Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần 1 - Chương 6.1: Nỗi sầu của tiểu hồ ly

Đoạn đầu của mối tình này, Phượng Cửu biết, hồi đó vẫn chưa có liên quan gì đến Cơ Hành.

Ngày hôm đó của ba trăm năm trước, khi tiên quang chói lọi phá vỡ đỉnh Phù Vũ, Đông Hoa ung dung bước ra khỏi Thập Ác Liên Hoa Cảnh, việc đầu tiên chàng làm không phải là đi hỏi tội Yên Trì Ngộ, mà là đưa nàng về cung Thái Thần. Tầng trời thứ 13 mênh mông, dưới những hàng cây sa la rợp bóng, mấy chục tiên bác từ cung Thái Thần nhất loạt quỳ rạp đến tận thiên môn của tầng trời thứ 13 để thỉnh tội không bảo vệ chu đáo ngọc Tỏa Hồn. Đông Hoa sải bước trên mênh mang mây xanh và Phật âm đi thẳng vào cung môn, các vị tiên bác tự cảm thấy mắc trọng tội chỉ muốn đập đầu xuống đất tạ tội. Trong số đó có rất nhiều vị từng là những dũng tướng hiển hách trong chiến sử hồng hoang mà nàng đã nhìn thấy chân dung trong sách khi còn đi học.

Đông Hoa đặc biệt giao nàng cho Trọng Lâm, tiên quan trông coi sổ sách cẩn thật nhất cung Thái Thần chăm sóc, nhưng Phượng Cửu không muốn Trọng Lâm chăm sóc, nàng cảm thấy Đông Hoa thay băng, rửa vết thương chải lông cho nàng rất khéo, bộ vuốt bé nhỏ một mực bám chặt vạt áo Đông Hoa không cho chàng đi. Đông Hoa giơ nàng cách xa một sải tay, chân nàng ngắn, chới với mãi không sao chạm tới chàng, ánh mắt ỉu xìu thất vọng.

Hai nữ tiên nữ có vẻ bạo gan đứng bên cười khúc khích, Phượng Cửu cảm thấy bị xúc phạm, quắc mắt lườm họ. Đôi mắt lạnh nhạt của Đông Hoa lúc này cũng lộ ra ánh cười hiếm hoi, nhấc nàng đặt lên chiếc trường kỷ, xoa đầu nàng. Phượng Cửu cho là cử chỉ đó có nghĩa chàng thấy nàng đáng yêu, chớp cơ hội định mặt dày nhảy lên ngực chàng lần nữa, nhưng Đông Hoa đã vẽ một vòng tròn xung quanh nàng, tạo kết giới giữ nàng lại, còn dặn mấy nô bộc đứng bên: "Tiểu hồ ly rất hiếu động, trông nom cẩn thận, đừng để nó chạy lung tung, tránh để vết thương ở chân nặng thêm."

Phượng Cửu vẫn muốn theo chàng, sử dụng tuyệt chiêu lợi hại giả vờ hu hu khóc, còn giơ chân giả bộ lau nước mắt. Có lẽ khóc không thật, lúc lén liếc Đông Hoa liền bị bắt gặp, vẫn mặt dày dụi mắt tiếp tục khóc, Đông Hoa đứng tựa cửa sổ nhìn nàng: "Ta rất thích chọc kẻ khác khóc, khóc to nữa lên". Tiếng khóc của nàng liền nghẹn trong cổ. Thấy nàng không khóc nữa, chàng mới đi đến, giơ tay vuốt đám lông tơ trên đầu nàng: "Phải ngoan, nghe lời Trọng Lâm, mấy ngày nữa công việc xong xuôi ta lại đến đón ngươi về". Nàng ngửa mặt nhìn chàng rất lâu mới đành khuất phục, miễn cưỡng gật đầu.

Phượng Cửu còn nhớ, lúc Đông Hoa cúi nhìn nàng trông rất dịu dàng. Thực ra bây giờ nghĩ lại cũng thấy chẳng khác gì bộ dạng của cô cô Bạch Thiển lúc đọc kịch bản hoặc Ti Mệnh lúc xem cuốn sổ mệnh số người trần, rõ ràng là bộ dạng chủ nhân nhìn... vật cưng của mình.

Phượng Cửu thở dài. Tất cả những chuyện cũ vẫn rõ ràng như mới, nhớ lần đó ba, bốn ngày trôi qua mà Đông Hoa cũng chưa quay lại đón nàng, cuối cùng do đợi chờ quá sốt ruột nàng mới lừa Trọng Lâm bỏ kết giới, khi nàng lén chuồn ra ngoài tìm Đông Hoa, giữa đường lại gặp Ti Mệnh ở Nam Thiên môn. Trước kia, nàng không cảm thấy trong ba, bốn ngày đó có thể xảy ra chuyện gì lớn, lúc này mấy trăm năm sau, nghe Yên Trì Ngộ mặt mũi hớn hở nói một hồi mới biết trong ba, bốn ngày đó xảy ra mấy chuyện, chuyện nào cũng kinh thiên động địa.

Đây là nửa sau câu chuyện giữa ba người: nàng, Đông Hoa và Cơ Hành mà nàng chưa biết.

Trong mấy ngày Đông Hoa mất tích, chắc chắn là đi tìm Tiểu Yên tráng sĩ khiêu chiến và chắc chắn đã thắng, về đoạn này Tiểu Yên tráng sĩ chỉ nói mập mờ, có lựa chọn và rất vắn tắt, cuối cùng y giơ tay xoa mũi nói: "Thật ra theo lý thì sau khi đánh nhau với lão tử, hắn nên từ đâu đến thì cút về nơi đó, lão tử không hiểu tại sao hắn còn quanh quẩn ở núi Bạch Thủy."

Phượng Cửu đội cái lá to hái ở cạnh tảng đá, che bớt ánh nắng gay gắt trên đầu trả lời Tiểu Yên: "Có lẽ đánh nhau xong ngài ấy cảm thấy vẫn còn thời gian rỗi, liền nhân tiện đi núi Bạch Thủy tìm cây long não và cây thanh..."

Cách giải thích này đâm vào trái tim nhạy cảm, không chịu thua của Tiểu Yên tráng sĩ, ánh mắt phẫn nộ và ưu phiền của chàng ta đã đẩy lùi chữ "liên" cuối cùng sắp ra khỏi miệng Phượng Cửu: "Thân thể lão tử tráng kiện thế này, trong mắt ngươi lại là đối thủ yếu ớt vậy sao? Vừa đánh nhau xong với lão tử, hắn lại có thể thư nhàn du sơn ngoạn thủy, thưởng hoa, ngắm cây ư?"

Phượng Cửu im lặng nhìn y giây lát, mặt thản nhiên chỉnh lại lá cây trên đầu: "Đương nhiên không phải, ý ta là...". Nàng dừng một chút: "Có lẽ ngài ấy đến núi Bạch Thủy tìm thảo dược trị thương cho mình."

Tiểu Yên tráng sĩ dĩ nhiên khá thích cách lý giải này, gật đầu, trịnh trọng nói: "Ngươi nói đúng, để tìm thảo dược trị thương cho mình, Mặt lạnh đã lần mò tới núi Bạch Thủy". Y lại tiếp tục câu chuyện: "Nếu không sao lại nói ông trời không có mắt, đúng lúc đó Cơ Hành cũng chạy đến núi Bạch Thủy..."

Đúng như Phượng Cửu nói, Đông Hoa đến núi Bạch Thủy quả thực là để tìm kiếm hai thánh phẩm điều chế hương liệu trong truyền thuyết. Trong đầm Bạch có mọc loài sen xanh có tuổi đời cả vạn năm và cây long não sát cạnh cây sen xanh, là một kì quan của núi Bạch Thủy. Do hai loại cây có mùi hương đó sống dựa vào nhau nên trong hoa có hương gỗ, trong gỗ có hương hoa, vạn năm nay không biết đã thu hút bao nhiêu đại sư chế hương lặn lội đến tìm.

