tamlyhoc 2
hông tin về ngành tâm lý học
(Tamly) – Bài viết dưới đây xin giới thiệu một số thông tin chung về ngành tâm lý học nhằm giúp các em học sinh và sinh viên tâm lý học có thêm thông tin về ngành học cũng như có sự lựa chọn ngành học đúng đắn hơn.
Bối cảnh xã hội và triển vọng nghề nghiệp:
Trong xã hội hiện đại cùng với sự phát triển của đời sống vật chất, tinh thần nói chung, con người ngày càng phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý như: ly hôn, tự sát, xung đột gia đình, trầm cảm, stress, rối loạn cảm xúc, hành vi, áp lực trong công việc, thiếu kỹ năng sống… Những vấn đề đó chỉ có thể được giải quyết trên cơ sở của ngành khoa học tâm lý. Chính vì vậy, tâm lý học là một trong những ngành có nhiều triển vọng phát triển, cũng như đòi hỏi những phẩm chất đặc thù đối với người làm việc trong lĩnh vực này.
Điều kiện làm việc và cơ hội nghề nghiệp
Làm việc trong ngành tâm lý học đòi hỏi phải tiếp xúc với nhiều người, nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, với cả những người có đời sống tâm lý bình thường và cả những người có vấn đề về mặt tâm lý. Để có thể làm việc, nhà tâm lý học phải có kiến thức vững vàng về tâm lý học, có kỹ năng nghiên cứu, vận dụng các kiến thức vào thực tế, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, phản hồi, có thái độ thận trọng, tận tâm, công bằng, trung thực trong công việc, sử dụng thành thạo các bộ trắc nghiệm tâm lý để chẩn đoán và đánh giá tâm lý…
Những người được đào tạo cơ bản về tâm lý học có thể tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, xã hội như:
+ Làm công tác giảng dạy tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học trên cả nước.
+ Làm công tác nghiên cứu tại các viện nghiên cứu về tâm lý, con người…
+ Làm trong các lĩnh vực ứng dụng tâm lý vào cuộc sống như: tham vấn tâm lý, trị liệu tâm lý, tư vấn học đường, đào tạo kỹ năng, bác sĩ tâm lý tại các bệnh viện tâm thần…
+ Ngoài ra, những người được đào tạo trong lĩnh vực tâm lý học còn có thể làm việc tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (nhân sự, marketing), trong các tổ chức đoàn thể, đơn vị sự nghiệp và cơ quan hành chính, các tổ chức bảo vệ bà mẹ trẻ em, chống bạo hành gia đình, công tác xã hội…
Những phẩm chất và kỹ năng cần thiết:
+ Có kiến thức phong phú về các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
+ Hiểu biết rộng về các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội hàng ngày.
+ Trung thực, tôn trọng người khác, khách quan, không đánh giá đối với những khúc mắc tâm lý của người khác.
+ Cởi mở, thân thiện, biết cách chia sẻ, lắng nghe.
+ Chịu được áp lực cao trong công việc, kiên nhẫn, nhạy cảm với những vấn đề của người khác.
+ Có khả năng chia sẻ, đồng cảm, thấu hiểu vấn đề.
+ Có khả năng thuyết phục khéo léo, nhẹ nhàng trong giao tiếp, diễn đạt tốt.
+ Có kỹ năng xử lý thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp vấn đề.
Nói chung, tâm lý học là khoa học về con người, làm việc với con người. Chính vì thế, ngành tâm lý học cũng có những đòi hỏi đặc thù về mặt năng lực, phẩm chất của người theo học ngành này. Việc hiểu biết đầy đủ về yêu cầu của ngành nghề là cơ sở quan trọng để các sinh viên tâm lý học có định hướng trong việc học tập, rèn luyện tri thức, kỹ năng nghề nghiệp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của công việc khi ra trường.
Một số cơ sở đào tạo:
+ Khoa tâm lý học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Trình độ đào tạo: Cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ.
+ Khoa tâm lý học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, thành phố Hồ Chính Minh. Trình độ đào tạo: Cử nhân.
+ Khoa tâm lý giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trình độ đào tạo: cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ.
+ Khoa tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam trình độ đào tạo: thạc sĩ, tiến sĩ.
Ngoài ra ngành tâm lý học còn được đào tạo ở một số trường như Đại học dân lập Văn Hiến, Đại học Hồng Đức, Đại học dân lập Thăng Long, Học viện Quản lý giáo dục…
Theo Mai Văn Hải
Marion Crane trên đường lái xe một mình, không thiết gì nhìn ngắm chung quanh, vì bên cạnh cô là một số tiền lớn, những hơn 40.000 đô la. Lúc này chưa phải là lúc suy nghĩ nhiều, nếu có, chưa chắc gì Marion đã quyết định đánh cắp tiền của chủ như thế! Trước mắt phải ra khỏi thành phố, gọi là đào tẩu cũng được, nhưng Marion vẫn có một chút tự nghi hoặc mình trong tâm trí? Chiều tối sập xuống, Marion chợt nhận thấy dù sao cô cũng phải dừng lại, ăn, nghỉ. Bate?Ts Motel bên vệ đường chợt xuất hiện từ đàng xa như một câu trả lời không cần thốt ra. Marion ngừng lại đấy, mướn 1 phòng, ăn tối với người chủ khách sạn trong tòa nhà to lớn bên cạnh, trò chuyện vài câu rồi về phòng.
Tại sao Marion lại muốn thay đổi cuộc đời mình bằng một hành động mà cô biết rằng thật là điên rồ? Làm sao cô chạy thóat được mọi cuộc săn đuổi? Cô sẽ có hạnh phúc với số tiền này không? Tại sao cô lại dừng ở đây một cách thong thả, không sợ rằng có nhiều người có thể đang trên đường tìm kiếm cô? Cô cũng chẳng nghi ngờ gì tính tình của ông chủ quán, có vẻ hơi lạ lùng và rụt rè? Những chuyện ông ta kể về bà mẹ và tòa nhà bên cạnh khách sạn chẳng gây cho cô một cảm tưởng nào chăng? Có lẽ trong đầu Marion chỉ có một vòng tròn đang xoáy nhanh, chưa có lối ra? Cô cũng chẳng có giác quan nhạy bén nào khi có một đôi mắt khác đang chú ý nhìn cô cởi bỏ quần áo để vào phòng tắm. Vì nước! Nước chỉ có thể là một lời giải duy nhất trong lúc này!
Dưới vòi hoa sen, Marion đang muốn gột rửa mọi suy nghĩ của mình. Những giọt nước xối nhanh từ đầu xuống chân. Những dòng nước có thể rất lạnh nhưng tác dụng cấp kì, làm cho người rắn chắc nhất cũng phải rùng mình. Nước cũng có thể nóng sôi bất thình lình làm cho các mạch máu căng thật nhanh. Nước ở đây đối với Marion hoàn toàn không có nhiệt độ, vì cô vẫn miên man suy nghĩ? Có thể cô đã tìm được lối thoát, may quá, vì chúng ta thấy cô có vẻ đang nhếch môi cười? Dù sao đi nữa mọi ngõ cụt đều có lối ra, cho rằng đó là đường lên trời!
Bất thình lình, chiếc màn che bỗng bị gạt sang một bên, con dao dài loáng từ đâu xuất hiện, Marion chỉ kịp nhìn thấy nó phật xuống một lần. Cô la lên thất thanh! Lại một lần nữa, và nhiều lần nữa? Hơn hai mươi lần cảnh chuyển đổi thật nhanh, mỗi lần chỉ chừng vài giây, không ai nhìn thấy con dao phật vào đâu, chỉ thấy đầu, tay, chân, cái họng mở thật to của Marion.. Rồi cô gục xuống. Nước vẫn xối điên cuồng từ đầu đến chân, giờ lại mang theo nhiều giọt máu, một dòng chảy đỏ chen lẫn màu nước sôi? Bóng người vừa làm chuyện khủng khiếp đó quay lưng ra, một búi tóc lệch lạc, một chiếc váy dài, một thân hình mảnh khảnh, cao lớn, một bà già!
?
Cảm ơn | Than phiền
Trả lời
26/05/04 · 17:17
#2
sacred_coeur
Thích nhất kể chuyện, thứ nhì mơ mộng, thứ ba ăn quà...
Thành viên quen thuộc
Thành viên từ. 08/11/2002
Được cám ơn: 21 lần
Kết bạn Gửi PM
Psycho bắt đầu với 40 phút nói về thời gian cuối cùng của nhân vật Marion như thế, thật rùng rợn mà cho đến bây giờ ai đã xem qua 1 lần đều không thể nào quên. Hitchcock có lẽ phô bày được trong phim này mọi thứ ông đặt yêu cầu cao nhất trong tất cả phim của ông: phụ nữ tóc ngắn, màu vàng kim, nạn nhân, trong nhân cách của thủ phạm đều có dính dáng ít nhiều đến vai trò của người mẹ, sự đa nhân cách của một người, và cả trang phục phu nữ cũng muốn nói lên một điều gì đó? Hitchcock phơi bày tâm tình riêng của ông qua các nhân vật này hay không là một đề tài để bàn cãi, nhưng ở đây xin gạt bỏ mọi kết luận để tiếp tục cuộc săn đuổi của cảnh sát, người có trách nhiệm và những người thân thuộc với Marion.
?..
Norman Bate vào phòng Marion sau đó không lâu. Anh ta có vẻ hốt hoảng thật sự vì cảnh tượng khiếp đảm trước mắt. Lại một cơn gehen tị điên loạn của mẹ nữa rồi, tội nghiệp cô khách vừa mới quen, Norman nghĩ như thế, cái nhăn mặt của anh rất chứng minh điều đó. Không còn gì khác hơn là phải dọn dẹp sạch sẽ và thủ tiêu luôn xác người. Norman cuốn hết đồ của Marion, lẫn số tiền khổng lồ còn đó, mang Marion vào xe cô ta và lái đến hồ. Đúng vậy, sự suy nghĩ của Norman giống y như Marion khi cắp tiền của chủ, giờ này chỉ có hành động chứ không tự phân bua gì nữa cả. Norman đứng nhìn chiếc xe từ từ chìm xuống hồ. Anh mong mỏi nó chìm nhanh hơn, nhưng kì quặc là nó có vẻ như ngừng lại giữa chừng?
?
Nước ở đây lại đóng một vai trò khác đối với Norman. Hitchcock muốn cho rằng nó cũng là một phương tiện gột rửa sạch sẽ các tội lỗi nên cho Norman thủ tiêu Marion dưới đáy hồ. Nhưng cũng chỉ là một cách giải quyết quá vội vàng, không được dự định hay dở trước sau. Marion và Norman đã tự kết liễu đời mình bằng những quyết định rất hồ đồ như thế.
?.
Đúng là không phải chỉ mình thanh tra Arbogast được sai đi tìm số tiền bị đánh cắp và Marion. Sam, bạn trai của Marion và em gái là Leila cũng đang cố gắng lần ra dấu vết của sự mất tích này. Vị thanh tra đã cãi lời Norman, vào tòa nhà bên cạnh. Ông ta cũng bị giết chết bởi bàn tay của một phụ nữ. Leila và Sam thì may mắn hơn, súyt bị đâm chết dưới căn hầm nhà của Norman. Sam nắm được búi tóc của bà già quái đản. Nhưng nó tuột ra khỏi da đầu của bà ấy một cách trơn tru. Thì ra chỉ là một cái đầu tóc giả! Norman bị bắt. Anh là thủ phạm giết Marion và viên thanh tra bằng chính tay của anh. Nhưng anh vẫn cứ cho rằng đó là mẹ của anh giết. Nhưng cảnh sát đã cho mọi người biết là mẹ của Norman đã chết quá lâu nay rồi. Cả tòa nhà to lớn đó chỉ có một mình anh cư trú mà thôi.
Cái từ Psycho từ đây xin được gọi rõ là Psychopath, một kẻ bị bịnh tâm thần, gọi nôm na là điên, một người có ít nhất là hai giọng nói ngự trị bên trong, lúc thì kẻ này xuất hiện rất bình thường, lúc thì người khác trổi dậy thống trị mọi tư tưởng và hành động. Norman dù gì đi nữa cũng phải đưa vào bịnh viện chữa trị trước khi ra án anh có tội thật sự hay không. Hết phim còn nhìn thấy nét mặt tinh quái của anh nhóang lên trong ánh mắt và cái đuôi mép. Đó là Norman hay là mẹ anh ta?
Phỏng theo truyện mang cùng tên của Robert Bloch, Hitchcock chỉ đạo diễn phim Pycho này năm 60, các tài tử tham dự chính là Anthony Perkins và Janet Leigh. Cuộn phim tức thì gây chấn động vì cảnh horror dưới vòi hoa sen mà Marion bị đâm chết. Nghe nói rất nhiều phụ nữ sau đó không dám đi tắm một mình! Anthony Perkins nhập vai đến nỗi hễ nhắc đến Psycho là nhớ ngayAnthony/Norman. Anh còn đóng và đạo diễn nhiều phim Psycho tiếp theo sau đó một cách cực kì say mê! Cho dù là remake hay sequel, đạo diễn khác, tình tiết thêm thắt khác, nhưng phụ nữ tóc vàng vẫn là những nạn nhân của Psycho, tiếng cười thỏa mãn của bà mẹ vẫn lanh lảnh đâu đó và gương mặt lạnh lùng của Hitchcock vẫn được tô đậm ở phía sau?
03-22-2012 12:39 PM
Sau 3 phim, người ta bây giờ mới hiểu tại sao Norman bị bịnh tâm thần. Một bữa kia, Norman nghe trong radio một vấn đề thảo luận có đề tài là "Tôi đã giết mẹ" và anh ta cũng tự cho rằng chính anh đã giết chết mẹ mình. Phim kể lại sau đó hồi Norman còn bé, không có cha, thường bị mẹ bắt mặc quần áo con gái vì bà mẹ tính tình rất kì quặc. Từ đó mới bắt đầu mọi thứ kì quái xảy ra trong người anh. Conny, vợ anh cũng phải lãnh một hậu quả lớn vì cô ta muốn có con, trong khi Norman thì nhất định không chịu....
Phim này cũng do Joseph Stefano (người viết Psycho 1 cho Hitchcock) viết, nhưng không thành công vì có lẽ không cần thiết phải giải thích đầu đuôi tự sự như thế này, mất cả cái hay căng thẳng ban đầu. Vì thế, xin nhắn là, ai muốn giữ được màu sôcôla ban đầu trong trí thì chỉ nên xem Psycho 1 mà thôi .
Psycho 1998, đạo diễn Gus van Sant, tài tử Vince Vaughn, Anne Heche
Phim quay lại giống bài bản của Hitchcock, chỉ khác là phim màu. DVD có phụ đề 8 thứ tiếng, dolby digital, có thêm phần giới thiệu đoàn làm phim, phỏng vấn, do Columbia Tristar phát hành. Nói chung là .. vĩ đại, nhưng ấn tượng rùng rợn nguyên thủy không còn nữa mà thay vào đó là cảm nhận y xì các phim thriller mới sau này mà thôi.
Nhìn lại, đúng là vẫn rợn tóc gáy cảnh quay trong nhà tắm dưới vòi hoa sen. Hình này cho thấy đỡ sợ hơn một chút : Hitchcock đang đạo diễn Janet Leigh
Cứ trong 5 người dân Úc-đại-lợi thì sẽ có một người bị một căn bệnh tâm thần, và hầu hết trong chúng ta sẽ bị một vấn đề về tâm thần trong cuộc sống của mình.
Bệnh tâm thần là một thuật ngữ tổng quát ám chỉ một nhóm bệnh tật, cũng giống như cách nói bệnh tim thì ám chỉ một nhóm bệnh tật và rối loạn ảnh hưởng đến trái tim.
Một căn bệnh tâm thần là một vấn đề về sức khỏe, ảnh hưởng đáng kể đến tâm trạng cách suy nghĩ, cư xử và giao tiếp của một ai đó với những người khác. Bác sĩ chẩn bệnh tâm thần dựa vào những tiêu chí đã được chuẩn hóa. Thuật ngữ rối loạn tâm thần cũng được sử dụng để ám chỉ những vấn đề về sức khỏe này.
Một vấn đề về sức khỏe tâm thần cũng can dự đến cách suy nghĩ, tâm trạng và cư xử của một ai đó, nhưng ở mức độ nhẹ hơn so với một căn bệnh tâm thần. Những vấn đề về sức khỏe tâm thần thường gặp hơn và bao gồm cả bệnh tâm thần mà ta có thể bị thoáng qua tựa như là một phản ứng trước những căng thẳng trong cuộc sống.
Những vấn đề về sức khỏe tâm thần ít nghiêm trọng hơn các bệnh tâm thần, nhưng có thể phát triển thành một căn bệnh tâm thần nếu chúng không được xử lý thích đáng.
Những căn bệnh tâm thần gây nhiều khổ sở cho người mắc bệnh, cũng như cho gia đình và bạn bè của họ. Hơn nữa, những căn bệnh này đang gia tăng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization), bệnh ưu sầu hay trầm cảm sẽ là một trong những vấn đề về sức khỏe lớn nhất trên thế giới tính tới năm 2020.
Các loại bệnh tâm thần
Các căn bệnh tâm thần có những loại và mức độ trầm trọng khác nhau. Một trong số những loại chính yếu là bệnh trầm cảm, chứng lo âu, tâm thần phân liệt, chứng loạn tâm thần hưng-trầm cảm, chứng rối loạn nhân cách và chứng rối loạn ăn uống.
Các căn bệnh tâm thần thường gặp là chứng lo âu và bệnh trầm cảm. Trong khi mỗi người thỉnh thoảng đều trải qua các cảm giác căng thẳng, sợ hãi, hay buồn rầu mạnh mẽ, căn bệnh tâm thần hình thành một khi các cảm giác này trở nên quá xáo trộn và mãnh liệt đến nỗi những người này gặp nhiều khó khăn đối phó với những sinh hoạt hàng ngày, như công việc làm, vui hưởng giây phút giải trí và duy trì những mối quan hệ.
Khi lên đến cực độ, những người mắc chứng bệnh trầm cảm có thể không còn khả năng thức dậy ra khỏi giường hoặc chăm sóc cho bản thân họ nữa. Những người mắc một vài loại chứng lo âu có thể không còn khả năng rời khỏi nhà, hoặc có thể có những thói quen bắt buộc nhằm giúp họ giảm bớt nỗi sợ hãi.
Các căn bệnh tâm thần ít gặp hơn có thể gắn liền với chứng loạn tâm thần. Các chứng này bao gồm bệnh tâm thần phân liệt và chứng loạn tâm thần hưng trầm cảm.
Những người trải qua một cơn loạn tâm thần cấp tính thường mất liên hệ với thực tại và cảm nhận về thế giới của họ khác hẳn với bình thường. Khả năng của họ để hiểu được những suy nghĩ, tâm trạng và thể giới xung quanh họ bị ảnh hưởng trầm trọng.
Các cơn loạn tâm thần có thể đe dọa và làm cho những người khác bối rối. Đối với những người nào không quen thuộc với hành vi như vậy, họ thấy khó mà hiểu được.
(Psychotic episodes can be threatening and confusing to other people. Such behaviour is difficult to understand for people who are not familiar with it.)
Chữa trị bệnh tâm thần
Hầu hết các căn bệnh tâm thần đều có thể được chữa trị hiệu quả. Nhận biết các dấu hiệu và các triệu chứng sớm ban đầu và kiếm cách chữa trị sớm và hiệu quả là điều quan trọng. Việc chữa trị càng bắt đầu sớm chừng nào thì kết quả mới càng tốt đẹp chừng nấy.
Các cơn bệnh tâm thần có thể đến rồi qua đi trong các thời kỳ khác nhau trong quãng đời con người. Một số người chỉ bị một cơn bệnh và bình phục hoàn toàn. Đối với những người khác, bệnh có thể tái diễn trong suốt quãng đời của họ.
Các chữa trị hiệu quả có thể bao gồm thuốc men, các liệu pháp tâm lý về hành vi và nhận thức, hỗ trợ về mặt tâm lý và xã hội, phục hồi thiểu năng tâm thần, tránh những yếu tố rủi ro như dùng rượu và các chất ma túy khác độc hại và học hỏi các kỹ năng tự lo liệu cho bản thân.
Rất hiếm khi mà ai đó mắc bệnh tâm thần có thể chỉ dùng sức mạnh của ý chí thôi để làm tan biến đi triệu chứng của căn bệnh. Đề nghị làm chuyện này chẳng giúp ích được tí nào.
Những người mắc bệnh tâm thần cần sự thông cảm và hỗ trợ giống như những người mắc chứng bệnh thể lý vậy. Bệnh tâm thần cũng không khác gì – không ai đáng bị quy lỗi vì căn bệnh này.
Người mắc bệnh tâm thần có thể có nguy cơ dùng rượu và chất ma túy khác độc hại. Điều này khiến cho việc chữa trị thêm phần phức tạp, vì thế điều quan trọng là phải xử trí hiệu quả việc dùng rượu và chất ma túy khác.
Rủi ro tự tử tăng cao đối với những người mắc một số bệnh tâm thần, đặc biệt là ngay sau khi có chẩn đoán hay được xuất viện về.
Các điều ngộ nhận, hiểu lầm và sự thực về bệnh tâm thần.
Các điều ngộ nhận, hiểu lầm, thành kiến và thái độ xấu vây quanh lấy bệnh tâm thần. Những điều này gây ra nỗi ô nhục, kỳ thị và cô lập cho những người bệnh tâm thần, cũng như gia đình và người chăm sóc cho họ.
Các câu hỏi thường gặp về bệnh tâm thần là:
Các bệnh tâm thần có phải là một dạng của thiểu năng trí tuệ hoặc hư hại não bộ không?
Không phải. Chúng cũng là các căn bệnh như bao căn bệnh khác, như bệnh tim, tiểu đường và hen suyễn vậy. Tuy nhiên người mắc bệnh tâm thần thường không đượccái tập tục đối xử cảm thông, hỗ trợ và tặng hoa như đối với những người mắc các chứng bệnh thể lý.
Các bệnh tâm thần có phải là không chữa lành được và kéo dài suốt đời không?
Không phải. Khi được chữa trị sớm và thích hợp, nhiều người bình phục hoàn toàn và không còn bị thêm các cơn bệnh nữa. Đối với những người khác, bệnh tâm thần có thể tái diễn trong suốt cuộc đời của họ và cần chữa trị trường kỳ. Chuyện này cũng giống như những căn bệnh thể lý khác, như bệnh tiểu đường hoặc bệnh tim vậy. Giống như các căn bệnh lâu dài khác, bệnh tâm thần có thể được chữa trị để mà mỗi cá nhân có thể sống cuộc đời viên mãn nhất. Mặc dù một số người trở nên khiếm tật do hậu quả của căn bệnh tâm thần trường kỳ, nhiều người thậm chí bị các cơn bệnh rất nặng nhưng vẫn sống cuộc đời trọn vẹn và hữu ích.
Người ta có bị mắc bệnh tâm thần bẩm sinh không?
Không. Khuynh hướng dễ mắc bệnh đối với một số bệnh tâm thần, như chứng loạn tâm thần hưng trầm cảm, có thể lưu truyền trong gia đình. Nhưng có những người khác mắc bệnh tâm thần mà không có tiền sử bệnh trong gia đình. Nhiều yếu tố đóng góp vào thời kỳ khởi phát của căn bệnh tâm thần. Các yếu tố này bao gồm căng thẳng tinh thần, nỗi buồn tang chế, đổ vỡ trong mối quan hệ, bị hành hạ thể xác và hãm hiếp làm nhục, thất nghiệp, cô lập trong xã hội và bệnh thể lý và khuyết tật nặng. Hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân gây bệnh tâm thần đang mở rộng thêm.
Bất cứ ai cũng có thể mắc một căn bệnh tâm thần sao?
Đúng vậy. Thật ra, cứ trong 5 người dân Úc-đại-lợi thì có tới một người có thể bị một căn bệnh tâm thần. Người nào cũng dễ bị những vấn đề về sức khỏe tâm thần. Nhiều người cảm thấy dễ chịu hơn với ý niệm bị ‘suy sụp thần kinh’ hơn là bị một căn bệnh tâm thần. Tuy nhiên, điều quan trọng là nên trò chuyện cởi mở về bệnh tâm thần, bới vì làm như thế sẽ giảm bớt được nỗi ô nhục và giúp cho người bệnh sớm kiếm cách chữa trị.
Những người mắc bệnh tâm thần có thường nguy hiểm không?
Không. Ý thức sai lầm này ẩn tàng trong một số những thành kiến tai hại nhất. Những người mắc bệnh tâm thần hiếm khi nào nguy hiểm. Thậm chí những người bị bệnh tâm thần trầm trọng nhất hiếm khi nào nguy hiểm một khi đã được chữa trị và hỗ trợ thích hợp.
Người mắc bệnh tâm thần có nên được cách ly khỏi cộng đồng không?
Không. Hầu hết người mắc bệnh tâm thần đều bình phục nhanh chóng và thậm chí không cần được bệnh viện chăm sóc . Những người khác được nhập viện trong thời gian ngắn để chữa trị. Các tiến bộ trong việc chữa trị qua những thập niên gần đây giúp cho hầu hết người bệnh sinh sống trong cộng đồng của họ, và không cần phài bị nhốt hoặc bị cách ly như vẫn thường làm trước đây.
Một số rất nhỏ những người mắc bệnh tâm thần cần được bệnh viện chăm sóc, đôi khi trái với ý muốn của họ. Các tiến bộ trong việc chữa trị đã khiến cho chuyện này ngày càng ít thấy hơn, và cứ trong 1000 người bệnh mới có chưa tới một người phải bị chữa trị theo cách này.
Có phải nỗi ô nhục là một trong những trở ngại lớn nhất cho người mắc bệnh tâm thần không?
Phải. Một trong số những trở ngại lớn nhất cho những người hồi phục sau căn bệnh tâm thần là phải đương đầu với các thái độ tiêu cực của những người khác. Điều này có nghĩa là những người mắc bệnh tâm thần phải đối diện với sự cô lập và kỳ thị chỉ vì mình mắc bệnh.
Thái độ tích cực và đầy hy vọng của gia đình, bạn bè, cơ quan phục vụ, chủ nhân và những người khác trong cộng đồng đối với người mắc bệnh tâm thần là điều cốt yếu nhằm đảm bảo cho cuộc sống an vui của người bệnh tâm thần và yểm trợ cho việc bình phục bệnh.
Có thể làm được điều gì vể nỗi ô nhục của bệnh tâm thần?
Hãy nghĩ tới các căn bệnh tâm thần như bất kỳ các căn bệnh và các tình trạng sức khỏe khác và đưa chuyện này ra công khai.
Hãy nói chuyện cởi mở về bệnh tâm thần với mọi người mà ta gặp gỡ -- thật là ngạc nhiên khi thấy biết bao nhiêu người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh tâm thần, đặc biệt là chứng rối loạn có tần xuất cao như bệnh trầm cảm và chứng lo âu.
Giáo dục cho cộng đồng nhằm vượt qua các thành kiến xấu do dựa vào những quan niệm sai lầm.
Quảng bá y tế tâm thần và thái độ lành mạnh trong suốt cuộc sống tráng niên và thời thơ ấu.
Hỗ trợ việc phát triển tính kiên nghị: học hỏi những cách thức xử trí những căng thẳng giữa các mối quan hệ, trong các tình huống và biến cố.
Trợ giúp cho bạn bè và gia đình người mắc bệnh nhằm nhận được sự chăm sóc và chữa trị càng sớm càng tốt.
Bảo đảm cho người mắc bệnh tâm thần được phục vụ chữa trị và hỗ trợ toàn hảo nhằm thúc đẩy việc bình phục bệnh.
Hỗ trợ tích cực cho những gia đình và người chăm sóc cho người mắc bệnh tâm thần, là những người cũng thấm thía nỗi bối rối, đau khổ và nỗi ô nhục có thể gắn liền với bệnh tâm thần.
Nêu ra vấn đề kỳ thị trong mọi lãnh vực của cuộc sống, bao gồm công việc làm, giáo dục và cung cấp hàng hóa, dịch vụ và các phương tiện.
Khuyến khích công cuộc nghiên cứu bệnh tâm thần nhằm giúp hiểu biết các căn bệnh này ảnh hưởng đến con người như thế nào và làm thế nào để có thể phòng ngừa và/hoặc chữa trị hiệu nghiệm các căn bệnh này.
Tìm nơi nào để trợ giúp
Bác sĩ gia đình của quý vị
Trung tâm y tế cộng đồng của quý vị
Trung tâm y tế cộng đồng về tâm thần của quý vị
Muốn biết thêm chi tiết về các dịch vụ, xin hỏi Dịch vụ Phúc lợi và Trợ giúp Cộng đồng (Community Help and Welfare Services) và các số điện thoại khẩn trực 24 tiếng có trong cuốn điện thoại niên giám địa phương của quý vị.
Muốn được trợ giúp tham vấn tức thì, xin liên lạc Đường dây điện thoại Mạch sống (Lifeline) qua số 13 11 14. Đường dây Mạch sống này có thể cũng cung cấp cho ta những mối liên lạc, thêm thông tin và trợ giúp.
Các nguồn thông tin hữu ích khác về bệnh tâm thần là:
SANE Australia www.sane.org
Hội Ái hữu Bệnh nhân Tâm thần Úc-đại-lợi (Mental Illness Fellowship of Australia) www.mifa.org.au
Phạm vi dành cho công chúng của Học viện Chuyên khoa Tâm thần thuộc Hoàng gia Úc-đại-lợi và Tân-tây-lan (the Royal Australian and New Zealand College of Psychiatrists) www.ranzcp.org
Mạng lưới Úc (Auseinet) www.auseinet.com
HealthInsite thuộc Chính phủ Úc-đại-lợi (Australian Government’s HealthInsite) www.healthinsite.gov.au
If you need an interpreter contact TIS on Telephone 13 14 50
For more translated information, try the following links:
http://www.mmha.org.au/
http://www.mhcs.health.nsw.gov.au/mhcs/topics.html
http://www.healthtranslations.vic.gov.au/
http://www.healthysa.sa.gov.au/default.asp
Đôi điều về tập tài liệu này
Tập tài liệu này là một phần trong một bộ tài liệu về bệnh tâm thần do Chính phủ Úc-đại-lợi tài trợ thông qua Sách lược Quốc gia về Y tế Tâm thần (National Mental Health Strategy). Thông tin hướng dẫn về các loại bệnh tâm thần đặc thù có thể tìm thấy trong các tập tài liệu khác, bao gồm:
• Bệnh tâm thần là gì?
• Chứng lo âu là gì?
• Chứng loạn tâm thần hưng-trầm cảm là gì?
• Chứng trầm cảm là gì?
• Chứng rối loạn về ăn uống là gì?
• Chứng rối loạn nhân cách là gì?
TVì sao người ta dễ bệnh tâm thần?
Mỗi ngày, khoa khám của bệnh viện Tâm thần TPHCM tiếp nhận từ 500-600 bệnh nhân. Nếu như trước kia bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt là chủ yếu thì hiện trên 50% bệnh nhân là do các chứng trầm cảm, rối loạn lo âu, mất ngủ...
Theo bảng phân loại quốc tế về các rối loạn tâm, bệnh tâm thần hiện chia thành gần ba trăm loại. Ví như tâm thần phân liệt; các rối loạn lo âu; rối loạn thích ứng; rối loạn hành vi; rối loạn giấc ngủ; rối loạn tình dục; rối loạn lưỡng cực; trầm cảm...
Đổ vỡ tình cảm, thất bại kinh doanh...
Với chứng tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, đến nay y học vẫn chưa tìm thấy nguyên nhân. Hiện đây là những bệnh được cho là có nhiều yếu tố gây nên, trong đó có yếu tố di truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia.
Các nghiên cứu đã tìm thấy ở những cặp sinh đôi cùng trứng có dấu hiệu tâm thần phân liệt hay trong các trường hợp bố mẹ bị bệnh, con cái cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn quần thể chung. Bên cạnh đó, yếu tố sinh học cũng ảnh hưởng đến các bệnh tâm thần. Các dẫn chất thần kinh như dopamin, serotonine, norepinephrine… trong não bộ tăng lên hay giảm xuống được nhận thấy trong môt số bệnh.
Ngoài những yếu tố trên, môi trường sống cũng là yếu tố tác động rất nhiều đến tinh thần, ví như đổ vỡ tình cảm hay thất bại trong kinh doanh, nghề nghiệp, tình trạng stress kéo dài. Một yếu tố không kém phần quan trọng nữa là bản lĩnh của mỗi người, người mạnh mẽ thì dễ vượt qua các khó khăn trong cuộc sống, người yếu đuối, phụ thuộc, thì ngược lại và họ dễ mắc các rối loạn tâm thần hơn.
Áp lực công việc, học đường, thất thường sinh hoạt...
Nhịp sống hiện đại luôn đòi hỏi con người phải có sự phấn đấu hết mức có thể. Ngoài công việc, họ cần liên tục trau dồi ngoại ngữ, công nghệ thông tin để nhanh chóng cập nhật những tri thức, kỹ năng mới. Giờ làm việc không còn dừng lại ở 8 tiếng, không phải làm đến hết giờ mà đến khi nào hết việc mới ngưng. Sự thất thường trong chế độ sinh hoạt, cộng với những áp lực lo toan sẽ bị sa thải, bị phá sản là con đường rất ngắn dẫn đến stress, tâm thần.
Nói với người bận rộn
Sau khi tan sở, trở lại với đời thường, nên để lại công việc ở cơ quan. Gặp gỡ bạn bè, chơi thể thao, nghe nhạc. Cuối tuần, cùng vợ (chồng) con đi mua sắm, hoặc đi dã ngoại với cả gia đình. Có điều kiện thì tổ chức du lịch, về quê thăm họ hàng, người thân. Mỗi người cần có một đam mê, một thú vui nào đó để giảm căng thẳng từ công việc, ví như nghe nhạc, chơi một nhạc cụ, thành thạo một môn thể thao, hoặc học khiêu vũ...
Nói cho cùng, chúng ta nên thiết lập một lối sống lành mạnh, biết chia sẻ và quân bình giữa tinh thần và thể chất. Một cơ thể cường tráng thì tinh thần cũng luôn sảng khoái.
Những áp lực từ học đường cũng có thể khiến trẻ nhanh chóng rơi vào các rối loạn như lo âu, trầm cảm, rối loạn hành vi. Thời khoá biểu học dày đặc từ sáng đến tối. Thời gian nghỉ ngơi bị thu hẹp. Không được chơi, ít được tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, cuộc sống của trẻ bó hẹp, không còn thời gian tiếp xúc với thiên nhiên, giao tiếp với bên ngoài xã hội. Sự học từ lúc nào trở thành nỗi ám ảnh trong đầu trẻ. Chúng sợ đến trường và dễ xuất hiện các rối loạn như nôn ói, khó thở, đau bụng mỗi khi cha mẹ kêu đi học.
Cấu trúc gia đình bị phá vỡ
Có thể nói cấu trúc gia đình thời hiện đại đã ít nhiều bị phá vỡ. Con cái trưởng thành không nhất thiết phải chung sống với bố mẹ. Có nhiều gia đình chỉ có hai ông bà già sống với nhau.
Và chuyện sống chung hai, ba thế hệ dưới một mái nhà cũng tiềm ẩn nhiều khác biệt về cách nghĩ, cách sống. Người già thích nghe cải lương, ăn đồ nấu tại nhà, mặc quần áo kín đáo. Họ hay có thói quen áp đặt cách nghĩ, cái nhìn của mình lên con trẻ. Trong khi đó, giới trẻ lại thích hip hop, ăn fastfood, xài đồ thời trang...
Một khi không cân bằng được cách sống giữa các thế hệ, mâu thuẫn sẽ diễn ra, nếu không được giải quyết, sự giằng xé giữa quá khứ và thực tại có thể dẫn đến tình trạng stress kéo dài, lúc đó trầm cảm có thể xuất hiện.
Tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ hiện đã tăng gấp đôi so với nam giới. Người ta cho rằng, có một số giai đoạn đặc biệt như thai nghén, sinh nở, nuôi con, trách nhiệm với gia đình, giai đoạn tiền mãn kinh… có thể giải thích cho hiện tượng này. Ngoài thiên chức làm mẹ, làm vợ, người phụ nữ hiện cũng phải gánh vác công việc xã hội như nam giới. Điều này chắc chắn làm tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm cho họ.
Thông Tin Tổng Quát về Bệnh Tâm Thần
Bệnh Tâm Thần là gì?
What is Mental Illness?
Bệnh tâm thần là một chứng bệnh gây ra những rối loạn về tư duy, nhận thức, cảm xúc, hoặc hành vi ở mức độ từ nhẹ tới nghiêm trọng. Nếu các tình trạng rối loạn này ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng đáp ứng các yêu cầu và thói quen thông thường trong cuộc sống hàng ngày thì bệnh nhân cần tìm chuyên gia sức khỏe tâm thần ngay để được chữa trị thích hợp. Với sự chăm sóc và điều trị thích hợp, bệnh nhân có thể phục hồi và trở lại các hoạt động bình thường.
Một Số Quan Niệm Sai Về Bệnh Tâm Thần
Các quan niệm sai thường gặp về bệnh tâm thần là bệnh này xuất phát từ sự suy đồi đạo đức, nhược điểm cá nhân hoặc do thiếu năng lực tinh thần. Một quan điểm sai lầm khác là những người mắc bệnh tâm thần đều nguy hiểm hoặc hung bạo. Từ những quan điểm này, có thể giải thích tại sao chỉ có một phần ba những người mắc các chứng rối loạn tâm thần tìm đến các chuyên gia để được giúp đỡ. Trên thực tế, các chứng rối loạn tâm thần là những căn bệnh thực sự và có thể chữa trị được. Những người mắc bệnh tâm thần có thể trở lại cuộc sống hữu ích bình thường nếu họ được chữa trị thích hợp.
Ai Có Thể Mắc Bệnh Tâm Thần?
Bệnh tâm thần ảnh hưởng tới cả nam giới và phụ nữ. Bất kỳ người nào—bất kể độ tuổi, hoàn cảnh kinh tế hoặc sắc tộc—đều có thể mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên, những người sống nghèo khổ dễ có nguy cơ mắc bệnh hơn. Trong bất kỳ giai đoạn kéo dài một năm nào đều có khoảng 20 phần trăm dân số Hoa Kỳ mắc một chứng rối loạn tâm thần có thể chẩn đoán được và gây trở ngại tới việc làm, học tập hoặc các hoạt động khác trong cuộc sống hàng ngày.
Nguyên Nhân Gây Bệnh Tâm Thần
Hiện tại người ta vẫn chưa hiểu rõ nguyên nhân chính xác gây nên đa số các chứng rối loạn tâm thần. Nhìn chung, các chứng rối loạn tâm thần phát sinh từ cả yếu tố di truyền kết hợp với các yếu tố sinh học khác và các yếu tố môi trường. Sự ảnh hưởng giữa sinh học và môi trường là rất phức tạp. Bộ não ảnh hưởng tới hành vi, và kinh nghiệm ảnh hưởng tới sự phát triển của bộ não.
Có Các Dạng Bệnh Tâm Thần Thường Gặp Nào?
Sau đây là phần trình bày tóm lược về ba chứng rối loạn tâm thần thường gặp nhất ở người lớn. Để biết thêm chi tiết về các chứng bệnh này, xin xem các tờ thông tin trình bày về từng căn bệnh.
Các Chứng Rối Loạn Cảm Xúc
Trầm cảm là vấn đề về cảm xúc hay được chẩn đoán nhiều nhất. Đây là cảm giác buồn chán kéo dài hoặc sâu sắc, cảm thấy "buồn" hoặc "chán nản." Những cảm giác buồn chán như nản chí hoặc buồn chán là hoàn toàn bình thường nếu không trở nên quá nghiêm trọng hoặc kéo dài quá lâu. Tuy nhiên, nếu tình trạng này vẫn dai dẳng hoặc tiếp tục kéo dài, bệnh nhân cần tìm nơi giúp đỡ.
Bệnh Rối Loạn Lưỡng Cực, hay còn còn gọi là bệnh hưng trầm cảm, là một chứng bệnh gây ra những thay đổi bất thường về cảm xúc, sinh lực, và khả năng sinh hoạt của bệnh nhân. Những người mắc bệnh rối loạn lưỡng cực có các chu kỳ cảm xúc xen kẽ giữa trầm cảm với hưng cảm, và thể hiện nhiều triệu chứng hưng cảm sau đây:
Hưng phấn quá nhiều hoặc hưng phấn bất thường
Cáu giận bất thường
Nhu cầu ngủ giảm bớt
Hoang tưởng
Những suy nghĩ lướt nhanh và nói nhanh hơn
Ham muốn tình dục tăng
Sinh lực tăng đáng kể
Khi được điều trị, đa số những người mắc bệnh trầm cảm và chứng rối loạn lưỡng cực có thể phục hồi và trở lại cuộc sống hữu ích trước đây. Gần đây tất cả những ai mắc các chứng bệnh rối loạn cảm xúc đều đỡ bệnh khi dùng thuốc men, trị liệu tâm lý hoặc kết hợp các biện pháp điều trị này.
Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu
Chứng rối loạn cảm xúc lo âu là cảm giác căng thẳng gắn liền với cảm giác về một mối đe dọa, nguy hiểm, hoặc cực kỳ sợ hãi. Chúng ta thường gặp đôi chút căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày; tuy nhiên, tâm trạng lo âu kéo dài và ngày càng nghiêm trọng sẽ gây đau đớn về tinh thần. Bệnh này gây trở ngại tới sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân. Các ví dụ về chứng rối loạn lo âu gồm có chứng rối loạn hoảng sợ, rối loạn ám ảnh-ép buộc và rối loạn do căng thẳng sau chấn thương.
Nên áp dụng biện pháp trị liệu tâm lý và/hoặc dùng thuốc men cho những người mắc chứng rối loạn lo âu ở mức độ từ vừa phải tới nghiêm trọng.
Bệnh mất trí
Bệnh mất trí là một chứng rối loạn tâm thần gây trở ngại nghiêm trọng tới tư duy, nhận thức và cảm xúc, và ảnh hưởng tới khoảng 1 phần trăm dân số Hoa Kỳ. Chứng rối loạn tâm thần này có thể tự biểu hiện theo nhiều cách khác nhau. Các khó khăn chủ yếu gắn liền với bệnh mất trí đều liên quan tới tư duy (thí dụ như rất tin tưởng vào những quan điểm sai lầm) hoặc các nhận thức bất thường hoặc bất hợp lý của người bệnh (ví dụ như nghe thấy tiếng nói hoặc nhìn thấy những thứ thường không thực sự tồn tại). Vì suy nghĩ của người bệnh đôi khi bị biến dạng, người mắc bệnh mất trí có thể có nhiều hành vi mà người khác cảm thấy kỳ lạ. Ngoài ra, lời lẽ của người đó cũng có thể không hợp lý hoặc rời rạc.
Có thể chữa trị bệnh mất trí bằng việc dùng thuốc men, áp dụng biện pháp trị liêu tâm lý và phục hồi tâm lý xã hội. Nhờ có các lựa chọn điều trị mới, nhiều người mắc bệnh mất trí đã có thể làm việc, sống với gia đình, và giao tiếp với bạn bè.
Có Các Biện Pháp Điều Trị Nào?
Một biện pháp điều trị hữu hiệu bắt đầu từ việc kiểm tra đánh giá kỹ lưỡng. Bác sĩ gia đình hoặc bác sĩ chuyên khoa tâm thần sẽ đánh giá tình trạng sức khỏe và tâm lý của bệnh nhân, sau đó sẽ giới thiệu bệnh nhân tới nơi thích hợp.
Các bệnh tâm thần có thể chữa được bằng cách dùng thuốc men, áp dụng biện pháp trị liệu tâm lý và sử dụng các dịch vụ phục hồi. Trên thực tế, có rất nhiều biện pháp điều trị có thể đáp ứng nhu cầu sức khỏe tinh thần của bất kỳ cá nhân nào. To understand more about mental health services in your county, please read our brochure, "Adult Mental Health Services."
Làm Thế Nào để Được Giúp Đỡ?
Nếu quý vị hoặc người nhà của quý vị cần các dịch vụ sức khỏe tâm thần, hãy hỏi ý kiến bác sĩ gia đình của quý vị và xin khám cũng như điều trị tâm thần cho bản thân quý vị hoặc người nhà của quý vị.
Quý vị và người nhà của quý vị có thể hội đủ điều kiện được nhận các dịch vụ sức khỏe tâm thần từ Chương Trình Sức Khỏe Tâm Thần của Quận (County Mental Health Plan). Quận có đường dây điện thoại miễn phí hoạt động 24 giờ trong ngày, với đội ngũ nhân viên là các chuyên gia về sức khỏe tâm thần. Họ có thể đánh giá các nhu cầu của quý vị và đưa ra sự giới thiệu thích hợp. Họ sẽ có thể nói chuyện với quý vị bằng ngôn ngữ mà quý vị muốn sử dụng. Các dịch vụ và số điện thoại của họ được ghi trong trang về chính quyền quận trong danh bạ điện thoại đCác Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Là Gì?
What Are Mood Disorders?
Nhiều trở ngại trong cuộc sống hàng ngày sẽ dẫn tới các thay đổi về cảm xúc và hành vi. Điều quan trọng là cần phải phân biệt được giữa các thay đổi về hành vi thông thường do tâm trạng căng thẳng hàng ngày gây ra với các dấu hiệu cho thấy các vấn đề nghiêm trọng hơn. Các vấn đề trở nên đáng quan tâm hơn khi những vấn đề đó có tính chất nghiêm trọng, dai dẳng và ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày của một cá nhân.
Các chứng rối loạn cảm xúc là các trạng thái cảm xúc bị trầm trọng quá mức, trong đó con người ít có khả năng kiểm soát, dẫn tới tâm trạng trầm cảm và làm suy yếu khả năng học tập, làm việc, và giao tiếp với những người khác. Các chứng bệnh rối loạn cảm xúc thường rất dễ chữa khỏi. Điều quan trọng là cần phải nhờ giúp đỡ, không chỉ để giảm bớt sự chịu đựng không cần thiết mà còn bởi vì nếu không được chữa trị, nhiều chứng rối loạn cảm xúc sẽ tái phát và ngày càng trở nên tồi tệ hơn trong suốt cuộc đời bệnh nhân. Hai chứng rối loạn cảm xúc thường gặp nhất là Trầm Cảm và Rối Loạn Lưỡng Cực.
Các Dấu Hiệu của Bệnh Trầm Cảm Là Gì?
Những người mắc bệnh trầm cảm gần như lúc nào cũng cảm thấy buồn và biểu hiện nhiều triệu chứng sau đây:
Thường xuyên cảm thấy buồn, lo lắng, hoặc cảm giác "trống rỗng"
Cảm thấy tuyệt vọng, bi quan
Cảm giác có lỗi, vô dụng, bất tài
Không hứng thú hoặc quan tâm tới các sở thích và các hoạt động mà trước đây họ đã từng ưa thích, kể cả sinh hoạt tình dục
Sinh lực giảm sút, mệt mỏi, "uể oải"
Khó tập trung chú ý, nhớ, ra quyết định
Mất ngủ, thức dậy vào buổi sáng sớm, hoặc ngủ quá nhiều
Chán ăn và/hoặc giảm cân hoặc ăn quá nhiều và tăng cân
Nghĩ tới cái chết hoặc tự tử; tìm cách tự tử
Đứng ngồi không yên, cáu giận
Các triệu chứng cơ thể như đau đầu, các chứng bệnh rối loạn đường tiêu hóa và đau mãn tính
Đó Có Thể Là Chứng Rối Loạn Lưỡng Cực (Hưng Trầm Cảm) Không?
Những người mắc bệnh rối loạn lưỡng cực có các chu kỳ trầm cảm xen kẽ với hưng cảm. Các triệu chứng hưng cảm gồm có:
Hưng phấn quá nhiều hoặc bất thường
Cáu gắt bất thường
Ngủ ít hơn
Hoang tưởng
Nói nhiều hơn
Có những suy nghĩ thoáng qua
Ham muốn tình dục tăng
Sinh lực tăng đáng kể
Suy xét kém
Hành vi giao tiếp không thích hợp
Nguyên Nhân Gây Nên Các Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Là Gì?
Người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ nguyên nhân chính xác gây bệnh trầm cả và rối loạn lưỡng cực. Nhìn chung, các chứng rối loạn tâm thần phát sinh từ cả yếu tố di truyền kết hợp với các yếu tố sinh học khác và các yếu tố môi trường. Sự ảnh hưởng giữa sinh học và môi trường là rất phức tạp. Bộ não ảnh hưởng tới hành vi, và kinh nghiệm ảnh hưởng tới sự phát triển của bộ não.
Các Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Được Chữa Trị Như Thế Nào?
Để chữa trị hiệu quả, cần bắt đầu từ việc chẩn đoán thích hợp về chứng rối loạn cảm xúc. Ngoài đánh giá của các chuyên gia sức khỏe tâm thần, phần lớn các trường hợp đều cần phải có sự đánh giá y khoa của bác sĩ để loại trừ các nguyên nhân thể chất có thể gây ra các triệu chứng đó.
Biện pháp điều trị thường bao gồm trị liệu tâm lý và/hoặc dùng thuốc men. Thường thì biện pháp điều trị hiệu quả nhất là kết hợp cả hai. Về vấn đề trị liệu tâm lý, nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp giao tiếp hoặc hành vi nhận thức rất hữu ích cho những người mắc bệnh trầm cảm. Hai liệu pháp này giúp thanh thiếu niên chú trọng tới các mối quan hệ cá nhân gây trở ngại cho các em và các lối suy nghĩ tiêu cực thường liên quan tới bệnh trầm cảm.
Làm Thế Nào để Được Giúp Đỡ?
Nếu quý vị hoặc người nhà của quý vị cần các dịch vụ sức khỏe tâm thần, hãy hỏi ý kiến bác sĩ gia đình của quý vị và xin khám cũng như điều trị tâm thần cho bản thân quý vị hoặc người nhà của quý vị.
Quý vị và người nhà của quý vị có thể hội đủ điều kiện được nhận các dịch vụ sức khỏe tâm thần từ Chương Trình Sức Khỏe Tâm Thần của Quận (County Mental Health Plan). Quận có đường dây điện thoại miễn phí hoạt động 24 giờ trong ngày, với đội ngũ nhân viên là các chuyên gia về sức khỏe tâm thần. Họ có thể đánh giá các nhu cầu của quý vị và đưa ra sự giới thiệu thích hợp. Họ sẽ có thể nói chuyện với quý vị bằng ngôn ngữ mà quý vị muốn sử dụng. Các dịch vụ và số điện thoại của họ được ghi trong các trang về chính quyền quận trong danh bạ điện thoại địa phương.Chứng Rối Loạn Căng Thẳng Sau Chấn Thương Ở Người Lớn (PTSD)
Chứng Rối Loạn Do Căng Thẳng Sau Chấn Thương Là Gì? (PTSD)
What Is Post-Traumatic Stress Disorder? (PTSD)
Chứng Rối Loạn Do Căng Thẳng Sau Chấn Thương (PTSD) liên quan tới các rối loạn về cảm xúc, hành vi và tâm lý đôi khi có thể phát sinh sau khi gặp phải một biến cố gây chấn động nặng. Ví dụ, các biến cố gây chấn động bao gồm hãm hiếp hoặc lạm dụng tình dục, hành hung, chứng kiến cảnh giết người hoặc bị thương tích nghiêm trọng, hoặc gặp sự tàn phá trên diện rộng do thiên tai hoặc chiến tranh. Những người là nạn nhân hoặc đã chứng kiến những biến cố gây chấn thương nặng nề như vậy sẽ có nguy cơ mắc bệnh PTSD.
Không phải tất cả mọi người đã gặp hoặc chứng kiến một biến cố gây chấn thương sẽ mắc bệnh PTSD. Một số người phục hồi mà không cần chữa trị, còn những người khác có thể không phát triển PTSD cho tới nhiều năm sau khi xảy ra biến cố đó. Tuy nhiên, nếu không được chữa trị, bệnh có thể làm ảnh hưởng xấu tới công việc, học tập và giao tiếp xã hội của người đó.
Ngoài đánh giá của chuyên gia sức khỏe tâm thần, phần lớn các trường hợp đều cần phải có sự đánh giá y khoa của bác sĩ để loại trừ các nguyên nhân thể chất có thể gây ra các triệu chứng đó.
Các Dấu Hiệu của PTSD Là Gì?
Một người mắc chứng PTSD có thể biểu hiện các triệu chứng sau đây trong một thời gian dài:
Thường xuyên hồi tưởng lại biến cố gây chấn động đó qua những dòng ký ức hồi tưởng, kỷ niệm, những cơn ác mộng hoặc suy nghĩ hoảng sợ
Cảm thấy xa cách với các trạng thái cảm xúc; thể hiện sự lãnh cảm
Mất ngủ
Tránh bất kỳ tình huống nào có thể khiến người đó hồi tưởng lại sự kiện gây chấn động
Thể hiện ý thức cảnh giác và dè chừng ngày càng cao
Một người mắc chứng PTSD có thể biểu hiện các dấu hiệu của các vấn đề về cảm xúc khác như có cảm giác tuyệt vọng, trầm cảm, cáu gắt và nổi giận.Một số người có thể bắt đầu uống rượu, dùng cần sa và các loại thuốc an thần khác để vượt qua. Những người mắc chứng PTSD cũng thường có các vấn đề về thể chất như đau đầu, đau bụng, nhức mỏi cơ, chóng mặt và đau ngực.
Nguyên Nhân Gây Ra Chứng Rối Loạn Do Căng Thẳng Sau Chấn Thương Là Gì?
Người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ nguyên nhân chính xác gây bệnh căng thẳng sau chất thương. Nhìn chung, các chứng rối loạn tâm thần phát sinh từ cả yếu tố di truyền kết hợp với các yếu tố sinh học khác và các yếu tố môi trường. Sự ảnh hưởng giữa sinh học và môi trường là rất phức tạp. Bộ não ảnh hưởng tới hành vi, và kinh nghiệm ảnh hưởng tới sự phát triển của bộ não.
Các triệu chứng của PTSD do một biến cố gây chấn động tạo ra. Nghiên cứu cho thấy rằng những người đã từng gặp biến cố gây chấn động trước đây (ví dụ như ngược đãi trẻ em, bị thương nặng do thảm họa, hoặc chiến tranh) dễ có khả năng mắc chứng PTSD. Các cuộc nghiên cứu khác cho thấy rằng các vùng não cụ thể chịu trách nhiệm về các triệu chứng PTSD như sợ hãi và lo lắng, những suy nghĩ và ký ức dồn dập.
Chứng Rối Loạn Do Căng Thẳng Sau Chấn Thương Được Chữa Trị Như Thế Nào?
Biện pháp chữa trị PTSD gồm có trị liệu tâm lý và/hoặc dùng thuốc men.
Với sự trợ giúp của cố vấn viên, người mắc chứng PTSD có thể kiểm tra và xem xét lại các sự kiện gây chấn thương trước đây và học cách hiểu và đối phó với cảm giác sợ hãi và lo lắng của mình.
Thuốc men có thể giúp giảm bớt các triệu chứng lo âu và trầm cảm và giúp người bệnh ngủ ngon hơn.
Với sự điều trị thích hợp, một số người sẽ phục hồi trong vòng vài tháng, còn những người khác có thể mất nhiều thời gian hơn—đôi khi là một năm—để khỏi bệnh PTSChứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu Ở Người Lớn
Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu là gì?
What are Anxiety Disorders?
Đa số mọi người đôi khi cảm thấy lo âu và cảm giác lo âu là chuyện bình thường trong cuộc sống. Tuy nhiên, người cảm thấy lo âu quá thường xuyên, quá nhiều hoặc quá lâu có thể gặp chứng bệnh rối loạn cảm xúc gọi là Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu. Các chứng rối loạn cảm xúc lo âu là các bệnh tâm thần có thể khiến cuộc sống của người bệnh có quá nhiều điều phải lo ngại, e sợ, hoặc căng thẳng, sợ hãi dai dẳng thường xuyên và có thể trở nên ngày càng trầm trọng hơn nếu không được chữa trị.
Đối với một số người, các chứng rối loạn cảm xúc lo âu trở nên quá nặng tới mức họ bắt đầu khó sinh hoạt bình thường ở nhà, tại sở làm hoặc trường học. Các chứng rối loạn cảm xúc lo âu là dạng bệnh tâm thần thường gặp nhất-- khoảng 19 triệu người Mỹ thành niên mắc chứng bệnh này.
Chứng rối loạn cảm xúc lo âu có thể chữa khỏi được! Để điều trị hiệu quả, phải bắt đầu bằng một kết quả chẩn đoán thích hợp cho căn bệnh. Ngoài đánh giá của các chuyên gia tâm thần, đa số các trường hợp đều cần phải được một bác sĩ khám qua để biết các lý do về sức khỏe thể chất có thể gây ra các triệu chứng đó.
Có Những Dạng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu Thường Gặp Nào?
Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu Toàn Diện
Những người mắc chứng bệnh này quá lo lắng về gia đình, sức khỏe, việc làm hoặc các vấn đề khác ngay cả khi ít có nguyên nhân phải lo lắng như vậy. Họ có thể:
Khó kiểm soát được mối lo âu của mình
Cảm giác lo lắng và cáu gắt
Nhức mỏi cơ thể, trong đó bao gồm cả đau đầu hoặc đau nhức ở nơi khác trên cơ thể mà không có nguyên nhân rõ ràng
Mất ngủ và dễ bị mệt mỏi
2. Chứng Rối Loạn Hoảng Sợ
Chứng bệnh rối loạn này có đặc điểm là các cơn lo âu, thường kéo dài chỉ trong vòng vài phút. Bệnh khởi phát bất ngờ với nỗi sợ hãi quá mức mà không có lý do rõ ràng, kèm theo một số đặc điểm sau đây:
Ra mồ hôi, nhịp tim đập nhanh, run rẩy
Thở dốc, tức ngực, choáng ngất
Cảm giác sợ chết, trở nên điên dại, hoặc mất sự kiểm soát
Tránh bất kỳ địa điểm hoặc tình huống nào liên quan tới những cơn lo âu
Sợ giao tiếp--nỗi sợ hãi quá mức đối với việc có mặt tại nơi công cộng
3. Các nỗi sợ hãi
Những người mắc căn bệnh này cảm giác sợ hãi và né tránh khi đối mặt với một đồ vật hoặc tình huống khiến họ hoảng sợ. Họ thường tránh những yếu tố dẫn tới nỗi sợ hãi của họ. Những nỗi sợ hãi này có thể gây trở ngại tới công việc, gia đình và các hoàn cảnh giao tiếp.
Các dạng bệnh sợ hãi thường gặp:
Chứng Sợ Giao Tiếp--rất sợ bị lăng mạ trước mặt những người khác
Bệnh Sợ Hãi Cụ Thể--bệnh sợ hãi đối với các đồ vật hoặc tình huống cụ thể, ví dụ như sợ cầu thang máy hoặc sợ đi qua cầu
4. Chứng Rối Loạn Ám Ảnh - Ép Buộc (OCD)
Những người mắc chứng bệnh OCD thường có những nỗi ám ảnh lặp đi lặp lại nhiều lần (ví dụ như những suy nghĩ về sự xâm phạm) khiến họ cảm thấy buồn bực và cực kỳ lo lắng. Để bớt lo âu, họ thường có các hành vi lặp lại nhiều lần (các hành vi ép buộc), ví dụ như rửa tay quá kỹ hoặc kiểm tra các đồ vật cụ thể quá mức cần thiết. Những người mắc bệnh OCD nhận thấy rằng hành vi lo lắng quá mức của họ là không có cơ sở, nhưng cảm thấy bất lực trong việc ngăn chặn những suy nghĩ đó.
5. Chứng Rối Loạn Do Căng Thẳng Sau Chấn Thương
Chứng rối loạn này xảy ra ở những người đã gặp một sự kiện gây chấn thương nghiêm trọng như thiên tai, chiến tranh, tra tấn, đánh đập hoặc hãm hiếp. Họ tiếp tục gặp lại sự kiện chấn động đó qua những cơn ác mộng hoặc ký ức trở lại nhiều lần, những hồi tưởng, và tiếp tục rơi vào trạng thái cực kỳ mệt mỏi về thể chất, tâm thần và cảm xúc khi xuất hiện những tình huống nhắc họ nghĩ về sự kiện đó. Họ có thể cảm thấy bị tê liệt, rã rời, căng thẳng và trở nên quá thận trọng. Họ thường khó ngủ.
Nguyên Nhân Gây Ra Các Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu Là Gì?
Hiện tại người ta vẫn chưa hiểu rõ được nguyên nhân chính xác gây ra đa số các chứng rối loạn tâm thần. Nhìn chung, các chứng rối loạn tâm thần phát sinh từ cả yếu tố di truyền kết hợp với các yếu tố sinh học khác và các yếu tố môi trường. Trong gia đình có người mắc các chứng bệnh rối loại cảm xúc lo âu không phải là chuyện hiếm, đặc biệt là bệnh rối loạn ám ảnh-ép buộc.
Các Chứng Rối Loạn Cảm Xúc Lo Âu Được Chữa Trị Như Thế Nào?
