicô liền xin mẹ và các anh các chị của em bước ra khỏi phòng, nói rằng em muốn hỏi con một điều bí mật. Khi mọi người đã ra ngoài, em liền hỏi con:

"Em sẽ được xưng tội và được rước Mình Thánh Chúa. Em muốn chị nói cho em biết chị có thấy em phạm tội gì không, rồi sau đó chị hãy đi và hỏi Jacinta có thấy em phạm tội gì không nhá."

"Em đã không vâng lời mẹ em một vài lần," con trả lời, "khi mẹ em nói em ở lại nhà, mà em đã chạy đến với chị hoặc là chạy trốn."

"Điều đó đúng lắm, em có nhớ việc đó. Giờ thì chị đi hỏi Jacinta coi có nhớ điều gì khác không."

Con đi ra, và Jacinta suy nghĩ một chút rồi trả lời:

"Chị nói với anh ấy là trước khi Đức Mẹ hiện ra với chúng ta, anh có lấy trộm một đồng tiền cắc của bố để mua một hộp nhạc của José Marto ở Casa Velha; và khi bọn đứa con trai ném đá những đứa làng Beleiros, anh cũng đã ném vài viên!"

Khi con nói lại với Phanxicô những gì Jacinta đã nhắn, em liền nói:

"Em đã xưng những tội đó rồi, nhưng em sẽ xưng lại. Có thể tại vì những tội em đã phạm mà Chúa có vẻ thật buồn rầu! Nhưng cho dù em không phải chết, em cũng sẽ không phạm những tội đó nữa. Em rất thành thật hối hận vì những điều đó." Chắp hai tay lại, em đọc lời kinh: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn."

Rồi em nói tiếp: "Bây giờ, chị cũng phải cầu xin Chúa tha những tội đó cho em."

"Đừng lo, chị sẽ làm như vậy. Nếu Chúa không tha tội cho em, thì Đức Mẹ đã không nói với Jacinta lần trước là Mẹ sắp tới để đem em về thiên đàng. Bây giờ chị đi lễ, và chị sẽ cầu nguyện với Chúa Giêsu Ẩn Mình cho em.

"Vậy thì chị hãy xin Chúa cho Cha xứ cho em được rước Mình Thánh Chúa."

"Được rồi, chị sẽ làm như vậy."

Khi đi lễ về, Jacinta đã thức dậy và ngồi trên giường của anh mình. Khi thấy mặt con, Phanxicô hỏi liền:

"Chị có xin Chúa Giêsu Ẩn Mình cho Cha xứ cho em được Rước Lễ không?"

"Có, chị xin rồi."

"Vậy thì, trên thiên đàng, em sẽ cầu nguyện cho chị."

"Thật sao? Ngày hôm trước, em nói là không mà!"

"Đó là khi chị nói em cầu cho chị được sớm lên đó. Nhưng nếu chị muốn như thế, thì em cũng sẽ xin, nhưng để tùy Đức Mẹ sẽ làm theo ý của Mẹ."

"Có, chị muốn như vậy, em cứ cầu xin cho chị đi."

"Được rồi,chị đừng lo, em sẽ cầu nguyện cho chị."

Khi ra về, con tiếp tục làm công việc thường lệ như học bài và làm việc. Tối đến con trở về và thấy mặt em rạng rỡ niềm vui. Em đã xưng tội và Cha xứ đã hứa sẽ cho em chịu lễ vào ngày mai."

Ngày hôm sau, khi rước Mình Thánh Chúa rồi em đã nói với Jacinta rằng:

"Anh hạnh phúc hơn em vì anh có Chúa Giêsu Ẩn Mình ở trong tim anh. Anh sẽ lên thiên đàng, nhưng anh sẽ cầu nguyện thật nhiều để xin Chúa và Đức Mẹ cũng sẽ đem em và chị Lucia lên đó sớm."

Jacinta và con đã ở lại bên cạnh em hầu như cả ngày hôm đó. Vì em đã không thể cầu nguyện được nên em yêu cầu chúng con đọc kinh Mân Côi cho em. Em cũng nói với con rằng:

"Chắc chắn là em sẽ nhớ chị thật nhiều trên thiên đàng. Phải chi Đức Mẹ cũng sẽ đưa chị lên đó sớm!"

"Em sẽ không nhớ chị đâu. Thử tưởng tượng xem, em sẽ ở đó với Chúa và Đức Mẹ! Các Ngài rất nhân từ!"

"Đúng rồi đó! Có lẽ em sẽ không nhớ chị!"

Con nói thêm: "Có lẽ em sẽ quên! Nhưng không sao!"

Cái Chết Lành Thánh Của Phanxicô

Tối hôm đó, con nói lời giã biệt em.

"Giã biệt, Phanxicô! Nếu em lên thiên đàng tối nay, nhớ đừng quên chị khi em ở đó nhá, em có nghe chị nói không?"

"Không, em sẽ không quên chị đâu." Rồi xiết chặt lấy tay con, em giữ lại một hồi lâu, nhìn con mắt đẫm lệ.

"Em có muốn điều gì nữa không?" con hỏi em nước mắt lăn dài trên má.

"Không!" Em yếu ớt trả lời.

Vì thấy không khí có vẻ nặng nề, cô con nói con nên rời khỏi đó.

"Vĩnh biệt Phanxicô! Hẹn gặp lại trên thiên đàng!...

Thiên đàng đã cận kề. Em về thiên đàng vào ngày hôm sau trong bàn tay của Mẹ Thiên Quốc (10). Con không thể nào diễn tả được lòng thương nhớ của con đối với em. Sự đau đớn này giống như một gai nhọn đâm vào tim con trong những năm sắp tới. Đó là một kỷ niệm quá khứ luôn vang dội mãi mãi không ngơi.

Đêm đã khuya: lặng lẽ con mơ màng

Bữa tiệc lớn mong ước trên thiên đàng

Ngày hội ngộ thánh, thiên thần cùng ra sức

Với chúng con dưới thế mừng ca vang.

Triều thiên vàng rực rỡ khôn tả xiết,

Vòng hoa nào qúy gía dưới trần gian

So sánh nổi vương miện Chúa càn khôn

Ham chuộng thế gian im hơi lặng tiếng!

Hân hoan rạng rỡ Mẹ tươi cười!

Thiên quốc em vui cạnh Chúa Trời

Say tình yêu Chúa vượt dự tưởng

Tháng năm trần thế thấm chi đâu...

Vĩnh biệt!

Những Bài Hát Phổ Thông

Vì Tiến Sĩ Galamba đã yêu cầu con viết lại lời của những bài hát phổ thông, con đã viết một số bài trong đoạn nói về Phanxicô. Trước khi con sang một đề tài khác, con xin viết thêm một số bài ở đây, để ngài tuy nghi chọn lựa cho những dự tính của ngài.

Cô Sơn Nữ

Sơn nữ ơi, sơn nữ ơi,

Đôi mắt hạt dẻ màu huyền mơ,

Ai cho cô đấy, sơn nữ dịu dàng ơi,

Duyên dáng bấy, không chi sánh nổi?

Duyên dáng bấy, không chi sánh nổi!

Mắt tôi chưa từng thấy bao giờ!

Sơn nữ ơi, sơn nữ ơi,

Hãy trìu mến nhìn tôi,

Hãy trìu mến nhìn tôi,

Sơn nữ ơi, sơn nữ ơi,

Hãy trìu mến nhìn tôi!

Sơn nữ ơi, sơn nữ ơi,

Tà váy dài tung bay trong gió mát

Sơn nữ dịu dàng sao đẹp vậy

Ôi cô thật lộng lẫy,

Thật lộng lẫy,

Mắt tôi chưa từng thấy bao giờ!

Sơn nữ ơi, sơn nữ ơi,

Đôi má hồng đầy sức sống xuân xanh,

Ai cho cô đấy, sơn nữ dịu dàng ơi,

Nở rộ không gì sánh nổi

Nở rộ không gì sánh nổi

Mắt tôi chưa từng thấy bao giờ!

(Điệp khúc)

Sơn nữ ơi, sơn nữ ơi,

Toàn thân vàng điểm sáng ngời,

Ai cho cô đấy, sơn nữ dịu dàng ơi,

Áo lụa vui đùa trong gió mát,

Áo lụa vui đùa trong gió mát,

Mắt tôi chưa từng thấy bao giờ!

Hãy Thận Trọng

Ai ơi leo núi coi chừng,

Chân đi chậm rãi chứ đừng ỷ i!

Cẩn thận kẻo trượt chân đi,

Là lăn xuống hố hiểm nguy vô cùng!

Là lăn xuống hố hiểm nguy vô cùng!

Nhưng tôi không té đâu ông,

Vì bao sơn nữ sẵn sàng cứu tôi!

Vì bao sơn nữ sẵn sàng cứu tôi!

Dù ai có muốn cùng không,

Tim tôi là của các nàng từ lâu!

Các nàng sẽ vội cứu tôi,

Các nàng sẽ chạy đến nơi giúp liền:

Vui tươi sơn nữ cao nguyên,

Yêu mến các nàng tuyệt diệu làm sao,

Yêu mến các nàng tuyệt diệu làm sao,

Cho dù có muốn cùng không,

Tim tôi là của các nàng từ lâu!

II. CHUYỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA

II. NÓI VỀ NHỮNG LẦN ĐỨC MẸ HIỆN RA

Lời Mở Đầu

Kính thưa Đức Cha, bây giờ đến phần khó nhất mà ngài đã truyền cho con phải viết lại. Trước hết, Đức Cha đã muốn con viết về việc Hiện Ra của các Thiên Thần, con phải ghi lại khung cảnh và những chi tiết và, nếu được, ngay cả ảnh hưởng trong tâm hồn chúng con. Rồi bây giờ đến lượt Tiến sĩ Galamba cũng yêu cầu Đức Cha chỉ thị cho con viết lại những lần Hiện Ra của Đức Mẹ.

"Xin Đức Cha hãy chỉ thị cho chị ấy," ngài đã nói cách đây không lâu tại Valença. "Vâng, thưa Đức Cha, xin hãy ra lệnh cho chị ấy viết lại tất cả, tất cả mọi thứ. Chị ấy sẽ phải trải qua lửa luyện ngục nhiều lần vì đã giữ kín rất nhiều điều quan trọng!"

Con không sợ lửa luyện ngục chút nào vì con đã nghĩ như sau. Con đã luôn luôn vâng lời, và vâng lời thì không thể bị phạt được. Trước hết, con vâng lời sự sáng soi của Chúa Thánh Linh trong tâm hồn con, và kế đó, con vâng lời mệnh lệnh mà bề trên đã truyền nhân danh Chúa. Đây cũng chính là mệnh lệnh đầu tiên Chúa đã nói qua Đức Cha khi ngài làm linh hướng cho con. Vui vẻ và bình an, con xin được nhắc lại lời con đã nghe lâu lắm rồi từ miệng một vị linh mục thánh thiện, Cha xứ thành Torres Novas: "Bí mật ái nữ của Đức Vua cần được giữ kín tận cõi thâm sâu của linh hồn nàng." Khi bắt đầu thấu hiểu ý nghĩa của câu nói đó, con đã tự nhắc nhở rằng: "Bí mật của con chỉ có mình con biết." Nhưng bây giờ, con không còn có thể nói như vậy được nữa. Tận hiến bản thân trên bàn thờ của đức vâng lời, con xin thưa: "Bí mật của con thuộc về Thiên Chúa. Con xin dâng lên bàn tay Chúa, xin Chúa hãy làm theo thánh ý Ngài."

Tiến sĩ Galamba nói rằng: "Xin Đức Cha hãy truyền lệnh cho chị ấy phải viết ra hết mọi sự và không được dấu diếm điều gì." Và Đức Cha đã được ơn soi sáng từ Chúa Thánh Linh để trả lời như sau: "Không, tôi không thể ra lệnh như thế được! Tôi không muốn đụng chạm vào những điều phải giữ bí mật." (11)

Cảm tạ ơn Chúa! Bất cứ mệnh lệnh nào khác sẽ gây hoang mang và lưỡng lự cho con triền miên. Nếu con đã nhận những lệnh truyền đối nghịch nhau, có lẽ con đã phải phân vân để tự hỏi nhiều lần rằng: "Con phải theo lệnh của ai đây? Thiên Chúa hay vị đại diện của Ngài?" và như thế, vì không thể dứt khoát được, con sẽ phải lâm vào tình trạng quẫn trí mất thôi!

Rồi Đức Cha vẫn tiếp tục nhân danh Chúa để nói rằng: "Con cứ viết về việc Hiện Ra của Thiên Thần và của Đức Mẹ, bởi vì, con yêu quý, điều này là để tôn vinh Thiên Chúa và Đức Mẹ."

Thiên Chúa quá tốt lành! Ngài là Chúa của bình an, và trong đường lối bình an, Ngài đã dẫn dắt những ai tin tưởng nơi Ngài.