Sở dĩ phải "lặn lội đến tìm" là do bản thân núi Bạch Thủy địa thế vô cùng hiểm trở, lại thêm trong đầm Bạch có một con giao dữ sinh sống, những đại sư chế hương không có chút tài phép đến đây đều bỏ mạng trong đầm, trở thành bữa tiệc thịnh soạn cho con giao dữ nọ. Phượng Cửu hồi nhỏ rất muốn thuần phục con giao dữ làm thú cưng, cũng có nghe nói về con giao nổi tiếng này, thế nên khi Đông Hoa trở về cung Thái Thần, thản nhiên lôi trong tay áo ra một bọc nhụy sen sấy khô và mấy miếng nhựa long não, nàng hiểu ngay con giao trứ danh ở núi Bạch Thủy mà nàng rất ưng ý e là đã xúi quẩy rồi.

Còn chuyện Cơ Hành đi núi Bạch Thủy lại liên quan đến một bí mật của Ma tộc.

Lúc Cơ Hành còn rất nhỏ, ca ca nàng là Húc Dương, Ma quân của Xích chi đã cử riêng một thị vệ bảo vệ nàng. Thị vệ này mặc dù xuất thân bình thường, nhưng từ nhỏ có khuôn mặt thông minh lanh lợi, rất được các bậc trưởng bối yêu thích, được Vương thái hậu cô quả trong thâm cung rất mực sủng ái. Đến nỗi khi Húc Dương cảm thấy để tiểu đồng xinh đẹp như vậy theo hầu Cơ Hành không thỏa đáng lắm, định lựa một người kém sắc hơn thì người đầu tiên phản đối kịch liệt lại là mẫu thân của họ. Vương thái hậu đầu tiên là khóc lóc rồi làm ầm ĩ cuối cùng dọa tự vẫn. Cơ Hành còn nhỏ chưa hiểu chuyện cũng đứng bên dụi nước mắt phụ họa theo, tiểu thị vệ tên Mẫn Tô mặt đầy vẻ ngây thơ giật ống tay áo gã cầu xin: "Quân thượng, ngài làm thái hậu khóc rồi, mau dỗ đi người đi". Húc Dương điên đầu, đành chịu thua.

Về sau tiểu thị vệ Mẫn Tô lớn dần, trở thành một trang nam nhi tuấn tú, Húc Dương càng nhìn tiểu thị vệ càng thấy không ổn. Mẫn Tô dùng bữa với họ nhưng không hề động đến rau cần và cà tím giàu chất dinh dưỡng, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Mẫn Tô mặc áo chùng màu màu trắng ánh trăng, vô cùng xinh đẹp và tràn đầy sức sống, Cơ Hành khen ngợi xích lại gần nói thêm vài câu với tiểu thị vệ đó, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Mẫn Tô nửa đêm luyện kiếm ở hoa viên, luyện kiếm thì không hề chi, nhưng lại không biết đường chuẩn bị cái khăn để lau mồ hôi, nhỡ cảm lạnh sao chăm sóc được Cơ Hành, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Con ngựa của Mẫn Tô gần đây bị ốm đi lại không tiện, nếu Cơ Hành có việc sai tiểu tử đó đi xa, làm sao đi nhanh được, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Vậy là Húc Dương hạ một đạo chỉ, đại ý có bốn điểm: Thứ nhất, mỗi người nhất thiết bữa nào cũng phải ăn rau cần và cà chua; thứ hai, trong cung không được may xiêm áo giày vớ bằng lụa màu trắng ánh trăng; thứ ba, ra ngoài luyện kiếm phải mang theo khăn lau mồ hôi, không mang theo bị phạt nặng; thứ tư, trong cung xây một chuồng ngựa, ngựa của ai bị ốm có thể đến mượn dùng. Quả nhiên, chuồng ngựa dựng xong, mới đưa ngựa vào, Mẫn Tô đã hớn hở đến mượn một con, hơn nữa dạo này tiểu tử đó do kiên trì ăn rau cần và cà tím, cơ thể mảnh mai đã trở nên rắn chắc hơn nhiều, Húc Dương một mặt cảm thấy hài lòng, một mặt tự nhủ, tất cả đều vì Cơ Hành. Chàng cảm thấy vì tiểu muội chàng đã vất vả, nhọc lòng bao nhiêu.

Là một trong bảy vị quân vương của Ma tộc, công việc của Húc Dương vốn đã nhiều lại phức tạp, mỗi ngày lại phải phân tâm để ý đến tiểu muội và tiểu thị vệ điển trai kia. Hôm nay Mẫn Tô nói mấy câu với Cơ Hành? Có phải nhiều hơn hôm qua hai câu? Khoảng cách gần nhất mà Mẫn Tô ở bên Cơ Hành là mấy thốn? Có phải gần hơn một thốn so với hôm qua? Từng việc dù nhỏ nhất gã đều bận tâm, lo lắng. Hơn nữa chỉ cần có mặt Mẫn Tô, ánh mắt gã luôn không tự chủ được, luôn liếc xem cậu ta có biểu hiện nào không đúng thân phận đối với Cơ Hành không. Nhưng cho đến khi cùng Thiên tộc nghị bàn xong hôn sự của Cơ Hành, quyết định gả nàng vào cung Thái Thần của Đông Hoa Đế Quân, dấu hiệu tư tình của hai người trong tưởng tượng của Húc Dương vẫn không xuất hiện, lòng gã không hiểu sao lại có một chút thất vọng, nhưng đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm gã cảm thấy Mẫn Tô rất ổn, cảm thấy cái vẻ lanh lợi của tiểu tử đó khi tỏ ra ngoan ngoãn cũng có vài phần khiến người ta yêu mến, dần dần gã bất giác nói chuyện hòa nhã với Mân Tô hơn trước vài phần.

Nhưng không biết vì sao từ sau đó, Húc Dương thấy Mẫn Tô thường lặng lẽ ngồi một mình ngơ ngẩn trong hoa viên, gã thong thả bước đến trước mặt cũng chẳng mấy khi nhận ra, nếu có sực tỉnh phát hiện ra gã, thì gã chưa kịp lên tiếng cậu đã chạy biến như con thỏ. Có lần gã quả thực rất hiếu kỳ, khi Mẫn Tô lại định chuồn, gã tóm lấy gáy áo Mẫn Tô, ai ngờ tiểu tử đó lại dùng đến cả chiêu ve sầu thoát xác, ngang nhiên chạy trốn khỏi tay gã, để lại chiếc áo rộng trống không trong tay gã bay bay trong gió. Húc Dương cầm chiếc áo, đứng nguyên chỗ đó rất lâu, cảm thấy hơi kỳ lạ. Mấy ngày sau gã không thấy Mẫn Tô đâu, hoặc là từ xa thoáng thấy một góc vạt áo giống áo Mẫn Tô, nhìn kỹ lại đã biến mất tăm, Húc Dương nghi ngờ mắt mình gần đây hơi kém.

Húc Dương từ nhỏ đã rất chú ý dưỡng sinh, luôn có thói quen đi dạo trong hoa viên sau bữa trưa, hôm nọ, Húc Dương đi đến bờ ao, từ xa đã nhìn thấy bóng một người trông giống Mẫn Tô mà mấy ngày nay gã không gặp đang cắm cúi làm gì bên ao sen, gã nhón chân bước tới gần, quả nhiên là cậu ta, mặc chiếc áo màu xanh biếc, đang cầm bút bò trên tảng đá như một quả mướp tô tô vẽ vẽ gì đó, bộ dạng vừa chăm chú vừa thành kính. Húc Dương biết Mẫn Tô từ nhỏ không thích bút nghiên, lớn bằng ngần ấy chỉ biết vài trăm chữ, làm sao có thể viết được gì, gã quả thật có chút hiếu kỳ, trầm ngâm hồi lâu, ẩn thân đến sau lưng đứng xem.

