su thong tri cua tdpt
II. Sự xâm lược và đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây 1. Sự xâm lược thực dân phương Tây - Trong khi các nước phương Tây lần lượt xác lập chế độ TBCN, các nước châu Á lạc hậu, trì trệ vì sự thống trị của chế độ phong kiến và đã trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương tây. Sự khác biệt về trình độ phát triển và tốc độ phát triển, sự thiếu chuẩn bị của giai cấp phong kiến là những điều kiện hết sức thuận lợi để các nước châu Âu lần lượt chiếm các nước ở châu Á biến thành thuộc địa và phụ thuộc. - Trước hết, là các thương nhân sau khi tìm con đường biển sang phương Đông, từ những hoạt động buôn bán, truyền đạo bọn thực dân phương Tây chuyển sang chính sách xâm lược. Lúc đầu, chúng thuê hay dùng vũ lực chiếm một vùng đất thuận lợi cho việc buôn bán, thường là địa điểm trên đường giao thông thuỷ bộ làm thương điếm. Tiếp đó, chúng độc chiếm toàn quyền sử dụng vùng đất thương điếm và nộp cho vua chúa ở địa phương một số thuế, lệ phí nhất định. Đây là thời kỳ thống trị của các công ty thương mại, thế lực không chỉ giới hạn ở mặt kinh tế mà còn mở rộng trên các mặt chính trị, quân sự. Chính sách bóc lột của các công ty là tận dụng tài nguyên, khai thác triệt để nguồn nhân lực rẻ tiền hoặc không mất tiền của địa phương để làm giàu nhanh chóng. - Vào buổi đầu thời cận đại, thuộc địa ở châu Á, châu Phi chưa lớn, Bồ Đào Nha là nước châu Âu đầu tiên xây dựng đế quốc thuộc địa của mình ở các lục địa châu Á, châu Phi vào cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, còn Tây Ban Nha xâm chiếm thuộc địa chủ yếu ở châu Mỹ. Nhưng dần dần Bồ Đào Nha bị suy yếu, các nước tư bản ở châu Âu trỗi dậy (Hà Lan, Anh, Pháp) đã cạnh tranh mạnh mẽ và các vùng đất thuộc địa rộng lớn của Bồ Đào Nha lần lượt rơi vào tay các nước đó. Inđônêxia là nước đầu tiên ở châu Á bị thực dân phương Tây đô hộ vào thế kỷ XVI, lúc đầu là Bồ Đào Nha sau đó là Hà Lan rồi đến Anh (năm 1811) nhưng đến 1814 Anh trả lại cho Hà Lan. - Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đẩy mạnh hơn nữa việc xâm lược thuộc địa ở châu Á, châu Phi. Ở châu Á, đế quốc Anh chiếm Ấn Độ, Mã Lai, Miến Điện; Pháp chiếm ba nước Đông Dương, Xiêm trở thành nước "đệm" giữa các vùng thuộc địa của Anh và Pháp và do sự duy tân đất nước dưới triều đại của các vua Rama IV và Rama V vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nên Xiêm giữ được độc lập về chính trị, song vẫn bị phụ thuộc vào các nước đế quốc, trước hết là Anh. Trung Quốc là một nước rộng lớn, giàu tài nguyên, đông dân nen đã trở thành miéng mồi chia xẻ của nhiều nước thực dân. Trung Quốc đã lần lượt ký các điều ước với các nước phương Tây và trở thành nước nửa thuộc địa của thực dân. Vùng Tây Á, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của các nước cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến và nhà thờ Hồi giáo với quần chúng nhân dân đã đưa đến bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh lớn của nông dân. Trong điều kiện đó, các nước tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm lược. Song, do sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đế quốc về vùng đất giàu có này mà các nước thực dân phải để các nước độc lập về hình thức. Như vậy, trong gần 4 thế kỷ, từ khi đặt thương điếm đầu tiên vào thế kỷ XVI, thực dân phương Tây đã hoàn thành việc xâm lược, chi phối nền độc lập của hầu hết các nước châu Á (trừ Nhật Bản). Sử dụng vũ lực là chủ yếu, kết hợp với nhiều thủ đoạn đe doạ, mua chuộc, thực dân phương Tây đặt ách đô hộ ở các nước châu Á và biến vua quan phong kiến thành những kẻ tay sai cho chúng. Các nước châu Á từ chế độ phong kiến đã dần dần trở thành thuộc địa, nửa phong kiến. 2. Sự đô hộ của thực dân phương Tây a. Chế độ thuộc địa - Thuộc địa là nguồn cung cấp nguyên liệu, nhân công và lương thực rẻ mạt cho chính quốc, là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của chính quốc một cách chắc chắn và thu lợi nhuận cao, là căn cứ quân sự làm bàn đạp xâm chiếm các nước khác và là nơi xuất cảng tư bản thu nhiều lợi nhuận nhất.
