Chương 1: Điềm duyên trên triền đồi
Trời đã ngả về chiều, sương mỏng bắt đầu giăng trên những triền đồi Trung Du. Gió từ lưng chừng núi lùa về, mang theo mùi cỏ non thoang thoảng, quyện cùng hương hoa lê trắng rơi lả tả, len vào gian nhà gỗ nơi bà hội đồng Khương đang chắp tay trước bàn thờ.
Chủ nhân ngôi nhà ấy là một ông thầy bói cách gọi của miền xuôi, còn dân bản trên này vẫn quen gọi là thầy mo. Lão râu tóc bạc phơ, khoác bộ quần áo thổ cẩm dệt thủ công, dáng ngồi uy nghiêm ở giữa nhà, đôi mắt như dõi xa xăm ra ngoài hiên, tựa thể đã biết trước được người nào sẽ hữu duyên tìm đến đây.
Bà Khương vốn là người buôn bán kinh doanh lớn, chẳng mấy tin ma quỷ thần thánh, nhưng trong bụng vẫn giữ quan niệm "có kiêng có lành". Lời đồn trên miền đồi có thầy mo xem sự việc linh nghiệm lạ thường khiến bà chẳng quản đường sá cách trở, lặn lội từ xuôi lên tìm. Người ta không ai rõ lão nói những gì, chỉ thấy khi rời căn nhà ấy, sắc mặt bà chẳng lấy gì làm vừa ý, vội vã quay gót xuống núi.
Hôm sau, bà trở về dinh. Đám gia nhân đi theo xì xầm với người ở đợ trong nhà rằng bà đi xem duyên mệnh cho cậu cả Thái Hiền đứa con trai độc nhất họ Khương.
Câu phán của thầy mo như lời nguyền, ám vào tâm trí bà suốt dọc đường về:
"Con trai bà, nếu không kết tóc se duyên với người đất Tây Bắc, giữa những triền đồi xanh ngát này, e rằng khó giữ được cơ nghiệp. Cái duyên nằm nơi hoa lê trắng nở, ở đó mới có dâu hiền."
Ông ta còn trừng mắt dặn dò thêm:
"Nhất định phải cưới về làm vợ cả. Là người đẹp tựa hoa lê."
Ban đầu, bà Khương chỉ bật cười. Đường đường là nhà hội đồng Khương, thiếu gì mối lương duyên môn đăng hộ đối? Lại còn chuyện ngược ngạo ai đời đem con trai cưng xuống cưới vợ tận nơi núi rừng xa xôi, vừa cách trở vừa chẳng tương xứng địa vị.
Thế nhưng vận rủi lại ùn ùn kéo đến. Chuyến hàng lụa xuất khẩu sang Nhật của chồng bà ông hội vốn là vụ làm ăn trọng yếu chẳng may gặp bão lớn ngoài khơi, hàng hoá mất trắng, tiền bạc coi như theo sóng biển mà trôi.
Trong cơn thất thế ấy, bà Khương bất giác nhớ lại lời thầy mo trên triền đồi: "Nếu không có duyên Tây Bắc, khó mà giữ được cơ nghiệp."
Nỗi hoài nghi dần hóa thành niềm tin. Bà hiểu, con đường duy nhất để che chắn tai ương, cũng là để giữ vững gia thế, chính là dựng nên một cuộc hôn nhân "đúng mệnh" như lời thầy đã phán.
Thế là bà cho gọi bà mai mối tên Dung người đàn bà lanh lẹ miệng lưỡi, đi khắp vùng này chẳng ai không biết mặt. Bà Khương dặn:
- Ta chẳng cần nhà cửa sang giàu, cũng chẳng cần chức tước hiển hách. Chỉ cần tìm cho ta một đứa con dâu đoan trang, thanh thuần, trong trẻo như đóa hoa lê trắng giữa núi rừng Tây Bắc. Chừng ấy là đủ.