Bên bờ ao, gió mang hơi sen thoáng lạnh, trên nửa trang giấy Tuyên Thành là chữ hoặc hình vẽ xiêu xiêu vẹo vẹo, xâu chuỗi lại có mấy câu cũng rất văn vẻ như câu "đêm về cảnh đẹp như thi, nhớ người trằn trọc đến khi sáng trời" rất có ý tứ. Húc Dương tuy không rành chuyện phong tình, cũng có thể nhìn ra đây là bài thơ tình, phần mở đầu không thấy đề tặng ai, cũng khó đoán rốt cuộc tiểu tử đó định viết cho ai.

Húc Dương giơ tay giặt phắt nửa bức thư tình trên bàn đá, Mẫn Tô đang cắn bút trầm tư, ngẩng đầu nhìn thấy gã, mặt bỗng đỏ lựng, vô thức giơ tay định giật lại nhưng không được.

Gió nhẹ thổi qua làm tờ giấy hơi cuốn lên, Húc Dương vừa đọc vừa đoán từng chữ một cách hết sức vất vả, ngâm nga đọc hai câu: "Trước giường ánh trăng bạc, trằn trọc giấc chẳng nên". Dừng lại hỏi: "Viết cho ai?".

Mẫn Tô bình thường hoạt bát như một con khỉ con, lúc này mặt lại cúi gằm, tai đỏ lựng nhưng không trả lời.

Húc Dương hiểu ra: "Viết cho Cơ Hành?"

Mẫn Tô kinh ngạc ngẩng nhìn gã một cái thật nhanh rồi lại lập tức cúi xuống.

Húc Dương tiếp tục đứng trước mặt cậu ta, nhìn bộ dạng như ngầm thừa nhận của cậu ta, dần cảm thấy tức giận. Gã tiểu thị vệ này dám thích tiểu muội của gã, vậy mà trước nay không để lộ dấu vết. Gã nghĩ, lẽ nào là do trước đây không gặp trắc trở gì kích động cậu ta, còn bây giờ thấy mình sắp đặt cho Cơ Hành một đám tốt nhất nhì bốn bể tám cõi, cho nên mới khiến tiểu tử đó phát hiện ra nỗi niềm chôn sâu trong lòng đã lâu? Nhìn bộ dạng này, nhất định đã không thể nào kìm nén được tình cảm với Cơ Hành nên mới viết thư tình cho muội ấy. Đương nhiên, Cơ Hành là nàng công chúa đáng yêu, rất xứng với bức thư tình này... Húc Dương bực bội suy nghĩ một hồi nhưng không để lộ ra mặt, một lúc lâu sau mới "hừ" một tiếng rồi bỏ đi.

Hai ngày sau, tin Yên Trì Ngộ giao đấu với Đông Hoa ở núi Phù Vũ đã lan truyền khắp vùng Nam Hoang yên tĩnh bao năm, truyền đến tai Cơ Hành. Cơ Hành lòng bỗng thấy áy náy, trong đêm mưa tối mịt mùng không từ mà biệt một mình chạy đến núi Phù Vũ để can gián. Ngay đêm Cơ Hành rời khỏi nhà, mấy thị vệ xông vào phòng Mẫn Tô trói cậu ta đang mặc nguyên quần áo nằm ngơ ngẩn đưa ra khỏi cung.

Lúc này, bên cạnh thủy kính, Húc Dương một mình bày một ván cờ, vừa suy nghĩ nước đi, vừa bồn chồn quan sát động tĩnh trong thủy kính. Gã nhìn thấy lúc đầu Mẫn Tô không ngoan ngoãn chịu để cho thị vệ trói mà nhanh nhẹn rút thanh kiếm ở đầu giường chặn toán thị vệ, đến khi thị vệ trưởng mặt đầy vẻ khó xử nói: "Quân thượng hạ lệnh đưa ngươi đến núi Bạch Thủy phản tỉnh lỗi lầm", thanh bảo kiếm trong tay Mẫn Tô mới "keng" một tiếng rơi xuống đất, các thị vệ mới nhân cơ hội xông đến trói gô cậu ta lại. Khi Mẫn Tô đã bó tay chịu trói, Húc Dương nghe thấy tiểu tử đó buồn rầu hỏi thị vệ trưởng: "Tôi biết mình có tội... nhưng có đúng ý quân thượng là phải đến núi Bạch Thủy?" Thị vệ trưởng thở dài: "Đúng là quân thượng nói núi Bạch Thủy". Nghe lời xác nhận đó, Mẫn Tô im lặng cúi đầu, từ chỗ của mình Húc Dương cũng không nhìn ra vẻ mặt Mẫn Tô lúc đó. Chỉ khi áp giải Mẫn Tô ra khỏi tẩm cung của Cơ Hành mới thấy cậu ta đột nhiên ngẩng đầu nhìn về phía điện Xích Hồng nơi thường ngày chàng nghị sự, mặt trắng bệch không sắc máu, nhưng ánh mắt lại rất bình thản.

Tạm thời giam lỏng Mẫn Tô lại, sau đó nhốt ở núi Bạch Thủy, để đưa ra quyết định này, Húc Dương cũng phải suy nghĩ rất lung. Bởi lẽ trong bốn bể tám cõi, vùng đất rộng lớn nhất chính là Nam Hoang do Ma tộc thống lĩnh, thứ đến là Tây Hoang do Quỷ tộc thống lĩnh. Còn nước Thanh Khâu của Bạch hồ tộc chín đuôi, các vùng sở thuộc như đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc đứng đầu là Đông Hoang, tổng thổ địa cũng chỉ bằng Nam Hoang. Địa bàn của Thiên tộc nhiều hơn một chút, ba sáu tầng trời và bốn biển đông tây nam bắc dưới đất cùng với Bắc Hoang đều dưới quyền cai quản của họ, có điều nhân khẩu của Thiên tộc quả thực cũng nhiều hơn, lại thêm hàng năm những bậc tiên tu ở phàm thế ngoài giới thần tiên của bốn bể tám cõi sau khi tu tiên đắc đạo cũng nhập vào Thiên tộc nên gánh nặng của Thiên tộc cũng nặng nề hơn. Tuy vậy, mặc dù Ma tộc hưởng đức của tổ tông chiếm cứ vùng đại lục rộng nhất bốn bể tám cõi, tiện bề thống lãnh, nhưng trên đại lục này cũng có không ít rừng thiêng nước độc, núi Bạch Thủy chính là nơi nguy hiểm nhất. Người dân ở thôn làng gần đó gọi nó là ngọn núi đã vào là không thể thoát ra. Ngọn núi này địa hình hiểm trở, núi cao sừng sững thế dốc đứng cả bốn mặt, bên trong quanh năm đầy chướng khí độc, thảo mộc sinh trưởng ở đây đa phần đều có độc, dã thú do sinh sống trong môi trường khắc nghiệt cũng trở nên vô cùng hung dữ. Người nào lọt vào đây khỏi lo không tìm được kiểu chết phù hợp với mình, đúng là thánh địa để tự sát. Vì thế khi nghe tin Húc Dương muốn giam mình ở núi Bạch Thủy, sắc mặt Mẫn Tô xám ngoét như vậy cũng không phải không có căn nguyên.