Chứng rối loạn cảm xúc lo âu có thể được điều trị bằng biện pháp trị liệu tâm lý, thuốc men hoặc kết hợp cả hai. Có hai dạng trị liệu tâm lý hiệu quả là trị liệu hành vi, trong đó chú trọng tới việc thay đổi hành vi; và trị liệu nhận thức, trong đó hướng dẫn bệnh nhân hiểu và thay đổi cách suy nghĩ để có các phản ứng khác đối với các tình huống khiến họ cảm thấy lo âu. Thuốc men cũng có thể giúp giảm bớt các triệu chứng lo âu.Chứng Trầm Cảm Ở Trẻ Em và Thanh Thiếu Niên
Child and Adolescent Depression
Hầu như ai cũng có lúc cảm thấy buồn chán và cảm giác buồn chán là chuyện bình thường trong cuộc sống. Tuy nhiên, khi một đứa trẻ hoặc một thanh thiếu niên cảm thấy buồn chán quá thường xuyên, quá nhiều, hoặc quá lâu, em có thể mắc một chứng bệnh rối loạn cảm xúc gọi là trầm cảm.
Một Số Dấu Hiệu của Chứng Trầm Cảm ở Trẻ Em và Thanh Thiếu Niên
Chứng trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên có thể biểu hiện dưới dạng tâm trạng buồn chán, cáu giận hoặc cực kỳ nhạy cảm. Một số dấu hiệu của bệnh trầm cảm là:
Thường xuyên cảm thấy tuyệt vọng, vô dụng, có lỗi hoặc tự ti
Ít quan tâm hơn tới các hoạt động mà trước đây các em đã từng vui thích.
Thiếu sinh lực và sự nhiệt tình, và thường xuyên cảm thấy chán nản
Khó tập trung chú ý
Có những thay đổi đáng kể về khẩu vị hoặc cân nặng
Xa lánh những người lớn hoặc giao tiếp kém
Thường xuyên nghĩ tới cái chết, gây tổn hại cho bản thân, hoặc tự tử
Thường xuyên cảm thấy khó chịu trong cơ thể, thí dụ như đau đầu, nhức mỏi cơ, đau bụng, hoặc mệt mỏi
Có tâm trạng tức giận, cáu gắt, thù hận hoặc các hành vi nguy hiểm nghiêm trọng hơn
Bật khóc, la hét, kêu la hoặc cáu giận mà không rõ nguyên nhân
Thường xuyên nghỉ học hoặc có kết quả học tập kém
Nghiện rượu và ma túy
Trẻ em và thanh thiếu niên có thể khó nhận biết và mô tả về cảm xúc và cảm giác của các em. Các em có thể vẫn chưa biết cách bộc lộ bản thân bằng từ ngữ. Các em có thể biểu hiện cảm xúc của mình qua hành vi. Đôi khi những người lớn hiểu lầm những hành vi này là hành động không vâng lời hoặc thích thể hiện, nhưng đó có thể là các dấu hiệu của chứng trầm cảm.
Các bệnh về thể chất và tâm thần khác cũng có các triệu chứng giống như các triệu chứng của bệnh trầm cảm. Và cũng có khả năng là một đứa trẻ có thể cùng lúc mắc bệnh trầm cảm và một căn bệnh khác, thí dụ như chứng rối loạn cảm xúc lo âu hoặc các khuyết tật về nhận thức. Do đó, điều quan trọng là em cần được bác sĩ chuyên khoa khám kiểm tra kỹ lưỡng để chẩn đoán chính xác.
Các Nguyên Nhân Gây Bệnh Trầm Cảm Là Gì?
Hiện nay người ta vẫn chưa hiểu rõ được nguyên nhân chính xác gây ra đa số các chứng rối loạn tâm thần. Thông thường, các chứng rối loạn tâm thần phát sinh từ các yếu tố di truyền kết hợp với các yếu tố sinh học khác, và các yếu tố nuôi dưỡng cũng như các yếu tố môi trường khác. Sự ảnh hưởng giữa sinh học và môi trường là rất phức tạp. Bộ não ảnh hưởng tới hành vi, và kinh nghiệm ảnh hưởng tới sự phát triển của bộ não.
Bệnh trầm cảm di truyền trong gia đình, qua đó cho thấy khả năng dễ mắc bệnh về mặt sinh học có thể là do di truyền. Các yếu tố khác, có thể là tâm trạng căng thẳng ở nhà, trường học hoặc sở làm, và các biến cố căng thẳng trong cuộc sống như chấn thương, mất mát, hoặc bệnh mãn tính cũng là các yếu tố chính gây trầm cảm.
Bệnh Trầm Cảm ở Trẻ Em và Thanh Thiếu Niên Được Chữa Trị Như Thế Nào?
Bản thân các trẻ em và thanh thiếu niên bị trầm cảm không phải là những người yếu đuối và các em không có khiếm khuyết về tính cách. Cảm giác trầm cảm của các em là rất thật và không thể kỳ vọng vào việc các em chỉ cần "vui vẻ lên." Trẻ em và thanh thiếu niên bị trầm cảm cần được điều trị và bệnh trầm cảm của các em là có thể chữa khỏi được.
Về vấn đề trị liệu tâm lý, nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp giao tiếp hoặc hành vi nhận thức rất hữu ích cho những người mắc bệnh trầm cảm. Hai liệu pháp này giúp thanh thiếu niên chú trọng tới các mối quan hệ cá nhân gây trở ngại cho các em và các lối suy nghĩ tiêu cực thường liên quan tới bệnh trầm cảm. Các biện pháp điều trị khác có thể là trị liệu tâm lý cho gia đình và trị liệu theo nhóm. Ngày càng có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng thuốc để chữa chứng trầm cảm ở trẻ em.
Làm Thế Nào để Được Giúp Đỡ?
Trước hết, hãy hỏi ý kiến bác sĩ của con quý vị. Hãy yêu cầu khám kiểm tra sức khỏe toàn diện cho con quý vị. Cho bác sĩ biết về những hành vi của trẻ khiến quý vị cảm thấy lo ngại. Hãy hỏi bác sĩ của quý vị để biết có cânầđưa con quý vị đi khám chữa trị với bác sĩ chuyên khoa về các bệnh hành vi hay không.
Quý vị cũng nên liên lạc với trường của con mình. Các giáo viên và cố vấn viên của trường cũng có thể giúp đỡ.
Con quý vị có thể hội đủ điều kiện nhận các dịch vụ sức khỏe tâm thần từ Chương Trình Sức Khỏe Tâm Thần của Quận. Quận có đường dây điện thoại miễn phí hoạt động 24 giờ trong ngày. Họ sẽ có thể nói chuyện với quý vị bằng ngôn ngữ riêng của quý vị và giải đáp các thắc mắc về hành vi của con quý vị. Các dịch vụ và số điện thoại của họ được ghi trong trang về chính quyền quận trong danh bạ điện thoại địa phương.
Những bệnh lý dễ gây biến chứng tâm thần
Rối loạn tâm thần có thể làm nặng thêm bệnh nhưng ngược lại bệnh tật quá nặng cũng có thể dẫn tới tổn thương tâm thần, mặc dù trước đó họ hoàn toàn lành mạnh…
Người ta đã thấy, có những người chỉ cần một cú sốc về tinh thần có thể làm cho sức khỏe của họ bị suy sụp một cách tàn tạ mà mức độ bệnh tật của họ không ghê gớm đến như vậy. Nhưng ngược lại người ta cũng thấy có những trường hợp bệnh tật lại dẫn tới biến chứng tâm thần mặc dù trước đó họ hoàn toàn lành mạnh về tâm thần. Đó thường là những bệnh ngoài sức chịu đựng của con người như: bệnh nan y, chi phí điều trị tốn kém, kết quả điều trị mong manh. Việc xuất hiện một bệnh tâm thần dạng như thế người ta gọi là bệnh tâm thần thứ phát sau một bệnh lý cơ thể khác. Chúng ta cần chú ý về mặt tâm thần với những bệnh như vậy.
Đứng đầu bảng trong những bệnh có tỷ lệ cao gây ra các tổn thương tinh thần là bệnh nhồi máu cơ tim. Đây là một bệnh nặng nhất trong các bệnh của hệ tim mạch bởi nó có thể gây ra tử vong rất nhanh chóng. Bệnh diễn biến nhanh và gây ra cho người bị nạn một sự hoảng loạn về tinh thần cấp độ lớn.
Người ta cho là chính sự ngộp thở đến hoảng sợ của bệnh, cảm giác đau thấu tim làm cho người bệnh cực kỳ sợ và cảm thấy mình như chết đến nơi. Đây được coi là hai nguyên nhân gây ra sự hoảng loạn tinh thần. Điều này còn được kéo dài cho tới vài ngày sau điều trị.
Các rối loạn tâm thần mà nó có thể gây ra là rối loạn lo âu, trầm cảm, hoảng loạn tinh thần đến cực điểm. Chính vì thế ngoài việc can thiệp về những thủ thuật chuyên môn thì an ủi, động viên tinh thần người bệnh có một giá trị cực lớn. Trấn an sự lo âu bằng việc giải thích sự tiến triển có lợi của bệnh là một phương thức được cho là cần thiết. Việc sử dụng các thuốc an thần trong các trường hợp này được cho là lợi đơn lợi kép: vừa làm giảm mức độ biến chứng của nhồi máu cơ tim, vừa làm giảm tổn hại đến sức khoẻ tâm thần.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Là bệnh có ảnh hưởng nặng nề đối với hệ tâm thần. Đây là bệnh viêm phù nề phế quản mạn tính theo mùa và gây ra sự tắc nghẽn đường thở nghiêm trọng.
Có ba yếu tố có thể gây ra tổn thương tinh thần cho bệnh nhân đó là: sự tái đi tái lại của bệnh làm cho bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi và chán nản, sự thiếu hụt khí ôxy do bệnh và sự tăng nồng độ của khí carbonic làm thay đổi tính phản ứng của hệ thần kinh tâm lý.
Greenberg, D.B. và Halperin, P đã nghiên cứu và thấy rằng sự thiếu ôxy mạn tính do sự tắc nghẽn đường thở có thể gây ra các rối loạn cảm xúc. Thiếu ôxy làm thay đổi hoạt tính của hệ thần kinh. Thiếu ôxy làm thần kinh dễ bị kích thích (trong giai đoạn đầu). Điều này chính là những yếu tố tạo thuận cho các rối loạn tâm thần. Và người ta cũng đã chứng minh được sự tái cung cấp đầy đủ ôxy có thể thay đổi phần nhiều những rối loạn dạng lo âu của người bệnh.
Sự gia tăng khí carbonic và sự ngộp thở như bị cái gì chẹn vào cổ là những nguyên nhân gây ra những cơn hoảng loạn tinh thần. Vì rằng trong những đợt nặng lên của bệnh thì sự xuất hiện những cơn khó thở là chuyện không hề hiếm. Sự khó thở đến “chết” làm cho người bệnh bị hoảng loạn vô cùng, nhất là với những người thần kinh yếu. Và những gì quan sát được đã chứng minh điều này. Porzelius J. và Vest đã chứng minh là có khoảng 38% bệnh nhân bị hoảng loạn tinh thần do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Điều này không thể đổ lỗi cho người bệnh là có tiền sử mắc bệnh tâm thần từ trước. Bằng chứng là nếu điều trị hết bệnh thì hệ tinh thần trở lại bình thường mà không cần sử dụng đến thuốc tâm thần. Người ta cũng chứng minh, nếu sử dụng một số thuốc an thần như benzodiazepin để giảm lo âu thì không những có thể cắt được cơn lo âu mà còn có thể giảm được biến chứng làm nặng bệnh do lo âu quá mức gây ra.
Hội chứng ruột kích thích
Đây là một bệnh có gắn chặt với tâm lý của bệnh nhân. Người ta thường cho là những dạng kích thích thần kinh và căng thẳng thần kinh là nguyên nhân gây ra bệnh. Điều này đúng. Nhưng có một thực tế nữa là bệnh đôi khi chính là nguyên nhân gây ra tổn thương trên hệ tâm thần. Cụ thể là bệnh càng nặng thì những rối loạn tâm thần càng nghiêm trọng. Ban đầu có thể người bệnh không bị lo âu quá mức, nhưng sau khi bệnh nặng lên thì mức độ lo âu lại tăng lên rõ rệt. Thêm vào đó, chỉ cần điều trị dứt điểm bệnh thì những rối loạn tâm thần tự rút lui.
Việc xuất hiện những rối loạn tâm thần do bệnh không phải là không có bằng chứng. Người ta cho là sự kéo dài điều trị của bệnh, sự nhập nhằng trong cải thiện triệu chứng, sự tiêu chảy không thay đổi mặc dù đã cố gắng thay đổi chế độ ăn là những yếu tố điển hình nhất ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần. Người bệnh rất lo lắng và không thể hiểu được điều gì đang xảy ra trong cơ thể mình. Hậu quả của những yếu tố này là sự xuất hiện các biến cố tâm thần trên. Vì vậy điều có ích hơn trong những trường hợp này là việc sử dụng một thuốc trấn tĩnh an thần đặc hiệu đi kèm như sulpirid và giải thích cho bệnh nhân.
Bệnh đái tháo đường
Nếu chúng ta muốn điều chỉnh các rối loạn tâm thần cho người bệnh thì chúng ta cũng cần lưu ý tới bệnh đái tháo đường. Những biến cố thông thường của đái tháo đường như sự sút cân đến không ngờ, sự gầy rộc đi trong thấy, sự mệt mỏi rất vô cớ được cho là những yếu tố tác động trực tiếp tới sự khoẻ mạnh của hệ tâm thần.
Theo những gì mà người ta quan sát thấy, những rối loạn tâm thần ở những bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường là khá lớn. Có tới 45% trong tổng số bệnh nhân bị mắc chứng rối loạn lo âu và có khoảng 33% số bệnh nhân tiểu đường bị bệnh trầm cảm đi kèm.
Sự điều trị các triệu chứng của bệnh đái tháo đường là cần thiết. Nhưng việc xử lý các rối loạn tâm thần cũng không thể bỏ qua. Tùy từng trường hợp hay mức độ tổn thương tâm thần mà chúng ta có thể cho người bệnh sử dụng thuốc hay không. Và điều lưu ý là cần xử lý tốt các rối loạn tâm thần để làm tăng chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Suy thận mạn
Suy thận mạn là hậu quả cuối cùng của nhiều bệnh thận. Nó làm tích lũy nhiều rác thải và sản phẩm chuyển hoá trong cơ thể. Nhiều chất trong số này gây tổn thương hệ thần kinh trung ương và làm thay đổi những phản ứng của hệ tâm thần. Có thể kể ra đây như urê, các bazơ nitơ, các thể ceton… Sự tích lũy quá nhiều chất thải, phải nhập viện liên tục, phụ thuộc quá nhiều vào y tế được cho là những nguyên nhân có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới chức năng tâm thần.
Bạn đừng lạ nhé khi thấy người thân của mình đâm ra khó tính, hay cáu gắt. Bạn cũng đừng ngạc nhiên khi thấy người thân của mình trở nên nhặng xị và hay có những mâu thuẫn vô cớ. Đó chỉ là những biểu hiện rất chân thực của những rối loạn tâm thần mắc phải mà bản thân họ không hề muốn.
Người ta thấy rằng, với những bệnh nhân bị suy thận mạn thì họ thường bị mắc thêm các rối loạn tâm thần như rối loạn lo âu và rối loạn cảm xúc. Thậm chí nhiều người trong số này phải dùng thêm các thuốc chống rối loạn tâm thần. Số người phải dùng đến thuốc trị tâm thần cao hơn so với các bệnh khác như nhồi máu cơ tim, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính vào khoảng 1,5 – 3 lần. Vì thế, trong tiếp xúc với người bệnh, chúng ta không nên cáu gắt với họ. Nên nhớ, họ không bao giờ muốn thế. Song song với việc đó, kiên nhẫn, cố gắng nói chuyện giải toả và tạo bầu không khí hoà thuận là cách giảm thiểu gánh nặng tâm thần tốt nhất cho người bệnh.
Bệnh vô cảm: kết quả lối sống thực dụng thời hiện đại
Bé 2 tuổi ở Trung Quốc đã qua đời rạng sáng nay sau nhiều ngày nguy kịch vì bị 2 xe tải đâm. Chuyện xảy ra ở nước ngoài, nhưng không ít người Việt Nam bức xúc nhìn lại thực tế “bệnh vô cảm lan tràn trong xã hội hiện nay”. “Tôi vừa mới làm cha được một tháng nay, thật sự xem xong tin bé 2 tuổi Yue Yue ở Trung Quốc bị 2 xe tải đâm nằm 7 phút trên đường mà không ai chịu cứu giúp, tôi không cầm được nước mắt… Sao tài xế có thể làm như vậy, người đi đường thì quá vô tâm?”.
Bạn đọc Nguyễn Hữu Bình cũng bày tỏ: “Sự việc trên cho thấy con người ngày càng vô cảm trước đau khổ của đồng loại”. Cùng nhiều độc giả khác, anh Bình hết lời ca ngợi người phụ nữ nhặt rác đã bế đứa bé bị nạn vào bệnh viện. “Trong cái xã hội này hình như có mỗi bà ấy mới thực sự là ‘người’”, anh viết.
Mẹ của em bé 2 tuổi Yue Yue khóc thảm khi biết tin con mình bị nạn. Ảnh: oriental daily news
Câu chuyện bi đát xảy ra ở nước láng giềng cách đây 4 ngày cũng làm chấn động lương tâm của nhiều người, và là đề tài “hot” thu hút hàng triệu người quan tâm trên các diễn đàn mạng. Nhiều topic được lập ra để bàn về “lương tâm và bệnh vô cảm”. Đa phần các thành viên diễn đàn đều lên án thái độ vô cảm của gần 20 người qua đường trong vụ bé Yue Yue, trong khi một số khác lo ngại về sự xuống cấp đạo đức đang ngày càng lan tràn trong xã hội hiện đại
Từng là nạn nhân sự vô cảm trong cộng đồng, anh Tuân (quận 3, TP HCM) kể, hôm ấy khoảng 21h tối trên đường đi làm về, anh bị một gã say rượu đâm vào khiến cả hai cùng bị thương rất nặng, người bê bết máu. Mặc dù đoạn đường có nhiều người qua lại, nhưng ngoài một cô gái và bà cụ tốt bụng tận tình nhặt dùm đồ đạc rơi ra rồi đứng chặn để bảo vệ hai nạn nhân bê bết máu, còn hầu hết những người khác chỉ dừng lại, đứng nhìn với thái độ tò mò rồi bỏ đi.
Cũng bức xúc trước của thái độ vô cảm của người khác, chị Mai Hoa kể một lần trên đường đi về nhà, tay lái xe của chị bị sọt chở gà của người đi phía sau đang cố vượt lên móc vào. Hai chị em Hoa ngã đập đầu xuống đường. “Ấy vậy mà người đi đường cứ như không thấy gì, mặc kệ hai chị em nằm còng queo và vẫn còn bị xe đè lên người đến 10 phút. Cũng may khi đó không có xe tải nào phía sau chứ không thì chị em tôi giờ chắc đi gặp các cụ tổ rồi”, chị nói.
Trên đường phố Sài Gòn ngày nay, vẫn còn rất nhiều những cách hành xử vô tâm theo kiểu nhìn cụ già không dám đi qua đường vì xe cộ đông mà không giúp; thấy một phụ nữ loay mãi không lấy được xe máy từ bãi gửi xe, các cậu thanh niên đi qua lại vẫn trơ trơ; hay tà áo dài của cô gái bị cuộn vào bánh xe trở thành trò đùa chỉ trỏ nhau của giới trẻ cho đến khi cô ngã đập mặt xuống đường…
Như một trường hợp xảy trên đường Võ Văn Tần, quận 3. Hôm ấy một người mua nhớt dạo chở ngang đường làm đổ nhớt. Thay vì tìm cách cảnh báo người đi đường, hoặc dùng cát lấp đống nhớt, một nhóm thanh niên ngồi uống nước ở vỉa hè lại dửng dưng ngồi chờ xem người chạy xe máy cán qua nhớt trượt ngã để phá lên cười.
Bức xúc trước hành động vô tâm, một phụ nữ sau khi bị trượt ngã đã đến công an phường để trình báo. Tuy nhiên khi các nhân viên dân phòng đến để lấp cát và nhắc nhở, nhóm thanh niên phân bua: “Chúng tôi có tội gì đâu, tại thấy người ta tự nhiên chạy rồi ngã nên cười thôi”.
Có rất nhiều lý do để giải thích cho thái độ thờ ơ và căn bệnh vô cảm, song nhiều nhất vẫn là “không phải không muốn giúp nhưng sợ giúp rồi lại mang họa vào thân”.
“Thứ nhất mình không có thời gian, thứ hai dính vào các vụ tai nạn không khéo bị công an mời lên mời xuống, có khi còn bị nghi thủ phạm gây tai nạn nên tốt hơn hết là không liên quan”, anh Hòa, một người từng bị bảo vệ bệnh viện giữ lại sau khi đưa người vào cấp cứu nói.
Trò chuyện với VnExpress.net về vấn đề này, Thạc sĩ tâm lý học Nguyễn Thị Minh, giảng viên học viện Hành chính TP HCM cũng nhìn nhận căn bệnh vô cảm đang ngày càng lây lan rộng rãi trong xã hội loài người.
Trong đó, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thái độ thờ ơ lãnh đạm của một người khi chứng kiến bi kịch của đồng loại. Đó có thể là cảm giác sợ hãi và sợ trách nhiệm liên đới; hoặc không biết và không được dạy làm thế nào để giúp người bị nạn nên bỏ đi; có thể họ quá bận rộn với công việc và nhịp sống hối hả; cũng có thể do chứng kiến nhiều vụ lừa đảo (cố tình dàn cảnh tai nạn để lừa người qua đường)… Cho nên đôi khi thái độ thờ ơ trong những tình huống này thể hiện sự phòng vệ bị động của con người.
Theo bà Minh, căn bệnh vô cảm là kết quả của một lối sống thực dụng ngày ăn sâu vào văn hóa tinh thần của xã hội. Khi mà các giá trị sống, giá trị đạo đức tinh thần, lòng bao dung nhân ái, tình thương yêu đồng loại, sự hy sinh… đang dần bị thế chỗ bởi chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân, thì con người không còn cảm giác trước nỗi đau của đồng loại.
“Dường như chữ ‘nghĩa’ trong xã hội đang dần mất đi nên con người hiện đại chỉ biết sống vì mình, không còn dám hy sinh và sống có trách nhiệm với đồng loại. Chính thay đổi đó đã đẩy con người về hai thái cực: hoặc thờ ơ lãnh cảm với sự an nguy của đồng loại hoặc trở nên quá nhạy cảm và sợ hãi khi lợi ích cá nhân bị đe dọa”, giảng viên này nói.
Vì thế để chữa căn bệnh vô cảm đang ngày lan tràn xã hội, nhất là với giới trẻ, bà Minh cho rằng phải làm sống dậy trong con người những giá trị của lương tâm, tình yêu thương bản thân và đồng loại, sự hy sinh và trách nhiệm với xã hội. Bên cạnh đó, gia đình, nhà trường và xã hội cần trang bị cho lớp trẻ những kỹ năng phòng vệ và phản ứng thế nào trong những tình huống có thể gặp phải.
“Mặc dù mục tiêu trên đã được ngành giáo dục xác định rất rõ ràng, song hiệu quả thực tế vẫn chưa đạt được”, bà Minh nói.
KHÁI NIỆM
Tự sát là tự giết mình- là hành động tự đem lại cái chết cho bản thân. Tự sát là một hành vi phản ứng tâm lý phức tạp không chỉ do một nguyên nhân hay một lý do thuần túy nào gây ra, mà thường là hậu quả từ một tập hợp những mối tương tác mâu thuẫn bức bách, đa phần là không giải quyết được của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội và môi trường sinh sống. Rất khó để giải thích cặn kẽ tại sao một người ra được quyết định thực hiện hành vi tự sát trong khi người khác trong tình trạng tương tự thậm chí tồi tệ hơn lại không. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp tự sát có thể ngăn ngừa được.
II. NGUYÊN NHÂN TỰ SÁT
2.1. Tự sát liên quan đến nhân tố tâm lý
- Các sự kiện gây căng thẳng trong cuộc sống: xung đột cá nhân (vợ chồng, gia đình, anh em, người yêu, đồng nghiệp...)
- Liên quan đến sự mất mát: người thân chết, tổn thất lớn về tài chính...
- Liên quan đến sự bế tắc trong cuộc sống và nghề nghiệp không có lối thoát.
- Liên quan đến danh dự cá nhân, gia đình, dòng tộc.
- Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo: ở ấn độ, do ảnh hưởng của đạo Balamôn, trong cõi tìm đến Niết bàn (giải phóng sự đau khổ trong cái “hư vô tuyệt đối”), các nhà thông thái thường tự sát trong các lễ tôn giáo. ở Tây Tạng, sau cái chết của Khổng Tử 500 đệ tử phản ứng nhảy xuống biển tự sát để chống lại việc đốt sách của ông. Ở Nhật Bản, do ảnh hưởng nguyên lý về danh dự, các nhà quí tộc thường tự đâm bụng, mổ bụng, tìm sự giải thoát trong cái chết.
- Cá nhân bất mãn hoặc yêu sách khi không đạt được, nảy sinh ý tưởng doạ tự sát và tự sát thật sự.
- Ở những người không phải bị bệnh tâm thần, tự sát xảy ra do quá thất vọng, quá nhục nhã, hoặc do phạm tội lớn, hoặc do đau khổ quá nhiều vì bệnh tật mà ẩn chứa trong đó sự sợ hãi, lo lắng, buồn rầu, chán nản cao độ không có lối thoát.
2.2.Tự sát liên quan đến bệnh cơ thể và tâm thần
- Các bệnh cơ thể mạn tính: Đái đường, bệnh gan, thận, dạ dày, đài tràng, khớp, xơ cứng bì rãi rác, tim mạch, thần kinh...
- Động kinh, chấn thương sọ não, ung thư: tự sát xảy ra như cơn xung động cảm xúc.
Các rối loạn tâm thần thường gặp
- Trạng thái trầm cảm nặng có loạn thần, thường có kèm theo hoang tưởng bị tội. Người bệnh cho mình có phẩm chất xấu, có tội lớn không đáng sống nên phải chết mới giải thoát được.
- Do hoang tưởng chi phối: thường có hoang tưởng bị chi phối, hoang tưởng bị hại kéo dài làm cho bệnh nhân đau khổ quá mức.
- Do ảo giác chi phối: thường có ảo thanh ra lệnh, hoặc mạt sát phê phán nghiêm khắc.
III. XỬ TRÍ BỆNH NHÂN
3.1. Chăm sóc theo dỏi
Biện pháp cơ bản để đề phòng mưu toan tự sát là theo dõi, giám sát người bệnh.
- Luôn luôn đặt người bệnh nằm trong tầm quan sát của nhân viên và người nhà của họ. Tổ chức theo dõi quan sát không để cho bệnh nhân cho là rình xét họ.
- Tìm hiểu tâm lý, đánh giá ý tưởng tự sát của bệnh nhân .
- Thể hiện thái độ ân cần, niềm nở trong phục vụ và chăm sóc người bệnh.
- Nếu phát hiện bệnh nhân giấu thuốc hoặc vật dụng trong phòng, dưới gầm giường để tự sát thì bảo bệnh nhân ra ngoài và tiến hành khám xét thu lại.
- Không cho bệnh nhân nằm trùm chăn kín đầu, vì thường trong chăn bệnh nhân có thể thực hiện tự sát dễ dàng hơn.
- Khi phát thuốc phải chờ cho bệnh nhân uống xong mới rời khỏi giường, để tránh tình trạng tích thuốc sau đó sử dụng một liều để tự đầu độc.
- Nếu bệnh nhân tự cào cấu, móc mắt mình thì phải cố định tại giường, báo cho bác sĩ xử trí tích cực.
- Luôn theo dõi bệnh nhân nhân trong những thời điểm dễ thực hiện tự sát: buổi trưa, chiều tối, thời điểm giao ca làm việc hoặc vào lúc tảng sáng. Đặc biệt cần chú ý, người bệnh có thể đánh lừa đi vào buồng vệ sinh, hoặc giả vờ khỏi bệnh xin về nhà để tự sát.
3.2. Xử trí
Đứng trước một bệnh nhân tự sát người thầy thuốc cần phải sử dụng các phương pháp điều trị tổng hợp, phối hợp nhiều liệu pháp: liệu pháp tâm lý nhận thức hành vi, liệu pháp hoá dược, liệu pháp sốc điện, nhằm ngăn chặn và thanh toán ý tưởng, hành vi tự sát.
* Liệu pháp tâm lý
Tìm hiểu qua bệnh nhân và người nhà điều kiện và hoàn cảnh liên quan đến tự sát, nhằm giải thích hợp lý cho bệnh nhân nhận thức đúng, để loại trừ ý tưởng và hành vi tự sát. Liệu pháp tâm lý nhận thức hành vi rất có hiệu quả trong các trường hợp tự sát do căn nguyên tâm lý và do trầm cảm nặng.
* Liệu pháp hoá dược
Nhằm trực tiếp tác động vào các nhân tố nguyên nhân gây tự sát.
Tự sát do trầm cảm nặng:
Amitriptylin 25mg: 2-6 viên/ngày
Levomepromazin: 25mg 2-6 viên/ngày
Hoặc
Remeron 30 mg: 1-2 viên/ngày
Olanzapin 10 mg: 1-2 viên/ngày
Tự sát do hoang tưởng, ảo giác:
Haloperidol 5 mg: 1-4 viên/ngày
Levomepromazin 25mg: 2-4 viên/ngày
Amitriptylin 25mg: 2-4 viên/ngày
Hoặc
Risperdal 2 mg: 2-3 viên/ngày
Levomepromazin 25mg: 2-4viên/ngày
Amitriptylin 25mg: 2-4 viên/ngày
* Liệu pháp sốc điện
Được phối hợp với liệu pháp tâm lý và liệu pháp hoá dược, có hiệu quả nhanh và chắc chắn. Tuy nhiên, không được chỉ định trong những trường hợp tự sát có chấn thương sọ não, hoặc bệnh cơ thể nặng (tim mạch, hô hấp, gan, thận...).
Liệu trình sốc : ngày 1 lần, cho đến khi bệnh nhân hết ý tưởng tự sát. Trong những trường hợp nặng có thể sốc đúp trong một lần sốc.
Tiêu chuẩn hết tự sát:Bệnh nhân tự khai đã hết ý tưởng tự sát, khí sắc trở nên vui vẻ, hoạt bát, chan hoà cùng mọi người chung quanh.. KHÁI NIỆM:
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC) là những giai đoạn lặp đi lặp lại (ít nhất 2 lần) rối loạn khí sắc (hưng cảm hoặc trầm cảm) và hoạt động của bệnh nhân bị rối loạn đáng kể.
Điểm đặc trưng là bệnh thường hồi phục hoàn toàn giữa các giai đoạn, nguyên nhân của bệnh chưa rõ ràng, trong một số trường hợp bệnh thường xảy ra sau sự kiện gây stress.
RLCXLC (F31) có nhiều thể bệnh khác nhau, mỗi thể có đặc điểm riêng nhưng phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn cảm xúc lưỡng cực: RLCXLC hiện tại hưng cảm nhẹ (F31.0); RLCXLC hiện tại giai đoạn hưng cảm không có triệu chứng loạn thần (F31.1); RLCXLC hiện tại giai đoạn hưng cảm có triệu chứng loạn thần (F31.2); RLCXLC hiện tại giai đoạn trầm cảm nhẹ hoặc vừa (F31.3); RLCXLC hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng không có triệu chứng loạn thần (F31.4); RLCXLC hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần (F31.5); RLCXLC hiện tại giai đoạn hỗn hợp (F31.6); RLCXLC hiện tại thuyên giảm (F31.7); các RLCXLC khác (F31.8); RLCXLC không biệt định (F31.9)
II. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN.
1. Chẩn đoán xác định
- Các giai đoạn rối loạn khí sắc (hưng cảm hoặc trầm cảm) phải được lặp đi lặp lại (ít nhất 2 lần) và hoạt động của bệnh nhân bị rối loạn đáng kể, có thể có loạn thần hoặc không có loạn thần.
- Nếu hiện tại là giai đoạn trầm cảm thì trước đó nhất thiết phải có một giai đoạn hưng cảm trong quá khứ. Nếu hiện tại là giai đoạn hưng cảm thì trước đó phải có một giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm trong quá khứ. Nếu hiện tại là giai đoạn cảm xúc hỗn hợp, thì trước đó phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác đáp ứng các tiêu chuẩn đối với giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ rõ hoặc giai đoạn cảm xúc hỗn hợp trong quá khứ.
- Thời gian giữa các giai đoạn rối loạn khí sắc (hưng cảm hoặc trầm cảm) dài ngắn khác nhau nhưng bệnh thường hồi phục hoàn toàn giữa các giai đoạn.
- Ở mỗi giai đoạn rối loạn khí sắc (hưng cảm hoặc trầm cảm) có thể có triệu chứng loạn thần nhưng không đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt hoặc rối loạn phân liệt cảm xúc hoặc với bất kỳ rối loạn tâm thần thực tổn nào.
2. Chẩn đoán phân biệt:
- Rối loạn phân liệt cảm xúc (F25).
Ngoài các triệu chứng rối loạn cảm xúc rõ, các triệu chứng loạn thần trong phân liệt cảm xúc đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt. Còn trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực triệu chứng loạn thần không phù hợp tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt.
- Rối loạn trầm cảm tái diễn (F33).
Hiện tại giai đoạn trầm cảm nhưng trước đó đã có một giai đoạn trầm cảm xảy ra trong quá khứ. Còn trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện tại trầm cảm thì trước đó phải có một giai đoạn hưng cảm xảy ra trong quá khứ.
- Rối loạn cảm xúc thực tổn (F06.3).
Sự tái phát của rối loạn cảm xúc thực tổn thường liên quan đến nguyên nhân chính là thực tổn não, liên quan đến sự thay đổi khí hậu, thời tiết v.v... Còn trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một bệnh nội sinh, chưa rõ nguyên nhân, trong một số trường hợp bệnh xuất hiện sau một số sự kiện stress.
III. ĐIỀU TRỊ.
Nguyên tắc điều trị:
- Điều trị kịp thời và tích cực để làm bình ổn giai đoạn cấp.
- Điều trị duy trì để dự phòng tái phát.
- Phương pháp điều trị cần thay đổi theo thể bệnh.
1. Liệu pháp hóa dược:
- Trong giai đoạn hưng cảm chủ yếu sử dụng các thuốc chống loạn thần (Chlopromazin, Tisercine, Haloperidol v.v..). Chọn thuốc, chọn liều phù hợp với từng người bệnh, phù hợp với sự dung nạp và hiệu quả điều trị.
Thuốc Liều trung bình
Chlopromazin (Aminazin): 50 – 300mg/ ngày
Levomeromazin (Tisercine): 50 – 300mg/ ngày
Haloperidol: 5 – 20mg/ ngày
Risperidone: 3 – 6mg/ ngày
Olanzapine: 10 – 15mg/ ngày
- Trong giai đoạn trầm cảm chủ yếu sử dụng các thuốc chống trầm cảm (Amitriptylin, Anafranil, Prozac, Zoloft v.v.).
Thuốc Liều trung bình
Amitriptylin: 50 – 150mg/ ngày
Anafranil: 50 – 150mg/ ngày
Prozac: 20 – 80mg/ ngày
Zoloft: 50 – 200mg/ ngày
- Phối hợp với các thuốc điều chỉnh khí sắc trong điều trị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (muối Lithium, Carbamazepin, Valpromide v.v…).
Muối Lithium: có hiệu quả điều trị nhưng chỉ tác dụng khoảng 8 ngày sử dụng, vì vậy phải được kết hợp với thuốc an thần kinh lúc khởi đầu. Sự kết hợp này cần phải có sự theo dõi lâm sàng và cận lâm sàng chặt chẽ, đặc biệt phải theo dõi nồng độ của Lithium trong máu, trong khoảng cho phép từ 0,5 – 1,2 mEq/lít.
Carbamazepin: hiệu quả điều trị nhanh hơn so với Lithium, trong khoảng 3 ngày, được ưu tiên sử dụng trong trường hợp hưng cảm kết hợp với thuốc an thần kinh lúc khởi đầu điều trị. Cần chú ý theo dõi lâm sàng chặt chẽ để đề phòng dị ứng. Liều trung bình 200 – 800mg/ ngày.
Valpromide (Depamide): Depamide đã được sử dụng trong điều trị các rối loạn khí sắc của rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Liều trung bình 600 – 900mg/ ngày, liều duy trì 300 – 600mg/ ngày.
2. Sốc điện (ECT):
Chỉ định trong trường hợp rối loạn hành vi nặng (kích động), kháng thuốc, trầm cảm nặng có ý tưởng hành vi tự sát v.v. Cần phải khám lâm sàng và làm xét nghiệm cận lâm sàng thận trọng trước khi chỉ định sốc điện để loại trừ các trường hợp chống chỉ định.Công việc của bác sĩ tâm lý
Bác sỹ thần kinh thì khác hẳn. Bệnh nhân của bác sỹ thần kinh là những người bị ngã, va đập làm tổn thương não hoặc một phần trong hệ thống thần kinh (ví dụ tuỷ sống...), hoặc những người bẩm sinh có khiếm khuyết về sự phát triển não...
Ở Việt Nam chưa đào tạo bác sỹ tâm lý. Người học tâm lý chưa được cấp bằng bác sỹ. Ngay cả chứng chỉ hành nghề (ví dụ nhà tâm lý) tới nay cũng chỉ là "tự phong", chưa có cơ quan tổ chức nào kiểm tra và cấp.
Được gọi là bác sỹ thì chỉ có những người được đào tạo ngành y. Bác sỹ tâm thần là những người điều trị các bệnh nhân tâm thần. Cái chốt để phân biệt giữa "bệnh tâm thần" và "bệnh tâm lý".
Mình không chuyên về trị liệu, lâm sàng nên không nói cụ thể được. Nhưng có thể hiểu nôm na, là những bác sỹ tâm thần có bệnh nhân thực sự mang bệnh nặng. Bệnh nhân tâm thần buộc phải vào viện, hoặc chí ít thì bệnh cũng gây ảnh hưởng nặng nề tới cuộc sống bình thường của người bệnh, thậm chí làm người bệnh mất khả năng làm việc hoặc những khả năng sinh hoạt bình thường (ngủ, ăn uống, ...). Nguyên nhân của bệnh tâm thần có thể được xác định hoặc còn mù mờ.
Bệnh tâm lý cũng có những bệnh rất nặng, có bệnh nặng vừa và nhẹ, tuy nhiên có đặc điểm chung là đều có nguyên nhân gây bệnh là những rối loạn, sang chấn tâm lý.
Cách điều trị của bác sỹ tâm thần và bác sỹ tâm lý đều có thể sử dụng cả biện pháp trị liệu tâm lý và dùng thuốc. Tuy nhiên bác sỹ tâm lý nghiêng về trị liệu tâm lý hơn là dùng thuốc. Thực ra đó là về lý thuyết. Vì ở VN hiện nay không có chức danh "bác sỹ tâm lý" cũng như phác đồ điều trị chính thức cho nhiều bệnh tâm lý, việc điều trị không khác gì bên tâm thần. Nhiều bệnh nhân khi gặp vấn đề về tâm thần/tâm lý hiện nay chỉ biết đến các khoa tâm thần (chú ý khác với khoa thần kinh) của các bệnh viện, vì không có thông tin về bác sỹ tâm lý.
Bác sỹ tâm lý còn có một chức năng khác với bác sỹ tâm thần, là họ có thể có cả thân chủ là người bình thường (vấn đề gặp phải chưa tới mức gọi là bệnh mà chỉ là rối nhiễu/vấn đề nhẹ). Ở các nước, nếu một người bị mất ngủ vài ngày/vài tuần, họ cũng đã có thể đến bác sỹ tâm lý để được hỗ trợ (thuốc, liệu pháp tâm lý). Những cặp vợ chồng lục đục cũng có thể tìm đến nhà tâm lý/bác sỹ tâm lý để giúp hàn gắn hôn nhân/quan hệ. Trẻ em bị chán ăn mà đưa tới bác sỹ bình thường không chẩn đoán ra bệnh, cũng có thể đưa đến bác sỹ tâm lý tìm nguyên nhân và chữa trị.
Đến lúc nào đó các chuyên ngành tâm lý học ở Việt Nam phát triển hơn, hy vọng người dân chúng mình sẽ có nhiều địa chỉ tin cậy có thể đến để giúp cuộc sống mỗi người yên ổn, khỏe khoắn, hạnh phúc hơn
hững “Bác sĩ” Tâm lý tương lai
Lần đầu tiên Việt Nam có một chương trình thạc sĩ đào tạo bài bản về tâm lý học lâm sàng, để sau khi hoàn thành khoá học, học viên có thể trở thành các nhà trị liệu tâm lý, nhà tư vấn tâm lý độc lập, nhà tư vấn tâm lý học đường làm việc cho các trường học, bệnh viện, các trung tâm tư vấn - trị liệu tâm lý.
Tâm lý học lâm sàng tập trung vào nghiên cứu, tìm hiểu và can thiệp các vấn đề về tâm lý và sức khỏe tinh thần. Đây là lần đầu tiên tại Việt Nam có cơ sở đào tạo thạc sĩ tâm lý học chuyên ngành, đó là Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội. Chương trình có sự kết hợp đào tạo của chuyên gia Mỹ. Chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA). Các môn chuyên ngành đều được các giáo sư giỏi và giàu kinh nghiệm từ các trường đại học hàng đầu của Mỹ giảng dạy. Các học viên được đi kiến tập và thực tập dưới sự giám sát của nhà tâm lý người Mỹ giàu kinh nghiệm.
Tiềm năng của ngành tâm lý học lâm sàng là vô cùng lớn. Năm 2008, tại Hoa Kỳ, có 665.500 nhà tư vấn tâm lý và 170.200 nhà tâm lý học và những con số này dự báo là sẽ tăng từ 12 đến 18% trong thập kỷ tới. Việt Nam tuy chưa có thống kê cụ thể nhưng rõ ràng nhu cầu xã hội là rất cao do sự phát triển của kinh tế, xã hội và những biến động về văn hóa, giá trị, quan niệm. Số người làm trong các trung tâm tư vấn, phòng khám, bệnh viện tăng lên rất nhanh nhưng hầu hết họ không được đào tạo theo một chương trình chuẩn.
GS.TS.NGƯT. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Hiệu trưởng trường Đại học Giáo dục cho biết: "Chương trình đào tạo tâm lý lâm sàng của chúng tôi dựa trên mô hình của nước ngoài, phối hợp cùng giảng dạy với các chuyên gia nước ngoài để dần dần chuyển giao công nghệ. Chúng ta có thể thấy ngay một số trong rất nhiều lợi thế của chương trình như kế thừa các kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực tế của dự án "Đào tạo nghiên cứu sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam" từ 2001-2004 giữa Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục và Trường ĐH Vanderbilt, Hoa Kỳ; thứ hai là có sự hỗ trợ và cộng tác về mặt chuyên môn và kỹ thuật của các chuyên gia quốc tế trong việc xây dựng chương trình và đào tạo; thứ ba là có sự phối hợp, cộng tác, tập hợp các chuyên gia, nhà nghiên cứu trong cả nước trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ em, các cơ sở thực hành, mạng lưới các trường phổ thông".
Vào ngày 14 tháng 12 năm 2009 khóa học đầu tiên đã được khai giảng, 20 học viên nhưng có tới 8 giảng viên, trong đó có 3 giảng viên người Mỹ. Và trong buổi học đầu tiên, các học viên đã chia sẻ rằng đây là khoá học họ trông đợi từ rất lâu. Hầu hết trong số họ là những người đã và đang thực hành trong lĩnh vực tham vấn, trị liệu tâm lý. Có những người làm việc trong lĩnh vực tâm lý đã 4-5 năm, và họ luôn chờ đợi một chương trình mà họ đủ tin cậy.
Sau một kỳ học, mọi học viên đều tỏ ra yêu thích và đánh giá cao chương trình. Anh Cao Minh, từ trung tâm Tâm lý lâm sàng thuộc Viện Tâm lý học, người đã dồn hết tâm huyết cho lĩnh vực tâm lý học 4-5 năm nay, cho biết: "Từ trước đến nay, khi tiếp xúc với các phương pháp trị liệu tâm lý, tôi luôn cảm thấy băn khoăn liệu các phương pháp đó có phù hợp với Việt Nam hay không khi chúng đều bắt nguồn từ phương Tây. Trong chương trình Tâm lý học lâm sàng đã giải tỏa điều đó khi tôi không chỉ được học với các giáo sư hàng đầu về trị liệu của Mỹ mà còn rất chú trong đến việc làm phù hợp các phương pháp trị liệu tâm lý cho bối cảnh Việt nam. Với những lý do đó, tôi nghĩ rằng đây là chương trình tốt nhất hiện nay để đào tạo ra nhưng nhà tâm lý lâm sàng làm việc với người Việt Nam".
Chị Diệu Anh, từ Bệnh viện Nhi đồng 2 TP. HCM, một học viên của lớp cho biết: tôi là một học viên từ miền Nam ra Hà Nội để tham dự chương trình. Từ trước đến nay, tôi cũng đã tham dự nhiều khóa học về Tâm lý trị liệu, nhưng chưa có khóa nào mang tính chuyên nghiệp, khoa học và hữu ích như vậy. Ngoài lý thuyết, chúng tôi còn được thực hành tại các bệnh viện, trung tâm dưới sự hướng dẫn của các bác sỹ, chuyên viên và giáo sư của trường; quan trọng hơn nữa, chúng tôi được giám sát chuyên môn hàng tuần. với sự tận tình, chu đáo, cởi mở và phương pháp dạy học tích cực của các chuyên gia, chúng tôi đã có được một không khí học thoải mái, gần gũi, tự do phát biểu, và quan trọng, chúng tôi đã được trang bị một lượng kiến thức mới, ứng dụng, phù hợp với trị liệu tâm lý tại Việt Nam. Tuy có khó khăn về việc đi lại, nhưng tôi cảm thấy rất may mắn và tự hào vì là một trong những học viên đầu tiên của chương trình này.
Chương trình đã đào tạo được 2 khóa học viên. Hiện tại các học viên khóa 1 đã hoàn thành tất cả các môn học và đang hoàn thành kì thực tập tại bệnh viện và trường học và làm luận văn tốt nghiệp. Ngay trong quá trình thực tập tại bệnh viện, một số học viên đã được tuyển dụng.
Em Huyền thân mến!
Trước hết rất cảm ơn em vì đã muốn trở thành một nhà tâm lý học.
Hiện nay, theo tôi được biết, một số trường đại học có đào tạo chuyên ngành tâm lý học. Em có thể tham khảo thông tin tại các trường sau đây:
Tại Hà Nội:
- Khoa Tâm lý - Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Khoa Tâm lý học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tại thành phố Hồ Chí Minh:
- Khoa Tâm lý - Giáo dục, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Tại Huế:
- Khoa Tâm lý - Giáo dục, Đại học Sư phạm Huế.
Thời gian đào tạo cử nhân tâm lý học là 04 năm.
Em có thể học được văn bằng 2, nhưng em cần liên hệ trực tiếp với cơ sở đào tạo, nơi em muốn học để được biết rõ thủ tục.
Rất mong em sẽ là đồng nghiệp tương lai của chúng tôi!Trang chủ
Nhà tâm lý học Alfred Adler (1870-1937)
Posted T2, 05/03/2012 - 09:56 by Đinh Thị Thanh Ngọc
Alfred Adler bác sĩ và nhà tâm lý học người Áo, được biết tới nhiều nhất như người sáng lập ra Tâm lý học Cá nhân (Indiviual Psychology). Được tín nhiệm ngang với Carl Jung và Sigmund Freud như một trong những nhà sáng lập có ảnh hưởng nhất tới tâm lý hoc hiện đại. Trong số những đóng góp chủ yếu của Adler phải kể tới kỳ vọng bẩm sinh (birth order) trong sự hình thành nhân cách, sự ảnh hưởng của việc bỏ bê hoặc nuông chiều trong sự phát triển của trẻ em, khái niệm một động lực về “cái ngã hoàn hảo” (self perfecting) trong sự tồn tại của con người, và ý tưởng rằng người ta cần nghiên cứu và đối xử với bệnh nhân như là “con người toàn thể” (a whole person). Một nguyên lý quan trong khác trong lý thuyết của Adler đó là những mơ tưởng của con người trong tuổi thơ có thể hướng dẫn cho sự nhận thức và các lựa chọn theo suốt cuộc đời họ, và khả năng cùng làm việc với ngưới khác vì một lợi ích cộng đồng là tiêu chuẩn chính yếu về sức khỏe tâm thần. Adler là người ủng hộ mạnh mẽ cho mối quan hệ bình đẳng giữa bệnh nhân và nhà phân tâm.
Alfred Adler sinh ngày 7 tháng 1 năm 1870, tại Penzing, Áo. Là con thứ hai trong gia đình người Do Thái có sáu anh chị em, cha ông là một thương nhân buôn lúa mỳ. Adler trải qua tuổi thơ của mình tại vùng ngoại ô của Vienna, một tuổi thơ ốm yếu, cậu bé bị bệnh còi xương và mãi tới năm 4 tuổi mới biết đi. Ông nhớ lại, khi 5 tuổi mình đã bị viêm phổi nặng, bác sỹ nói với cha ông rằng khó có khả năng cậu bé sống được. Đó là thời gian Adler quyết định rằng ông muốn trở thành một bác sĩ để có thể chống lại những căn bệnh hiểm nghèo. Adler đã rất gần gũi với cha và nhớ rằng cha đã nhắc đi nhắc lại với cậu con trai trong suốt những buổi đi dạo trong những khu rừng gần Vienna, “Alfred, đừng tin bất cứ điều gì cả”. Sự ảnh hưởng lời dạy đó đã biểu hiện trong cuộc đời sau này của Adler, ông luôn nghi ngờ những vấn đề đã được trình bày trừ khi ông cảm thấy chúng có thể được chấp nhận và không còn lý do nghi ngờ gì nữa. Một kỉ niệm tuổi thơ khác mà ông không thích, và vì thế ông hay kể với những trẻ em đang có khó khăn với công việc ở trường học, gợi nhớ lại một lần khi một giáo viên đã khuyên cha Adler đưa con trai rời khỏi trường học để đi học nghề đóng giày, bởi vì ông thày cho rằng cậu không thể tốt nghiệp được đâu. Người cha chỉ cười nhạo vị giáo viên đó và kể lại sự không hài lòng của ông với con trai mình. Thời gian đó, Alfred rất ít hứng thú với trường học, và đã bị trượt trong môn toán. Cậu quyết định cho người giáo viên thấy cậu có thể làm được gì: trong một thời gian ngắn cậu bé trở thành học sinh dẫn đầu về môn toán trong lớp và không bao giờ lặp lại bất cứ thất bại nào trong việc học của mình. Những trải nghiệm đó đã tạo lập nên lý thuyết về sự phát triển nhân cách của Adler, đặc biệt là niềm tin của ông rằng hầu hết các động lực cơ bản của con người là cố gắng vượt lên tình trạng thiếu hụt ban đầu, hay điều mà ông gọi “inferiority” (sự thiếu hụt), hướng tới “superiority” (sự hoàn thiện) hoặc sự tự hoàn thiện. Không từ bỏ ý định của mình, năm 1895 ông nhận được bằng bác sĩ của Đại học Vienna. Trong quá trình học và làm việc như một bác sĩ ông đã nghiên cứu sự tác động qua lại giữa cái mà ông gọi là “organ deficiency” (sự khuyết tật về cơ thể) (bệnh tật, thiếu khả năng thể lý…) với nhân cách cá nhân và hình ảnh bản thân.
Năm 1897 ông kết hôn với Raissa Timofejewna và họ có bốn người con.
Năm 1898, ở tuổi 28, Adler viết nên cuốn sách đầu tiên, đề cập tới tình trạng sức khỏe của những công nhân may. Trong đó, ông giới thiệu cái mà sau này trở thành một giáo lý chủ chốt trong tư tưởng của ông, đó là sự cần thiết xem xét con người như một toàn thể, như một thực thể đầy đủ chức năng, đáp ứng với môi trường của mình cùng với tiềm năng thể lý của nó, hơn là như một tổng thể của những động lực vô thức và các cơ chế phòng vệ tâm lý khác.
Năm 1902, khi Adler là một trong vài người có phả ứng tán thành với cuốn sách về giải thích giấc mơ của Freud, Freud đã gửi cho Adler một tấm thiệp viết tay khuyên ông tham gia nhóm gặp mặt hàng tuần tại nhà Freud để thảo luận các vấn đề mới của tâm bệnh học. Lúc đó, Adler vừa mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp với các bệnh nhân tàn tật, nghiên cứu cả về cơ thể và các đáp ứng tâm lý của họ. Chỉ khi Freud bảo đảm rằng nhóm của ông gồm có nhiều quan điểm, và có cả quan điểm như Adler, Adler mới chấp nhận thư mời của Freud.
Năm năm sau, năm 1907, Adler xuất bản cuốn sách của mình về cảm quan về sự thấp kém và sự đền bù của nó. Từ đó trở đi, sự khác biệt giữa quan điểm của Freud và Adler trở nên rõ ràng một cách chắc chắn hơn. Adler đã không bao giờ ủng hộ các lý thuyết nền tảng của Freud rằng các khó khăn tâm thần bị gây ra chỉ bởi nguyên nhân nỗi đau liên qua tới bản năng tính dục, và đưa ra những điều nhận định khi giải thích rằng các giấc mơ, trong mỗi ví dụ, là sự thi hành mong ước tính dục. Sau những cuộc tranh luận dài, mà trong đó hai ông cố gắng để vượt qua quan điểm của người kia, Adler rời khỏi nhóm của Freud vào năm 1911 cùng với một nhóm 8 đồng nghiệp của trường phái Freudian theo cùng quan điểm với mình. Sau đó, Freud và Adler đã không bao giờ gặp lại nhau.
Năm 1912, Adler xuất bản cuốn “The Neurotic Constitution” (sự hình thành bệnh loạn tâm), trong đó ông phát triển thêm các khái niệm của mình. Ông gọi hệ thống lý thuyết tâm lý của mình là “Tâm lý học cá nhân”, một thuật ngữ đôi khi vẫn bị hiểu lầm. Cuốn sách nói về tính bất phân của nhân cách trong cấu trúc tâm lý của nó. Cuốn sách tiếp theo, “Understanding Human Nature”, bao gồm những bài giảng lấy từ Hội Vienna cho Sự giáo dục Người trưởng thành, và vẫn ở trong danh sách những bài đọc được yêu cầu của nhiều trường phổ thông ở Mỹ.
Với Adler, cá nhân là nhân tố cơ bản nhất cho việc nghiên cứu và miêu tả (chứ không phải Cái Nó – Id), và ông đặt trọng tâm cá nhân trong mối quan hệ với bối cảnh cộng đồng rộng lớn của cá nhân đó – gia đình, nhóm,hội làm việc, xã hội của người đó. Cấp độ cấu tạo và thực thi của cá nhân như thành phần của nhóm là tư tưởng chủ yếu của Adler.
Những kinh nghiệm sau này của Adler trong suốt Đại chiến Thế giới thứ nhất càng làm mạnh thêm nhận thức này của ông. Phục vụ như một bác sĩ, đầu tiên là với Quân đội Áo tại mặt trận Nga, rồi sau đó trong bệnh viện trẻ em, Adler nhìn thấy bộ mặt thật những hậu quả kinh hãi của chiến tranh và xung đột xã hội. Ở đó bộc lộ sự hoạt động bất thường của nhân cách tới cực điểm xấu xa của nó. Cá nhân mù quáng với sức mạnh, không chỉ của nắm đấm hay vũ khí của chính họ, mà còn của toàn bộ những quân nhân sẵn sàng sử dụng, trút giận khủng kiếp tàn phá và đau đớn. Tất nhiên, những kẻ độc tài tàn ác ko có khả năng quy phục chính họ để tới với chiếc ghế trường kỷ phân tích tâm lý.
Sau khi trở lại từ chiến trường năm 1918, Adler thành lập một loạt phòng trợ giúp lâm sàng trẻ em ở Vienna. Các phòng lâm sàngnày sớm thu hút được nhiều nhà chuyên môn nước ngoài tới thăm, tạo điều kiện cho sự phát triển của các phòng lâm sàng tương tự ở các nước khác nhau. Theo Adler có những kiểu sự kiện và hoàn cảnh như chìa khóa để tạo nên nhận thức của trẻ em về chính nó, hoặc đúng hơn là tạo nên những câu chuyện mà chúng kể cho chúng về chính bản thân chúng. Ở tuổi lên năm, câu chuyện kiểu này, hay gọi là “chuyện viễn tưởng” (fiction), về bản thân chúng đã khá chắc chắn, với Adler, và điều này này sẽ tạo nên cái khuôn khổ để qua đó đứa trẻ lý giải và đáp ứng với các sự kiện. Adler đã gọi câu chuyện mà chúng ta tự kể cho mình (chủ yếu trong đó là vô thức) một “huyễn tưởng”, để phân biệt nó với con người thực tế và cách mà con người thực tế hiện hữu. Trong công việc của mình, ông thu được những thông tin dồi dào về trẻ em và sự phát triển nhân cách, sự tìm kiếm để hiểu điều gì tạo nên sự mất chức năng. Do đó, dẫn tới sự chú trọng của ông về vai trò của “cơ quan mất chức năng”(organ dysfunction) trong sự phát triển các vấn đề nhân cách, ông đưa ra thêm ba nhân tố khác tạo ra ý nghĩa ghép: “sự nuông chiều” (pampering), “sự bỏ bê” (neglect), cùng với kỳ vọng khai sinh (birth order).
Thuật ngữ “huyễn tưởng” có nguồn gốc từ nghiên cứu của nhà triết học Hans Vaihinger (The Philosophy of “As If”). Vaihinger chỉ ra rằng sự tồn tại của con người hiếm khi có thể chạm tới (let alone grasp) toàn bộ sự thật. Do đó con người chiếm lĩnh sự thật không hoàn chỉnh rằng, thà là thiếu hụt còn hơn có kiểu tâm trí hoàn toàn đúng đắn. Những sự thực không trọn vẹn này đồng thời giúp chúng ta suy nghĩ về và đáp ứng với thế giới, cho tới khi chúng ta tới gần với một nguyên lý tốt hơn, một sự thực đầy đủ hơn. Trong quan niệm sự thực không trọn vẹn của Vaihinger, hay “huyễn tưởng”, có thể biểu hiện trong một cách giống nhau để tạo nên “Các cấu trúc nhận thức” mà nhà tâm lý học Erik Erikson đã từng đề cập. Những huyễn tưởng này không chỉ chi phối cách chúng ta nhìn nhận thế giới và bản thân chúng ta trong mối quan hệ với thế giới, mà chúng còn chi phối rất nhiều sự chọn lựa của chúng ta. Adler cảm thấy rằng nếu chúng ta có thể giúp cho các huyễn tưởng bản sắc cá nhân vốn sai lệch được phát triển một mẫu mới, một hình ảnh bản ngã mới và trọn vẹn, chúng sẽ dẫn đường tới một cuộc sống hữu ích và hành phúc hơn.
Một sự mở rộng lý thuyết cơ bản này được Adler thu thập từ các thông tin của các bệnh nhân của ông. Bắt đầu, ông phát triển và tinh chế một kỹ thuật dựa trên sự ước định động lực cá nhân (hướng tới ”sự mạnh hơn”, sau đó được gọi lại là sự tự hoàn thiện), mức độ hoạt động, và “sự quan tâm xã hội” (social interest) (mong muốn đóng góp và làm việc cho một lợi ích cao cả). Sự đánh giá của ông là định tính, khó nhận thấy, và phức tạp. Rồi, ông căn cứ trên các giấc mơ của bệnh nhân, trình bày về những mối quan hệ và các sang chấn tuổi thơ, cũng như là lịch sử sức khỏe và hoàn cảnh mà các rối nhiễu hiện thời đã xuất hiện. Ông cảm nhận rằng sự thực trong sự hiện diện bệnh nhân chỉ là một phần của câu chuyện – mà bệnh nhân chọn để kể, và cái cách mà họ kể lại là rất quan trọng. Tất cả chúng cùng tới để chỉ dẫn cho nhà phân tâm, trong mọi lúc, vào một sự hiểu biết của “huyễn tưởng” cơ bản mà vốn là sự chỉ dẫn có ý nghĩa sai lệch, và một kế hoạch đưa bệnh nhân trở lại đúng đường.