Tuỳ tính chất của mỗi nước tư bản đế quốc mà chính sách khai thác thuộc địa của chúng khác nhau; song về căn bản chúng đều tìm cách chia rẽ, làm suy yếu nhân dân, mua chuộc giai cấp thống trị bản địa, vơ vét tài nguyên đem về chính quốc, thực hiện việc buôn bán không bình đẳng, chúng không mở mang công nghiệp thuộc địa, chúng chỉ xây dựng những ngành công nghiệp chế biến và sản xuất những mặt hàng tiêu dùng nhằm xuất khẩu thu lãi lớn và phục vụ cho đời sống của bọn thống trị ở thuộc địa. Việc mở mang đường bộ, đường sắt, các bến cảng đều nhằm phục vụ việc khai thác kinh tế hoặc đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân. - Biện pháp bóc lột phổ biến nhất đối với các thuộc địa là tăng cao thuế và đặt ra nhiều loại thuế, mở mang đồn điền, khai thác mọi tài nguyên, đẩy mạnh bắt lính. Những biện pháp này vừa làm cho nhân dân ngày càng kiệt quệ, vừa gắn chặt họ vào ách thống trị. - Về chính trị, thực dân phương Tây thực hiện chính sách "chia để trị", với chính sách này chúng đã chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo, gây nên những hận thù chém giết lẫn nhau, tiêu biểu như ở Ấn Độ. Thực dân phương Tây vừa đặt ách thống trị tại các nước thuộc địa, vừa duy trì sự tồn tại chế độ phong kiến, biến giai cấp phong kiến ở bản địa trở thành tay sai cho chúng. Chính vì vậy, ách thống trị lại càng nặng nề hơn đối với nhân dân các nước thuộc địa. - Về kinh tế, nổi bật là là chính sách cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, bằng nhiều biện pháp, như chiếm đoạt ruộng đất của nông dân cả ruộng công và ruộng tư, hoặc ép triều đình nhượng quyền khai khẩn đất hoang cho chúng. Số ruộng đất cướp đoạt được ngày càng tăng lên một cách nhanh chóng. Ví như ở Việt Nam, năm 1890 bọn thực dân Pháp chiếm 10.900 ha ruộng đất trong cả nước, đến năm 1900 con số này lên tới 302.000 ha và năm 1912 là 470.000 ha. Các đồn điền trồng các loại cây quý hiếm đối với châu Âu, như cao su, chè, cà phê . . .Phương thức kinh doanh ở các đồn điền vẫn là phát canh thu tô theo lối phong kiến. Nông dân không những bị cướp đoạt ruộng đất mà họ còn phải nộp tô, thuế. Trong công nghiệp, tập trung vào khai thác mỏ, các công ty của chính quốc nắm toàn bộ việc khai thác. Ngoài ra, việc sản xuất hàng tiêu dùng như gạch, ngói, xi măng, điện, nước, rượu, đường . . . cũng được chú trọng. Cùng với chính sách khai thác, bóc lột về kinh tế là hoạt động của ngân hàng với việc cho vay nặng lãi và đặt ra các loại thuế để vơ vét về tài chính. Vì vậy, số lãi của các ngân hàng tăng lên một cách nhanh chóng.Ví như ngân hàng Đông Dương của Pháp, năm 1815 vốn của ngân hàng mới chỉ có 8 triệu Phơrăng, năm 1910 lên 48 triệu và đến 1918 đạt 72 triệu Phơrăng. Các loại thuế thì ngày càng nhiều và tăng lên, như các loại thuế thân, thuế nhà, thuế rượu, thuốc phiện, nước . . .Inđônêxia là một điển hình của sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân phương Tây ở Đông Nam Á nói riêng và phương Đông nói chung. Mặt khác, thuộc địa còn là xuất khẩu, đầu tư lớn, có lợi đối với các nước thực dân nói chung, nên các nước tư bản đã đưa và đây một số vốn kếch xù. Theo bảng thống kê năm 1938, ở Inđônêxia các nước đầu tư vào với tổng số 1.411 triệu đô la, Malaixia là 372 triệu, Philíppin là 315 triệu . . . - Về xã hội- văn hoá , chúng thực hiện chính sách mị dân để lừa bịp nhân dân thuộc địa như mở một số trường học, bệnh viện. . . nhưng chủ yếu là chúng thực hiện chính sách ngu dân và sự đầu độc người bản xứ bằng rượu và thuốc phiện là công việc thường xuyên và có ý thức của bọn thực dân phương Tây ở tất cả các thuộc địa. Tình hình mà cứ 1.000 làng có đến 1.500 đại lý rượu và thuốc phiện nhưng chỉ có 10 trường học mà Nguyễn Ái Quốc nói về Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1) là tình trạng chung, phổ biến cho các thuộc địa khác. Chính vì vậy, lúc bấy giờ người ta nói : "Inđônêxia là cái phao làm cho Hà Lan nổi lên !" và "Malaixia là kho đôla của đế quốc Anh". 