Thực ra phản tỉnh lỗi lầm thì ở đâu chẳng được, Húc Dương chọn núi Bạch Thủy, một là để tách Cơ Hành và Mẫn Tô ra, chàng cảm thấy nếu Mẫn Tô dám bạo gan thổ lộ, Cơ Hành ngây thơ lương thiện chưa biết chừng sẽ đồng ý cũng nên, như vậy sẽ trở thành chuyện đàm tiếu đáng xấu hổ của vương tộc. Hai là đưa Mẫn Tô đến núi Bạch Thủy, cho dù Cơ Hành từ núi Phù Vũ trở về biết tin, với mối giao tình cùng lớn lên bên nhau từ nhỏ muốn cứu cậu ta cũng không thể đi được, chắc sẽ đến tìm chàng khóc lóc ầm ĩ, như vậy cũng không sao. Chàng chỉ có một đối sách, đó là trì hoãn, trì hoãn cho đến khi gả Cơ Hành cho Đông Hoa rồi thả Mẫn Tô, cách này rất ổn thỏa. Vả lại, Mẫn Tô từ nhỏ bẩm sinh đã có bản lĩnh bách độc không thể xâm nhập vào cơ thể, mặc dù núi Bạch Thủy nhiều mãnh thú, nhưng là thị vệ của công chúa, ngay mấy con mãnh thú cũng không trị nổi thì cũng không xứng là thị vệ của công chúa. Với suy tính như thế, Húc Dương thản nhiên ra chỉ lệnh đưa Mẫn Tô đến núi Bạch Thủy.

Cách lớp thủy kính ánh mắt nhìn về phía này lần cuối của Mẫn Tô làm quân cờ trong tay Húc Dương tuột ra, lăn theo mép bàn rơi xuống đất, gã nhận ra nét bối rối trong đôi mắt bình thản đó. Húc Dương cầm quân cờ lên thầm nghĩ, cậu ta từ nhỏ chưa từng ra khỏi cung Đan Linh, đưa đến núi Bạch Thủy rèn luyện cũng không phải không hay. Nhưng ngộ nhỡ Mẫn Tô không trở về được nữa thì sao, điều này gã chưa hề nghĩ tới.

Cái đêm Cơ Hành từ núi Phù Vũ trở về, Nam Hoang có một trận mưa như trút nước, chuyện Mẫn Tô bị phạt tự phản tỉnh tất nhiên đã truyền đến tai Cơ Hành. Húc Dương ngồi trong điện Xích Hồng vừa pha trà vừa chờ tiểu muội đến hỏi tội, nhưng đã uống hết cả mạt trà vẫn chưa thấy bóng dáng Cơ Hành. Đến sáng sớm hôm sau, thị nữ của Cơ Hành tay nâng váy loạng choạng chạy đến cửa tẩm điện của chàng, Húc Dương mới biết tiểu muội của mình đã biến mất. Đương nhiên chàng cũng đoán ra Cơ Hành đến núi Bạch Thủy cứu Mẫn Tô. Chàng cảm thấy mình đã đánh giá quá thấp nghĩa khí của tiểu muội mình.

Mà chính sự việc lắt léo trúc trắc này là nguyên nhân thực sự khiến Cơ Hành gặp Đông Hoa Đế Quân ở đầm Bạch.

Mấy ngày hôm đó mưa liên miên không ngớt, cứ như dòng Thiên Hà bị lộn ngược, nước mưa dội thẳng xuống Nam Hoang khiến người ta cảm thấy nặng nề. May là hoa sen đỏ trồng khắp nơi ở cung Đan Linh được uống no nước mưa nở ra những đóa sen như đèn lồng đỏ, nhìn rất vui mắt. Từng tốp thị vệ được cử đi kinh động đến cả thái hậu trong thâm cung, nhưng vẫn không mang được tin tức gì của Cơ Hành về. Vương thái hậu mặc dù có tuổi nhưng công lực khóc lóc vẫn không kém ngày xưa, mỗi bữa cơm đều đúng giờ đến trước mặt Húc Dương khóc một trận, khóc đến nỗi đầu gã đau từng cơn. Khi cả vương cung hỗn loạn vì công chúa Cơ Hành biến mất, thậm chí Húc Dương đã đưa con sư tử trắng một cánh, vật cưỡi của gã ra định đích thân đến núi Bạch Thủy một chuyến, thì quá trưa ngày hôm đó Đông Hoa Đế Quân thân vận áo chòang tím bế Cơ Hành đang hôn mê xuất hiện ở cửa cung Đan Linh.

Rất nhiều người ở Ma tộc thực ra cả đời cũng chưa từng nghĩ họ có thể được nhìn thấy bá chủ thiên địa một thời trong truyền thuyết, cho nên cảnh tượng đó đến giờ họ vẫn nhớ rất rõ. Cả tầng không xám xịt vần vũ mây mù, mưa ngớt dần, chỉ còn lác đác vài hạt, mười dặm trước cung môn hoa sen trải thành thảm đỏ, tử quang sáng rỡ, một trang nam nhi tóc trắng tuấn mỹ uy nghi cưỡi gió đáp xuống. Sen đỏ ma tính nặng, không chịu nổi tiên trạch lớn lao đó, cánh hoa từ từ khép lại, lộ ra con đường cỏ xanh rộng rãi để gót tiên chàng bước lên, tiến thẳng tới cửa cung. Còn Cơ Hành mắt nhắm nghiền, mái tóc dài xổ tung, mặt tái nhợt nằm trong lòng Đông Hoa. Trông nàng vô cùng yếu ớt, hai tay ôm chặt cổ chàng, trên người hình như quấn áo choàng của chàng, lộ ra đôi gót chân trần nhỏ xinh trắng nõn, cổ chân mảnh dẻ còn đeo mấy viên huyết châu đỏ thắm yêu dị.

Trong hai đêm, một ngày ở núi Bạch Thủy đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, trên đời ngoài Đông Hoa, Cơ Hành cùng lắm tính thêm con giao dữ xúi quẩy ở đầm Bạch, có lẽ không một ai khác biết. Những gì được biết chỉ là Đông Hoa lại ở thêm một ngày nữa trong cung Đan Linh đợi Cơ Hành hôn mê tỉnh dậy, tiện thể để nhiều người của Ma tộc ngưỡng mộ được ngắm tiên dung khó gặp của chàng. Cơ Hành sau khi tỉnh giống như chim non mới sinh quấn chim mẹ, rất thân thiết với Đông Hoa, nhưng tuyệt nhiên không nhắc nửa lời đến Mẫn Tô. Húc Dương thấy vậy cả mừng, còn thấy quyết định giam Mẫn Tô ở núi Bạch Thủy chẳng có gì to tát, bởi vì tuy khiến Cơ Hành rơi vào nguy hiểm một phen, nhưng lại làm cho tiểu muội nảy sinh tình cảm với Đông Hoa, nước cờ này gã đi vẫn rất tuyệt. Ngày thứ ba, khi Đông Hoa rời cung Đan Linh, Húc Dương mời chàng đến tiểu điện dùng trà, nghị sự, sau một tuần trà, Húc Dương nhân cơ hội đề nghị ngày lành ba tháng sau sẽ gả Cơ Hành vào cung Thái Thần, vĩnh viễn gắn kết mối giao hảo giữa hai tộc, Đông Hoa bằng lòng.

Yên Trì Ngộ kể đến đây, cảm khái thở dài hai tiếng, lại lầm bầm mấy câu, Phượng Cửu nghe rõ, đại ý y lầm bầm rằng, nếu lúc đó y bị thương không nặng như vậy, biết Cơ Hành trốn đi núi Bạch Thủy, y nhất định sẽ đuổi theo chặn lại giữa đường, như vậy chắc chắn sẽ không có việc gì của Đông Hoa ở đây hết, y và Cơ Hành đã kết lương duyên, rằng ông trời nhất thời mù mắt, vân vân và vân vân.

Chiếc lá Phượng Cửu đội trên đầu đã gần héo quắt bởi ánh nắng, dưới chiếc lá nàng uể oải hỏi Yên Trì Ngộ: "Sao huynh biêt Đông Hoa thích Cơ Hành? Biết đâu ngài có điều gì khó nói?".

Tiểu Yên nắm chặt bàn tay, các khớp ngón tay kêu răng rắc, nghiến răng phẫn nộ rít lên: "Hắn dám!". Càng phẫn nộ nói tiếp: "Cơ Hành băng thanh ngọc khiết, tuệ chất lan tâm, chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa hờn đẹp không tả xiết như vậy, nam nhi thích một đại mỹ nhân như Cơ Hành lại còn có thể nói là có điều khó nói". Chàng ta rít lên, lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp: "Thì hắn không xứng là nam nhi!".