Dù sự truyền đạt có ý nghĩa tới đâu, Adler không cảm thấy nó chỉ có hiệu quả khai sáng một bệnh nhân bằng sự thông báo cho họ cái vấn đề là gì. Hơn thế, thông qua sự vấn đáp cẩn thận hoặc “đối thoại kiểu Socrate”, nhà phân tâm sẽ hướng dẫn bệnh nhân trải qua quá trình nhìn nhận vấn đề của họ, và trở nên góp phần và quá trình hình thành một viễn cảnh mới mẻ. Trên tất cả, Adler đã suy nghĩ một cách kiên định rằng sự phân tích phải chấp nhận và duy trì một mối tương quan không độc tài với bệnh nhân. Chủ nghĩa quân bình và sự thấu cảm được quy ước sẽ làm nên nền tảng của sự tương tác giữa nhà phân tâm và bệnh nhân. Cũng trong điều này, Adler bảo vệ cho cái nhìn toàn diện của ông về xã hội, đó là cá nhân cùng nhau làm việc trong sự thấu cảm và lòng thương hướng tới một kết quả cao thượng.
Có lẽ vì những tư tưởng quan trọng của ông đã được bén rễ trong những nhật báo và kinh nghiệm thực của cuộc sống cá nhân, tương phản với những khái niệm trừu tượng bị ám ảnh bởi tính dục của Freud và thuyết thần bí của Jung, lý thuyết và hệ phương pháp của Adler vẫn được chấp nhận rộng rãi và có ảnh hưởng tới xu hướng chủ đạo của tâm lý học. Triết lý của ông không những còn phổ biến với các sinh viên tâm lý ngày nay, mà sự ảnh hưởng của ông còn được nhận thấy trong công việc của Erich Formm, Abraham Maslow, Rollo May, Karen Horney, Julian Rotter, E.C.Tolman, và Carl Rogers. ICASSI và NASAP (North American Society for Adlerian Psychology) đều tiếp tục xúc tiến công việc của Adler; trong việc thêm vào một số lượng các trường phái, chuyên tâm một cách đặc biệt để thể hiện lý luận của ông, tồn tại ở rất nhiều quốc gia. Đáng chú ý nhất trong đó là là ở Mỹ, có Trường phái tâm lý học chuyên nghiệp theo hướng Adler, sáng lập bởi Rudolf Dreikurs.
Năm 1926, Adler tới giảng ở Đại học Columbia. Năm 1927 ông viết hai cuốn sách The Practice and Theory of Individual Psychology và Understanding Human Nature. Từ năm 1932 trở đi ông giữ cương vị Giáo sư Trợ giảng Thứ nhất về Tâm lý học y khoa tại Trường trung học Y khoa Long Island. Trong suốt thời gian đó và những năm sau, ông chỉ dành được vài tháng hè, từ tháng năm tới tháng mười, ở Vienna, còn toàn bộ thời gian làm việc ở Mỹ. Năm 1934, chủ nghĩa Quốc Xã ép ông phải đóng cửa các phòng lầm sàng của mình chỉ vì ông là người Do Thái. Ông và gia đình đã tới định cư tại Mỹ vào năm 1935.
Các bài giảng của Adler luôn đông kín người tham dự tự khi bắt đầu, ông truyền đạt rất rõ ràng tư tưởng của mình với thính giả bằng cả tiếng Anh và tiếng Đức - ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Khi ông đang ở Adberdeen, Scotland, để chuyển giao các bài giảng của mình cho Trường Đại học, vào ngày 28 tháng 5 năm 1937, ông đột ngột ngã quỵ trong lúc đang đi bộ trên phố và qua đời bởi một cơn đau tim vài phút sau đó.
http://www.tamlytrilieu.com/adler.htm
Tư liệu:
Tài liệu tham khảo
RỐI LOẠN NHÂN CÁCH
NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ TRỊ LIỆU
BS NGUYỄN MINH TIẾN Dịch và tổng hợp
Rối loạn nhân cách (Personality Disorders) là một trong những chủ đề lớn của tâm bệnh học và vẫn luôn là một đề tài còn được tiếp tục nghiên cứu. Từ khi có các tiêu chí chẩn đoán rõ rệt hơn trong quyển Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê các Bệnh Tâm thần lần thứ 3 (DSM III: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders III) của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ năm 1980, các thầy thuốc chuyên khoa tâm bệnh đã có thêm nhiều công cụ để chẩn đoán và từ đó có thêm các định hướng tốt hơn cho việc điều trị. Từ đó đến nay đã có thêm nhiều nghiên cứu để cải tiến và mở rộng các phương pháp tiếp cận những rối loạn này, nhưng DSM III vẫn đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc hiểu biết và giúp đỡ những bệnh nhân bị rối loạn nhân cách...
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẨN ĐOÁN
Một trong những cải tiến quan trọng nhất của DSM III là việc xây dựng một hệ thống chẩn đoán đa trục (multi-axial), trong đó có một trục chẩn đoán riêng biệt dành cho các rối loạn nhân cách. Trước khi có DSM III, các rối loạn nhân cách ít được đầu tư nghiên cứu (ngoại trừ rối loạn nhân cách chống đối xã hội – antisocial personality disorder). Ngày nay, một số các mẫu phỏng vấn theo kiểu “bán cấu trúc” (semi-structured) đã được thiết kế nhằm giúp các thầy thuốc lâm sàng có thể khám, chẩn đoán và nghiên cứu các rối loạn nhân cách. Một hệ thống chẩn đoán đa trục vẫn giữ được tính xác thực với thực tế lâm sàng và còn cung cấp thêm những thông tin hữu dụng cho việc chẩn đoán và lập kế hoạch trị liệu.
Cải tiến quan trọng thứ hai của DSM III là hệ thống các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng đối với các loại rối loạn nhân cách. Trước khi có DSM III, ít có sự tin cậy lẫn nhau giữa các thầy thuốc trong việc xác định có hay không có rối loạn nhân cách trên các ca lâm sàng. Khi có các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng, việc khảo sát một cách có hệ thống các triệu chứng đặc hiệu của từng rói loạn đã trở nên thuận lợi hơn và độ tin cậy cũng gia tăng trong chẩn đoán các rối loạn nhân cách.
Dù vậy, chẩn đoán các rối loạn nhân cách vẫn là một công việc khó khăn và có lẽ có độ tin cậy ít hơn so với việc chẩn đoán các rối loạn ở trục I. Ngoài ra, việc trị liệu các rối loạn nhân cách thường khó được xác lập tốt vì việc trị liệu còn tùy thuộc nhiều vào những “nghệ thuật lâm sàng” hơn là một khoa học lâm sàng. Tuy nhiên, chẩn đoán rối loạn nhân cách là điều mà các thầy thuốc tâm bệnh phải thực hiện mỗi ngày và việc nhận thức rõ các vấn đề trong chẩn đoán và trị liệu các rối loạn nhân cách có thể sẽ cải thiện việc thực hành lâm sàng của người thầy thuốc.
Những vấn đề trong chẩn đoán các rối loạn nhân cách
Theo DSM III, các đặc trưng nhân cách được định nghĩa là “... Những phương thức mà một người thường sử dụng để nhận biết, liên hệ và suy nghĩ về bản thân và môi trường sống xung quanh, được thể hiện trong những tình huống xã hội và cá nhân khác nhau. Chỉ khi các đặc trưng nhân cách này trở nên cứng nhắc, không linh hoạt và kém thích nghi, hoặc gây ra những khiếm khuyết quan trọng trong quan hệ xã hội và hoạt động nghề nghiệp, hoặc khiến đương sự bị đau khổ... thì mới gọi là rối loạn nhân cách. Biểu hiện của rối loạn nhân cách nói chung có thể được nhận biết từ tuổi vị thành niên hoặc sớm hơn, và sau đó tiếp diễn suốt đời, mặc dù rằng các biểu hiện này thường giảm bớt vào tuổi trung niên hoặc tuổi già”.
Mặc dù định nghĩa này cố gắng cụ thể hóa khái niệm vè rối loạn nhân cách, nhưng nó vẫn không xác lập ranh giới rõ rệt giữa các rối loạn nhân cách với tình trạng nhân cách bình thường, giữa các rối loạn nhân cách với các rối loạn ở trục I, giữa các loại rối loạn nhân cách khác nhau, hoặc giữa các rối loạn nhân cách với các rối loạn thích nghi (adjustment disorders). Định nghĩa trên cũng cho thấy rằng chỉ khi các đặc trưng nhân cách trở nên cứng nhắc và không thích nghi, hoặc gây nên sự khiếm khuyết và đau khổ chủ quan cho đương sự thì mới được xem là rối loạn nhân cách. Nhưng định nghĩa trên không cho thấy rõ mức độ cứng nhắc và không thích nghi như thế nào hoặc mức độ khiếm khuyết và đau khổ đến mức độ nào thì mới được gọi là rối loạn nhân cách. Dường như rằng, các đặc trưng nhân cách mà chúng ta đang bàn đến ở đây được phân bố theo một liên thể (continuum) đi từ mức độ nhân cách bình thường cho đến mức độ nhân cách bệnh lý, và việc phân chia các mức độ khác nhau trên liên thể này còn tùy thuộc nhiều vào kiến thức cơ bản và kinh nghiệm lâm sàng của từng thầy thuốc. Sự thiếu khả năng xác định một ranh giới rõ rệt giữa trạng thái nhân cách bình thường và các tình trạng rối loạn nhân cách làm giảm độ tin cậy trong việc chẩn đoán các rối loạn nhân cách và cả trong việc trị liệu các rối loạn ấy. Đứng trước một trường hợp lâm sàng cụ thể nào đó, có thể một thầy thuốc này chẩn đoán là rối loạn nhân cách và người bệnh ấy cần được trị liệu, nhưng một thầy thuốc khác lại có thể cho rằng những triệu chứng mà người bệnh thể hiện có thể vẫn còn nằm trong mức giới hạn bình thường. Bằng cách cung cấp những tiêu chí chẩn đoán cho các rối loạn nhân cách, DSM III đã làm tăng độ tin cậy cho các chẩn đoán này. Tuy nhiên, trong việc đánh giá các rối loạn nhân cách, phần nhiều những kiểu cách suy nghĩ và cảm xúc của người bệnh phải được người thầy thuốc suy nghiệm ra vì chúng ít khi được biểu hiện trực tiếp và trọn vẹn trong hành vi của người bệnh.
Một vấn đề khác nẩy sinh từ định nghĩa của DSM III về rối loạn nhân cách là những biểu hiẹn đặc thù của các rối loạn này phải đưọc thể hiện trong nhiều tình huống xã hội và bản thân quan trọng. Nếu đương sự chỉ thể hiện nhân cách bệnh lý nhưng chỉ trong một số hành vi thôi thì cũng chưa gọi là rối loạn nhân cách. Thí dụ một tân binh mới vào quân trường có biểu hiện hành vi theo kiểu “thụ động – gây hấn” (passive-aggressive) để phản ứng lại những yêu cầu quá nghiêm khắc của thượng cấp. Nếu những hành vi thụ động – gây hấn ấy không phải là nét thể hiện chủ yếu của đương sự khi sống ngoài quân trường thì hành vi hiện tại của anh ta chỉ nên được xem là một rối loạn thích nghi có các vấn đề ứng xử chứ chưa nên xem là rối loạn nhân cách.
Một điều dễ gây nhầm lẫn thứ ba là các đặc trưng của rối loạn nhân cách phải có diễn tiến kéo dài chứ không phải chỉ giới hạn trong từng cơn ngắn như nhiều loại rối loạn tâm thần khác. Mặc dù quy định này khá rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế lâm sàng người ta vẫn thường gặp khó khăn trong việc xác định những vấn đề hiện tại của bệnh nhân đã tồn tại trong thời gian dài hay chỉ là một phần của các rối loạn cấp ở trục I. Điều này đặc biệt hay gặp vì nhiều loại rối loạn ở trục I (ví dụ: trầm cảm) có thể khiến cho bệnh nhân bị lệch lạc nhận thức khi hồi tưởng về quá khứ. Một người bệnh trầm cảm có thể sử dụng một “lăng kính” bi quan trong hiện tại để xem xét những trải nghiệm trước đó trong quá khứ và có thể mô tả cả cuộc đời từ trước đến nay của mình là tồi tệ, dù rằng thực tế không phải như vậy.
Định nghĩa của DSM III cũng cho phép chẩn đoán rối loạn nhân cách khi các đặc trưng nhân cách dẫn đến sự khiếm khuyết hoặc đau khổ đáng kể cho đương sự. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có biểu hiện rối loạn nhân cách không có khả năng tự nhận biết được ý nghĩa của những hành vi của mình và không nhận ra được những thiệt hại mà họ gây ra cho đời sống của bản thân cũng như cho đời sống của những người khác xung quanh họ. Trong các rối loạn ở trục I, các triệu chứng bệnh lý có thể được người bệnh cảm nghiệm như một trạng thái “bất tương hợp với cái Tôi” (ego-dystonic). Bệnh nhân có thể nhận thấy những rối loạn về cảm xúc và hành vi của mình như là những “hiện tượng lạ”, “không phải của ta”. Nhưng trong một số loại rối loạn nhân cách, bệnh nhân lại có thể có thái độ xem các đặc trưng nhân cách ấy là có tính chất “tương hợp với cái Tôi” (ego-syntonic) và phù hợp với sự xác định bản ngã của chính mình. Chính vì thế việc chẩn đoán sẽ gặp nhiều khó khăn nếu người bệnh thông báo những biểu hiện ấy cho thầy thuốc biết.
Tóm lại, có bốn lý do gây ra những khó khăn đặc biệt trong việc chẩn đoán các rối loạn nhân cách:
Khó xác định một ranh giới rõ rệt giữa các rối loạn nhân cách với trạng thái nhân cách bình thường
Khó xác lập được ranh giới giữa các rối loạn nhân cách và những rối loạn ở trục I
Khó xác lập được ranh giới giữa các rối loạn nhân cách và các rối loạn thích nghi
Người bệnh bị rối loạn nhân cách ít có khả năng báo cáo chính xác các vấn đề về nhân cách của họ khi so sánh với bệnh nhân bị các rối loạn ở trục I.
Vì những lý do trên, việc chẩn đoán các rối loạn nhân cách thường cần áp dụng thêm nhiều phương pháp mà đôi khi có thể không cần thiết trong khi chẩn đoán các rối loạn ở trục I.
Trước tiên, cần phải có thêm những người cung cấp thông tin khác đã biết về người bệnh trong một thời gian dài. Việc này giúp xác định xem những hành vi của người bệnh có thực sự là đã diễn tiến kéo dài và đã xảy ra trong nhiều hoàn cảnh sống khác nhau hay không. Dĩ nhiên, người thầy thuốc cũng cần phải ý thức rõ rằng những người khai bệnh như thế cũng có thể có cách nhìn riêng của họ và thông tin do họ cung cấp cũng có thể là sự thật đã bị bóp méo.
Một phương pháp hữu ích khác trong chẩn đoán các rối loạn nhân cách là thực hiện những cuộc phỏng vấn đánh giá theo thời gian (hay còn gọi là “theo chiều dọc”: longitudinal evaluative interviews). Việc này giúp xác định xem tình trạng rối loạn nhân cách có phải là thứ phát sau một rối loạn ở trục I hay không, đồng thời giúp cung cấp thêm các dữ liệu về hành vi của người bệnh khi được thể hiện trong nhiều tình huống xã hội khác nhau. Một bệnh nhân bị trầm cảm chủ yếu (major depression) có thể thỏa các tiêu chí chẩn đoán của rối loạn nhân cách cưỡng chế (compulsive personality disorder), nhưng sau một tháng có thể biểu hiện hoàn toàn khác khi các triệu chứng trầm cảm không còn rõ rệt trên lâm sàng.
Chẩn đoán các rối loạn đa dạng (đa rối loạn)
DSM III cho phép chẩn đoán nhiều loại rối loạn nhân cách trên cùng một người bệnh nếu triệu chứng của bệnh nhân đó thỏa các tiêu chí chẩn đoán của nhiều hơn một loại rối loạn nhân cách chuyên biệt. Điều này cho thấy một thực tế rằng nhiều loại rối loạn nhân cách theo DSM III có thể chồng lấp triệu chứng lên nhau và không có ranh giới rõ rệt để tách biệt các rối loạn ấy.
Các kiểu nhân cách (personality style) không có tính chất loại trừ lẫn nhau mà có xu hướng ít nhiều tương tác qua lại với nhau. Thật vậy, một số rối loạn nhân cách theo DSM III cùng chia sẻ chung một số tiết mục (item) trong tiêu chí chẩn đoán. Để giảm bớt sự chồng lấp triệu chứng trong hệ thống chẩn đoán các rối loạn nhân cách, cách duy nhất là phải giảm thiểu số lượng các rối loạn được xác định quá rõ ràng. Việc cung cấp cho người thầy thuốc lâm sàng một sự lựa chọn trong hàng chục loại rối loạn nhân cách khác nhau sẽ làm phong phú thêm cho hệ thống chẩn đoán. Việc có những chẩn đoán đa dạng theo cách này sẽ bảo lưu rất nhiều thông tin quan trọng về người bệnh.
Hệ thống chẩn đoán đa dạng làm giảm bớt những cố gắng trong việc chẩn đoán phân biệt. Khi sử dụng hệ thống chẩn đoán DSM III, người thầy thuốc không bị bắt buộc phải chẩn đoán xác định xem người bệnh bị rối loạn nhân cách ranh giới (borderline personality disorder) hay rối loạn nhân cách kịch tính (histrionic personality disorder), mà chú ý xem bệnh nhân có thỏa tiêu chí cho từng loại rối loạn này hay không và nếu thỏa cả hai thì chẩn đoán cả hai rối loạn cùng lúc.
Các vấn đề trong hệ thống phân loại
Những vấn đề vừa được bàn đến trên đây tất cả đều là do việc không thể có ranh giới rõ ràng trong việc xác định từng loại rối loạn nhân cách riêng biệt. Chúng ta cũng biết rằng những rối loạn này còn có thể hòa lẫn và khó phân biệt với những trạng thái nhân cách bình thường, với các rối loạn thích nghi, với những rối loạn ở trục I và khó phân biệt giữa chính những rối loạn nhân cách khác nhau. Việc thiếu những ranh giới phân biệt rõ ràng phản ánh một số mặt hạn chế trong hệ thống phân loại các rối loạn nhân cách của DSM III.
Việc phân loại bằng cách định danh thườg được sử dụng trong y khoa và cả trong những việc làm của đời sống thường ngày nhằm xác định tên gọi của các sự việc có sự phân định tính chất rõ ràng, ví dụ: ghế là ghế, bàn là bàn... Tuy nhiên, một hệ thống phân loại như thế sẽ bị gãy đổ ngay tại những đường ranh giới phân biệt hai thể loại khác nhau nhưng tính chất của chúng có thể hòa lẫn với nhau. Chẳng hạn một vật có thể có màu đỏ đối với người này nhưng lại có thể là màu cam đối với một người khác.
Cho đến nay, hệ thống phân loại rối loạn nhân cách theo DSM III đã dựa trên mô hình phân loại theo tên bệnh. Điều này tự nó tạo ra các vấn đề do có sự thiếu những ranh giới phân định rõ ràng giữa các rối loạn nhân cách khác nhau cũng như giữa các rối loạn nhân cách và tình trạng nhân cách bình thường như ta đã thấy. Mô hình phân loại này có tính chất thuận tiện và quen thuộc, nhưng điều quan trọng là phải nhận ra những hạn chế của nó. Các rối loạn nhân cách trong DSM III tốt nhất nên được quan niệm bằng cách phân loại theo “kiểu nguyên mẫu” (prototypal model of categorization). Theo phương pháp phân loại kiểu nguyên mẫu, các rối loạn nhân cách là những tình trạng có tính chất hỗn hợp và chồng lấp. Phân loại theo kiểu nguyên mẫu có nghĩa là bất cứ bệnh nhân nào khi được đặt cho một chẩn đoán thì đó chỉ là một sự phỏng chừng của tình trạng nguyên mẫu hoặc lý tưởng của chẩn đoán đó. Cách thức phân loại này tạo nên một hệ thống chẩn đoán trong đó các thể loại bệnh không được phân định rõ, đồng thời có tính chất chồng lấp và không thuần nhất. Vì thế, một bệnh nhân được chẩn đoán là rối loạn nhân cách ranh giới (borderline personality disorder) chỉ là sự phỏng định của một bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới ở mức lý tưởng (hoặc nguyên mẫu), và người bệnh này có thể ở mức “ranh giới của ranh giới” (the borderline of borderline) ví dụ trường hợp những người có rối loạn nhân cách kịch tính (histrionic personality disorder).
Các rối loạn ở trục II của DSM III phù hợp với phương pháp phân loại kiểu nguyên mẫu nhiều hơn các rối loạn ở trục I. Do vậy, các chẩn đoán đa dạng được khuyến khích nhiều hơn và những tiêu chí chẩn đoán cũng có tính đa dạng hơn, chọn lọc hơn thay vì có tính bắt buộc. Một bệnh nhân có thể cùng một lúc thỏa tiêu chí chẩn đoán của nhiều loại rối loạn nhân cách khác nhau. Và những bệnh nhân cùng thỏa tiêu chí chẩn đoán của một loại rối loạn nhân cách nào đó lại có thể hợp thành một nhóm không thuần nhất về mặt triệu chứng.
Một hệ thống phân loại khác dành cho các rối loạn nhân cách cũng đang được chú ý nghiên cứu trong tương lai, đó là mô hình phân loại theo chiều kích (dimensional model). Trong mô hình phân loại này, người thầy thuốc có thể xếp mức độ rối loạn của từng bệnh nhân theo một số chiều kích khác nhau như: tính lệ thuộc (dependency), tính cưỡng chế (compulsivity), tính ranh giới (borderlinearity)... thay vì phân bệnh nhân vào những thể loại chẩn đoán. Hệ thống này còn nhiều bất tiện và chưa quen thuộc với các thầy thuốc lâm sàng trong hiện tại.
Các rối loạn nhân cách “hỗn hợp” và “khác”
DSM III cũng cung cấp thêm hai thể loại là “hỗn hợp” (mixed) và “khác” (other) cho những bệnh nhân thỏa các tiêu chí chẩn đoán rối loạn nhân cách, nhưng không khớp với các tiêu chí đặc hiệu nào để có thể xếp loại vào một trong số các rối loạn nhân cách đã được mô tả
Rối loạn nhân cách “hỗn hợp” nên được dùng để chỉ những bệnh nhân nào có các vấn đề về nhân cách kéo dài nhưng không thỏa tiêu chí của bất kỳ loại rối loạn nhân cách chuyên biệt nào. Nếu một bệnh nhân thỏa tiêu chí cùng lúc hai hoặc nhiều loại rối loạn nhân cách thì người này không được xem là dạng “hỗn hợp”. Bệnh nhân đó nên được chẩn đoán theo tên gọi của loại rối loạn nhân cách mà các tiêu chí của rối loạn đó phù hợp với triệu chứng của bệnh nhân. “Hỗn hợp” là tên chỉ dùng cho những bệnh nhân có rối loạn nhân cách nhưng không đủ tiêu chuẩn để xếp loại.
Chẩn đoán rối loạn nhân cách “khác” (other personality disorder) được dùng khi thầy thuốc nhận thấy bệnh nhân có một tình trạng rối loạn nhân cách cần được đặt tên nhưng cái tên này không nằm trong danh mục chẩn đoán các rối loạn nhân cách của DSM III. Ví dụ người thầy thuốc có thể “cảm thấy” bệnh nhân nên được chẩn đoán là rối loạn nhân cách xung động (impulsive personality disorder) nhưng tên này chưa có trong DSM III. Người thầy thuốc khi đó có thể đặt tên cho tình trạng này là rối loạn nhân cách “khác”. Thêm một ví dụ khác là loại rối loạn nhân cách tự khinh thị (masochistic personality disorder) cũng từng là một loại rối loạn nhân cách “khác” nhưng sau đó đã được điền thêm vào danh mục những thể loại chẩn đoán thường quy của các rối loạn nhân cách trong DSM III.
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU
Việc trị liệu những người bệnh bị rối loạn nhân cách bao gồm hầu hết các phương pháp điều trị trong tâm thần học. Mục đích trị liệu cũng nhiều như phưong pháp trị liệu. Riêng về tâm lý trị liệu, gần đây có sự bùng nổ trong việc phát triển nhiều loại liệu pháp tâm lý khác nhau mà số lượng có thể lên đến hơn 200 thể loại đan xen lẫn nhau. Mặc dù không có sự phân biệt rõ rệt, các liệu pháp này có thể phân chia thành những nhóm tương ứng như sau:
- Liệu pháp tâm động học (psychodynamic)
- Liệu pháp tâm lý hỗ trợ (supportive)
- Liệu pháp hành vi (behavioral)
- Liệu pháp nhận thức (cognitive)
- Liệu pháp quan hệ liên cá nhân (interpersonal)
- Liệu pháp “chiến lược - hệ thống” (strategic-systems)
- Liệu pháp hóa dược (pharmacologic)
Các phương pháp trị liệu này có thể áp dụng với thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn, và dưới các hình thức trị liệu cá nhân, trị liệu gia đình hoặc trị liệu nhóm.
Các khuyến cáo trị liệu sẽ tập trung cho từng loại rối loạn nhân cách trong trường hợp chẩn đoán chỉ đơn thuần là một loại rối loạn. Nhưng điều thường hay xảy ra hơn trong thực tế là một bệnh nhân thường có biểu hiện nhiều rối loạn đồng thời, cho nên các khuyến cáo trị liệu như thế phải được ngoại suy khi áp dụng cho từng trường hợp trên thực tế. Lý do khiến DSM III có riêng một trục dành cho chẩn đoán các rối loạn nhân cách là để giúp các thầy thuốc thực hành có thể xem xét các ảnh hưởng mà một tình trạng rối loạn nhân cách có thể tạo nên trên quá trình diễn tiến và kết quả trị liệu của một rối loạn ở trục I. Sự hiện diện của các đặc trưng nhân cách gây kém thích nghi kéo dài chắc chắn sẽ có ảnh hưởng trên việc điều trị một rối loạn ở trục I hoặc trên bất kỳ một bệnh lý y khoa nào khác.
Không có những lý thuyết giáo điều trong việc trị liệu những rối loạn nhân cách. Thay vào đó, việc nghiên cứu có hệ thống và các phán đoán lâm sàng cần phải rất linh hoạt. Những mục đích trị liệu, những yếu tố thuận lợi, các nguồn lực và sở thích sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chọn lựa một phương thức trị liệu đúng đắn.
Mục đích trị liệu
Mục đích trị liệu có thể giúp định hướng cho việc trị liệu những bệnh nhân bị rối loạn nhân cách. Một số mục đích có thể thích ứng chuyên biệt với một hoặc một vài phương thức trị liệu, nhưng lại có những mục đích chỉ phù hợp với một loại phương pháp trị liệu nào đó. Điều cần nhớ là các mục đích trị liệu có thể bị ảnh hưởng bởi các bệnh lý khác nhau kèm theo, bởi chính các triệu chứng trong hiện tại cũng như bởi hoàn cảnh sống của bệnh nhân.
Mặc dù các rối loạn nhân cách là những bệnh lý gây nên tình trạng khiếm khuyết chức năng lan tỏa, nhưng thông thường chúng ta chỉ tập trung việc trị liệu nhắm vào những triệu chứng đích (target symptom) nổi bật nhất và dễ tiếp cận nhất. Ví dụ: những rối loạn tư duy của nhân cách kiểu phân liệt (schizotypal), sự giao động cảm xúc của nhân cách ranh giới (borderline)... Một số phương pháp trị liệu như hóa dược, liệu pháp hành vi ngắn hạn hoặc liệu pháp chiến lược, có xu hướng nhắm đến những triệu chứng hoặc hành vi đích có tính chuyên biệt ngay cả khi những triệu chứng hoặc hành vi này được biểu hiện trong một bối cảnh bệnh lý phức tạp. Việc định hướng trị liệu nhắm vào cải thiện một hành vi đích có thể có nhiều lý do :
Vì đây là phương thức dễ làm nhất, trực tiếp nhất và hiệu quả nhất
Vì việc này có thể khởi động một chu trình cải thiện các khía cạnh khác trong nhân cách của người bệnh bằng cách khuếch đại các thay đổi ban đầu, tuy nhỏ nhưng tích cực
Đôi khi đó là tất cả những gì có thể làm được cho bệnh nhân đó hoặc tình huống đó.
Một mục đích khác trong trị liệu các rối loạn nhân cách là thúc đẩy những thay đổi trong cấu trúc nội tâm và các cơ chế tự vệ của người bệnh. Đây là những việc khó xác định rõ và khó đạt đến mặc dù có nhiều phương pháp trị liệu đầy triển vọng đang được phát triển. Đây cũng là những mục đích đặc hiệu của liệu pháp tâm động học, có tác dụng làm giảm bớt những đặc trưng nhân cách cũng như các cơ chế tự vệ có tính cứng nhắc và kém thích nghi của người bệnh. Tuy nhiên, việc này không có nghĩa là phải thay đổi tính tình của bệnh nhân. Ví dụ: ta không thể chuyển một bệnh nhân có tính cưỡng chế (compulsive) thành một người hysterie, mà là nhằm làm cho cấu trúc tự vệ mang tính cưỡng chế của bệnh nhân trở nên bớt đi tính chất tự động và cứng nhắc bằng cách làm gia tăng khả năng nội thị (insight) và kiểm soát các xung đột vô thức của người bệnh. Liệu pháp tâm động học có thể áp dụng với nhiều mức độ khác nhau trong việc thay đổi tính cách của bệnh nhân. Liệu pháp trọng điểm (focal therapy) là một loại liệu pháp tâm lý ngắn hạn, chủ yếu nhằm phân tích và giải quyết một vấn đề với mục tiêu ngắn hạn; trong khi liệu pháp phân tâm (psychoanalysis) thường có mục đích lớn hơn, nhằm bộc lộ và giải quyết toàn bộ các xung đột dồn nén và thoái lùi bên trong vô thức.
Một mục đích thường được đặt ra trong tâm lý trị liệu là nhằm thay đổi các quan hệ xã hội của bệnh nhân. Một số phương pháp chẩn đoán nhân cách đã được thiết kế dựa trên việc đánh giá các kỹ năng quan hệ xã hội của bẹnh nhân, và việc đánh giá này là một phần quan trọng trong chẩn đoán các rối loạn nhân cách. Trong trị liệu các các rối loạn nhân cách, mục đích cải thiện kỹ năng quan hệ xã hội chủ yếu được áp dụng dưới hình thức trị liệu nhóm, điều chỉnh quan hệ và trị liệu gia đình.
Trong nhiều trường hợp, mục đích trị liệu còn nhằm hỗ trợ cho các khuôn mẫu nhân cách và cơ chế tự vệ đặc thù của bệnh nhân nhằm giúp bệnh nhân vượt qua được các hoàn cảnh gây stress, sao cho sự thoái lùi hạn chế ở mức thấp nhất và sự hợp tác với kế hoạch trị liệu được phát huy ở mức cao nhất. Khá nhiều người bệnh có những đặc trưng nhân cách kiên định, bất di bất dịch; khi đó, việc trị liệu tốt nhất nên hỗ trợ những cơ chế tự vệ đặc thù của người bệnh nhằm làm giảm khuynh hướng diễn tiến sang các rối loạn mất bù trù ở trục I và ngăn chận sự xuất hiện những hành vi kém thích nghi.
Liệu pháp hóa dược
Hầu hết các rối loạn nhân cách đều không đáp ứng với điều trị bằng thuốc và đây cũng là một cơ sở cho việc chẩn đoán phân biệt giữa rối loạn nhân cách và rối loạn khí sắc. Tuy nhiên, gần đây có sự gia tăng khuynh hướng dùng thuốc trong điều trị các rối loạn nhân cách. Những kết quả tốt nhất trong điều trị một triệu chứng đích (ví dụ triệu chứng trầm cảm ở một bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới) có thể được khái quát hóa như trong các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu để kiểm chứng điều này. Một số nghiên cứu sơ bộ cho thấy các tác dụng có lợi của thuốc chống loạn thần trong việc điều trị nhân cách kiểu phân liệt và thuốc chống trầm cảm đối với một số trường hợp rối loạn nhân cách ranh giới. Kelin đã sử dụng thuốc nóm IMAO để điều trị trạng thái hysteroid dysphoric và Ritkin dùng Lithium để điều trị các ‘rối loạn tính tình có cảm xúc không ổn định’ (tương đương với các chẩn đoán rối loạn nhân cách kịch tính và rối loạn nhân cách ranh giới trong DSM III). Rối loạn nhân cách tránh né (avoidant) kèm theo những cơn hoảng loạn (panic attack) có thể có lợi khi được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic) hoặc IMAO – Thuốc chống trầm cảm cũng có thể tác dụng tốt vói một số trường hợp rối loạn nhân cách tự khinh thị (masochisic).
Liệu pháp hành vi
Có vẻ gì đó hơi nghịch lý khi ta bàn đến việc áp dụng liệu pháp hành vi trên các trường hợp rối loạn nhân cách, bởi khái niệm ‘nhân cách’ là điều có tính trái ngược với quan điểm của các nhà trị liệu hành vi chính thống. Tuy nhiên, liệu pháp hành vi là một phương pháp trị liệu có trọng tâm nhắm vào triệu chứng (symptom-focused) và có thể có một tác dụng giới hạn hoặc thậm chí là một tác dụng toàn diện trên chức năng của nhân cách. Ví dụ việc huấn luyện tính quyết đoán (assertiveness training) có tác dụng tốt đối với những bệnh nhân rối loạn nhân cách thụ động – gây hấn, rối loạn nhân cách né tránh và rối loạn nhân cách lệ thuộc. Các kỹ thuật trị liệu nhận thức – hành vi (CBT) để điều chỉnh lại sơ đồ nhận thức của bệnh nhân nên được áp dụng đối với các loại nhận thức phi lý trong rối loạn nhân cách; việc áp dụng liệu pháp này là một lĩnh vực nghiên cứu rất phong phú trong tương lai.
Liệu pháp quan hệ và liệu pháp gia đình
Việc chẩn đoán một người bị rối loạn nhân cách dường như ngụ ý rằng vấn đề (rối loạn) chỉ tồn tại bên trong bản thân người ấy. Nhưng theo quan điểm hệ thống, không có một nhân cách bị rối loạn mà chỉ có một hệ thống các mối quan hệ bị rối loạn. Tuy nhiên, việc này tạo nên một sự phân chia giả tạo giữa hai trạng thái: các rối loạn nhân cách theo định nghĩa của DSM III và những rối loạn về mặt quan hệ xã hội ở mức độ rộng. Những bệnh nhân thỏa các tiêu chí của một loại rối loạn nhân cách nào đó cũng đều có những phong cách bệnh lý đặc trưng có liên quan đến những loại rối loạn nhân cách khác. Ví dụ:
- Phong cách paranoid: ngờ vực, không tự tin
- Phong cách dạng phân liệt (schizoid): bàng quan, xa cách
- Phong cách kiểu phân liệt (schizotypal): lo âu, nghi ngờ, tự cô lập
- Phong cách kịch tính (histrionic): tự buông thả, lệ thuộc, ve vãn, quyến rũ
- Phong cách ái kỷ (narcissistic): lợi dụng, phô trương, nắm quyền
- Phong cách chống đối xã hội (antisocial): vô trách nhiệm, có tính lợi dụng
- Phong cách ranh giới (borderline): quan hệ thân sâu nhưng không bền vững
- Phong cách tránh né (avoidant): vô trách nhiệm theo kiểu thụ động và thù nghịch
- Phong cách tự khinh thị (masochistic): tự hành hạ, khêu gợi có tính tội lỗi...
Các rối loạn nhân cách được xem như những khuôn mẫu quan hệ khi mà hành vi của một người được duy trì bởi sự biểu hiện của những hành vi bổ trợ nhằm củng cố hành vi gốc ban đầu. Nhà trị liệu được khuyến cáo là nên thể hiện những hành vi bổ trợ cho những hành vi có tính lành mạnh hơn so với hành vi hiện tại của bệnh nhân, nhằm phá vỡ các mối quan hệ thông đồng và không lành mạnh.
Ngay cả khi một người không chấp nhận quan điểm hệ thống thì việc trị liệu nhóm và gia đình cũng thường là một phần hữu ích của việc trị liệu. Chất lượng của khả năng quan hệ xã hội của bệnh nhân (hoặc việc thiếu những khả năng này) thường là một phần của tình trạng rối loạn nhân cách của người ấy. Thân nhân của người bệnh trong thực tế đã có thể đầu tư sự quan tâm của họ vào người bệnh khi anh ta không chịu thay đổi, và khi có sự thay đổi xảy ra thì họ lại bị lo sợ hoặc lúng túng. Thân nhân của người bệnh có thể trở thành những đồng minh quan trọng trong việc trị liệu và sự hợp tác tham gia của họ có thể đạt được thông qua việc áp dụng các liệu pháp hôn nhân và gia đình. Một nhà trị liệu nếu không nhận ra được tầm quan trọng của những thân nhân ấy sẽ cảm thấy mình bị cô độc khi làm việc. Khi ấy, nhà trị liệu sẽ phải đương đầu với một hệ thống mà quyền lực của nó gây ra đối với bệnh nhân có thể lớn hơn bất kỳ tác dụng nào mà sự cộng tác trị liệu có thể tạo nên.
Tâm lý trị liệu theo định hướng tâm động học
Mặc dù liệu pháp phân tâm ban đầu được định hướng chữa trị triệu chứng, nhưng nhanh chóng sau đó vấn đề cấu trúc nhân cách đã trở thành tiêu điểm của sự chú ý trong liệu pháp tâm động học. Tâm lý trị liệu theo hướng tâm động học (psychodynamic psychotherapy) đã cung cấp những kỹ thuật trị liệu tập trung vào sự thay đổi các cấu trúc nhân cách. Hầu hết các tư liệu y văn liên quan đến việc trị liệu các rối loạn nhân cách đều dựa trên nền tảng phân tâm học hoặc tâm động học.
Các khái niệm trong tâm động học như “chuyển di” (transference) và “chuyển di ngược” (counter-transference) đều đặc biệt thích hợp với việc trị liệu các rối loạn nhân cách. Các rối loạn nhân cách có một tác động sâu sắc đến các mối quan hệ xã hội và phong cách quan hệ có tính bệnh lý đặc trưng sẽ tái diễn lại trong mối quan hệ chuyển di. Vì thế, trong trị liệu cần phải thiết lập được một mối quan hệ trị liệu có tính xây dựng, đồng thời cũng tạo nên những cơ hội cho việc tìm hiểu và diễn giải. Nhà trị liệu thường sẽ phát triển một đáp ứng bổ trợ ví dụ: khiển trách về đạo đức, từ chối vì khó chịu, rút lui xa cách, kiểm soát kiểu người cha hoặc gắn bó ve vãn...) từ đó có thể hiểu được cách thức mà bệnh nhân cư xử với những đối tượng quan trọng trong đời của họ và cách thức mà bệnh nhân cảm nhận về những đối tượng ấy cũng như cách thức mà những đối tượng đó đã đối xử với bệnh nhân, rồi sau đó phá vỡ mô hình quan hệ này thông qua khả năng nội thị và những trải nghiệm đúng đắn trong quan hệ giữa người với người.
Những khó khăn đặc biệt trong việc thiết lập mối quan hệ trị liệu với những bệnh nhân rối loạn nhân cách đã đặt ra vấn đề xem lại tính hiệu quả của liệu pháp tâm động học. Đối với những bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới, thay vì áp dụng liệu pháp tâm lý có tính thăm dò (exploratory), người ta khuyên nên dùng các liệu pháp có tính hướng dẫn và hỗ trợ vì ở những bệnh nhân này việc thiết lập những mối quan hệ thâm sâu nhưng kém ổn định có thể dễ dẫn đến những triệu chứng rối nhiễu nhiều hơn. Tuy nhiên, nhiều tác giả khuyên nên áp dụng liệu pháp có tính thăm dò kết hợp với các loại liệu pháp có tính hỗ trợ khác (ví dụ: nhập viện ngắn hạn) để xử lý những đợt loạn thần gây ra sự thoái lùi cấp thời, nguy cơ tự sát hoặc rối loạn khí sắc nặng.
Dĩ nhiên việc lựa chọn liệu pháp còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chứ không đơn giản là có hay không có triệu chứng của rối loạn nhân cách. Tính đúng đắn của việc áp dụng liệu pháp tâm động học còn tùy thuộc phần nào vào trạng thái tâm lý, khả năng nội thị và sự thay đổi tính tình của người bệnh. Người bệnh có các rối loạn nhân cách kiểu phân liệt, dạng phân liệt hoặc paranoid khi được trị liệu theo hướng tâm động học thì ít có lợi hơn so với những bệnh nhân bị rối loạn nhân cách cưỡng chế, lệ thuộc, né tránh, kịch tính, thụ động – gây hấn, tự khinh thị, hoặc có thể cả rối loạn ái kỷ và ranh giới.
Liệu pháp tâm động học không chỉ là những liệu pháp mở, dài hạn, mà còn có thể áp dụng dưới hình thức giới hạn về thời gian và có sự tập trung về mục tiêu. Quan điểm tâm động học có thể có ích trong những tình huống khi mà kiểu nhân cách của bệnh nhân gây trở ngại cho việc quản lý tâm thần y khoa. Trong một số trường hợp, nhân cách bệnh nhân cần được sự hỗ trợ để giúp người bệnh đương đầu với các tác nhân gây stress (ví dụ như khi mắc một bệnh lý y khoa khác).
KẾT LUẬN
Người thầy thuốc khi chẩn đoán một bệnh nhân bị rối loạn nhân cách thì cũng cần phải quyết định xem bệnh nhân có muốn và có cần được trị liệu hay không. Nếu cần thì các mục tiêu trị liệu có thể là:
- Thay đổi nhân cách
- Hỗ trợ nhân cách vượt qua giai đoạn stress
- Hoặc chỉ thay đổi một triệu chứng đích
Sau đó, xem xét liệu pháp đặc biệt nào có thể hiệu quả cho những mục đích này: liệu pháp tâm đọng học, liệu pháp quan hệ, liệu pháp hỗ trợ, liệu pháp hành vi, trị liệu nhóm, trị liệu gia đình hoặc điều trị bằng hóa dược...
Mặc dù chẩn đoán các rối loạn nhân cách là việc khó khăn và kết quả của trị liệu vẫn còn nhiều bàn cãi, nhưng chúng ta vẫn được hướng dẫn bởi cả một truyền thống kinh nghiệm lâm sàng rất phong phú. Và DSM III đã cung cấp một phương pháp chẩn đoán tâm thần học rất đáng tin cậy.
Tâm bệnh học nhân cách hiện diện trong tất cả các cơ sở thực hành lâm sàng. Việc chẩn đoán và trị liệu các rối loạn nhân cách có thể là một nỗ lực quan trọng đối với một thầy thuốc tâm bệnh trong cuộc đời hành nghề của mình. May thay, các công cụ nay đã có sẵn giúp cho công việc này trở nên dễ dàng hơn và được tiến hành một cách có hệ thống hơn.
TRẦM CẢM Ở PHỤ NỮ
BS NGUYỄN MINH TIẾN
Trầm cảm là gì?
Trầm cảm (depression) là một bệnh lý rối loạn về tâm trạng, hay còn gọi là rối loạn khí sắc (mood disorder), trong đó người bệnh trở nên giảm thiểu khả năng hoạt động về tinh thần, cảm xúc buồn bã, có cái nhìn tiêu cực về bản thân, về thế giới xung quanh và về tương lai... Trong trạng thái trầm cảm, người bệnh thường hay đánh giá thấp về bản thân, cảm thấy mình có lỗi, buồn khổ, giảm giá trị, mất hứng thú đối với cuộc sống, và mơ hồ về tương lai.
Đây là một trong những rối loạn tâm thần thường gặp, làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh và cả gia đình của họ. Trầm cảm cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến những ý nghĩ và hành vi tự sát.
Phụ nữ có dễ bị trầm cảm hơn nam giới?
Phụ nữ mắc trầm cảm nhiều hơn nam giới gấp hai lần: Nếu tính chung ở nam giới, tỷ lệ người có ít nhất một lần bị mắc chứng trầm cảm trong đời là 10% thì tỷ lệ này ở phụ nữ là 20%. Các tiêu chí để chẩn đoán trầm cảm đều giống nhau ở cả hai giới, tuy nhiên người ta nhận thấy rằng các biểu hiện của trầm cảm ở phụ nữ thường là lo âu, mặc cảm có tội và thay đổi khẩu vị cũng như thói quen ăn uống. Nguyên nhân của sự khác biệt này giữa nam và nữ vẫn chưa được biết rõ; tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng có thể có sự liên quan giữa nồng độ các nội tiết tố sinh dục nữ với chứng trầm cảm.
Trầm cảm có những triệu chứng biểu hiện như thế nào?
Các triệu chứng biểu hiện của trầm cảm từ lâu đã được biết rõ và ta có thể kể ra sau đây một số biểu hiện chính thường gặp:
Cảm giác buồn bã, thất vọng và thường dễ khóc
Mất đi sự quan tâm, hứng thú và không cảm thấy vui với những thứ mà trước đây vẫn từng cảm thấy thích thú (việc này bao gồm cả những hứng thú với chuyện chăn gối vợ chồng)
Cảm thấy mình vô dụng, không có giá trị hoặc mặc cảm có lỗi
Suy nghĩ về cái chết hoặc có ý định tự sát
Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều
Mất cảm giác ăn ngon, sụt cân, hoặc ngược lại có thể rối loạn thói quen ăn uống kèm theo sụt cân hoặc tăng cân không theo chủ định
Thường xuyên có cảm giác uể oải, mệt mỏi
Khó tập trung suy nghĩ và khó đưa ra những quyết định
Có triệu chứng đau nhức trong cơ thể nhưng không đáp ứng với điều trị thuốc giảm đau thông thường
Cảm thấy bất an, bức rức và dễ bực bội, nổi nóng
Nếu bạn thấy mình có một vài trong số những triệu chứng nêu trên kéo dài thường xuyên trong hơn 2 tuần, điều đó báo động cho thấy bạn có thể đang bị trầm cảm và bạn cần được thăm khám bởi một bác sĩ chuyên khoa tâm thần.
Nguyên nhân nào gây ra chứng trầm cảm?
Trạng thái trầm cảm có liên quan đến sự mất cân bằng của các chất hóa học có vai trò trong sự dẫn truyền thần kinh trong não bộ.
Trầm cảm cũng có thể được kích hoạt bởi một số các sự kiện gây stress trong đời sống; vì thế nó có thể xảy ra sau những sự kiện như: cái chết của một người thân, vợ chồng ly hôn hoặc sau một sự chuyển đổi chỗ ở (ví dụ: trầm cảm xảy ra ở những người trẻ mới trưởng thành rời quê nhà lên thành phố học đại học hoặc làm việc...)
Trầm cảm cũng có thể có tính di truyền. Yếu tố di truyền có thể được thấy rõ trong trường hợp những gia đình có những người mắc trầm cảm ở các thế hệ khác nhau.
Trầm cảm cũng có thể xuất hiện khi dùng một số thuốc chữa bệnh, khi lạm dụng các chất gây nghiện (rượu, ma túy) hoặc khi bị mắc những căn bệnh mãn tính lâu ngày...
Một số phụ nữ có thể có tình trạng giao động khí sắc trong thời gian vài ngày sau khi sinh con. Họ có thể cảm thấy hơi bị trầm uất, khó tập trung, ăn mất ngon và khó ngủ ngay cả khi đã cho em bé ngủ. Tình trạng này có thể diễn tiến nhẹ dần và mất đi trong vòng 10 ngày sau khi sinh. Tuy nhiên, ở một số phụ nữ có thể có biểu hiện ngày càng nặng hơn và diễn tiến thành trầm cảm thực sự - y học gọi đây là chứng trầm cảm sau sanh (postpartum depression).
Sự khác biệt giữa trầm cảm ở phụ nữ so với trầm cảm ở nam giới
Bảng so sánh dưới đây sẽ cho thấy sự khác nhau giữa trầm cảm ở nam và nữ:
Các biểu hiện của trầm cảm
Sự khác biệt ở nữ khi so với nam
Tỷ lệ mắc trầm cảm
Tuổi khởi phát bệnh
Thời gian kéo dài một đợt trầm cảm
Diễn tiến bệnh
Liên quan với các sự kiện gây stress
Các triệu chứng không điển hình của trầm cảm như ngủ nhiều, ăn nhiều...
Độ nặng của trầm cảm do người bệnh tự đánh giá
Cảm giác có lỗi
Hành vi tự sát
Liên quan với chứng lo âu, ám ảnh sợ hoặc những cơn hoảng sợ
Rối loạn ăn uống
Kèm theo lạm dụng rượu, ma túy
Kèm theo bệnh ở tuyến giáp (bướu cổ)
Kèm theo bệnh đau nửa đầu (migraine)
Có liên quan đến các rối loạn nhân cách (ví dụ: nhân cách chống xã hội, nhân cách ái kỷ hoặc nhân cách ám ảnh...
Ảnh hưởng của các nội tiết tố sinh dục nữ đối với tâm trạng
Ở nữ là 20% (nam chỉ 10%)
Sớm hơn
Dài hơn
Các đợt trầm cảm dễ xảy ra, hay tái phát
Thường hơn
Nhiều hơn
Thường tự đánh giá là nặng hơn
Thường xảy ra hơn
Ý tưởng tự sát thường xảy ra hơn, nhưng hành vi tự sát thành công thì ít hơn
Hay đi kèm vói các rối loạn này nhiều hơn
Nhiều hơn
Ít hơn
Nhiều hơn
Nhiều hơn
Ít hơn
Nhiều hơn
Một số yếu tố nguy cơ làm tăng độ nặng của trầm cảm ở phụ nữ
Có thể kể ra một số yếu tố sau đây:
Trong gia đình đã từng có người bị trầm cảm
Bản thân đã từng có lần bị trầm cảm, đặc biệt là khi điều này xảy ra rất sớm trong giai đoạn mới dậy thì
Bị mất một hoặc cả hai cha và mẹ từ trước khi lên 10 tuổi
Lúc còn nhỏ bị bạo hành thể xác hoặc xâm hại tình dục
Đang sử dụng thuốc viên ngừa thai uống mỗi ngày, đặc biệt là loại thuốc có hàm lượngprogesterone cao.
Đang sử dụng thuốc kích thích rụng trứng để điều trị vô sinh
Thường xuyên có những yếu tố gây stress trong đời sống, vì dụ như mất việc làm hoặc xung đột trong hôn nhân chẳng hạn...
Thiếu những nguồn lực hỗ trợ từ gia đình và xã hội
Trầm cảm được chữa trị như thế nào ?
Có hai phương pháp điều trị trầm cảm, hoặc được thực hiện đơn lẻ từng phương pháp hoặc cũng có thể phối hợp cả hai cùng lúc; đó là: điều trị bằng thuốc (hóa dược) và tâm lý trị liệu.
Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm (Antidepressants)
Hiện nay có rất nhiều loại thuốc được sử dụng để điều trị chứng trầm cảm. Người bệnh không nên tự ý sử dụng các loại thuốc này mà nhất thiết phải tuân thủ theo sự hướng dẫn của các bác sĩ chuyên khoa. Thời gian điều trị cũng cần phải được bảo đảm thực hiện đầy đủ. Tùy theo đợt trầm cảm xuất hiện lần đầu hay là đợt tái phát mà thời gian điều trị thuốc có thể thay đổi từ 6 tháng cho đến vài năm. Cần theo dõi và khám định kỳ trong thời gian dùng thuốc để bác sĩ có thể đánh giá hiệu quả của việc dùng thuốc cùng các tác dụng phụ của thuốc nếu có. Đặc biệt ở phụ nữ mang thai hoặc cho con bú, việc dùng thuốc cũng phải hết sức thận trọng theo sự hướng dẫn của thầy thuốc.
Nếu dùng thuốc có hiệu quả, người bệnh có thể cảm thấy ăn ngủ tốt hơn, tái lập dần các hứng thú với cuộc sống và có cái nhìn tích cực hơn về tương lai cũng như về bản thân. Mặc dù hiệu quả của thuốc có thể bắt đầu nhận thấy sau một tuần điều trị, tuy nhiên hiệu quả đầy đủ nhất do tác dụng của thuốc chỉ có thể đạt được sau 8-12 tuần dùng thuốc.
Tâm lý trị liệu (Psychotherapy)
Tâm lý trị liệu là phương pháp chữa trị bằng cách dùng các kỹ thuật tiếp cận và hỗ trợ tâm lý cho người bệnh. Liệu pháp nhận thức – hành vi (CBT : Cognitive Behavior Therapy) thường được sử dụng để giúp người bệnh trầm cảm hình thành những suy nghĩ tích cực hơn về bản thân mình, về thế giới xung quanh và về tương lai.
Bên cạnh đó, một số các biện pháp hỗ trợ khác về tâm lý – xã hội, ví dụ: huấn luyện nâng cao kỹ năng giao tiếp, hóa giải xung đột... cũng có thể giúp người bệnh hội nhập tốt hơn vào đời sống và thích nghi hơn với công việc.
Trường hợp phụ nữ bị trầm cảm kèm theo bối cảnh có các vấn đề xung đột quan hệ vợ chồng, mâu thuẫn gia đình... có thể phải cần đến tham vấn hôn nhân hoặc trị liệu gia đình...
Một số điều ‘‘Nên’’ và ‘‘Không nên’’ khi bị trầm cảm
Đừng tự cô lập bản thân. Nên cố gắng duy trì sự tiếp xúc với những người thân, nếu có thể thì nên nói chuyện với bác sĩ của bạn, với bạn bè, đồng nghiệp, hoặc thậm chí có thể tìm đến một chuyên viên tham vấn tâm lý.
Đừng vội vã thực hiện những quyết định quan trọng chẳng hạn như ly hôn hoặc ly thân, bởi vì bạn khó có thể suy nghĩ sáng suốt khi đang trầm cảm.
Đừng tự trách bản thân vì mình bị trầm cảm vì bạn đã không tự gây ra căn bệnh này cho mình.
Đừng thất vọng vì mình không thể cảm thấy cuộc sống một cách tốt đẹp; cần phải kiên nhẫn với căn bệnh này. Việc chữa trị cần có thời gian để bệnh cải thiện.
Đừng bỏ cuộc
Nên tập thể dục thường xuyên, vì việc này giúp cải thiện sức khỏe và giúp bạn lấy lại năng lượng cho tinh thần của mình
Tập lại thói quen ăn uống điều độ và thành phần thức ăn cân đối giữa các chất
Dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Nếu bạn đang được tham vấn hoặc trị liệu tâm lý, bạn cần duy trì mối quan hệ và các cuộc làm việc với nhà tham vấn hoặc nhà trị liệu.
Thiết lập từng bước những mục tiêu nho nhỏ để bạn có thể cố gắng thực hiện. Bắt đầu thực hiện bằng những việc nhỏ để bạn ít bị tổn hao nang lượng tâm trí, gia tăng khả thành công và giúp bạn lấy lại các suy nghĩ tích cực về bản thân.
Cố gắng tự khích lệ bản thân trong khi thực hiện những mục tiêu ấy.
Bạn cần tiếp thu đầy đủ những thông tin có liên quan đến căn bệnh trầm cảm và cách thức chữa trị nó.
Gọi điện thoại hoặc tiếp xúc ngay với bác sĩ đang điều trị cho bạn hoặc gọi điện cho một chuyên viên (hoặc một trung tâm) tham vấn khủng hoảng khi bạn có ý nghĩ muốn tự sát.
Những thân nhân trong gia đình của bạn cũng cần biết rõ những điều trên đây giống như bạn.
Khi nào phải nhập viện để điều trị?
Phần lớn những trường hợp trầm cảm nhẹ có thể được chữa trị ngoại trú, dù người bệnh được điều trị bằng thuốc, bằng tâm lý trị liệu, hoặc phối hợp cả hai phương pháp cùng lúc. Một số trường hợp trầm cảm nặng không đáp ứng với thuốc có thể phải dùng đến liệu pháp choáng điện.
Một số trường hợp cần phải nhập viện để chữa trị như những trường hợp sau :
Trầm cảm nặng ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe chung và chất lượng cuộc sống của người bệnh
Trầm cảm có ý tưởng tự sát, nhất là đã có lần toan tự sát thực sự
Trầm cảm không đáp ứng với thuốc
Trầm cảm kèm theo tình trạng loạn thần, người bệnh khi ấy có thể có thêm triệu chứng ảo giác và hoang tưởng, không thể kiểm soát bản thân cả về suy nghĩ lẫn hành vi.
Nói chung,
Trầm cảm cần được phát hiện và chữa trị sớm. Việc giải quyết tốt các nhu cầu và thách thức của đời sống, của công việc cũng góp phần giảm bớt các yếu tố gây stress – một yếu tố góp phần làm tăng khả năng trầm cảm ở phụ nữ. Việc rèn luyện các kỹ năng sống, đặc biệt là các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quan hệ xã hội... cùng với việc xây dựng các nhận thức đúng đắn và các thái độ sống tích cực sẽ góp phần gia tăng khả năng thích nghi và ứng phó của bản thân mỗi người đối với các nhu cầu và thách thức của đời sống, từ đó gia tăng khả năng ‘‘đề kháng’’ với các rối loạn tâm thần nói chung cũng như với trầm cảm nói riêng.
GIÚP ĐỠ THIẾU NIÊN BỊ THẤT CHÍ
BS NGUYỄN MINH TIẾN
(dịch từ Helping Despairing Adolescents - JPG - Jul/Aug 1998)
Đứng trước một thiếu niên bị thất chí (despairing adolescent), người thầy thuốc lâm sàng có cơ hội để chẩn đoán một trạng thái tâm bệnh, đánh giá nguy cơ tự sát, cùng việc đưa ra các biện pháp trị liệu và phòng ngừa sớm nhằm hạn chế khả năng mắc các bệnh tâm thần về lâu về dài. Mỗi trường hợp phải được xem là một thách thức đối với người thầy thuốc.
THIẾT LẬP TÌNH HUỐNG
Thoạt tiên, người thiếu niên phải được chào đón, được chấp nhận và không bị phê phán. Nhân viên tiếp nhận phải nhận thức được các vấn đề về tính riêng tư, bảo mật, tầm quan trọng của việc thiết lập các buổi trị liệu một cách thuận tiện và không để thân chủ phải chờ đợi quá lâu. Nên có một số sách báo, tư liệu và thông tin thích hợp để thân chủ đọc tại phòng chờ đợi, kể cả các thông tin súc tích về tình trạng trầm cảm, lo âu và lạm dụng độc chất (substance abuse). Nhóm nhân viên tiếp nhận cũng nên có những hướng dẫn để bảo đảm sự tự do và riêng tư của thân chủ.
Do nhiều thiếu niên không có khả năng thiết lập được quan hệ với nhà trị liệu, có thể biểu lộ sự thù địch và bực bội, nên nhà trị liệu bắt buộc phải có tính chấp nhận, kiên nhẫn và không phê phán. Vấn đề về tính riêng tư bảo mật cũng phải được đặt ra ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên. Nhưng việc bảo mật hoàn toàn không thông báo gì cho cha mẹ hoặc một người lớn khác biết có thể là một “cái bẫy” nếu như có một nguy cơ tự sát hoặc một nguy cơ trầm trọng khác.
Mục đích của lần tư vấn đầu tiên với thiếu niên là nhằm thiết lập một mối quan hệ, khởi đầu việc đánh giá lâm sàng về căn nguyên của tình trạng thất chí của người thiếu niên và đặc biệt là về nguy cơ tự sát, đồng thời bắt đầu hình thành một kế hoạch quản lý và bảo đảm rằng người thiếu niên phải cảm thấy mình được hiểu và được coi trọng để sau đó trở nên hợp tác hơn.
CÁC LÝ DO THẤT CHÍ
Nhiều thiếu niên bị thất chí đã mắc phải một tình trạng rối loạn khả năng thích nghi (adjustment disorder) hoặc đang trong cơn khủng hoảng cảm xúc cấp diễn (acute emotional crisis) mà đây có thể là phản ứng của thiếu niên do gặp khó khăn trong lúc phải hoàn tất những công việc trong quá trình phát triển của mình. Những việc ấy bao gồm: đạt đến sự độc lập, phát triển tính dục, cùng việc làm chủ những thử thách trong học tập và trong khi xin việc làm. Những khủng hoảng thường phát sinh từ các khó khăn trong quan hệ với người cùng tuổi (quan hệ giao tiếp và quan hệ giới tính), sự xung đột với cha mẹ, và sự thất vọng khi không thành đạt các ước muốn trong học tập và trong công việc làm.
Tình trạng trầm cảm và rối loạn lưỡng cực, hay còn gọi là rối loạn hưng-trầm cảm (depression disorder and bipolar depression) rõ ràng đã bị bỏ qua, không được chẩn đoán và điều trị ở nhiều thiếu niên. Chúng thường xuất hiện lần đầu tiên ở tuổi thiếu niên và là một rối loạn tâm thần quan trọng nhất đáng để xem xét đến. Thất chí có thể là một phần bức tranh ban đầu của một rối loạn dạng phân liệt (schizophreniform disorder) và cũng có thể hiện diện ở một thiếu niên lạm dụng ma túy.
Đánh giá
Điều quan trọng cần nhớ trước tiên là người thiếu niên có khả năng bị trầm cảm. Một bảng liệt kê (hoặc được ghi nhớ trong đầu hoặc được ghi ra giấy, nhưng không sử dụng công khai như một bảng nghiệm kê) sẽ có ích cho việc xác định nguyên nhân thất chí của người thiếu niên.