Quả thật đây là một bài toán nan giải đối với bà mai. Bà biết tìm đâu ra một người như thế, nhưng đã trót được bà hội đồng gửi gắm, lại còn trao cho số tiền lớn để lo chi phí đi lại và thù lao, thì bà đành cắn răng nhận lời, lặn lội lên Tây Bắc với hy vọng tìm được người phù hợp theo lời miêu tả của bà Khương.
Một đóa hoa lê trắng giữa núi rừng Tây Bắc ư? Há chẳng phải khác nào đi tìm trầm hương trong hàng ngàn cây dó bầu.
*
Bà Dung vâng lời, mấy hôm sau đã khăn gói đi ngay. Người đàn bà lanh lợi ấy vốn quen đường miền ngược, giọng nói dẻo quẹo, bước chân nhanh thoăn thoắt. Vượt qua những con dốc dựng đứng, qua suối ngầm róc rách, bà đến vùng đồi nơi người ta vẫn gọi là Tây Bắc hay với cái tên nếu chân lữ khách - xứ hoa lê trắng.
Trong làng, nhà ông Thôi trưởng làng được xem là khang trang nhất. Dẫu chẳng giàu sang phú quý như dưới xuôi, nhưng cũng có ruộng nương, trâu bò, và tiếng nói được dân bản nể trọng.
Khi bà Dung bước vào, ông Thôi đang ngồi chẻ nứa, bên bếp lửa đỏ rực. Thấy khách lạ từ xuôi lên, ông chỉ khẽ gật đầu, rồi sai người hầu bưng chén nước.
Bà Dung mở lời ngay, giọng vừa ngọt vừa khéo:
- Tôi vốn là người quen của bà Hội đồng Khương dưới xuôi. Lần này mạn phép lên đây là vì bà có việc lớn. Bà muốn tìm một người con dâu... mà nghe đâu, trong làng ông, có cậu trai Phạm Khuê, tiếng tăm đẹp đẽ chẳng khác nào hoa lê đầu mùa.
- Nếu hợp ý và đúng người bà hội sẽ liền cho người mang sính lễ lên bàn chuyện cưới hỏi ngay. cũng sẽ cho người đó làm vợ cả của cậu Khương Thái Hiền mà chẳng phân biệt vai vế sang hèn.
Thực ra, bà đã nghe người trong làng đồn đãi ầm lên về đứa con trai duy nhất của ông trưởng làng Thôi kẻ mang nhan sắc đến nỗi núi rừng cũng phải ghen hờn.
Song dẫu vậy, bà chẳng dám hấp tấp vội vàng. Bà chọn đường vòng, giả bộ đến hỏi han, cốt là để được xem dung nhan, lại vừa dò la ý tứ của ông trưởng làng Thôi cho tỏ tường.
Đất đai trên vùng Tây Bắc này, nói trắng ra, cũng đều nằm dưới quyền quản lý của nhà hội đồng Khương. Ông Thôi tuy là trưởng làng, do dân tín nhiệm mà bầu, nhưng thực ra quyền hành chẳng có bao nhiêu.
Chỉ cần một lời phật ý từ nhà hội đồng, cả làng này có thể bị dồn đuổi đi nơi khác, chẳng biết rồi lấy gì mà sinh sống.
Nghĩ đến đó, lòng ông nặng như đá đè. Cái chức trưởng làng vốn để lo cho dân, nay lại trở thành cái gông, buộc ông chẳng dám trái lời người quyền thế.
Vậy nên, trước mặt bà Dung, Nghe đến tên con trai, ông Thôi thoáng cau mày. Ông bỏ con tách trà xuống, thở dài:
- không biết bà mai đây nghe ai đồn, và chớ có tin ngay.
- Khuê nó là con một của tôi, song tánh tình nó ngang ngạnh ương bướng, chẳng được hiền lành ngoan ngoãn như con cái dưới xuôi đâu.
