Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Khởi nghĩa Lam Sơn

Năm 1407, nhà Hồ thất bại, nhà Minh chiếm được nước ta, chúng đã thực hiện cải cách khủng khiếp trên diện rộng để đồng hóa nhân dân ta.

Chúng đốt hết sách vở văn tự của nước ta trong đó có cả bộ luật đầu tiên của nước ta, Hình thư.

Chưa hết, 7000 thanh niên tài năng nhất, khỏe mạnh nhất, những thợ giỏi của dân tộc ta bị bắt, hoặc bị thiến để diệt nòi giống Việt. Trong đó có cha đẻ của súng thần công - Hồ Nguyên Trừng, và kĩ sư người Việt góp phần xây dựng Tử Cấm Thành - Nguyễn An.

Chúng còn vơ vét 235.900 voi, ngựa, trâu, bò, thóc gạo, thuyền bè. khí giới đem về phương Bắc chưa kể các sản vật quý hiếm, khoáng sản...

Đi cùng với vơ vét nhân lực và tài lực, nhà Minh còn bắt hàng chục vạn (10 vạn = 100.000) dân binh 16-60 tuổi ra các công trường khai mỏ và xuống đáy biển mò ngọc trai cho chúng. Họ phải làm việc trong môi trường vô cùng thiếu thốn và luôn cận kề cái chết:

"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán ngẩm thay cá mập thuồng luồng,

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc."

Quân Minh còn liên tục đàn áp những nghĩa quân kháng Minh với những tội ác như chém giết, cướp bóc, mổ bụng đàn bà có thai, khủng bố lòng người.

"Minh sử bản mạt kỷ sự" (1 cuốn sách sử của Trung Quốc) có ghi chép về thời kỳ này rằng quân Minh đã "chôn sống hàng ngàn tù binh rồi chất xác họ thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu".

Trong hoàn cảnh đó, ở vùng Lam Sơn, Thanh Hóa có nguời anh hùng nuôi chi lớn phục quốc, đó là Lê Lợi.

Thanh Hóa được xem là mảnh đất "đế vương chung hội", vì sản sinh ra nhiều người con kiệt xuất như: Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Đại Hành, Hồ Quý Ly, Lê Lợi,...

1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương.

Đã có lần, quân minh cho người đào tro cốt tổ phụ (ông) của Lê Lợi lên, buộc Lê Lợi phải quy hàng, nhưng ông không hề nao núng.

Chính tinh thần không lùi bước ấy đã tạo nên người anh hùng rất quan trọng trong dòng chảy dân tộc. Vị anh hùng đã xuất hiện vào lúc đất nước lâm nguy nhất, dựng cờ đánh đuổi giặc phương Bắc khỏi bờ cõi, giữ lại hồn thiêng núi sông Đại Việt.

Năm 1420 , Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời dâng Bình Ngô sách lên Lê Lợi. Trong đó, ông vạch ra 3 kế sách lớn để đánh quân Minh, chú trọng tâm công, đánh vào lòng người để dành chiến thắng.

Nguyễn Trãi dùng nhân nghĩa, thuyết phục quân Minh đầu hàng mà không cần đổ máu, đúng như những gì ông viết trong Bình Ngô đại cáo:

"Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt

Chẳng đánh mà nguời chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công".

Trong quá trình phò tá Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra nhiều mưu kế, sách lược có lợi cho nghĩa quân Lam Sơn.

Một trong những diệu kế đó là dùng mỡ viết lên lá cây trên rừng tám chữ "Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần". (Lê Lợi làm vua, bách tính làm tôi)

Nhờ mùi mỡ, kiến rừng ăn và khoét thành chữ trên mặt lá. Sau một thời gian, lá rụng theo dòng nước trôi đi khắp nơi trong vùng, mang tin Lê Lợi khởi nghĩa đến với mọi người, tạo nên lòng tin trong nhân dân và binh lính.

Đến nay, đó vẫn là một trong những diệu kế độc nhất vô nhị trong lịch sử quân sự, không chỉ ở Việt Nam mà còn với cả thế giới. 

Trong suốt 10 năm của khởi nghĩa Lam sơn, Chi Lăng - Xương Giang là một trong những trận đánh có ý nghĩa quan trọng nhất.

Tổng quát

• Thời gian: 8/10- 3/11/1427• Địa điểm: Chi Lăng (Lạng Sơn) – Xương Giang (Bắc Giang)

• Hình thức: 

- Vây thành, diệt viện

- Các hình thức tác chiến: phục kích, tập kích, truy kích, công thành, tác chiến trận địa, công kích địch phòng ngự dã ngoại...

=> Đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc trong nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn

Ải Chi Lăng là một thung lũng hẹp nằm giữa những dãy núi cao vút... Từ xưa ải Chi Lăng hầu như là con đường mà bất cứ đạo quân phương bắc nào cũng phải đi qua khi tiến đánh phương nam. 

Phía bắc ải là Quỷ Môn Quan, nơi mà cả người phương bắc lẫn người phương nam đều ái ngại khi đi qua. Có câu thơ của binh lính phương bắc rằng : 

Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan!

Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn.

(Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan!

Mười người đi, một người về.)

 Phía nam ải Chi Lăng là Ngõ Thề, nơi mà những đạo quân người Việt ở các triều đại cất lên những lời thề quyết tử rồi bước vào trận chiến với giặc xâm lăng. 

Phía tây ải là các núi đá vôi nằm cạnh dòng sông Thương. 