Bệnh sử khái quát được thâu thập từ những thiếu niên bị thất chí
Bệnh sử hiện tại
* Trầm cảm
- Khí sắc trầm uất, phấn kích, mất hứng thú (anhedonia), “đau nội tâm”.
- Mệt mỏi, ngồi không yên, các rối loạn thực thể (somatic complaints)
- Rối loạn giấc ngủ, thay đổi khẩu vị.
* Lo âu, các cơn sợ hãi.
* Rối loạn hành vi, rối loạn ứng xử, phản ứng thù địch.
* Lạm dụng rượu, ma túy.
* Có ý tưởng tự sát: suy nghĩ, hoạch định, tiếp cận phương tiện dùng để tự sát.
* Các yếu tố gây stress mới xảy ra.
* Hành vi tự gây thương tích cho bản thân: xâm mình, cắt, đốt...
Bệnh sử tâm thần trong quá khứ
* Trầm cảm, lo âu, các cơn sợ hãi.
* Rối loạn ứng xử, rối loạn lăng xăng-kém chú ý (ADHD), khó khăn trong học tập.
* Lạm dụng rượu và ma túy.
* Lạm dụng thể xác, lạm dụng tình dục, bị bỏ rơi.
* Mất sự giáo dưỡng do cha mẹ bị chết hoặc ly dị.
* Bệnh sử tội phạm.
* Cố gắng tự sát.
Bệnh sử xã hội
* Quan hệ gia đình
- Xung đột với cha mẹ
- Cha mẹ quá nghiêm khắc hoặc quá “hiền”
- Xung đột với anh chị em
- Xúc phạm bằng lời nói (verbal abuse), bị bỏ rơi
* Tại trường học
- Việc học tập ở trường (chú ý bất kỳ sự thay đổi nào)
- Vấn đề vi phạm kỷ luật
- Khó tập trung
- Xung đột với giáo viên
* Quan hệ với bạn học
- Hệ thống hỗ trợ xã hội
- Xung đột với bạn học
- Xúc phạm bằng lời nói, lạm dụng thể xác, lạm dụng tình dục
- Mất một người bạn do bị chết, xung đột, hoặc tự sát
* Hoạt động tình dục
- Quan hệ tình dục bừa bãi
- STD, AIDS, có thai ngoài ý muốn, phá thai...
- Đồng tính luyến ái
* Sử dụng rượu và ma túy
- Dùng loại nào, dùng bao nhiêu, khi nào, tại sao...?
- Những hậu quả liên quan đến lạm dụng rượu và ma túy (vd. bị phạt vì lái xe trong khi say rượu...)
* Các vấn đề về hành vi Ví dụ: Gặp rắc rối với cảnh sát...
Thầy thuốc nên nhận biết rõ về các triệu chứng trầm cảm và loại người bệnh nào có khả năng hình thành nguy cơ trầm cảm. Ngay cả khi người thiếu niên được đưa đến cùng với cha mẹ, điều quan trọng là phải xem người thiếu niên đó là bệnh nhân của mình, phải lắng nghe cẩn thận như đang phỏng vấn một mình thiếu niên đó và phải tỏ ra tôn trọng thân chủ. Tuy nhiên, sau lần phỏng vấn đầu tiên, những thông tin hữu ích sẽ phải được thu thập từ phụ huynh (và đôi khi là từ trường học) về khả năng và môi trường sống của thiếu niên đó, cũng như về tâm bệnh học và bất kỳ bệnh sử trầm cảm của gia đình thân chủ. Điều quan trọng đương nhiên là phải có sự ưng thuận của người thiếu niên để nói chuyện với cha mẹ của họ. Lý tưởng nhất là việc thu thập bệnh sử nên được thực hiện một cách phối hợp. Tuy vậy, các bậc cha mẹ thường mong muốn có được một thời gian ngắn không có sự hiện diện của người thiếu niên, và việc này có thể được tiến hành trong giai đoạn đầu của cuộc đánh giá. Một khi đã bắt đầu trị liệu, để tránh việc bị người bệnh lôi cuốn, tốt nhất là chỉ nên giao tiếp với phụ huynh khi nào có người bệnh cùng hiện diện. Tuy nhiên, nên cho người bệnh biết rằng cha mẹ họ sẽ được thông báo về nguy cơ tự sát và các nguy cơ khác. Mối liên lạc với nhà trường và những nguồn thông tin khác cần được cha mẹ của trẻ em cho phép, và cũng phải được bản thân người thiếu niên đó đồng ý.
Những người trẻ tuổi bị thất chí thường xuyên sẽ có một khí sắc trầm uất, mất hết hy vọng và lòng tin vào tương lai. Những cuộc thẩm vấn đặc hiệu nên được thực hiện để phát hiện sự mất các hứng thú và cảm giác vui thích, những biến đổi trọng lượng cơ thể, giấc ngủ, tốc độ cử động, sự mệt mỏi, cảm giác tội lỗi hoặc bị mất giá trị, mất khả năng tập trung và khả năng quyết định. Độ trầm trọng và thời gian diễn ra các triệu chứng là rất quan trọng; và nên báo động về các triệu chứng loạn tâm hoặc biểu hiện của các triệu chứng hưng cảm. Bảng dưới đây sẽ trình bày mô hình tâm động học về các hành vi tự sát:
Tâm động học và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tự sát
Những sự kiện gây stress
* Bệnh sử gia đình:
- Bệnh tâm thần
- Lạm dụng rượu, ma túy
- Hành hạ thể xác
- Lạm dụng tình dục
- Bỏ rơi
- Mất hình ảnh của cha mẹ
- Ly hôn
- Ruồng bỏ
- Chết chóc
- Tiền sử tội phạm
- Tự sát
* Bệnh sử cá nhân:
- Mất tình bạn thân thiết (do xung đột, chết hoặc tự sát)
- Hỗ trợ xã hội không đầy đủ (vd. khi xung đột với bạn cùng tuổi)
- Ngược đãi bằng lời nói hoặc về thể xác
* Tính mẫn cảm
- Hỗ trợ xã hội không đầy đủ
- Chiến lược đối phó không đầy đủ
- Kỹ năng giao tiếp kém
- Khả năng kiểm soát xung động kém
- Tự đánh giá thấp bản thân, hung dữ, thất vọng
- Những lỗi lầm về nhận thức
- Các biến đổi trong quá trình phát triển (nhận thức, tình cảm, xã hội)
* Các trạng thái tâm bệnh
- Trầm cảm
- Lo âu
- Các cơn lo hãi
- Rối loạn hành vi
- Lạm dụng rượu, ma túy
Hành vi
* Tự hủy hoại
* Hành vi chống đối xã hội
- Bỏ nhà, trốn học
- Trộm cắp, phá hoại những công trình văn hóa
- Dọa dẫm, đánh nhau
- Xâm mình, tự gây thương tích
* Liều lĩnh, tìm cảm giác mạnh
- Lang chạ tình dục
- Lái xe khi say rượu
* Hành vi tự sát
- Điệu bộ (cắt cổ tay, dùng quá liều thuốc)
- Cố gắng
- Tự sát
TÍNH MẪN CẢM (VULNERABILITY)
Trầm cảm thường gặp ở tuổi lớn (trên 15) hơn là ở thanh thiếu niên, và thường ở nữ nhiều hơn ở nam; nhưng cũng thường gặp ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như: tiền sử trước đó mắc phải tình trạng trầm cảm dưới mức phát hiện bằng lâm sàng (subclinical depression) và có một cha (hoặc mẹ) bị trầm cảm. Cũng có thể có những yếu tố nguy cơ khác, và những chỉ báo về trầm cảm bao gồm sự giảm sút quan hệ với bạn cùng tuổi hoặc sa sút trong việc học tập ở trường, mâu thuẫn hoặc bị cách ly với cha mẹ, và bất kỳ sự cố nào khác gây mất mát cho người thiếu niên đó. Thật không có gì ngạc nhiên khi các yếu tố như công ăn việc làm cùng mối quan hệ tốt với cha mẹ và giáo viên là những yếu tố bảo vệ hữu hiệu.
Việc ghi nhận chi tiết về tất cả các yếu tố nguy cơ về di truyền, xã hội và tính mẫn cảm khó thể thực hiện đầy đủ trong cuộc tư vấn bình thường. Tuy nhiên, sự nhận biết các yếu tố này và một chỉ số nghi ngờ cao có thể gia tăng khả năng chẩn đoán chính xác, khả năng thiết lập quan hệ cộng tác với người thiếu niên và gia tăng cơ hội cung cấp những hỗ trợ mà từ đó cho phép có thời gian để tiến hành việc đánh giá chính xác hơn.
NGUY CƠ TỰ SÁT
Ở bất kỳ người thiếu niên nào bị thất chí, điều cần thiết là phải đánh giá được các nguy cơ tự sát và có được một chỉ số nghi ngờ cao về điều đó.
Các nguy cơ tự sát:
- Lạm dụng rượu và ma túy
- Đã từng có cố gắng tự sát
- Trầm cảm hoặc hưng-trầm cảm
- Hành vi hung tính hoặc chống đối xã hội
- Tiền sử gia đình có hành vi tự sát
- Có sẵn hung khí
- Các yếu tố gây stress trong đời sống, kể cả các xáo trộn trong gia đình
- Tin tức, sự kiện trên phương tiện truyền thông (media coverage) và sự mô tả hư cấu về tự sát
Đánh giá nguy cơ tự sát
- Việc này có gây cảm giác đau khổ đến mức bạn phải nghĩ đến cái chết không?
- Bạn có những ý nghĩ ấy nhiều ít thế nào?
- Có chuyện gì mới xảy ra gần đây khiến bạn có suy nghĩ như thế không?
- Ước muốn tự sát của bạn mạnh mẽ đến mức nào (cho điểm từ 0 đến 10, từ thấp đến cao)
- Cần thực hiện điều gì để làm giảm bớt một điểm trên thang chấm điểm ấy?
- Bạn đã từng nghĩ đến cách thức tự sát thế nào?
- Phương cách đó bạn đã có sẵn chưa?
- Bạn dự định khi nào sẽ thực hiện việc này?
- Bạn sẽ thực hiện điều này ở đâu?
- Trước đây, bạn đã bao giờ tự sát hoặc tự gây thương tích cho mình?
- Cố gắng đó có dẫn đến thay đổi gì không?
- Ai có thể giúp đỡ bạn hoặc bạn muốn ai giúp đỡ bạn?
- Có lý do nào khiến bạn từ bỏ việc tự sát?
- Nếu bạn có thể thấy trước được tương lai, bạn cảm thấy mình có thể trông mong được gì?
Điều quan trọng là không nên sợ khi phải hỏi trực tiếp người thiếu niên về những ý nghĩ và dự tính tự sát. Mặc dù, thiếu niên hiếm khi trình bày những ý nghĩ này một cách đặc hiệu, nhưng họ sẽ cảm thấy dịu nhẹ hơn khi được hỏi chuyện trực tiếp một cách nhẹ nhàng, không đối đầu mà cũng không phê phán. Nếu họ thực sự có một ý tưởng tự sát, điều cần thiết là phải hỏi thêm về tần suất và cường độ của những ý tưởng như thế, về bất kỳ cố gắng tự sát nào trước đó, và đặc biệt là những kế hoạch cụ thể bằng cách nào và khi nào họ có thể thực hiện được cố gắng đó. Sẽ không đúng và thật là nguy hiểm khi xem hành vi tự sát chỉ là một cách đe dọa để gây sự chú ý.
Do bản chất của hành vi tự sát là sẽ gây nên sự tổn hại cho đời sống, tính bảo mật cần được bỏ qua một khi người thiếu niên được đánh giá là đang có nguy cơ tự sát rõ rệt. Một người lớn thích hợp phải được giữ liên hệ thường xuyên và phải quyết định về nơi chốn an toàn cho người thiếu niên ấy. Có lẽ nên có một thỏa thuận ngắn hạn (24-48 giờ) để tiếp tục xem xét. Nếu người thiếu niên đã thực sự thực hiện một cố gắng tự sát và biểu hiện tình trạng khẩn cấp, tốt nhất là nên vào bệnh viện để được đánh giá tổng quát bởi một bác sĩ tâm thần chuyên về trẻ em và thiếu niên.
Nhiều thiếu niên đã thực hiện cố gắng tự sát một thời gian ngắn trước đó và đã được các thầy thuốc phát hiện. Việc xử trí nhạy cảm trong một cuộc tiếp xúc như vậy, với sự phát triển một mối quan hệ trị liệu và thiết lập một thỏa thuận, có thể nhanh chóng làm giảm nguy cơ tự sát. Những lời nói vô vị như “muốn đe dọa thì chẳng ai làm thế đâu!” nên được loại bỏ và các thầy thuốc nên biết rằng những thiếu niên có rối loạn khí sắc và rối loạn nhân cách trầm trọng một lúc nào đó có thể trải qua nguy cơ tự sát.
Việc xử trí tức thời những bệnh nhân có nguy cơ tự sát bao gồm sự đánh giá về hoàn cảnh gia đình và môi trường sống, giảm thiểu các yếu tố gây stress trong môi trường và hoạch định một kế hoạch trị liệu dài hạn. Bệnh nhân sẽ cần đến một sự hỗ trợ để hiểu biết về những khó khăn từ thời thơ ấu của họ, giáo dục về bản chất của tình trạng trầm cảm và hiệu quả của việc trị liệu, và những số điện thoại cần biết để liên hệ khẩn cấp.
HỖ TRỢ CỦA NHÀ CHUYÊN MÔN
Khi người thiếu niên bị đe dọa nghiêm trọng đến bản thân, hoặc vì nguy cơ tự sát, hoặc vì sự chăm sóc và hỗ trợ gia đình không đầy đủ, họ cần được nhập viện. Thiếu niên ấy cần được bảo đảm an toàn và giám sát chặt chẽ.
TRỊ LIỆU
Thuốc chống trầm cảm
* Thuốc chống trầm cảm Tricyclic
* Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI)
* Thuốc ức chế men monoaminooxudase (MAOI)
* Lithium
Trị liệu tâm lý
Việc thăm dò các yếu tố gây stress (stressor) và tính mẫn cảm của các thiếu niên có thể cung cấp sự hỗ trợ và làm giảm các triệu chứng. Cần chú ý đến các nhu cầu tâm lý cá nhân và, khi cần, có thể thực hiện các biện pháp can thiệp trong khuôn khổ trường học. Trị liệu gia đình cũng có thể có ích.
Liệu pháp nhận thức-hành vi (Cognitive Behavior Therapy)
Liệu pháp nhận thức-hành vi đã cho thấy có hiệu quả trong xử lý trầm cảm. Đó là liệu pháp hữu hiệu nhất để chữa trị cho các thiếu niên. Điều cần thiết trước tiên có lẽ nên nhắm vào tình trạng khủng hoảng mang tính khẩn cấp và làm giảm bớt trầm cảm bằng các thuốc chống trầm cảm mới.
Quản lý lâu dài
Quản lý đúng đắn và lâu dài các rối loạn cảm xúc quan trọng là điều thiết yếu, hoặc thông qua nhóm nhân viên sức khỏe cộng đồng, hoặc qua tư vấn với một bác sĩ tâm thần; có thể bao gồm:
Các thuốc ổn định khí sắc (lithium, carbamazepine, valproate);
Liệu pháp tâm lý hướng nội thị (insight-oriented psychotherapy);
Tham vấn và giáo dục gia đình.
SỰ PHÂN LY VÀ TÌNH TRẠNG ĐA NHÂN CÁCH
Bản dịch của BS. Nguyễn Minh Tiến
(Nguồn: David G. Myers – Psychology – Seventh Edition, Worth Publishers)
Trong số các rối loạn tâm thần hiếm gặp và thu hút sự quan tâm nhiều nhất, có một tình trạng được gọi tên là rối loạn phân ly (dissociative disorders). Người bị rối loạn ấy có thể trải qua tình trạng đột ngột bị mất trí nhớ hoặc tự nhiên thay đổi hẳn về mặt bản sắc (identity). Con người thường “tự phân ly bản thân mình” khi đứng trước một hoàn cảnh gây stress quá sức chịu đựng. Khi đó ý thức của người đó sẽ được cách ly với những gì đau thương nhất, cả trong ký ức, suy nghĩ và cảm xúc (Cách lý giải này thừa nhận sự tồn tại của những ký ức bị dồn nén, nghĩa là thừa nhận sự tồn tại của vô thức).
Một số triệu chứng của tình trạng phân ly thực sự không phải là hiếm gặp. Đó đây vẫn có nhiều người có cảm nhận về bản thân mình như là không có thực, hoặc cảm giác về tâm trí mình bị tách rời khỏi thân thể, hoặc có người tự quan sát bản thân mình như một nhân vật trong một cuốn phim... Một người có thể lên xe và đi đến một nơi nào đó không định trước trong khi đầu óc thì hoàn toàn nghĩ đến một nơi khác. Khi đương đầu với một sang chấn, một sự phân tách như thế có thể thực sự giúp bảo vệ cho đương sự tránh khỏi tình trạng bị tràn ngập bởi các xúc cảm. Chỉ khi những trải nghiệm như thế có tính chất nghiêm trọng và kéo dài thì người ta mới gọi đó là rối loạn phân ly.
Đặc biệt nhất trong số các rối loạn phân ly là tình trạng có tên rối loạn bản sắc phân ly (dissociative identity disorder), trong đó có sự phân ly toàn bộ bản ngã ra khỏi phần ý thức thường ngày của đương sự. Những người này được cho là có từ hai hoặc nhiều hơn hai “nhân thân” khác nhau (tức các phần nhân cách có bản sắc khác nhau) mà các phần này luân phiên nhau kiểm soát các hành vi của đương sự. Những người bị chứng rối loạn này có thể lúc này thì nghiêm túc và chuẩn mực, nhưng lúc khác thì lại nhí nhố, lăng nhăng. Mỗi một nhân cách sẽ có tác phong và ngôn phong riêng của nó, và một cách đặc trưng thì nhân cách gốc ban đầu sẽ chối bỏ không thừa nhận những nhân cách khác đang cùng tồn tại.
Mặc dù những người được chẩn đoán là đa nhân cách (multiple personalities) thường không có hành vi bạo lực, nhưng cũng có những trường hợp được báo cáo trong đó đương sự bị phân ly thành hai nhân cách “tốt” và “xấu” (hung hăng) – giống như nhân vật bị phân tách làm hai Tiến sĩ Jekyll và Ông Hyde trứ danh trong câu truyện của Robert Louis Stevenson. Freud hẳn cũng sẽ cho rằng khi loại bỏ được sự nhận biết có ý thức của phần nhân cách ban đầu vốn là “tốt”, phần nhân cách thứ hai với tính chất “xấu” sẽ tự do phóng thích các xung năng mà trước đó đã bị ý thức cấm cản. Sự diễn giải này dường như phù hợp với Kenneth Bianchi, một con người bất thường đã bị đưa ra tòa như một kẻ chuyên gây án theo kiểu “bóp cổ trên sườn đồi”, kẻ đã từng cưỡng bức và giết chết mười phụ nữ ở bang California, Hoa Kỳ. Trong một buổi thực hiện thôi miên cho Bianchi, nhà tâm lý John Watkins (1984) đã “gọi được” một nhân cách đang bị ẩn giấu của anh ta: Tôi đã nói chuyện một ít với Ken, nhưng tôi nghĩ rằng có thể đã có một phần khác của Ken mà tôi đã không thể nói chuyện được, một phần được cảm nhận như có chút gì đó hơi khác với cái phần mà tôi đã nói chuyện... Khi tôi hỏi ‘‘Anh nói chuyện với tôi chứ?” Bianchi trả lời “Vâng”, nhưng sau đó tự nhận tên mình là “Steve”.
Khi nói chuyện như là một người tên Steve, Bianchi đã nói anh ta (Steve) ghét Ken (cũng chính là Bianchi), bởi vì Ken là người tốt, còn Steve với sự trợ giúp của một người bà con mới chính là kẻ đã giết chết những phụ nữ. Steve cũng cho rằng Ken chẳng biết gì về sự hiện diện của Steve cả và Ken vô tội không phải là kẻ giết người. Liệu rằng cái nhân cách thứ hai của Bianchi có phải là một trò bịp bợm và chạy tội cho những hành động của anh ta hay không? Câu trả lời là “Đúng”. Bianchi, một “chuyên gia nói dối”, một người đã từng đọc các sách tâm lý học viết về đề tài đa nhân cách, và anh ta sau đó đã bị kết án.
Trong khi khảo sát khả năng của con người trong việc chuyển đổi nhân cách, Nicholas Spanos (1986, 1994, 1996) đã yêu cầu một số sinh viên đại học giả định là họ đang bị kết tội là kẻ sát nhân và đang được khám xét bởi một bác sĩ tâm thần. Khi những sinh viên ấy được trải qua sự thôi miên tương tự như cách đã làm với Bianchi, hầu hết trong họ đều tự nhiên thể hiện ra một nhân cách thứ hai. Khám phá này khiến cho Spanos đặt câu hỏi: Phải chăng những “bản sắc” (identity) khác nhau là những phiên bản “cực đoan” hơn của những khả năng bình thường ở con người trong việc thay đổi những cái “ngã” khác nhau mà chúng ta vẫn thường thể hiện – chẳng hạn như ta vẫn thường thể hiện cái tính cách “ngông nghênh”, “quậy phá” khi bù khú với bạn bè, trong khi đó lại thể hiện một cách ngã rất dịu dàng, tôn kính khi ở cạnh ông bà, cha mẹ? Liệu rằng những nhà lâm sàng đã phát hiện ra tình trạng đa nhân cách chỉ vì họ đã kích hoạt khả năng diễn xuất một vai trò nào đó ở những người có xu hướng hay huyễn tưởng (fantasy-prone)? Nếu điều ấy đúng, liệu những người này sau đó có tự thừa nhận rằng thực sự họ chỉ diễn xuất các vai trò của chính họ mà thôi? Họ có giống như các diễn viên không, vì những người này vẫn có lúc thấy mình “tự đánh mất bản thân” trong các vai diễn?
Những tác giả nào công nhận tình trạng bản sắc bị phân ly (dissociative identity) thực sự là một rối loạn có thể tìm thấy những bằng chứng hỗ trợ cho quan điểm của họ trong các trạng thái hoạt động của não bộ và cơ thể trong những nhân cách khác nhau (Putnam, 1991). Khuynh hướng hoạt động bằng một tay (handedness) đôi khi cũng làm chuyển đổi nhân cách (Henninger, 1992). Những ký ức mơ màng về những trải nghiệm của nhân cách này đôi khi không thể chuyển sang cho một nhân cách khác (Eich, 1997). Trong một nghiên cứu của một số bác sĩ nhãn khoa, người ta nhận thấy rằng sự tinh tế về thị lực và sự cân bằng hoạt động của các cơ vận nhãn có thể bị thay đổi khi người bệnh bị chuyển đổi nhân cách. Những thay đổi này không xảy ra trong số những đối tượng nghiên cứu thuộc nhóm đối chứng đang cố giả vờ có tình trạng đa nhân cách (Miller, 1991).
Những người hoài nghi thì vẫn có những nghi ngờ về việc tình trạng đa nhân cách đã trở nên phổ biến hơn trong thời gian cuối thế kỷ 20. Ở khu vực Bắc Mỹ, số lượng các trường hợp được chẩn đoán từ khoảng 2 ca mỗi thập niên (trong khoảng thời gian 1930-1960) tăng lên đến 20.000 trường hợp chỉ trong thập niên 1980 (McHugh, 1995a). Số lượng các nhân cách được thể hiện cũng tăng vọt từ 3 lên đến 12 nhân cách trên mỗi bệnh nhân (Goff & Sims, 1993). Bằng cách nào mà một loại rối loạn rất có ấn tượng như thế lại có thể trải qua một thời gian dài không được chú ý đầy đủ như vậy? Liệu sự gia tăng đột biến các ca được chẩn đoán có phải là do ảnh hưởng bởi các sách vở và phim ảnh về trạng thái đa nhân cách đã được phát hành trong thời gian đó? Trong khi đó ở khu vực Nam Mỹ, nhiều thầy thuốc lâm sàng đã chẳng hề gặp phải một trường hợp phân ly bản sắc nào và rối loạn này hầu như được xem là không tồn tại, mặc dù ở một số nước, có một số người đã được cho là “sở hữu” thêm một “tinh thần lạ” (alien spirit) (Altridge-Morris, 1989; Kuft, 1991). Ở Anh, chẩn đoán đa nhân cách được xem là hiếm và là một “thói dở hơi theo kiểu Mỹ” (a wacky American fad) (Cohen, 1995). Tại Ấn Độ và Nhật Bản, rối loạn này được xem là không tồn tại.
Đối với những người hoài nghi, những phát hiện này cho thấy đây là một hiện tượng có tính văn hóa – nghĩa là một loại rối loạn được tạo dựng nên bởi các nhà trị liệu trong một bối cảnh xã hội đặc thù nào đó (Merskey, 1992). Những bệnh nhân khi tham gia vào việc trị liệu đã không thể nói rằng “Cho phép tôi tự giới thiệu về bản thân mình”, mà thay vì vậy, những nhà trị liệu đã “thả câu” (go fishing) để tìm kiếm tình trạng đa nhân cách thông qua những câu hỏi như “Bạn có bao giờ cảm thấy một thành phần khác trong con người bạn làm những điều mà bạn không thể kiểm soát được? Thành phần này của bạn có một tên gọi riêng không? Liệu tôi có thể nói chuyện với với cái con người đang giận dữ bên trong bạn không?” Một khi bệnh nhân cho phép nhà trị liệu nói chuyện, bằng tên riêng, với “con người đang nói ra những điều giận dữ ấy bên trong bệnh nhân” thì bệnh nhân sẽ bắt đầu thể hiện cái huyễn tưởng ấy ra bên ngoài thông qua những hành động của họ (acting out the fantasy). Kết quả có thể dẫn đến một hiện tượng có thật là bệnh nhân có thể trải nghiệm về bản thân mình với một bản ngã hoàn toàn khác. Tuy nhiên, những người hoài nghi nói rằng cũng chẳng phải là điều trùng hợp khi mà các nghiên cứu về đa nhân cách đã bắt đầu được thực hiện bởi những nhà thực hành thôi miên và rằng các triệu chứng thường thể hiện ngoạn mục nhất sau khi bắt đầu trị liệu (Goff, 1993; Piper, 1998).
Trong rối loạn phân ly cũng như các rối loạn lo âu, cả trường phái phân tâm lẫn những người theo lý thuyết học tập (learning perspective) đều cho rằng các triệu chứng là những cách thức mà đương sự sử dụng để đương đầu với sự lo âu. Các nhà phân tâm xem triệu chứng như là cơ chế phòng vệ chống lại lo âu gây ra bởi sự tuôn trào của các xung năng không thể chấp nhận được. Các tác giả theo lý thuyết học tập lại xem chúng như những hành vi được củng cố bằng hiệu quả làm giảm lo âu của chúng.
Một số tác giả khác xem rối loạn phân ly như là các rối loạn sau sang chấn tâm lý (post-traumatic disorders) – một cách thức đáp ứng tự nhiên và có tính bảo vệ đối với “lịch sử các sang chấn thời thơ ấu” (Putnam, 1995). Các nhà nghiên cứu vẫn còn đang tranh luận về việc liệu những bệnh nhân có rối loạn bản sắc phân ly đã từng có tình trạng bị xâm hại về thể chất, tình dục hoặc tinh thần lúc thơ ấu hay không (Greaves, 1996; Lilienfeld, 1999). Một cuộc nghiên cứu trên 12 kẻ sát nhân được chẩn đoán là có rối loạn bản sắc phân ly đã cho thấy có 11 trường hợp trong số đó đã từng bị xâm hại nghiêm trọng lúc còn nhỏ (Lewis, 1997). Một trường hợp đã bị cha mẹ của mình châm lửa đốt; một trường hợp khác đã từng bị sử dụng vào những trò chơi khiêu dâm trẻ em và đã từng hoảng sợ khi bị đặt ngồi lên một bếp lò đang cháy. Khi ấy, tình trạng đa nhân cách có thể là sự cố gắng một cách tuyệt vọng của những nạn nhân muốn lẫn trốn vào bên trong (to flee inward).
Nhưng những người hoài nghi lại thắc mắc thế thì tại sao những trẻ em sống sót từ các cuộc thảm sát người Do Thái, từ các trại tập trung phát xít và chứng kiến cha mẹ bị giết hại lại không phát sinh các chứng rối loạn bản sắc phân ly? Liệu rối loạn này có phải đã được tạo nên bởi những người có xu hướng huyễn tưởng và dễ thay đổi về cảm xúc hay là đã được tạo dựng nên từ trong các tương tác giữa bệnh nhân và nhà trị liệu? Nếu thế, sẽ không có sự cảm thông nào trong phán xét của lịch sử. Chuyên gia tâm thần học Paul McHugh (1995b) tiên đoán rằng “trận dịch này” sẽ chấm dứt theo cách thức mà thói đam mê trò phù thủy đã kết thúc ở Salem. Hiện tượng đa nhân cách sẽ được xem như một sản phẩm nhân tạo và cách giải thích về một “ký ức bị dồn nén” là một điều sai lầm, còn các bác sĩ tâm thần sẽ không còn áp dụng những phương pháp thực hành dễ tạo ra những chứng bệnh không thật như thế nữa...
nh quốc
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆN INTERNET
BS. NGUYỄN VĂN KHUÊ
Vijaya Murali là một cố vấn ngành tâm thần, phân ban nghiện. Bà là giảng viên danh dự tại đại học Birmingham. Quan tâm chính của bà là bệnh nghiện của phụ nữ và người vô gia cư.
Sanju George là bác sĩ tham vấn về ngành tâm thần, phân ban nghiện và là giảng viên danh dự đại học Birmingham. Quan tâm chính của ông bao gồm các lĩnh vực giáo dục y khoa, đánh bạc bệnh lý và điều trị bằng thuốc cho người nghiện.
Một số lượng đáng kể người sử dụng internet phát triển chứng “nghiện internet” – một khái niệm tương đối mới trong tâm thần học mà hiện vẫn chưa được đưa vào các bộ tiêu chí chẩn đoán ICD-10 hoặc DSM-IV.
Những nghiên cứu ban đầu đã có một số phát kiến đáng quan tâm về các yếu tố căn nguyên, cùng những cách tiếp cận điều trị tâm lý xã hội mà các chuyên viên sức khỏe tâm thần cần phải hiểu biết căn bản về nghiện internet để họ phát hiện sớm và can thiệp đúng lúc. Trong tài liệu này, chúng tôi trình bày tổng quan về nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị nghiện internet.
Tổng quan về các nghiên cứu nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị nghiện internet.
Young (1998) là người đầu tiên mô tả việc lạm dụng internet. Những nghiên cứu ban đầu cho rằng nếu sử dụng internet quá 38 giờ mỗi tuần được coi là nghiện internet. Mặc dù chưa biết tỉ lệ chính xác nhưng bà cho rẳng khoảng 5-10% người sử dụng Internet được coi là nghiện internet. Những nghiên cứu ban đầu của Shotton (1991), đã ghi chép những người nghiện sử dụng máy tính phần lớn là đàn ông, học vấn cao và hướng nội. Các nghiên cứu về sau cho thấy người nghiện internet cũng có thể là phụ nữ trung niên sử dụng máy tính ở nhà (Griffiths, 1997, 1998; O’Reilly, 1996; Young, 1998)
Một số lý thuyết về hành vi và tâm lý đã được đưa ra để giải thích nghiện internet. Tuy nhiên, trên quan điểm của một nhà lâm sàng thì tốt nhất là cắt nghĩa theo mô hình sinh học – tâm lý – xã hội (bio-psycho-social).
Các mô hình về nguyên nhân nghiện internet. Lý thuyết học nhấn mạnh các hiệu quả tăng cường dương tính của việc sử dụng Internet vì nó tạo nên cảm giác khỏe khoắn và hưng phấn nên người sử dụng Internet và hoạt động theo nguyên tắt điều kiện hóa tác nghiệp (operant conditioning - Wallace, 1999).
Một người lo âu hay nhút nhát sử dụng Internet để tránh các tính thể gây lo âu, như tương tác mặt đối mặt, có xu hướng tăng cường sử dụng Internet.
Davis (2001) đề nghị một lý thuyết hành vi nhận thức về việc nghiện Internet mà ông cho rằng việc này xuất phát từ một kiểu cách độc đáo về nhận thức và hành vi liên quan đến Internet.
Đường dẫn truyền khen thưởng trong não bình thường được hoạt hóa bởi các tăng cường dương tính như: thực phẩm, nước và tình dục, là những yếu sinh tồn của con người. Tuy nhiên các yếu tố tăng cường như ma túy, rượu, đánh bạc, sử dụng Internet có khả năng mạnh mẽ hơn, khiến cho con người quên việc tình dục, làm việc, ngay cả ăn uống và sức khỏe. Lý thuyết về việc thiếu sự khen thưởng cho rằng những người không đạt sự thỏa mãn từ sự khen thưởng tự nhiên sẽ quay đi tim các chất ma túy để tìm kiếm sự kích thích từ các đường dẫn truyền, khen thưởng. Sử dụng Internet cung cấp phần thưởng ngay lập tức với sự chờ đợi ít nhất, giống như sự kích thích do rượu và ma túy.
Tính xung động được xem là yếu tố rủi ro c ho việc phát triển nghiện ngập. Schaffer (1996) cho rằng việc sử dụng Internet được nối kết hành vi tìm cảm giác. Các cá nhân xung động có xu hướng sử dụng Internet như 1 công cụ tìm kiếm cảm giác và có thể trở nên nghiện.
Lòng tự trọng (self-esteem) của bản thân trong thời niên thiếu là có tính quyết định cho việc phát triển nhân cách chín chẳn khi đến tuổi trưởng thành. Sự đánh giá thấp bản thân (low self-esteem) có thể là do thiếu sự hỗ trợ mạnh mẽ của cha mẹ hoặc bạn bè, do đó tạo ra cái cảm giác bất lực và vô giá trị (Harter, 1993). Điều này có thể đẩy cá nhân tìm đến Internet như là 1 cách thức trốn thoát thực tại và tìm kiếm một thế giới an toàn, trong đó cá nhân không cảm thấy bị đe dọa và thách thức. Theo tác giả Shotton (1991), các nam nhi hướng nội, có học vấn và giỏi về kỹ thuật có xu hướng phát triển nghiện Internet. Các cá nhân có tính tự trọng thấp có xu hướng mạnh trong việc nghiện Internet. Các cá nhân nhút nhát sử dụng Internet để vượt qua sự yếu kém kỹ năng xã hội, sự giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Người nghiện Internet nghiện những kiểu nào? Mặc dầu có nhiều mô hình về nguyên nhân, nhưng chưa có sự rõ ràng thế nào là người nghiện Internet và tại sao nghiện.
Các lý do đưa ra giải thích: vai trò của Internet là trung gian cho sự giao tiếp, thu lượm được thông tin, đặc biệt là các ứng dụng (như gởi và nhận email, đánh bạc trên mạng, trò chơi video, các hình ảnh về tình dục, sự giao tiếp nhiều người trên mạng, (MOD), tính nặc danh khi sử dụng giao tiếp trên mạng (Griffiths, 1998; Caplan, 2002).
Young (1998) chứng tỏ các người nghiện Internet nghiện các ứng dụng đặc hiệu trên Internet. Các cá nhân sợ sự tương tác mặt đối mặt có thể chọn việc chat và giao tiếp nhiều người cùng một lúc trên mạng.
Các phát triển gần đây các đồ hình 3 chiều của game giúp các cá nhân sử dụng Internet tương tác với nhau trong thế giới ảo.
Tiềm năng gây nghiện cực lớn của các trò chơi đóng vai nhiều người trên mạng đã khiến nhiều người sử dụng là phần mềm heroin (MMORPGS: massive multiplayer online role playing games).
Phân loại nghiện Internet
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng phân loại các kiểu nghiện Internet.
Davis (2001) chia nghiện Internet thành 2 loại: đặc hiệu và tổng quát. Đặc hiệu là việc sử dụng 1 chức năng đặc biệt hay 1 ứng dụng; tổng quát là sử dụng nhiều chức năng.
Young (1999) chia nghiện Internet thành 5 loại
- Nghiện tình dục trên mạng
- Nghiện giao tiếp trên mạng
- Đánh bạc, mua sắm hàng trên mạng
- Tìm kiếm dữ liệu trên mạng một cách thôi thúc
- Chơi game quá mức
Các hậu quả của việc nghiện Internet
Cái lợi ích của việc sử dụng Internet vừa phải là nguồn dự trữ bao la kiến thức và thông tin đem lại sự chuyển tải thông tin tức thì, các hiệu quả tích cực của việc sử dụng Internet là tăng cường tính tự tin, tăng cường mối giao tiếp với gia đình và bạn bè, cảm giác bản thân trở nên mạnh mẽ.
Tuy nhiên, sử dụng Internet đến mức gây nghiện có tác dụng tai hại rộng rãi trên các lĩnh vực đời sống cá nhân; như mối quan hệ giữa cá nhân với nhau, quan hệ tâm lý, xã hội, nghề nghiệp và thể chất. Có lẽ tác động tiêu cực lớn nhất là trong đời sống gia đình và xã hội, vì nó dẫn đến sự lơ là đối với gia đình, giảm hoạt động và giảm sự quan tâm đối với xã hội.
Nghiện Internet dẫn đến việc học hành sút kém, cũng như khả năng làm việc bị giảm sút (Murphey 1996; Scherer, 1997).
Các hậu quả tâm lý xã hội gồm có:
- Cô đơn (Kraut, 1998)
- Ấm ức (Clark và al, 2004)
- Trầm cảm (Young và Rogers, 1998)
- Một số người nghiện Internet cảm thấy mệt mỏi do thiếu ngủ, đau lưng và hội chứng “đau cánh tay quay và trụ” (carpal & radial tunnel syndromes).
Chẩn đoán
Điều quan trọng là ý thức được cách tốt nhất để đánh giá là bệnh nhân nghiện Internet, khi có sự đánh giá tốt sẽ giúp cho nhà lâm sàng thiết kế một kế hoạch điều trị có hiệu quả.
Những điểm mấu chốt để xác định người đó bị nghiện Internet
- Thu thập bệnh sử
- Khởi phát, những yếu tố khởi phát
- Diễn tiến
- Nhật ký sử dụng, kiểu cách, thời gian khi làm việc hoặc ở nhà, thời gian trong ngày v.v..
- Các yếu tố duy trì
- Các ứng dụng yêu thích nhất (Vd: chat, mua sắm, đánh bạc vv…)
- Các triệu chứng lệ thuộc (cơn thèm muốn, tính dung nạp, hội chứng cai, vv…)
- Những cố gắng cắt hoặc ngưng sử dụng Internet và kết quả
- Những cố gắng để điều trị trước đây.
- Lý do trình bày việc sử dụng hiện nay
- Tìm kiếm các thông tin phụ khi cần xác định các ứng dụng Internet
- Cảm xúc, nhận thức và biến cố xác định, tác động của cuộc sống.
- Việc sử dụng Internet trên lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội, quan hệ giữa các cá nhân với nhau
- Xác định mức độ động lực tham gia điều trị (sử dụng mô hình các giai đoạn thay đổi)
- Xúc tiến thăm khám sức khỏe tâm thần
- Loại trừ các bệnh tâm thần kèm theo
- Kết hợp phỏng vấn tâm thần với các công cụ chẩn đoán khác
Hình thức phỏng vấn để đánh giá tình trạng nghiện ban đầu giống như một cuộc phỏng vấn tâm thần tiêu chuẩn – ví dụ thu thập bệnh sử (triệu chứng than phiền hiện tại, quá khứ bệnh sử cá nhân và gia đình, bệnh sử tâm thần) và khám tình trạng tâm thần khi triển khai lịch sử các than phiền hiện tại, cần chú ý đặc biệc đạt được một bức tranh rõ ràng và toàn diện về tính chất và mức độ sử dụng Internet. Tốt nhất là vạch ra một lộ trình lúc khởi đầu sử dụng Internet, diễn tiến các yếu tố gây kéo dài sử dụng Internet.
Các câu hỏi quan trọng gồm:
- Bạn sử dụng Internet mấy giờ trong 1 ngày, 1 tuần.
- Bạn thích sử dử dụng Internet với những hoạt động, ứng dụng nào với hầu hết thời gian của bạn.
- Việc sử dụng Internet tác động đến hoạt động hàng ngày của bạn như thế nào?
Sau đó, xác định các triệu chứng nghiện Internet như sự thèm muốn, sự dung nạp (càng ngày chơi càng nhiều hơn), sự kéo dài sự sử dụng Internet. Xác định tác động của việc sử dụng Internet đến đời sống xã hội, nghề nghiệp và mối quan hệ của người nghiện Internet.
Cũng như đối với các hành vi gây nghiện, sẽ rất có ích nếu thu thập thập thêm thông tin từ người vợ, chồng, các con trong gia đình, hoặc bạn bè, người thân. Cần cố gắng xác định chính xác động lực của bệnh nhân muốn cai nghiện. Điều này có thể thu nhận được nhờ sử dụng khung mô hình các giai đoạn thay đổi (của Prochaska & DiClemente’s-1992): tiến xem xét, quyết định, hành động, duy trì và tái phát (hộp 2).
Hộp 2: Các giai đoạn thay đổi
- Tiền xem xét : cá nhân chưa sẵn sàng xem xét sự thay đồi.
- Xem xét : có suy nghĩ là cần thay đổi.
- Có ý chí : cá nhân quyết định thay đổi.
- Hành động : những cố gắng tích cực thay đổi bắt đầu.
- Duy trì : thay đổi trở nên thường xuyên.
- Tái phát : hành vi nghiện xảy ra lại.
(Theo Prochaska & DiClemente’s – 1992) nghiện Internet rất ít khi là rối loạn tâm thần duy nhất nên xem xét các rối loạn tâm thần kèm theo, thông thường nhất là các rối loạn cảm xú, các rối loạn khác về nghiện, các rối loại kiểm soát xung động, các rối loạn nhân cách. Ngược lại, trước khi chuẩn đoán người nào bị nghiện Internet, các triệu chứng nghiện nhưng không là hậu quả của một bệnh tâm thần nằm bên dưới như : hưng cảm, trầm cảm hay loạn tâm thần, rối loạn nhân cách hay rối loạn tâm lý tính dục.
Bà Young (1999) bàn cãi xác định chẩn đoán một người nghiện Internet, đã đưa ra 4 mấu chốt đặc hiều thường gây nên việc nghiện sử dụng Internet. Young đưa ra khuyến cáo phát quan sát 4 lĩnh vực trong tiến trình thực hiến một cuộc phỏng vấn lâm sàng.
1. Các ứng dụng: liên quan đến các kiểu hoạt động đặc hiểu (ví dụ: game, phòng chat, truy cập cá hình ảnh khiêu dâm) mà người người nghiện sử dụng nhiều thời gian nhất : Thông thường 1 kiểu nào đó sẽ xuất hiện với các cá nhân có những yêu thích riêng của mình. Các câu hỏi hữu ích cần hỏi là :
- Ứng dụng nào của Internet mà bạn thích nhất ?
- Bạn dành bao nhiêu thời gian cho ứng dụng đó ?
2. Các cảm xúc: điều quan trọng là hỏi cá nhân nghiện họ cảm thấy như thế nào khi lên mạng, ở ngoài mạng. Đối với một số người sử dụng Internet cố gắng loại bỏ các cảm xúc không dễ chịu, với một số người khác nó tạo nên cảm xúc dễ chịu, hài lòng. Khi nhận ra một nguyên nhân cảm xúc khởi phát việc sử dụng Internet, ta có thể đưa ra biện pháp can thiệp thích hợp. Các bệnh nhân cảm thấy khó khăn diễn tả các cảm xúc của mình, có thể khuyến khích duy trì một nhật ký về cảm xúc.
3. Các nhận thức: Các nhận thức kém thích ứng (Vd : lòng thiếu tự trọng hay các nhận thức trầm cảm). Có thể kích phát việc sử dụng Internet quá mức cho nên điều quan trọng là phải nhận ra các sai lệnh nhận thức nằm phía dưới và tác động các nhận thức này một cách thích hợp như là 1 phần của điều trị.
4. Các biến cố của đời sống: Các biến cố của đời sống hay các yêu tố gây thèm có thể kích thích hay kéo dài việc sử dụng Internet quá mức như một nỗ lực làm giảm đau đớn. Vì vậy tình trạng đời sống hiện tại của bệnh nhân nên được thẩm sát cho những cơ hội can thiệp.
Các dụng cụ chẩn đoán và xác định bệnh nghiện Internet
Bộ câu hỏi chẩn đoán của Young
Young (1998) đã phát triển 1 bộ câu hỏi để chấn đoán nghiện Internet. Dụng cụ sàng lọc 8 câu hỏi căn cứ trên tiêu chuẩn đoán DSM4 cho bệnh đánh bạc bệnh lý. Tám câu hỏi gồm các khía cạnh của bệnh lý nghiện như sau :
- Chăm chú vào Internet, sự dung nạp (cần tăng thời gian sử dụng Internet để đạt sự thỏa mãn).
- Không có khả năng ngưng việc sử dụng được Internet
- Sử dụng nhiều thời gian trên mạng vượt quá dự định.
- Các hậu quả tai hại trên các lĩnh vực nghề nghiệp, giáo dục và quan hệ cá nhân của người nghiện Internet.
- Nói dối để che đậy việc sử dụng thực sự Internet và sử dụng Internet như 1 cố gắng thoát khỏi các vấn đề.
Năm hay nhiều hơn câu trả lời “vâng” được coi như là chẩn đoán nghiện Internet. Cần lưu ý các câu hỏi không có thời gian tham khảo đính kèm (Vd : tháng qua, năm qua).
Tiêu chuẩn chẩn đoán của Beard & Wolf (2001) đã chỉ trích bộ câu hỏi của Young, nói rằng nó quá cứng nhắc đối với những bệnh nhân nghiện đánh bạc (nó yêu cầu sự hiện diện 5 câu trả lời/ 10 câu hỏi) và các tiêu chuẩn của Young không phát hiện được bệnh nhân nghiện Internet do một rối loạn tâm thần, nên Beard & Wolf đã đề nghị các điều kiện sau để chẩn đoán nghiện Internet.
Cá nhân phải có tất cả năm tiêu chuẩn sau
- Sử dụng Internet quá mức /sự dung nạp (càng ngày càng tăng thời gian việc sử dụng Internet).
- Không có khả năng cắt việc sử dụng Internet.
- Bứt rứt hay rối loạn cảm xúc khi cố gắng giảm sử dụng.
- Dùng nhiều thời gian trên mạng hơn.
- Và ít nhất một trong ba triệu chứng sau :
o Các hậu quả tai hại.
o Nói dối về sử dụng Internet.
o Sử dụng Internet để trốn thoát các vấn đề.
Tiêu chuẩn chẩn đoán của Griffiths
Trong một cố gắng định nghĩa bệnh nhân một cách có khoa học (operationally) bao gồm nghiện Internet, Griffiths (1998) đề nghị sáu tiêu chuẩn phải được thỏa mãn như sau :
- Sự thèm muốn.
- Thay đổi khí sắc.
- Tính dung nạp
- Các triệu chứng: cãi, xung đột và tái phát.
Mặc dù điều này có vẻ dễ sử dụng, nó đã không được trắc nghiệm, thực nghiệm và xác định giá trị.
Trắc nghiệm nghiện Internet
Young (1998) cũng đã phát triển trắc nghiệm nghiện Internet gồm 20 câu từ báo cáo (self report questionaire) để chẩn đoán nghiện Internet. Mỗi câu hỏi được đánh giá trên một thang điểm gồm 5 mức độ từ 1 (không có triệu chứng) đến 5 (luôn luôn). Giống như bộ câu hỏi chẩn đoán đầu tiên của Young. Các câu hỏi được lấy từ cuốn DSM-IV, tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh nghiện đánh bạc và nghiện rượu. Từ tổng số điểm nhận được từ trắc nghiệm có thể phân ra làm ba mức độ:
- Sử dụng dung nạp trung bình; cảm thấy có vấn đề thường xuyên vì sử dụng Internet quá mức. Có vấn đề đánh kể vì sử dụng Internet cần sự giúp đỡ ngoài việc giúp đỡ chẩn đoán nghiện Internet, bộ câu hỏi cũng giúp đỡ xác định mức độ nào sự sử dụng Internet quá mức đã ảnh hưởng các khía cạnh khác của đời sống người nghiện.
Các dụng cụ đánh giá, đo lường
Thay sử dụng Internet tổng quát tháng này (Caplan 2002) được trích từ lý thuyết hành vi nhận thức của Davis (2001) về nghiện Internet. Thang này gồm 29 mục (mỗi đề mục được đánh giá trên thang điểm từ 1 -> 5 :
1: Hoàn toàn không đồng ý
5: Hoàn toàn đồng ý
Và đo lường nhận thức, hành vi, các hậu quả tiêu cực do việc sử dụng Internet bệnh lý. Có 7 thang điểm nhỏ trên thang này tương ứng với một loạt các biến số sức khỏe tâm lý như trầm cảm, lòng tự trong và sự cô đơn. Caplan báo cáo có chứng cứ, mặc dù khời đầu do tính tin cậy và tính giá trị của dụng cụ này.
Thang hậu quả Internet
Đây là thang kiểu Likert gồm 38 đề mục để đánh giá các hậu quả của việc sử dụng Internet ( Clark và cs., 2004). Thang này gồm 3 thang phụ :
- Hậu quả về thể chất (7 đề mục)
- Hậu quả hành vi (15 đề mục)
- Hâu quả tâm lý xã hội (16 đề mục)
Thao tác giả Clark và cs. cho rằng dụng cụ này có tính giá trị và độ tin cậy cao.
Các phê phán về các dụng cụ chẩn đoán (Beard - 2005) tóm tắt một cách hùng hồn các phê bình quan trọng và các dụng cụ chẩn đoán nên trên.
- Các dụng cụ này căn cứ trên các khung lý thuyết khác nhau, ít có sự thỏa thuận giữa các dụng cụ trên về các thành phần nòng cốt các chiều kích của nghiện Internet.
- Hầu hết các dụng cụ tự báo cáo và do đó tùy thuộc vào người trả lời một cách trung thực, không có thang nối dối để chỉnh sửa việc nói dối.
- Không có câu hỏi về ứng dụng Internet đặc hiệu như (các phòng chat, email, hình khiêu dâm ) mà người nghiện đã ghiền.
Các dụng cụ chẩn đoán kể trên không được trải qua trắc nghiệm tính giá trị, độ tin cậy và cũng không đề cập đến các hậu quả khác nhau của việc sử dụng Internet quá mức và các hậu quả nhiều chiều kích.
Điều này cắt nghĩa còn thiếu một dụng cụ chẩn đoán tiêu chuẩn vàng có thể chấp nhận một cách tổng quát vì các dụng cụ chẩn đoán có giới hạn nên chúng ta nên dựa vào (chẩn đoán phỏng vấn lâm sàng) và sử dụng các dụng cụ này phải kết hợp với sự đánh giá lâm sàng toàn diện.
Các chiến lược điều trị việc sử dụng Internet bệnh lý (nghiện Internet). Đây là một lĩnh vực nghiên cứu chưa được nhiều và không có điều trị nào hiệu quả hoặc hiệu năng được thiết lập. Hầu hết các chứng cứ có được mặc dù sơ khai chỉ ra sự ích lợi các chiến lược hành vi torng việc điều trị nghiện Internet (Young -1999). Không có một cuộc thử nghiệm được kiểm soát chứng tỏ vài trò can thiệp dược lý.
Tuy nhiên, so sánh đối chiếu với bệnh lý nghiện đánh bạc, có thể hợp lý, có thể xác nhận SSRI và naltrexone có thể có vai trò trong trị liệu bằng thuốc đối với nghiện Internet. Dĩ nhiên, thuốc có vai trò nhất định trong việc điều trị các rối loạn tâm thần kèm theo (dù nguyên phát hay thứ phát) bao gồm các rối loạn cảm xúc, rối loạn phổ lo âu và các rối loạn nghiện khác.
Cho rằng các ích lợi và sử dụng tích cực trong đời sống hằng ngày, không thực tế để thử nghiệm mô hình hoàn toàn kiêng cử, nguyên tắc hướng dẫn nên điều độ và sử dụng có kiểm soát. Young (1999) đã gợi ý một số chiến lược hành vi để điều trị nghiện Internet. Hộp số 3.
Các chiến lược hành vi dùng để điều trị nghiện Internet
- Thực hành sự đối lập.
- Tác nhân ngưng sử dụng Internet từ bên ngoài.
- Đưa ra mục tiêu.
- (Cards) Thẻ nhắc nhở.
- Bảng liệt kê cá nhân.
- Kiêng cử.
* Thực hành sự đối lập
Việc này bao gồm phát hiện kiểu sử dụng chính xác Internet và rồi thử bẻ gãy thói quen trên mạng bằng cách đưa vào các hoạt động trung tính. Ví dụ: nếu thường ngày bệnh nhân chơi trên mạng vào cuối tuần, có thể gợi ý cá nhân tiêu khiển ở các hoạt động dã ngoại vào chiều thứ 7.
* Tác nhân ngưng sử dụng Internet từ bên ngoài :
Cá nhân sử dụng một đồng hồ báo thức để nhắc nhở bệnh nhân đã đến giờ tắt máy vi tính.
* Đặt ra các mục tiêu
Mặc dù có sự động viên và hỗ trợ cao, người nghiện Internet có thể thất bại trong điều trị nếu không có đặt ra các mục tiêu rõ ràng. Thường hữu ích để sử dụng một kế hoạch hàng ngày, hay hàng tuần, trình bày các thời gian cụ thể dành cho việc sử dụng Internet.
Khi bắt đầu, những khoảng thời gian này nên thường xuyên nhưng nên ngắn ngủi. Trong lâu dài, kế hoạch này được mong đợi để trao lại cho bệnh nhân một ý thức kiểm soát việc sử dụng Internet.
* Thẻ nhắc nhở (Cards)
Bệnh nhân được khuyến khích viết ra (trên thẻ - cards) một số hậu quả tiêu cực việc sử dụng Internet (Vd: những vấn đề về công việc và những lợi ích có được khi giới hạn thời gian trên mạng như có nhiều thời gian nói chuyện với bạn bè). Những thẻ này được mang theo bất cứ lúc nào, như là sự nhắc nhở thường xuyên, sẽ giúp đỡ, ngăn ngừa việc sử dụng Internet ở các thời điểm không tốt).
* Bảng liệt kê cá nhân
Bởi vì người nghiện Internet thường sử dụng nhiều thời gian trên mạng do đó hay bê trễ nhiều thú giải trí và các quan tâm khác. Cá nhân được khuyến khích làm một bảng liệt kệ các hoạt động bị mất đi và nên suy nghĩ về đời sống của mình trước khi chơi Internet quá lố, do đó nuôi dưỡng các hoạt động không Internet.
* Kiêng cữ
Trong bối cảnh này cá nhân kiêng cử một loại ứng dụng Internet đặc biệt (Vd: dung chat room hay chơi games) và sử dụng các ứng dụng khác của Internet một cách điều độ. Mô hình kiêng cử này được khuyến cáo cho những ai đã thử nghiệm và thất bại việc giới hạn sử dụng một ứng dụng đặc biệt.
Các điều trị khác
Nhóm hỗ trợ
Những người thiếu sự hỗ trợ xã hội có thể quay qua Internet như một cách thành lập quan hệ. Nếu việc này tao ra việc nghiện Internet, điều quan trọng là giúp những cá nhân như thế hội nhập vào giới xã hội khác. Trong một tình thế hội nhập tương tự và cải thiện mạng lưới hỗ trợ xã hội đời sống thực. (Điều này sẽ giúp họ ít dựa vào Internet hơn, để trấn an và dễ chịu mà họ cảm thấy thiếu trong đời sống thực tế, chương trình phục hồi 12 bước giúp cho người nghiện rượu và thuốc cũng có thể giúp cho người nghiện internet vượt qua những cảm giác bất túc và chia sẽ các cảm giác và quan điểm với nhau. Điều này sẽ cung cấp sự hỗ trợ và hướng dẫn họ cần để tăng cường sự hồi phục.
Có những nhóm hỗ trợ đặc hiệu giúp người nghiện biết cách xử trí mức độ nghiện của mình. Đây là web của nhóm hỗ trợ nghiện Internet: www.health.groups.yahoo.com/group/Internet=addiction. Trung tâm này là một mạng lưới nguồn lực dựa trên web được thành lập 19955 bởi Kimberley Young – chuyên môn các vấn đề liên quan đến mạng. Nhóm hỗ trợ cung cấp giáo dục về nghiện Internet và lời khuyên về cách quản lý. Nhóm tự miêu tả chính mình là một nơi an toàn trên mạng có mục đích phục hồi sức khỏe và an ninh của người nghiện Internet. Tuy nhiên có sự giới hạn về ủng hộ kinh nghiệm của mô hình chữa trị này.
Trị liệu gia đình: Nghiện Internet có thể làm rạn nứt mối quan hệ gia đình. Nếu có sự việc này, can thiệp gia đình phải là một phần của điều trị. Có thể giáo dục các thành viên gia đình về nghiện.
Trị liệu nhận thức: Các cá nhân có kiểu suy nghĩ (tai họa, thảm họa) thường ưu phiền và tránh né các tình trạng đời sống thực tế. Điều trị nhận thức phát hiện các nhận thức tiêu cực kém thích ứng và các giả định sai lầm và định hướng lại chúng để giúp cá nhân phát hiện các nhận thức thích ứng thay thế.
Các kết luận
Khái niệm nghiện Internet là một rối loạn tâm thần, còn trong giai đoạn ấu thơ. Các tranh luận tiếp tục về vấn đề tính giá trị là một chẩn đoán tâm thần có lẽ đã ngăn cản những nghiên cứu chi tiết hơn, và điều này giới hạn sự hiểu biết về nguồn gốc và điều trị vấn đề này.
Tuy nhiên, các nghiên cứu ban đầu đã đưa ra các yếu tố thuận lợi cá nhân và các tiếp cận điều trị tâm lý xã hội.
Sử dụng Internet tăng dần là một phần thiết yếu của đời sống hằng ngày. Các vấn đề liên kết với việc sử dụng Internet đã được đặt ra. Bác sĩ tâm thần cần một hiểu biết căn bản về rối loạn này, như vậy các bác sĩ tâm thần có thể phát hiện sớm và can thiệ
TỔNG QUAN VỀ TRẺ TỰ KỶ
BS NGUYỄN MINH TIẾN dịch và tổng hợp
LỊCH SỬ
Ngược dòng lịch sử, dường như luôn luôn có sự hiện diện của những đứa trẻ tự kỷ trong xã hội loài người, dù rằng cho mãi đến năm 1943, sau công bố của BS. Leo Kanner (Hoa Kỳ), người ta mới thực sự biết được sự tồn tại của những đứa trẻ như thế. Đó đây, trong thế giới chuyện cổ tích phương Tây, vẫn còn những câu chuyện kể về những đứa trẻ bị “tiên đánh tráo”, trong đó những vì tiên trên trời đã xuống bắt lấy đứa bé con người và để lại những đứa bé tiên xinh đẹp, nhưng tính tình lạ lùng và khác xa so với loài người.
Vào năm 1799, một bác sĩ người Pháp là J.M.G Itard đã tiếp nhận một đứa bé 12 tuổi được biết dưới cái tên Victor “Đứa bé hoang dã ở Aveyron”. Victor đã được dân làng Aveyron tìm thấy khi nó đang đi lang thang và sống đời hoang dã ở trong rừng. Hành vi của đứa trẻ này rất bất thường. Itard nghĩ rằng Victor là một đứa trẻ thiểu năng do đã bị cách ly khỏi loài người ngay từ thuở bé. Pinel, một bác sĩ nổi tiếng khác cùng thời, đã không đồng ý với Itard. Pinel tin rằng Victor là một đứa trẻ chậm phát triển mức độ nặng ngay từ lúc sinh ra. Ngày nay khi xem lại câu truyện này người ta có thể thấy rằng, Victor đã có những hành vi ứng xử của một trẻ bị tự kỷ. Nhưng vào thời ấy, những hành vi đi bốn chi, hú như sói của Victor chỉ khiến người ta thêu dệt nên câu chuyện về một “Cậu bé rừng xanh” được mẹ sói nuôi dưỡng từ nhỏ. Cũng có thể lý giải rằng vào thời kỳ nhiễu nhương ấy (sau cách mạng Pháp) đứa bé đã bị cha mẹ cách ly hoặc bỏ rơi vì tình trạng tự kỷ với những hành vi khó kiểm soát của nó.
Hơn một thế kỷ sau, năm 1919, một tâm lý gia Hoa Kỳ , Lightner Witmer, đã có một bài viết về Don, một đứa bé trai 2 tuổi 7 tháng, với những hành vi ứng xử của một đứa trẻ tự kỷ. Sau đó, Don được đưa vào một trường đặc biệt của Witmer và nhờ sự dạy dỗ cá nhân tích cực trong thời gian dài, đứa bé đã có thể bù trừ được sự khiếm khuyết của nó.