- Người xuôi giàu sang phú quý, cưới hỏi dễ dàng thì việc gì chị phải đến đây tìm chi một đứa quê mùa như nó?
Những lời ông thốt ra, tựa dao cứa vào lòng, nhưng ông vẫn phải nói. Ông chỉ mong bà mai hiểu, chuyện này khó thành, may ra còn chùn bước.
Bởi ông biết, gia đình nhà hội đồng Khương lắm điều phức tạp; con ông mà sa chân vào đó, e rằng một đời về sau khổ mãi chẳng dứt. Ông đâu có tham sang trọng giàu sang, chỉ mong Phạm Khuê được ở lại nơi này, sống bên cha, dẫu cực khổ đôi chút nhưng được tự do tung hoành, chẳng phải cúi đầu hèn kém trước bất kỳ ai.
Bà Dung cười, đôi mắt sáng ranh mãnh:
- Ông trưởng làng chớ cố. Bà hội đã dặn rõ: chẳng cần phú quý môn đăng, chỉ cần người đoan trang thanh thuần.
- Mà xét trong vùng này, e chỉ có cậu Thôi Phạm Khuê là hợp nhất với miêu tả mà bà hội dặn tui đi tìm. Nên tôi mới lặn lội từ xa đến đây thưa chuyện với ông, để xem mặt và tác hợp cho đôi trẻ đây.
- Hay ông cho tôi nhìn mặt cậu Phạm Khuê đây một lần được không? Nếu không phải tôi sẽ đi ngay, không làm phiền ông nữa.
Ông Thôi im lặng tay cầm tách trà ngập ngừng.
Trong gian nhà gỗ, ánh đèn hắt lên gương mặt nghiêm nghị của ông Thôi. Ngoài hiên, tiếng gió thổi qua triền đồi, cuốn theo hương hoa nhài thoang thoảng. Nhưng lại khiến lòng người ta chẳng yên nổi.
Ở gian sau, Khuê vừa từ ruộng trở về, vai còn vương chút bùn đất. Nghe thấp thoáng có người nhắc đến tên mình, em khựng lại, đứng sau vách nứa, đôi mắt sáng ngời vừa hiếu kỳ vừa đầy cảnh giác.
Và từ giây phút ấy, sợi dây định mệnh hình như đã chẳng thể chối bỏ, nó đã bắt đầu quấn lấy đời Khuê, dẫu em chưa hề hay biết.
Không nghĩ ngợi nhiều, Khuê bước ra, lễ phép cúi chào:
- Con chào bác. Con là Thôi Phạm Khuê... bác là?
Bà Dung vừa nghe tiếng, liền ngẩng lên. Khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn, nụ cười xởi lởi, để lộ cả hàm răng được nhuộm đen bóng loáng:
- Thôi Phạm Khuê... Con là con trai trưởng làng Thôi đây phải không?
- Dạ, phải ạ.
- Lại đây ngồi, cho bác nhìn kỹ một chút nào.
- Nhìn... ạ?
Khuê khẽ ngập ngừng giây lát, rồi cũng thong thả tiến đến, ngồi đối diện. Áo quần em vương chút bùn đất, gương mặt còn phảng phất bụi đường, mồ hôi chưa kịp lau. Ấy vậy mà trong mắt bà Dung, tất thảy lại như lớp phấn sương, càng làm đôi mắt em thêm trong vắt, sáng rỡ, tựa nắng thu chan chứa rót xuống làn ao biếc.
Nước da em ngần ngọc, hồng hào tự nhiên, phần nhờ khí núi mát lành, phần nhờ tư chất thanh tú trời ban. Gương diện đoan trang, sáng sủa, phảng phất khí chất tao nhã, tựa đóa lê trắng nở giữa núi ngàn thâm u.
So với muôn hoa nơi thôn dã, vẻ ấy lại càng thêm mặn mà, đượm sắc, mang theo sức sống vừa thanh khiết vừa kiêu sa, như vẻ đẹp được ấp ủ bởi cả đất trời.