Phía đông là hai dãi núi Thái Hòa, Bảo Đài. Bên trong ải lại có năm ngọn núi Nà Sản, Mã Yên, Phượng Hoàng, Lỳ Lân, Hàm Quỷ chia cắt ải thành những con đường, thung lũng nhỏ.

Một cửa ải đã chặn đứng bao bước chân xâm lăng của đế quốc phương Bắc, một cửa ải tôn vinh thêm cho tài năng quân sự lỗi lạc của cha ông. Để đến hôm nay, đứng trong gió ngàn vẫy gọi, người ta như nghe thấy tiếng hò reo mừng chiến thắng của những binh đoàn áo vải.

10/1427, 15 vạn viện binh từ Trung Quốc kéo vào nước ta. Chúng chia làm 2 đạo:

Đạo 1: Do Liễu Thăng chỉ huy, tiến vào Lạng Sơn từ Quảng Tây.

Đạo 2: Do Mộc Thạnh chỉ huy, tiến từ Vân Nam vào Hà Giang. 

Trận chi lăng

Ngoài mặt trận, tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu giả cách thua chạy từ ải Nam Quan lui về Chi Lăng.

Liễu thăng vừa đến ải chi lăng thì nghe thấy tiếng reo hò từ 4 phương 8 hướng, phía trên đầu tên bay xuống như mưa.
Lê sát, trần lựu đổ ra chém giết, lưỡi gươm của lê sát đã chém cụt đầu liễu thăng ở chỗ này, tạo nên công tích ngàn thu còn mãi lưu truyền.

"Đánh 1 trận sạch ko kình ngạc
Đánh 2 trận tan tác chim muông."

(Bình ngô đại cáo)

Sau khi Liễu Thăng bị chém, phó tổng binh Lương Minh lên nắm quyền chỉ huy. Nguyễn Trãi lại viết thư cho Lương Minh, vạch rõ thế thất bại không tránh khỏi của quân địch.

Nhưng Lương Minh vẫn ngoan cố, ra lệnh chấn chỉnh lại đội ngũ, tiến về phía Cần Trạm. 

Mai phục Cần Trạm

• Trận đánh diễn ra trên một chiến trường dài gần 5 km, suốt từ cánh đồng phía đông bắc thành Cần Trạm đến tận phía nam thị trấn Kép.

• Phó tướng Lương Minh lên thay Liễu Thăng cũng bỏ mạng.

• Sau thất bại Cần Trạm, đô đốc Thôi Tụ lên nắm quyền chỉ huy, cùng với Lý Khánh và Hoàng Phúc, cố sức tập hợp binh sĩ, tiến về phía Xương Giang.

Đánh địch viện tại Phố Cát

• Phố Cát là vùng đồi đất giữa Cần Trạm và Xương Giang

• 18/10 quân địch tiến đến Phố Cát bị phục binh ta xông ra đánh.

• Sau trận đánh, thây địch được đưa về đồi Bổ Hóa chôn cất nên đồi này được gọi là đồi Mả Ngô.

• Binh bộ thượng thư Lý Khánh thắt cổ tự tử.

• Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng chúng vẫn cố liều chết tiến về thành Xương Giang, hy vọng có thể phối hợp với quân thành Xương Giang rồi liên hệ với thành Đông Quan, Chí Linh hòng cứu vãn lại tình thế.

• Nhưng lại không hề hay biết rằng thành Xương Giang đã bị quân ta chiếm từ trước.

• Lúc bấy giờ, Mộc Thạnh từ Vân Nam tiến vào biên giới nước ta.

• Lê Lợi sai người mang bằng sắc, ấn tín của Liễu Thăng và một bức thư cho Mộc Thạnh. Bức thư đề cao Mộc Thạnh là người văn võ song toàn, nhân đức, đồng thời kể lại chuyện Liễu Thăng ngoan cố không nghe lời khuyên bảo nên tự chuốc vạ vào thân, chết trong trận không biết lẫn lộn vào đâu và yêu cầu Mộc Thạnh tâu về triều Minh "cởi giáp hòa giải".

• Mộc Thạnh vô cùng khiếp sợ, đem quân tháo chạy về nước. Quân đã chuẩn bị sẵn sàng, lập tức lao ra đuổi địch.

• Quân ta đại thắng.

Diệt thành Xương Giang

• Quân ta lập hàng rào bên tả sông Xương Giang, bao vây đợi địch kiệt sức mà ra hàng.

• Nguyễn Trãi đã 5 lần viết thư dụ địch ra hàng nhưng chúng ngoan cố không trả lời.

• Sau nhiều lần kiên trì thuyết phục không được. Ngày 3 tháng 11 năm 1427, quân dân ta được lệnh tổng công kích như đã định trước "hẹn đến giữa tháng 10 diệt giặc".

• Từ bốn mặt, hàng vạn quân ta vừa tiến công vừa kêu gọi quân địch đầu hàng.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tới đây là chấm dứt, dân tộc ta giành lại độc lập sau 20 năm mất nước:

"Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh."

(Bình Ngô đại cáo) 

Ngày 14/4, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận thiên, sai Nguyễn Trãi làm bài Bình Ngô đại cáo, tuyên bố kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh và khẳng định sự độc lập của Đại Việt. Đến nay, tác phẩm này không những được coi là bản "Thiên cổ hùng văn" mà còn được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam sau bài Nam Quốc sơn hà thời Lý. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com