Năm 1943, Kanner (ĐH John Hopkins – Hoa Kỳ) là người đầu tiên đã mô tả một nhóm những trẻ đặc biệt này. Từ đó sự quan tâm của giới khoa học ngày càng gia tăng. Đã có nhiều học thuyết giải thích về căn nguyên của bệnh tự kỷ và hành vi thực sự của những trẻ bị căn bệnh này mới được quan sát và mô tả thật chi tiết.
Thời gian sau đó, nhiều phương pháp trị liệu và giáo dục đã ra đời góp phần cải thiện chất lượng đời sống và tiên lượng của trẻ tự kỷ.
Năm 1943, Leo Kanner mô tả 11 ca tự kỷ đầu tiên với một số nét đặc trưng như: không tạo lập được các mối quan hệ với con người, bàng quang, thờ ơ, chậm nói và không sử dụng lời nói để giao tiếp, cùng với các hoạt động chơi đơn giản, lập đi lập lại.
Kanner mô tả những trẻ này như thể “bị mất khả năng bẩm sinh trong việc thiết lập các mối quan hệ cảm xúc với con người”.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các trường hợp, nhưng vẫn có hai nét chung có ý nghĩa chẩn đoán:
+ Tính cô độc, tự kỷ;
+ Sự gìn giữ nguyên trạng mang tính ám ảnh.
Kanner đề xuất thuật ngữ “tự kỷ sớm nhũ nhi” (Early Infantile Autism) nhấn mạnh sự xuất hiện triệu chứng đã có từ tuổi nhũ nhi.
Sau đó, ở Mỹ và Châu Âu, cũng đã phát hiện thêm nhiều trẻ có biểu hiện tương tự (Asperger, 1944; Despert, 1951; Van Krevelen, 1952).
Tên gọi tự kỷ (Autism) vẫn còn bị tranh cãi. Nó khiến người ta dễ lầm lẫn với việc Bleuler dùng thuật ngữ này để mô tả bệnh tâm thần phân biệt ở người lớn. Từ đó dẫn đến hàng loạt các tên gọi khác nhau để thay thế như tâm thần phân liệt trẻ em, loạn tâm ranh giới, loạn tâm cộng sinh và loạn tâm tuổi nhũ nhi tùy theo quan điểm riêng của cac tác giả về bản chất và căn nguyên của bệnh tự kỷ.
Năm 1956, để làm rõ sự nhầm lẫn này Eisenberg và Kanner đã giảm số triệu chứng chủ yếu còn lại 2:
+ Tự cô lập ở mức độ nặng;
+ Khuynh hướng muốn bảo tồn nguyên trạng.
Đặc tính bất thường, kỳ dị về ngôn ngữ được xem là thứ phát do rối loạn quan hệ với con người và vì thế không phải là triệu chứng chính yếu. Tuổi khởi phát được mở rộng đến 2 năm đầu đời.
Tuy nhiên, một số tác giả lại đưa ra những tiêu chuẩn khác. Schain và Yannet (1960) đã loại triệu chứng bảo tồn nguyên trạng ra khỏi tiêu chuẩn của họ. Creak và cs. (1961) sử dụng 9 điểm chẩn đoán cho tất cả các loại loạn tâm ở trẻ em, bao gồm cả bệnh tự kỷ của Kanner, vào trong một chẩn đoán duy nhất là “hội chứng tâm thần phân liệt ở trẻ em”.
Năm 1968 , Rutter đưa ra 4 đặc trưng chủ yếu của tự kỷ :
1. Thiếu quan tâm và đáp ứng trong quan hệ xã hội .
2. Rối loạn ngôn ngữ: từ mức độ không có lời nói cho đến lời nói lập dị.
3. Hành vi, vận động dị thường : từ mức độ chơi hạn chế, cứng nhắc, cho đến các khuôn mẫu hành vi phức tạp mang tính nghi thức và thúc ép.
4.- Khởi phát sớm trước 30 tháng tuổi.
Những nét đặc trưng này hiện diện ở hầu hết các trẻ tự kỷ. Có một số nét đặc hiệu khác, nhưng chúng lại phân bố không đồng đều.
Năm 1978, Hiệp hội Quốc gia về Bệnh Tự kỷ ở Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa: Tự kỷ là một hội chứng các hành vi biểu hiện trước 30 tháng tuổi với những nét chủ yếu sau :
1. Rối loạn tốc độ và trình tự phát triển.
2. Rối loạn đáp ứng với các kích thích giác quan.
3. Rối loạn lời nói, ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ.
4. Rối loạn khả năng quan hệ với con người, sự vật và sự kiện (Ritvos & Freeman, 1978).
Định nghĩa này cùng với các định nghĩa của Kanner (1943) và Rutter (1968) đã tạo sở cho hai hệ tiêu chuẩn được dùng rộng rãi sau đó là ICD-9 (1980) và DSM III (1980) .
CÁC QUAN NIỆM VỀ CHẨN ĐOÁN
Mặc dù ICD-9 và DSM III có những định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán giống nhau về bệnh tự kỷ trẻ em, nhưng vẫn có những khác biệt trong quan niệm về bệnh này.
Trong ICD-9 tự kỷ trẻ em là một phân nhóm của các “Loạn tâm có căn nguyên chuyên biệt ở trẻ em”.
Còn trong DSM III (1980) và DSM III-R (1987) của Hội tâm thần học Hoa Kỳ, tự kỷ trẻ em là một loại rối loạn phát triển lan tỏa (PDD: Pervasive Developmental Disorders): là các rối loạn phát triển nghiêm trọng và xuất hiện sớm, đặc trưng bởi sự trì trệ và bóp méo các quá trình phát triển kỹ năng quan hệ xã hội, nhận thức và giao tiếp.
Trong DSM III, PDD bao gồm :
+ Tự kỷ nhũ nhi (khởi phát trước 30 tháng tuổi)
+ PDD trẻ em (childhood –onset: khởi phát sau 30 tháng tuổi)
+ PDD không đặc hiệu (tình trạng giống tự kỷ, nhưng không thể xếp vào hai nhóm trên).
+ Tự kỷ di chứng (không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ nhũ nhi, nhưng trước đó đã từng được chẩn đoán như vậy).
Tuy nhiên, những dữ liệu thực tế cho thấy không có sự khác nhau đáng kể nào (trừ tuổi khởi phát) giữa tự kỷ nhũ nhi và childhood-onset PDD, do vậy phân nhóm thứ hai đã bị loại bỏ trong DSM-III-R.
Ngoài ra, cũng khó có thể phân biệt được giữa PDD không đặc hiệu và tự kỷ di chứng. Vì thế, trong DSM III-R (1987) chỉ phân PDD thành 2 nhóm :
1. Rối loạn tự kỷ (đại loại giống tự kỷ nhủ nhi).
2. PDD không chuyên biệt (PDD NOS: PDD Not otherwise specified)
Gần đây, DSM IV (1994) tiếp tục dùng thuật ngữ chẩn đoán PDD bao gồm:
1. Rối loạn tự kỷ (Autistic Disorder)
2. Rối loạn Rett
3. Rối loạn giải thể ở trẻ em (Childhood Disintegrative Disorder)
4. Rối loạn Asperger.
5. PDD NOS
Lorna Wing (1981) cho rằng tự kỷ sớm nhũ nhi của Kanner không phải là tình trạng bệnh lý có tính đặc hiệu và riêng biệt. Mặc dù các dấu hiệu tự kỷ điển hình trên lâm sàng có thể được nhận diện khá dễ, nhưng vẫn còn nhiều trẻ khác có những nét giống tự kỷ nhưng không thể hiện đầy đủ triệu chứng (tự kỷ không điển hình). Tất cả những trẻ này đều có nhu cầu được giáo dục theo phương thức chuyên biệt. Dùng thuật ngữ tự kỷ điển hình và không điển hình có thể gây nên sự phân biệt đối xử và khiến một số trẻ “không điển hình” có thể không nhận được các biện pháp giáo dục và điểu trị cần thiết. Do vậy, bà đã đề xuất thuật ngữ chẩn đoán Autistic Spectrum Disorder (ASD = Rối loạn phổ tự kỷ) xem rối loạn tự kỷ như một phổ trường gồm các phân loại tự kỷ điển hình, tự kỷ không điển hình, hội chứng Asperger và các loại PDD khác.
DỊCH TỄ
* Lưu hành độ :
Các nghiên cứu dịch tễ học ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á ước tính lưu hành độ của rối loạn tự kỷ là khoảng 2-13/10.000 trẻ. Khuynh hướng hiện nay báo cáo những con số cao hơn.
DSM IV: 2 – 5 / 10.000 trẻ em
* Phái tính:
Tỷ lệ nam, nữ = 4 : 1
* Giai tầng kinh tế – xã hội:
Kanner (1943) quan sát thấy đa phần các ca tự kỷ của ông đều xuất thân từ các gia đình khá giả, thuộc tầng lớp trên của xã hội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu sâu rộng trên dân số chung sau này đã cho thấy điều trên là không đúng. Tsai (1982) nhận thấy các nghiên cứu cho tỷ lệ bệnh cao ở tầng lớp trên hầu hết được thực hiện trước năm 1970 và sau 1970 các nghiên cứu đều thấy bệnh phân bố đều trong các thành phần dân chúng (liên quan đến trình độ giáo dục, thu nhập của phụ huynh và sự tổ chức tốt mô hình chuyển gửi bệnh viện).
Chính từ kết quả của những nghiên cứu càng tác động làm thay đổi các học thuyết về căn nguyên của bệnh tự kỷ.
LÂM SÀNG
TUỔI KHỞI PHÁT
Kanner (1943) mô tả bệnh xảy ra một thời gian ngắn sau sinh. Tuy nhiên các tác giả khác nêu thời gian khoảng hai năm đầu đời. Nhưng thật ra cũng khó xác định được sự phát triển đầu đời của những trẻ này có thật sự là bình thường hay không. Các triệu chứng tinh tế trong giai đoạn đầu cũng có thể đã bị cha mẹ bỏ qua, bị quên hoặc khước từ.
Trong 63 ca tự kỷ của Rutter và Lockyer (1967), có 4 trẻ khởi phát trong khoảng thời gian 3 – 5 ½ tuổi. Trong khảo sát 32 trẻ tự kỷ của Lotter (1966), có 3 trẻ “thoái lùi về phát triển” xảy ra trong khoảng 3 đến 4 tuổi rưỡi. Các trẻ này được xếp loại “tự kỷ không đặc hiệu”.
KHIẾM KHUYẾT VỀ QUAN HỆ XÃ HỘI :
• Là đặc điểm trung tâm của bệnh tự kỷ (Kanner, 1943). Trẻ tự kỷ có khuynh hướng tránh tiếp xúc và ít biểu lộ sự lưu tâm đến giọng nói của người khác.
• Chúng không thay đổi tư thế hoặc không giơ tay khi sắp được bồng bế như trẻ bình thường.
• Cảm xúc thờ ơ, vẻ mặt không diễn cảm.
• Ở trẻ tự kỷ có trí tuệ khá, dấu hiệu khiếm khuyết quan hệ xã hội có thể không rõ rệt cho đến năm 2 tuổi.
• Lúc nhỏ, trẻ có thể tránh tiếp xúc bằng mắt (eye contact), nhưng có thể chấp nhận nếu được vuốt ve và đặt ngồi trong lòng mẹ.
• Tuy nhiên, trẻ thường không phát triển hành vi gắn bó, không đi theo bố mẹ trong nhà.
• Hầu hết trẻ tự kỷ không sợ người lạ, không lo âu khi chia lìa bố mẹ. Không chơi chung với trẻ cùng tuổi và chủ động tránh những trẻ này.
• Khi lớn lên, trẻ có thể phát triển khả năng gắn bó với cha mẹ và những người lớn khác. Một số trẻ có thể chơi chung với bạn hoặc tham gia một số trò chơi vận động thể lực.
• Tuy nhiên trẻ vẫn khiếm khuyết về mặt xã hội. Trẻ thường ít quan tâm đến trò chơi nhóm và không thiết lập được quan hệ với bạn cùng tuổi.
CÁC VẤN ĐỀ VỀ GIAO TIẾP
Khiếm khuyết giao tiếp phi ngôn ngữ
• Lúc nhỏ, trẻ thường biểu lộ nhu cầu qua tiếng khóc. Lớn lên, trẻ biểu lộ ý muốn bằng cách kéo tay người lớn đến vật mong muốn. Thường khi đó, trẻ không diễn cảm qua nét mặt.
• Không biết chỉ tay, không biết gật đầu, lắc đầu.
• Không tham gia các trò chơi bắt chước. Không có khả năng bắt chước làm theo những việc làm của bố mẹ như những trẻ bình thường vẫn làm.
• Không hiểu được ý nghĩa của những cử chỉ, điệu bộ của người lớn.
• Trẻ lớn, đôi khi có thể sử dụng và có khi hiểu được cử chỉ điệu bộ của người lớn. Một số trẻ đạt đến khả năng chơi bắt chước, nhưng cách chơi thường vẫn có tính rập khuôn và lập đi lập lại.
• Nói chung, trẻ tự kỷ vẫn có thể biểu lộ cảm xúc vui, sợ, giận dữ… nhưng cách thể hiện có khuynh hướng cực đoan. Nét mặt thường không diễn tả ý nghĩa. Một số trẻ hầu như thể hiện nét mặt vô cảm.
Không hiểu lời nói
• Có thể từ nhẹ đến mức độ chẳng bao giờ hiểu được lời nói.
• Ở mức độ nhẹ, trẻ có thể tuân theo những chỉ dẫn đơn giản, nếu chỉ dẫn được đưa ra đúng bối cảnh tức thời, hoặc có kèm theo những cử chỉ, điệu bộ minh họa tương ứng.
• Trẻ bị khiếm khuyết khả năng hiểu những ý nghĩa trừu tượng và tinh tế.
• Tính hài hước và diễn đạt thành ngữ cũng bị nhầm lẫn ngay cả ở những trẻ tự kỷ thông minh nhất.
Khiếm khuyết về phát triển lời nói
• Nhiều trẻ tự kỷ ít bập bẹ trong năm đầu tiên. Gần phân nửa trong số 11 trẻ tự kỷ của Kanner vẫn câm nín cho đến 5 tuổi.
• Khoảng 1/2 trẻ tự kỷ sẽ bị câm nín suốt đời (Ricks & Wing, 1976).
• Nếu trẻ phát triển lời nói, thường lời nói cũng sẽ có bất thường. Nhiều trẻ nói vô nghĩa, nói vẹt (echolalia: nhại lời). Trẻ có thể nhại lại lời nói của người khác một cách chính xác, nhưng thường ít hoặc chẳng hiểu được ý nghĩa của chúng. Nhại lời nặng có thể khiến câu cú bị méo mó và rời rạc. Một số trẻ có thể sao lại chính xác những cụm từ của người khác nói, đôi khi nhại đúng cả âm sắc giọng nói.
• Trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngôn ngữ, có thể có hiện tượng hoán đổi đại từ nhân xưng.
• Giọng nói có thể giống robot, đặc trưng bởi sự đơn điệu, phẳng lặng, không thay đổi, ít nhấn giọng và không diễn cảm.
• Một số trẻ nói với mục đích “tự kích thích”, lời nói có tính chất lập đi, lập lại, không liên quan đến những việc thực sự đang diễn ra xung quanh (Lovaas, 1977).
• Trẻ nhỏ có thể gặp các vấn đề về phát âm, khi lớn lên tình trạng này có thể giảm.
• Đối lập với khả năng nhại lời chính xác, những lời nói tự nhiên của trẻ lại có nội dung rất nghèo nàn, vốn từ ít ỏi.
• Có thể dùng kiểu nói như đang hát, kéo dài một số âm hoặc từ nào đó trong câu. Câu nói thường được kết thúc kiểu câu hỏi (lên giọng ở cuối câu).
• Cấu trúc ngữ pháp bất thường, không thành thục, thường gặp trong lời nói tự nhiên của trẻ.
• Trẻ tự kỷ có thể đặt tên riêng cho đồ vật theo cách của mình, hoặc dùng những từ riêng mà người khác không thể hiểu được .
• Không biết sử dụng hoặc sử dụng không đúng các giới từ, liên từ và đại từ.
• Trẻ có khuynh hướng không sử dụng lời nói để giao tiếp. Thường nói rập khuôn, lập đi lập lại.
• Không biết dùng lời nói để diễn tả ý trừu tượng. Không biết nói về chuyện quá khứ, chuyện tương lai hoặc chuyện không xảy ra trước mắt.
• Tiến bộ hơn, một ít trẻ tự kỷ có thể nói về điều trẻ quan tâm, nhưng một khi người lớn đáp ứng và bắt đầu nói chuyện với trẻ thì trẻ lại bỏ dở và rút khỏi cuộc nói chuyện ấy. Nói chung, trẻ vẫn thiếu khả năng tương tác qua lại.
Hành vi bất thường
• Chống lại sự thay đổi.
Trẻ tự kỷ thường khó chịu trước những thay đổi trong môi trường sống quen thuộc của chúng. Một sự thay đổi nhỏ trong thông lệ thường ngày có thể làm trẻ nổi cơn tam bành.
Nhiều trẻ hay xếp đồ chơi và vật dụng thành hàng dài và rất khó chịu nếu như trật tự này bị thay đổi. Hiện tượng này gặp ở trẻ tự kỷ có chậm phát triển trí tuệ nhiều hơn gấp hai lần so với trẻ tự kỷ có trí thông minh bình thường (Bartak & Rutter, 1976).
Hầu hết trẻ tự kỷ đều chống lại việc học và thực hành một hoạt động mới.
• Hành vi mang tính nghi thức, thúc ép :
Các hành vi mang tính nghi thức, thúc ép thường liên quan đến những thông lệ cứng nhắc như: từ chối ăn một loại thức ăn nào đó; hoặc là những hành vi có tính rập khuôn, lập đi lập lại, vd: vung vẩy hai cánh tay, hoặc đưa bàn tay lên gần mặt rồi xoắn vặn hoặc bật bật các ngón tay.
Trẻ lớn có thể phát triển các hành vi mang tính ám ảnh, vd: hỏi đi hỏi lại cùng một câu hỏi, và các hành vi có tính thúc ép, vd: hay sờ đụng vào một số đồ vật nào đó.
Các hành vi mang tính nghi thức, thúc ép thường xảy ra ở bệnh nhân tự kỷ không bị chậm phát triển trí tuệ hơn là bệnh nhân có trí tuệ kém (Bartak & Rutter, 1976).
• Những sự gắn bó bất thường :
Nhiều trẻ tự kỷ có sự gắn bó mạnh mẽ với những đồ vật khác thường, vd. một món đồ chơi nào đó như trái banh chẳng hạn.
Trẻ có thể luôn mang theo món vật đó bên mình, và nếu có ai đó lấy vật này đi thì trẻ sẽ giận dữ, phản kháng lại ngay. Nếu vật này vẫn không được trả lại, trẻ thường sẽ quay sang tìm kiếm một món đồ khác để thay thế.
• Các đáp ứng không bình thường với những trải nghiệm giác quan.
Trẻ tự kỷ có thể bị mê hoặc bởi các bóng đèn, các hoa văn, những vật có chuyển động xoay tròn, hoặc một thứ âm thanh nào đó.
Trẻ thao tác trên đồ vật, đồ chơi không theo các cơ năng thông thường của món đồ đó, mà như để thỏa mãn sự kích thích của các giác quan.
Trẻ có thể kiên trì làm đi làm lại các thao tác xếp đồ vật thành hình dài, xếp chồng đồ vật lên nhau hoặc xoay một món đồ để nó xoay tròn. Trẻ cũng có thể làm đi làm lại những việc như dội nước bồn cầu hoặc liên tục tắt mở các bóng đèn.
Tuy tránh né các tiếp xúc cơ thể, nhưng một số trẻ tự kỷ rất thích các trò chơi mạnh bạo, vd: tung hứng, cù lét, đánh đu, “bay tàu bay”…
Rối loạn về vận động
• Các mốc chuyển tiếp trong phát triển vận động có thể bị chậm trễ.
• Trẻ nhỏ thường gặp khó khăn trong việc bắt chước các động tác.
• Nhiều trẻ rất hiếu động, nhưng sẽ giảm bớt khi đến tuổi thiếu niên.
Hay nhăn nhó, vỗ đập cánh tay, xoắn vặn bàn tay, đi nhón gót, chạy chúi đầu về phía trước, nhảy, đi đều bước, lắc lư hoặc đu đưa thân mình, xoay đầu hoặc đập đầu xuống đất, vào tường.
• Một số trẻ có trạng thái căng cơ khi phấn khích hoặc khi quá chăm chú.
Các khiếm khuyết về trí tuệ và nhận thức
• Hầu hết trẻ tự kỷ đều có chậm phát triển trí tuệ (Rutter, 1978). Khoảng 40-60% có IQ < 50. Chỉ khoảng 20-30% có IQ > 70. Do đa số trẻ tự kỷ khó làm các test trí tuệ (nhất là các test dùng lời nói) nên các kết quả IQ vẫn còn bàn cãi .
• Trẻ tự kỷ có IQ thấp thường kèm theo các khiếm khuyết nặng về kỹ năng quan hệ xã hội và có nhiều đáp ứng xã hội lệch lạc, vd. hay sờ mó hoặc ngửi đồ vật và người khác, có những hành vi định hình và tự gây thương tích bản thân (Bartak và Rutter, 1976).
• 1/3 trẻ tự kỷ có chậm phát triển trí tuệ sẽ bị động kinh, còn trẻ tự kỷ có trí tuệ khá thì tỷ lệ này thấp hơn (Rutter, 1978). Vì vậy, IQ cũng phần nào có ý nghĩa tiên lượng.
• Khác với những trẻ chậm phát triển tâm thần, tình trạng chậm phát triển của trẻ tự kỷ vẫn còn chừa lại những “khoảng” trí tuệ bình thường hoặc gần như bình thường (thể hiện trong phần thao tác của các test trí tuệ).
• Kanner (1943) cũng lưu ý đến khả năng của trí nhớ xa ở các trẻ tự kỷ. Các kỹ năng đặc biệt của trẻ tự kỷ thường thuộc các lĩnh vực âm nhạc, cơ học và toán học.
• Lockyer (1967) cho rằng trẻ tự kỷ thường có khả năng trội về thao tác bằng tay và kỹ năng thị giác-không gian, trong khi lại rất kém ở các kỹ năng đòi hỏi sự suy nghĩ trừu tượng hoặc trình tự lôgic.
• Về nhận thức: trẻ tự kỷ không thể bắt chước, không hiểu ý nghĩa của lời nói, cử chỉ và điệu bộ, thiếu hẳn tính uyển chuyển, sáng tạo, không thể hiểu biết về luật lệ, không thể xử lý hoặc sử dụng các thông tin.
Các rối loạn khác
• Khí sắc phẳng lặng, cảm xúc quá mức hoặc không phù hợp. Có thể mau thay đổi, khóc cười vô cớ hoặc la hét khó kiểm soát.
• Có thể leo trèo, chạy nhảy không sợ nguy hiểm, nhưng lại có thể sợ những sự vật hoặc tình huống mà bình thường là vô hại, vd. sợ các thú nuôi (chó, mèo…) hoặc sợ đến một nơi chốn nào đó.
• Thói quen kỳ dị: nhổ tóc, cắn móng tay, cườm tay, cổ tay hoặc các phần khác của cơ thể. Các thói quen này thường gặp ở trẻ tự kỷ có chậm phát triển.
• Tự xoay người vòng vòng mà không bị chóng mặt.
• Động kinh xảy ra ở 1/4 đến 1/3 trường hợp. Thường cơn đầu tiên xảy ra ở tuổi thiếu niên (Deykin & MacMahon, 1979).
CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN KÈM THEO
• Kém tập trung và chú ý
• Tăng động
• Các bận tâm bất thường
• Ám ảnh
• Hành vi thúc ép, nghi thức
• Nói định hình
• Phong cách định hình
• Lo âu, sợ hãi
• Rối loạn khí sắc
• Rối loạn giấc ngủ
• Tự gây thương tích
• Tics
64%
36-48%
43-88%
37%
16-86%
50-89%
68-74%
17-74%
9-44%
11%
24-43%
8%NGHIÊN CỨU THEO DÕI 11 TRƯỜNG HỢP TRẺ TỰ KỶ ĐẦU TIÊN
ĐÃ ĐƯỢC BÁO CÁO TỪ NĂM 1943 BỞI BS. LEO KANNER TẠI HOA KỲ
BS. NGUYỄN MINH TIẾN dịch
Bài viết này đã được đăng tải tại Hoa Kỳ vào năm 1971 bởi BS. Leo Kanner, nghĩa là 28 năm sau khi ông đã báo cáo về 11 trường hợp trẻ tự kỷ đầu tiên mà ông đã phát hiện và theo dõi tại Bệnh viện John Hopkins. Vào thời điểm có cuộc đánh giá này, tự kỷ vẫn còn là một căn bệnh chưa được hoàn toàn hiểu rõ và các phương pháp chữa trị, giáo dục trẻ tự kỷ vẫn còn chưa phát triển nhiều như ngày nay. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn trình bày bài dịch thuật này với mục đích giúp bạn đọc phần nào hiểu rõ hơn về một căn bệnh đã từng là chủ đề nghiên cứu quan trọng trong chuyên ngành tâm bệnh nhi trên thế giới đồng thời cũng là một tình trạng rối loạn phát triển của trẻ em đang được quan tâm nhiều tại Việt Nam hiện nay.
Trong ấn bản năm 1943 của tờ tạp chí mà nay đã không còn, tờ The Nervous Child, có một một bài viết với tiêu đề “Các rối loạn tự kỷ về quan hệ cảm xúc” (Autistic disturbances of affective contact); trong đó 24 trang đầu tiên kể về 11 đứa trẻ có biểu hiện chung một khuôn mẫu hành vi với nét độc đáo đáng kinh ngạc mà người ta chưa hề biết đến trước đó; tiếp theo sau là 9 trang bàn luận và nhận định. Đoạn mở đầu của bài viết được kết bởi câu sau: “Bởi vì không có đứa trẻ nào trong số này lớn hơn 11 tuổi, đây phải được xem như một báo cáo sơ bộ cần được bổ sung thêm khi những bệnh nhân này lớn lên và khi đã thực hiện thêm những quan sát về tình trạng phát triển của chúng”.
Hai mươi tám năm đã trôi qua kể từ đó (Bài viết này được thực hiện vào năm 1971 - N.D.). Ấn bản trong đó có đăng bài viết này đã không còn được lưu hành trong một thời gian dài.
Những bệnh nhân nói trên đều có độ tuổi từ 2-8 tuổi khi được đưa đến Khoa Tâm bệnh Nhi thuộc Bệnh viện John Hopkins. Điều gì đã xảy đến với chúng? Tình trạng của chúng hiện ra sao?
Được sự giúp đỡ của vị Khoa trưởng hiện hành, BS. Alejandro Rodriguez, Cô Barbara Ashenden, trưởng nhóm nhân viên xã hội kể từ 1931, đã đảm nhận công việc tìm hiểu về nơi cư trú, khả năng sống và số phận tạm thời của những đứa trẻ này. Các kết quả sẽ được trình bày theo thứ tự của sự trình bày nguyên gốc, mỗi trường hợp bắt đầu bằng một tóm tắt các tình trạng được thấy khi đứa trẻ đầu tiên được tiếp nhận.
Ca thứ 1
Donald T. đến Khoa vào ngày 14/ 10/ 1938, với một tập 30 trang do người bố ghi lại kể về thân thế của đứa trẻ. Donald sinh ra bình thường, đủ tháng vào ngày 8/ 9/ 1933. Bú mẹ cho đến 8 tháng, sau đó là thường xuyên thay đổi các loại sữa bột. Đi vững lúc 13 tháng tuổi. Việc mọc răng tiến triển thuận lợi.
“Lúc 1 tuổi, cháu có thể ngâm nga và hát nhiều giai điệu nhạc một cách chính xác… Gia đình đã khuyến khích cháu đọc lại những bài thơ ngắn, thậm chí học hát được cả bài Thánh ca thứ 23 và 25 câu hỏi đáp từ sách dạy giáo lý của Giáo hội…Cháu cũng rất nhanh chóng biết được rất nhiều bức hình trong bộ tự điển bách khoa Compton’s Encyclopedia… Cháu nhanh chóng học được toàn bộ bảng mẫu tự A, B, C, đọc ngược cũng như đọc xuôi, và đếm được từ 1 đến 100. Nhưng cháu không biết đặt câu hỏi và trả lời các câu hỏi trừ khi chúng đi kèm theo những vần điệu hoặc những gì đại loại như vậy… Cháu có vẻ tự thỏa mãn, không cần đến ai. Cháu không biểu lộ cảm xúc rõ rệt nào khi được người khác nựng nịu. Cháu không chú ý gì khi có ai đó đến hoặc đi. Dường như cháu chui mình vào trong một cái vỏ bọc và sống một mình bên trong đó. Hiếm khi cháu đến khi ta gọi, muốn cháu đi đâu ta phải bế cháu lên, rồi mang hoặc dẫn cháu đi. Khi bị ai can thiệp, cháu thường lên cơn nổi cáu và làm những hành vi hủy hoại… Lúc 2 tuổi, cháu xuất hiện tính ái mộ đặc biệt đối với những vật có chuyển động xoay tròn, có thể đó là những hình khối, những cái xoong hoặc một vật hình tròn nào khác, nhưng cùng lúc đó cháu lại rất ghét những chiếc xe tự chuyển động. Cháu vẫn còn sợ những chiếc xe đạp ba bánh và hầu như rất kinh hãi khi bị bắt buộc phải lái những chiếc xe ấy.”
Vào tháng 8/ 1937, đứa trẻ được đưa vào một dưỡng viện dành chữa trị cho những bệnh nhân lao (Preventorium) “để thay đổi môi trường”. Trong khi ở đó, “cháu biểu hiện một thái độ tơ tưởng khiến cháu có vẻ quên lãng hết mọi chuyện về bản thân. Cháu có vẻ luôn luôn suy nghĩ và không chú ý gì cả khiến ai nhìn thấy đều muốn phá vỡ đi cái hàng rào ngăn cách giữa nội tâm bên trong và thế giới bên ngoài của cháu”. Vị bác sĩ gia đình đề nghị có một cuộc hẹn tại Khoa của chúng tôi. Giám đốc dưỡng viện chống lại điều này, ông cho rằng Donald “sống rất tốt” và “hiện tại nó hoàn toàn ổn cả thôi”; lời khuyên của ông là: “Hãy để đứa trẻ lại một mình”. Khi cha mẹ đứa trẻ dứt khoát yêu cầu ông ta gửi cho chúng tôi một bản báo cáo, ông đã viết ra không đến nửa trang giấy về tình trạng của Donald như là “một đứa trẻ tập trung về mặt tâm thần” và phỏng đoán rằng “nó có thể bị một bệnh lý về hạch”.
Người cha, có ngoại hình rất giống Donald, là một “luật sư thành công, tỉ mỉ và siêng năng, một người làm mọi việc rất nghiêm túc… Khi đi phố, ông như bị cuốn hút vào các suy nghĩ đến mức chẳng nhìn thấy gì, chẳng nhìn thấy ai, và chẳng thể nhớ đến việc gì khác”. Người mẹ, một sinh viên tốt nghiệp đại học, là một người trầm tĩnh, giỏi dang, được chồng đánh giá cao. Đứa con thứ hai, một đứa con trai, được sinh ra ngày 22/ 5/ 1938.
Tại Khoa, Donald được thấy là có tình trạng thể chất tốt. Cậu được đưa vào Cơ sở Nghiên cứu Trẻ em Maryland với sự quan sát kỹ lưỡng của các BS. Eugenia S. Cameron và George Frankl. Sau đó, Donald trở về 3 lần để kiểm tra. Khuôn khổ bài viết không đủ chỗ để chúng ta có thể tiếp cận với những dữ liệu được ghi chép tỉ mỉ trong các hồ sơ của Khoa và các thư từ qua lại của người mẹ. Và trong khi người cha đóng vai trò như một nhà viết sử đáng tin cậy, thì người mẹ đã trở thành người tham gia tích cực vào việc quản lý đứa trẻ. Thêm vào đó có thể nói rằng sự mô tả của người cha đã có thể được khẳng định. Donald vừa đi đi lại lại vừa cười, các ngón tay làm những hành vi mang tính rập khuôn, đầu thì lắc qua lắc lại và ngâm nga mãi một giai điệu có ba nốt nhạc. Một cách cực kỳ vui thích, cậu bé xoay bất cứ thứ gì mà cậu có thể chộp lấy để xoay. Hầu hết các hành động của cậu đều có tính lập đi lập lại, mỗi lần đều thực hiện bằng cùng một cách thức như nhau. Cậu thường nhái lại những gì được người khác nói với cậu, sử dụng những đại từ nhân xưng mà người nói đã dùng, thậm chí bắt chước cả ngữ điệu của người nói.
Năm 1942, cha mẹ đưa cậu đến một trang trại cho thuê cách nhà khoảng 10 dặm. Khi tôi đến đó vào tháng 5/ 1945, tôi rất ngạc nhiên về sự thông minh của hai vợ chồng tá điền nhận chăm sóc đứa trẻ. Họ đã làm cho hành vi rập khuôn của đứa trẻ trở nên có mục đích. Họ đã cho cậu sử dụng thời giờ bận rộn với việc đo đạc bằng cách bảo cậu đào một cái giếng và báo cáo về độ sâu của nó. Khi cậu thu lượm xác của những con chim và côn trùng bị chết, họ đã dành cho cậu một khu vực để làm một “nghĩa địa” và bảo cậu làm những cột ghi chú; trên mỗi cái, cậu ghi một cái tên riêng ở trước, giữa là tên con vật, và sau đó là họ của người nông dân, ví dụ như: “John Ốc sên Lewis. Ngày sinh, không biết. Chết, (ngày mà cậu tìm thấy xác con vật)”. Khi đứa trẻ đếm đi đếm lại những hàng bắp, họ cũng cho cậu đếm những luống đất mà cậu đã cày lên. Vào lúc tôi đến thăm, cậu đã cày được 6 luống đất dài; thật đáng khen khi cậu làm tốt công việc điều khiển ngựa và cày, rồi dẫn ngựa đi ngược trở lại. Rõ ràng là ông bà Lewis rất yêu mến đứa trẻ và cũng rõ ràng là hai người rất nhẹ nhàng mà cương quyết. Đứa trẻ được theo học một trường làng nơi nó được chấp nhận và đã đạt được những tiến bộ trong học tập.
Phần còn lại của câu chuyện được ghi lại trong lá thư của người mẹ ngày 6/ 4/ 1970:
“Don nay đã được 36 tuổi, sống độc thân tại nhà với chúng tôi. Cháu bị một đợt thấp khớp cấp vào năm 1955. May mắn là việc này chỉ kéo dài vài tuần. Về thể chất, từ thời gian đó, cháu hoàn toàn khỏe mạnh… Từ khi nhận được bằng A.B.(Bằng Cử nhân KHXH) năm 1958, cháu đã vào làm thâu ngân tại ngân hàng địa phương. Cháu an phận làm một nhân viên thâu ngân, không có một ước muốn thực sự nào trong việc thăng tiến. Cháu tiếp xúc với công chúng ở đó rất tốt. Thú vui chính của cháu là đánh gôn, mỗi tuần chơi 4-5 lần ở một câu lạc bộ tại địa phương. Chẳng là vận động viên nhà nghề, nhưng cháu đã 6 lần đoạt giải ở các cuộc tranh tài địa phương… Các quan tâm khác là Câu lạc bộ Kiwanis (giữ cương vị chủ nhiệm một nhiệm kỳ), Jaycees, Câu lạc bộ Đầu tư, thư ký của Trường dòng Presbyterian Sunday School. Cháu rất đáng tin, chính xác, và thể hiện sự độc đáo trong việc biên tập các thông tin của chương trình Jaycee, tính nết ổn định, nhưng có khả năng tự quyết định… Cháu có thêm chiếc xe hơi thứ hai, thích độc lập. Trong phòng cháu có riêng một TV, máy hát và nhiều sách vở. Ở trường đại học, cháu học chuyên môn Pháp văn và thể hiện thái độ đặc biệt đối với các ngoại ngữ. Don là người chơi bài bridge rất công bằng, nhưng chẳng bao giờ bắt đầu được một cuộc chơi. Thiếu khả năng bắt đầu công việc dường như là trở ngại trầm trọng nhất của cháu. Ít tham gia vào những cuộc trao đổi ngoài xã hội và không biểu hiện sự quan tâm gì đến người khác phái.
“Trong khi Don không hoàn toàn là người bình thường, cháu vẫn đảm nhận rất tốt cương vị của mình ngoài xã hội, tốt hơn nhiều so với những gì chúng tôi hy vọng. Nếu cứ giữ nguyên trạng như vậy, tôi nghĩ rằng cháu có khả năng đầy đủ để có thể tự chăm sóc bản thân. Chúng tôi thật sự biết ơn vì những tiến bộ rất nhiều này… Xin gửi đến BS. Kanner những lời chúc tốt đẹp nhất của chúng tôi. Hãy nói với ông rằng cặp vợ chồng đã nuôi dưỡng Don trong 4 năm, ông bà Lewis vẫn còn là bạn của chúng tôi. Chúng tôi gặp nhau khá thường xuyên. Don chẳng bao giờ cần đến thuốc men vì những rắc rối về cảm xúc nữa. Tôi ao ước biết được những cảm xúc nội tâm thực sự của Don. Chừng nào Don vẫn còn giống như hiện nay, chừng ấy chúng tôi vẫn còn tiếp tục mang ơn…”
Ca thứ 2
Frederick Creighton (“Wikky”) W. đến khám ngày 29/ 5/ 1942, một tuần trước sinh nhật lần thứ sáu của cậu. Sau đây là tóm tắt những lời khai bệnh của người mẹ:
“Cháu luôn luôn tự lập không cần ai giúp đỡ. Tôi chẳng bao giờ thấy cháu khóc để đòi người khác phải chú ý. Cháu cũng không bao giờ hợp tác tốt trong khi chơi. Cho đến năm ngoái, cháu vẫn cư xử như thể chẳng có ai xung quanh mình. Cách đây chừng 1 năm, cháu bắt đầu tỏ ra quan tâm hơn khi nhìn người khác nhưng thường thì xem họ như một sự quấy nhiễu. Ở mức độ nào đó, cháu thích bám chặt lấy những sự việc không thay đổi. Trên một kệ tủ để sách, chúng tôi có ba món đồ đặt theo một thứ tự nào đó; khi thứ tự này bị thay đổi đi, cháu luôn luôn sắp xếp lại theo đúng cách thức cũ… Trước 2 tuổi, cháu đã nói được ít nhất là 2 từ. Khoảng 2 đến 3 tuổi, cháu có thể nói được những từ mà dường như đã gây cho cháu một sự ngạc nhiên. Một trong những từ đầu tiên mà cháu nói được là “overalls” (áo may liền với quần)… Vào khoảng 2 tuổi rưỡi, cháu bắt đầu hát. Cháu hát được khoảng 20 đến 30 bài, bao gồm cả một bài hát ru của Pháp. Vào năm 4 tuổi, tôi đã cố thử làm cho cháu phải biết yêu cầu về những gì mà cháu muốn, nhưng ý chí của cháu lại mạnh mẽ và duy trì lâu hơn tôi rất nhiều: cháu không lấy vật nó muốn mà cũng không chịu từ bỏ ý muốn đó… Hiện nay cháu có thể đếm được đến các số hàng trăm và có thể đọc được các con số, nhưng cháu không quan tâm đến các con số khi chúng được áp dụng để đếm các đồ vật. Cháu gặp rất nhiều khó khăn khi học cách sử dụng đúng các đại từ để xưng hô. Khi nhận được một quà tặng, cháu sẽ tự nói với chính mình: ‘Mày nói, cám ơn’ ”.
Được mổ bắt con 2 tuần trước ngày dự sanh vì lý do “mẹ có bệnh ở thận”. Chào đời rất tốt. Không có vấn đề về dinh dưỡng. Người mẹ chẳng bao giờ thấy cậu thay đổi tư thế khi bà đưa tay ra bế. Ngồi lúc 7 tháng tuổi và biết đi lúc 18 tháng.
Wikky là con một. Cha là một chuyên viên về bệnh lý của thực vật (Plant pathologist), một con người “nhẫn nại, trầm tĩnh”, một người mà lúc nhỏ “mãi về sau” mới chịu nói và rất “tinh tế”. Người mẹ, “khỏe mạnh và trầm tĩnh”, là thư ký của một đại lý thu mua hàng hóa, và có lúc đã từng là một giáo viên dạy môn lịch sử. Khi đứa trẻ ra đời, mẹ 34 tuổi còn cha thì 38.
Ông nội, (với quyển tự truyện được công bố năm 1943), là người tận tụy với “một gia đình có 11 người con và cháu”, đã bỏ nhà ra đi vào năm 1911, trong 25 năm không ai biết được chỗ ở và thời gian đó ông đã kết hôn với một nhà văn viết tiểu thuyết người Anh (nhưng không ly dị vợ). Ông đã đi qua bốn châu lục, làm qua nhiều nghề, bao gồm nghề khai mỏ măngan, giám đốc một nhà bảo tàng nghệ thuật, chủ nhiệm khoa trong trường đại học y khoa, và tổ chức các công tác y tế. Người vợ (chính thức) của ông là một “nhà truyền giáo nhiệt thành”. Ông có 5 người con, mà cha của Wikky là người thứ hai. Có một người con trai theo nghề làm báo, một người viết chuyện khoa học viễn tưởng, một người làm việc cho đài truyền hình; một người con gái làm ca sĩ. Về bà con bên mẹ, người mẹ nói: “Bà con của tôi là những người rất bình thường”.
Wikky được nuôi dưỡng tốt; hai vùng chẩm và trán ở trên đầu đều nhô cao. Cậu có thêm một núm vú phụ ở vùng nách bên trái. X quang xương sọ bình thường. Amiđan to và gồ ghề.
Tại phòng khám, cậu đi lang thang không mục đích trong một lúc, sau đó ngồi xuống, phát âm những âm không rõ nghĩa, rồi đột ngột nằm dài ra và cười. Các câu hỏi hoặc yêu cầu, nếu có đáp ứng, thì đều theo kiểu nhại lời. Cậu bị các đồ vật lôi cuốn, và tỏ ra rất chú ý khi cầm nắm chúng. Dường như cậu xem mọi người như những kẻ xâm phạm không được mong muốn. Khi có người đặt một bàn tay phía trước mặt cậu khiến cậu không thể làm lơ được, cậu sẽ chơi với bàn tay này như thể đây là một đồ vật tách rời. Cậu chú ý ngay đến các sân khấu gỗ, chơi trên đó một cách tự nhiên, thích thú và thành thạo.
Vào tháng 9/ 1942, cậu vào học trường Devereux, và tiếp tục học tại đó cho đến tháng 8/1965. Nhà trường và Khoa của chúng tôi vẫn duy trì sự quan hệ chặt chẽ. Năm 1962, một báo cáo từ trường Devereux có ghi: “Ở tuổi 26, em là một người thụ động, dễ thương, sở thích chính là âm nhạc. Em ấy có thể tuân theo những thông lệ, và mặc dù chủ yếu sống trong thế giới riêng của mình, em vẫn thấy thích thú với những sinh hoạt nhóm nào mà em đặc biệt quan tâm”.
Wikky là thành viên của ban hợp xướng trong chương trình Ngày Của Cha Mẹ (Parent’s Day) và phụ trách các loa phóng thanh vào ngày lễ hội hằng năm. Cuối tuần, cậu có thể xuống phố một mình và tự mua sắm những thứ cần thiết.
Wikky, hiện gọi tên theo họ là Creighton, đã ở cùng cha mẹ trong 5 năm qua. Anh nay đã 34 tuổi. Sau khi rời trường Devereux, gia đình đã dành một năm sang Puerto Rico nơi mà “cháu học được nhiều tiếng Tây Ban Nha và theo một chương trình học ngoại ngữ qua máy thu thanh vào lúc 4 giờ mỗi chiều”. Gia đình sau đó đi sang Raleigh. Cha mẹ anh đã báo lại: “Chúng tôi chuyển đến một ngôi nhà mới và cháu cũng sống ở đó. Cháu đã quen biết những người hàng xóm và đôi lúc gọi điện thoại cho họ. Chúng tôi thử đưa cháu đến Xưởng Lao động Bảo trợ (Sheltered Workshop: Những xưởng lao động đặc biệt cho người khuyết tật, thiểu năng) và Trung tâm Dạy nghề ở Tỉnh. Cháu đã ham thích ngay, kết thân với các giáo viên và được một số học viên khác giúp đỡ. Qua các mối quan hệ ở đó, cháu đã học chơi bowling và chơi rất khá… Creighton được xưởng giao cho một công việc thường lệ là vận hành các máy đóng khuôn. Kể từ ngày 25/ 11/ 1969, cháu vào làm việc hằng ngày tại văn phòng của Cơ quan về Ô nhiễm Không khí Quốc gia (HEW)”. Một lá thư từ vị quyền giám đốc cơ quan ngày 29/ 4/ 1970 có ghi: “Creighton là một nhân viên xuất sắc về mọi tiêu chuẩn. Xuất sắc đối với tôi có nghĩa là đáng tin cậy, cẩn trọng và có quan tâm đến các đồng sự. Lúc nào Creighton cũng là người đáng cho người khác chú ý”.
Ca thứ 3
Richard M. được 39 tháng tuổi khi đưa đến Bệnh viện John Hopkins vào ngày 5/ 2/ 1941, với than phiền của người nhà là cháu bị điếc bởi vì “nó không nói chuyện và không đáp lại những câu hỏi của người khác”. Vị bác sĩ nhi khoa khám cho đứa trẻ đã báo cáo: “Đứa trẻ có vẻ khá thông minh, nằm trên giường chơi đồ chơi và có vẻ khá tò mò đối với các dụng cụ khám bệnh. Nó dường như khá tự lập trong khi chơi. Nó tuân theo các mệnh lệnh như ‘ngồi dậy’ hoặc ‘nằm xuống’, ngay cả khi nó không nhìn vào người nói. Nó không chú ý gì đến những lời nói chuyện xảy ra xung quanh, và mặc dù có thể phát được các âm thanh nhưng nó vẫn không nói được những từ có nghĩa”.
Cha của Richard là một giáo sư lâm học, rất say mê với công việc đến mức gần như không quan tâm đến các quan hệ xã hội bên ngoài. Mẹ tốt nghiệp đại học. Gia đình, cả bên nội và bên ngoại, đều gồm những người có nghề chuyên môn. Em trai của Richard được mô tả là một đứa trẻ bình thường và phát triển tốt.
Richard sinh bình thường, biết ngồi lúc 8 tháng và biết đi lúc 1 tuổi. Từ lúc 3 tuần tuổi, người mẹ bắt đầu “tập” cho trẻ bằng cách dùng một viên tọa dược (Suppository: thuốc nhét hậu môn) vào mỗi buổi sáng “để cháu biết đi tiêu đúng giờ”. Việc dinh dưỡng và tăng trưởng về thể chất diễn tiến thuận lợi.
Vào tháng 9/ 1940, người mẹ viết: “Tôi không thể biết chắc được khi nào thì cháu ngừng bắt chước những lời nói của người khác. Dường như về mặt tinh thần cháu đang bị thoái lùi. Chúng tôi nghĩ việc này là do cháu đã không bộc lộ được những gì bên trong đầu của cháu, dù trong ấy vẫn ổn cả. Giờ thì cháu đã phát được rất nhiều âm thanh, nhưng điều này khiến chúng tôi bối rối vì rõ ràng là cháu vẫn không biết nói. Trước đây, tôi nghĩ rằng rằng sau này cháu sẽ biết nói. Cháu gây cho tôi ấn tượng về một sự thông thái thầm lặng… Một điều đáng hoang mang và nản lòng là rất khó có thể gây được sự chú ý của cháu”.
Richard được thấy là có sức khỏe tốt, ngoại trừ các amiđan và V.A. sưng to, và đã được cắt bỏ vào ngày 8/ 2/ 1941. Điện não đồ bình thường.
Cậu sẵn lòng để người nhà dẫn đến phòng khám và ngay lập tức chủ động chơi với các đồ chơi, chẳng để ý gì đến ai trong phòng. Thỉnh thoảng, cậu nhìn lên tường, cười và phát ra những âm thanh thô ngắn. Cậu làm theo yêu cầu bằng lời nói và cử điệu bảo cậu cởi dép (sau đó đôi dép lại được mang vào). Khi yêu cầu được nói mà không dùng kèm cử điệu, cậu lại cởi bỏ đôi dép lần nữa.
Richard được khám lại vào lúc 4 tuổi rưỡi. Cậu tăng trưởng khá đáng kể và thừa cân. Cậu lập tức tắc mở các ngọn đèn. Cậu chẳng chú ý gì đến người khám hoặc bất cứ ai khác nhưng lại rất chú tâm đến một chiếc hộp nhỏ và tung ném cái hộp như thể đó là một trái banh.
Lúc gần 5 tuổi, động tác đầu tiên của cậu khi bước vào phòng khám là tắc mở các ngọn đèn. Cậu leo lên một chiếc ghế, và từ ghế leo lên bàn làm việc để với tay chạm đến công tắc của bóng đèn treo tường. Cậu không tiếp xúc với người khác, mà rõ ràng xem đây như những kẻ quấy rầy khi họ nói với cậu hoặc muốn gây sự chú ý của cậu.
Người mẹ cảm thấy mình không có khả năng quản lý con mình, và cậu được vào một nhà giữ trẻ do một phụ nữ có tài đặc biệt trong việc trông nom những đứa trẻ khó nuôi. Sau khi thay đổi hai nhà giữ trẻ, cậu được đưa vào một trường dạy trẻ cá biệt của tiểu bang vào tháng 5/ 1946. Một báo cáo đề ngày 23/ 6/ 1954 có ghi: “Nhà trường nhận đứa trẻ này chủ yếu là để trông giữ (Nguyên văn: “…as essentially a custodial problem…”), vì vậy, cháu được bố trí vào một nhóm trẻ có cùng chế độ chăm sóc như vậy”.
Richard nay đã được 33 tuổi. Vào năm 1964, cậu được chuyển sang một viện khác cùng tiểu bang. Vị giám thị đã viết vào ngày 29/ 9/ 1970: “Vào lúc nhập viện, các thuốc an thần đã được sử dụng nhiều đến mức có thể gây ngộ độc. Sau 3 tháng, đứa trẻ đã biểu hiện sự nhận biết môi trường xung quanh, bắt đầu biết chăm sóc và tự đi nhà vệ sinh. Hiện cậu vẫn được dùng thuốc Compazine, 45mg, 3 lần mỗi ngày… Được bố trí ở trong một căn nhà dành cho những bệnh nhân lớn tuổi có thể tự chăm sóc những nhu cầu của bản thân. Cậu có đáp ứng khi được gọi tên và làm theo một số yêu cầu đơn giản, biết một số cách giao tiếp không dùng lời nói với những nhân viên ở đó. Cậu vẫn tiếp tục khép kín và không tham gia vào bất cứ hoạt động có tổ chức nào cả”.
Ca thứ 4
Paul G. được 5 tuổi khi đến Khoa chúng tôi vào ngày 21/ 3/ 1941, nhằm để “xác định mức độ đần độn của cháu”. Đứa trẻ có tiền sử sinh bình thường. Các mốc phát triển lúc đầu đều diễn ra thuận lợi. Phát âm rõ ràng và có một vốn từ khá nhiều.
Cha, một kỹ sư khoáng sản, đã rời gia đình vào năm 1939 “sau một cuộc hôn nhân không hạnh phúc”. Người mẹ, một “phụ nữ hay bồn chồn, bất ổn định và cáu kỉnh” rời Luân Đôn sang Hoa Kỳ, đã kể lại một câu chuyện khá mâu thuẫn về những cố gắng của bà nhằm giúp cho Paul trở nên thông minh hơn bằng cách dậy nó nhớ những bài thơ và bài hát. Lúc 3 tuổi “cháu biết được lời của hơn 37 bài hát và nhạc thiếu nhi”.
Paul là đứa bé mảnh khảnh, dễ nhìn. Cậu bé rất khéo tay. Hiếm khi cậu đáp ứng với lời nói, cả khi được gọi tên. Đôi khi một giọng nói mạnh mẽ bảo “Đừng” có thể khiến cậu ngưng hành động đang làm, nhưng thường thì khi được nói đến, cậu vẫn tiếp tục những gì mà cậu đang làm. Cậu luôn luôn hoạt bát bận rộn làm một việc gì đó và có vẻ rất tự thỏa mãn với chính mình, trừ khi có ai đó cố can thiệp vào chuyện của cậu. Khi bị can thiệp, đầu tiên cậu sẽ tránh né, nhưng nếu không tránh được cậu sẽ la hét hoặc lên cơn nổi cáu thực sự… Có một sự trái ngược rõ ràng giữ cách quan hệ của cậu với người và với đồ vật. Ngay khi bước vào phòng, cậu đến các món đồ chơi và sử dụng chúng thật đúng cách. Cậu mở một cái hộp, lấy ra một điện thoại đồ chơi, hát đi hát lại “nó muốn một cái điện thoại”, và đi quanh phòng tay cầm điện thoại với ống nghe và ống nói đặt đúng vị trí. Cậu cầm kéo cắt một miếng giấy thành nhiều mảnh nhỏ rồi hát nhiều lần “cắt giấy”. Cậu cầm một động cơ đồ chơi, giơ cao và chạy quanh phòng, hát đi hát lại câu “cái máy đang bay”. Một số lời nói của cậu không liên quan gì đến tình huống đang xảy ra. Ví dụ: “Người ta ở trong khách sạn”, “Mày có đau chân không?”, “Kẹo hết rồi”. Việc nêu lên những chú ý về các thương tích ở thân thể chiếm một phần quan trọng trong các lời nói của đứa trẻ. Tất cả các câu nói về bản thân mình đều được gọi dưới hình thức ngôi thứ hai, như thể cậu đang lập lại lời nói của người khác đã nói với cậu trước đó. Khi muốn ăn kẹo, cậu nói: “Mày muốn kẹo”; rút tay khỏi lò sưởi đang nóng, cậu nói: “Mày bị đau”.
Khi người mẹ sang Mỹ, bà giao Paul cho một phụ nữ đang quản lý một ngôi nhà nhỏ nuôi những trẻ chậm phát triển. Bà rời xa con một thời gian vào khoảng cuối năm 1941. Bà gửi một lá thư đầy vẻ thiện chí đến Khoa chúng tôi nhưng không duy trì các cuộc hẹn sau đó. Bà đến tư vấn BS. Walter Kingman năm 1941, BS. Samuel Orton năm 1943, đưa Paul vào trường Devereux năm 1945, nhưng lại quyết định rằng đây không phải là nơi thích hợp cho Paul. Dấu vết của hai mẹ con kết thúc tại đây, và từ đó người ta không còn biết được chỗ ở của họ.
Ca thứ 5
Barbara K. được 8 tuổi trong lần gặp đầu tiên tại Khoa vào ngày 7/ 2/ 1942. Người cha, một thầy thuốc nổi tiếng, đã ghi chú như sau:
“Con đầu lòng, sinh thường ngày 30/ 10/ 1933. Bú kém và phải bú bình sau 1 tuần tuổi. Lúc 3 tháng, hoàn toàn bỏ bú. Được nuôi bằng ống thông mỗi ngày 5 lần cho đến 1 tuổi. Từ đó, cháu bắt đầu ăn, mặc dù rất khó khăn, cho đến 18 tháng tuổi. Kể từ đó, ăn tốt, thích thử và nếm thức ăn, nay thích việc nấu nướng… Vốn từ bình thường lúc 2 tuổi, nhưng luôn chậm trong việc ghép từ thành câu. Có khả năng đánh vần, đọc và viết tốt, nhưng vẫn khó khăn trong việc diễn đạt bằng lời nói. Không thể làm toán ngoại trừ khi phải dụng công để nhớ… Lập đi lập lại như một đứa bé con và nay vẫn còn tính cách ám ảnh; cầm đồ vật trên tay, đem đồ vật vào giường ngủ, lập lại những câu nói, bám chặt lấy những ý nghĩ hoặc trò chơi nhưng tiến hành khó khăn, rồi lại chuyển sang một thứ khác. Cháu thường qquen dùng chữ ‘mày’ để chỉ bản thân mình và ‘tôi’ để chỉ mẹ cháu hoặc tôi (người cha), như thể cháu đang nói những điều mà chúng ta sẽ nói khi nói chuyện với cháu… Rất e ngại, sợ các sự vật bị thay đổi đi, sợ gió và các thú vật lớn, vv… Rất thụ động, nhưng đôi lúc lại trây lì ương bướng. Nếu nghe tiếng ai (cháu thực sự nghe được!) cũng không màng chú ý xem người nói ở đâu. Không có tinh thần tranh đua, không có ước muốn làm vui lòng giáo viên. Nếu cháu có biết thêm điều gì về ai đó trong lớp học, thì cháu cũng chẳng tỏ ra có dấu hiệu gì là cháu biết, chỉ yên lặng, thậm chí có lẽ không nghe gì cả… Tại trại hè vừa qua, cháu được mọi người yêu thích, học bơi, và rất vui vẻ khi xuống nước (trước đó cháu luôn có động tác lúng túng), hết sợ ngựa con, chơi tốt với những trẻ con 5 tuổi. Tại trại hè, cháu bị suy dinh dưỡng và thiếu các vitamin nhưng hầu như chẳng buông lời than phiền nào”.
Mẹ Barbara là một phụ nữ tử tế và được giáo dục tốt. Có một em trai sinh năm 1937, khỏe mạnh, năng động và phát triển tốt.
Barbara biết “bắt tay” khi được yêu cầu (đưa tay trái chứ không đưa tay phải) chỉ bằng cách đưa tay về hướng của người đang đưa tay ra với nó, một động tác thiếu hẳn ý nghĩa là để chào hỏi. Trong suốt buổi khám, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy đứa trẻ có sự quan hệ về cảm xúc. Một mũi kim chích vào tay làm cô bé rút tay lại, tỏ vẻ sợ sệt nhìn cây kim (chứ không nhìn người khám), và thốt lên “Đau”, không có vẻ gì là đang nói với ai cả.
Cô bé đọc rất tốt, có thể đọc xong câu chuyện đám cháy trong trắc nghiệm trẻ 10 tuổi của Binet (Tác giả các trắc nghiệm đo lường trí thông minh của trẻ em) trong vòng 33 giây mà không có lỗi nào. Trong các bức tranh của Binet, cô không thấy (hoặc ít nhất là không báo cáo) một hành động hoặc một mối liên hệ nào giữa các chi tiết đơn lẻ, những chi tiết mà cô có thể liệt kê ra không mấy khó khăn. Chữ viết dễ đọc. Các bức vẽ của cô có tính rập khuôn và thiếu trí tưởng tượng. Cô quen dùng tay phải để viết, tay trái để làm các việc khác; thuận chân trái và thuận mắt phải.
Cô biết được các ngày trong tuần. Cô bắt đầu gọi tên chúng “Thứ bảy”, “Chủ nhật”, “Thứ hai”, rồi nói “Mày tới trường” (nghĩa là “vào ngày thứ hai”), sau đó ngưng nói như thể việc làm đã hoàn tất.
Trong suốt thời gian khám, cô thường tự động viết ngoáy những chữ như “cam”, “chanh”, “chuối”, “nho”, “sơ-ri”, “táo”, “mơ”, “quít”, “bưởi”, “dưa hấu”; các chữ viết đôi khi chồng lên nhau và rõ ràng là không phải viết ra để người khác đọc.
Người mẹ lưu ý: “Cháu mê mẫn những thứ phụ vặt, như là một cái ống khói hoặc một con lắc”. Người cha trước đó cho biết: “Gần đây có quan tâm đến giới tính, leo tường khi chúng tôi đi tắm, và thích thú nhà vệ sinh một cách có tính ám ảnh”.
Barbara được đưa vào trường Devereux mùa hè năm 1942 và ở đó cho đến tháng 6/ 1952 thì được chuyển vào Bệnh viện Springfield của tiểu bang (Maryland) và cô hiện vẫn còn đang ở đó. Năm nay cô đã 37 tuổi. Một bản ghi chú của bác sĩ điều trị cho cô tại khoa ngày 8/10/1970 ghi: “Cô vẫn có kiểu cười rập khuôn, vẻ mặt giống như một bé gái với động tác nhe miệng không diễn cảm, một giọng nói giống trẻ nít khi thốt ra những lời lập đi lập lại như vẹc. Mỗi khi tôi đi ngang qua khoa phòng của cô, cô đều chào hỏi tôi như sau: ‘Bác sĩ, có lần tôi đã đấm ông một cái, ông biết không?’ Cô thường đi rất sát vào tác giả khi ông theo cô vào phòng khám… Cô vẫn còn thiếu hoàn toàn khả năng đặt câu nói một cách tự nhiên; vẫn những câu tương tự được dùng đi dùng lại với cùng một ngữ điệu không đổi. Tâm trí cô như bị cố định vào những chủ đề không đổi, mà nó có thể hơi biến đổi một mức độ nào đó tùy theo người mà cô đang giao tiếp. Ngoài những việc này ra, cô vẫn như một đứa trẻ, bốc đồng, dễ lên cơn nổi cáu, giẫm chân, la hét và gây phiền phức cho những bệnh nhân khác. Trí nhớ của cô gần như còn nguyên vẹn. Cô thích hát một số giai điệu với một giọng hát đơn điệu tẻ nhạt, bất cứ khi nào cô thích hát, cô thường nện mạnh vào chiếc đàn piano những bài hát mà cô đã biết”.