Con xin bắt đầu, với sứ vụ mới, và để thực thi mệnh lệnh con đã nhận từ chính Đức Cha cũng như là ý muốn của Linh mục Tiến sĩ Galamba. Ngoại trừ một phần của điều bí mật mà con chưa được phép tiết lộ trong lúc này, con xin viết lại tất cả. Con sẽ không biết là mình có quên sót điều gì không, nhưng nếu có thì nó sẽ chỉ là những chi tiết nhỏ không quan trọng mấy.

Các Lần Hiện Ra của Thiên Thần

Mặc dầu con không nhớ rõ chính xác ngày nào, nhưng hình như lần Hiện Ra đầu tiên đã xảy ra năm 1915. Với phán đoán của con, con đã cho đó là Thiên Thần, mặc dầu lúc đó ngài chưa thật sự cho chúng con thấy tỏ tường hình dáng. Những điều con có thể nhớ về thời tiết lúc đó, con nghĩ rằng chuyện này xảy ra khoảng giữa tháng Tư và tháng Mười năm 1915.

Ba người bạn của con từ Casa Velha, tên là Têrêsa Matias và hai Chị là Maria Rosa và Maria Justino đang ở cùng với con nơi phía nam của sườn đồi Cabeço. Khi chúng con sửa soạn đọc kinh Mân Côi thì con thấy một cụm mây với hình dáng của một con người hiện ra trên không trung, trên những ngọn cây trải dài xuống thung lũng phía dưới chân chúng con. Hình dáng này trắng hơn tuyết và gần như trong suốt. Các bạn con hỏi đó là gì vậy, con trả lời là con không biết. Điều này lại xảy ra thêm hai lần nữa nhưng vào những ngày khác nhau.

Lần hiện ra này đã để lại một ảnh hưởng đặc biệt trong tâm hồn con mà con không thể diễn tả được. Dần dần, ảnh hưởng này cũng phai lạt đi, và nếu không có những việc xảy ra sau đó thì con nghĩ có lẽ con đã quên hoàn toàn rồi.

Con không nhớ rõ ngày tháng, bởi vì vào lúc đó con đã không ý thức lắm về năm, tháng hoặc ngay cả ngày trong tuần lễ nữa. Nhưng con nghĩ là vào mùa xuân năm 1916 là ngày Thiên Thần hiện ra lần đầu tiên với chúng con tại Loca do Cabeço.

Như con đã viết trong bản tường trình về Jacinta, lúc đó chúng con đã leo lên đồi tìm chỗ ẩn trú. Sau khi ăn trưa và đọc kinh xong, chúng con nhìn thấy từ đàng xa, bên trên các ngọn cây chạy dài về hướng đông, một ánh sáng trắng hơn tuyết, có hình dáng của một thanh niên, trong sáng hơn pha lê khi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua. Khi hình tượng này đến gần, chúng con có thể thấy rõ hình dạng hơn. Chúng con rất ngạc nhiên, lặng ngắm nhìn mà không thể thốt ra lời.

Khi tới gần chúng con, ngài đã nói:

"Các em đừng sợ. Ta là Thiên Thần Hòa Bình đây. Hãy cầu nguyện với ta."

Thiên thần quỳ xuống, đầu cúi thấp trán chạm mặt đất. Do một sức mạnh siêu nhiên thúc đẩy, chúng con cũng bắt chước làm theo, và lập lại những lời chúng con nghe Thiên Thần đọc:

"Lạy Chúa, con tin kính, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa! Xin Chúa tha thứ cho những người không tin kính, không thờ lạy, không trông cậy và không yêu mến Chúa!"

Khi lập lại những lời trên đây ba lần, Thiên Thần đứng lên và nói:

"Các em hãy cầu nguyện như vậy. Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria luôn lắng nghe lời cầu khẩn của các em." Nói xong, ngài biến mất.

Bầu khí siêu nhiên bao phủ chúng con mạnh đến nỗi chúng con không ý thức được sự hiện hữu của chính mình nữa, và vẫn phủ phục dưới đất trong tư thế như lúc Thiên Thần biến đi và liên tục lập lại lời kinh ngài vừa dạy. Chúng con cảm nhận sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa chung quanh mình rõ ràng đến nỗi ngay cả nói chuyện với nhau chúng con cũng không dám. Hôm sau, chúng con vẫn còn cảm nhận thấy bầu khí linh thiêng này, lúc đó mới bắt đầu tan biến dần đi.

Chúng con không nghĩ là phải nói về sự Hiện Ra này hoặc cũng không bàn với nhau giữ kín việc này. Sự Hiện Ra tự nó đã áp đặt tính bí mật rồi. Biến cố có tính cách quá riêng tư nên không dễ gì mà nói ra. Có lẽ ấn tượng mà sự kiện này để lại trong lòng chúng con còn lớn hơn nữa vì đây là lần đầu tiên mà chúng con trải qua một kinh nghiệm như vậy.

Lần Hiện Ra thứ hai có lẽ là vào giữa mùa hè, khi mà ban ngày trời nóng kinh khủng đến nỗi chúng con phải lùa chiên về nhà trước buổi trưa và chỉ cho chúng ra đồng trở lại vào lúc gần đến chiều.

Chúng con ra nghỉ trưa dưới bóng mát những cây trồng chung quanh cái giếng mà con đã nhắc tới nhiều lần. Đột nhiên, chúng con thấy cũng một Thiên Thần như lần trước hiện ra ngay bên cạnh chúng con.

"Các em làm gì đó?" Thiên Thần hỏi. "Cầu nguyện đi! Cầu nguyện thật nhiều! Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria đang muốn ban ơn xuống cho các em. Hãy dâng lời cầu nguyện và hy sinh liên tục lên Đấng Tối Cao."

Con hỏi: "Chúng em phải làm việc hy sinh như thế nào?"

"Bất cứ cái gì có thể làm được thì các em hãy biến nó thành việc hy sinh và hãy dâng lên Thiên Chúa để đền tạ cho những tội xúc phạm đến Chúa, và để cầu xin cho người có tội được ơn hoán cải. Làm như thế, các em sẽ đưa hòa bình xuống cho quốc gia các em. Ta là Thiên Thần Bản Mệnh của Bồ Đào Nha đây. Trên hết mọi sự, các em hãy đón nhận và sẵn sàng chịu đựng tất cả những đau khổ mà Chúa sẽ gởi đến cho các em."

Những lời này đã in sâu vào tâm trí chúng con không hề phai. Nó giống như một luồng ánh sáng soi chiếu cho chúng con biết Thiên Chúa là ai, Ngài đã thương yêu chúng ta như thế nào, và Ngài cũng muốn được kính mến lại, giá trị của việc hy sinh, hy sinh làm đẹp lòng Chúa như thế nào, và nhờ đó mà Chúa sẽ ban ơn hoán cải cho người tội lỗi. Cũng từ ngày đó, chúng con bắt đầu dâng lên Thiên Chúa tất cả những gì gây đau đớn cho chúng con. Tuy nhiên chúng con không đi tìm thêm những cách hãm mình khác, ngoại trừ phủ phục nhiều giờ đầu sát mặt đất để đọc lời kinh Thiên Thần đã dạy.

Con nghĩ lần Hiện Ra thứ ba xảy ra trong tháng Mười, hoặc cuối tháng Chín, vì lúc đó chúng con không còn về nhà để nghỉ trưa nữa.

Như con đã kể trong bài tường trình về Jacinta, một hôm, chúng con đi từ Pregueira (một vườn ô-liu nhỏ của bố mẹ con) đến Lapa, dọc theo mạn sườn đồi quay hướng về phía làng Ajustrel và Casa Velha. Tại đó, chúng con đọc kinh Mân Côi và kinh Thiên Thần đã dạy trong lần Hiện Ra lần đầu.

Khi chúng con đang ở đó, thì Thiên Thần Hiện Ra lần thứ ba, hai tay cầm Chén Thánh với một Mình Thánh treo lơ lửng phía trên đang nhỏ vài giọt Máu xuống Chén Thánh phía dưới. Để Chén Thánh và Mình Thánh lơ lửng trên không, Thiên Thần phủ phục xuống đất và đọc lời nguyện này ba lần:

"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, con hết lòng thờ lạy Chúa. Con xin dâng lên Chúa Mình và Máu rất châu báu, linh hồn và Thiên tính Chúa Giêsu Kitô, hiện diện trong tất cả các nhà tạm trên thế giới, để đền tạ những lăng nhục, phạm thánh, và sự lạnh nhạt mà Chúa đang phải chịu đựng. Vì công nghiệp vô cùng của Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu, và Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Maria, con nài xin Chúa ban ơn hoán cải cho những người tội lỗi."

Sau đó Thiên thần đứng lên, cầm Chén Thánh và Mình Thánh trong tay. Ngài cho con rước Mình Thánh, còn Jacinta và Phanxicô thì ngài cho uống từ Chén Thánh, vừa làm vừa nói: "Hãy rước Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô đang bị những kẻ vô ơn bạc nghĩa nhục mạ. Hãy đền tạ cho tội lỗi của họ và hãy an ủi Chúa." Một lần nữa, thiên Thần phủ phục xuống đất và cùng lập lại với chúng con ba lần lời nguyện "Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi ...", và Ngài biến mất.

Bị tràn ngập bởi sức mạnh siêu nhiên đang bao trùm chúng con, chúng con bắt chước việc Thiên Thần đã làm là phủ phục xuống đất và lập lại lời cầu nguyện ngài đã đọc. Sức mạnh của Thiên Chúa hiện diện cực lớn lao, thấm nhuần toàn thể bản thân chúng con và làm cho chúng con hầu như bị hủy diệt đi. Chúng con có vẻ như không sử dụng được các giác quan của mình trong một thời gian khá lâu. Trong những ngày đó, chúng con làm mọi việc bên ngoài giống như được hướng dẫn bởi cùng một sức mạnh siêu nhiên đang đầy tràn trong tâm hồn chúng con. Hạnh phúc và bình an mà chúng con cảm nhận được trong tâm hồn rất lớn lao, vì linh hồn chúng con đã hoàn toàn chìm đắm trong Thiên Chúa. Chúng con cũng cảm thấy thể xác rất mệt mỏi.

Sự Im Lặng Của Chị Lucia

Con không hiểu tại sao, nhưng những lần Hiện Ra của Đức Mẹ đã cho chúng con những cảm giác khác. Chúng con cảm nhận được cùng một niềm vui mật thiết, cùng một sự bình an và hạnh phúc, nhưng thay vì một sự mệt lả thể xác, chúng con lại thấy cử động được rất dễ dàng; thay vì cảm thấy bị hủy diệt hoàn toàn trong Thiên Chúa hiện hữu, chúng con hân hoan mừng rỡ; thay vì không nói ra lời, chúng con hoan hỉ muốn nói chuyện chia sẻ với nhau. Tuy nhiên, ngoài những cảm giác này, chúng con cũng cảm thấy có một sự soi sáng để giữ im lặng, đặc biệt là liên hệ đến một số vấn đề.

Mỗi khi con bị thẩm vấn, con cảm nhận tâm hồn được soi sáng hướng dẫn cho con biết cách trả lời, mà không nói sai sự thật nhưng cũng không tiết lộ những điều cần được giữ kín trong lúc đó. Vì lý do đó, chỉ có một điều vẫn làm cho con còn phải nghi ngờ là: "Có phải con đã không nói hết những điều cần thiết trong cuộc điều tra của Tòa Thánh không?" Nhưng con đã ngần ngại về việc phải giữ im lặng, bởi vì lúc đó con đã không nhận thức được tầm quan trọng của việc điều tra này. Con đã coi nó giống như những cuộc điều tra mà con đã gặp trước. Chỉ có một điều con thấy khác thường là con được lệnh phải tuyên thệ. Nhưng chính Cha linh hướng đã nói con làm như vậy, và vì con thề để nói sự thật, cho nên con đã thề mà không cảm thấy khó khăn gì. Ngay lúc đó, con đã hơi nghi ngờ rằng ma quỷ có thể lợi dụng cơ hội này mà hành hạ con với những lưỡng lự sau này. Nhưng cám ơn Chúa, bây giờ tất cả mọi sự đã qua đi.

Có một lý do khác đã xác định thêm rằng việc con giữ im lặng là đúng. Trong cuộc điều tra của Tòa Thánh, Linh Mục Tiến Sĩ Marques dos Santos nghĩ là ngài có thể hỏi rộng thêm ra trong một số câu hỏi và bắt đầu hỏi con những câu thăm dò. Trước khi trả lời, con đã nhìn để hỏi ý kiến Cha linh hướng của con. Cha đã cứu con khỏi tình trạng khó khăn bằng cách trả lời dùm con. Cha cũng nhắc linh mục thẩm vấn rằng ngài đã đi quá trớn trong vấn đề này.