Ánh mắt bà Dung thoáng sáng rực. Bà biết, mình đã tìm được "đóa hoa lê" mà bà hội đồng Khương hằng trông đợi rồi.
Bà Dung nhìn Khuê từ đầu đến chân, nụ cười càng lúc càng rộng, miệng tấm tắc:
- Đúng là hoa lê giữa núi rừng. Cậu đây mà về dưới xuôi thì ai thấy chẳng khen?
Ông Thôi nghe mà lòng rối như tơ vò. Ông ho khẽ một tiếng, vội chen ngang:
- Ấy, bà đừng có khen lố. Nó ở nhà còn lười nhác, ngang bướng, chả được cái nết na gì đâu. Người ta dưới xuôi giàu sang, cưới nó về chỉ tổ mang nhục.
Ông càng nói, bà Dung càng cười, ánh mắt sáng rỡ như vừa bắt được vàng. Bà nghiêng đầu, giọng chậm rãi nhưng đầy ẩn ý:
- Ông Thôi à, lời ông nói tôi nghe hết. Nhưng bà Hội đồng đã dặn rõ: tìm cho được đứa nào hợp, giống như hoa lê trắng thì phải đem về báo tin ngay. Giờ tôi gặp rồi, không thể giấu.
Ngừng một lát, bà hạ giọng, rít khẽ từng chữ:
- Nếu tôi mà về nói lại với bà hội rằng, người thì có, nhưng chính ông trưởng làng Thôi từ chối... Ờ, vậy thì tôi cũng không biết làng này sẽ ra sao đâu.
Lời uy hiếp ấy tựa lưỡi dao lạnh buốt, khiến ông Thôi lặng sững. Đôi mắt ông ngập ngừng nhìn con trai, rồi lại hướng về phía bà mai; từng giọt mồ hôi chảy rịn trên trán như khắc rõ nỗi bàng hoàng.
Trong lòng ông, nỗi lo sợ cho cả thôn xóm hòa cùng niềm xót thương con trẻ, cuộn dâng nghẹn ứ nơi lồng ngực, muốn cất lời mà chẳng sao thốt nổi.
Khuê ngơ ngác, đưa mắt nhìn cha rồi lại nhìn người đàn bà xa lạ trước mặt, mãi mới dám cất giọng hỏi:
- Bà là ai, sao lại đến đây nói những lời kỳ lạ với cha tôi?
Người đàn bà khẽ cười, đáp:
- À, phải rồi, ta chưa xưng danh. Ta tên Dung, làm nghề mai mối, được bà hội đồng Khương sai lên đây, tìm cho bà một người dâu vừa ý, đúng như lời thầy mo bên Trung Du đã phán.
Nói đoạn, bà ta lại bật cười, tiếng cười vang lên đầy ngụ ý:
- Và kẻ được chọn, chính là cậu. Chúc mừng, từ nay cậu có thể bước chân vào chốn xa hoa, gấm vóc lụa là rồi đấy.
Khuê lặng đi một thoáng, rồi bỗng bật cười nhạt. Nụ cười ấy không chút hân hoan, mà chan chát chua cay:
- Bà coi tôi như món hàng sao? Thích thì mang ra đổi chác, muốn trao cho ai thì trao ư?
Em ngẩng đầu, giọng cứng rắn, từng chữ dằn xuống:
- Lụa là, vàng bạc... tôi không màng. Núi rừng này nuôi tôi lớn, cha má tôi dạy tôi sống, nào phải để một người đàn bà xa lạ tới đây vạch sẵn đường đời.
Ánh mắt Khuê lóe sáng, tựa lưỡi gươm giấu trong vỏ:
- Nếu quả thực bà được sai từ dưới xuôi lên, thì xin cứ trở về mà nói lại.
- Nhưng nhớ nói cho rõ: Thôi Phạm Khuê này không phải món hàng để mua bán, cũng chẳng phải thứ để người ta đi tìm!