Ca thứ 6
Virginia S. sinh ngày 13/ 9/ 1931, được đưa vào trường dạy trẻ chậm phát triển của tiểu bang từ năm 1936. BS. Esther L. Richards, người khám cho cô bé ở đó đã viết vào tháng 5/1941: “Virginia nổi bật lên trong đám trẻ bởi vì cháu hoàn toàn khác biệt hẳn so với bất kỳ đứa trẻ nào khác. Cháu sạch sẽ và ngăn nắp, không chơi với các bạn, dường như không điếc nhưng lại không nói. Cháu tự vui một mình bằng cách ngồi chơi xếp hình trong nhiều giờ, không bỏ dở trò chơi đến khi các hình được xếp xong. Tôi đã thấy cháu chơi với một chiếc hộp chất đầy những mẫu rời của hai bộ xếp hình và đã dần dần lọc loại ra từng mẫu riêng cho mỗi bộ. Tất cả các dấu hiệu nơi cháu về bản chất có vẻ là một tình trạng bất thường bẩm sinh”.
Virginia là con gái của một bác sĩ tâm thần, người đã tự nói về mình: “Tôi chẳng bao giờ thích trẻ con, có lẽ là một phản ứng về phần tôi đối với sự bó buộc phải ở một chỗ, bị gián đoạn công việc và bị tiếng ồn ào quấy rầy”. Về phần vợ mình, ông nói: “Cô ấy chẳng có vẻ gì là một người mẹ cả. Thái độ của cô ấy (đối với một đứa trẻ) giống như đối với một con búp bê hay một con vật nuôi trong nhà hơn bất cứ thứ gì khác”. Anh trai của Virginia, lớn hơn cô 5 tuổi, cũng được đưa đến với chúng tôi vì lý do bị nói lắp nặng lúc 15 tuổi. Cậu đã bậc khóc khi chúng tôi hỏi về những chuyện xảy ra ở nhà và nói nức nở: “Cha tôi chỉ có việc để làm với tôi khi ông quở trách khi tôi đã làm sai điều gì đó”. Mẹ cậu lại càng ít tham gia hơn nữa. Cậu cảm thấy suốt đời mình chỉ sống trong bầu “không khí lạnh lẽo” với hai người xa lạ không thể gần gũi được.
Vào tháng 8/ 1938, nhà tâm lý của trường quan sát thấy rằng Virginia “chẳng hề chú ý đến những gì người khác nói với cô nhưng có thể nhanh chóng hiểu được những gì người khác trông mong ở cô. Hiệu quả học tập của cô phản ánh sự sáng suốt, thận trọng và chính xác”. Với các tiết mục không dùng lời nói trong trắc nghiệm trí thông minh cô đạt được một chỉ số IQ là 94. “Không nghi ngờ gì nữa, trí thông minh của cô là rất tốt về mặt này… Cô bé hay im lặng, nghiêm nghị và trầm tĩnh. Không một lần nào tôi trông thấy cô cười. Cô tự rút lui vào chính mình, tách biệt với những người khác. Cô dường như đang ở trong một thế giới riêng, lãng quên mọi thứ nhưng lại là trung tâm của sự chú ý khi ở vào tình huống phải có trách nhiệm. Cô bé hầu như rất độc lập và không cần đến ai. Khi có ai đó xâm phạm đến sự toàn vẹn của cô, cô chịu đựng họ với vẻ thờ ơ xa cách. Không có biểu hiện gì về sự thân thiện hoặc thích thú với con người. Mặt khác, cô lại thấy thích thú khi cư xử với những đồ vật, với chúng cô tỏ ra có trí tưởng tượng và biết cách bắt đầu”.
Khi được khám ngày 11/ 10/ 1942, Virginia là một bé gái cao, mảnh khảnh, ăn mặc tề chỉnh. Cô bé đáp ứng khi được gọi bằng cách ngồi dậy, tiến đến gần nhưng không hề nhìn vào người đã gọi cô. Cô chỉ đứng ơ thờ, nhìn vào khoảng không. Thỉnh thoảng, khi trả lời những câu hỏi, cô thì thầm “Mẹ, em bé”. Khi một nhóm trẻ đứng xung quanh chiếc đàn piano, một trẻ ngồi chơi đàn còn những đứa khác thì hát, cô bé đã đứng trong đám trẻ, dường như chẳng chú ý đến điều gì và tạo cho ta ấn tượng cô chỉ quan tâm đến bản thân mình mà thôi. Cô dường như cũng không chú ý đến cả khi bọn trẻ ngưng hát. Khi nhóm trẻ giải tán, cô không thay đổi vị trí của mình và dường như không nhận ra sự thay đổi quang cảnh xung quanh. Cô có một diện mạo thông minh, dù biểu hiện của đôi mắt có vẻ buồn bã.
Virginia nay sắp sửa 40 tuổi vào tháng 9 tới (Tức tháng 9/ 1971 - N.D.). Cô đã được chuyển đến Bệnh viện Henryton của tiểu bang. Bản báo cáo từ nơi đó vào ngày 2/ 11/ 1970, ghi: “Cô đang ở trong một chương trình dành cho những người lớn bị chậm phát triển. Cô có thể nghe, tuân theo những chỉ dẫn và hướng dẫn. Cô có thể phân biệt các màu sắc và có thể nói được giờ giấc. Có thể tự chăm sóc các nhu cầu cơ bản của bản thân, nhưng phải bảo mới làm. Virginia thích trò chơi xếp hình và làm diều đó rất tốt, chỉ thích làm một mình. Cô có thể ủi quần áo. Cô không thể nói, chỉ dùng những tiếng kêu và cử chỉ, nhưng dường như hiểu được khi quan hệ. Cô muốn ở một mình hơn là quan hệ với những bệnh nhân khác”.
Ca thứ 7
Herbert B. được mẹ đưa đến Khoa vào ngày 5/ 2/ 1941.
Sinh ngày 18/ 11/ 1937, hai tuần trước ngày dự sanh bằng cách mổ bắt con; từ lúc sinh ra cho đến 3 tháng tuổi, đứa trẻ ói ra tất cả thức ăn được đưa vào. Sau đó, việc dinh dưỡng diễn ra thuận lợi. Biết ngồi lúc 8 tháng, nhưng không biết đi mãi cho đến 2 tuổi, khi đó cậu bé “đột ngột đứng dậy và đi mà trước đó không cần có giai đoạn bò hoặc đứng vịn ghế”. Cậu thường hay từ chối uống nước chứa trong bất kỳ loại vật đựng nào ngoại trừ những vật được làm hoàn toàn làm bằng thủy tinh. Có lúc người ta tin rằng cậu bị điếc bởi vì “khi được người khác nói đến, cháu không mảy may thay đổi vẻ biểu hiện và cũng không có cố gắng nào để nói chuyện”. Cậu trở nên bực bội khi các khuôn mẫu quen thuộc bị thay đổi dưới bất kỳ hình thức nào. “Khi thấy có sự thay đổi, cháu la om sòm và khóc lóc, nhưng tự cháu lại thường hay kéo lên kéo xuống các bức rèm che cửa, đóng mở các cửa ra vào, và xé các hộp đựng bằng giấy các-tông thành những mảnh nhỏ rồi chơi với chúng trong nhiều giờ”.
Cha mẹ cậu ly thân một thời gian ngắn sau khi cậu ra đời. Người cha, một bác sĩ tâm thần, được mô tả là “thông minh hơn người, nhạy cảm, năng động, nghiêm túc, không quan tâm đến người khác, hầu như chỉ thích sống với bản thân mình”. Mẹ, một bác sĩ nhi khoa, tự nói về mình như là một người “đầy nghị lực và cởi mở, ưa thích mọi người nhưng không có nhiều khả năng trực giác về các vấn đề của họ”. Herbert là con út trong số 3 người con. Người mẹ còn giữ lại những quyển nhật ký đồ sộ viết về từng đứa con của bà, đặc biệt là đứa con gái sinh năm 1934 mà trong vài năm đầu đã “muốn ở một mình, giả lơ người khác, khi nói đảo lộn đại từ xưng hô, đầu tiên được xem là đần độn, sau đó được chẩn đoán là tâm thần phân liệt, nhưng rồi lại phát triển lành mạnh sau khi cha mẹ ly thân”. Vào lúc Herbert đến khám lần đầu tiên tại Khoa, đứa con gái được đến trường học, có chỉ số IQ là 108, và “mặc dù còn nhạy cảm và khá lo lắng, nó vẫn quan tâm đến người khác và quan hệ tốt với họ”.
Herbert có một diện mạo rất khôi ngô và khả năng điều phối động tác rất tốt. Cậu thể hiện một khả năng đáng ngạc nhiên trong việc theo đuổi các mục đích mà cậu tự lựa chọn. Trong một đám các hình khối, cậu nhận ra ngay những khối nào gắn được vào bảng và khối nào có thể tháo rời được. Cậu có thể chồng một tháp hình khối rất thành thạo và có chiều cao ngang bằng với hình tháp được làm bởi bất cứ đứa trẻ nào cùng tuổi, thậm chí hơn cả tuổi của cậu. Cậu rất bực tức khi bị người khác can thiệp, xô đẩy kẻ xâm phạm ra chỗ khác (mà không nhìn vào mặt họ), hoặc sẽ la hét khi việc xô đẩy này không có tác dụng.
Cậu được khám lại lúc 4 tuổi rưỡi và lúc 5 tuổi. Cả hai lần cậu đều bước vào phòng khám mà không mảy may chú ý gì đến những người hiện diện ở đó. Cậu bước ra sau tấm bảng gắn hình, rồi luôn tay gắn các hình lên thật đúng vị trí, rồi lại tháo gỡ chúng ra một cách nhanh chóng và khéo léo. Khi bị ai can thiệp, cậu tỏ vẻ mất kiên nhẫn và khóc. Khi một hình nào đó bị lén lấy đi ra khỏi tấm bảng, cậu nhận ra ngay sự thiếu sót ấy, trở nên bối rối, nhưng sẽ quên ngay tất cả khi hình được gắn trả lại. Lúc đã ổn định lại, có vài lần cậu nhảy lên nhảy xuống với một vẻ sung sướng xuất thần. Cậu hoàn toàn bị cuốn hút vào những gì mà cậu đã làm. Cậu chẳng bao giờ cười. Đôi khi cậu cũng phát ra những âm thanh thiếu mạch lạc dưới dạng một bài hát đơn điệu tẻ nhạt. Có một lúc, cậu đánh vào chân người mẹ và dùng môi chạm vào đó. Cậu cũng thường đưa các hình khối và các vật khác chạm vào môi. Có một sự giống nhau gần như là một “ảnh chụp” về các hành vi của cậu giữa hai lần khám đó.
Sau một thời gian ngắn ở tại Cơ sở Emma Pendleton Bradley, tại Rhode Island, và một cơ sở khác tại Twin Maples, (“một trường dành cho trẻ có vấn đề”) Baltimore, cậu được mẹ đưa đến chỗ ông bà Moreland, hai người này có một trang trại ở Maryland. Ngay từ đầu, cậu đã có vẻ sung sướng khi được ở đó. Cậu đi theo người chủ trại làm việc và phụ giúp ông ta “làm các việc trong kho thóc”. Bà Moreland báo cáo vào tháng 10/ 1950: “Cháu đã biết đi lại trong các khu vực gần nông trại, có thể đi xa nhiều dặm và trở về mà không bị lạc đường. Cháu học cách cưa gỗ, sử dụng máy xén cỏ chạy bằng điện, vun lại bãi cỏ, bày bàn ăn một cách hoàn hảo, và chơi trò xếp hình trong thời gian rãnh rỗi. Cháu là một đứa trẻ ngoan và dễ dạy bảo. Thỉnh thoảng cháu bị bực bội khi các dự định thình lình bị thay đổi… Khi mẹ đến thăm, cháu chỉ chú tâm đến chính mình và không đến với mẹ”. Sau cái chết của ông Moreland, người vợ quá của ông đã mở ra một nhà nuôi người già. Herbert ở lại với bà, giúp dẫn những cụ bà đi dạo ngoài trời, mang khay đựng vật dụng đến phòng cho họ nhưng chẳng bao giờ nói chuyện.
Mẹ của cậu, sau thời gian làm việc như một nhân viên sức khỏe công cộng tại Maryland, đã dành ra vài năm (1953-1958) để ra nước ngoài – bà đến Iraq và Hy Lạp. Lúc trở về, bà nhận việc tại Atlanta, bang Georgia. Bà mất vào năm 1965.
Herbert năm nay 33 tuổi. Cha cậu đã viết vào ngày 5/ 1/ 1971 rằng: “Cháu vẫn còn ở với mọi người tại Maryland. Đã vài năm không gặp cháu, nhưng tôi có thể nói rằng cháu vẫn chẳng có thay đổi gì quan trọng. Hơn bất cứ thứ gì khác, cháu chỉ thích chơi trò xếp hình, trò chơi mà cháu làm với kỹ năng tốt nhất”.
Một lá thư do người mẹ viết một thời gian ngắn trước khi bà chết có lời than thở như sau: “Cuộc hôn nhân của chúng tôi dường như đã tạo ra ba đứa con bị què quặt về tâm lý. Dorothy sau một cuộc hôn nhân đầy thảm họa đang ở nhà với một đứa con gái bé nhỏ và đang cố tự lực bằng công việc điều dưỡng làm bán thời gian tại một bệnh viện địa phương. Dave đang ở Bờ Tây và mỗi tháng tiêu tốn của tôi hết 450.000 đôla vì phải điều trị bệnh tâm thần”.
Dorothy là người bảo hộ của Herbert theo luật định.
Ca thứ 8
Alfred L. được mẹ đưa đến Khoa vào tháng 11/ 1935, lúc 3 tuổi rưỡi với biểu hiện: “Cháu dần dần có khuynh hướng hình thành một mối quan tâm đặc biệt lấn át hết cả các hoạt động thường ngày. Cháu ít nói về điều gì khác khi mối quan tâm ấy hiện diện, cháu cáu kỉnh khi không thể thụ hưởng được điều đó và khó có thể gợi được sự chú ý của cháu vì nó mãi bận rộn với chuyện này… Cũng có vấn đề quá gắn bó với các đồ vật và không có khả năng hình thành một số những nhận thức về mặt xã hội… Ngôn ngữ phát triển chậm và dường như cháu cũng chẳng hề quan tâm. Cháu ít khi kể về những việc cháu đã trải qua. Cháu vẫn lẫn lộn giữa các đại từ. Chẳng bao giờ đặt được câu hỏi để hỏi. Từ khi nói được, cháu có khuynh hướng lập đi lập lại mãi một từ hoặc một câu nào đó. Cháu chẳng bao giờ nói một câu mà không lập đi lập lại nhiều lần. Hôm qua, khi xem một bức tranh, cháu đã nói nhiều lần câu: ‘Mấy con bò đứng trong nước’. Chúng tôi đếm được có đến 50 lần cháu lập lại, rồi nó ngưng lại và bắt đầu lập lại câu nói… Cháu bực bội khi bánh mì được đặt lên lò để làm thành bánh mì nướng, lo sợ nó sẽ bị phỏng và đau. Cháu cũng khó chịu khi mặt trời lặn hoặc khi thấy mặt trăng không luôn luôn xuất hiện trên bầu trời mỗi đêm. Cháu thích chơi một mình; cháu rời khỏi bộ dụng cụ thể dục ngay khi có đứa trẻ khác đến gần. Cháu thích dùng những chiếc hộp lớn làm thành một vật gì đó (như một chiếc xe đẩy chẳng hạn) và không muốn ai can thiệp vào”.
Alfred sinh ngày 20/ 6/ 1932. Trong hai tháng đầu, “Chế độ dinh dưỡng khiến người khác phải lưu tâm nhiều, nhưng từ sau đó nó tăng câu nhanh chóng và trở nên lớn con hơn bình thường”. Biết ngồi lúc 5 tháng và đi lúc 14 tháng tuổi. Nói từ đầu tiên lúc 1 tuổi. Lúc 22 tháng tuổi, nuốt phải những miếng bông từ con thỏ Phục Sinh làm bằng vải, một ít bị mắc vào khí quản khiến cậu phải được gây mê và mở khí quản để thở.
Là con một. Cha, một nhà hóa học và luật sư mới tốt nghiệp, được mô tả là “người đa nghi, dễ nổi giận, dành thời gian rãnh để đọc sách, làm vườn và câu cá, rất miễn cưỡng khi thăm viếng bạn bè”. Mẹ, một nhà tâm lý lâm sàng, “có tính ám ảnh và dễ kích động”, là phụ huynh duy nhất tại Khoa chúng tôi không cho phép ai ghi chép lại điều gì khi bà khai bệnh sử. Bà rời bỏ chồng 2 tháng sau khi Alfred ra đời, cả hai về sống với ông bà ngoại, tại một ngôi nhà mà người mẹ điều hành một nhà trẻ và mẫu giáo. Ông ngoại, một nhà tâm lý, cũng có tình trạng ám ảnh – thúc ép (Obsessive-compulsive) trầm trọng, và có tình trạng máy cơ (Tics) rất nhiều.
Alfred, khi đến phòng khám, chụp ngay một chiếc xe lửa trên tủ đồ chơi, lấy ra, gắn chiếc xe lửa vào chiếc xe hơi, rồi tháo ra bằng một cách thức rất đơn điệu. Cậu cứ nói mãi nhiều lần “Thêm xe lửa – Thêm xe lửa”. Cậu “đếm” những cửa sổ xe hơi “Một, hai cửa sổ, bốn cửa sổ, tám cửa sổ”. Không ai có thể khiến cậu rời khỏi những chiếc xe lửa. Một trắc nghiệm Binet được thử cho cậu làm trong một căn phòng không để những chiếc xe lửa. Điều đó đã có thể làm được sau nhiều khó khăn để phá vỡ những quan tâm bận rộn của cậu. Cuối cùng cậu cũng đã thực hiện được và rõ ràng là cậu muốn làm để giải quyết cho xong sự xâm phạm này. Cậu đạt được chỉ số IQ bằng 140.
Người mẹ không đưa cậu trở lại sau lần khám đầu tiên ấy bởi vì “cháu vẫn tiếp tục căng thẳng khi gặp với thầy thuốc”. Tháng 8/ 1938, khi được yêu cầu, bà đã gửi cho chúng tôi một lá thư trong đó có những dòng sau: “Cháu được người ta gọi là con sói cô độc. Cháu thích chơi một mình và thường tránh né những nhóm trẻ con đang vui chơi. Cháu không chú ý đến người lớn trừ khi muốn đọc truyện. Cháu tránh né sự ganh đua. Cháu đọc cho chính mình nghe những câu chuyện đơn giản. Cháu rất sợ bị đau đớn; cháu nói rất nhiều về việc sử dụng ghế điện”.
Đứa trẻ được khám lại vào tháng 6/ 1941. Cha mẹ cậu đã quyết định trở lại sống chung. Trước thời điểm đó, Alfred đã trải qua 11 trường học khác nhau. Cậu thường phải nằm nhà vì bị cảm cúm, viêm phế quản, thủy đậu, chốc lở, và một tình trạng bệnh mơ hồ mà người mẹ cho là bệnh thấp (Rheumatoid fever).
Alfred rất nghiêm trang và dễ căng thẳng; nếu không vì giọng nói còn vẻ trẻ trung, cậu có thể gây cho ta ấn tượng về một ông cụ non hay lo lắng. Cùng thời gian đó, cậu có vẻ bồn chồn và biểu hiện một áp lực đáng kể khi nói chuyện, những lời nói của cậu bao gồm nhiều câu hỏi có tính ám ảnh về các cửa sổ, những bóng râm, những căn phòng tối, đặc biệt là phòng chụp phim X quang. Cậu chẳng bao giờ cười. Giữa những lúc ấy, cậu thường trả lời những lời hỏi, mà thường là theo kiểu lập đi lập lại. Cậu luôn luôn có vẻ đặc trưng rất cầu kỳ trong những cách định nghĩa của mình. Một bong bóng là cái “được làm từ cao su, có không khí bên trong, có một ít khí, đôi khi chúng bay lên, đôi khi có thể được cầm trong tay và khi có một lỗ thủng nó sẽ bị xẹp lại. Nếu người ta bóp nó, nó sẽ bị vỡ. Có đúng không?”. Hổ là “một con thú, có vằn, giống một con mèo, có thể cào cấu, ăn thịt người, hoang dã, sống trong rừng thẳm, đôi khi ở trong các rừng nhỏ, hầu như sống trong rừng thẳm. Có đúng không?”. Có lần cậu ngưng lại và hỏi, một cách rất rắc rối, là tại sao cái tên “Bệnh viện John Hopkins” lại được in trên hồ sơ bệnh án: “Tại sao họ phải làm như vậy?”. Bởi vì hồ sơ bệnh án được ghi lại bên trong bệnh viện này, tại sao cần phải ghi cái tên của bệnh viện trên mỗi phiếu ghi hồ sơ, mặc dù người ghi hồ sơ biết rõ là ông ta đang ngồi viết ở đâu cơ mà? Người khám, một người mà cậu còn nhớ từ lần khám trước đó 6 năm, chẳng là gì khác ngoài một người ngồi đó để trả lời những câu hỏi đầy vẻ ám ảnh của cậu về bóng tối và ánh sáng.
Lần khám này kết thúc sự tiếp xúc giữa Alfred và Khoa chúng tôi. Người mẹ bắt đầu đưa cậu đi “du lịch” một vòng qua các trường học và bệnh viện, mà chẳng thông báo gì cho các nơi này biết về những lần khám trước, rồi sau một thời gian bà lại dẫn đứa trẻ đi tiếp nơi khác mà không cho biết bước kế tiếp bà dự định sẽ làm gì. Chúng tôi biết được cậu đã vào học trường V.V. Anderson ở thành phố Strasburg-on-Hudson, N.Y. (1948-1950); trường Taylor Manor ở thành phố Ellicot, Md. (tháng 7 đến tháng 10/1954); và Khoa Tâm – Thần kinh Bệnh viện Philadelphia (3/ 3 đến 20/4/1955). Trong khoảng thời gian giữa hai nơi cuối, có lúc cậu được cho sử dụng thuốc Thorazine; rồi vào học tại một “trường dành cho trẻ em bị tổn thương não” do chính mẹ cậu thành lập vào tháng 10/ 1954.
Alfred nay 38 tuổi. Anh ta vẫn còn ở “trường học” của người mẹ. Tại hai bệnh viện Sheppard-Pratt và Philadelphia, anh ta rất thích các dụng cụ dùng trong lao động liệu pháp (Occupational therapy) và đã sử dụng chúng rất tốt. Khi điều này làm cho người mẹ chú ý đến, bà lại quyết định đưa Alfred đi khỏi những nơi này.
Ca thứ 9
Charles N. được mẹ đưa đến vào ngày 2/ 2/ 1943, với lời khai: “Điều làm tôi khổ sở nhất là tôi không thể nào đến gần con tôi được”.
Chào đời ngày 9/ 8/ 1938. Là đứa con được mong muốn. Biết ngồi lúc 6 tháng; và lúc 14 tháng thì “một hôm, cháu đứng dậy và đi được”. Khi còn ở tuổi nhũ nhi, cậu bé rất “chậm chạp và lạnh lùng”. Cậu nằm trong nôi như thể đang bị thôi miên. Bác sĩ cho dùng trích tinh tuyến giáp trạng nhưng không có tác dụng gì.
Cậu là đứa đầu tiên trong ba đứa con. Ông N., tốt nghiệp trung học, là một thương gia buôn áo quần, được mô tả là một người “tự thân thành đạt, nhẹ nhàng và trầm tĩnh”; họ hàng bà con của ông là những người “bình thường, đơn giản”. Bà N., người “rất bình thản thư thái”, có một lý lịch thành công trong kinh doanh, đang điều hành phòng bán vé của một nhà hát. Người mẹ “năng động và mạnh mẽ” này còn làm một số công việc viết lách và sáng tác. Bà N. có một người anh, một bác sĩ tâm thần, người rất có biệt tài về âm nhạc, và một người chị được xem như một “Nữ tướng của gia đình” (Nguyên văn: “The Amazon of the family”. Amazon là tên con sông lớn nhất ở Nam Mỹ, nằm trong một khu vực rừng già hoang sơ, nguyên thủy. Từ “Amazon” còn được người Mỹ dùng với nghĩa “nữ tướng”, “nữ lực sĩ” - N.D).
Người mẹ bắt đầu câu chuyện của bà như sau: “Tôi đang cố gắng không để cho những kiến thức chuyên môn chi phối sự nhận định của mình, những kiến thức hiện đang can thiệp vào cách suy nghĩ của tôi”. Về việc này, bà đã thành công. Sau đây là tóm tắt lời trình bày của bà: “Sự thích thú âm nhạc của cháu đã khuyến khích tôi ghi âm lại những bản nhạc. Khi được 1 tuổi rưỡi, cháu đã có thể phân biệt được các bản nhạc giao hưởng. Cháu nhận biết được tác giả là ai ngay khi nghe qua phần đầu của bản tấu nhạc. Cháu có thể nói ‘Beethoven’. Cùng lứa tuổi ấy, cháu bắt đầu xoay tròn những món đồ chơi và những nắp chai, nắp bình và ngồi làm vậy hàng giờ liền. Cháu xem những vật xoay tròn, rồi nhảy lên nhảy xuống với vẻ xuất thần. Hiện cháu thích dùng gương hứng ánh sáng rồi bắt chụp lấy cái bóng của ánh sáng phản chiếu. Khi cháu thích một thứ gì đó, ông sẽ không thể thay đổi được thứ đó đâu… Điều gây ấn tượng nhất là cháu rất xa cách và khó đến gần. Cháu sống trong một thế giới riêng không ai đến được. Quan hệ với con người chẳng có nghĩa lý gì cả. Cháu đã trải qua một giai đoạn hay trích dẫn lời người khác; chẳng bao giờ tự mình đòi hỏi điều gì. Lời nói của cháu hoàn toàn là bản sao của những gì mà người khác nói với cháu. Cháu thường tự nói về mình ở ngôi thứ hai, và hiện nay thỉnh thoảng cháu lại dùng ngôi thứ ba… Cháu rất phá phách; đồ đạc trong phòng cháu thường bị phá hỏng. Cháu có thể bẻ đôi một cây bút chì màu thành hai khúc rồi nói: ‘Mày có một cây bút chì đẹp màu đỏ tía, giờ thì là hai cây bút. Coi mày đã làm gì kìa’… Cháu bị ám ảnh bởi phân, thường cất giấu nó ở đâu đó, ví dụ như trong ngăn kéo tủ chẳng hạn, cháu trêu chọc tôi nếu như tôi bước vào phòng: ‘Mày làm dơ quần rồi, không được bút chì màu đâu!’… Do vậy mà cháu vẫn chưa tập đi vệ sinh được. Cháu chẳng tiêu bậy trong trường mẫu giáo, nhưng luôn luôn làm vậy khi ở nhà. Tương tự, việc đi tiểu cũng vậy. Cháu rất thích tiểu bậy, hứng thú nhảy lên nhảy xuống và nói: ‘Nhìn xem cái vũng nước bự của nó kìa’ “.
Charles là đứa bé trai phát triển tốt, trông có vẻ thông minh và có thể chất tốt. Khi đến phòng khám, cậu chẳng chú ý đến những người có mặt ở đó. Không nhìn ai cả, cậu nói: “Cho cây viết chì”, lấy một mẫu giấy trên bàn và viết ra một nét gì đó giống như số 2 (tấm lịch lớn để trên bàn lúc đó có một số 2 rất lớn, hôm đó là ngày 2 tháng 2). Cậu mang theo mình một bản sao của tờ tạp chí Reader’s Digest và ngạc nhiên khi trông thấy bức tranh một em bé. Cậu nói: “Coi kìa em bé ngộ quá” lập lại câu này vô số lần. Thỉnh thoảng nói thêm: “Nó ngộ quá, dễ thương quá”. Khi tờ tạp chí bị lấy khỏi tay, cậu nắm giữ cánh tay đó lại mà không nhìn mắt người đã lấy tờ tạp chí. Khi bị người khám lấy kim châm vào người, cậu hỏi: “Cái gì đây?” và tự trả lời “Đó là cây kim”. Cậu nhìn cây kim với vẻ e ngại, sợ bị chích thêm, nhưng không hề tỏ vẻ liên hệ chuyện bị kim chích với người cầm kim. Khi tờ tạp chí được đặt trên sàn nhà và có người đè chân trên đó, cậu cố nhấc cái chân ra như thể cái chân là một vật gây rối và là một vật riêng biệt mà chẳng hề quan tâm xem cái chân thuộc về ai cả.
Khi đứng trước bảng xếp hình Seguin, cậu rất thích thú gọi tên các hình trước khi đặt chúng vào đúng những lỗ tương ứng. Cậu thường xoay tròn các khối hình, hứng thú nhảy lên nhảy xuống khi những hình này còn xoay. Cậu biết gọi tên như “hình bát giác”, “hình thoi”, “hình chữ nhật”, nhưng dù vậy vẫn cứ hỏi “Cái gì đây?”.
Cậu không đáp ứng khi được gọi tên và không nhìn mặt mẹ khi bà nói chuyện với cậu. Khi những hình khối bị lấy đi, cậu la hét, giẫm chân và khóc: “Tôi đưa nó cho ông!” (nghĩa là “Ông đưa nó cho tôi”).
Charles được đưa vào trường Devereux ngày 10/ 2/ 1943. Đầu năm 1944, cậu rời trường này, sau đó là 3 tháng (tháng 3 đến tháng 6) ở Bệnh viện Bellevue; ngày 22/ 6/ 1944 được đưa đến Bệnh viện Bang New Jersey ở Marlboro; ngày 1/ 11/ 1946 đưa vào Trung tâm Trị liệu Trẻ em Arthur Brisbane; ngày 1/ 2/ 1951 đến Bệnh viện Khu vực Atlantic; ngày 14/ 10/ 1955 đến Bệnh viện tiểu bang tại Ancora. Cậu vẫn còn ở đó, nay 32 tuổi. Điều này có nghĩa là cậu đã là bệnh nhân thường trú của bệnh viện cấp tiểu bang kể từ lúc mới được 5 tuổi 10 tháng. Những câu hỏi của Khoa chúng tôi, nếu có được chút đáp ứng, đều cho thấy tình trạng chung thật tồi tệ và sự thoái triển diễn ra liên tục. Một thông báo ngày 23/ 12/ 1970 có ghi: “Bệnh nhân này rất khó lường trước được hành vi. Anh ta có một vốn từ rất ít và hầu như dành hết thời gian để hát một mình. Anh ta cần được giám sát chặt chẽ và có nhu cầu nằm viện vô thời hạn”.
Ca thứ 10
John F. khám lần đầu tại Khoa ngày 13/ 2/ 1940, vào lúc được 28 tháng tuổi.
Người cha nói: “Điều quan trọng làm tôi lo lắng là cháu rất khó nuôi ăn. Đây là vấn đề chủ yếu, ngoài ra việc thứ hai là cháu bị chậm phát triển. Trong những ngày đầu đời, việc bú mẹ không được thuận lợi. Sau 15 ngày, cháu được chuyển từ bú mẹ sang bú bình. Việc cố cho cháu nuốt trôi thức ăn là cả một câu chuyện dài. Chúng tôi phải cố gắng làm rõ mọi chuyện là do đâu. Cháu cũng chậm trưởng thành. Lúc 20 tháng tuổi, cháu mới bắt đầu đi. Bú tay và nghiến răng khá thường xuyên, trăn trở nhiều trước khi ngủ. Nếu chúng tôi không đáp ứng điều cháu muốn, cháu sẽ la hét và khóc lóc”.
John sinh ngày 19/ 9/ 1937. Thường hay vào viện vì khó khăn trong việc nuôi ăn. Thóp trước không đóng kín mãi cho đến 2 tuổi rưỡi. Thường xuyên bị cảm cúm và viêm tai giữa tái đi tái lại, đến mức cần phải rạch màng nhĩ ở cả hai tai.
John là con duy nhất cho đến tháng 2/ 1943. Người cha, một bác sĩ tâm thần, là một người “rất trầm lặng, bình tĩnh, khí chất ổn định, là nhân tố hòa giải trong gia đình”. Người mẹ, tốt nghiệp trung học, làm thư ký trong một phòng xét nghiệm bệnh lý trước khi lập gia đình; bà ta “nhìn mọi thứ như là những mẫu bệnh phẩm; trong suốt thời gian mang thai, bà luôn lo sợ mình sẽ không còn sống được sau khi sinh”.
John được cả cha và mẹ đưa đến phòng khám. Cậu thường xuyên đi đi lại lại trong phòng không mục đích. Ngoại trừ khi tự động viết hí hoáy, cậu chẳng bao giờ mang hai đồ vật lại với nhau cùng lúc. Cậu không đáp ứng với cả những yêu cầu đơn giản nhất.
Gần 4 tuổi, cậu bắt đầu tạo được một khả năng tiếp xúc tình cảm hạn chế. Một khi mối quan hệ được thiết lập, nó phải được tiếp tục chính xác theo cùng một kiểu cách. Cậu đặt những câu đúng văn phạm nhưng dùng đại từ ngôi thứ hai để chỉ bản thân. Ngôn ngữ chủ yếu là sự lập lại những gì cậu được nghe nói, không hề thay đổi các đại từ xưng hô. Có tính ám ảnh rõ nét. Thông lệ hằng ngày phải được tuân thủ nhiêm ngặt; bất kỳ sự thay đổi nào cũng đều sẽ dẫn đến những cơn lo hãi bộc phát. Cậu có một trí nhớ thuộc lòng rất tốt và có thể học thuộc nhiều bài cầu nguyện, bản nhạc thiếu nhi và bài hát; người mẹ đã làm rất nhiều việc nhồi nhét này và rất hãnh diện về những “thành quả” ấy: “Cháu có thể kể tên các đĩa nhạc bằng cách nhận ra màu sắc của chúng; nếu xác định được mặt đĩa bên này, cháu có thể nhớ ra được mặt bên kia có cái gì”.
Lúc 4 tuổi rưỡi, cậu bắt đầu sử dụng đầy đủ đại từ xưng hô. Cậu muốn bảo đảm là mọi sự vật trong môi trường xung quanh phải được giữ nguyên trạng không thay đổi bằng cách thường xuyên đóng chặt các cửa ra vào và cửa sổ lại. Khi mẹ cậu mở cửa, cậu giận dữ đến đóng cửa lại, và khi bị can thiệp lần nữa, cậu sẽ tuyệt vọng òa khóc, biểu lộ một sự hụt hẫng cay đắng.
Cậu rất khó chịu khi nhìn thấy một món đồ bị vỡ hoặc không toàn vẹn. Có lần cậu chú ý đến hai con búp bê mà trước đó cậu không hề để tâm đến. Cậu phát hiện ra một trong hai con búp bê bị mất chiếc mũ và trở nên rất kích động, đi đi lại lại trong phòng để tìm chiếc mũ búp bê. Khi chiếc mũ được tìm thấy trong một phòng khác, thì ngay lập tức cậu chẳng còn để ý gì đến hai con búp bê nữa.
Lúc 5 tuổi rưỡi, cậu dùng tốt các đại từ xưng hô. Bắt đầu tự ăn lấy dễ dàng. Cậu nhìn thấy trong phòng khám có tấm hình chụp một nhóm người và hỏi cha: “Khi nào họ ra khỏi tấm hình rồi đến đây?”. Cậu rất băn khoăn về việc này. Người cha nói điều gì đó về các bức hình mà họ treo trên tường ở nhà. Cậu liền sửa sai cha: “Chúng ta để hình ở gần tường” (Chữ trên đối với cậu có nghĩa là “phía trên” hoặc “trên đỉnh, trên cùng”). Người cha huýt sáo một giai điệu, cậu
liền nhận ra ngay đó là “Bản concerto viết cho violon của Mendelssohn”. Mặc dù khi nói về đồ vật cậu có thể nói vật đó là lớn hay đẹp, nhưng cậu không có khả năng so sánh, ví dụ như đường kẽ nào lớn hơn hoặc gương mặt nào đẹp hơn.
Tháng 12/ 1942 và tháng 1/ 1943, John bị hai đợt động kinh trội ở bên phải, với cặp mắt bị lệch sang phải và liệt thoáng qua cánh tay phải. Khám thần kinh không thấy bất thường gì. Hai đáy mắt bình thường. Điện não đồ cho thấy “những rối loạn cục bộ ở thùy chẩm trái”.
Sau khi học ở một trường mẫu giáo tư thục, John được đưa vào trường Devereux (1945-1949), kế đến là trường Woods, rồi Cơ sở chăm sóc trẻ em Children’s House (tháng 6/ 1950), và theo học trường cấp thành phố và khu vực ở thủ đô Washington. Một yêu cầu về John đã được gửi từ Bệnh viện Georgetown năm 1956.
BS. Hilde Bruch, người khám cho John vào năm 1953, đã ghi chú về “những biểu lộ cảm xúc rất hứng khởi thiếu hẳn chiều sâu và sự linh hoạt, và tắc ngúm ngay khi người khác rút lại sự quan tâm”.
John chết đột ngột vào năm 1966, lúc 29 tuổi.
Ca thứ 11
Elain C. được cha mẹ đưa đến ngày 12/ 4/ 1939, lúc được 7 tuổi, vì lý do “phát triển không bình thường”. “Cháu không biết thích nghi. Cháu bị mất hẳn những ý niệm trừu tượng. Cháu không hiểu được trò chơi của những trẻ khác, không thích thú những câu chuyện người ta đọc cho cháu nghe, hay đi lang thang một mình, đặc biệt là thích mọi loại súc vật, nhất là hay bắt chước chúng đi bằng bốn chân và làm những tiếng kêu lạ lùng”.
Elain được sinh ra ngày 3/ 2/ 1932. Cô bé có vẻ khỏe mạnh, ăn tốt, đứng lúc 7 tháng tuổi và đi khi chưa đầy 1 tuổi. Có thể nói được 4 từ vào cuối năm đầu tiên nhưng chẳng tiến bộ gì thêm về lời nói trong 4 năm sau đó. Nghi ngờ bị điếc nhưng đã loại trừ chẩn đoán này. Vì bị sốt lúc 13 tháng tuổi, các khó khăn ngày càng tăng của cô được lý giải như là một rối loạn hành vi sau viêm não. Những người khác thì kết tội người mẹ vì không chăm sóc đầy đủ cho con. Một chẩn đoán khác được đặt ra là cô bị đần độn. Trong thời gian 18 tháng, cô được cho dùng trích tinh tuyến yên trước và tuyến giáp trạng. “Một số bác sĩ bảo rằng cháu là một đứa trẻ bình thường và rồi cháu sẽ phát triển tốt thôi”.
Năm 2 tuổi, cô được gửi đến một nhà trẻ, ở đó “cháu độc lập chơi theo cách của mình, không làm những gì người khác làm. Ví dụ cháu uống nước và ăn cây cối, trong khi bọn trẻ đang được dạy cách chơi hoa”. Cô bé sớm thích thú với các bức hình thú vật. Mặc dù nói chung là thường không ngồi yên, nhưng cô lại có thể ngồi tập trung hàng giờ để xem những bức hình như thế.
Bắt đầu nói lúc 5 tuổi, cô đặt đượcnhững câu hoàn chỉnh, dù đơn giản, những “câu nói có tính chất máy móc”, đặc biệt là biết gọi tên và “xếp loại” các thú vật. Không sử dụng đúng đại từ xưng hô, nhưng biết dùng danh từ số nhiều và chia động từ đúng thì (Những vấn đề rất thông dụng trong tiếng Anh - N.D.). “Cháu không biết cách nói phủ định nhưng có thể hiểu nghĩa khi người khác dùng cách đó để nói với cháu… Cháu có thể đếm số theo kiểu thuộc lòng. Có thể sắp xếp bàn ăn cho một số lượng người nếu được cho biết tên của những người dự, nhưng khi bảo hãy xếp một ‘bàn ăn cho 3 người’, thì cháu không làm được. Nếu yêu cầu mang đến một đồ vật đặc biệt đang để tại một chỗ nhất định, cháu sẽ không mang nó đến nếu nó đã được để ở một nơi nào khác, trừ khi cháu vẫn còn nhìn thấy được vật đó. Cháu rất sợ máy hút bụi, đến mức sợ đến gần cả chiếc tủ đặt máy hút bên trong, và khi máy được sử dụng, cháu sẽ bỏ chạy vào nhà xe lấy tay bịt hai tai lại”.
Elain là đứa con đầu trong hai đứa con. Người cha nghiên cứu về luật và nghệ thuật tự do ở ba trường đại học (gồm cả Đại học Sorbonne), một nhân viên viết bảng quảng cáo, “một trong số những người ốm yếu kinh niên, mà năng lượng đã được sử dụng hết”. Người mẹ, một người “biết tự kềm chế, trầm tĩnh và duy lý”, làm công việc biên tập cho một tờ tạp chí trước khi lập gia đình.
Elain có sức khỏe thể chất tốt. Điện não đồ bình thường. Khi được khám vào tháng 4/1939, cô bé có thể bắt tay bác sĩ theo yêu cầu mà không nhìn vào mặt ông, sau đó chạy đến cửa sổ nhìn ra ngoài. Cô tự động chú ý đến lời mời ngồi xuống. Cô đáp lại các câu hỏi – sau khi người hỏi lập lại nhiều lần – bằng cách nhái lại cả câu hỏi, hoặc nếu câu quá dài thì chỉ nhái lại đoạn cuối câu. Biểu hiện của cô rất trống vắng hờ hững, mặc dù không kém vẻ thông minh. Không dùng những cử điệu để giao tiếp. Có một lúc, không thay đổi diện mạo, cô thình lình nói: “Cá ơi, đừng khóc”.
Cô được đưa vào Cơ sở Nghiên cứu Trẻ em Maryland, và ở đó 3 tuần. Cô nhanh chóng học biết tên tất cả những đứa trẻ ở đó, biết được màu mắt của chúng, giường ngủ của từng đứa, nhưng chẳng bao giờ bắt quan hệ với những trẻ này. Khi ra sân chơi, cô rất bực bội và chạy vào trong phòng. Có vẻ bồn chồn không yên, nhưng khi được phép xem tranh, hoặc chơi một mình với các hình khối, vẽ hoặc xâu hạt, cô có thể tự vui chơi một mình trong nhiều giờ. Cô thường thốt ra những câu nói rập khuôn như “Khủng long ơi, đừng khóc”, “Có tôm và nhái sống trong bụng con nít”, “Có bướm trong bụng con nít và trong quần con nít nữa”; “Cá có răng nhọn, cắn con nít”, “Trên bầu trời có chiến tranh”; “Hình đầu thú cắn trẻ con, uống dầu”; “Đầu kim, chích con chim. Có chân màu vàng. Cắt con nai chết. Đầu độc con nai. Tội nghiệp Elain. Không có nòng nọc trong nhà. Người ta làm gãy chân nai” (vừa nói vừa cắt bức tranh con nai ra khỏi quyển sách).
Elain được đưa vào một trường tư thục. Người cha cho biết về “những thay đổi đáng ngạc nhiên: Cháu là một đứa con gái cao và lớn con với đôi mắt trong sáng từ lâu đã mất đi vẻ hoang dại mà quý vị đã biết qua những lần thăm khám định kỳ. Cháu nói tốt về hầu hết mọi chủ đề, mặc dù vẫn còn với ngữ điệu hơi lạ lùng. Lời thoại của cháu vẫn còn lan man thường đến mức độ gây tức cười, chỉ nói đúng dịp cần thiết, có cân nhắc và có tính loan báo việc gì đó. Cháu đọc rất tốt, các từ còn lộn xộn, nhưng phát âm rõ ràng, đặt trọng âm chưa đúng. Tầm hiểu biết thực sự khá rộng và trí nhớ thì hầu như không sai gì cả”.
Ngày 7/ 9/ 1950, Elain được đưa đến Letchworth Village, một trường của bang N.Y. Tại đó, “cháu bị quẫn trí, hung hăng, nói chuyện một cách phi lý với một sự biểu lộ cảm xúc nhạt nhẽo. Cháu chạy qua các phòng làm việc không mặc quần áo, tung ném đồ đạc, đập đầu mình vào tường, có những cơn đập đầu, la hét, và phát những tiếng kêu bắt chước những loài thú khác nhau. Cháu chọn lựa từ để nói khá tốt, nhưng không thể duy trì một cuộc đối thoại theo chủ đề đã định trước. Điện não đồ không cho thấy có sự bất thường rõ rệt nào”. Elain được thấy có chỉ số IQ bằng 83.
Ngày 28/ 2/ 1951, cô được chuyển đến Bệnh viện Hudson River của tiểu bang. Nay cô vẫn còn ở đó. Một báo cáo đề ngày 25/ 9/ 1970 có ghi: “Cô thức dậy và sinh hoạt mỗi ngày, ăn ngủ tốt và sống khá tự lập. Cô có thể tự chăm sóc những nhu cầu của bản thân, khá ngăn nắp và sạch sẽ. Lời nói chậm, thỉnh thoảng thiếu sự khôn ngoan, và có tính kiểu cách. Cô ít tiếp xúc và định hướng khá tốt. Tuy nhiên, không thể tham gia vào những cuộc đối thoại trừ khi vì những nhu cầu tức thời của bản thân. Nếu sự việc xảy ra không như ý muốn, cô rất bực bội, la hét, lấy nắm tay đấm vào ngực và đập đầu vào tường. Tuy nhiên, vào những khoảng thời gian “sáng sủa”, cô có thể hợp tác tốt, vui vẻ, giống trẻ con và biểu lộ vẻ trìu mến. Thỉnh thoảng cô có những lúc bị động kinh cơn lớn (Grand mal) và phải dùng những loại thuốc chống động kinh và thuốc an thần. Sức khỏe thể chất nói chung rất tốt”. Elain hiện nay được 39 tuổi.
BÀN LUẬN
Trên đây là 11 đứa trẻ mà vào năm 1943 được cho rằng có “những rối loạn tự kỷ trong quan hệ cảm xúc”. Tình trạng của họ đã được báo cáo là biểu hiện của “một hội chứng khá hiếm gặp, tuy vậy có lẽ nó xảy ra thường xuyên hơn cái số lượng ít ỏi những trường hợp đã được quan sát”. Những đặc trưng bệnh lý nổi bật bao gồm:
(a) Ngay từ khi sinh ra, đứa trẻ không có khả năng tự mình liên hệ với người khác và với những tình huống sống theo cách thức thông thường; và
(b) Mong muốn có tính lo âu ám ảnh nhằm gìn giữ nguyên trạng những sự vật xung quanh.
Một năm sau lần xuất bản đầu tiên, thuật ngữ tự kỷ sớm ở trẻ nhũ nhi (Early infantile autism) đã được bổ sung vào danh pháp tâm thần học.
Ngày nay, sau 28 năm, sau khi tình trạng tự kỷ sớm ở trẻ nhũ nhi đã trở thành một đề tài nghiên cứu sâu rộng, sau hàng chục quyển sách và hàng ngàn bài viết, sau những cuộc vận động tích cực bởi những tập thể phụ huynh có liên quan tại nhiều quốc gia, sau khi có sự hình thành các cơ sở giáo dục đặc biệt, trị liệu và nghiên cứu, có lẽ ta nên nhìn lại và xem làm thế nào mà một số ít những trẻ này lại góp phần hình thành một khái niệm mà từ đó nó đã khuấy động và gây hiếu kỳ cho giới chuyên môn như vậy.
Người ta đã mất một thời gian khá dài để tập trung vào việc xếp loại bệnh lý cho hội chứng này. Báo cáo năm 1943 có ghi: “Sự kết hợp giữa tình trạng tự kỷ trầm trọng, tính ám ảnh, hành vi rập khuôn và nhại lời (Tức là nói vẹt, lập lại lời nói người khác: Echolalia), làm cho toàn bộ bệnh cảnh về cơ bản có sự liên quan đôi nét với hiện tượng tâm thần phân liệt. Một số trẻ đôi lúc đã thật sự được chẩn đoán theo tên gọi này. Tuy nhiên, mặc dù có sự giống nhau đáng kể, tình trạng này vẫn có những khác biệt nhiều mặt với tình trạng tâm thần phân liệt trẻ em mà trước đó đã biết”. Tính chất “độc đáo” và “bản chất không thể sao chép” của tình trạng tự kỷ từ đó đã được nhấn mạnh và sau đó đã được công bố. Tuy nhiên, mãi cho đến gần đây, quan điểm đó nói chung mới được chấp nhận. Lời kêu gọi sau cùng đã đến từ các nhà nghiên cứu người Nga năm 1967, những người đã khuyến khích việc phá bỏ “lằn ranh” đã được chính thức công nhận mà theo đó tự kỷ bị xem là tình trạng “bệnh lý dạng phân liệt” (Schizoid psychopathy). Tuy nhiên, thông điệp này đã không “thấm” vào những tác giả biên soạn quyển Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Tâm bệnh (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders) ấn bản lần thứ II (DSM II) vào năm 1968, được hiệu đính bởi Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống mã được sử dụng rộng rãi trong đó không bao gồm tình trạng tự kỷ, và những đứa trẻ đau khổ này được quy vào tiết mục 295.80 (mã số của “Tâm thần phân liệt; thể bệnh ở trẻ em”) như là một “bến cảng” hợp pháp duy nhất có sẵn.
Về vấn đề căn nguyên, sự phát triển trong giai đoạn đầu đời của 11 đứa trẻ này đã không có cách lựa chọn nào khác hơn là giả định rằng: “chúng phải sống trong thế gian này với sự thiếu khả năng bẩm sinh trong việc thiết lập các tiếp xúc (được quy định về mặt sinh học) bình thường với con người”. Câu kết luận trong bài viết năm 1943 viết: “ở đây dường như chúng ta đã có những ví dụ trong một bối cảnh văn hóa thuần nhất về những rối loạn tự kỷ bẩm sinh về quan hệ cảm xúc”. Ngày nay, người ta có thể nói không do dự rằng giả định này đã trở thành một điều chắc chắn. Tuy nhiên, một số người dường như đã hoàn toàn bỏ qua câu này, cũng như đã bỏ qua những đoạn viết để dẫn đến câu đó, và đã sai lầm khi qui kết tác giả là người tán thành cho thuyết “tâm sinh” (psychogenecity) sau khi sanh.
Việc này được gán cho kết quả của các quan sát, hoàn toàn phù hợp với bản báo cáo, rằng tất cả 11 đứa trẻ này đều là con của những bậc cha mẹ thông minh. Điều cũng đáng gây chú ý là việc trong truyền thống nền tảng của các gia đình này cũng tồn tại nhiều tính chất ám ảnh. Những quyển nhật ký và hồi tưởng chi tiết, sau nhiều năm, về việc những đứa trẻ ấy đã thuộc lòng 25 câu hỏi đáp về giáo lý, hát được 37 bài hát thiếu nhi, hoặc phân biệt được 18 bản giao hưởng khác nhau, đã làm nên một bức tranh minh họa bằng lời cho điều này. Cũng cần chú ý là phần đông cha mẹ, ông bà và bà con của những trẻ này là những người luôn bận rộn với những ý tưởng trừu tượng về khoa học, văn chương hoặc nghệ thuật và bị hạn chế trong các mối quan tâm đích thực với con người. Nhưng điều này chưa khi nào được chứng tỏ là một hiện tượng chắc chắn không phủ nhận được, người ta chỉ đánh giá nó một cách quá đơn giản khi xác nhận tính mặc nhiên của mối liên hệ nhân quả. Trái ngược lại, có thể nói dứt khoát rằng tính cách cô độc của đứa trẻ ngay từ lúc đầu đời đã gây khó khăn trong việc quy kết trách nhiệm trong toàn bộ bệnh cảnh theo kiểu một chiều cho mối quan hệ sớm giữa cha mẹ và đứa con.
Một điều mà bản báo cáo năm 1943 đã không có cũng như đã không đề nghị, đó là một sự gợi ý về tương lai. Bất cứ đâu trong y khoa, việc tiên lượng (prognosis) cũng chỉ có thể có được thông qua hồi cứu (retrospective). Vào thời điểm đó, người ta vẫn chưa có được một dữ liệu thực nghiệm nào để đối chiếu; toàn bộ hội chứng như thế đã là một hiện tượng lạ thường trong chừng mực mà có người còn biết đến nó. Ngày nay, sau ba thập kỷ, chúng ta đã có được những thông tin về số phận của 11 đứa trẻ ấy.
Chúng ta phải luôn nhớ rằng những đứa trẻ này đã được nghiên cứu vào những năm tháng trước khi có nhiều phương pháp trị liệu khác nhau được đưa ra áp dụng, những phương pháp dựa trên nhiều tiền đề lý thuyết khác nhau như định hướng phân tâm học, điều kiện hóa có tác động, tâm dược, giáo dục, hoặc thông qua tâm lý trị liệu cho phụ huynh, hoặc phối hợp một số cách thức đó với nhau. Thời gian vẫn chưa đủ để cho phép ta có được những đánh giá có ý nghĩa thông qua việc theo dõi dài hạn. Dù hoàn cảnh ra sao, cho đến nay vẫn chưa có báo cáo nào có thể hỗ trợ một cách hợp lý và đáng tin cậy về hiệu quả của bất kỳ phương thức trị liệu nào trong số này trong việc cải thiện, thay vì chỉ có tác dụng tạm bợ và chắp vá, đối với tình trạng tự kỷ.
Trong số 11 đứa trẻ, có 8 là nam và 3 là nữ (ca thứ 5, 6 và 11). Dĩ nhiên, vào lúc đó, không thể nói rằng việc này có phải là xảy ra ngẫu nhiên hay không. Một khảo sát sau đó trên 100 trẻ tự kỷ đầu tiên đến với Bệnh viện John Hopkins cho thấy một tỷ lệ 4 nam : 1 nữ. Kể từ đó, tính trội ở những bé trai đã thực sự được tất cả các tác giả xác nhận. Có thể nói thêm rằng những bé trai được đưa đến Khoa chúng tôi ở tuổi sớm hơn (2-6 tuổi) so với các bé gái (6-8 tuổi).
Chín trong số 11 trẻ này là hậu duệ của người Anglo-Saxon (Một chủng tộc nguồn gốc ở Châu Âu, gồm chủ yếu là người Anh và một số giống dân khác nói tiếng Anh (sau này bao gồm cả những người Mỹ, Úc, Canada… có nguồn gốc Anh -N.D.), hai trường hợp còn lại là người Do Thái. Có 3 trẻ là con một; 5 trẻ là con đầu trong hai đứa con; 1 là con đầu trong ba đứa con; 1 là con út trong hai đứa con và 1 là con út trong ba đứa con. Vì thế, thứ tự sinh tự nó chẳng có ý nghĩa gì quan trọng.
Trong khi khám lâm sàng nhi khoa, tất cả 11 đứa trẻ đều có sức khỏe thể chất tốt. Hai trẻ có sưng amiđan và V.A. mà đã được cắt bỏ. Năm trẻ có vòng đầu tương đối lớn. Vài trẻ có dáng di và khả năng vận động thô sơ hơi vụng về, nhưng tất cả đều có sự khéo léo đáng kể trong các động tác phối hợp tinh tế. Điện não đồ bình thường trong hầu hết trường hợp, ngoại trừ John (ca thứ 10), đứa trẻ có thóp trước không đóng kín mãi đến 2 tuổi rưỡi và 3 năm sau lần khám đầu tiên tại Khoa đã bắt đầu có những cơn động kinh trội về bên phải. Frederick (ca thứ 2) có một núm vú phụ ở vùng nách bên trái. Trong nhóm trẻ này, không có trường hợp nào khác có bất thường bẩm sinh về thể chất. Tất cả trẻ đều có diện mạo thông minh, vì vậy nên đôi lúc, nhất là khi có sự hiện diện của người khác, chúng gây nên ấn tượng về những con người nghiêm túc hoặc lo toan căng thẳng; và những lúc khác, khi được để yên một mình với các đồ vật không có ai can thiệp vào, chúng lại tạo nên một bức tranh về sự bình yên thanh thản.
Trong khi, như người ta có thể dự đoán được, có những sắc thái riêng biệt của từng cá nhân (thể hiện qua một số nét đặc trưng, mức độ rối loạn, và diễn tiến từng giai đoạn của các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên), rõ ràng là trong 4-5 năm đầu tiên của đời sống, toàn bộ mô hình hành vi của các trẻ này có sự giống nhau một cách đáng kinh ngạc, gần như đến mức đồng nhất với nhau về hai đặc trưng căn bản là: cô độc và rập khuôn. Ngày nay, sau 30 năm, người ta cũng thấy rõ rằng từ thời điểm đó trở đi, mặc dù hai nét cơ bản này vẫn còn được bảo lưu, nhưng các nét khác biệt quan trọng cũng đã được xác định nhằm định hình cho tương lai của đứa trẻ.
Chúng ta không biết gì về tình trạng của Paul A. (ca thứ 4) và Alfred N. (ca thứ 8). Người mẹ của Paul đã “đi chợ” qua một số đông các chuyên gia, mỗi lần như thế lại bỏ cuộc sau một hai cuộc hẹn, và kể từ năm 1945 dù các dịch vụ thám tử lành nghề đã bỏ ra nhiều cố gắng người ta vẫn không biết được chỗ ở của họ. Mẹ của Alfred đầu tiên đã nhanh chóng đưa cậu lần lượt qua 11 trường công lập cũng như tư thục, rồi sau đó là đến một số cơ sở trị liệu nội trú. Cậu đáp ứng tốt với lao động trị liệu, nhưng bà mẹ, không xem việc này là đầy đủ, đã dẫn cậu đi và giữ cậu trong một “trường” do bà lập ra và tự điều hành.
Hai trong số những trẻ này, John và Elain (ca thứ 10 và 11) phát sinh tình trạng động kinh. John bắt đầu bị vào thời điểm 3 năm sau lần khám đầu tiên tại Khoa; sau khi lưu lại một số cơ sở điều trị nội trú, cậu chết năm 1966. Các cơn động kinh của Elain bắt đầu khi cô đến khoảng tuổi 25-30. Năm nay cô 39 tuổi, vẫn còn “dùng các thuốc chống động kinh và thuốc an thần”; điện não đồ của cô bình thường vào năm 1950, khi cô được đưa đến trường Letchworth Village của bang N.Y. Sau đó cô đến Bệnh viện Hudson River của bang N.Y., nơi mà nay cô vẫn còn trú lại cho đến nay.
Richard M., Barbara K., Virginia S., và Charles N. (ca thứ 3, 5, 6 và 9), với phần lớn thời gian sống là nằm viện nội trú, hầu như đã mất hết tất cả sự tươi sáng trước đó của mình sau khi họ nhập viện. Từ ban đầu họ đã đấu tranh cho sự cô độc và phơi mình trong niềm mãn nguyện mà sự cô độc mang lại cho họ, từ ban đầu họ đã cảnh giác trước các thay đổi không mong muốn và bằng cách riêng, họ đấu tranh để vững nguyên trạng, từ đầu họ đã làm kinh ngạc những người quan sát bằng những kỳ công phi thường về trí nhớ của họ, thì nay họ dễ dàng buông xuôi trước sự tự cô lập không gì phá vỡ nổi và nhanh chóng yên nghỉ trong một đời sống không cách xa mấy với sự hiện hữu trong trạng thái giống Niết bàn (Nirvana-like existence). Nếu có chút đáp ứng nào đó với các trắc nghiệm tâm lý, thì chỉ số IQ của họ sẽ tụt giảm đến mức được xem là chậm khôn hoặc đần độn.
May mắn thay, những điều này đã không xảy ra ở ba đứa trẻ còn lại. Herbert B. (ca thứ 7) vẫn còn câm nín, không có được một đời sống khiến người ta hân hoan, nhưng đã đạt đến khả năng sống có ích một cách tích cực dù còn bị hạn chế. Cậu được làm việc trên đồng, nơi mà nhờ đi theo người chủ trại làm công việc của ông, cậu có thể học cách tham gia làm một số công việc ấy. Khi người chủ trại qua đời và người quá phụ thành lập một nhà nuôi người già, cậu đã học cách làm việc như một người hộ lý tử tế, hữu dụng và thành thạo, sử dụng kiểu ý thức theo thông lệ của mình một cách có mục đích và đáng tin cậy.
Donald T. (ca thứ 1) và Frederick W (ca thứ 2) là hai trường hợp thành công thực sự. Donald, do có được sự khôn ngoan trực nhận của đôi vợ chồng tá điền, những người đã biết cách khiến cậu sử dụng những hoạt động bận rộn vô tích sự của mình để đạt được những mục đích thực tế, và cùng lúc đó họ đã giúp cậu duy trì sự tiếp xúc với gia đình mình, nay cậu đã là một nhân viên thâu ngân thường xuyên trong ngân hàng; trong khi đang sống với gia đình, anh vẫn tham gia vào một số hoạt động ngoài xã hội và có được sự kính trọng của những người đồng hương. Frederick cũng nhận được lợi ích do sự bố trí có định hướng tương tự trong khuôn khổ các trường Devereux, nơi mà cậu từ từ được dẫn dắt theo những mưu cầu xã hội hóa thông qua thái độ thích thú của cậu đối với âm nhạc và nhiếp ảnh. Vào năm 1966, cha mẹ cậu đứng ra đảm nhận trách nhiệm nuôi dưỡng. Cậu được làm việc trong một phân xưởng bảo trợ và được dạy nghề, học cách sử dụng các máy dập khuôn. Cậu nay đã có nghề nghiệp ổn định và được sếp cho hay là “người đáng tin cậy, cẩn trọng và quan tâm đến đồng nghiệp”.