Khi Linh mục Tiến Sĩ Fischer thẩm vấn con, chuyện cũng đã xảy ra giống như vậy. Linh mục này đã được phép của Đức Cha và của Mẹ Bề Trên Giám Tỉnh, và hình như có thẩm quyền để hỏi con về tất cả mọi sự. Nhưng tạ ơn Chúa, linh mục này đã đến cùng với Cha linh hướng của con. Có đôi lúc ngài đã hỏi con những câu được tính toán sẵn liên quan tới những điều Bí Mật, con cảm thấy bối rối vì không biết phải trả lời làm sao. Con ngước nhìn Cha linh hướng; ngài hiểu ý và đã trả lời dùm con. Vị thẩm vấn cũng hiểu ý và nhặt vài tờ báo nằm bên cạnh, dơ lên trước mặt con. Qua dấu đó, Chúa đã cho con biết rằng giờ Chúa muốn chưa đến.

Bây giờ, con xin được viết về những lần Hiện Ra của Đức Mẹ. Con sẽ không cần phải nói lại những điều xảy ra trước hoặc sau đó, vì Linh mục Tiến Sĩ Galamba đã rộng lòng miễn cho con điều đó.

Ngày 13 tháng Năm, 1917

Cao tận trên đồi Cova da Iria, con đang cùng với Jacinta và Phanxicô chơi nhặt đá để xây một bức tường chung quanh bụi hoa dại. Đột nhiên chúng con thấy giống như có ánh chớp sáng.

"Chúng ta phải về nhà thôi." Con đã nói cùng hai em, "có ánh chớp rồi kìa; coi chừng có bão."

"Đúng rồi đó!" hai em đáp lại.

Chúng con bắt đầu đi xuống sườn đồi, nhanh chóng lùa đàn chiên trên đường đi. Khi chúng con đi được khoảng nửa sườn đồi, và hầu như ngang với cây sồi lớn mọc ở đó thì chúng con thấy thêm một ánh chớp sáng loé lên nữa. Chúng con mới đi thêm được chỉ có mấy bước, thì trước mặt chúng con, trên một cây sồi nhỏ, hiện ra một Bà mặc áo trắng như tuyết. Bà rực sáng hơn mặt trời, có ánh sáng tỏa ra trong sáng hơn một ly thủy tinh chứa nước lóng lánh khi tia sáng mặt trời chiếu xuyên qua.

Chúng con ngừng lại và bỡ ngỡ trước sự Xuất Hiện này. Chúng con đứng rất gần, cách Bà chỉ chừng vài mươi tấc, và chúng con được bao phủ trong ánh sáng bao quanh thân mình Bà, hoặc nói đúng hơn, ánh sáng chói tỏa từ Bà mà ra. Bà đã nói với chúng con:

"Các con đừng sợ, Mẹ sẽ không làm hại các con đâu."

"Bà từ đâu đến đây?"

"Mẹ đến từ thiên đàng."

"Bà muốn chúng con làm gì?"

"Mẹ đến để xin các con hãy đến đây trong sáu tháng liên tiếp trong những ngày 13, vào cùng giờ này. Sau này Mẹ sẽ nói cho các con biết Mẹ là ai và Mẹ muốn gì. Sau đó Mẹ sẽ trở lại đây thêm một lần thứ bẩy." (12)

"Con có được lên thiên đàng không?"

"Có, con sẽ được lên thiên đàng."

"Còn em Jacinta?"

"Em cũng sẽ được lên nữa."

"Còn Phanxicô thì sao?"

" Phanxicô cũng sẽ được lên, nhưng em phải đọc thật nhiều kinh Mân Côi."

Con cũng nhớ là đã hỏi Bà về hai thiếu nữ mới vừa qua đời. Họ là bạn của con và thường hay tới nhà con để học dệt cùng với chị cả của con.

"Thưa Bà, Maria das Neves có ở trên thiên đàng không?"

"Có." (Con nghĩ chị ấy chừng 16 tuổi)

"Thế còn Amélia?"

" Amélia sẽ phải ở lửa luyện ngục cho tới ngày tận thế." (13) (Đối với con hình như chị này khoảng từ 18 đến 20 tuổi).

"Các con có sẵn sàng dâng mình lên Thiên Chúa để chịu đựng tất cả những đau khổ Chúa sẽ gởi tới, để các con đền tạ những tội đã xúc phạm đến Ngài và để cầu xin cho người tội lỗi được ơn hối cải không?"

"Dạ thưa chúng con sẵn sàng."

"Vậy thì các con sẽ phải chịu đau khổ rất nhiều, nhưng ơn của Thiên Chúa sẽ luôn là nguồn an ủi cho các con."

Khi Đức Mẹ nói những lời cuối này "... ơn của Thiên Chúa sẽ luôn là nguồn an ủi cho các con", thì Đức Mẹ dang hai tay ra lần đầu tiên, chiếu cho chúng con một luồng ánh sáng mạnh mẽ từ hai tay của Mẹ. Các tia sáng chiếu thẳng vào trái tim và vào tận đáy thẳm tâm hồn chúng con, làm cho chúng con thấy mình ở trong Thiên Chúa, chính Ngài là ánh sáng đó, thật rõ ràng hơn chúng con nhìn thấy chính mình trong tấm gương tốt nhất. Rồi được thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong đang được thông đạt tới chúng con, chúng con quỳ gối xuống, lập lại lời cầu nguyện trong trái tim chúng con:

"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy Chúa! Lạy Chúa, lạy Chúa, con yêu mến Chúa trong bí tích Thánh Thể!"

Sau một lúc, Đức Mẹ mới nói thêm:

"Các con hãy lần chuồi Mân Côi mỗi ngày để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và để chiến tranh chấm dứt."

Rồi Mẹ bắt đâu bay lên nhẹ nhàng, thẳng về hướng đông cho tới lúc Mẹ biến mất trong không trung. Ánh sáng bao trùm Mẹ giống như mở một lối đi cho Mẹ trên bầu trời, và vì lý do này đôi khi chúng con nói rằng chúng con thấy thiên đàng đã mở ra.

Con nghĩ rằng con đã giải thích trong chuyện Jacinta hoặc là trong một lá thơ rằng sự sợ hãi mà chúng con cảm thấy đã thực sự không phải là sợ hãi Đức Mẹ, nhưng chỉ là sợ cơn bão mà chúng con nghĩ là sắp tới, và vì thế chúng con tìm cánh tránh né. Việc Đức Mẹ hiện ra không làm cho chúng con sợ hãi hoặc khiếp đảm, nhưng chúng con chỉ ngạc nhiên thôi. Khi được hỏi là con có cảm thấy sợ hãi không, thì con đã trả lời là có, nhưng đó là con có ý nói về việc chúng con sợ khi thấy ánh chớp và nghĩ là cơn bão sắp đến. Vì lý do đó chúng con muốn chạy trốn khi nhìn thấy chớp rồi nghe đến tiếng sấm. Ngoài ra những ánh sáng đó thật ra đó không phải ánh chớp, nhưng là những tia phản chiếu của một ánh sáng đang tiến gần. Chính vì chúng con thấy ánh sáng nên đôi khi chúng con nói nhìn thấy Đức Mẹ đang đến; nhưng đúng ra phải nói là chúng con chỉ nhìn thấy Đức Mẹ trong ánh sáng ấy khi Mẹ đã đứng trên cây sồi rồi. Sự kiện chúng con không biết giải thích hiện tượng này như thế nào, và vì chúng con muốn tránh khỏi bị vặn hỏi, nên lúc thì chúng con nói chúng con nhìn thấy Bà ấy đang đến, lúc thì nói không thấy. Khi chúng con nói rằng chúng con thấy Đức Mẹ đang đến thì chúng con muốn nói rằng chúng con thấy ánh sáng đang tiến đến. Và khi chúng con nói rằng chúng con không thấy Đức Mẹ đang đến, thì có nghĩa là chúng con chỉ thật sự thấy được Đức Mẹ khi Mẹ đã ở trên cây sồi rồi.

Ngày 13 tháng Sáu, 1917

Ngay sau khi Jacinta, Phanxicô và con vừa lần chuỗi Mân Côi xong cùng với một số người đang có mặt tại đó, chúng con liền thấy ánh sáng phản chiếu từ ánh sáng đang tiến tới (mà chúng con đã cho là ánh chớp). Chỉ giây phút sau, Đức Mẹ đã đứng trên cây sồi, cùng một vị thế như trong tháng Năm.

Con hỏi: "Mẹ muốn chúng con làm gì?"

"Mẹ muốn các con đến đây ngày 13 tháng tới, hãy lần hạt Mân Côi mỗi ngày, và hãy học đọc. Sau này, Mẹ sẽ cho các con biết Mẹ muốn gì."

Con đã xin Mẹ chữa lành cho một bệnh nhân.

"Nếu người ấy ăn năn trở lại, thì anh ta sẽ được chữa lành trong năm nay."

"Con xin mẹ hãy đem chúng con về thiên đàng."

"Ừ, chẳng bao lâu nữa Mẹ sẽ đem Jacinta và Phanxicô về trước, nhưng còn con sẽ phải ở lại thêm một thời gian nữa. Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho mọi người được biết đến / và yêu mến Mẹ. Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ." (14)

"Con sẽ phải ở lại đây một mình sao?" Con hỏi một cách buồn bã.

"Không đâu, con ạ. Con gái của Mẹ chịu nhiều đau khổ lắm phải không? Đừng nản lòng. Mẹ sẽ không bao giờ quên con đâu. Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ là nơi trú ẩn của con và là đường dẫn con về với Thiên Chúa."

Khi Mẹ nói những lời cuối này, Mẹ liền mở hai cánh tay ra và đây là lần thứ hai, Mẹ cảm thông với chúng con trong cùng những tia phản chiếu của ánh sáng bao la đó. Chúng con nhìn thấy mình trong ánh sáng này như được phát ra từ chính Thiên Chúa. Jacinta và Phanxicô hình như ở trong phần của ánh sáng chiếu thẳng lên trời, còn con thì ở trong phần ánh sáng đổ tràn trên trái đất. Trong lòng bàn tay phải của Đức Mẹ có một trái tim quấn trong vòng gai nhọn đâm thấu. Chúng con hiểu ngay rằng đây là Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria, đang bị xúc phạm bởi tội lỗi của nhân loại và đang tìm kiếm việc đền tạ.

Kính thưa Đức Cha, bây giờ thì Đức Cha đã biết đây chính là điều mà chúng con nói rằng Đức Mẹ đã mặc khải cho chúng con một điều Bí Mật trong tháng Sáu. Ngay lúc đó, Đức Mẹ đã không dặn chúng con phải giữ bí mật, nhưng chúng con đã cảm nhận được từ Chúa là phải làm như vậy.

Ngày 13 tháng Bẩy, 1917

Sau khi đến gần chỗ cây sồi ở Cova da Iria được ít lâu (tại đây có một số đông người đang đọc kinh Mân Côi) chúng con lại trông thấy lóe lên một lằn chớp sáng, và sau đó Đức Mẹ đã hiện ra trên cây sồi rồi.

Con hỏi: "Thưa Bà, Bà muốn con làm gì?

"Mẹ muốn con đến đây vào ngày 13 tháng sau, tiếp tục đọc kinh Mân Côi mỗi ngày tôn vinh Đức Bà Mân Côi, để cầu xin hòa bình cho thế giới và cho chiến tranh chấm dứt, vì chỉ có Bà ấy mới có thể giúp các con được thôi!"

"Con muốn xin Bà cho chúng con biết Bà là ai, và xin Bà làm một phép lạ để cho mọi người tin rằng Bà đã hiện ra với chúng con tại đây!"

"Các con hãy tiếp tục đến đây mỗi tháng. Đến tháng Mười thì Ta sẽ cho các con biết Ta là ai và Ta muốn gì. Ta cũng sẽ làm một phép lạ cho mọi người nhìn thấy mà tin."

Rồi con xin một vài điều nhưng bây giờ con không nhớ con đã xin những gì. Điều con nhớ rõ là Đức Mẹ nói rằng những người như vậy cần phải đọc kinh Mân Côi để được ban cho những ơn họ xin trong năm đó. Và Bà nói tiếp:

"Hãy tự hiến mình làm của lễ hy sinh cho kẻ có tội, và hãy đọc nhiều lần lời nguyện sau đây, nhất là mỗi khi các con làm việc hy sinh:

"Lạy Chúa Giêsu, (con làm việc hy sinh này) chính vì lòng con kính mến Chúa, để xin cho kẻ có tội được ăn năn trở lại, và để đền tạ những tội chống lại Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria."