Dứt lời, em quay phắt đi. Vai gầy mà thẳng, từng bước chân dội xuống nền gỗ nặng nề, để lại phía sau khoảng không lặng ngắt đến nghẹt thở.
Trong gian nhà sàn vách gỗ, bà Dung thoáng sững người. Song chỉ chốc lát, khóe môi bà đã khẽ nhếch, ánh nhìn thoáng lấp lánh vẻ toan tính. Càng khó bảo như thế, bà càng tin chắc: đây mới thực là "đóa lê trắng" mà bà Khương bằng mọi giá phải có được.
Bà Dung hừ khẽ, ánh mắt thoáng vụt qua một tia sắc lạnh từng chữ bật ra rắn rỏi, nặng như đá tảng:
- Này thằng ranh, mày cứ việc tỏ ra mạnh miệng tự quyết cuộc đời như mấy đứa học đòi phương Tây cải cách đi, rồi cái bản này và cha mày ra sao dưới tay bà hội thì tao không rõ.
- Nhưng tao cá chắc, cũng khó được sống yên ổn!
Dứt lời, bà đập mạnh cây quạt xuống tay. Âm thanh khô khốc vang vọng, như một dấu chấm dứt không thể vãn hồi. Bà hất tà áo dài, xoay người bỏ đi, bóng lẫn dần sau rặng cây, để lại khoảng sân chiều chạng vạng nặng trĩu, tưởng như cả không gian cũng sững sờ theo bước chân ấy.
Ông Thôi ngồi phịch xuống sàn, hai tay ôm đầu. Từ đôi vai gầy guộc, người ta thấy rõ sức nặng bao năm tháng đổ dồn.
Ông hiểu quá rõ uy thế nhà hội đồng Khương chỉ một lời thôi cũng đủ khiến cả bản này bật gốc, phải tha phương nơi đất lạ.
Tối đó, ông Thôi ngồi ngoài hiên, chén trà nguội ngắt trong tay. Căn nhà sàn cũ nằm lặng giữa thung lũng, chỉ nghe tiếng côn trùng rỉ rả. Trong lòng ông cứ canh cánh chuyện ban sáng, y như cái lu rỉ nước, chậm rãi mà dai dẳng, thế nào cũng đến ngày cạn đáy. Ông thở dài từng hơi nặng nề, nghe như kéo cả bóng tối xuống vai.
Khuê từ chiều đã chẳng yên, lẩn quẩn trong gian trong, lòng rối như tơ vò. Đến khuya, em không chịu được nữa, bước ra, thấy cha ngồi đó, dáng gầy gò in bóng xuống sàn gỗ, im lìm mà rầu rĩ.
Khuê lại gần, đặt bàn tay gầy lên vai cha, giọng run run:
- Cha... sáng nay rốt cuộc là chuyện gì vậy? Sao cha phải cúi đầu trước người đàn bà đó? Chúng ta có thể thẳng thừng từ chối mà.
Ông Thôi ngẩng lên, đôi mắt đã vẩn đục, lẫn mùi sương núi và bụi đời. Trong ánh nhìn ấy là cả một đời oằn mình gánh vác. Ông vỗ nhẹ vào chỗ trống bên cạnh:
- Lại đây, ngồi với cha.
Khuê lặng lẽ ngồi xuống. Lần đầu tiên, ông Thôi mở hết ruột gan với con, chẳng còn giấu giếm. Giọng ông trầm khàn, nhưng mỗi chữ rơi ra đều nặng như đá tảng:
- Khuê à... Từ ngày mẹ con mất, một mình cha vừa lo miếng ăn, vừa gánh cái chức trưởng làng. Người bản ai cũng nhìn vào cha. Họ nghèo, họ khổ... chỉ một lệnh của nhà hội đồng thôi, cả làng này có khi phải rời đi, chẳng còn chốn nương thân. Cha... cha không thể để dân mình chịu cảnh ấy.