Yên Trì Ngộ là người lỗ mãng lại có thể nói liền một hơi năm thành ngữ nho nhã như vậy khiến Phượng Cửu bội phần ngạc nhiên, nhưng nghĩ đến vị trí độc tôn của Cơ Hành trong lòng chàng ta, nàng định mở miệng phản bác nhưng lại thôi, lặng lẽ chỉnh đi chỉnh lại cái lá gần héo quắt trên đầu.

Thấy thái độ ngập ngừng của Phượng Cửu, Yên Trì Ngộ thở dài nói: "Thực ra, lão tử biết ngươi đang nghĩ gì, nữ nhi các người một khi đã ưng ai, thường cảm thấy chỉ có bản thân mình mới hợp với người đó nhất, những kẻ khác đều là phù du". Giọng Tiểu Yên rất thành thật: "Ngươi cảm thấy Mặt lạnh không thích Cơ Hành, lão tử có thể hiểu, bởi năm xưa mỗ cũng từng cảm thấy Cơ Hành không thích Mặt lạnh". Y lại thở dài ảo não: "Nhưng hai người đó ở riêng với nhau một ngày hai đêm, đặt mình vào vị trí đó mà nghĩ xem. Ôi, lão tử thực tình không muốn nghĩ, bao nhiêu đôi vốn ghét nhau, do cùng rơi xuống vách núi, hoặc cùng dạt lên đảo hoang, lâu dần trở nên có tình với nhau". Y lại thở dài ủ ê: "Lùi một vạn bước nghĩ lại, nếu Mặt lạnh thực lòng không có ý với Cơ Hành, cớ sao còn cưới nàng, nếu hắn không ưng, Thiên tộc các ngươi ai dám ép?". Nói xong những lời làm Phượng Cửu buồn bã cúi đầu, lại ngẫm lại hàm ý của những lời đó, bản thân cũng tổn thương không nhẹ, Tiểu Yên im lặng ngấm ngầm chịu đựng nỗi đau trong lòng, ủ rũ ngồi xuống đất.

Phượng Cửu cảm thấy Tiểu Yên nói rất có lý, buồn rầu chỉnh cái lá trên đầu, ngồi yên một lát, nhớ ra một chuyện lại nghiêng đầu hỏi Yên Trì Ngộ: "Nhưng ta biết". Nàng ho một tiếng: "Nghe đâu, lần họ cùng bị nhốt trong cái Liên Hoa Cảnh gì đó, khi chia tay Cơ Hành muốn Đông Hoa cho nàng ta con linh hồ nhỏ mà cả hai cùng tìm thấy, chẳng phải Đông Hoa không đồng ý đó sao. Nếu ngài ấy thực sự coi trọng Cơ Hành thì đã không hẹp hòi như vậy, chuyện này có vẻ như..."

Yên Trì Ngộ ngắt lời nàng: "Ngươi thì biết gì, đó là mưu kế!". Lại khéo léo giải thích cho nàng rõ: "Ví dụ ngươi thích Mặt lạnh, nhất định sẽ tìm cách gặp hắn, vậy lão tử hỏi ngươi, cách tự nhiên nhất là gì?". Không đợi nàng trả lời, Tiểu Yên đã nói chắc như đinh đóng cột: "Là mượn sách! Ngươi mượn hắn cuốn sách có thể gặp hắn một lần, trả sách lại có thể gặp lần nữa, có mượn có trả, cứ thế dần dần thành quen, một khi đã quen còn chuyện gì khó? Đông Hoa không cho Cơ Hành nuôi con linh hồ đó cũng tương tự như vậy. Như ngươi nói thì Cơ Hành đã thích con tiểu linh hồ như thế, sau này nhất định thường xuyên đến cung Thái Thần của hắn thăm nó, vậy chẳng phải cho hắn rất nhiều cơ hội sao?". Nói đoạn Tiểu Yên cau mày, thực lòng phiền muộn một hồi, lại thở dài một hồi: "Con người Mặt lạnh rất thâm hiểm!".

Phượng Cửu ngẫm nghĩ, một lần nữa bàng hoàng cảm thấy Yên Trì Ngộ nói rất đúng. Nhớ kỹ lại, hồi đó mặc dù không cảm thấy nhưng thực ra sau khi Cơ Hành vào cung Thái Thần, Đông Hoa đối xử với nàng ta quả thực rất khác. Hồi đó nàng không biết hai người họ từng cùng chung hoạn nạn ở núi Bạch Thủy, ký ức vẫn dừng lại ở đoạn Đông Hoa từ chối Cơ Hành ở núi Phù Vũ và nàng không để ý kỹ giữa hai người có gì khác thường khi sống chung hàng ngày. Bây giờ nghĩ lại, thì ra là nàng đã không nhận ra những đạo lý sâu xa.

Ba trăm năm trước, Cơ Hành trong cung Thái Thần là một vị công chúa rất cầu tiến. Phượng Cửu còn nhớ, khi nàng dựa vào chân Đông Hoa cùng chàng câu cá dưỡng thần bên bờ ao Phấn Đà Lợi, thường xuyên thấy Cơ Hành tay cầm cuốn sách cổ đã ố vàng chạy đến thỉnh giáo Đông Hoa, chỗ này nên giải thích thế nào, có điển cố gì, Đông Hoa cũng vui lòng chỉ bảo, theo mắt nàng thấy, hai người không có gì vượt quá khuôn khổ, nhưng cái sự cầu tiến của Cơ Hành thực sự khích lệ nàng, những cuốn Kinh Phật chàng hiệu chú xong, chưa kịp sai người đến Tây Thiên hoàn trả phật Tổ, thỉnh thoảng chàng đưa cho Cơ Hành đọc. Đông Hoa đối xử với Cơ Hành rất tốt.

Một ngày hạ nhàn rỗi của tháng bảy, Liên Tống Quân ở cung Nguyên Cực cầm một cuộn giấy nhỏ ung dung đến tìm Đông Hoa Đế Quân, sau một hồi vòng vo, cuối cùng mới nói ra sắp đến sinh nhật của Thành Ngọc Nguyên Quân, nghe nói gần đây nàng thích sưu tầm đoản đao, nên Liên Tống vẽ một kiểu đao mới muốn nhờ Đông Hoa làm cho một thanh đoản đao thật độc đáo làm quà mừng sinh nhật Thành Ngọc.

Độc đáo ở chỗ khi cần đánh giáp lá cà thì nó là đoản đao, nhưng khi giao đấu ở khoảng cách xa hơn nó sẽ là thanh trường kiếm, khi thực lực quá chênh lệch với đối phương nó có thể sinh ra ám khí, phóng những mũi kim độc vào đối phương, khi đi săn lại có thể đơn giản ghép lại thành một cây cung sắt, ngoài ra khi vào bếp nó có thể trở thành con dao thái rau. Liên Tống Quân phong độ nho nhã phe phảy cái quạt, thực ra lòng thầm toan tính: Như vậy, nghĩa là khi Thành Ngọc mang đoản đao đó tương đương với mang theo năm thứ: đoản đao, trường kiếm, ám khí, cung và dao thái rau, hơn nữa bất cứ lúc nào cũng có thể dùng được, có ưu điểm như vậy tất nhiên nó sẽ được nàng ngày ngày mang theo người. Mặt khác, Liên Tống còn cẩn thận tính rằng món đồ độc đáo này tuyệt đối không thể sử dụng pháp thuật để chế tạo, nhất định phải được làm bằng phương pháp thủ công mới có vẻ mới mẻ, mới thể hiện thành ý tuyệt thế vô song của Liên tam điện hạ với Thành Ngọc Nguyên Quân. Nhưng vấn đề là ở chỗ Liên tam điện hạ mặc dù thường làm thần khí nhưng sở trường lại là chế tạo đại khí hàng yêu như chuông, đỉnh, làm một đoản đao tinh xảo như vậy có chút khó khăn, nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy muốn làm thủ công một món đồ biến thái như thế chỉ có nhờ cậy Đông Hoa.