Khi Đức Mẹ nói những lời này, thì Mẹ lại mở đôi bàn tay ra như đã làm trong hai tháng trước. Những tia sáng dường như xuyên qua trái đất, và chúng con nhìn thấy như một biển lửa. Chìm đắm trong lửa này là ma qủy và linh hồn có hình dạng người ta, trông như những cục than hồng, đen thui hay bóng láng như đồng đen, trôi bềnh bồng trong đám lửa ấy, lúc thì bị ngọn lửa xuất ra từ chính thân mình họ hất tung họ lên không trung cùng với khói mù mịt như những đám mây, lúc thì rơi xuống bốn bề như những đốm đỏ trong đống lửa khổng lồ vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, giữa những tiếng la hét, than khóc đau đớn, tuyệt vọng, khiến chúng con hãi hùng, run sợ. (Chắc cảnh tượng này đã làm cho con la lớn vì người ta đã nghe tiếng hét đó). Có thể phân biệt được ma qủy bằng hình thù khủng khiếp và kinh tởm giống như những con thú ghê rợn chưa hề trông thấy, đen và trong suốt như những cục than đang cháy. Hoảng hồn và như để cầu cứu, chúng con nhìn lên Đức Bà. Mẹ dịu dàng nhưng nói một cách buồn bã làm sao:

"Các con đã nhìn thấy hỏa ngục, nơi mà linh hồn những kẻ tội lỗi khốn khổ phải đến. Để cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ trên thế gian này. Nếu điều Mẹ nói với các con được thi hành thì nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình. Chiến tranh sẽ chấm dứt. Nhưng nếu loài người không ngưng xúc phạm đến Chúa, thì một chiến tranh tàn khốc khác sẽ xảy ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô XI. Khi con thấy ban đêm bầu trời tự nhiên bừng lên một ánh sáng lạ (15) thì nên biết rằng đó là dấu chỉ lớn mà Chúa ban cho con thấy rằng Ngài sắp trừng phạt thế gian vì tội lỗi của họ, bằng chiến tranh, đói khát, và bách hại Giáo Hội và Đức Thánh Cha.

"Để ngăn chặn điều này, Mẹ sẽ đến để yêu cầu tận hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ, và rước lễ đền tạ trong những ngày thứ Bẩy Đầu Tháng (16). Nếu họ chấp hành yêu cầu của Mẹ, nước Nga sẽ trở lại, và sẽ có hòa bình (17); nếu không thì nước này sẽ gieo rắc sai lầm của họ khắp thế giới, gây ra chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Người tốt sẽ tử vì đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, một số nước sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng thì Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ cung hiến nước Nga cho Mẹ, và nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình. Tại Bồ-đào-nha, tín điều Đức Tin sẽ được bảo toàn mãi mãi; v.v... Đừng nói điều này với ai cả... Phanxicô hả, ừ, con có thể nói cho em con nghe.

"Khi các con đọc kinh Mân Côi, thì sau mỗi mầu nhiệm hãy đọc như sau: 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem tất cả các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần được Chúa thương xót hơn.'"

Sau đó là một thời gian yên lặng. Và rồi con hỏi:

"Mẹ có muốn con làm điều gì khác nữa không ạ?"

"Không, hôm nay Mẹ không muốn con làm thêm điều gì nữa."

Rồi cũng như lần trước Đức Mẹ bắt đầu lên cao về hướng Đông cho đến lúc Mẹ khuất dạng vào không gian vô tận của bầu trời.

Ngày 13 tháng Tám, 1917

Như con đã trình bày về những điều đã xảy ra trong ngày hôm đó rồi, nên con sẽ không kéo dài thì giờ ở đây nữa, mà sẽ chuyển ngay vào lúc Đức Mẹ hiện ra, mà theo ý kiến của con là vào ngày 15 (tháng 8) vào khoảng xế trưa (18). Vì vào thời kỳ đó con chưa biết cách nhận ra ngày tháng nên con có thể sai lầm. Nhưng con vẫn nghĩ rằng chuyện này xảy ra trong cùng ngày chúng con từ Vila Nova de Ourém trở về.

Phanxicô và anh Gioan của em cùng đi với con. Chúng con đang dẫn cừu tới một nơi gọi là Valinhos thì nhận thấy có một cái gì siêu nhiên đang tiến gần và bao bọc chúng con. Vì nghi rằng Đức Mẹ sẽ hiện ra với chúng con và cảm thấy tiếc cho Jacinta không kip gặp Mẹ nên chúng con yêu cầu anh của em chạy về gọi em ra. Trong khi anh này không muốn đi con liền cho anh ta hai đồng tiền, và anh ta chạy đi ngay.

Trong lúc đó thì Phanxicô và con trông thấy tia sáng lóe lên mà chúng con gọi là lằn chớp. Lúc đó Jacinta cũng vừa tới nơi, và một lát sau chúng con nhìn thấy Đức Bà trên cây sồi.

"Thưa Mẹ, Mẹ muốn con làm gì?"

"Mẹ muốn các con tiếp tục đến Cova da Iria ngày 13 và tiếp tục đọc kinh Mân Côi mỗi ngày. Đến tháng cuối cùng, Mẹ sẽ làm một phép lạ để cho mọi người tin."

"Mẹ muốn số tiền mà người ta để lại Cova da Iria dùng vào việc gì?"

"Con hãy làm hai cái giá (cáng). Con và Jacinta cùng hai bé gái khác, mặc đồ trắng, khiêng một cái. Cái kia sẽ do Phanxicô và ba bé trai khác khiêng. Tiền để trên "giá" sẽ chi phí cho việc mừng "lễ hội" Đức Bà Mân Côi. Số còn lại sẽ dùng để cất một nhà nguyện tại đây.

"Con muốn xin Mẹ chữa lành cho một vài người bịnh."

"Ừ, Mẹ sẽ chữa lành vài người trong năm nay."

Rồi Mẹ nói dáng vẻ rất buồn bã:

"Các con hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, và làm việc hy sinh cho kẻ tội lỗi; vì nhiều linh hồn phải sa hỏa ngục vì không có ai hy sinh và cầu nguyện cho họ."

Rồi Mẹ bắt đầu lên cao về hướng Đông như mọi lần.

Ngày 13 tháng Chín, 1917

Khi gần đến giờ, con cùng với Jacinta và Phanxicô ra đi, nhưng vì đám người quá đông nên chúng con di chuyển rất khó khăn. Các nẻo đường đông nghẹt người, và ai cũng muốn nhìn thấy và nói chuyện với chúng con. Không còn một chút gì là thể diện và tự trọng nữa. Những người dân lành đơn sơ cũng như các ông bà sang trọng xô đẩy nhau, chen lấn vào đám đông chung quanh chúng con. Khi vừa lại gần được chúng con, họ liền qùy gối trước mặt chúng con và cầu xin chúng con đặt những ý nguyện của họ trước mặt Đức Bà. Những ai không lại gần chúng con được thì la to từ đàng xa:

"Vì lòng mến Chúa, các em nhớ nói với Đức Bà chữa lành cho con tôi bị bại liệt nhá!" Một người khác lại tiếp: "Và chữa cho con tôi bị mù!.. Chữa cho con tôi bị điếc!... Cho chồng và con tôi ngoài mặt trận được trở về!... Cho một người tội lỗi được ăn năn trở lại!.. Cho tôi được khỏe mạnh trở lại vì tôi mắc bệnh lao!" vân vân.

Tất cả những đau thương của nhân loại đều tập trung tại đó. Một số người trèo lên ngọn cây và bờ tường để nhìn chúng con đi qua và la to xuống cho chúng con nghe lời họ yêu cầu. Chúng con nói "vâng" với người này, nắm tay giúp người nọ đứng lên khỏi mặt đất đầy bụi bặm, và nhờ có một vài ông đi trước mở đường cho chúng con tìm cách tiến lên giữa đám đông.

Bây giờ khi đọc trong Tân Ước những cảnh đám đông người đi theo Chúa thuở xưa tại Palestine thì con nghĩ đến những cảnh mà Chúa cho con thấy trong khi con còn là một đứa con nít trên những lối đi nghèo nàn từ Aljustrel đến Fatima dẫn tới ngọn đồi Cova da Iria! Con tạ ơn Chúa, dâng lên Ngài đức tin của dân chúng Bồ-đào-nha và con nghĩ: "Nếu những người này tự hạ mình trước mặt ba đứa con nít nghèo hèn chỉ vì chúng được ban cho ơn nói chuyện với Đức Mẹ Chúa Trời, thì điều gì mà họ chẳng làm nếu được thực sự nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt ở ngay trước mặt họ?"

Thưa Đức Cha, những điều này đáng lẽ con không nên nói ra! Quả là ngòi bút lôi kéo con đi quá đà tới chỗ con không có ý định đến. Nhưng xin Đức Cha tha lỗi cho! Thật là lạc đề vô ích một lần nữa. Sở dĩ con không xé nó đi vì không muốn làm rách quyển tập.

Cuối cùng rồi chúng con cũng đến được đồi Cova da Iria. Khi tới cây sồi chúng con bắt đầu đọc kinh Mân Côi với dân chúng. Ít lâu sau đó chúng con nhìn thấy tia sáng rồi Đức Mẹ hiện ra trên cây sồi.

"Các con hãy tiếp tục cầu nguyện kinh Mân Côi để xin cho chiến tranh chấm dứt. Đến tháng Mười, Chúa sẽ đến cùng với Đức Mẹ Sầu Bi và Đức Bà Các-men. Thánh Giuse sẽ đến với Chúa Giêsu Hài Đồng để ban phép lành cho thế giới. Chúa rất hài lòng vì những hy sinh của các con. Ngài không muốn các con nằm ngủ với giây thừng quấn quanh mình, nhưng chỉ nên thắt giây vào ban ngày thôi."

"Con được người ta bảo hỏi Mẹ nhiều điều lắm, xin Mẹ chữa lành cho một số người bệnh, một người câm-điếc..."

"Ừ, Mẹ sẽ chữa cho một số người, nhưng không chữa cho một số người khác. Vào tháng Mười, Mẹ sẽ làm một phép lạ để cho mọi người tin."

Rồi Đức Mẹ bắt đầu lên cao và biến mất.

Ngày 13 tháng Mười, 1917

Chúng con ra đi khá sớm vì đoán trước rằng thế nào cũng sẽ bị chậm trễ dọc đường. Từng đoàn người đông nghẹt tuôn ra khắp nẻo đường. Mưa xối xả như thác đổ. Mẹ con thì bị dằn vặt vì nghi ngờ về những gì sẽ xảy ra và lại sợ đây sẽ là ngày cuối cùng của đời con nên muốn đi cùng với con.

Dọc đường, những màn như tháng trước lại tái diễn, nhưng nhiều và thảm thương hơn. Ngay cả những con ...đường bùn lầy cũng không ngăn cản được họ qùy xuống với thái độ hết sức khiêm nhường khẩn khoản. Chúng con tới được cây sồi tại đồi Cova da Iria. Khi đến đó, do một sự thúc đẩy nội tâm, con yêu cầu mọi người xếp dù lại và đọc kinh Mân Côi. Một lát sau đó chúng con thấy tia sáng và rồi thấy Đức Mẹ hiện ra trên cây sồi.

"Thưa Mẹ muốn con làm gì?"

"Ta muốn nói với con rằng cần phải xây một nhà nguyện ở đây để tôn kính Ta. Ta là Đức Bà Mân Côi. Các con hãy tiếp tục đọc kinh Mân Côi mỗi ngày. Chiến tranh sắp chấm dứt và binh lính sẽ sớm được trở về nhà họ."

"Con muốn xin Mẹ nhiều điều: Xin Mẹ chữa lành cho một số nguời bệnh, cho người tội lỗi được ơn hoán cải, và những điều khác nữa..."

Với vẻ mặt rất buồn, Đức Mẹ nói:

"Các con đừng xúc phạm đến Chúa chúng ta nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều rồi."

Rồi Mẹ xòe hai bàn tay ra phản chiếu ánh sáng lên mặt trời. Khi Mẹ lên cao, ánh sáng xuất phát từ đôi tay Mẹ tiếp tục chiếu vào mặt trời.

Kính thưa Đức Cha, đây chính là lý do khiến con kêu mọi người hãy nhìn lên mặt trời. Mục đích của con không phải bảo họ chú ý vào mặt trời vì con không ý thức rằng họ có mặt ở đó. Con được hướng dẫn làm như vậy vì có một sức mạnh nội tâm thúc đẩy.

Sau khi Mẹ biến vào khoảng xa vô tận của bầu trời thì chúng con nhìn thấy thánh Giuse cùng với Chúa Giêsu Hài Đồng, còn Đức Mẹ thì mặc áo dài trắng, bên ngoài khoác áo choàng xanh đứng bên cạnh mặt trời. Thánh Giuse cùng Đức Giêsu hình như đang ban phép lành cho thế giới vì Chúa và thánh Cả lấy tay vẽ Dấu Thánh Giá. Khi thị kiến này biến đi một lát sau thì con nhìn thấy Chúa và Đức Mẹ; theo con hiểu thì dường như đây là Đức Mẹ Sầu Bi. Chúa hình như ban phép lành cho thế gian cũng giống như cách thánh Giuse đã làm. Thị kiến này cũng tan biến và con được nhìn thấy Đức Mẹ một lần nữa, lần này thì giống như Đức Mẹ núi Các-men.