Ông ngừng lại, giọng nghẹn trong cổ họng, đôi bàn tay run run như tự trách mình:
- Nhưng cha cũng không muốn con... phải đánh đổi cả đời. Duyên phận vốn dĩ phải do con chọn. Vậy mà cha... bất lực quá.
Khuê ngồi cạnh cha, bàn tay siết vào gấu quần, móng tay in hằn lên vải thô. Trong lòng em dậy sóng. Một bên là ước mong nhỏ bé được sống đời bình thường, tự chọn con đường đi, tự nắm lấy hạnh phúc.
Một bên là trăm ánh mắt trong bản, ngóng vào cha, rồi từ cha lại dồn cả lên vai em.
Em muốn vùng vẫy, muốn hét to rằng đời này là của em, không ai có quyền định đoạt. Nhưng rồi nhìn mái đầu cha bạc đi vì sương gió, nhìn đôi vai đã còng xuống vì gánh nặng, Khuê nghẹn lại.
Em cười, nhưng nụ cười nhạt thếch, đau như cắt thịt:
- Cha à... con hiểu rồi, thật lòng con cũng muốn được như người ta. Được chọn thương ai, được sống một đời bình thường.
- Nhưng... con biết. Con là con của núi, của bản. Nếu một bước chân của con có thể giữ lại mái nhà cho trăm người, thì con đi.
Em dừng, ánh mắt nhìn thẳng vào bóng tối phía trước, nơi ngọn đèn dầu chỉ đủ soi một vạt nhỏ:
- Dù không phải duyên con mong, nhưng nếu nó giữ được mái nhà cho dân bản, thì... cũng đáng.
Ông Thôi lặng người. Trong mắt ông, Khuê không còn là cậu bé bướng bỉnh ngày nào nữa, mà là một chàng trai đã biết gấp giấu ước mơ mình lại, đem hạnh phúc cả đời đánh đổi lấy sự yên ổn cho người khác.
Ngoài kia, gió hun hút trên triền núi, thổi qua những mái nhà sàn thấp bé. Trong gian nhà. Ngọn đèn dầu trước hiên lắc lư trong gió, ánh sáng vàng nhạt kéo dài bóng cha con họ Thôi trên vách nứa. Bóng hình ấy vừa mong manh vừa kiên cường, tựa như số phận đã khắc sẵn một đường đi không thể cưỡng, không thể quay đầu.
*
Trong khi đó, dưới xuôi, Khương Thái Hiền cậu cả độc nhất của nhà Hội đồng Khương vẫn tiêu dao cùng đám bạn nơi những tụ điểm ăn chơi sa hoa bật nhất Sài Gòn. Hắn miệng cười ngạo nghễ, dáng dấp phong lưu khiến bao cô gái trong đó phải ngẩn ngơ. Thói ngông nghênh của hắn vốn chẳng ai lạ: rượu ngon, tiếng hát, bạn bè phóng túng mới là cuộc sống mà Hiền ưa thích.
Chiều muộn, Thái Hiền thong thả trở về dinh, giày còn vương bụi đường. Chưa kịp thay áo, hắn đã nghe tiếng cha má gọi gấp gáp từ gian lớn.
Ông hội đồng ngồi ngay ngắn, thần sắc nghiêm khắc.
- Con đi đâu cả ngày, giờ mới ló mặt về?
Hiền phẩy tay, giọng nhởn nhơ:
- Thưa cha, con chỉ đi chơi thôi. Có chuyện gì mà cha má gọi con gấp gáp thế?
Bà Khương trầm mặt. Một lúc lâu, bà mới hắng giọng, tiếng dằn từng chữ:
- Hiền... lần này con phải nghe cha má.
Hắn chau mày, vẻ thiếu kiên nhẫn:
- Con nghe mãi rồi. Lại chuyện đất cát, tiền nong sao?
- Không!
Ánh mắt bà lóe lên, sắc như dao cắt.