NHẬN ĐỊNH
Trên đây là số phận của 11 đứa trẻ mà khôn mẫu hành vi ở tuổi tiền học đường là rất giống nhau đến nỗi nó phác họa nên cả một hội chứng có tính đặc hiệu. Các kết quả theo dõi sau gần 30 năm tự chúng không có ý nghĩa thống kê vì số lượng bệnh nhân có hạn. Tuy nhiên, chúng cũng đủ tạo nên sự hiếu kỳ về việc những đứa trẻ tuy đã có cùng một khởi đầu giống nhau nhưng “nơi đến” của chúng lại biến thiên theo nhiều cách khác nhau, từ mức độ thoái triển hoàn toàn đến mức độ có nghề nghiệp đầy đủ kèm theo khả năng thích nghi xã hội một cách êm thắm, dù có hạn chế.
Người ta không thể tránh khỏi ấn tượng rằng việc đưa bệnh nhân vào một bệnh viện của tiểu bang thì tương đương với một án tù chung thân, sự phai nhạt của khả năng thực tế đáng kinh ngạc về trí nhớ thuộc lòng, sự từ bỏ những tranh đấu tích cực ban đầu - tuy là có tính bệnh lý - nhằm gìn giữ hiện trạng không đổi, và sự mất hứng thú đối với các đồ vật kèm theo việc quan hệ với người cơ bản là kém – nói cách khác là một sự triệt thoái hoàn toàn gần như là về con số không. Những trẻ này được đưa vào trong các viện mà ở đó chúng được chăm nom chung với những bệnh nhân cùng tuổi bị chậm phát triển trầm trọng, hoặc ở chung chỗ với những người lớn bị bệnh tâm thần; có hai đứa trẻ đã chuyển từ chỗ thứ nhất sang chỗ thứ hai vì tuổi của chúng lớn dần. Một vị giám thị đã đủ thực tế khi tuyên bố thẳng rằng ông ta nhận bệnh nhân chỉ để “trông giữ” mà thôi. Dù vậy, gần đây vẫn còn rất ít, rất ít những bệnh viện tiểu bang mở ra những bộ phận tách biệt dành cho trẻ em với những nhân viên được huấn luyện và được định hướng điều trị đúng đắn.
Vấn đề được đặt ra là những đứa trẻ này liệu có thể sẽ tiến triển tốt hơn không khi được đưa vào một cơ sở khác; hoặc Donald và Frederick, một nhân viên thâu ngân lành nghề trong ngân hàng và một công nhân điều khiển máy dập khuôn, liệu có thể sẽ chia sẻ số phận buồn thảm của Richard và Charles trong môi trường của một bệnh viện tiểu bang? Mặc dù một câu trả lời khẳng định có thể là đúng, nhưng người ta vẫn không khỏi tự hỏi rằng liệu có một yếu tố nào khác, mà hiện nay chưa được xác định, có thể có ảnh hưởng trên số phận của những trẻ tự kỷ. Trong y khoa, người ta biết rõ là bất kỳ một căn bệnh nào cũng có thể xuất hiện dưới nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau, từ mức độ gọi là “vô hại” (Tạm dịch từ nguyên văn tiếng Latin “forme fruste” - N.D.), cho đến những biểu hiện tối cấp nhất. Liệu điều này cũng có thể vận dụng được vào trường hợp bệnh tự kỷ sớm?
Sau một lịch sử gần 30 năm và sau nhiều cố gắng có thiện chí, cho đến nay chưa có ai thành công trong việc tìm ra một hệ thống trị liệu, một loại thuốc, một phương pháp hoặc kỹ thuật trị liệu nào cho kết quả cải thiện lâu dài đối với tất cả những đứa trẻ được chữa trị. Điều gì giải thích cho tất cả những sự khác biệt này? Có những manh mối đáng tin cậy nào để dự đoán trước kết quả hay không?
Thời gian trôi qua, có lý do để tin rằng một số giải đáp cho những câu trả lời này đã gần kề. Các khám phá về sinh học, được xúc tiến mạnh mẽ trong những năm gần đây, có thể mở ra một quang cảnh mới về bản chất cơ bản của hội chứng tự kỷ. Ngoài ra, với thời gian, cũng có một khuynh hướng ngày càng gia tăng trong việc giải quyết toàn bộ vấn đề thông qua một sự phối hợp liên ngành, liên chuyên khoa (Multidisciplinary collaboration). Các khảo sát về di truyền học mới bắt đầu được thực hiện. Sự hiểu biết có thể nhận được từ những kinh nghiệm về dân tộc học. Phụ huynh cũng bắt đầu được đối xử theo quan điểm tương hỗ, chứ không như những người đứng về một phía trong mối quan hệ lưỡng cực cha mẹ-con; gần đây họ đã được tham gia vào công việc trị liệu, không phải như những người phạm tội gây bệnh cho con, cũng không chỉ như những người tiếp nhận các đơn kê thuốc và tuân theo các quy luật “phải làm thế này”, “không làm thế kia” (“Thuo-shalt”, “Thou-shalt-not”) nữa, mà như là những nhà đồng trị liệu (co-therapist) cùng tham gia tích cực.
Cuộc theo dõi sau 30 năm này không chỉ ra được những tiến bộ cụ thể là bao so với thời điểm có bản báo cáo đầu tiên, ngoài việc định rõ các tiêu chí chẩn đoán. Vẫn còn một mớ hỗ lốn các lý thuyết, giả thuyết và suy đoán, và cũng đã có nhiều cố gắng can đảm, đầy thiện chí nhằm làm dịu bớt sự chán nản trong khi chờ đợi kết quả đánh giá sau cùng. Có thể trông đợi, với lý do chính đáng, rằng một cuộc nghiên cứu theo dõi trong 30 hoặc 20 năm kế đến trên những nhóm trẻ tự kỷ khác sẽ có thể trình bày được một báo cáo với những kiến thức và tư liệu mới nhằm có được một tiên lượng sáng sủa hơn so với những gì được chứng thực trong biên niên sử hiện tại...
Những gì mà tác giả bài viết này mong mỏi đã dần dần trở thành hiện thực. Bởi ngày nay, hơn 30 năm sau, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện giúp ta hiểu rõ hơn căn bệnh tự kỷ và nhiều phương pháp trị liệu, giáo dục trẻ tự kỷ đã giúp cải thiện rất nhiều cho chất lượng cuộc sống của những trẻ em không may mắn này...RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý
(ATTENTION DEFICIT HYPERACTIVITY DISORDER)
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
(Theo Diagnostic And Statistical Manual of Mental Disorders, 4th Edition - DSM-IV)
TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN DSM-IV
Đặc tính cơ bản của rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là một mô hình hằng định bao gồm sự giảm chú ý (inattention) và/hoặc trạng thái tăng động bồng bột (hyperactivity-impulsivity) xảy ra ở mức độ thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn những gì được thấy ở các cá nhân có cùng trình độ phát triển (Tiêu chuẩn A). Một số triệu chứng tăng động hoặc giảm chú ý gây nên suy kém chức năng được thấy trước 7 tuổi, mặc dù nhiều trẻ được chẩn đoán sau khi các triệu chứng đã hiện diện trong nhiều năm (Tiêu chuẩn B). Một số tình trạng mất chức năng (impairment) phải tồn tại ít nhất trong hai môi trường sống khác nhau (ở nhà, ở trường học, hoặc nơi làm việc) (Tiêu chuẩn C). Phải có bằng chứng rõ ràng về việc các tình trạng này đã ảnh hưởng đến các chức năng về xã hội, học tập hoặc làm việc tương ứng với mức độ phát triển của trẻ (Tiêu chuẩn D). Rối loạn này không xảy ra trong quá trình rối loạn phát triển lan tỏa (pervasive developmental disorder), tâm thần phân liệt (schizophrenia) hoặc các chứng loạn tâm khác, và không nên được giải thích là do một rối loạn tâm thần khác như rối loạn khí sắc (mood disorder), rối loạn lo âu (anxiety disorder), rối loạn phân ly (dissociative disorder) hoặc rối loạn nhân cách (personality disorder) (Tiêu chuẩn E).
Sự giảm chú ý có thể được biểu hiện trong học tập, trong làm việc, hoặc trong các tình huống xã hội. Những người có rối loạn này có thể thất bại trong việc phải tập trung chú ý nhiều vào các chi tiết hoặc có thể phạm phải những lỗi lầm do bất cẩn trong học tập cũng như trong các công việc khác (Tiêu chuẩn A1a). Công việc thường là bề bộn và được thực hiện một cách bất cẩn, không suy tính. Trẻ thường thấy khó khăn trong việc duy trì sự chú ý đến công việc hoặc các hoạt động chơi, và thấy khó theo đuổi công việc cho đến khi hoàn tất (Tiêu chuẩn A1b). Trẻ thường biểu hiện như thể đang đặt tâm trí ở đâu đâu hoặc như thể chẳng nghe thấy những gì người khác nói (Tiêu chuẩn A1c). Trẻ có thể thường xuyên chuyển từ một công việc chưa hoàn tất sang làm một công việc khác. Những trẻ được chẩn đoán là có rối loạn này thường chuyển đổi hết việc nọ sang việc kia mà chẳng làm xong một việc nào cả. Trẻ thường không tuân theo những yêu cầu, chỉ dẫn và không thể hoàn tất các bài tập ở trường, công việc nhà, cùng những trách nhiệm khác (Tiêu chuẩn A1d). Thất bại trong việc hoàn tất công việc nên được xem xét đến khi chẩn đoán chỉ khi tình trạng này là do sự giảm chú ý mà không giải thích được bằng các lý do khác (chẳng hạn như khi trẻ không hiểu được các hướng dẫn). Những trẻ này thường gặp khó khăn trong việc tổ chức các công việc và các hoạt động (Tiêu chuẩn A1e). Những công việc đòi hỏi duy trì những cố gắng về tinh thần cũng được trẻ cảm thấy khó chịu và chẳng thích thú gì. Kết quả là những trẻ này thường đặc biệt tránh né hoặc không thích những hoạt động nào đòi hỏi khả năng vận dụng sáng tạo và cố gắng tinh thần hoặc những việc cần đến khả năng tổ chức hoặc tập trung chú ý cao (như công việc viết lách, làm bài tập ở nhà...) (Tiêu chuẩn A1f). Sự tránh né này phải là do những khó khăn của đương sự về khả năng chú ý, chứ không phải do một thái độ chống đối nguyên phát (primary oppositional attitude), mặc dù sự chống đối thứ phát (secondary oppositionism) cũng có thể xảy ra. Các thói quen làm việc thường bị rối loạn và những vật liệu cần thiết để làm việc cũng thường bị để rơi vãi, thất lạc, sử dụng một cách bất cẩn, hoặc bị làm cho hư hỏng (Tiêu chuẩn A1g). Những trẻ này thường dễ trở nên xao lãng bởi những kích thích không đáng và thường gián đoạn những công việc đang làm để chú ý đến những tiếng động hoặc những sự việc tầm thường mà những người khác thường dễ dàng bỏ qua (như tiếng còi xe, hoặc tiếng người khác nói chuyện) (Tiêu chuẩn A1h). Trẻ cũng thường hay quên các công việc hằng ngày (thất hẹn, quên ăn trưa...) (Tiêu chuẩn A1i). Trong các tình huống xã hội, sự giảm chú ý còn có thể được biểu hiện dưới dạng thường xuyên thay đổi đề tài khi nói chuyện, không lắng nghe người khác, không để tâm vào cuộc hội thoại, hoặc không tuân theo các chi tiết và luật lệ của các trò chơi và các hoạt động.
Trạng thái lăng xăng tăng động có thể được biểu hiện bởi sự bồn chồn hoặc uốn éo người khi ngồi (Tiêu chuẩn A2a), ngồi không yên (Tiêu chuẩn A2b), chạy nhảy quá đáng trong những tình huống không thích hợp (Tiêu chuẩn A2c), khó khăn khi chơi hoặc tham gia vào những hoạt động chơi có tính tĩnh lặng (Tiêu chuẩn A2d), dường như lúc nào cũng di chuyển (“on the go”) hoặc như thể đang “ngồi lái môtô” (Tiêu chuẩn A2e), hoặc nói quá nhiều (Tiêu chuẩn A2f). Sự tăng động có thể thay đổi tùy theo tuổi và mức độ phát triển của đứa trẻ, và việc chẩn đoán nên được thiết lập một cách thận trọng ở những trẻ nhỏ. Những trẻ biết đi chập chững hoặc trẻ chưa đến tuổi đi học bị rối loạn này có biểu hiện khác biệt với những trẻ nhỏ tăng động bình thường: trẻ thường xuyên di chuyển và xen vào mọi chuyện1; trẻ thường chồm tới chồm lui, “lao ra khỏi nhà khi chưa kịp mặc áo”, leo trèo hoặc chạy nhảy trên bàn ghế, chạy quanh khắp nhà, khó tham gia vào một sinh hoạt nhóm của các trẻ nhỏ phải ngồi yên một chỗ (như ngồi nghe kể chuyện). Những trẻ ở tuổi đến trường biểu hiện những hành vi tương tự nhưng với mức độ ít hơn và ít thường xuyên hơn những trẻ nhỏ. Trẻ thường thấy khó khăn khi phải ngồi yên, thường xuyên đứng dậy, uốn éo người hoặc đu đưa người trên mép ghế. Trẻ không ngừng máy mó đồ vật, đập tay, đung đưa chân một cách quá đáng. Trẻ thường rời khỏi bàn ăn đang trong khi dùng bữa, bỏ đi khi đang xem ti vi, hoặc trong khi đang làm bài tập ở nhà; và trong khi làm những công việc tĩnh lặng, trẻ cũng thường gây nên những tiếng động ồn ào. Ở tuổi thiếu niên và người lớn, triệu chứng tăng động có thể biểu hiện dưới hình thức những cảm giác không yên hoặc khó tham gia các hoạt động có tính chất tĩnh tại.
Tính bốc đồng, bồng bột (impulsitivity) thể hiện qua sự mất kiên nhẫn, khó kềm chế các đáp ứng, buộc miệng trả lời trước khi người khác kết thúc câu hỏi (Tiêu chuẩn A2g), khó chờ đợi đến phiên mình (Tiêu chuẩn A2h), thường ngắt lời hoặc quấy rầy người khác đến mức gây ra những khó khăn trong các môi trường xã hội, học tập và làm việc (Tiêu chuẩn A2i). Những người khác có thể than phiền rằng họ không thể nói xen vào một lời nào. Những người có rối loạn này đặc biệt hay đưa ra những lời bình luận khi chưa đến phiên mình, không thể lắng nghe những chỉ dẫn, mở đầu câu chuyện không đúng lúc, gián đoạn công việc người khác một cách quá mức, quấy rầy người khác, đoạt lấy đồ vật từ người khác, đụng chạm những đồ vật mà họ không được phép đụng đến, và hay “làm hề”. Tính lăng xăng bồng bột cũng thường dẫn đến những tai nạn (đánh cắp đồ vật, đánh người, vồ phải một chiếc chảo nóng...) hoặc dấn mình vào những hoạt động nguy hiểm không kể đến hậu quả (ví dụ trượt tuyết trên một địa hình quá ghồ ghề).
Các biểu hiện hành vi thường xuất hiện trong nhiều hoàn cảnh, bao gồm ở nhà, ở trường, trong công việc và trong các tình huống xã hội. Để thiết lập một chẩn đoán, các tình trạng kém chức năng phải hiện diện trong ít nhất hai hoàn cảnh môi trường khác nhau (Tiêu chuẩn C). Sẽ là điều không bình thường khi một người biểu hiện cùng một mức độ kém chức năng trong tất cả mọi hoàn cảnh môi trường hoặc trong cùng một môi trường ở mọi thời điểm khác nhau. Các triệu chứng đặc biệt trở nên xấu hơn trong những tình huống cần phải duy trì sự chú ý hoặc các cố gắng tinh thần hoặc trong các tình huống không có tính mới lạ hoặc lôi cuốn. (ví dụ lắng nghe giáo viên giảng bài, làm các nhiệm vụ được phân công trong lớp học, nghe hoặc đọc những bài viết quá dài, hoặc làm các công việc đơn điệu, lập đi lập lại). Những dấu hiệu của rối loạn này có thể ít biểu hiện hoặc không có ở những đối tượng được kiểm soát chặt chẽ, hoặc trong một môi trường mới mẻ, tham gia trong những hoạt động đặc biệt lý thú, trong tình huống tiếp xúc “một-một” (như trong phòng khám của bác sĩ), hoặc khi đương sự trải nghiệm được những khen thưởng thường xuyên do làm được những hành vi thích đáng. Các triệu chứng thường dễ xảy ra hơn trong những tình huống ở trong nhóm (ví dụ trong các nhóm chơi, trong lớp học, trong môi trường làm việc). Thầy thuốc, vì vậy, nên thẩm tra về những hành vi của đương sự trong nhiều tình huống khác nhau trong từng môi trường sống.
CÁC PHÂN NHÓM
Mặc dù hầu hết những người có rối loạn này đều thể hiện cả sự giảm chú ý lẫn sự lăng xăng tăng động, cũng có một số người chỉ biểu hiện trội ở một trong hai loại triệu chứng này. Các phân nhóm phù hợp nên được dùng để chẩn đoán dựa vào mô hình biểu hiện nào là trội qua thời gian 6 tháng vừa trải qua.
314.04 Rối loạn tăng động giảm chú ý - Dạng phối hợp
Phân nhóm này nên được dùng nếu có ít nhất 6 triệu chứng giảm chú ý hoặc ít nhất 6 triệu chứng tăng động bồng bột tồn tại trong một thời gian ít nhất là 6 tháng. Hầu hết những trẻ em và thiếu niên có rối loạn này đều thuộc dạng phối hợp. Người ta chưa biết ở người lớn có tình trạng tương tự như vậy hay không.
314.00 Rối loạn tăng động giảm chú ý - Dạng trội về giảm chú ý
Phân nhóm này nên được sử dụng khi có ít nhất 6 triệu chứng giảm chú ý (nhưng có ít hơn 6 triệu chứng về tăng động bồng bột) tồn tại trong một thời gian ít nhất là 6 tháng.
314.01 Rối loạn tăng động giảm chú ý - Dạng trội về tăng động bồng bột
Phân nhóm này nên được sử dụng khi có ít nhất 6 triệu chứng về tăng động bồng bột (nhưng có chưa đến 6 triệu chứng về giảm chú ý) tồn tại trong thời gian ít nhất là 6 tháng. Sự giảm chú ý có thể vẫn còn là một đặc tính lâm sàng rõ rệt trong những trường hợp như thế.
CÁC PHƯƠNG PHÁP GHI NHẬN
Những người bị rối loạn này mà giai đoạn đầu có biểu hiện thuộc loại trội về giảm chú ý hoặc trội về tăng động bồng bột đều có thể tiếp tục phát triển để về sau trở thành dạng phối hợp và ngược lại. Nên sử dụng các phân nhóm thích hợp để chẩn đoán dựa vào mô hình triệu chứng nào là trội trong thời gian 6 tháng vừa qua. Nếu các triệu chứng lâm sàng vẫn tồn tại nhưng không thỏa những tiêu chuẩn chẩn đoán, việc định bệnh thích hợp trong trường hợp này là rối loạn tăng động giảm chú ý - dạng thuyên giảm một phần (ADHD, In partial remission). Khi các triệu chứng của đương sự không thỏa đầy đủ các tiêu chuẩn để chẩn đoán loại rối loạn này và không rõ là các tiêu chuẩn này trước đó có được thỏa hay không, nên chẩn đoán là ADHD không đặc hiệu (ADHD not otherwise specified).
CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ RỐI LOẠN KÈM THEO
Các đặc điểm và rối loạn tâm thần kèm theo
Các đặc điểm kèm theo theo đổi tùy theo tuổi và mức độ phát triển và có thể gồm khả năng dung nạp kém với sự hụt hẫng, những cơn giận dữ, thích ra lệnh, bướng bĩnh, thường xuyên khăng khăng đòi hỏi thỏa mãn những yêu cầu, khí sắc bất ổn định, sa ngã về đạo đức, dysphoria, bị các bạn cùng tuổi “tẩy chay”, và lòng tự trọng yếu kém. Thành quả học tập thường thấp kém, đặc biệt dẫn đương sự đến chỗ mâu thuẫn với gia đình và nhà trường. Thiếu sáng tạo trong những công việc đòi hỏi sự cố gắng thường xuyên khiến người khác đánh giá đương sự là lười biếng, vô trách nhiệm và có hành vi chống đối. Các mối quan hệ trong gia đình thường được đặc trưng bởi sự giận hờn và chống đối, đặc biệt do các triệu chứng của đương sự hay thay đổi khiến cho cha mẹ tin rằng tất cả những hành vi có tính “gây rối” này là do đương sự cố ý. Những người bị ADHD có thể có những thành quả học tập kém hơn và khả năng nghề nghiệp yếu hơn những người cùng tuổi. Sự phát triển trí thông minh, được đánh giá bằng các trắc nghiệm IQ cá nhân, ở những trẻ bị rối loạn dường như cũng thấp hơn. Trong trường hợp nghiêm trọng, tình trạng rối loạn gây nên suy giảm chức năng rất nhiều, ảnh hưởng đến khả năng thích nghi với xã hội, gia đình và nhà trường. Một tỷ lệ quan trọng những trẻ bị ADHD được đưa đến các cơ sở trị liệu cũng có kèm theo rối loạn bướng bỉnh chống đối (oppositional defiant disorder) hoặc rối loạn ứng xử (conduct disorder). Có thể có sự gia tăng lưu hành độ của các rối loạn khí sắc (mood disorder), rối loạn lo âu (anxiety disorder), các rối loạn về học tập (learning disorders) và rối loạn về giao tiếp (communication disorders) ở những trẻ bị ADHD. Rối loạn này cũng không phải là không thường thấy ở những người bị rối loạn Tourette’s; khi có hai loại rối loạn cùng tồn tại, giai đoạn khởi đầu của ADHD thường đi trước giai đoạn khởi đầu của rối loạn Tourette’s. Cũng có thể có một tiền sử bị lạm dụng hoặc bỏ rơi (child abuse or neglect), tình trạng nuôi dưỡng bởi nhiều người nhiều nơi khác nhau (multiple foster placement), tiếp xúc với độc chất (vd, ngộ độc chì), nhiễm trùng (như viêm não), mẹ dùng thuốc khi mang thai, cân nặng thấp lúc sinh và tình trạng chậm phát triển trí tuệ.
Các phát hiện cận lâm sàng kèm theo
Không có xét nghiệm cận lâm sàng nào được dùng để chẩn đoán trong việc đánh giá lâm sàng tình trạng ADHD. Những trắc nghiệm đòi hỏi việc xử lý thông qua các cố gắng tinh thần đã ghi nhận sự bất thường ở những người bị ADHD so với nhóm đối chứng, nhưng người ta chưa hoàn toàn biết rõ đâu là khiếm khuyết nhận thức cơ bản có trách nhiệm về tình trạng này.
Các phát hiện thực thể kèm theo và tình trạng y khoa tổng quát
Không có đặc điểm thực thể đặc hiệu nào kèm theo ADHD, mặc dù những bất thường thực thể không quan trọng như (hypertelorism), vòm khẩu nhô cao, tai đóng thấp... có thể hiện diện với tỷ lệ cao hơn so với dân số chung. Các chấn thương thực thể cũng có thể có tỷ lệ cao hơn.
CÁC ĐẶC ĐIỂM ĐẶC HIỆU VỀ VĂN HÓA, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH
ADHD được biết là xảy ra trong mọi nền văn hóa, với các lưu hành độ khác nhau được báo cáo ở các nước phương Tây, điều này có lẽ do việc áp dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau hơn là do sự khác biệt về biểu hiện lâm sàng.
Việc chẩn đoán đặc biệt khó thực hiện ở trẻ em nhỏ hơn 4-5 tuổi, bởi vì hành vi đặc trưng của chúng rất hay thay đổi nhiều hơn so với trẻ lớn, và có thể gồm những nét tương tự như các triệu chứng của ADHD. Hơn nữa, triệu chứng giảm chú ý ở trẻ chưa đến tuổi đi học thường ít được quan sát thấy bởi những trẻ nhỏ ở tuổi này thường không được đòi hỏi phải chú ý nhiều. Tuy vậy, khả năng chú ý của những trẻ nhỏ cũng có thể được đánh giá; ví dụ ở khoảng 2-3 tuổi trẻ đã có thể cùng ngồi với một người lớn và xem một quyển sách hình. Ngược lại, trẻ nhỏ có tình trạng ADHD thường tăng động quá mức và khó có thể kềm chế được. Xem xét một số lớn các hành vi ở trẻ nhỏ có thể có ích để bảo đảm ghi nhận được một bức tranh lâm sàng đầy đủ. Khi trẻ trưởng thành, các triệu chứng thường trở nên ít rõ ràng hơn. Cho đến khoảng cuối thời ấu thơ và đầu tuổi thiếu niên, các dấu hiệu quá mức về vận động thô sơ (gross motor) (ví dụ chạy nhảy, leo trèo quá mức, không ngồi yên được) sẽ ít xảy ra hơn, và các triệu chứng tăng động có thể được xác định bởi sự bồn chồn hoặc một cảm giác nội tâm xáo động không yên. Ở trẻ em lứa tuổi đi học, sự giảm chú ý sẽ ảnh hưởng đến khả năng học tập ở trường. Các biểu hiện tăng động lăng xăng cũng dẫn đến sự phá vỡ những luật lệ trong gia đình, trường học và trong các quan hệ xã hội, đặc biệt là ở tuổi thiếu niên. Ở người lớn, trạng thái bồn chồn không yên dẫn đến việc khó tham gia vào các hoạt động tĩnh tại và tránh né các thú vui cũng như các công việc làm hạn chế những cơ hội cho các động tác tự nhiên (ví dụ: công việc ngồi ở bàn giấy).
Rối loạn này thường thấy ở phái nam nhiều hơn nữ, với tỷ lệ nam : nữ thay đổi từ 4:1 đến 9:1 tùy hoàn cảnh môi trường (vd. trong dân số chung hoặc trong các bệnh viện).
LƯU HÀNH ĐỘ (PREVALENCE)
Lưu hành độ của ADHD được ước tính khoảng 3-5% trẻ em tuổi đi học. Ở thiếu niên và người lớn, các số liệu còn hạn chế.
DIỄN TIẾN
Hầu hết các bậc phụ huynh đều quan sát thấy những hoạt động vận động quá mức của trẻ lần đầu tiên khi trẻ mới biết đi, trùng hợp với thời điểm phát triển khả năng vận động độc lập. Tuy nhiên, vì có rất nhiều trẻ nhỏ tăng động không phát triển tình trạng ADHD về sau nên việc chẩn đoán ADHD phải hết sức thận trọng vào những năm đầu đời. Thường thì rối loạn này được chẩn đoán đầu tiên vào thời gian trẻ học tiểu học, khi mà khả năng thích nghi với trường học bị phương hại. Trong phần lớn các trường hợp được thấy ở các cơ sở lâm sàng, tình trạng rối loạn tương đối ổn định suốt thời gian đầu của tuổi thiếu niên. Trong hầu hết trường hợp, các triệu chứng giảm bớt đi vào cuối tuổi thiếu niên và khi trở thành người lớn, dù rằng có một ít vẫn còn đầy đủ những triệu chứng của ADHD cho đến tuổi trung niên. Ở một số người lớn chỉ còn lại một vài triệu chứng, trong trường hợp đó, chẩn đoán thích hợp nên sử dụng là ADHD thuyên giảm một phần (ADHD, in partial remission). Chẩn đoán này được áp dụng cho những người không còn đầy đủ những biểu hiện của rối loạn nhưng vẫn còn một số triệu chứng và những triệu chứng này vẫn gây nên tình trạng suy giảm chức năng.
MÔ HÌNH QUEN THUỘC
ADHD thường được thấy nhiều hơn ở những người bà con cấp I về sinh học (first degree biological relatives) của những trẻ bị ADHD. Các nghiên cứu cho thấy những rối loạn khí sắc và lo âu cũng có lưu hành độ cao. Các rối loạn học tập, rối loạn có liên quan đến hóa chất (substance-related disorders), và rối loạn nhân cách chống đối xã hội (antisocial personality disorder) trong các thành viên gia đình của người bị ADHD.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Ở trẻ nhỏ, có thể khó phân biệt các triệu chứng của ADHD với những hành vi bình thường của những trẻ nhỏ tăng động (như chạy nhảy, làm ồn...).
Các triệu chứng giảm chú ý cũng thường gặp ở những trẻ có IQ thấp được bố trí học trong những môi trường học tập không phù hợp với khả năng thông minh của trẻ. Những hành vi này phải được phân biệt với các dấu hiệu tương tự của trẻ bị ADHD. Ở trẻ chậm phát triển trí tuệ, một chẩn đoán ADHD thêm vào chỉ nên thiết lập khi mà tình trạng giảm chú ý hoặc tăng động trở nên quá mức đối với tuổi khôn (mental age) của trẻ. Giảm chú ý cũng có thể xảy ra ở một trẻ rất thông minh được bố trí trong một môi trường học tập “dưới ngưỡng” (understimulating environment). ADHD cũng phải được phân biệt với sự khó khăn trong việc định hướng mục đích cho hành vi của những trẻ sống trong môi trường thiếu thốn, hỗn độn và vô tổ chức. Thu thập báo cáo từ nhiều nguồn thông tin (cô giữ trẻ, ông bà, cha mẹ) có ích trong việc phối hợp quan sát tình trạng giảm chú ý, tăng động cùng khả năng phát triển của đứa trẻ tương ứng với sự tự điều chỉnh trong các môi trường khác nhau.
Những trẻ có hành vi chống đối có thể từ chối những công việc và bài học ở trường đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo bởi trẻ thiếu khả năng đáp ứng các yêu cầu của người khác. Những triệu chứng này cũng phải phân biệt với sự tránh né công việc học tập ở trường, một điều thường gặp ở trẻ bị ADHD. Sự phức tạp trong chẩn đoán phân biệt là ở chỗ khi người bị ADHD phát sinh một thái độ chống đối thứ phát đối với những công việc như thế và đánh giá thấp tầm quan trọng của chúng, thường như một lý giải cho sự thất bại của họ.
TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý
A. Có tiêu chuẩn (1) hoặc (2)
(1) Trong số các triệu chứng giảm chú ý sau đây, có ít nhất 6 triệu chứng tồn tại trong thời gian ít nhất là 6 tháng, đến độ không thích nghi và không phù hợp với trình độ phát triển:
Giảm chú ý
(a) Thường không thể tập trung chú ý nhiều vào các chi tiết hoặc phạm phải những lỗi lầm do bất cẩn trong học tập, làm việc hoặc trong các hoạt động khác.
(b) Thường khó khăn trong việc duy trì khả năng chú ý trong công việc hoặc trong vui chơi.
(c) Thường có vẻ không lắng nghe người khác nói chuyện trực tiếp.
(d) Thường không tuân theo những hướng dẫn hoặc không thể hoàn tất bài vở ở trường, công việc nhà, hoặc các trách nhiệm nơi làm việc (không phải do hành vi chống đối hoặc không có khả năng hiểu những hướng dẫn).
(e) Thường khó khăn khi tổ chức các công việc và các hoạt động.
(f) Thường né tránh, không thích, hoặc miễn cưỡng tham gia các công việc đòi hỏi sự cố gắng tinh thần liên tục (như làm bài tập ở trường hoặc bài tập về nhà).
(g) Thường để thất lạc những vật dụng cần để làm việc hoặc vui chơi (đồ chơi, dụng cụ học tập, bút chì, sách vở, và các dụng cụ).
(h) Thường dễ dàng bị chia trí bởi các kích thích bên ngoài.
(i) Thường quên làm các công việc hằng ngày.
(2) Trong số các triệu chứng tăng động - bồng bột sau đây, có ít nhất 6 triệu chứng tồn tại trong thời gian ít nhất là 6 tháng, đến độ không thích nghi và không phù hợp với trình độ phát triển:
Tăng động
(a) Tay chân ngọ nguậy, ngồi không yên.
(b) Thường rời bỏ chỗ ngồi trong lớp học hoặc trong các tình huống đòi hỏi phải ngồi yên.
(c) Thường chạy nhảy hoặc leo trèo quá mức trong những tình huống không thích hợp (ở thiếu niên và người lớn, điều này có thể giới hạn ở mức đương sự có cảm giác bồn chồn chủ quan).
(d) Thường khó tham gia những trò chơi hoặc hoạt động giải trí cần phải giữ yên lặng.
(e) Thường luôn di chuyển hoặc hành động như thể “đang lái môtô”.
(f) Thường nói quá nhiều.
Bồng bột
(a) Thường buột miệng trả lời khi người khác chưa hỏi xong.
(b) Thường khó chờ đợi đến phiên mình.
(c) Thường làm gián đoạn hoặc quấy rầy người khác (xen vào các cuộc nói chuyện hoặc các trò chơi).
B. Một số triệu chứng tăng động - bồng bột hoặc triệu chứng giảm chú ý gây ra suy giảm chức năng được thấy hiện diện trước 7 tuổi.
C. Tình trạng giảm chức năng do các triệu chứng này được thấy hiện diện trong ít nhất 2 môi trường khác nhau (ở trường, ở nơi làm việc, hoặc ở nhà).
D. Phải có bằng chứng rõ ràng về tình trạng suy giảm chức năng đáng kể về lâm sàng được
Không chẩn đoán là ADHD nếu các triệu chứng được giải thích bởi một rối loạn tâm thần khác (vd. rối loạn khí sắc, rối loạn lo âu, rối loạn phân ly, rối loạn nhân cách, biến đổi nhân cách do bệnh lý y khoa, hoặc rối loạn liên quan hóa chất). Trong tất cả các rối loạn này, những triệu chứng giảm chú ý có thời điểm bắt đầu đặc hiệu là sau 7 tuổi, và bệnh sử thời thơ ấu về khả năng thích nghi với trường học thường không được đặc trưng bởi các hành vi gây rối (disruptive behavior) hoặc không có những than phiền của giáo viên về tình trạng giảm chú ý, và các hành vi tăng động, bồng bột. Khi rối loạn khí sắc hoặc lo âu cùng xảy ra đồng thời với ADHD, từng tình trạng nên được chẩn đoán riêng. ADHD không được chẩn đoán khi các triệu chứng tăng động và giảm chú ý xảy ra trong thời gian diễn tiến của một rối loạn phát triển lan tỏa (pervasive developmental disorder) hoặc một tình trạng loạn tâm khác. Các triệu chứng giảm chú ý, tăng động, bồng bột liên quan đến việc sử dụng một dược chất (như thuốc giãn phế quản, isoniazide, akathisia lấy từ các neuroleptics) ở những trẻ dưới 7 tuổi không được chẩn đoán là ADHD, thay vào đó nên chẩn đoán là các rối loạn liên quan hóa chất không đặc hiệu (other substance-related disorders not otherwise specified).
TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ VÀ TỰ SÁT (I)
Cử nhân Tâm lý ÁI NGỌC PHÂN
KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ (CRISIS)
Khái niệm về khủng hoảng:
Khủng hoảng là sự mất cân bằng giữa những yêu cầu do một tình huống, một vấn đề đặc biệt đặt ra và nguồn lực sẵn có để giải quyết những nhu cầu đó. Khi những nguồn lực thông thường để giải quyết tình huống yêu cầu không có tác dụng, và những nỗ lực để làm giảm thiểu khó khăn đó cũng không mang lại giá trị, (Bruce Singh & Sidney Bloch) con người bước vào thời kỳ khủng hoảng - thời kỳ xuất hiện mâu thuẫn. Hay nói cách khác khủng hoảng là sự mâu thuẫn bên trong giữa nhu cầu phát sinh trong một tình huống xã hội mới (ví dụ: sự thay đổi: tình trạng hôn nhân gia đình, công việc, chức vụ, mức lương, nơi ở, bạn bè, điều kiện sống…, hay những mất mát, những may mắn bất ngờ trong cuộc sống: trúng số...) và năng lực thỏa mãn nhu cầu ấy. (theo Đ.B.Enconhin).
Những mâu thuẫn bên trong tạo ra một tình trạng mất cân bằng giữa lý trí và cảm xúc, những cảm xúc đau khổ, bối rối, giận dữ, chênh vênh, hoảng loạn…tràn ngập, xâm chiếm trong tâm trí, đẩy lùi tính sáng suốt của lý trí, cá nhân bị “ném xuống”, đẩy dồn vào và mắc kẹt bởi một sự kiện có thể nhận biết được cái mà lấn át, chôn vùi khả năng ứng phó của cá nhân. Cá nhân hoàn toàn phải đối mặt, chạm trán như một giai đoạn đau khổ, buồn bã, song khủng hoảng là một phần bình thường trong tiến trình sống của con người (Sharon L Johnson).
Tóm lại, trong phạm vi bài viết này, khủng hoảng là một giai đoạn, xuất hiện cấp thời, có diễn biến và kết thúc. Khủng hoảng xuất hiện khi một sự kiện, một tình huống xã hội tác động làm lất áp, chôn vùi khả năng ứng phó của cá nhân, gây ra sự mất cân bằng giữa giữa lý trí và tình cảm, theo đó, yếu tố cảm xúc dâng cao, kịch tích, đẩy lùi lý trí, tràn ngập trong tâm trí của con người, che lấp tạm thời khả năng giải quyết vấn đề bởi lý trí. Cá nhân hoàn toàn phải đối mặt, chạm trán như một giai đoạn đau khổ, buồn bã, song khủng hoảng là một phần bình thường trong tiến trình sống của con người.
Diễn biến khủng hoảng
Diễn biến của một khủng hoảng có thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sự biến đổi và chuỗi diễn biến khủng hoảng
Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III Giai đoạn IV
Sự va chạm Rút lui. Thích ứng. Sự tái thiếp lập.
Sự bối rối hỗn loạn Sự tái hòa hợp.
Mức độ cân bằng thích nghi
Diễn biến
Giai đoạn I
Giai đoạn II
Giai đoạn III
Giai đoạn IV
Thời gian
Giờ
Ngày
Tuần
Tháng
Đáp ứng
Tấn công (“ở lại” và “chiến đấu” với vấn đề tìm ra cách giải quyết) – lẩn trốn (bỏ chạy và phớt lờ vấn đề).
Giận dữ - Sợ hãi – Mặc cảm tội lỗi – Thịnh nộ
Bắt đầu những suy nghĩ tích cực
Hy vọng
Suy nghĩ
Tê liệt – Mất phương hướng
Tình trạng mơ hồ, không chắc chắn.
Giải quyết vấn đề
Củng cố các vấn đề được giải quyết
Sự định hướng
Tìm kiếm mục tiêu bị mất. Tình trạng ngưng hoạt động của thể thống nhất , tạo nên sự rời rã thiếu gắn kết giữa các hệ thống
Mặc cả - tình trạng tách rời, thờ ơ
Tìm kiếm mục tiêu mới
Tái lập sự gắn kết
Cách cư xử
Sự hồi tưởng
Làm rõ tình trạng phức tạp, bối rối.
Tập trung vào việc thăm dò, khảo sát
Thử nghiệm thực tế
Hướng dẫn nhu cầu
Sự chấp nhận của cảm xúc
Điều khiển nhiệm vụ định hướng
Sự hỗ trợ - bên trong tinh thần.
“Chọc thủng” tuyến phòng vệ - củng cố tăng cường hy vọng
Các thuật ngữ liên quan
Ngoài khủng hoảng, thì stress và sang chấn tâm lý (trauma) là những khái niệm thường gặp. Các tình thế gây stress và khủng hoảng nói chung đều giống nhau. Trong khi stress nhấn mạnh khả năng huy động các những “tổ chức phòng vệ”, “nguồn lực ứng phó” để đương đầu và giải quyết trước một tình huống khó khăn; thì khủng hoảng nhấn mạnh đến sự thất bại trong khả năng ứng phó, làm phát sinh một tình trạng mất cân bằng tạm thời giữa lý trí và cảm xúc. Trong điều kiện thông thường, stress là một đáp ứng thích nghi bình thường về mặt tâm lý sinh học và hành vi của cá nhân, xuất hiện trên tất cả mọi người, luôn tồn tại, diễn ra hằng ngày trong cuộc sống ở dạng cấp tính hay dai dẳng, và khủng hoảng thì mang tính bước ngoặc quan trọng, đòi hỏi cá nhân phải có những thay đổi thích nghi ứng phó.
Các hoàn cảnh gây stress, khủng hoảng đều có thể gây ra một sang chấn tâm lý (trauma), khi hoàn cảnh, sự kiện ấy xuất hiện đột ngột, cấp diễn, với cường độ cao đe doạ an toàn tính mạng, sự toàn vẹn của cá nhân và không thể kiểm soát như thiên tai, tai nạn, chiến tranh, bạo lực, gây ra những xáo trộn chức năng tâm lý. Sang chấn tâm lý nhấn mạnh đến hậu quả để lại của sự kiện: rối loạn hoạt động chức năng. Cá nhân bị tác động mạnh bởi những hồi ức khiếp sợ (những “âm vang”, tái hiện sự kiện sang chấn) hơn là bản thân sự kiện gây sang chấn. Sau một sang chấn các rối loạn tâm trí có thể diễn biến đến mức trầm trọng thành các rối loạn stress cấp (ASD) hoặc mãn tính (rối loạn stress sau sang chấn: PTSD)
Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối. Mặc dù xét về bản chất, sự diễn biến và mức độ biểu hiện và ý nghĩa của chúng có khác biệt nhưng kết quả của những tình trạng stress, khủng hoảng, sang chấn tâm lý… thường đưa đến những đáp ứng tâm lý có thể quan sát được khá tương đồng như: cảm xúc trầm nổi bật (hoặc gia tăng cảm xúc trong số ít trường hợp, hoặc cảm xúc không ổn định lúc vui lúc buồn, cáu giận vô cớ…) đó có thể là những cơn buồn chán ngắn (blue) hay kéo dài dẫn đến các rối loạn khí sắc (trầm cảm), tình trạng cơ thể mệt mỏi căng thẳng do phải đương đầu với những tình huống khó khăn, tình trạng lo âu thường xuyên và trầm trọng hơn với sự xuất hiện của các cơn hoảng loạn (panic attack), chất lượng giấc ngủ và ăn uống bị ảnh hưởng... và tùy theo từng trường hợp cụ thể mà đôi khi cần có sự can thiệp của hệ thống hỗ trợ y khoa và tâm lý.
Nguy cơ khủng hoảng
Các nhân tố của khủng hoảng
Có 4 nhân tố chung của khủng hoảng
1. Sự kiện nguy hiểm (hazardous event)
Sự kiện nguy hiểm xảy ra bắt đầu bằng một chuỗi những phản ứng lại các sự kiện lên đến cao trào, đỉnh điểm trong cơn khủng hoảng. Ví dụ: một người mẹ trẻ chuẩn bị rất nhiều cho sự thăng tiến nghề nghiệp của mình thì lại phát hiện mình có thai, một người đàn ông góa vợ phải nuôi 5 đứa con nhỏ, mà lại mất việc làm khi đang ở chức vụ cao….Tất cả mọi người hầu như đều có chung một đặc điểm: phải đối mặt cùng lúc nhiều vấn đề khó khăn, cần lựa chọn. Điều quan trọng đối với mỗi người trong cơn khủng hoảng và những người hỗ trợ nhận ra các sự kiện đang đổ dồn, thúc đẩy họ.
2. Tình trạng dễ tổn thương (vulnerable state)
Con người luôn rơi vào tình trạng dễ tổn thương khi khủng hoảng diễn ra. Tính dễ bị tổn thương ở họ xuất phát từ nhiều yếu tố (1) là người hứng chịu những tác động trực tiếp của những sự kiện gây khủng hoảng, (2) thiếu mạng lưới hỗ trợ hiệu quả, (3) có tiền sử chịu đựng những sang chấn hay rối loạn cảm xúc…đồng thời sức khỏe thể chất cũng ảnh hưởng đến tình trạng của họ (mất ngủ, bệnh cơ thể…)
3. Nhân tố thúc đẩy (precipitating factor)
Nhân tố thúc đẩy giống như “một giọt nước làm tràn ly”. Một số người có vẻ như kiềm nén rất tốt trong suốt thời gian của sự mất mát to lớn hay nỗi đau khổ và sau đó họ khụy ngã, suy sụp, tan vỡ. Đó là một giọt nước làm tràn ly, những phản ứng và khóc là tình trạng đáp ứng bình thường cho những mất mát quá sâu.
4. Tình trạng khủng hoảng tiến triển (the state of active crisis)
Khi một người không thể kiểm soát tình huống được nữa, khủng hoảng sẽ tiến triển và phát triển, 4 dấu hiệu của tình trạng này là:
(1). Sự xuất hiện các triệu chứng về mặt tâm lý học, thể chất hay cơ thể bao gồm: trầm cảm, chứng đau đầu, lo âu, …một vài sự bực dọc, khó chịu cực độ luôn luôn hiện diện ở một số người.
(2). Sự xuất hiện quan điểm về sự thất bại và cơn hoảng loạn: một người có thể cảm thấy rằng họ đã cố gắng làm tất cả nhưng nó chẳng mang hiệu quả, và không có điều gì thay đổi. Vì vậy họ cảm thấy bất lực – thất bại, bị “chôn vùi” và tuyệt vọng. Họ có hai cách đáp ứng với tình trạng hiện thời: cách phản ứng thứ nhất: họ trở nên kích động trong các hành vi cư xử (hành vi tăng động: đứng ngồi không yên, đi tới lui, uống rượu, dùng thuốc, lái xe rất nhanh, gây hấn, gây chiến…), ngược lại có một số người chọn cách phản ứng thứ hai: trở nên thờ ơ, vô cảm, ví dụ tình trạng ngủ nhiều (so với trước đây hoặc so với nhu cầu).
(3). Việc tập trung vào tìm kiếm sự giúp đỡ: “hãy đưa tôi ra khỏi tình trạng này”. Họ mong muốn được hỗ trợ để làm giảm nhẹ nỗi đau của cơn khủng hoảng, bởi họ không ở trong tình trạng, điều kiện để giải quyết, xử lý các vấn đề theo cách có lý trí. Đôi khi trong cơn khủng hoảng có thể xuất hiện tình trạng trở nên bàng hoàng, choáng váng, sững sờ, hay có những phản ứng theo cách kỳ lạ, khó hiểu. Họ có thể có chút điên rồ trong việc nỗ lực, quyết tâm tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người khác, hay có thể trở nên phụ thuộc quá mức vào một ai đó giúp đỡ họ thoát khỏi tình trạng khó xử của mình.
(4). Thời điểm của việc giảm năng suất: Một người đang trong cơn khủng hoảng tiến triển có thể tiếp tục một cách bình thường các hoạt động chức năng nhưng thay vì đáp ứng ở mức tuyệt đối, nó chỉ có thể đáp ứng vào khoảng 60%. Một nguy cơ lớn từ khả năng đánh giá, xác định tình trạng hiện tại của bản thân, sự kém hiệu quả trong nguồn lực ứng phó sẽ có khả năng xảy ra, họ có thể nhận thức được điều đó và chính điều này càng làm họ chán nản, ngã lòng.
Khả năng nhận định, đánh giá hoàn cảnh, sự kiện khách quan là một phần quan trọng trong chuỗi diễn biến khủng hoảng. Sự nhận định, đánh giá ấy ảnh hưởng lên cách ứng phó của cá nhân đối với hoàn cảnh, sự kiện. Mỗi người nhận thức về một sự kiện theo cách riêng của mình. Những yếu tố niềm tin, ý kiến, sự mong đợi, và nhận thức… tất cả kết hợp với nhau trong cùng lúc để lượng giá tình huống từ đó dẫn đến khủng hoảng hay không khủng hoảng. Và điều quan trọng là nó giúp con người có thể nhìn sự kiện bằng đôi mắt khách quan. Cái chết của một người bạn thân được xác định từ một vài điểm như: sự thân thiết trong mối quan hệ này là như thế nào, họ có thường tiếp xúc, quan hệ với những người khác như thế nào, và đã có phản ứng như thế nào trước sự mất mát ấy, đã từng trải qua những mất mát gần đây như thế nào…Một góa phụ đã nhận ra rằng việc mất mát người chồng rất khác biệt với việc mất một người bạn thân, một đồng nghiệp hay một người chú của chồng cách đây năm năm.
Các nhân tố của sự cân bằng và khủng hoảng
Các nhân tố cân bằng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định nguy cơ khủng hoảng. Một vài người cảm thấy sự kiện này sẽ không dẫn đến khủng hoảng nếu họ không thiếu hụt một hay nhiều nhân tố cân bằng trong cuộc sống:
Sự nhận thức đầy đủ và tương thích
Cách thức mà vấn đề xuất hiện và ý nghĩa của nó đối với cá nhân Vd: tan vỡ trong tình yêu, có nhiều người cảm thấy rằng mất người yêu là mất tất cả, là điều tồi tệ nhất đến với họ, và có một số khác lại cảm thấy đau buồn, nhưng đây là cơ hội mới của họ…tuy nhiên không phải ai cũng cảm thấy như nhau đối với cùng một sự việc.
Hệ thống hỗ trợ thích hợp
Bao gồm gia đình, các nhóm bạn bè, mối quan hệ họ hàng thân thiết, các cơ quan … những hệ thống có thể hỗ trợ, mạng lưới hỗ trợ chúng ta trong suốt vấn đề.
Cơ chế ứng phó
Phần lớn chúng ta thường dựa vào nhân tố này, nó bao gồm: giải thích hợp lý, chối bỏ, tìm kiếm những thông tin từ sách, báo, cầu nguyện, ….Tính đa dạng, phong phú của các phương thức ứng phó có thể làm giảm khả năng xuất hiện khủng hoảng (hay kéo dài giai đoạn khủng hoảng) ở cá nhân.
Khoảng thời gian giới hạn tồn tại
Con người không thể ở mãi mãi, lâu dài trong cơn khủng hoảng. Tất cả đều phải hoàn tất, đều phải được giải quyết, cơn khủng hoảng chỉ có thể tồn tại, kéo dài tối đa trong 6 tuần[1]. Sự cân bằng về thể chất và tâm lý có thể khác biệt so với trước đó nhưng ít nhất ra đó cũng là sự cân bằng.
Trong một số trường hợp có thể giúp cá nhân vượt qua nỗi đau khủng hoảng bằng cách tạo ra các động lực thay đổi một cách có ý nghĩa trong cuộc sống của họ hoặc cá nhân có thể lựa chọn cái chết nhằm tự kết thúc nỗi đau.
Vai trò của khủng hoảng
Khủng hoảng là một bước ngoặc quyết định sau một vấn đề hay một tiến trình của hành động phải tiếp diễn, hoặc phải thay đổi hoặc hoàn tất, một thời điểm mang tính chất quyết định quan trọng, một bước chuyển. (Multimedia tool for buiding mutilingual dictionaries, MTD 2002) Đây là thời điểm của những tương tác bên trong con người với mối nguy hại ở bên ngoài. Tương tác thành công, con người vượt qua khủng hoảng, tái thiết lập cân bằng, tích lũy thêm những kinh nghiệm mới, làm giàu hệ thống các nguồn lực ứng phó của bản thân, hình thành thêm những cấu trúc tâm lý mới, hoàn thiện các hoạt động chức năng (đặc biệt sau những giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi),… Kết quả là giúp con người phát triển, trưởng thành và ngày càng hoàn thiện hơn. Và như vậy khủng hoảng mang những ý nghĩa tích cực nhất định.
Trong cơn khủng hoảng con người buộc phải đối mặt, chịu đựng một sự mất cân bằng rõ nét giữa lý trí – cảm xúc do những sự kiện bên ngoài tác động. Những cảm xúc (đau khổ, tuyệt vọng, giận dữ, …) làm choáng hết tâm trí, con người không thể (hay gặp khó khăn) trong việc xử lý tình huống, sự kiện gây khủng hoảng một cách hiệu quả, sáng suốt và điều này khiến họ cảm thấy bối rối, chông chênh. Vì vậy, không phải tất cả những khủng hoảng đều được mong đợi.
Tuy nhiên, khủng hoảng không phải lúc nào cũng tồi tệ. Đúng hơn là nó thể hiện một thời điểm then chốt trong cuộc sống của con người. Vì thế cho nên nó mang lại nhiều cơ hội cũng như nhiều nguy hiểm. Khi một người tìm kiếm những phương thức ứng phó cho riêng mình, họ có thể chọn lựa con đường của sự hủy hoại nhưng họ cũng có thể khám phá những thông tin và những phương thức mới tốt hơn những phương thức mà họ đã từng sử dụng và có giá trị.
Khủng hoảng về bản chất là những phản ứng phòng vệ tự nhiên của con người trước sự xuất hiện của những sự kiện (tiềm ẩn nguy cơ) khách quan. Khủng hoảng bản thân nó không hàm ý tiêu cực hay tích cực mà chính khả năng đương đầu, thích nghi lựa chọn cách giải quyết khủng hoảng của mỗi người đưa đến những kết quả tích cực hay tiêu cực: chấp nhận đối mặt, nỗ lực giải quyết để thích nghi phát triển hay trốn tránh, lựa chọn hành vi tiêu cực để thoát khỏi khủng hoảng… Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi cá nhân với nguồn lực ứng phó của riêng của mình.
Như vậy, khủng hoảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần thiết trong tiến trình phát triển của con người. Khi khủng hoảng xuất hiện, một tình trạng nguy hiểm được báo động nhưng một cơ hội cho sự trưởng thành và hoàn thiện cũng xuất hiện. Là nguy hại hay là cơ hội còn tùy thuộc vào bản thân của mỗi cá nhân với khả năng ứng phó riêng. Giải quyết khủng hoảng bằng con đường hình thành những mối quan hệ mới và các dạng hoạt động mới. Giải quyết khủng hoảng – con người cân bằng, bước sang một mức phát triển cao hơn.
Phân loại khủng hoảng
Về tính chất, khủng hoảng được chia làm hai loại: các khủng hoảng luôn luôn xuất hiện trong tiến trình phát triển của con người, một số có thể dự đoán trước bởi đó là những cơn khủng hoảng lứa tuổi trong chu trình phát triển và một số ngẫu nhiên, không thể dự đoán trước, xuất hiện bất ngờ trong cuộc sống tùy thuộc vào hoàn cảnh sống và khả năng thích nghi, đương đầu của mỗi cá nhân, được gọi là cơn khủng hoảng ngẫu nhiên
Khủng hoảng lứa tuổi
Erik Erikson (1970), nhà tâm lý học đã đề cập đến các 8 giai đoạn phát triển ở một cá nhân và sự chuyển tiếp từ giai đoạn này sang giai đoạn kế tiếp được đánh dấu bằng sự xung đột và đấu tranh giải quyết những xung đột ấy hay nói cách khác sự xuất hiện của khủng hoảng và cách giải quyết chúng giúp con người bước sang một nấc thang phát triển mới, đánh dấu bằng việc hình thành những cấu trúc tâm lý mới, hoàn thiện các hoạt động chức năng. Erikson đã gọi những khủng hoảng xuất hiện trong các giai đoạn chuyển tiếp trong tiến trình phát triển là khủng hoảng bản sắc (identity crisis) và tin rằng đây là một trong những xung đột quan trọng nhất của mà con người phải chạm trán trong quá trình sống khi họ vượt qua 8 giai đoạn phát triển trong cuộc đời.
Sự phát triển tâm lý xã hội của Erikson được mô tả qua 8 giai đoạn phát triển xuyên suốt trong quá trình phát triển lành mạnh mà con người phải trải qua, bắt đầu từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành. Trong mỗi giai đoạn phát triển con người phải đương đầu, và tự kiểm soát một cách đầy hy vọng, với những thử thách mới. Mỗi giai đoạn sau dựa vào nền tảng của việc những giai đoạn trước được hoàn tất thành công. Những thử thách của các giai đoạn trước không được giải quyết hoàn tất, hay vượt qua thành công có thể tái xuất hiện lần nữa như một vấn đề, rắc rối trong tương lai. Những nguồn lực hỗ trợ (bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội) là quan trọng trong việc đứa trẻ có thể vượt qua khủng hoảng lứa tuổi và phát triển tốt hay không? Một nguồn lực hỗ trợ lành mạnh, hiệu quả giúp trẻ nhanh chóng vượt qua giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi (đặc biệt là những năm tháng đầu đời), tạo thành nền tảng vững chắc thúc đẩy đứa trẻ trưởng thành nhanh hơn và ít gặp khó khăn hơn trong việc vượt qua các giai đoạn khủng hoảng sau này trong cuộc sống. Ngược lại một đứa trẻ tự thân nó phải đương đầu, vượt qua giai đoạn đầy khó khăn này mà không có nguồn lực hỗ trợ hiệu quả thì các khủng hoảng lứa tuổi có thể sẽ kết thúc muộn hơn. Đứa trẻ phải “vất vả” bước vào giai đọan sau, điều này gây ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành hoàn thiện ở trẻ, và ảnh hưởng đến khả năng vượt qua những giai đoạn khủng hoảng khác trong cuộc đời của trẻ sau này.
Tính chất khủng hoảng trong các giai đoạn phát triển là rất khác nhau và không xuất hiện như nhau trên tất cả mọi người. Trong đó, khủng hoảng ở lứa tuổi vị thành niên được xem là quan trọng nhất, và diễn biến kịch tích nhất. Bên cạnh đó với một số người có giai đoạn chuyển tiếp sang nấc thang phát triển mới khá êm ả, với một số người thì chỉ dừng lại ở mức những xung đột rất ngắn, và với một số người thì đó lại là cơn khủng hoảng tồi tệ… điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân con người đó với khả năng ứng phó, kinh nghiệm, …và các hệ thống hỗ trợ từ gia đình, xã hội…
Ngoài những cơn khủng hoảng có thể dự báo trước, xuất hiện trong tiến trình phát triển tự nhiên, con người còn gặp phải những cơn khủng hoảng khác xuất hiện bất ngờ, đột ngột, không hề được dự báo trong quá trình sống của mình, và gọi đó là những cơn khủng hoảng ngẫu nhiên.
Khủng hoảng ngẫu nhiên
Gọi là cơn khủng hoảng ngẫu nhiên bởi nó xuất hiện bất ngờ không hề được dự báo trước, diễn biến trong một thời gian tương đối ngắn và kết thúc. Cũng như khủng hoảng lứa tuổi, cơn khủng hoảng này kết thúc và “để lại” một kết quả nhất định, giúp con người trưởng thành hơn. Đó có thể là một trải nghiệm mới với những kinh nghiệm, một kiểu ứng phó mới, tiếp thu thêm những bài học mới về cách tư duy, hành vi ứng xử, cảm xúc…
Cơn khủng hoảng ngẫu nhiên xuất hiện bởi những sự kiện, những tình huống nguy cơ, … luôn tiềm ẩn trong cuộc sống, trong suốt quá trình phát triển của mỗi người, và ai ai cũng phải trải qua: một người thân trong gia đình đột ngột qua đời vì tai nạn, được thăng chức cao với đầy ắp những áp lực công việc và trách nhiệm, ly hôn, thất vọng vì cuộc sống mới ở một môi trường mới không như mong đợi…
Kết hợp với tính chất của từng giai đoạn phát triển cơn khủng hoảng ngẫu nhiên sẽ mang những màu sắc khác nhau, với những những diễn biến, và sự tác động khác nhau lên một người, tạo nên bối cảnh khủng hoảng của cá nhân trong thời điểm ấy. Ví dụ: cơn khủng hoảng ngẫu nhiên xuất hiện trong giai đoạn tuổi vị thành niên sẽ khác hoàn toàn với lứa tuổi trung niên, về già bởi sự kịch tính, thời gian kéo dài, và mức độ tác động …Tuy nhiên điều này còn tùy thuộc vào tính chất của sự kiện gây nên khủng hoảng ở mỗi cá nhân khác nhau.
Với cùng một sự kiện, một tình huống như nhau xuất hiện trong các giai đoạn phát triển khác nhau được đánh giá khác nhau và có nguy cơ gây ra khủng hoảng khác nhau. Ví dụ: cùng là sự kiện người mẹ qua đời nhưng ở lứa tuổi vị thành niên và nhỏ hơn đây là khủng hoảng nặng nề, khó vượt qua trong khi đó lứa tuổi trung niên lại dễ chấp nhận hơn có thể do sự trưởng thành hơn và việc dự đoán trước việc người mẹ ra đi là một tất yếu của thời gian. Bởi sự lượng giá khác nhau trong từng thời điểm nên khi có cùng một sự kiện, một tình huống gây khủng hoảng như nhau xuất hiện lập lại trong tiến trình sống, thì diễn biến của cơn khủng hoảng có thể khác nhau với những cách ứng phó khác nhau tùy thuộc vào tính chất giai đoạn phát triển, nguồn lực hỗ trợ, kinh nghiệm từng trải…Một ví dụ thường thấy là sự mát mát những người thân trong gia đình: chẳng hạn như cái chết vì bệnh ung thư di truyền trong gia đình những cá nhân đều phản ứng khác nhau, những thế hệ trong gia đình cũng phản ứng khác nhau, và chính bản thân cá nhân ấy cũng có những phản ứng khác nhau khi họ còn là một đứa trẻ, một người trưởng thành, trung niên và già đi.