LỜI KẾT

Kính thưa Đức Cha, vậy là Đức Cha đã có câu chuyện những lần Đức Mẹ Hiện Ra tại Cova da Iria năm 1917 rồi. Bất cứ khi nào và bất cứ động lực nào khiến con phải nói về hiện tượng này con đều cố hết sức nói càng ít chừng nào càng tốt chừng nấy, lòng những ước mong giữ cho một mình con những khía cạnh thầm kín hơn, và rất khó cho con phải tiết lộ. Nhưng vì đó là của Chúa chứ không phải của con, và nếu qua Đức Cha, Ngài muốn lấy lại thì thưa đây, con xin trả lại những gì không phải là của con. Theo con hiểu thì con đã không giữ lại cái gì cả. Con nghĩ chỉ bỏ sót một vài chi tiết nhỏ liên hệ đến những lời cầu xin mà con đã nói lên. Vì đây chỉ là những thứ vật chất không đáng kể nên con không coi là quan trọng, và có lẽ cũng chính vì vậy mà nó không để lại một ấn tượng đáng kể trong trí óc con. Ngoài ra cũng phải nói là có rất nhiều lời thiên hạ cầu xin, có quá nhiều đi! Rất có thể vì con lo nhớ hết những ơn huệ mà con phải xin Đức Mẹ ban cho họ nên con đã lầm khi nghĩ rằng chiến tranh sẽ chấm dứt đúng vào ngày 13 hôm đó (19).

Nhiều người tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên vì trí nhớ mà Chúa đã đoái thương ban cho con. Vâng, về vấn đề này thì nhờ Chúa vô cùng nhân hậu, quả con đã được ưu đãi về mọi khía cạnh. Điều này kể ra thì không lạ gì vì chỗ nào có liên hệ đến những vấn đề siêu nhiên thì nó được in sâu vào trí não một cách gần như không thể quên được. Ít nhất là ý nghĩa những điều được cho biết thì không bao giờ quên được trừ phi khi nào Thiên Chúa muốn cho ngưòi ta quên điều này đi mà thôi.

III. NHỚ THÊM VÀI ĐIỀU NỮA VỀ JACINTA

Một sự lành bệnh tuyệt diệu

Ngoài ra, linh mục tiến sĩ Galamba cũng yêu cầu con viết ra những ân huệ Chúa ban qua lời cầu xin của Jacinta. Con đã suy nghĩ về vấn đề này và chỉ có thể nhớ được hai trường hợp thôi.

Trong bản báo cáo thứ hai về Jacinta con có nói đến Senhora Emilia. Lần đầu tiên bà tốt bụng này đem con đến nhà Cha Sở Olival thì Jacinta cũng đến đó với con. Khi chúng con tới làng của góa phụ này thì trời đã tối. Mặc dầu vậy, tin chúng con đến đó cũng được loan ra mau chóng và nhà của Senhora Emilia liền bị một đám đông vây quanh. Tất cả mọi người đều muốn gặp chúng con, hỏi chuyện, và cầu xin ơn huệ, vân vân.

Có một bà rất sùng đạo ở một làng gần đó vẫn có thói quen đọc kinh Mân Côi tại nhà cùng với bất cứ bà con hàng xóm nào muốn đến đọc chung với bà. Vì vậy bà yêu cầu chúng con đến đọc kinh Mân Côi tại nhà bà. Chúng con tìm cách từ chối lấy cớ rằng chúng con phải đọc kinh với Senhora Emilia, nhưng bà ấy nài nỉ quá nên không có cách nào khác hơn là phải chiều ý bà. Khi dân làng biết được chúng con sẽ đến đó, thì họ ùn ùn kéo đến nhà bà tốt bụng này với hy vọng kiếm được một chỗ tốt. Điều này có vẻ giúp chúng con di chuyển dễ dàng đôi chút vì đường xá lúc đó tương đối trống trải.

Dọc đường có một chị trạc độ 20 tuổi ra gặp chúng con. Chị qùy xuống và khẩn khoản chúng con vào nhà chị và đọc ít nhất một kinh Kính Mừng cầu xin cho cha chị phục hồi sức khỏe vì đã ba năm liền cha chị không nghỉ ngơi được dù chỉ một chút vì ông bị chứng nấc cụt hành hạ không ngừng. Trong những trường hợp như vậy, thì không thể nào cưỡng lại được. Thấy tội nghiệp, con liền đỡ cho chị đứng lên. Vì đêm đã khuya và chúng con phải dò đường bằng ánh sáng đèn dầu nên con bảo Jacinta ở lại đó, để con đi tiếp đọc kinh Mân Côi cùng với những người kia. Con hứa sẽ trở lại đón em trên đường về. Em đồng ý. Khi con quay về thì con cũng vào nhà đó. Con thấy Jacinta đang ngồi trên một chiếc ghế hướng về một người đàn ông cũng ngồi trên một chiếc ghế. Ông ta không già lắm nhưng trông hết sức gầy yếu, và ông đang khóc vì xúc động. Có một vài người đứng cạnh ông, và con nghĩ đó là bà con của gia đình này chăng. Khi thấy con đến, Jacinta đứng dậy, chào từ giã và hứa sẽ không bao giờ quên cầu nguyện cho ông. Rồi chúng con trở về. nhà Senhora Emilia.

Sáng sớm hôm sau chúng con đi Olival và chỉ trở về sau ba ngày. Khi về đến nhà Senhora Emilia, chúng con thấy chị hôm nọ mặt mày hớn hở cùng với cha chị. Hôm nay trông ông khá hơn nhiều và đã mất hết những nét hồi hộp mệt nhọc và quá đuối sức. Họ đến cám ơn chúng con vì ơn lành họ đã nhận được, và họ nói là ông không còn bị khổ sở vì chứng nấc cụt nữa.

Người con hoang đàng

Ân sủng thứ hai do một người cô của con nhận được, đó là cô Vitoria. Bà đã có gia đình và cư ngụ tại Fatima. Cô có một người con trai đúng là một đứa con hoang đàng. Con không biết vì lý do gì mà anh này bỏ nhà ra đi và không ai biết chuyện gì đã xảy ra cho anh ta. Trong cơn túng quẫn, một hôm cô con đến Aljustrel để yêu cầu con cầu xin Đức Bà cho người con này. Vì không tìm thấy con nên cô xin Jacinta làm việc này, và em hứa sẽ cầu nguyện cho anh ta. Ít hôm sau, anh này bỗng về nhà, xin lỗi cha mẹ và đến Aljustrel để kể lại câu chuyện của anh.

Anh ta kể rằng sau khi xài hết tiền anh đã đánh cắp của cha mẹ rồi thì anh lang thang đó đây một thời gian khá lâu như một tay giang hồ hảo hán cho đến khi anh ta bị bỏ tù ở Torres Novas vì lý do gì con không còn nhớ nữa. Sau một thời gian bị giam, một đêm nọ anh ta trốn thoát được và đến trú ẩn tại một khu đồi xa vắng giữa những đám thông xa lạ. Khi nhận thấy mình hoàn toàn lạc đường, phần thì sợ bị bắt lại, phần thì sợ cơn bão trong đêm đen anh ta thấy chỉ còn có một lối thoát duy nhất là đọc kinh. Quỳ xuống đất anh ta bắt đầu cầu nguyện. Anh quả quyết rằng sau vài phút thì anh thấy Jacinta đến, nắm tay và dắt anh ta ra ngoài trục lộ hướng từ Alqueidão đến Reguengo, rồi ra dấu bảo anh ta đi theo hướng đó. Khi trời sáng, anh ta thấy mình đang đi trên đường về Boleiros. Nhận ra được chỗ đó anh ta hết sức xúc động và đi thẳng về nhà bố mẹ anh.

Điều anh ta khai là Jacinta đã hiện ra với anh, và rõ ràng anh đã nhận được em ngay. Con hỏi Jacinta có phải em đã ra đó để hướng dẫn anh ta không, thì em trả lời là không, rằng em có biết tí gì về những lùm cây thông và khu đồi vắng mà anh ta lạc vào đó đâu.

"Em chỉ cầu xin và nài nỉ Đức Mẹ cho anh ấy bởi vì em thấy thương cô Vitoria quá đi." Em trả lời con như vậy.

Vậy sao lại có chuyện này? Con không biết. Chỉ có Chúa biết mà thôi.

IV. GHI CHÚ VỀ CUỐN SÁCH CỦA CHA FONSECA

LỜI NÓI ĐẦU

Thưa Đức Cha, giờ đây là lúc bình luận về cuốn sách nhan đề "Đức Mẹ Fatima" của Cha Luis Gonzagua Aires de Fonseca, dòng Tên.(20)

Linh mục tiến sĩ Gambala bảo con ghi chú những điều nào con thấy không hoàn toàn chính xác trong sách. Con chỉ tìm thấy một vài chi tiết nhỏ nhặt không đáng nêu lên. Nhưng vì có vấn đề là ngài sẽ viết một quyển sách khác, và theo ý Đức Cha, con sẽ ghi những điều ấy ra đây để tránh khỏi bị nhắc lại.

Chú giải

Trong Chương 11, trang 18, viết: "Một mảnh đất nhỏ không trồng trọt." Hoàn toàn không trồng trọt thì không đúng. Trên đồi Cova da Iria chúng con trồng bắp, khoai tây, đậu, lúa mì, v.v. – bất cứ thứ gì gieo trong thời gian đó. Trên sườn đồi, đặc biệt chỗ hướng về đường cái, có một số cây sồi và ô-liu mà chúng con hái hạt dẻ và trái ô-liu.

Chương 11, tr. 19, viết: "Chúng nhìn về hướng tay phải, v.v." Không phải vậy. Trong trường hợp này, phải nói là chúng con nhìn về phía bên trái, hoặc ngó thẳng trước mặt. Sườn đồi dốc thẳng đến chỗ chúng con đang chơi đùa chi chít những đường mòn và hố rãnh chỉ chừa lại có một lối đi duy nhất. Nhìn lên thì tận mép ngoài cùng bên tay trái, dọc theo đường mòn và hố rãnh này có nhiều hàng cây sồi vừa lớn vừa nhỏ mọc vô trật tự, hợp cùng với các bụi cây dại tạo ra một khu rậm rạp khó lòng xuyên qua. Nếu men theo đường mòn đi xuống dốc phía dưới chúng con đến chỗ cây sồi lớn, thì cây sồi nhỏ nằm ở phía bên trái chúng con.

Xa hơn một chút, trong cùng một đoạn văn, có nói rằng tia chớp thứ hai khiến chúng con đứng chết trân tại chỗ chúng con vừa tới. Điều này cũng không đúng. Chúng con thấy tia chớp khi đã xuống tới lưng chừng đồi, khoảng cách từ chỗ Hiện Ra cho tới đỉnh đồi, ngay trước khi chúng con tới chỗ cây sồi lớn (21). Chúng con tiếp tục đi cho đến lúc chúng con giáp mặt với Đức Bà đứng trên cây sồi nhỏ.

Cũng trên tr. 19 này, có nói: "Ngạc nhiên, chúng muốn chạy trốn." Điều này cũng không đúng. Con nghĩ là con đã giải thích điều này trong một bản báo cáo khác rồi. Ngay khi trông thấy Đức Mẹ, chúng con không hề nghĩ đến việc bỏ chạy. Đức Mẹ không gây sợ hãi, mà chỉ gây ngạc nhiên bình an và vui mừng thôi. Khi con nói rằng chúng con sợ, là con muốn ám chỉ đến cái sợ cơn bão sắp tới, và đó cũng là lý do chúng con phải bỏ chạy. Con nghĩ rằng khi Đức Mẹ bảo chúng con đừng sợ, thì Mẹ muốn trấn an chúng con đừng sợ cơn bão mà chúng con cho rằng sắp đến, vì chúng con đã quen thấy sét đánh khi trời có bão. Vì dốt nát nên chúng con chưa phân biệt được tia chớp với sét đánh.

Chương 11, tr. 20, viết: "Gần như dài bằng chiếc áo dài." Con nghĩ chữ "gần như" nên bỏ đi vì hai thứ cùng một chiều dài như nhau.

Cũng chương 11, tr. 21, nói: "Bà đến đây làm gì?" Con không nhớ đã đặt câu hỏi này.

Chương 11, tr. 29, viết: "Rồi Bà nói cho chúng một điều bí mật và cấm ngặt chúng không được tiết lộ." Như con đã nói trên trong bản tường trình về những lần Hiện Ra, riêng trong tháng này chính chúng con muốn giữ kín chuyện tia chớp và ảnh hưởng của tia chớp đối với chúng con. Mãi đến tháng kế đó thì Đức Mẹ mới buộc chúng con phải giữ kín Bí Mật.