Phượng Cửu từ trong lòng Đông Hoa nhảy phắt lên án thư có bản vẽ trải rộng, rón rén lượn một vòng xung quanh, phát hiện bản thiết kế tinh xảo thì có tinh xảo, nhưng có mấy chỗ hơi thô, khi lắp ghép có thể để lại dấu vết, như vậy chắc chắn không thể nói là nó vô cùng tinh xảo được. Liên Tống điện hạ mặc dù ở bốn bể tám cõi xưa nay nổi tiếng phong lưu có tài quyến rũ nữ nhi, nhưng cũng khó mà tinh tế đến mức đó. Phượng Cửu xúc động, tim đập thình thình, hôm nay đúng là ông trời mở mắt, cho nàng cơ hội thể hiện tài năng. Nàng cảm thấy mình sửa lại bản vẽ này, Đông Hoa nhất định sẽ cảm thấy tài năng của nàng không thua kém Cơ Hành, nghĩ tới đó lòng rạo rực sung sướng, vừa lặng lẽ dùng móng cẩn thận chặn lên hai chi tiết chưa thỏa đáng trên bản vẽ, chỉ sợ Liên Tống lại nhận chính chàng ta phát hiện ra.

Nhưng nàng đã quá lo xa, Liên Tống lúc này đang cố thuyết phục Đông Hoa giúp mình: "Xưa nay ngài luôn hứng thú với việc làm đồ sứ, mấy ngày trước tôi tìm thấy một nơi có rất nhiều đất sét làm đồ sứ ở địa bàn của Huyền Minh ở Bắc Hoang, tập hợp những loại đất tốt nhất tứ hải bát hoang, nhưng bị lão tiểu tử Huyền Minh canh giữ quá chặt. Ngài giúp tôi làm thanh đoản đao này, tôi sẽ vẽ sơ đồ mảnh đất đó cho ngài, ngài nói một câu với Huyền Minh, hắn ta không dám từ chối".

Đông Hoa chậm rãi rót trà: "Hay là ta tìm nguyên liệu chế tạo cây đao này cho ngươi, để ngươi tự chế?"

Liên Tống thở dài: "Ngài không phải không biết tôi có chút hiềm khích với Huyền Minh, năm xưa tôi đến phủ đệ của hắn ta dự một bữa tiệc nhỏ, tiểu phu nhân của hắn không may lại để ý tôi, ngày nào cũng viết thơ tình cho tôi, Huyền Minh luôn để bụng chuyện đó".

Đông Hoa lơ đãng đặt ấm trà xuống: "Con người ta xưa nay không nợ tình người khác nhiều, cũng không thích dùng uy ép buộc ai". Một tay vuốt lông cho Phượng Cửu, nói tiếp: "Mấy ngày tới, ngươi đem đồ gốm sứ trong phủ đổi hết thành đồ vàng bạc ngọc ngà, lại tung tin hễ mình chạm vào đất làm đồ sứ và đồ sứ thì liền bị dị ứng toàn thân, đồ sứ càng thượng hạng ngươi càng bị dị ứng nặng. Sinh nhật ngươi năm nay, Huyền Minh chắc sẽ cống tiến không ít đất làm đồ sứ thượng hạng của hắn ta cho ngươi. Lúc đó, ngươi hãy chuyển sang cho ta".

Liên Tống nhìn chàng hồi lâu.

Đông Hoa thong thả uống ngụm trà, ngước mắt nhìn chàng ta: "Có vấn đề gì sao?"

Liên tam điện hạ cười khan lắc đầu: "Không, không có vấn đề gì."

Khi Liên Tống lòng đầy phức tạp gập chiếc quạt trong tay về thì đã gần trưa, Đông Hoa lấy một chiếc cốc khác rót nửa cốc trà kề vào miệng Phượng Cửu, nàng ngoan ngoãn cúi đầu hớp hai ngụm, cảm thấy đúng là trà ngon, Đông Hoa luôn cho nàng ăn đồ ngon, uống đồ ngon, nếu nàng đúng là thú cưng, thì chàng là một chủ nhân tốt hiếm có, Đông Hoa thấy nàng vẫn bất động ngồi cạnh bản vẽ, hỏi: "Ta đi chọn nguyên liệu làm đoản đao, ngươi đi không?". Thấy nàng dứt khoát lắc đầu, còn nằm lăn ra bản vẽ chợp mắt ngủ, chàng vỗ nhẹ đầu nàng rồi một mình đi ra.

Đông Hoa vừa ra khỏi cửa, Phượng Cửu đã lập tức bò dậy, nàng đã dần dần biết cách sử dụng móng hoàn thành một số động tác khó, đầu và móng phối hợp cuộn bản vẽ lại, miệng ngậm nó quẳng lên lưng, lén chạy một mạch khỏi cung Thái Thần, tránh mấy tiểu tiên đồng đang đá cầu cạnh khóm hoa, chạy thẳng đến phủ của Ti Mệnh Tinh Quân.

Nàng và Ti Mệnh không hổ là chỗ thâm giao từ nhỏ, chỉ bằng mấy đường móng vạch đơn giản Ti Mệnh đã hiểu nàng muốn làm gì, lấy cuộn giấy trên lưng nàng xuống, dựa vào hai chỗ móng nàng chỉ, dùng bút viết số mệnh sửa lại bản vẽ. Sửa xong đang định cuộn lại thì Thành Ngọc Nguyên Quân ghé chơi phủ Ti Mệnh, hứng thú ngó nhìn, rồi lập tức kêu lên: "Chỉ có đồ thần kinh mới có thể vẽ ra thứ đồ chơi biến thái này!". Phượng Cửu từ bi nhìn ra xa, cảm thấy vô cùng thông cảm với Liên tam điện hạ.

Khi Phượng Cửu thở hổn hển mang được bản vẽ quay lại thư phòng, Đông Hoa vẫn chưa về, nàng ôm chân án thư thoăn thoắt trèo lên, giũ người hất bản vẽ xuống, mở ra vuốt phẳng, đang thầm nghĩ làm thế nào dùng móng nói với Đông Hoa nàng đã nhờ bằng hữu sửa lại theo ý nàng không biết có hợp ý Đông Hoa, thì có hai tiếng gõ cửa, ngừng một lát, lại "cạch" một tiếng cửa mở ra. Nửa cái đầu xinh đẹp của Cơ Hành thò vào, thấy nàng ngồi trên bàn hình như rất vui sướng, vội vàng chạy đến bên bàn. Phượng Cửu tinh mắt, nhìn thấy trong tay Cơ Hành cầm một cuốn kinh Phật cổ giấy đã ngả vàng. Lần đầu nàng gặp một thiếu nữ Ma tộc thích đọc kinh Phật như vậy.

Cơ Hành tìm trước tìm sau một lượt, quay lại xoa xoa đầu nàng, nheo mắt hỏi: "Đế Quân không có ở đây ư?"

Nàng ngoảnh đầu sang bên không cho nàng ta xoa, tung người nhảy vào chiếc ghế gỗ hoa lê bên cạnh bàn, tâm trạng Cơ Hành hôm nay hình như rất tốt, không chấp thái độ thiếu thân thiện đó của nàng, vừa ngân nga một điệu hát vui vui vừa rút một cây bút trong ống bút bên cạnh ra, nhìn Phượng Cửu như đang thảo luận với nàng: "Hôm nay có một đoạn kinh vô cùng khó hiểu, Đế Quân lại thường xuyên hành tung bất định, mi xem ta để lại mảnh giấy cho ngài được không?". Phượng Cửu ngoảnh đầu đi.

