tam quoc chi 001
tamquocchi001
Hồi Thứ Nhất -Tam Quốc Chí
- La Quán Trung
Hội Ðào Viên Anh Hùng Kết Nghĩa
Ðánh Huỳnh Cân Hào Kiệt Lập
Công
Phàm thế cuộc trong thiên hạ (1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như
nhà Châu mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối.
Rồi khi nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã
diệt Sở để thu về một mối.
Nhà Hán kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên
hạ, giữ lấy ngai vàng cho Ðến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn
thần là Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (2), rồi truyền Ðến đời vua Hiến
Ðế thì bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua
Hoàn Ðế và Linh Ðế.
Vua Hoàn Ðế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm
cho thế nước bị suy vi. Khi vua Hoàn Ðế băng hà, vua Linh Ðế lên nối ngôi, có
quan Ðại Tướng Quân Ðậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước.
Hai vị tôi thần nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn
quan Tào Tiết chuyên quyền làm bậy. Ðậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này
để trừ tai họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị
chúng hãm hại.
Từ đó, bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu,
tác quái.
Năm Kiến Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Ðế), tháng tư ngày rằm, nhà vua
ngự ra điện Ôn Ðức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn
nổi lên, rồi một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm
ngang trên ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa
vua vào nội cung cứu cấp.
Nhưng chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận
cuồng phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn
nửa ngày, nhà cửa bị hư sập vô số.
Vào tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi
nước biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị
sóng cuốn ra khơi mất tích.
Cũng vào đời vua Linh Ðế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã,
có một con gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc
khí dài hơn mười trượng bay thẳng vào điện Ôn Ðức.
Cũng vào mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Ðường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng
chói. Sườn núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người.
Chỉ trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua
buồn bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như
vậy?
Quan Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống
là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước..."
Lời tâu rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ
thở dài rồi quay vào thay áo.
Bấy giờ Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức
giận vô cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và
cách chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý.
Sau đó bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển
Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là
"Thập Thường Thị" chuyên làm điều gian ác.
Vua Linh Ðế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc
triều chính đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Ðến nỗi kêu Trương Nhượng
bằng "Á phụ".
Triều đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi
dấy loạn lên như ong vỡ tổ.
Bấy giờ, tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo,
và Trương Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày
vào núi hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài
đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang
núi, rồi trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn:
- Ðây là bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này,
con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ
gặt lấy quả báo không nhỏ.
Trương Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão.
Ông lão nói:
- Ta chính là Nam Hoa Lão Tiên đây.
Dứt lời hóa thành luồng gió mát bay đi mất.
Trương Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách
kêu mưa gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân".
Vào tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Ðế), có bệnh thời
khí nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng
gian, lấy hiệu là "Ðại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy thêm được
hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia nhau vân du
khắp nơi.
Thấy việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ
nhau theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm.
Trương Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường,
mỗi phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi
Trương Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó.
Chưa hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết,
trời vàng nên lên thay. Ðến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát".
Giác lại truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai
chữ "Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện,
Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Ðại Hiền lương sư Trương Giác"
mà thờ.
Trương Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng
bạc gấm vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội
ứng.
Trương Giác lại bàn với hai người em rằng:
- Cái khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không
thừa cơ đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm.
Rồi Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai
một tên đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Ðường
Châu không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo
biến.
Thế là việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu
Ðại Tướng Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ
ngục cả gia quyến Phong Tư hơn ngàn người.
Trương Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng
Quân, phong cho Trương Bảo làm Ðịa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công
Tướng Quân.
Giác lại rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân
xuất thế, ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc."
Thế là khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng
theo Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài.
Hà Tiến liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng
ngự, ngăn địch lập công. Ðồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung,
và Châu Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc.
Bấy giờ, giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu
xâm lấn. Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng,
vùng Giang Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán.
Lưu Yên thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu Úy Châu
Tĩnh vào bàn kế.
Châu Tĩnh nói:
- Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công
nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này.
Lưu Yên nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh.
Ngày kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số
dân chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ
ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt
trong thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như
thoa son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Ðức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu
Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Ðế nhà Hán.