Trong bài tường trình về các lần Hiện Ra mà tác giả này viết ra đây, có một số chi tiết nhỏ mà con cảm thấy không cần phải nêu lên, vì con đã viết lại mọi sự đúng hệt như đã xảy ra. Vả lại, một số những chi tiết này đều do cách diễn tả của chính tác giả mà ra.

Chương V, trang 45 nói rằng: "Khóc vì sợ hãi." Jacinta khóc trong nhà giam bởi vì em nhớ mẹ và gia đình chứ không phải em khóc trong lúc bị thẩm vấn.

Chương V, trang 46, viết: "Đứa bé trai đi theo em, khóc lóc." Em này đã không khóc.

Chương V, trang 47, nói: "Chúng ra đi và chạy lên đồi Cova da Iria." Chúng con chỉ đi lên đồi Cova da Iria vài ngày sau lần Hiện Ra ở Valinhos."

Chương VII, tr. 60 viết: "Áo viền chỉ vàng." Áo không có viền hàng chỉ nào hết. Khi Phanxicô nói vậy, có lẽ em muốn nói đến ánh sáng lung linh chung quanh áo."

Chương VII, trang 64, viết: "Đôi bông tai nhỏ." Con không thấy bông tai nào cả. Con chỉ nhớ một sợi dây vàng nhỏ giống như một tia sáng mặt trời trông có vẻ như được viền chung quanh áo choàng của Đức Mẹ. Đó là ánh sáng phản chiếu trong khoảng cách của áo choàng trùm từ đầu chạy xuống ngang vai, lung linh di động trong ánh sáng bao bọc chung quanh thân mình Đức Mẹ, khiến đôi khi gây cảm tưởng như là những bông tai nhỏ. Có lẽ con muốn ám chỉ điều này khi trả lời như vậy.

Chương VII, trang 66, viết những lời này: "Con không thể ít nhất nói cho Cha giải tội được sao? Em có vẻ hơi bối rối và giữ im lặng." Lúc đó con phân vân không biết phải trả lời ra sao, bởi vì con đã giữ lại một số diều bí mật mà con không bị cấm không cho tiết lộ. Nhưng cám ơn Chúa đã soi sáng cho vị thẩm vấn của con tiếp tục cuộc điều tra. Con còn nhớ cảm giác dễ thở nhẹ nhõm trở lại.

Chương VII, trang 73, viết: " Con tuân lệnh của Đức Mẹ như vậy sao?" Con giữ im lặng vì không muốn đổ tội cho mẹ con, vì lúc đó mẹ chưa cho phép con đi học. ở nhà mọi người cho rằng con muốn học đọc chỉ vì muốn khoe khoang mà thôi. Thời đó, rất hiếm thấy trẻ gái đi học. Trường học chỉ dành cho con trai. Mãi sau này Fatima mới có một trường học cho con gái.

CUỘC THẨM VẤN CỦA TÁC GIẢ

ANTERO DE FIGUEIREDO

Chương XIII, trang 158, viết: "Mẹ Bề Trên Monfalim đã có mặt trong tất cả các buổi tác giả phỏng vấn chị nữ tu Dores." Điều này không đúng. Chỉ có con gái của Tiến sĩ Antero de Figueiredo, người đi theo ông, là luôn luôn hiện diện ở đó. Mẹ Monfalin là Bề Trên Tỉnh dòng của con lúc đó đang ở thành Tuy. Từ đó, Mẹ đã viết cho con một lá thư không niêm phong và đã được Tiến sĩ Antero de Figueiredo mang tới Pontevedra, là chỗ con đang ở. Cuộc thẩm vấn cũng đã diễn ra tại đây. Đó là một trong những cuộc thẩm vấn khó khăn nhất mà Chúa đã cho con phải trải qua. (22)

Trong lá thư này, Mẹ Bề Trên tỉnh dòng đã chỉ thị cho con phải trả lời thành khẩn, đúng sự thật và đơn sơ tất cả những gì mà Tiến sĩ Antero de Figueiredo muốn đặt ra cho con. Mẹ yêu cầu con hãy dâng việc này lên cho Chúa trong tinh thần vâng lời.

Tác giả đã đọc thư này trước khi trao cho con. Chỉ thị vì đức vâng lời, con phải thật lòng trả lời mọi câu hỏi của ông làm ông rất hài lòng; vì thế ông đã nghĩ rằng ông có thể hỏi con bất cứ câu hỏi nào mà ông có thể nghĩ ra được. Tuy vậy hình như vẫn chưa đủ, ông còn có cô con gái bên cạnh để giúp ông hỏi thêm những câu khác.

Về phần con, con không phải tối dạ đến độ không biết ý định của ông muốn đưa cuộc thẩm vấn này đi tới tận đâu. Con đã tự hỏi rằng những điều bí mật thầm kín mà con vẫn giữ được cho đến lúc đó, có nên nói ra cho một người tầm thường biết không. Hình như ông ta không có một chút kiến thức nào về đời sống tâm linh, và còn không hiểu cả đến những điều tối thiểu cho một đời sống Kitô hữu nữa. Để tránh những phán đoán sai lầm và để biết chắc tình thế đang ở chỗ nào, con đã cố gắng trả lời một cách rõ ràng để cho chính ông cũng phải công nhận sự thật. Quả vậy, ông đã rất xúc động và thú nhận nhiều lần, nước mắt chảy dài trên má, về những thời kỳ đen tối trong cuộc đời đáng buồn của ông. Sau đó, con đã hối hận vì đã tạo cơ hội cho (ông nói) những lời thú tội buồn phiền này, nhưng lúc đó thì đã quá trễ rồi. Thay vì xin ông đừng nói những điều mà con không hiểu hoặc chỉ biết rất ít, thì con lại chịu đựng ngồi yên để lắng nghe tất cả khi con thấy ông đang ở trong một trạng thái quá xúc động mà không thể ngừng lại được.

Trong lúc đó, con suy nghĩ rằng: "Con có nên tiết lộ những bí mật thầm kín của con cho ông này nghe không? Không thể nào được! Nhưng còn đức vâng lời thì sao? Con không biết!" Mẹ Bề Trên sở tại đã được lệnh phải có mặt trong cuộc thẩm vấn này, nhưng vì không muốn chịu trách nhiệm, nên Mẹ đã viện lý do là không có giờ rảnh để rút lui. Con liền xin phép đi ra ngoài và tới gặp Mẹ Bề Trên để trình bày sự nghi ngờ của mình và xin Mẹ hướng dẫn. Mẹ Bề Trên trả lời là theo như lệnh của Mẹ Bề Trên tỉnh dòng, thì Mẹ không biết phải hướng dẫn con như thế nào. Con liền xin phép để được nói chuyện với Cha linh hướng, nhưng ngài đã không có mặt ở đó và không ai biết khi nào ngài sẽ trở lại. Con liền đi vào nhà nguyện. Tại đây, con đã dâng một lời cầu nguyện ngắn lên Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể và lên Đức Mẹ, rồi con trở về phòng khách. Cuộc thẩm vấn lại tiếp diễn, và đây là một loại thẩm vấn như muốn rút tiả ra tất cả những điều con đã dấu kỹ trong tâm hồn. Nhưng khi nghĩ tới việc phải tiết lộ tất cả thì sự mâu thuẫn trong con lại càng gia tăng, và sự giằng co giữa sự nghi ngờ này cùng với sự phải vâng lời càng lúc càng cảm thấy mạnh mẽ hơn. Con liền khám phá ra rằng ông này đang tìm cách hiểu con thấu đáo hơn.

Ngày thứ nhất và thứ hai qua đi, chúng con bước vào ngày thứ ba, và con càng ngày càng thêm bối rối. Vào buổi chiều ngày thứ ba, hình như Chúa muốn ban cho con một tia ánh sáng của Ngài. Đang lúc ở trong phòng khách, con nghe trong hành lang giọng nói của một linh mục dòng Tên mà con biết hồi ở thành Tuy, đó là Linh Mục Tiến Sĩ Herrera. Không để lỡ cơ hội, con xin phép ra ngoài một chút. Ngay lúc đó, con không muốn gì hơn là được Cha hướng dẫn cho biết con phải vâng lời tới mức nào trong việc thổ lộ tâm can. Nhưng Thiên Chúa lại muốn con hy sinh! Vì chính Ngài đã chẳng phải chịu cảnh cô đơn trong vườn Cây Dầu sao? Và không phải chính Ngài cũng đang chịu cảnh cô đơn trong rất nhiều Nhà Tạm bị bỏ phế hay sao? Chúng ta phải ở bên cạnh Ngài không phải chỉ trong lúc bẻ bánh nhưng cả trong lúc uống chén đắng nữa.

Chắc là do sự an bài này của Đấng Tối Cao nên Mẹ Bề Trên đã từ chối không cho phép con nói chuyện với vị linh mục dòng Tên khả kính. Với trái tim nặng chĩu hơn trước, con trở lại phòng khách. Cuộc thẩm vấn lại tiếp tục, càng lúc càng chi tiết hơn. Ngày thứ tư đến, còn đen tối hơn ba ngày trước nữa. Trong cộng đoàn lúc đó đã có nhiều sự bất bình rồi. Bao nhiêu việc phải làm trong nhà, trong khi con chẳng làm gì cả! Như các chị có thể thấy đó, con đang hưởng những giây phút thoải mái trong phòng khách, vì vậy nên không muốn tìm cách kết thúc sớm cuộc thẩm vấn này. Mẹ Bề Trên cũng tỏ thái độ không bằng lòng. Phải chi mọi người có thể nhìn được tâm hồn con lúc đó? Lạy Chúa, nếu mọi người có thể thấy được điều con ước muốn, và nếu con được quyền lựa chọn, thì con sẽ chọn lấy cây chổi để quét dọn nhà cửa hơn là ngồi trên ghế nệm êm như mọi người đang thấy! Nhưng chúng ta không nên để hơi thở của tạo vật làm lu mờ tấm gương đang trong sáng trước mặt Thiên Chúa. Con phải thú thật rằng, nếu không vì chữ "Vâng lời" mà Mẹ Bề Trên Tỉnh Dòng đã viết trong thư, thì người thẩm vấn có lẽ đã phải trở về nhà tay không ngay trong buổi đầu tiên với những chuỗi câu hỏi mà ông đã đem tới, giống như đã xảy ra năm trước đó.

"Mình phải làm gì bây giờ?" Con tự hỏi như vậy mà không biết phải quyết định ra sao. Cuộc phỏng vấn có vẻ như còn lâu lắm mới kết thúc. Cảm tạ ơn Chúa, vì con được biết có một người đáng tin cậy sắp đi thành Tuy ngay chiều hôm đó. Con liền lẹ làng viết lên giấy điều khó khăn con đang gặp và gởi cho Mẹ Bề Trên tỉnh dòng, van xin mẹ trả lời gấp bằng điện thoại cho con được rõ. Chín giờ sáng hôm sau, Mẹ Lemos, Bề trên tập viện đã thay mặt Mẹ Bề Trên Tỉnh dòng gọi điện thoại trả lời cho con.

"Con có thể giữ im lăng về tất cả những điều mà con không muốn tiết lộ." Mẹ trả lời như thế. "Đừng đuổi vị thẩm vấn đi, nhưng hãy cố gắng trả lời cho ông ta vừa ý, mặc cho nó kéo dài bao lâu cũng được."

Tốt lắm! Với sức mạnh của câu trả lời này, con đã bắt đầu ngày thứ năm, tâm trí không còn u ám nữa. Tại sao lại phải lo lắng về những sự giằng co từ bên ngoài do ma quỷ gây ra, trong khi nội tâm con đã biết chắc chắn rằng mình đang làm theo thánh ý Chúa qua đức vâng lời? Cuộc thẩm vấn kéo dài thêm vài ngày nữa. Vào ngày chót, con đã làm theo sự hướng dẫn của Cha linh hướng vừa mới trở về đúng hôm đó, và cương quyết nói cho ông thẩm vấn biết rằng ông hoàn toàn không được xuất bản hoặc phổ biến bất cứ điều gì con đã nói với ông, nếu ông không được phép của Đức Cha và của Mẹ Bề Trên tỉnh dòng. Ông ta tỏ ý không bằng lòng về điều này và đã tìm mọi cách để thuyết phục con hủy bỏ lời tuyên bố này. Con thấy rằng con buộc lòng phải cương quyết giữ vững lập trường. Tuy nhiên, nhờ sức mạnh tăng cường của Đức Chúa Thánh Thần nên con đã đứng vững được tới cùng.

Kính thưa Đức Cha, bây giờ thì Đức Cha đã được biết rõ những gì đã xảy ra trong cuộc thẩm vấn của Tiến sĩ Antero de Figueiredo. Như Đức Cha thấy đó, trong thời gian này con cảm nhận rất rõ là chỉ có một mình Chúa ở bên con trong lúc đó thôi.