Cơ Hành vừa cầm bút, chấm mực, đầu ngọn bút lông dê còn chưa chạm vào mảnh giấy nhỏ nàng vừa lấy ra, cánh cửa đã mở ra. Lúc này người đứng ở ngưỡng cửa, ngược chiều ánh sáng chính là chủ nhân của thư phòng, Đông Hoa Đế Quân. Tay chàng cầm một mảnh huyền thiếc thiên nhiên sáng choang, vừa cúi đầu vừa đẩy cửa bước vào, điềm tĩnh đi thẳng đến bên bàn, hơi cúi đầu nhìn Cơ Hành đang cầm bút và bản vẽ Liên Tống mang tới.

Lát sau, chàng cầm hẳn bản vẽ lên ngắm ngía, trái tim Phượng Cửu tựa như nhảy vọt tới cổ họng, quả nhiên nghe thấy Đông Hoa nói với Cơ Hành: "Hai chỗ này là ngươi thêm vào à? Sửa rất hay". Trong giọng nói lạnh nhạt có vài phần khen ngợi hiếm hoi mới thấy chàng bộc lộ: "Ta tưởng ngươi chỉ biết đọc sách, không ngờ còn biết cả thứ này". Một nhân tài về binh khí đã hiếm, mà lại là nữ nhi, cho nên chàng lại hào phóng khen thêm hai câu: "Có thể hiểu được bản vẽ này của Liên Tống đã là khó, lại còn tìm ra hai chỗ khiếm khuyết để sửa, ca ca ngươi nói ngươi hiểu nhiều biết rộng, quả không sai". Cơ Hành vẫn cầm bút, mặt bối rối nhưng vì được khen nên vẫn lộ vẻ phấn khởi, ghé sát Đông Hoa xem bức vẽ.

Phượng Cửu sững sờ nhìn nàng ta áp sát mà Đông Hoa không có ý né tránh, chàng còn thản nhiên đưa bản vẽ cho Cơ Hành: "Ngươi đã hiểu cái này lại có hứng thú, ngày mai ta bắt đầu mở lò luyện đao, ngươi phụ ta một tay".

Cơ Hành xưa nay ham hiểu biết, mặc dù không hiểu mấy câu nói trước của Đông Hoa, nhưng câu sau thì hiểu, vui vẻ nhận lời: "Có thể phụ giúp với Đế Quân, học những điều mới mẻ là phúc phận của tôi". Rồi lại tỏ ra hơi lo lắng: "Nhưng tôi vụng tay, vụng chân sợ làm vướng chân Đế Quân". Đông Hoa nhìn bản vẽ, giọng chàng vẫn còn sót lại vẻ tán thưởng: "Đầu óc không 'vụng' là được".

Phượng Cửu tâm trạng phức tạp và bi phẫn nhìn mọi chuyện xảy ra, không kìm được lao đến cắn một cái vào tay Cơ Hành, Cơ Hành kinh ngạc kêu "ối" một tiếng, Đông Hoa giơ tay tóm Phượng Cửu đang giận giữ, thấy bộ dạng nhe nanh giận dữ của nàng, chàng cau mày hạ giọng hỏi: "Sao lại tùy tiện cắn người? Lại là ân nhân của ngươi?" Nàng muốn nói không phải lỗi của nàng, Cơ Hành là đồ nói dối, chính nàng sửa bản vẽ chứ không phải Cơ Hành. Nhưng nàng không nói ra được, nàng bị Đông Hoa nâng lên ngang mặt, rõ ràng chàng xách nàng như xách một con thú cưng, họ xưa nay chưa từng thực sự bình đẳng. Phượng Cửu bỗng thấy buồn vô hạn, cố vùng vẫy thoát khỏi tay chàng, cắm đầu cắm cổ lao ra cửa thư phòng, chân vừa phóng qua cửa, nước mắt đã rơi lã chã. Nàng không để ý làm chân sau vấp vào bậu cửa ngã lăn ra đất, kêu lên một tiếng, khi ngoái đầu đôi mắt nhòe ướt chỉ nhìn thấy Đông Hoa cúi đầu xem vết thương trên cánh tay Cơ Hành, không buồn liếc mắt nhìn tiểu hồ ly này một cái. Thực ra nàng không cắn sâu, cho dù tức giận cũng không thực sự làm được chuyện xấu như thế với kẻ khác, có lẽ Cơ Hành cực kỳ sợ đau, nếu sớm biết có lẽ nàng đã cắn nhẹ hơn chút nữa, Phượng Cửu cố kìm nước mắt bỏ chạy, sau khi cơn tức tối qua đi lòng lại thấm buồn, nỗi buồn của một tiều hồ ly không được coi là nỗi buồn sao?

Thực ra Phượng Cửu bị Ma vương Huyền chi Nhiếp Sơ Dần của Ma tộc lấy đi hình hài vốn có, khốn đốn trong tấm da hồ ly tầm thường này không dễ thoát thân, hơn nữa trong tình cảnh khó khăn đó lại còn gánh vác trọng trách cả đời người là theo đuổi Đông Hoa, quả thực không dễ dàng gì. Nàng cũng hiểu đã rơi vào hiểm cảnh như vậy việc gì cũng phải nhẫn nhịn. Người ta bảo xót con thì không lừa được chó sói, nhưng Cơ Hành lần này quả thực quá đáng khiến tính khí tiểu thư vốn hiếm khi bộc lộ của nàng bị kích động.

Nàng cảm thấy hành động của Đông Hoa rõ ràng là đứng về phía Cơ Hành, nàng với Cơ Hành có xích mích, Đông Hoa lựa chọn giúp Cơ Hành chứ không giúp nàng, lại còn không phân biệt phải trái mắng nàng trước. Phượng Cửu thấy tủi thân, ủ rũ rụt cổ cuộn mình trong khóm hoa.

Vốn định lủi ra xa một chút nhưng lại hy vọng Đông Hoa thông minh như vậy, đến tối biết đâu sẽ nghĩ lại ban ngày đã trách oan cho nàng, chạy đi tìm nàng xin lỗi? Lúc đó nhỡ chàng không tìm được nàng thì sao? Vậy thì vẫn nên nằm gần một chút, nàng ủ rũ đi một vòng khắp cung Thái Thần, ủ rũ lựa chọn khóm hoa câu tô ma trước cửa tẩm điện của Đông Hoa. Để nằm dễ chịu một chút, nàng lại ủ rũ đi đến suối Tiểu Hoa gần đó nhặt ít cỏ cát tường mềm mại, ủ rũ làm một cái ổ cho mình trong khóm hoa. Bởi quá đau lòng lại mất sức, nàng nằm co trong ổ uể oải ngáp mấy cái, hai mí mắt cố gắng gượng một hồi, rồi từ từ khép lại.

Khi Phượng Cửu thức dậy, đúng lúc có làn gió nhẹ thổi qua, hoa câu tô ma trên đầu nàng rung xào xạc. Nàng mơ màng thò đầu ra, chỉ thấy ánh sao rực rỡ cả bầu trời, sáng đến nỗi hạt bụi trong đám mây bay gần đó cũng nhìn rõ, bồ đề vãng sinh phía không xa lắm phát ra ánh sáng xanh yếu ớt trong màn đêm yên tĩnh giống như những con đom đóm đột nhiên lớn gấp bội, lặng lẽ đậu trên tường cung. Nàng rón ra rón rén chạy ra định nhìn xem Đông Hoa đã về chưa, ngẩng đầu quả nhiên thấy tẩm cung cách đó mấy bước, đã có ánh sáng. Nhưng không biết cuối cùng Đông Hoa có đi tìm nàng không, khiến nàng cảm thấy lưỡng lự. Nàng trèo lên bậc thềm trước điện, kiễng chân ôm bậu cửa cao nhìn vào trong điện, qua cánh cửa mở hé muốn tìm ra một chút manh mối. Chỉ một cái nhìn, toàn thân đã như bị đóng đinh trên bậu cửa.