- Là chuyện cưới xin. Đến lúc con phải thành gia lập thất rồi.
Hiền bật cười khinh bạc, tiếng cười vang mà lơ đãng:
- Con còn trẻ, cưới xin gì chứ? Ai ngu mới chịu gả con cái cho con.
Hắn nói vậy cũng chẳng sai. Ai mà chẳng biết, tuy hắn có đầu óc lanh lợi và giàu có, nhưng thói ăn chơi đã quen. Có khi, con cái nhà nào dại dột gả cho hắn xong chỉ còn biết ngày ngày ngồi trong khuê phòng, khóc cạn nước mắt vì chồng mình mải mê rượu chè, cặp kè với kẻ khác.
Ông Khương đập mạnh bàn, giọng đanh lại:
- Người ta có không muốn, thì cũng sẽ phải muốn trước quyền thế nhà này. Cha má đã chọn kỹ cho con rồi.
Nụ cười trên môi Hiền lập tức tắt lịm.
- Ai? - giọng hắn trầm xuống, ánh mắt thoáng dao động.
Ông hội đồng nói chậm rãi, từng chữ nặng như đá lăn:
- Một cậu trai miền núi. Tên là Thôi Phạm Khuê. Con trưởng của ông trưởng làng Tây Bắc.
Hiền bật dậy, gương mặt biến sắc, giọng vỡ òa trong cơn giận dữ:
- Cái gì? Cưới... cưới một đứa miền núi xa xôi? Cha má đang đùa con sao?!
Ông Khương nhấp ngụm trà, điềm nhiên đáp:
- Không đùa. Dù con muốn hay không, cũng phải cưới. Chuyện này không chỉ cho riêng con, mà là cho vận khí cả nhà ta.
Thái Hiền cau mày. Mê tín gì nữa đây? Cha má xưa nay vốn chẳng hề tin, giờ cớ sao lại nghe theo lời tên thầy mo lang băm ở Trung Du, đến mức bắt hắn phải cưới một đứa nhà quê?! Trong lòng hắn dậy sóng bất mãn, nhưng chưa kịp cãi, bà Khương đã cất lời, giọng mềm mỏng mà tha thiết:
- Con à, nghe lời má. Con phải tin vào chuyện này. Chuyến hàng lụa sang Nhật kia, chẳng phải đã xảy ra y như lời ông thầy mo đã nói sao? Con nhất định phải cưới nó về.
- Sau này, con muốn thế nào má cũng chiều, lấy thêm vợ hai, vợ ba, má cũng không ngăn. Nhưng nếu nhà mình không cưới nó, e rồi tai họa sẽ giáng xuống, chẳng ai tránh khỏi.
Bà ngừng một thoáng, lại hạ giọng:
- Nhà mình dù sao cũng là dân làm ăn, có kiêng có lành, tin một chút cũng chẳng thiệt thòi gì.
Lời bà Khương làm Hiền thoáng khựng lại. Hắn ngước nhìn cha, dò xem ông có phản đối gì chăng, nhưng ông Khương vẫn ngồi lặng, dáng điềm nhiên, ánh mắt sâu kín khó dò. Vậy ra cả nhà đã quyết rồi... Nếu thế, mình còn chống cự làm gì?
Trong đầu hắn xoay vần đủ tính toán: cưới một kẻ nhà quê, trên danh nghĩa thì có hại gì? Trái lại, nhờ chuyện này, cha sẽ thôi trách mắng, còn hắn thì được thả lỏng muốn chơi bời thế nào cũng được. Một nước cờ lợi cả đôi đường, tại sao không?
Hắn làm bộ trầm ngâm, ra vẻ còn cân nhắc, nhưng trong lòng đã ngầm xuôi theo. Cuối cùng, hắn ngẩng đầu, giọng như thuận ý nhưng vẫn còn chút thách thức:
- Được rồi. Theo lời cha má, con đồng ý.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com