Trong các buổi thẩm vấn, một vấn đề khác cũng khiến con phải nghi ngờ không ít, đó là đã không có chỉ thị nào của Đức Cha. Điều này đã khiến con tự hỏi: "Mẹ Bề Trên tỉnh dòng có được phép của Đức Cha khi ra lệnh này cho con không? Đức Cha có bằng lòng để con bị thẩm vấn như vậy mà không có phép của ngài không? Và còn lệnh Đức Cha đã truyền cho con là không được nói về những điều này, thì con phải tính sao đây?" Cũng chính vì những nghi ngờ này mà con đã viết lại đầy đủ tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc thẩm vấn này để trình lên Đức Cha. Thiên Chúa nhân lành đã vui lòng trong việc cho phép con không nhận được thư trả lời, và chính vì thế, con xin phó thác tất cả câu chuyện này trong tay Chúa.

Những Chú Giải Sau Cùng

Chương VII, trang 77, viết như sau: "Mấy đứa bé chăn chiên đã tới, y phục đẹp hơn bình thường. Hai bé gái mặc áo màu xanh da trời, đầu đội khăn trắng với vòng hoa v.v..." Con nghĩ điều này không đúng. Theo con nhớ thì có một bà sang trọng đã tới và muốn chưng diện cho chúng con như thế, nhưng chúng con từ chối. Điều con nhớ rất rõ là hôm đó con trở về nhà không còn mấy bím tóc dài đến tận ngang lưng nữa. Mẹ con càng khó chịu hơn khi thấy tóc của con còn ít hơn cả của Phanxicô nữa. Ai đã hớt tóc bím của con? Con không biết. Bị xô dẩy giữa một đám đông như thế, thì thiếu gì dao kéo hoặc những bàn tay trộm cắp. Cho dù không bị ăn cắp thì con cũng có thể đánh mất khăn đội đầu một cách dễ dàng. Thật thế, trong hai tháng trước, con đã bị xén mất khá nhiều bím tóc! Có cái gì là của con đâu, vậy chuyện này ăn nhằm gì! Mọi sự là của Chúa! Xin Chúa làm theo như ý Ngài muốn.

Chương IX, trang 87, nói: "Liệu Đức Mẹ có còn hiện ra nữa không? Con nghĩ là không", v.v. Con ám chỉ những lần Hiện Ra ngày 13 theo như hình thức đã xảy ra trong mấy tháng trước. Con đã hiểu câu hỏi theo ý nghĩa đó. (23)

Cũng có một câu hỏi khác mà người ta thường hay hỏi, nhưng con không trả lời ngoài việc giữ im lặng hoặc chỉ mỉm cười. Tiến sĩ Antero de Figueiredo đã hỏi câu này vài lần, nhưng con đã trả lời rất ngắn gọn. Ông ta hoàn toàn không hiểu được thái độ này của con, và đó cũng là điều con mong muốn.

Hầu hết những người đã tra hỏi con đều cảm kích về sự kiện là ngay cả khi bị thẩm vấn, con luôn luôn nhìn xuống và tập trung tư tưởng đến nỗi có vẻ như không để ý gì đến câu hỏi đang được nêu ra. Có khi họ còn lập lại câu hỏi làm như con không nghe thấy. Con đã nói với Tiến sĩ Antero de Figueiredo rằng con đang tưởng nhớ lại những điều đã xảy ra liên quan tới câu hỏi của ông, và quả thật là như vậy. Nhưng động lực chính nằm sau những hành động này là con đang tìm kiếm từ đáy lương tâm với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần để xem có cách nào trả lời đúng sự thật nhưng lại không tiết lộ bí mật.

V. SỰ THÁNH THIỆN NỔI TIẾNG CỦA JACINTA

Câu Hỏi Cuối Cùng

Còn lại một câu nữa Tiến sĩ Galamba đã hỏi mà con phải trả lời, đó là: "Người ta đã cảm thấy thế nào khi đứng trước mặt Jacinta?" Câu trả lời không dễ dàng gì, vì thông thường con không biết lòng dạ người ta, vì thế con không biết họ nghĩ gì. Như vậy có nghĩa là con chỉ có thể nói được tâm trạng của con, và tả lại những dấu chỉ bề ngoài của người khác thôi.

Jacinta, Phản ảnh Của Thiên Chúa

Điều mà con cảm thấy cũng rất giống như người khác cảm thấy khi đứng trước một con người thánh thiện luôn luôn mật thiết hiệp thông với Thiên Chúa. Thái độ của Jacinta luôn luôn nghiêm trang và dè dặt nhưng rất thân thiện. Mọi hành động của em luôn luôn phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa mà chỉ người lớn tuổi và đạo hạnh cao mới có. Con không bao giờ thấy em lộ vẻ bồng bột mê chơi quá đáng hoặc thích đồ đẹp, một đặc tính thông thường của trẻ nhỏ. Tất nhiên điều này chỉ đúng sau khi Đức Mẹ Hiện Ra mà thôi; trước đó, em là hiện thân của hăng say và bồng bột! Con không thể nói rằng các trẻ em khác thích chơi với em hơn là chơi với con. Điều này có lẽ là vì em không thuộc nhiều bài hát hoặc biết nhiều câu chuyện để dạy và giúp vui cho chúng, hoặc giả cũng có thể là vì thái độ nghiêm trang vượt quá lứa tuổi của em chăng.

Nếu trước mặt em có một đứa trẻ nào, hoặc ngay cả người lớn, mà nói hoặc làm một điều gì không phải thì em khiển trách ngay:

"Đừng làm vậy, vì em (anh, chị...) đang xúc phạm đến Chúa, vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều rồi!"

Nếu đôi khi đứa trẻ hoặc người lớn nào cãi lại và gọi em là "cô Maria ngoan đạo" hoặc là "bức thánh tượng bằng thạch cao", hoặc đại khái như vậy, thì em nghiêm nghị nhìn họ và bỏ đi không nói một lời. Có lẽ vì lý do này mà em đã không được ưa thích lắm. Nếu có mặt con cùng lúc với em, thì ngay lập tức một đám trẻ con liền bu lại chung quanh; nhưng nếu con đi khỏi, thì em lại bị đứng một mình. Khi con ở cùng với em, thì các trẻ khác cũng thích chơi với em. Chúng ôm hôn em với sự hồn nhiên của trẻ thơ. Các em rất thich hát và chơi với em, đôi khi chúng còn nhờ con đi tìm dùm em khi em không tới chơi. Nếu Jacinta nói rằng em không muốn tới vì các em hư lắm, thì các trẻ nhỏ này liền hứa là sẽ ngoan ngoãn nếu em chịu ra chơi trở lại:

"Chị đi tìm Jacinta đi, và nói rằng chúng em hứa sẽ ngoan nếu Jacinta tới."

Khi con đến thăm lúc em bị bệnh, con thường thấy có một đám đông trẻ em chờ ngoài cửa với hy vọng sẽ được cùng vào gặp em với con. Các em này không dám vào vì hình như chúng biết tôn trọng em. Đôi lần trước khi ra về, con hỏi em:

"Jacinta này, em có muốn chị nói một vài đứa ở lại đây với em không?"

"Ồ, có chứ. Nhưng em chỉ muốn những đứa nào nhỏ hơn em thôi."

Thế là các em liền tranh nhau và nói : "Em sẽ ở lại, em sẽ ở lại!" Sau đó, Jacinta tiêu khiển với các em bằng cách dạy chúng đọc kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, cách làm dấu thánh giá và học hát. Ngồi trên giường em, hoặc khi Jacinta khỏe đôi chút, thì ngồi trên sàn của phòng khách, các em chơi trò "sỏi đá", dùng các hột dẻ, hột đậu, trái vả khô, v.v... những thứ mà cô con rất sung sướng đem cho chúng, để con cô được thoải mái vui chơi cùng đám nhỏ.

Em lần chuỗi Mân Côi với chúng, khuyên các em không được phạm tội, và phải tránh xúc phạm đến Thiên Chúa để khỏi phải xuống hỏa ngục. Có nhiều em chơi ở đó nguyên cả buổi sáng lẫn buổi chiều với Jacinta, và cảm thấy rất thích thú được ở cạnh em. Nhưng khi các em đã ra về rồi thì lại không dám tự tin trở lại hồn nhiên như thường thấy nơi trẻ nhỏ. Có khi các em đi tìm con để con dẫn vào, hoặc là đứng đợi ngoài cửa cho tới lúc cô con hoặc đích thân Jacinta ra mời chúng vào chơi. Các em có vẻ thích Jacinta hoặc thích ở bên em, nhưng cảm thấy bị cản lại không dám đến gần vì nhút nhát hoặc vì một sự tôn trọng nào đó.

Jacinta, Tấm Gương Nhân Đức

Người lớn cũng thường đến thăm em. Họ tỏ ra rất cảm phục tư cách của em lúc nào cũng bình thản, nghĩa là luôn luôn kiên nhẫn và không bao giờ đòi hỏi hoặc than trách bất cứ điều gì. Mẹ đặt em nằm trên giường thế nào thì em vẫn nằm yên như vậy. Nếu ai hỏi em có cảm thấy khỏe hơn không, thì em trả lời là: "Con thấy cũng vậy thôi," hoặc là "con cảm thấy yếu hơn, cám ơn cô, bác...nhiều." Không khí bao quanh em mang một vẻ buồn buồn khi em nằm yên lặng trước mặt các khách đến thăm. Họ ngồi bên cạnh giường em hàng giờ, thấy họ có vẻ rất hạnh phúc khi ở bên em. Cũng tại nơi giường bịnh này mà Jacinta đã phải trải qua những cuộc thẩm vấn chi tiết và mệt mỏi. Em không bao giờ tỏ dấu nóng nảy hoặc khó chịu, nhưng chỉ mãi sau này em mới nói với con:

"Phải nghe những người đó nói, em nhức đầu kinh khủng! Bây giờ thì em không còn chạy trốn được nữa, nên em càng có nhiều hy sinh loại này để dâng lên Chúa."

Hàng xóm đôi khi mang theo vải vóc tới và ngồi khâu vá ngay bên cạnh giường bệnh của em.

"Tôi sẽ làm việc một lúc bên cạnh Jacinta," họ thường nói vậy; "tôi không biết em có điều gì khiến tôi cảm thấy rất dễ chịu khi được ở bên cạnh em."

Họ cũng đem con nhỏ của họ theo. Các em bé này chơi đùa với Jacinta, và vì thế mẹ của chúng được rảnh tay ngồi khâu vá.

Khi có ai hỏi gì thì em trả lời rất thân thiện nhưng ngắn gọn. Nếu họ có nói điều gì không tốt, em liền nói rằng:

"Đừng nói như vậy; vì làm thế là mất lòng Chúa."

Nếu họ nói về những điều không tốt trong gia đình của họ, em liền khuyên:

"Đừng để cho trẻ nhỏ phạm tội vì chúng có thể phải xuống hỏa ngục."

Nếu chuyện gì có liên quan đến người lớn thì em nói:

"Hãy nói với họ đừng làm như vậy nữa vì đó là tội lỗi. Họ xúc phạm đến Thiên Chúa và sau này họ có thể bị kết án."

Những người từ xa đến thăm em, có thể vì tò mò hoặc vì lòng đạo đức, hình như cũng cảm thấy có điều gì siêu nhiên nơi Jacinta. Những khi họ tới nhà để nói chuyện với con, họ cũng nói lên cảm tưởng này:

"Chúng tôi mới nói chuyện với Jacinta và Phanxicô; khi ở với hai em chúng tôi cảm thấy như có một cái gì siêu nhiên nơi hai em."

Đôi khi họ còn đi xa hơn và muốn con giải thích lý do tại sao họ đã cảm thấy như thế. Vì con không biết, con chỉ nhún vai và không nói gì. Con đã thường nghe người ta bàn luận về điều này.

Một hôm, có hai linh mục và một ông ăn mặc lịch sự đến nhà con. Trong lúc mẹ con mở cửa mời họ vào nhà, con liền leo lên gác trốn. Sau khi mời họ vào rồi, mẹ con liền ra ngoài để gọi con vì bà vừa thấy con ở đó. Khi không thấy con, mẹ tiếp tục đi tìm. Trong lúc đó, mấy vị tốt bụng bàn luận về vấn đề này:

"Đợi xem con nhỏ này nói thế nào."

Ông ăn mặc sang trọng nói: "Điều làm tôi cảm kích là sự ngây thơ và thành thật của Jacinta và của anh nó. Nếu con nhỏ này cũng không nói ngược lại, thì tôi sẽ tin. Tôi không biết phải nói điều tôi cảm nhận khi ở trước mặt hai đứa bé này là cái gì!"