Vừa rồi ngẩng nhìn trời, sao Nam Đẩu chủ sinh đã vào tầng trời thứ 24, theo chút ít kiến thức của nàng về sao, biết lúc này đã qua giờ Hợi (từ chín giờ đến mười một giờ tối). Giờ này Đông Hoa không ngủ mà cầm bút vẽ bình phong trong tẩm điện thì chẳng có gì đáng nói, nhưng tại sao Cơ Hành lại ở trong tẩm điện của chàng? Phượng Cửu sững sờ dán người vào bậu cửa, mãi vẫn không hiểu ra thế nào.

Trên xà ngang bằng lưu ly treo mấy chiếc đèn chùm làm tẩm điện sáng như ban ngày, nam tử áo tím thong dong đứng trước bức bình phong trắng và thiếu nữ áo trắng phục trước án thư cầm bút cắm cúi vẽ gì đó. Nhìn xa đúng là bức họa tuyệt mỹ khiến người ta không nỡ kinh động, mà bức họa này còn là kiệt tác của phụ thân nàng, họa sư tài hoa nhất tứ hải bát hoang.

Gió khẽ lùa qua cửa sổ làm ánh nến trên cao chập chà chập chờn, thực ra nên đổi những ngọn nến đó thành dạ minh châu, ánh sáng chắc chắn ổn định hơn nhiều, nhưng Đông Hoa mấy năm nay hình như thích phong vị chập chờn sáng tối như vậy.

Trong khung cảnh tĩnh mịch đó, Cơ Hành đột nhiên gác bút, hơi nghiêng đầu nói: "Đây chính là chỗ gập trường kiếm thành cái hộp sắt, bên trong cần để sẵn một ít kim hoa lê tạo thành một ống ám khí, bản vẽ của tam điện hạ cố nhiên là hoàn hảo, nhưng hai nét này em suy nghĩ rất lâu cũng không hiểu điện hạ muốn thể hiện ý gì, Đế Quân...", đang nói thấy Đông Hoa cầm bút chăm chú vẽ viền cho mấy bông hoa phật tang sống động như thật trên bức bình phong, nàng ta im lặng một lát, nhẹ nhàng sửa lại cách xưng hô: "...thầy...", giọng mặc dù chẳng lớn hơn tiếng muỗi là bao nhưng vẫn lọt vào tai Đông Hoa. Chàng dừng bút quay lại nhìn nàng ta, không phản đối cách xưng hô đó chỉ buông hai chữ: "Nói đi".

Phượng Cửu xưa nay luôn thấy mình tinh mắt, dù ánh nến lập lòe, lại cách một đại điện mà vẫn nhìn thấy gợn hồng trên má Cơ Hành lúc nàng cúi đầu. Ánh mắt Cơ Hành nhìn xuống trên nền điện sáng choang: "Ý em là thầy có thể tạm dừng bút chỉ dẫn em một chút...".

Cuối cùng Phượng Cửu đã hiểu nàng ta đang vẽ cái gì, khi chế tạo những thần khí kiểu này xưa nay Đông Hoa vốn không phải đích thân làm tất cả mọi việc, những công việc tầm tầm không quan trọng lắm như luyện sắt, mạ... xưa nay đều do các tiên bác đảm nhiệm, lúc này có lẽ Cơ Hành đang vẽ lại bản vẽ của Liên tam điện hạ cho rõ ràng đơn giản dễ hiểu để các tiên bác xem cho kỹ.

Hiểu ra nguyên do cảnh tượng này, cuối cùng trong lòng Phượng Cửu không còn khúc mắc nữa, thấy Cơ Hành vụng về như vậy nàng mừng thầm, nỗi vui mừng chưa kịp lan ra lại thấy buồn. Mừng là vì chỗ Cơ Hành thấy khó đối với nàng lại cực kỳ đơn giản, nghĩa là nàng giỏi hơn nàng ta. Buồn là vì đây là điểm duy nhất nàng hơn Cơ Hành, nhưng công lao này cuối cùng lại bị Cơ Hành cướp mất. Lòng nàng âm thầm nảy sinh một hy vọng có chút đáng khinh, ngay một chuyện đơn giản như vậy Cơ Hành cũng làm không tốt, theo tính cách xưa nay của Đông Hoa không biết có châm biếm nàng ta vài câu. Nàng lấy lại tinh thần chờ xem đoạn sau thế nào.

Nhưng bất ngờ là Đông Hoa lại chẳng nói gì, chỉ giơ tay đón cây bút Cơ Hành đưa, cúi đầu vẽ hai nét trên bản vẽ, xong xuôi nhẹ nhàng giải thích: "Đây là chốt kim loại, gạt miếng sắt xuống là có thể thu kiếm về, Liên Tống vẽ quá đơn giản." Chỉ dạy vắn tắt hai câu lại ngẩng đầu nhìn Cơ Hành: "Hiểu chưa?", có vẻ rất nhẫn nại.

Phượng Cửu vô thức há miệng, thấy cổ họng nghèn nghẹn. Nàng còn nhớ thỉnh thoảng khi nàng ngốc nghếch, hoặc là Trọng Lâm làm gì không vừa ý Đông Hoa, chàng luôn làm tổn thương lòng tự trọng của họ như một thói quen. Nhưng chàng không làm tổn thương lòng tự trọng của Cơ Hành, chàng rất dịu dàng với Cơ Hành.

Dưới ánh đèn chập chờn khi Cơ Hành đỏ mặt gật đầu, Đông Hoa lại cầm cây bút lúc trước gác trên nghiên mực, nhìn nàng ta một cái nói: "Hai chỗ kia Liên Tống cũng vẽ đơn giản, chẳng phải ngươi đã sửa rất tốt sao? Chỗ này thực ra đâu khó bằng."

Cơ Hành ngớ người, sắc hồng trên mặt phai đi ít nhiều, một lúc lâu sau nói: "... Hai chỗ đó...", ngập ngừng "...chắc là do may mắn thôi." Mặt gượng cười: "Nhưng trước giờ em chỉ đọc sách một mình, hiều biết nông cạn, không bằng hôm nay theo thầy học thêm được rất nhiều." Sắc hồng lại dậy trên má, át đi màu trắng xanh xao, trong yên lặng, ánh mắt Cơ Hành dừng lại trên bức bình phong Đông Hoa đang vẽ, mắt chợt sáng lên, khẽ nói: "Thực ra cũng muộn rồi, nhưng... em muốn đêm nay vẽ cho xong, không làm lỡ thời gian thi công của thầy, nếu đêm nay em vẽ xong, thầy có thể tặng em bức bình phong này coi như thưởng cho em không?".

Đông Hoa hình như hơi ngạc nhiên, nhưng lại thoải mái nhận lời, chỉ lạnh nhạt nói ngắn gọn: "Được." Đúng lúc ngòi bút lông điểm vào tấm lụa trắng căng phẳng, chỉ vài nét phác đơn giản mấy ngọn núi xa xa ẩn mình trong sương đã hiện ra. Cơ Hành bỏ cây bút trong tay xuống, cũng đứng cạnh bình phong thưởng thức bút pháp của Đông Hoa, lát sau không cưỡng được cơn buồn ngủ, che miệng ngáp mấy cái. Đông Hoa lướt bút như múa trên tấm lụa trắng, phân tâm nói: "Buồn ngủ thì về nghỉ đi, ngày mai làm tiếp."

Cơ Hành còn chưa hạ tay xuống, nói: "Nhưng như vậy không phải sẽ ảnh hưởng đến thời gian thi công của thầy sao?". Mắt liếc bức bình phong, bẽn lẽn nói: "Em, vốn định cố vẽ cho xong để được thưởng bức họa này đem về..."

Đông Hoa bỏ bút lông sói vào chén rửa bút lông, thay cỡ bút lông dê nhỏ hơn để tô màu: "Một ngày có là gì, còn bức bình phong này vẽ xong ta sẽ cho Trọng Lâm mang đến phòng ngươi". 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com