2. Những hậu quả của chế độ thuộc địa đối với các nước châu Á - Sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây không nhằm mục đích "khai hoá", đem lại "văn minh" cho các nước thuộc địa nói chung và nhân dân châu Á nói riêng. Ngược lại, sự xâm lược và thống trị đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu về kinh tế và văn hoá của các nước thuộc địa trong thời kỳ cận đại. Kết quả của sự thống trị, bóc lột của bọn thực dân là đem lại lợi nhuận khỏng lồ cho chúng và sự khốn khổ không kể xiét của nhân dân lao động và hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển xã hội của các nước thuộc địa. Tội ác của chúng thật là lớn ! Nguyễn Ái Quốc với "Bản án chế độ thực dân Pháp" đã tố cáo tội ác không chỉ của thực dân Pháp mà của tất cả bọn thực dân : " . . . chế độ thực dân là ăn cướp. . . là hiếp dâm và giết người" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, tr. 106). - Về mặt chính trị, xã hội : người châu Âu có mặt ở châu Á từ thế kỷ XVI, trước tiên là thu mua hương liệu, khai thác tài nguyên, lập các trung tâm buôn bán, rồi tiến đến xâm chiếm đất đai, lập thuộc địa, thủ tiêu nền độc lập của các dân tộc vốn đã có chủ quyền và nền văn hoá khá cao. Những cuộc xâm chiếm và thống trị như vậy, đã gây nên những vụ xung đột, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới giữa các nước với nhau. Các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Tình trạng mù chữ của nhân dân chiếm tỉ lệ cao ở các nước thuộc địa, như ở Inđônexia có 70 triệu dân mà chỉ có 6,5 % người biết chữ vào những năm 1930, hoặc ở Việt Nam cũng trên 90 % dân số mù chữ trong thời kỳ thống trị của thực sân Pháp . . . - Về kinh tế, Chúng tiến hành vơ vét, khai thác, đầu tư đối với các thuộc địa. Các nước tư bản cũng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một mức độ nhất định để tận lực khai thác tài nguyên. Chính vì thế khi khủng hoảng kinh tế thì tác hại của nó khá lớn, kinh tế bị phá sản, số người thất nghiệp tăng, nạn chết đối xuất hiện nặng nề. Về công nghiệp, các nước thực dân để lại cho các nước thuộc địa một di sản nghèo nàn, lạc hậu và què quặt. Đến khi giành được độc lập, khu vực công nghiệp của các nước chiếm một con số rất nhỏ, ví như ở Malaixia khu công nghiệp chiếm 6,3 dân số lao động, khoảng 50 % số này lao động ở các mỏ thiếc và đồn điền cao su, số còn lại làm trong các xí nghiệp công nghiệp nhẹ. Trong nông nghiệp, vẫn duy trì sản xuất nhỏ, tiểu nông, kỹ thuật canh tác lạc hậu. Chính vì vậy, năng suất lao động thấp, nông dân bị mất đất phải thuê ruộng và nộp địa tô hoặc phải đi làm thuê cho địa chủ, thực dân. Đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực. Có người nói đến tác dụng tích cực của chế độ thực dân đối với các nước thuộc địa ; văm minh châu Âu được truyền bá, công nghiệp, giao thông. . . được xây dựng nhiều hơn trước. Nhưng sự thực vì cần đào tạo một tầng lớp tay sai và phải cung cấp kíến thức nhất định cho người làm thuê nên bọn thực dân phải mở trường học. Vì cần hành quân để đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và để đẩy mạnh khai thác tài nguyên, tăng cường bóc lột, chúng phải xây dựng đường sá. Vì để phục vụ cho đời sống của bọn thực dân và tay sai, chúng đã xây dựng công nghiệp nhẹ. . . xét cho cùng, những công trình đó đều là những thành quả của nhân dân lao động. Cho nên, không vì thế mà "quy" công ơn "khai hoá" cho bọn thực dân, đế quốc đối với thuộc địa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com