Một trong hai vị linh mục nói: "Nó giống như ta cảm thấy một không khí siêu nhiên khi ở bên cạnh các em này."

"Khi nói chuyện với hai đứa bé này tôi thấy lòng mình bình an."

Mẹ con không tìm thấy con nên các vị này đành chịu ra về mà không có cơ hội nói chuyện với con.

Mẹ con nói "Đôi khi, nó đi chơi với mấy đứa khác, và khó lòng mà tìm thấy nó."

"Đáng tiếc! Chúng tôi rất thích khi được nói chuyện với hai đứa kia, vì thế chúng tôi cũng muốn nói chuyện với con của bà; nhưng thôi, chúng tôi sẽ trở lại vào một dịp khác."

Một Chúa Nhật nọ, các bạn con là Maria, Rosa, Ana Caetano, Maria và Ana Brogueira từ Moita đến, và sau lễ đã xin phép mẹ cho con được đi chơi với chúng một ngày. Khi mẹ con đồng ý, họ liền bảo con rủ Jacinta và Phanxicô cùng đi. Con xin phép cô con và cô cũng bằng lòng. Vì thế, cả ba chúng con cùng đi tới Moita. Sau bữa ăn chiều, Jacinta buồn ngủ quá nên em bắt đầu ngủ gật. Ông José Alves liền bảo một đứa cháu gái của ông đem em vô giường nằm. Chỉ chốc lát là em đã ngủ say. Dân làng bắt đầu ghé tới thăm chúng con cả buổi chiều. Họ đều mong muốn được gặp Jacinta nên họ lén nhìn vào xem em đã thức chưa. Họ rất thán phục khi thấy rằng mặc dù đang ngủ say, môi em vẫn điểm nụ cười, với khuôn mặt thiên thần và đôi tay nhỏ bé chắp lại hướng lên trời. Chẳng mấy chốc, căn phòng đã chật ních những người tò mò. Ai cũng muốn được thấy em, nhưng mấy người đang ở bên trong thì lại không muốn đi ra để nhường chỗ cho người khác vào. Ông bà José Alves và các cháu của ông đều nói rằng:

"Đúng là một thiên thần."

Như xúc động vì kính sợ, họ quỳ gối bên giường em cho mãi tới khoảng bốn giờ rưỡi, lúc con vào gọi em dậy để lên đồi Cova da Iria lần hạt Mân Côi và còn trở về nhà. Các cháu gái của ông José Alves là những người mang tên dòng họ Caetano mà con đã nêu trên đây.

Phanxicô Thì Khác

Ngược lại với Jacinta, Phanxicô thì khác hẳn. Em rất dễ tính, luôn luôn thân thiện vui vẻ, và chơi đùa với tất cả mọi trẻ em khác không phân biệt tí gì. Em không khiển trách ai. Khi thấy điều gì không phải, em liền bỏ đi chỗ khác. Nếu có ai hỏi tại sao em bỏ đi, thì em trả lời:

"Bởi vì bạn không tốt", hoặc

"Bởi vì tôi không thích chơi nữa."

Khi em bị bệnh, trẻ con hàng xóm ra vào phòng em hết sức tự nhiên, nói chuyện với em qua cửa sổ và hỏi thăm coi em có khỏe hơn không, v.v... Nếu ai hỏi là em có muốn một vài đứa ở lại chơi với em không, thì em thường trả lời là không, vì em thích ở một mình. Đôi khi em nói với con:

"Em chỉ muốn có chị và Jacinta ở đây thôi."

Khi có người lớn đến thăm, thì em giữ im lặng và chỉ trả lời vài câu rất ngắn khi người ta trực tiếp hỏi em mà thôi. Những người đến thăm em, dù là láng giềng hay khách lạ, thường hay ngồi rất lâu cạnh giường bệnh của em và nói rằng:

"Tôi không biết Phanxicô có cái gì, nhưng tôi cảm thấy rất thoải mái khi được ở đây với em!"

Có một số các bà trong làng đã nói như sau với cô và mẹ của con, sau khi đã ở lại một thời gian khá lâu trong phòng của Phanxicô.

"Thật là một điều huyền bí không đo lường được! Các em cũng đều là trẻ con như những đứa khác, chúng không nói chuyện với chúng tôi, vậy mà trước mặt các em, chúng tôi cảm nhận có một cái gì không thể giải thích nổi, và đó là điều làm cho chúng khác với những đứa khác."

"Mỗi khi vào phòng của Phanxicô, chúng tôi cảm thấy như mình vào nhà thờ vậy," bà Romana, hàng xóm của cô con, người đã từng không tin vào việc Đức Mẹ Hiện Ra, đã nói như vậy. Lúc đó có ba bà khác cũng ở trong nhóm này là vợ của các ông Manuel Faustino, José Marto và José Silva.

Con không ngạc nhiên khi mọi người cảm nhận như vậy, bởi vì con đã quen nhìn thấy mọi người chỉ biết quan tâm đến của cải vật chất đi đôi với một đời sống trống rỗng, hời hợt. Vì thế nên chỉ cần nhìn thấy mấy đứa trẻ mà họ tin rằng đã được nói chuyện với Mẹ thiên đàng, thì cũng đủ cho họ nâng tâm ồn lên hướng về Đức Mẹ, về đời sống hằng hữu, vì họ đã thấy chúng bồng bột, vui mừng và hạnh phúc mỗi khi chúng nghĩ rằng chúng sắp đến đó; hướng về Thiên Chúa, vì các em đã nói rằng các em yêu mến Thiên Chúa hơn cả bố mẹ mình; và về cả địa ngục nữa, vì các em đã cảnh cáo rằng họ sẽ phải vào đó nếu họ tiếp tục phạm tội. Nhìn bề ngoài thì các em cũng giống như những đứa trẻ khác. Nhưng nếu những người dân lành này đã từng quen với khía cạnh vật chất của đời sống, mà biết nâng tâm hồn họ lên chỉ một chút thôi, thì họ cũng sẽ nhận ra không khó khăn lắm, là các em này đã được ghi dấu đặc biệt khiến các em khác với những trẻ em khác.

Con vừa nhớ lại một câu chuyện khác có liên hệ tới Phanxicô và con xin kể ra đây.

Có bà tên là Mariana từ Casa Velha đến, một hôm vào phòng của Phanxicô. Bà đang bực mình vì chồng bà vừa mới đuổi người con trai của họ ra khỏi nhà. Bà đến xin cho con bà được ơn trở về làm hòa với bố. Phanxicô đáp lại:

"Bà đừng lo. Cháu sắp được lên thiên đàng rồi và khi lên đó, cháu sẽ xin Đức Mẹ ban ơn đó cho bà."

Con không nhớ rõ mấy ngày sau em mới bay về trời, nhưng con nhớ rằng, buổi chiều cùng ngày Phanxicô qua đời, thì người con trai này đã trở về lần cuối cùng để xin lỗi bố mình, vì những lần trước bố anh đã không chấp nhận vì anh ta đã không chịu tuân theo những điều kiện ông đặt ra. Người con này đã chấp nhận tất cả những điều bố anh đòi hỏi, và bình an một lần nữa lại trở về với gia đinh đó. Chị của người con trai này tên là Leocadia, sau này đã lập gia đình với một người anh của Jacinta và Phanxicô, và đã trở thành mẹ của người cháu gái của hai em, cũng là người mà Đức Cha đã gặp trên đồi Cova da Iria trước khi cô ấy gia nhập dòng Dorotheans.

ĐOẠN KẾT

Kính thưa Đức Cha, con nghĩ rằng con đã viết lại tất cả những điều Đức Cha đã yêu cầu con viết trong lúc này. Từ trước đến giờ, con đã luôn cố gắng giữ kín những khía cạnh thân mật, riêng tư trong những lần Đức Mẹ Hiện Ra trên đồi Cova da Iria. Mỗi khi con bị buộc phải nói về những điều này, thì con chỉ nói sơ qua để cố tránh không phải trình bày những gì con muốn giữ kín. Nhưng giờ đây, con được yêu cầu nói ra vì đức vâng lời, con xin dâng tất cả! Giờ đây con chỉ còn là một bộ xương khô đã bị tước đoạt tất cả, ngay cả đến sự sống của nó, để đem trưng bày tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia hầu nhắc nhở cho du khách thấy rõ tính chất khốn khổ và hư vô của mọi sự chóng qua trên trần thế. Bị tước đoạt hết, con sẽ vào nằm trong Viện bảo tàng thế giới để nhắc nhở cho những ai qua đó, không phải cái khốn khổ hay hư vô, mà là Lòng Thương Xót cao cả của Thiên Chúa.

Xin Thiên Chúa nhân lành và Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria đón nhận những hy sinh hèn mọn của con mà Chúa và Mẹ đã thấy cần phải dâng lên để phục hồi trong linh hồn người ta tinh thần đức tin, cậy trông và yêu mến.

Thành Tuy, ngày 8 tháng Mười Hai, năm 1941.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phần Chú Thích: Hồi Ký Thứ Bốn

(1) Chị đã viết tài liệu này trong một căn gác của Tập Viện ở thành Tuy.

(2) Phần mở đầu này cho chúng ta thấy tài viết văn hiếm có cũng như trình độ học vấn của chị Lucia.

(3) Chị Lucia đã không bao giờ có ý muốn nói là mình được sự "mặc khải" giống như từ ngữ trong kinh Thánh đã sử dụng.

(4) Em là em họ của Lucia, họ bên bố.

(5) Có thể nói rằng Phanxicô đã được ơn chiêm niệm ở trình độ cao nhất.

(6) Ngày 11 tháng Tám, chị Lucia đã được bố dẫn đi gặp ông thị Trưởng. Còn ông Ti Marto (dượng của Lucia) đã từ chối dẫn con mình đi.

(7) Em đã có ý nói về lần Hiện Ra trong tháng Sáu và tháng Bẩy. Các em đã được thấy Chúa trong luồng ánh ánh linh thiêng mà Đức Mẹ đã mặc khải cho các em.

(8) Đây là những tảng đá rất nguy hiểm trên bờ biển Đại Tây Dương thuộc Bồ Đào Nha.

(9) Nhận xét này là của Chị Lucia.

(10) Ngày kế là ngày 4 tháng Tư, 1919, lúc 10 giờ tối.

(11) Vì lý do này, chị Lucia đã không tiết lộ điều bí mật thứ ba ra đây.

(12) "Lần thứ bẩy" này xảy ra vào ngày 16 tháng Sáu, 1921, vào buổi chiều trước ngày chị Lucia đi Vilar de Oporto. Trong lần Hiện Ra này, Đức Mẹ đã ban cho chị Lucia một sứ điệp riêng tư mà chị đã thấy không cần thiết để kể ra ở đây.

(13) Đây cũng có nghĩa là "rất lâu".

(14) Bởi vì trong lúc vội vã, chị Lucia đã bỏ trống phần cuối của đoạn này mà trong một tài liệu khác đã ghi rằng: "Mẹ hứa sẽ cứu vớt những ai đón nhận điều này và các linh hồn này sẽ được Chúa thương yêu giống như những bông hoa được Mẹ cắm để trang điểm ngai của Ngài."

(15) Đây là ánh sáng của miền Bắc cực chiếu trong đêm 25 rạng 26 tháng Giêng, năm 1938, là một điều khác thường và đã được chị Lucia coi như là dấu chỉ đặc biệt mà Thiên Chúa đã báo trước.

(16) Xin xem phụ lục 1

(17) Xin xem phụ lục 2

(18) Chị Lucia đã nhớ lầm là việc Hiện Ra đã xảy ra cùng ngày khi ba trẻ được thả về từ nhà tù ở Vila Nova de Ourém. Điều này đã không đúng. Lần Hiện Ra này đã xảy ra vào Chúa Nhật kế, là ngày 19 tháng Tám.

(19) Chị Lucia thật sự đã không có ý nói là cuộc chiến sẽ chấm dứt trong cùng ngày đó; chị đã nói như thế khi chị bị đặt quá nhiều câu hỏi.

(20) Đây là lần tái bản thứ hai của nhà in Brazilian.

(21) Đây là chỗ cây sồi lớn đã được giữ nguyên như vậy, trong thời gian có những lần Hiện Ra.

(22) Cuộc thẩm vấn này đã diễn ra từ ngày 16 đến hết ngày 20 tháng Chín, năm 1935 tại Pontevedra. Tác giả Antero de Figueiredo (1886-1935) đã dùng những tài liệu trong cuộc điều tra này cho cuốn sách nổi tiếng của ông là cuốn: "Fatima: Ân Sủng, Bí Mật và Mầu Nhiệm" (Lisbon 1936)

(23) Chúng tôi đã nói rằng, riêng đối với Chị Lucia, thì "lần hiện ra thứ bấy này" hoặc những lần hiện ra sau đó không liên hệ gì với tài liệu này hết.

Louis Mai Lê Dịch Thuật

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com