Nguyên trước kia, thời Hán Vũ Ðế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong
tước Trác Lộc Ðình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng
vàng hành lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (3), và từ đấy con cháu
mới có một chi dời về Trác Quận lập nghiệp.
Lưu Huyền Ðức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu
Liêm, rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm.
Huyền Ðức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo,
Huyền Ðức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu
Tang, phía Ðông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông
như một chiếc lọng vậy.
Ðã có nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói:
- Nhà này ắt sanh quý tử.
Lúc còn nhỏ, Huyền Ðức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng
dưới gốc cây dâu mà nói:
- Tao làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy!
Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng:
- Cháu chỉ nói bậy.
Tuy vậy, Nguyên Khởi cũng nói rằng:
- Thằng bé này phải là một người phi thường mai sau.
Nhân thấy nhà Huyền Ðức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Ðức
ăn học. Năm Huyền Ðức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền
và Lư Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản.
Ðến nay, Huyền Ðức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản
chiêu quân của Lưu Yên, Huyền Ðức cảm khái thở dài một tiếng.
Bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói lớn:
- Ðại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?
Huyền Ðức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như
cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là
người thường, Huyền Ðức liền hỏi thăm tên họ.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Ðức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy
làm nghề bán rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao
những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than
thở nên hỏi thử một lời.
Huyền Ðức nói:
- Tôi vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc
giặc "Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì sức
chưa làm được nên đau lòng than thở.
Trương Phi nói:
- Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương
dũng, rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng?
Huyền Ðức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong
lúc hai người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc
xe để ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói:
- Ðem rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu
quân giết giặc.
Huyền Ðức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như
thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt.
Biết người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Ðức vội đứng dậy tiếp
mời vào ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải
Lương, tỉnh Hà Ðông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân
lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ
đã hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên muốn đầu
quân trừ giặc, cứu an bá tánh.
Huyền Ðức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba
chung rượu rồi theo Huyền Ðức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc.
Trương Phi nói:
- Muốn làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà
tôi có một vườn đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo
trời đất, kết làm anh em.
Huyền Ðức và Vân Trường đồng thanh khen phải.
Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong
vườn đào. Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng:
"Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh
em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp
yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ
nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám
lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt."
Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Ðức được làm anh cả, Vân Trường
làm thứ, Trương Phi làm em út.
Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn
đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn
ba trăm người, vui say một bữa thật no nê.
Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm
một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi.
Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo:
- Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang
đi về hướng trang trại này.
Huyền Ðức nói:
- Ðây là trời giúp ta!
Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang
trại.
Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là
Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống
ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi
qua được.
Sau khi đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Ðức hối dọn tiệc đãi
đằng, rồi đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương
vui lòng hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc,
một ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ.
Khách cáo từ, Huyền Ðức tạ ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế
một đôi song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm
nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi rèn một cây
trượng "Bát điểm cương mâu".
Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt
quan Thái Thú Lưu Yên.
Lưu Yên hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Ðức còn
nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Ðức
làm cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác).
Vào thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo:
- Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy
nhiễu Trác Quận.
Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Ðức cùng năm trăm quân hương
dũng đi trước phá giặc. Anh em Huyền Ðức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo
trực chỉ đến chân núi Ðại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến
đó.
Huyền Ðức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương
Phi yểm hộ.
Huyền Ðức giơ roi thét mắng quân giặc:
- Phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm.
Trình Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Ðặng Mậu ra đánh. Ðặng Mậu vừa nhảy ra
đã bị Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống
ngựa.
Thấy Phó Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao
đến đánh Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Ðao cản lại. Uy lực của
Vân Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân
Trường chém một đao đứt làm hai đoạn.
Người sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau:
Anh hùng xuất trận buổi đầu tay,
Một thử xà mâu, một thử đao.
Khí tiết rạng ngời oai lực khét,
Chia ba thiên hạ rạng anh hào.
Quân giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Ðức xua quân đuổi đánh,
chúng đầu hàng vô số.
Ðoàn quân đắc thắng kéo vọ
The version you are using is unregistered trial. It only can output the first 5 files at once. Please register to convert more than 5 files at once.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com