Trong giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi, có sự xuất hiện của những sự kiện nguy cơ lại càng làm gia tăng thêm sự kịch tính và kéo dài cơn khủng hoảng. Vd: giai đoạn khủng hoảng tuổi sơ sinh với sự kiện người mẹ qua đời, giai đoạn khủng hoảng tuổi vị thành niên đi kèm với sự xuất hiện sự kiện người thân qua đời, mất mát mối quan hệ giới tính đầu tiên, tai nạn đưa đến những khiếm khuyết cơ thể…
Kết quả của cơn khủng hoảng
Khủng hoảng là một hiện tượng tự nhiên của cuộc sống là bước ngoặc quan trọng cần thiết xuất hiện, tồn tại trong tiến trình phát triển của con người, và tất cả mọi người khi rơi vào khủng hoảng đều có thể tự mình giải quyết chúng với kinh nghiệm, năng lực ứng phó, nguồn lực hỗ trợ riêng vốn có mà đôi khi không nhất thiết cần sự can thiệp của y khoa – tâm lý học. Bên cạnh đó bởi tính chất cấp tính, khủng hoảng xuất hiện khi sự kiện và tình huống nguy cơ hiện diện – diễn biến – kết thúc theo chuỗi diễn biến tự nhiên. Vì vậy có hay không sự can thiệp thì khủng hoảng tự bản thân nó cũng kết thúc. Kết thúc chuỗi khủng hoảng bằng việc con người thích ứng, tìm được phương cách giải quyết vấn đề, củng cố chúng, tái thiết lập sự gắn kết, cân bằng, tích lũy thêm những kinh nghiệm mới và “bước tiếp” trong cuộc sống.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khủng hoảng không được vượt qua, con người mắc kẹt lại lâu hơn ở một giai đoạn nào đó (giai đoạn 1 & 2) và lựa chọn những cách giải quyết khủng hoảng không phải bằng lý trí mà chịu sự chi phối mạnh mẽ của những cảm xúc tiêu cực (đau buồn, giận dữ, mặc cảm...) đưa đến những kết quả gây “nguy hiểm” cho bản thân và người khác. Trong hai giai đoạn đầu của khủng hoảng (đặc biệt là giai đoạn 2), những cảm xúc ấy không ngừng “tấn công”, “chôn vùi” họ trong đau khổ, tuyệt vọng, cảm giác thất bại, mặc cảm tội lỗi… làm thúc đẩy họ đi tìm cách “dẹp yên chúng”, “thoát khỏi” hay “tự chữa lành” bằng việc lạm dụng rượu, ma túy, ý định hoặc hành vi tự sát (đưa đến cái chết), hay tìm đến đức tin tôn giáo… Khủng hoảng kéo dài, tình trạng mất cân bằng kéo dài gây nên những rối loạn trong các hoạt động chức năng, ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại, gia đình, công việc, các mối quan hệ trong xã hội…, hậu quả là dẫn đến các rối loạn: rối loạn thích ứng, rối loạn khí sắc (thường gặp thể trầm cảm),….
Lúc này, cần phải có sự can thiệp về mặt y khoa – tâm lý học, nhằm giúp cá nhân vượt qua, hoàn tất giai đoạn khủng hoảng, chữa lành những hậu quả mà khủng hoảng để lại trong quá trình diễn biến của chúng (chứng nghiện rượu, chất kích thích, điều trị các rối loạn).
Ý định – hành vi tự sát là một trong những phương cách được xem xét, lựa chọn trong quá trình giải quyết khủng hoảng. Nguy cơ tự sát thành công còn tùy thuộc rất lớn vào nhân cách của mỗi cá nhân, quan điểm, thói quen, sự “học hỏi”, lứa tuổi phát triển, thời điểm xảy ra khủng hoảng, hệ thống hỗ trợ, khả năng ứng phó…và khả năng tái phát, tính “thuận tiện, sẵn có” của các dụng cụ hỗ trợ tự sát… Tự sát đem đến hậu quả không thể khắc phục, người tự sát thành công mang đến những mất mát, đau khổ cho gia đình, bạn bè. Vì vậy cần phát hiện và can thiệp kịp thời nếu trong cơn khủng hoảng có xuất hiện ý định hay hành vi tự sát.
TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ VÀ TỰ SÁT (II)
Cử nhân Tâm lý ÁI NGỌC PHÂN
KHÁI NIỆM TỰ SÁT VÀ HÀNH VI TỰ SÁT (SUICIDE)
Tự sát, tự tử, tự vẫn hay tự kết liễu … đều là những từ ngữ chỉ chung một hiện tượng khi con người một cách có ý thức thực hiện hành vi tự gây ra cái chết cho bản thân mình. “Đó là một sự lựa chọn: có chủ tâm suy nghĩ thận trọng, cố ý tự làm hại bản thân mình. Là một hiện tượng có chủ tâm tự làm hại bản thân mình và thường với mong muốn được chết”.
Hành vi tự sát là hành vi tự gây ra cái chết cho bàn thân một cách có ý thức.
Phân lọai tự sát
Về mặt ý nghĩa – mục đích của hành vi tự sát: Emil Durkheim, một nhà tâm lý học người Pháp (cuối thế kỷ 19), đã đưa ra 2 loại hình tự sát: tự sát vị kỷ (egoisitic suicide) và tự sát vì lòng vị tha (altruistic suicide).
Về mặt quy mô: tự tự tập thể và tự sát cá nhân.
Về các cấp độ: ý tưởng về cái chết, ý tưởng tự sát, kế hoạch tự sát hay còn gọi là mưu đồ tự sát, toan tự sát, tự sát tái phát, tự sát thành công.
Việc phân loại tự sát chỉ mang tính tương đối nhằm làm rõ hơn phạm trù rộng lớn này. Và tùy theo quan điểm của những nhà nghiên cứu tâm lý học, xã hội học… mà những phân loại này có thể thay đổi cho phù hợp trong quá trình nghiên cứu phát triển. Trong phạm vị khóa luận này chỉ tập trung nghiên cứu trên khía cạnh tự sát vị kỷ (egoisitic suicide)
Một số thuật ngữ
Xét về mức độ nguy hiểm (dựa trên nguy cơ được thực hiện và thực hiện thành công hành vi tự sát) ta cần phân biệt một số thuật ngữ sau:
Ø Ý tưởng tự sát (suicide ideation) là ý tưởng xuất hiện thoáng qua trong suy nghĩ khi một người đang rơi vào vô vọng, bế tắc trong việc tìm kiếm phương cách giải quyết vấn đề khó khăn của mình. Họ bắt đầu hình dung về cái cảm giác bản thân sẽ ra đi để được thoát khỏi tình trạng hiện tại như thế nào, hay cái chết sẽ giúp ích gì cho họ. Lúc này, những người thân xung quanh khó mà phát hiện ra được nếu bản thân họ không muốn chia sẻ hoặc đôi khi họ nói về cái chết như một lời than vãn, hay nghe như một câu đùa: “thà chết còn hơn”, “chết còn sướng hơn”… Phần lớn những người này chỉ có ý tưởng tự sát mà chưa hình dung xem mình sẽ tự sát như thế nào, và bằng cách nào? Tuy nhiên một số ít trong những người này bắt đầu lập kế hoạch tự sát cho mình.
Ø Kế hoạch tự sát hay mưu đồ tự sát (suicide plan) khi những ý tưởng tự sát hình thành, họ bắt đầu tiến sâu hơn nữa, một kế hoạch thực hiện ý tưởng tự sát bắt đầu hình thành trong tâm trí. Họ bắt đầu suy nghĩ, lựa chọn thậm chí tìm kiếm các cách khác nhau để thực hiện hành vi tự sát. Đây không chỉ đơn thuần là việc họ sẽ chết như thế nào, mà là cả một kế hoạch chi tiết được thực hiện trong tâm trí: lựa chọn địa điểm, thời gian, cách thức tiến hành, chuẩn bị dụng cụ, có những sắp xếp khá chu đáo về mặt công việc, gia đình, bạn bè như một người sắp đi xa, trước khi tự sát, và chuẩn bị hết sức cẩn thận cho gia đình, bạn bè những người họ đặc biệt quan tâm, có trách nhiệm (dặn dò con cái, để lại di chúc, thư từ…) sau khi bản thân chết. Đây là lúc mà những người thân có thể phát hiện ra bởi bản thân người có kế hoạch tự sát có những thay đổi lớn cả về cảm xúc lẫn trong hành vi cư xử, đặc biệt là qua các cuộc trò chuyện mang tính dặn dò, chia tay, những giả định về việc sắp đi xa trong các câu chuyện của họ, những bàn luận về cái chết về thế giới bên kia, một thế giới khác… và những vấn đề mà họ đặc biệt quan tâm tìm hiểu đa phần liên quan đến cái chết…
Ø Toan tự sát (suicide attemp, parasuicide) thực hiện các kế hoạch đã có trong tâm trí. Đây giống như một hình thức thử nghiệm trước khi đi vào thực hiện chính thức, họ cũng sẽ ở đúng địa điểm, thời gian đã lên kế hoạch, chuẩn bị đầy đủ những dụng cụ “hỗ trợ” và bắt đầu tiến hành hành vi tự sát như trong kế hoạch. Thông thường, ở phụ nữ những lần thử nghiệm- toan tự sát này xuất hiện nhiều lần trước khi đưa đến cái chết hơn là ở nam giới, vì đa phần nam giới thường thành công ngay trong những lần thử nghiệm đầu tiên do những biện pháp mà họ lựa chọn có khả năng gây chết người (lethality). Tuy nhiên một hướng giải thích khác cho rằng, phái nữ thường cân nhắc suy nghĩ nhiều về các mối quan hệ, trách nhiệm của bản thân với người thân (cha mẹ, con cái…), những mối dây liên lạc tình cảm khác… nên ít quyết liệt hơn trong việc thực hiện hành vi tự sát. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì việc phát hiện một người toan tự sát có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì việc ấy có thể ngăn ngừa tình trạng xấu nhất (toan tự sát thành công) và có những hỗ trợ về y khoa kịp lúc, sự quan tâm, nâng đỡ và cả sự giám sát của người thân cũng sẽ làm cho người có ý định tự sát ngừng bước, xem xét lại quyết định của mình, đồng thời ngăn chặn việc tái phát hành vi tử tử và thành công.
Ø Xung động tự sát (suicide impulse) ý tưởng tự sát thôi thúc xuất hiện tức thời và ngay sau đó là thực hiện hành vi, trong thời gian rất ngắn với khả năng thành công cao, bản thân họ mất khả năng kìm hãm xung động thực hiện hành vi đó. Những xung động tự sát thường xuất phát từ những mâu thuẫn, xung đột kéo dài không thể giải quyết được tích lũy, nén chặt vào bên trong cho đến khi những mâu thuẫn, xung đột ấy lên đến cực điểm, họ bị dồn vào tình trạng bất an cực độ, những cảm xúc tiêu cực tràn ngập và ngay lập tức họ thực hiện nhanh chóng hành vi tự sát mà không cần lên kế hoạch hay chuẩn bị trước. Đây là xung động nguy hiểm vì khả năng tự hủy hoại mình (self-destructive) và tấn công người khác là rất cao do xuất phát từ trong những cảm xúc tiêu cực được nén chặt lâu ngày nay bùng phát dữ dội thông qua những hành vi, mà ngay tại thời điểm đó khả năng kiềm chế và lý trí của họ gần như bằng 0. Ví dụ: những trường hợp giết người rồi tự sát, như trường hợp cuộc thảm sát tại Trường Công nghệ Virginia Tech tại Mỹ.
Việc phân biệt các thuật ngữ này chỉ mang tính tương đối, và thường có ý nghĩa trong việc lượng giá mức độ cũng như tình trạng nguy hiểm của thân chủ cho việc can thiệp, và những hỗ trợ phù hợp, đảm bảo an toàn cho thân chủ (người tự sát) và người thân. Nhưng đôi khi khó mà khẳng định chắc chắn rằng một thân chủ mới có ý tưởng tự sát thì ít nguy hiểm hơn là một thân chủ đã có kế hoạch tự sát hay toan tự sát. Thực tế cho thấy khi một người đã tự sát thành công thì khó mà xác định được rằng họ đang trong cơn xung động tự sát, hay toan tự sát, và cho dù tự sát không thành thì ý tưởng tự sát vẫn có thể xuất hiện trở lại.
Nguyên nhân tự sát - Ý nghĩa tâm lý của hành vi tự sát
Con người là sự tổng hòa giữa sinh lý, xã hội và tâm lý. Sự chi phối, tương tác lẫn nhau giữa những yếu tố ấy quy định nên hành vi của con người trong đó có hành vi tự sát. Khó mà có thể khẳng định hành vi tự sát ấy xuất phát từ những ảnh hưởng duy nhất của sinh học, xã hội, hay tâm lý, vì vậy các nhà nghiên cứu đã xem xét hành vi ấy trên cả ba mặt tác động hình thành nên những yếu tố nguy cơ hay những yếu tố bảo vệ một người trước quyết định thực hiện hành vi tự sát.
Các yếu tố xã hội
Sự khác nhau về tỉ lệ tự sát ở các quốc gia thuộc các châu lục khác nhau, ở các vùng thuộc các khu vực khác nhau trên cùng một lãnh thổ (thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền cao)… là dấu hiệu cho thấy tỉ lệ tự sát phần nào có liên quan đến các yếu tố xã hội – kinh tế - chính trị và văn hoá.
Sự thay đổi chế độ xã hội, sự bất ổn của tình hình kinh tế, an ninh, chính trị ở một quốc gia, các cuộc nội chiến, khủng hoảng kinh tế, khủng bố, việc di cư thay đổi môi trường xã hội …. luôn có những tác động nhất định đến đời sống tinh thần (và cả vật chất) của người dân – những người sẽ trực tiếp hứng chịu hậu quả của những biến động gây ra.
Tín ngưỡng tôn giáo được xem như là một trong những yếu tố có tính chi phối mạnh mẽ nhất và cũng khó lý giải nhất, niềm tin tôn giáo vừa được xem là một yếu tố nguy cơ nhưng cũng được đánh giá là yếu tố bảo vệ.
Bắt chước hay gặp ở những người trẻ tuổi. Trong số này tỉ lệ tự sát tăng lên khi họ theo gương những trường hợp tự sát trên phương tiện thông tin đại chúng.
Các yếu tố sinh học
Yếu tố di truyền trong tự sát được minh họa một cách rõ ràng trong gia đình của Ernest Hemingway. Ngoài việc ông, bố ông, hai đứa con và cháu gái của ông ta cũng tự sát. Ở Mỹ và Đan Mạch là một ví dụ số người có quan hệ ruột thịt có tỉ lệ tự sát cao hơn những con nuôi. Tỉ lệ tự sát ở những cặp sinh đôi cùng trứng cao gấp 6 lần ở những cặp sinh đôi khác trứng.
Sự ảnh hưởng di truyền còn liên quan đến tính di truyền một số bệnh lý như bệnh tâm thần (trầm cảm, tâm thần phân liệt…) nghiện rượu, ma túy…
Yếu tố sinh hóa: các bất thường ở não, đặc biệt là hệ Serotonin, đã được chứng minh có liên quan. Những người tự sát bằng các biện pháp bạo lực, bốc đồng như treo cổ, bắn vào mình, nhảy từ trên cao xuống thường có sự giảm axít 5-hydroxy–indol–acetic-acid (5HIAA), một chất chuyển hóa của serotonin, trong dịch não tủy.
Người ta cũng quan tâm đến sự giảm đáp ứng điện sinh lý trên da ở những người có hành vi tự sát. Phát hiện này phù hợp với sự quan sát những người tự cắt dứt da thịt mình và thường nói rằng lúc đó họ không thấy đau (tuy nhiên nghiên cứu này chưa đề cập đến tác dụng của yếu tố tâm lý tại thời điểm đó)
Bệnh cơ thể là yếu tố đi kèm thường gặp của tự sát, sự kết hợp này đặc biệt mạnh ở những người trên 50 tuổi (nhóm tuổi bắt đầu xuất hiện nhiều các bệnh thực thể). Những người có nguy cơ cao là người nhiễm HIV/AIDS, bệnh ác tính (đặc biệt là vùng đầu và cổ), bệnh Hungtington, chấn thương cột sống, bệnh thận, và bệnh Lupus. Điều này đang dẫn đến một vấn đề đang gây tranh cãi ở nhiều nước và cũng nhận được nhiều ý kiến khác nhau đó là an tử - cho phép bệnh nhân nan y thời kỳ cuối được chết êm ái.
Bệnh tâm thần: những người ở nhóm bệnh trầm cảm, lạm dụng rượu, ma túy, và tâm thần phân liệt đặc biệt có nguy cơ cao. Bệnh nhân tâm thần nhìn chung có nguy cơ tự sát cao gấp 10 lần so với nhóm người bình thường, mức độ nguy cơ còn phụ thuộc vào bản chất của bệnh.
Trầm cảm là tình trạng quan trọng nhất ảnh hưởng đến 2/3 các trường hợp tự sát. Tự sát thường xảy ra khi khởi phát, hoặc ngược lại, khi hết đợt trầm cảm là lúc mà người bệnh có nghị lực để hoạt động và sợ tái phát.
Tâm thần phân liệt với nguy cơ tự sát trong đời là 10%. Tự sát có thể là một đáp ứng với nội dung của một hoang tưởng hay một ảo giác nào đó, nhưng thường liên quan đến sự tan vỡ trong cuộc sống của những người trẻ tuổi (sự tái hòa nhập lại với cuộc sống bình thường trong công việc cũng như các mối ràng buộc xã hội)
Lạm dụng rượu có tỉ lệ 3-4% trong cuộc đời, thường là do suy sụp cả thể chất và tinh thần sau nhiều năm. Tự sát có thể là sự đáp ứng đối với hiện tượng loạn thần trong giai đoạn ngộ độc hoặc cai rượu.
Rối loạn nhân cách là nhóm nguy cơ đặc biệt cao bởi xu hướng rối loạn trong các mối quan hệ cá nhân – xã hội – gia đình, dễ bị những rối loạn khí sắc cấp tính và có những hành vi xung động bất thường. Tự sát và hành vi tự huỷ hoại như việc cắt đứt da thịt mình… và tấn công người khác, là khả năng có thể xảy ra.
Sự đi kèm cùng lúc nhiều rối loạn (như trầm cảm đi kèm loạn thần, trầm cảm, lạm dụng rượu và các chất gây nghiện…) càng làm gia tăng nguy cơ tự sát.
Các yếu tố tâm lý
Hành vi tự sát vị kỷ dù có chịu ảnh hưởng ít nhiều từ các yếu tố xã hội nhưng xét cho cùng hành vi ấy chỉ mang tính chất cá nhân. Những người có hành vi tự sát luôn có những lý do riêng xuất phát từ trong chính bản thân của nạn nhân và các mối quan hệ xã hội khác, có bằng cách nào hành vi tự sát được thực hiện thì cũng mang những ý nghĩa riêng mà đôi khi chỉ có bản thân nạn nhân mới thấu hiểu.
Ý nghĩa tâm lý của hành vi tự sát
Một trong những loại hành vi tự sát được xem là một hành vi mang tính chất xung động nhằm tránh một tình huống gây nên khủng hoảng, một tình huống khó khăn không thể giải quyết, hay không thể chấp nhận nổi. Về mặt tâm lý hành vi tự sát mang nhiều ý nghĩa đa dạng, phức tạp và tùy thuộc vào bản thân của mỗi cá nhân. Cá nhân thực hiện hành vi tử tử mà người thân, gia đình, bạn bè, những người xung quanh, BS, những nhà tâm lý học... hay chính bản thân người đó cho biết ý nghĩa hành vi của mình, nhưng cũng có nhiều trường hợp thực hiện hành vi tự sát mà không ai có thể lý giải được, vì vậy việc tìm hiểu ý nghĩa của hành vi tự sát phải tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân cụ thể được đặt trong bối cảnh sống cụ thể. Có những hành vi không chỉ đơn thuần xuất phát từ những nguyên nhân đơn lẻ hay mang một ý nghĩa duy nhất, hành vi có thể là sự tổng hợp từ nhiều nguyên nhân, mang nhiều ý nghĩa phức tạp song song cùng tồn tại…Và cũng thật khó khăn để biết chính xác rằng có bao nhiêu hành vi tự sát có ý nghĩa đã được tìm thấy. Tuy nhiên, hành vi tự sát nhìn chung thường mang những ý nghĩa tâm lý như sau:
1) Sự trốn chạy (Fuite): là một trong những biện pháp giải quyết khủng hoảng: trốn chạy, bỏ chạy khỏi một tình huống xuất hiện, tồn tại mà bản thân không thể đương đầu, chấp nhận và thích nghi. Điều này còn tuỳ thuộc vào sự cảm nhận và ngưỡng giới hạn chịu đựng của mỗi người về tình huống phải đối mặt: là nghiêm trọng, khó khăn, không thể vượt qua hay đơn giản, có thể ứng phó so với tình huống khách quan trong thực tế.
2) Sự tuyệt vọng (Désespoir): một trạng thái tinh thần suy sụp kèm theo khí sắc trầm: mất hy vọng vào hiện tại, niềm tin vào tương lai, không tìm được sự giúp đỡ từ những người khác, không có nguồn lực nâng đỡ tinh thần. Đây là trạng thái thường gặp ở những bệnh nhân nan y, ung thư giai đoạn cuối, HIV/AIDS…hay những người đang “mắc kẹt” trong những mâu thuẫn, xung đột nội tâm (con cái – tình trạng ly hôn…), những thất bại to lớn trước những điều đã từng được kỳ vọng làm họ sụp đổ, mất hết phương hướng (những kỳ vọng lớn cho sự nghiệp, hạnh phúc gia đình…)…
3) Sự mất mát, nỗi đau tang tóc (Deuil): đây là một trong những “chấn thương” to lớn nhất về tinh thần, đánh mất một cái gì đó có ý nghĩa to lớn trong đời sống tình cảm, sự tan vỡ, mất mát các mối quan hệ thân thiết gắn bó (những người thân, người yêu, vợ - chồng - con cái…), một cảm giác bất ngờ, hụt hẫng, giận dữ, mặc cả, cô đơn, như bị bỏ rơi lại … (chu trình grief) khiến họ có khả năng nghĩ đến việc tự sát để giải thoát khỏi nỗi đau này, hay muốn “đi cùng” người mình yêu thương. Tuy nhiên không phải với bất kỳ một sự mất mát người thân nào cũng gây ra những cảm xúc và suy nghĩ như trên, nó còn tùy thuộc vào từng cá nhân cụ thể, tùy thuộc vào tính chất mối quan hệ mất mát và sự cảm nhận, khả năng ứng phó cũng như khả năng vượt qua của từng cá nhân cụ thể với những nguồn lực hỗ trợ trên thực tế.
4) Sự trừng phạt (Châtiment): sự tự trừng phạt bản thân, một mặc cảm tội lỗi và cho rằng chỉ có cái chết (hoặc tự nhận mình đáng chết) mới đủ chuộc lại sai lầm của mình. Tuy nhiên cần phải chú ý trong trường hợp này nạn nhân có thể là những người có vấn đề về tâm thần: hoang tưởng về một lỗi lầm không có thực…hoặc rơi vào lứa tuổi vị thành niên với những kỹ năng sống chưa vững vàng, dễ vấp ngã do thiếu kinh nghiệm và tự ti về năng lực bản thân trong các mối quan hệ bạn bè đồng trang lứa hay các anh chị em trong gia đình.
5) Hành vi tội ác (Crime): khi hành vi tự sát không chỉ nhằm tự hủy hoại bản thân mà còn hướng đến tấn công người khác, kéo theo nhiều người cùng chết: những hình thức lôi kéo, tạo ra những vụ tự sát tập thể, thảm sát (Nhật, Mỹ…), khủng bố đánh bom liều chết…
6) Cách giao tiếp gây sự chú ý, bày tỏ ý đồ (Communication de l’intention): nạn nhân lấy cái chết của mình gây sức ép lớn và bày tỏ ý đồ mong muốn của bản thân một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, nạn nhân thường là những người bất lực trong việc cố gắng giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, thất bại trong việc giao tiếp, không được lắng nghe đáp ứng… và chọn cái chết để nói lên rằng chính người khác là nguyên nhân gây nên cái chết cho bản thân: cách đây không lâu một vụ án tự thiêu của một giáo viên bảo mẫu ở trường tư thục và cậu con trai 4 tuổi ở Q.9 trên căn gác gỗ sau nhiều lần không thể giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng, kết quả làm người chồng trở nên như điên dại đã khiến dư luận xôn xao (Báo Công An 22.03.2007 trang 7)
7) Sự trả thù (Vengeance): nạn nhân mang một mối hận thù lớn mà không thể giải quyết do những cấm đoán của giá trị xã hội, do sự không đủ khả năng… đã chọn việc tự hủy hoại bản thân như một cách trả thù. Thông thường đối tượng thù hận là những người thân yêu (cha, mẹ, vợ/chồng, anh chị em, bạn bè thân thiết…), kết quả của sự trả thù là mong muốn người thân yêu phải hối hận, và đau khổ suốt đời trong mặc cảm có lỗi với nạn nhân.
8) Sự hy sinh (Sacrifice): đây là hành vi hướng đến một giá trị, vì mục tiêu cao cả. Sự hy sinh quên mình vì độc lập tự do dân tộc trong chiến tranh, tự hào về hành vi tự sát vì cứu giúp cho nhiều người vì cuộc sống tố đẹp ở thế giới bên kia …
9) Sự vĩnh hằng (Eternité): yếu tố tôn giáo chi phối khá lớn trong suy nghĩ của nhiều nạn nhân khi họ tin rằng cái chết là con đường dẫn đến sự vĩnh hằng, một cuộc sống bất tử.
10) Trò chơi (Jeu): các trận đấu sinh tử vào thời kỳ cổ đại, một sự đùa giỡn với “tử thần”, những thách thức đối với bản thân trong các trò chơi cảm giác mạnh mang tính khiêu khích đầy nguy hiểm. Ví dụ: các đấu sĩ giác đấu La Mã, đua xe trái phép…
Các yếu tố thuận lợi thúc đẩy hành vi tự sát (yếu tố nguy cơ)
Theo tổ chức AFSP, CDC và Healthlife, các nhân tố nguy cơ của tự sát bao gồm:
Yếu tố tâm lý
a. Yếu tố gia đình
Lịch sử gia đình và môi trường sống là nhân tố nguy cơ của hành vi tự sát: trong gia đình từng có người tự sát hay toan tự sát, lạm dụng các chất, các hành vi tấn công, hành hung, rối loạn khí sắc như trầm cảm hay mắc một số bệnh tâm thần khác.
Môi trường gia đình của những người tự sát hay toan tự sát thường được mô tả như một sự bất hòa (discordant) với hành động bạo lực, ngược đãi rõ nét bao gồm cả về việc xâm hại thể chất hay tình dục. Những nghiên cứu về bạn bè và anh chị em trong gia đình của các nạn nhân tự sát thường chỉ ra rằng họ có khuynh hướng bắt chước, làm theo những nạn nhân đi trước.
b. Yếu tố bệnh học: Các rối loạn tâm thần (psychiatric disorders)
Ít nhất 90% nạn nhân tự sát có thể được chẩn đoán và điều trị các bệnh tâm thần: như trầm cảm nặng, rối loạn lưỡng cực, hay một số các bệnh suy nhược khác bao gồm tâm thần phân liệt.
Lạm dụng thức uống có cồn, độc chất (ma túy, thuốc gây nghiện…) đặc biệt là khi có kết hợp với trầm cảm.
Rối loạn Stress sau sang chấn (Post-Traumatic Stress Disorder), hoặc một số rối loạn lo âu khác.
Chứng háu ăn và chán ăn tâm thần (Anorexia Nervosa).
Các rối loạn nhân cách đặc biệt là nhân cách ranh giới (Borderline) và chống đối xã hội (Antisocial)
Sự đi kèm cùng một số các rối loạn (như trầm cảm đi kèm loạn thần, trầm cảm – lạm dụng rượu, chất gây nghiện…) càng làm gia tăng nguy cơ.
c. Tính xung động, bốc đồng (Impulsivity)
Tính xung động, bốc đồng cá nhân có khuynh hướng làm tăng hành vi xung động tự sát. Điều này thường gặp trong những rối loạn hành vi và rối loạn nhân cách chống đối xã hội.
d. Có tiền sử toan tự sát/ tự sát trong quá khứ
Khoảng 20-50% những nạn nhân tự sát đã từng thử (hay cố gắng) thực hiện hành vi tự sát trước đó và là một nguy cơ rất cao trong việc họ thật sự lập lại hành vi ấy trong cuộc sống
Yếu tố sinh học Có vai trò của một số chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters)
Một mối quan hệ khá rõ đã được chứng minh giữa việc giảm nồng độ chất chuyển hóa của serotonin 5-HIAA trong dịch não tủy nó làm tăng sự tác động vào việc toan tự sát và thực hiện thành công hành vi tự sát ở các bệnh nhân tâm thần.
Yếu tố xã hội và dân số học
a. Giới tính:
Nam giới thuộc nhóm nguy cơ cao trong việc thực hiện hành vi tự sát. Tỉ lệ nam giới tự sát thành công cao gấp 4 lần so với nữ (CDC 2004).
b. Tuổi tác:
Nhóm tuổi vị thành niên và những người trẻ tuổi thường phải trải qua những stress, những (bối rối) và trầm cảm với những tình huống xảy ra trong cuộc sống gia đình, nhà trường và trong giao tiếp xã hội. Khi cảm thấy tuyệt vọng, tính xung động, bốc đồng và khả năng giải quyết vấn đế và kỹ năng xã hội còn nghèo nàn đã thúc đẩy họ chọn tự sát như một cách giải quyết duy nhất các khó khăn trong cuộc sống. Thống kê năm 2001 cho thấy tỉ lệ tự sát ở độ tuổi từ 15 – 24 chiếm 86% (n=3,409) ở nam và 14% (n=562) ở nữ (Anderson and Smith 2003, Mỹ).
Theo Healthlife phần lớn những người quyết định tự sát luôn cung cấp những dấu hiệu cảnh báo xung quanh họ. Những dấu hiệu đó khá đơn giản như một số thì trầm cảm và có thể bao gồm cả việc mất hết hứng thú với những hoạt động mà trước đó họ yêu thích, trở nên cô lập và thể hiện sự quan tâm với cái chết, một số khác lại thể hiện sự thay đổi đột ngột từ trong trạng thái khí sắc trầm sang vui vẻ, bắt đầu đi thăm hỏi, tặng quà cám ơn mọi người, trả lại những vật dụng mà mình đã mượn trước đây, sắp xếp lại gia đình, công việc, đi du lịch…
DHHS (1999) đã liệt kê các nhân tố nguy cơ của hành vi tự sát và cả những nhân tố bảo vệ giúp ngăn chặn hành vi tự sát:
Nhân tố nguy cơ
Nhân tố bảo vệ
- Từng có hành vi toan tự sát trước đó.
- Có tiền sử rối loạn tâm thần, đặc biệt là trầm cảm
- Có tiền sử lạm dụng chất có cồn và thuốc gây nghiện.
- Gia đình có tiền sử tự sát
- Có tiền sử bị ngược đãi lúc nhỏ.
- Cảm thấy tuyệt vọng.
- Có khuynh hướng gây hấn hay xung động, bốc đồng.
- Gặp trở ngại, khó khăn trong quá trình điều trị bệnh tâm thần.
- Dễ dàng tiếp cận, truy cập những phương pháp gây chết người (lethal methods)
- Tìm kiếm sự giúp đỡ một cách miễn cưỡng bởi đã quá gắn bó (quen thuộc và chung sống) với tình trạng bệnh tâm thần, và các rối loạn do sử dụng chất hay ý nghĩ tự sát.
- Niềm tin mang tính tôn giáo, thuộc về truyền thống văn hóa ví dụ như tin rằng tự sát là cách giải quyết cao quý khi rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
- Mất mát (mối quan hệ, địa vị xã hội, công việc và khả năng tài chính).
- Mắc các bệnh về thể chất.
- Bị cô lập, có cảm giác như bị cách ly, bị mọi người cắt đứt quan hệ.
- Sự chăm sóc có hiệu quả trên lâm sàng cho các rối loạn tâm thần, thể chất và lạm dụng chất.
- Tiếp cận dễ dàng với các hệ thống can thiệp về mặt lâm sàng và các hệ thống hỗ trợ đa dạng khi cần tìm sự giúp đỡ.
- Hệ thống hỗ trợ nâng đỡ từ gia đình và cộng đồng.
- Hỗ trợ không ngừng về mặt y khoa và liên hệ với chăm sóc sức khỏe tinh thần.
- Kỹ năng giải quyết vần đề, phương pháp giải quyết xung đột và không sử dụng bạo lực hay hành vi ngược đãi khi phát sinh mâu thuẩn, tranh cãi.
- Niềm tin mang tính tôn giáo, truyền thống văn hóa rằng không cổ vũ, khuyến khích tự sát và luôn tồn tại một hệ thống hỗ trợ tự vệ bản năng
TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ VÀ TỰ SÁT (III)
Cử nhân Tâm lý ÁI NGỌC PHÂN
CAN THIỆP KHỦNG HOẢNG
Những thân chủ cần được can thiệp khủng hoảng
Khủng hoảng tồn tại khi phương thức ứng phó thông thường của cá nhân thất bại trong khi áp lực kiểm soát khủng hoảng thành công vẫn đang đè nặng, điều này khiến cá nhân cảm thấy bị “tràn ngập”, “chôn vùi” bởi những khó khăn có vẻ dường như không thể giải quyết. Tìm thấy bản thân mình trong cơn khủng hoảng thường là kết quả của cách ứng phó mới có hiệu quả (Folkman, Lazarus, Dunkel-Schetter, DeLongis, & Gruen, 1986), điều này có thể là kết quả của những hoạt động tương tác với nhà tâm lý. Khi cá nhân “loay hoay” tìm kiếm những cách ứng phó trong tuyệt vọng, và kết thúc bằng stress thì dường như họ cần đến sự hỗ trợ can thiệp của những “chuyên gia khủng hoảng” (Halpern, 1973, 1975). Cùng với nhau họ liên kết đưa ra cách giải quyết vấn đề, hỗ trợ thân chủ vượt qua khủng hoảng “êm ái” hơn, chịu đựng những trải nghiệm trong cơn khủng hoảng dễ chấp nhận hơn, và rút ra những bài học kinh nghiệm đủ sức tự mình chống đỡ, đương đầu với các vấn đề nguy cơ trong tương lai. Những kinh nghiệm nghiên cứu đã cho thấy rằng sự can thiệp khủng hoảng có thể đưa đến những lợi ích cho cá nhân như làm giảm sự lo âu, bối rối, giận dữ, và cảm giác không được giúp đỡ, đơn độc chịu đựng, điều này cũng giúp ích rất nhiều trong việc cải thiện khả năng làm việc, và thực hiện vai trò trong gia đình (Bunn & Clarke, 1979; Capone, Westie, Chítwood, Feigenbaum, & Good, 1979; Viney, Clarke, Bunn, & Benjamin, 1985). Trong nhiều trường hợp, họ sẽ mong đợi nhà tâm lý là một chuyên gia có phép màu. Nhà tâm lý là hy vọng cuối cùng, và sự mong đợi của họ có thể là quá mức, là phi thực tế hoặc cả hai. Và khi không được đáp ứng đủ, họ trở nên thất vọng và giận dữ. Vào lúc này nhà tâm lý có khả năng giúp đỡ họ theo những cách khác nhau khi tìm thấy nhu cầu của họ. Aaron Lazare và những đồng sự của ông đã khảo sát trên những người tìm đến các dịch vụ sức khỏe tâm thần, và họ đã phân biệt được 14 loại nhu cầu khác nhau trên những cá nhân cần đến sự can thiệp khủng hoảng:
Những người cần một người mạnh mẽ để bảo vệ, gánh vác, và chịu trách nhiệm thay họ. (“Please take over for me”)
Những người cần một ai đó giúp họ duy trì sự nối kết với thực tại. “Giúp tôi biết rằng tôi đang ở thực tại”.
Họ cảm thấy trống rỗng và cần được yêu thương. “Hãy quan tâm, chăm sóc tôi”.
Họ cần nhà tâm lý trở thành một giá trị để luôn cảm thấy được an toàn. “Luôn luôn ở đây”.
Được thoát ra khỏi ám ảnh mặc cảm tội lỗi, những người này thường tìm đến xưng tội. “Hãy mang mặc cảm tội lỗi của tôi đi”.
Ngay lập tức, khẩn cấp họ cần được nói ra hết mọi thứ đang giữ trong lòng. “Hãy cho tôi nói hết mọi thứ đang giữ trong lòng”.
Dưới áp lực thôi thúc, họ mong ước được một lời khuyên. “Hãy nói cho tôi biết phải làm gì”.
Họ tìm kiếm sự sắp xếp lại những ý tưởng, ý nghĩ mâu thuẫn của bản thân. “Hãy giúp tôi đặt mọi thứ trong quy luật”.
Những người thực sự mong muốn tự bản thân hiểu được những vấn đề bên trong của. “Tôi muốn tham vấn”.
Họ cảm thấy không thoải mái, khó chịu vì các vấn đề y khoa và cần sự chăm sóc về mặt thể chất. “Tôi cần một bác sĩ”
Những người tìm kiếm một vài sự giúp đỡ thiết thực như sự giúp đỡ về kinh tế hay một nơi nào đó để chia sẻ. “Tôi cần sự giúp đỡ chuyên biệt”.
Họ tin rằng những khó khăn vẫn đang tiếp diễn trong các mối quan hệ hiện tại và cần nhà tâm lý can thiệp, hòa giải. “Làm điều này vì/cho tôi”.
Những người muốn có được các thông tin về nơi sẽ giúp đỡ đáp ứng những nhu cầu đa dạng của bản thân, thực chất họ đang tìm kiếm nguồn lực hỗ trợ từ cộng đồng. “Hãy cho tôi biết nơi nào tôi có thể nhận được điều mà tôi cần”.
Những người không có động cơ thúc đẩy hay các bệnh nhân loạn thần, những người được đưa đến với nhà tâm lý trái với ý muốn của họ. “Tôi không muốn gì cả”
Can thiệp khủng hoảng
H. Norman Wright tác giả của cuốn sách Crisis counseling what to do and say during the first 72 hours đã trình bày 8 bước cơ bản cần thiết để giúp một cá nhân trong cơn khủng hoảng.Các bước can thiệp này được ứng dụng chung cho nhiều dạng khủng hoảng, tuy nhiên tùy thuộc những trường hợp cụ thể, mỗi cá nhân với những đặc tính khác nhau sẽ cần một sự quan tâm đặc biệt khác nhau, vì vậy việc ứng dụng những bước can thiệp này đòi hỏi sự linh hoạt, uyển chuyển, thích hợp.
Tiến trình can thiệp
Sự can thiệp ngay lập tức
Bước đầu tiên ở một trường hợp đang trong cơn khủng hoảng là phải lựa chọn giữa can thiệp khủng hoảng về mặt tâm lý học hay là sự can thiệp sức khỏe y khoa khẩn cấp. (Kenneth France). Can thiệp khủng hoảng là thích hợp nếu trường hợp cá nhân đang trong cơn khủng hoảng và vẫn có khả năng tham gia giải quyết vấn đề một cách hợp lý, logic. Sự can thiệp sức khỏe y khoa khẩn cấp là cần thiết khi nhà tâm lý hướng đến việc làm giảm tình trạng nguy hiểm có nguy cơ sắp xảy ra (suy kiệt sức khỏe thể chất quá mức do khủng hoảng, các rối loạn chức năng, nguy cơ tự làm hại bản thân và người khác…). Lựa chọn hình thức can thiệp phù hợp với tình trạng của cá nhân là một quyết định cần thiết, quan trọng. Những cá nhân trong cơn khủng hoảng chỉ đơn giản muốn được chia sẻ và tìm hiểu về những điều gì họ đã thất bại trong việc tìm các công cụ hỗ trợ, vì vậy sự can thiệp sức khỏe y khoa khẩn cấp là không thích hợp với họ, tương tự như vậy với những cá nhân gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề hay thực hiện các quyết định có lý trí.
Can thiệp khủng hoảng là sự can thiệp ngắn, ngay tức thời, với việc chọn lựa nhanh các hình thức can thiệp hỗ trợ, bởi cơn khủng hoảng được xem là mang tính nguy hiểm, đe dọa những cá nhân có liên quan, và tại thời điểm của sự can thiệp là thời gian của sự xáo động, sự đau khổ ở mức độ cao với tình trạng dễ bị tổn thương, bối rối, hỗn loạn của cá nhân… đây chính là đáp ứng trong chuỗi tương tác đầu tiên của cá nhân. Một cá nhân rơi vào khủng hoảng sẽ cần sự “bảo đảm” (về mặt tinh thần: sự nâng đỡ, an toàn…) từ nhà tâm lý để chắc rằng họ đã làm điều đúng khi liên lạc với nhà tâm lý, xóa bỏ tình trạng hay do dự bối rối trước một quyết định. Lúc này họ cần được nhà tâm lý “chào đón” và cảm thấy mình được ưu tiên.
Mục tiêu của can thiệp khủng hoảng
- Mục tiêu tối thiểu là khôi phục tình trạng cân bằng, và mức độ hoạt động chức năng trước đó.
- Mục tiêu tối ưu: tích lũy những bài học kinh nghiệm, làm giàu thêm nguồn lực ứng phó, để có khả năng ứng phó tốt hơn cho những áp lực trong tương lai.
¶ Thiết lập trạng thái cân bằng.
Cá nhân không thể chịu đựng những stress do cơn khủng hoảng mang lại quá lâu. Bằng cách này hay cách khác họ sẽ giải quyết chúng trong vòng 6 tuần và tình trạng cân bằng phải được tái thiết lập hoàn toàn. Nếu họ phải đợi để gặp nhà tâm lý thì khoảng thời gian không nên quá một đêm, và cần phải thực hiện ngay một cuộc trao đổi ngắn qua điện thoại.
Cách thức mà cá nhân trong cơn khủng hoảng lựa chọn để thiết lập trạng thái cân bằng có thể lành mạnh hay không lành mạnh. Trong cơn khủng hoảng là tình trạng căng thẳng, cảm giác thúc bách, nhận thức chưa đúng và giảm năng lực hoạt động hiệu quả, vì vậy dù họ đã có rất nhiều cố gắng nhằm làm giảm nhẹ nhanh chóng tình trạng trên nhưng không mang lại hiệu quả, điều này có thể để lại những kết quả không mong đợi làm tồi tệ hơn tình trạng khủng hoảng. Họ có thể trở nên “tràn ngập”, bị “chôn vùi” và lựa chọn cách tự hủy hoại bản thân nếu không nhận được một sự giúp đỡ ngay lập tức. Nhà tâm lý cần hành động nhanh chóng bởi hệ thống hỗ trợ từ bạn có thể làm giảm khủng hoảng một phần nào đó và có thể giúp bảo vệ cá nhân khỏi việc gây hại cho bản thân họ.
¶ Sử dụng các kỹ thuật “chống đỡ” (sustainment techniques)
Trong suốt giai đoạn bắt đầu hỗ trợ thân chủ, các kỹ thuật “chống dỡ” được sử dụng nhằm mục đích làm giảm lo âu, mặc cảm tội lỗi, tình trạng căng thẳng, và cung cấp những hỗ trợ về mặt cảm xúc. Tất cả những điều này là nổ lực nhằm khôi phục trạng thái cân bằng.
Sự cam đoan (reassurance) được sử dụng trong giai đoạn đầu tiên này hỗ trợ rất nhiều cho thân chủ luôn cảm thấy lo lắng về tình trạng kiệt sức, và muốn “nổ tung” của mình. Sự cam đoan quá nhiều có thể làm giảm hoàn toàn tình trạng lo âu khi ở một số trường hợp cần thiết cho những thay đổi tích cực diễn ra. Việc khuyến khích, động viên giúp cho thân chủ vượt qua cảm giác về sự tuyệt vọng và không có sự giúp đỡ.
Các phương pháp gây tác động trực tiếp được sử dụng nhằm thúc đẩy mong muốn thay đổi ở thân chủ, và được sử dụng rất thường xuyên trong can thiệp khủng hoảng, bao gồm việc động viên khuyến khích những hành vi mới, tăng cường củng cố (reinforcing) những điều mà họ đã từng hoàn thành.
Khi đang trong tình trạng trầm cảm, bối rối, hoang mang, thân chủ có thể cần những kỹ thuật thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa. Điều này được áp dụng trên những thân chủ đã xác định rõ những kế hoạch hành động hay có những cảnh báo về kết quả rõ ràng nếu thân chủ hành động theo cách thức đã chọn. Những thân chủ tự sát cần sự can thiệp trực tiếp. Một vài hậu quả của khủng hoảng như tự sát, tấn công người khác, bỏ đi, sự tổn hại về thể chất, loạn thần, hay rạn nứt gia đình, sự tách rời bản thân khỏi sự thừa nhận, chấp nhận cảm xúc, sự ràng buộc với gia đình là điều bất hạnh cho cả bản thân họ và các thành viên trong gia đình. Vì vậy mà một trong những mục tiêu của can thiệp khủng hoảng là giúp ngăn chặn những ảnh hưởng, hậu quả bất hạnh.
¶ Tránh những tác động, hậu quả bất hạnh, gây nguy hiểm
Công việc đầu tiên là cung cấp số điện thoại của đường dây nóng cho thân chủ, xác định ngay lập tức tình trạng khẩn cấp thực sự của khủng hoảng và sự cần thiết của can thiệp y khoa khẩn cấp.
Lần hẹn đầu tiên cần được sắp xếp ngay lập tức ngay sau khi thân chủ gọi yêu cầu. Cố gắng thu thập đầy đủ các thông tin, tìm cách thức liên hệ giữa chúng, hình thành những giả định về vấn đề của thân chủ và lập những kế hoạch đơn giản cần thiết cho buổi làm việc đầu tiên, và uyển chuyển, thay đổi cho phù hợp với nhu cầu của thân chủ. Cần chắc chắn duy trì sự kiểm soát trong các cuộc trò chuyện qua điện thoại với những giới hạn nhất định (tuân thủ khung trị liệu), và chỉ nhằm mục tiêu chính là sắp xếp buổi hẹn đầu tiên, và hình thành bước đầu cho mối quan hệ. Và điều này tự bản thân nó cũng đã có sự hỗ trợ nhất định cho thân chủ. Nếu tỏ ra quan tâm quá mức thân chủ có thể muốn nhà tâm lý giải quyết ngay tình trạng của mình qua điện thoại, nếu nghe quá nhiều điều về câu chuyện của thân chủ, có thể họ sẽ do dự trong việc thảo luận lại một lần nữa. Những điều này khiến nhà tâm lý khó có thể có được buổi hẹn đầu tiên ngay lập tức sau đó.
Hành động nhanh chóng
Là bước thứ hai trong can thiệp khủng hoảng, một điều gì đó cần được bắt đầu thực hiện ngay. Cá nhân trong cơn khủng hoảng thường “loạng choạng” không định hướng và họ cần hướng dẫn để “di chuyển” một cách có ý nghĩa, mục đích và mục tiêu định hướng hành vi. Họ cần cảm thấy mình đã làm điều đúng đắn ngay từ buổi làm việc đầu tiên tuy nhiên đây không phải là thời điểm để điền vào bảng câu hỏi, thực hiện trắc nghiệm nhân cách, thăm dò về quá khứ hay chỉ thiết lập quan hệ. Nhà tâm lý cần trở nên rất chủ động, tích cực, tham dự vào, góp phần vào và hướng dẫn (direct) trong buổi làm việc đầu tiên. Lắng nghe là rất quan trọng, và góp phần thu thập thông tin.
Trong thời gian này hãy giúp cá nhân hiểu về khủng hoảng. Thông thường khủng hoảng có liên hệ với một vài sự kiện, nhưng cá nhân không thể cùng khắc phục cả hai (khủng hoảng – sự kiện), điều này gây cảm giác thất vọng, vì vậy cần động viên khuyến khích họ bộc lộ cảm xúc của bản thân.
¶ Thăm dò tìm hiểu trong quá khứ
Mặc dù can thiệp khủng hoảng không tập trung quá nhiều vào quá khứ, nhưng điều quan trọng cần xác định hoạt động chức năng của cá nhân như thế nào trước khủng hoảng. Tìm kiếm những dấu hiệu của tình trạng xúc cảm trước đó, kiểu mẫu hành vi, tiến trình suy nghĩa, các mối quan hệ khác, những vấn đề về sức khỏe thể chất, cố gắng phát hiện điều gì đã xảy ra, ai là người liên quan đến… khi khủng hoảng xảy ra và tiếp diễn. Các câu hỏi về sự hướng dẫn của nhà tâm lý dành cho ai, điều gì, khi nào, ở đâu và như thế nào… thường được giải quyết hoàn tất khi cá nhân kể câu chuyện của họ. “Điều gì làm nên sức mạnh của thân chủ?” “Điều gì là nhược điểm, thiếu sót?” (khó khăn kinh tế, hình ảnh về bản thân, lòng tự tôn thấp, thiếu hệ thống hỗ trợ, không quan hệ bạn bè…) “Vì sao khả năng giải quyết vấn đề bị sụp đổ tại thời điểm đó?” “Đã từng trải qua sự kiện tương tự trước đó?”… Phần lớn những người liên quan đến khủng hoảng đều trải qua những loạt sự kiện bị dồn nén, tích tụ, và điều này cần được nhận biết, họ luôn trải qua các giai đoạn không thể, hay không có khả năng ứng phó, đều dẫn đến khủng hoảng, và nguyên nhân của sự không thể hay không có khả năng ứng phó cần được xác định. Khi họ kể câu chuyện của mình hãy lắng nghe họ cảm thấy như thế nào. Sự tương tác giữa cơn khủng hoảng với công việc, mối quan hệ bạn bè, cuộc sống gia đình và sức khỏe thể chất như thế nào? Nhịp sống thường ngày của họ có như trước hay đã đổi khác? Tiến trình suy nghĩ của họ như thế nào – có nguyên vẹn, rõ ràng? Có quá huyễn tưởng? Giấc mơ?.
¶ Thăm dò những “sức mạnh” và những nhược điểm của thân chủ
Rất nhiều người trong cơn khủng hoảng đã mô tả cuộc sống của mình với những thiếu sót, sai lầm… hãy tìm những điểm mạnh bên cạnh những khuyết điểm của họ. Khi phát hiện một vài điểm mạnh hay năng lực, một phần của phong cách sống của họ, nhà tâm lý có thể động viên khuyến khích họ theo chiều hướng tích cực.
Khi họ lên chương trình cho bài tập thể chất của mình, hãy khen thưởng, động viên, khuyến khích họ tiếp tục duy trì nó. Đây là nền tảng gầy dựng sự tự tin, nghị lực, tạm làm xao nhãng khỏi vấn đề hiện tại. Những thành viên trong gia đình hay bạn bè có thể là điểm mạnh, và có một giá trị nào đó, họ có khả năng phát hiện dấu hiệu cảnh báo những hành vi nguy hiểm từ cá nhân và một người nào đó. Những tiềm năng trong tương lại cần được nhìn thấy và cảnh báo cho cá nhân hay gia đình họ.
¶ Xác định rõ nhu cầu tức thời của thân chủ.
Việc thu thập những thông tin từ câu chuyện của cá nhân và từ những câu hỏi của nhà tâm lý có thể phát hiện những vấn đề sau: (1) Họ bộc lộ những nhu cầu nào cần được hướng đến ngay lập tức trong cuộc sống (2) Những điều mà họ bộc lộ có bị trì hoãn cho đến sau này không. Cần giúp họ xác định và nhận ra được trong cơn khủng hoảng điều gì họ đang chờ đợi và điều gì cần phải được kiểm soát ngay lúc này. Tuy vậy hiếm khi bạn phải đặt câu hỏi hay khơi gợi để nhận được những thông tin này, bởi thân chủ luôn luôn tự bộc lộ. Song khi thảo luận về tình huống với thân chủ hãy chắc rằng giữ lại toàn bộ những câu hỏi và vấn đề trong tâm trí. Nhận thức mức độ sáng suốt, linh hoạt và khả năng giao tiếp, trao đổi thông tin của họ. Cố gắng nhận biết nguyên nhân của khủng hoảng với những câu hỏi gợi như “hãy cho tôi biết điều gì đã xảy ra khiến bạn bối rối/ đau buồn?” hay “Có thể cho tôi biết nguyên nhân của sự đau buồn/ xúc động này là gì?” “Tôi muốn được nghe những gì bạn chia sẻ” Thỉnh thoảng trong tình trạng khủng hoảng họ gặp khó khăn trong việc trình bày một cách rõ ràng những điều mình muốn nói. Khi điều này xảy ra, nhà tâm lý cần kiên nhẫn, bất kỳ những dấu hiệu thiếu kiên nhẫn bằng lời hay không lời nào, sự khó chịu, hối thúc thân chủ …sẽ gây bất lợi. Tạo một không gian an toàn, cho phép thân chủ ngừng lại, yên tĩnh. Cần chú ý rằng đặc biệt trong suốt giai đoạn tương tác (giai đoạn đầu của chuỗi khủng hoảng) là tình trạng bối rối, bất an, mất định hướng, và những chức năng của tiến trình tâm trí hoạt động không như lúc bình thường, có những nỗi đau quá lớn để có thể nói bằng lời hay diễn đạt một cách dễ dàng.
Trong khi lắng nghe hãy chú ý những chủ đề quan trọng mà họ bày tỏ. Nhà tâm lý có thể phát hiện ra rằng họ đã lập lại nhiều lần trong suốt tiến trình làm việc với mức độ xúc cảm mãnh liệt, hay là cơn buồn chán, đau khổ. Tránh việc đưa những đáp ứng không liên quan đến chủ đề đang trình bày, hay đáp ứng quá mức vượt khỏi khả năng của nhà tâm lý. Tiến trình can thiệp này là sự giúp đỡ có chọn lọc, và thân chủ phải nhận ra được ý nghĩa của sự giúp đỡ này.
¶ Tìm đến sự sáng tỏ, rõ ràng
Sự bối rối, đau khổ có thể làm cho những diễn đạt, biểu lộ của thân chủ không được sắp xếp, rõ ràng. Khi thân chủ có thể diễn đạt về bản thân một cách thẳng thắn hãy giúp họ thăm dò, tìm hiểu những lựa chọn khác có giá trị trong tình huống này, câu hỏi như: “Điều gì khác được thực hiện tại thời điểm hiện nay” có thể giúp ích. Khám phá hệ thống hỗ trợ nào phù hợp với họ: người bạn đời, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp thân thiết, nhóm hỗ trợ đồng đẳng – những người được đào tạo, huấn luyện để hỗ trợ những người cô lập, hoặc có thể tìm một hệ thống hỗ trợ mới phù hợp.
Sự bối rối, vô định, hỗn loạn trong tâm trí, cảm xúc, và mất khả năng kiểm soát có thể khiến họ tạm ngưng “liên lạc” với môi trường bên ngoài, và mong muốn được yên tĩnh, tìm kiếm sự giúp đỡ để được ổn định, cân bằng, và có lẽ đôi khi họ muốn ở một vị trí khác, một nơi khác trong thời gian ngắn bởi nhu cầu cần một không gian riêng, hoặc muốn rời khỏi những người khác đang cố giúp đỡ họ nhưng thật ra lại càng làm tăng thêm sự bối rối, lo lắng bởi những cố gắng không phù hợp. Cơn khủng hoảng “bùng nổ” khi cá nhân nhận thức được điều gì đang diễn ra, và có thể phản ứng quá mức với chúng, đôi khi chính cách phản ứng của họ mới là vấn đề chính, một vài người lao vào “chiến đấu”với những sự kiện bình thường vô nghĩa, một số khác lại trì hoãn không đáp ứng với những vấn đề quan trọng.
¶ Tạo điều kiện thuận lợi hay đóng vai trò hướng dẫn.
Nhà tâm lý tạo điều kiện thuận lợi hoặc là đóng vai trò hướng dẫn trong việc giúp đỡ cá nhân liên quan đến khủng hoảng? Nếu khủng hoảng có nguy cơ gây nguy hiểm cao cho bản thân cá nhân và những người khác, nếu cảm xúc tràn ngập trong tâm trí khiến cá nhân không có khả năng tự thực hiện chức năng hay tự chăm sóc, bảo vệ bản thân, nếu cá nhân sử dụng thuốc hay thức uống có cồn hay đã từng bị tổn thương… lúc này nhà tâm lý cần đóng vai trò người hướng dẫn.
Khi cá nhân không còn nguy hiểm với những người khác và bản thân, khi ấy họ có thể thực hiện cuộc gọi giúp đỡ, hoạt động có mục đích, tự lái xe và chăm sóc, bảo vệ bản thân… nhà tâm lý đóng vai trò tạo điều kiện. Cùng với thân chủ lập kế hoạch, và thúc đẩy thân chủ tự thực hiện kế hoạch với sự động viên khuyến khích của nhà tâm lý, sự giúp đỡ của hệ thống hỗ trợ.
Và cho dù đóng vai trò hướng dẫn hay tạo điều kiện thuận lợi thì lắng nghe và động viên, khuyến khích luôn là những công cụ quan trọng nhất.
¶ Xem xét nhiều sự lựa chọn mới.
Bởi những cảm giác không được sự giúp đỡ tràn ngập trong suốt cơn khủng hoảng, khiến thân chủ do dự, thiếu quyết đoán, sợ hãi… nhà tâm lý có thể giải quyết điều này bằng sự động viên khuyến khích thân chủ sáng tạo, tìm những lựa chọn khác nhau phù hợp và tiến hành hành động trong sự chuẩn bị. Hướng dẫn họ xem xét các khả năng của những sự lựa chọn: “Hãy xem xét đến tính khả thi, nếu anh/chị ở đó, thực hiện điều này thì….?” “Điều gì có thể xảy đến nếu anh/chị sẽ…” “Anh/chị nghĩ còn ai khác phải cố gắng trong thời điểm này?” … Dự báo trước những chướng ngại vật, những khó khăn (có thể không hoàn toàn) cần phải đối mặt khi thực hiện kế hoạch.
Nó giúp thân chủ hoạt động trong vị thế tích cực, phát huy những điểm mạnh. Cách làm này đòi hỏi khả năng kiểm soát những khó khăn trước đó của thân chủ như thế nào, sự thành công từ việc thực hiện các lựa chọn này giúp xây dựng, cải thiện lòng tự tôn (self-esteem).
Ngăn chặn, đẩy lùi những nguy hiểm, những kết thúc bi thảm
Bước thứ ba là bước bắt đầu hoàn tất mục tiêu được giới hạn của tham vấn khủng hoảng, để ngăn chặn, đẩy lùi những nguy hiểm hay những kết thúc bi thảm và phục hồi trạng thái cân bằng của cá nhân. Đây không phải là thời điểm cố gắng tạo những thay đổi bên trong cá nhân. Trước hết phải giúp cá nhân hoàn thành một vài mục tiêu được giới hạn. Điều này tạo ra một ít thử thách, (nhưng không quá khó khăn) buộc cá nhân phải cố gắng thực hiện và đạt được. Thường đây chỉ là nhiệm vụ đơn giản có thể tạo ra cảm giác khuây khỏa.
Làm tăng, thúc đẩy hy vọng và những mong đợi tích cực
Khi cá nhân trong cơn khủng hoảng cảm thấy tuyệt vọng thì điều quan trọng là phải khôi phục, làm tăng, thúc đẩy niềm hy vọng và những mong đợi tích cực. Đừng đưa ra những lời hứa không thực hiện được nhưng hãy động viên, khuyến khích họ giải quyết vấn đề của mình. Niềm tin của họ vào khả năng, năng lực của bản thân là rất quan trọng. Đây là thời điểm họ cần “mượn” hy vọng và niềm tin của nhà tâm lý cho đến khi họ “quay trở lại”. Họ mong đợi khủng hoảng sẽ được giải quyết bằng một cách nào đó trong một thời điểm nào đó, và nhà tâm lý thì mong đợi họ “làm việc” để có khả năng giải quyết vấn đề. Đây là cách tiếp cận và tương tác với cá nhân, thường điều này mang lại kết quả tốt hơn là che phủ, “giấu” đi tình trạng của họ.
Việc tiếp cận để giải quyết vấn đề, tốt hơn là đưa ra một lời cam đoan “vỗ về”, làm yên lòng họ nhưng thất bại, là một bước đi tích cực. Có thể đặt câu hỏi về những cơn khủng hoảng trong quá khứ và những tình trạng bối rối khó chịu, cùng với việc phát hiện ra cách làm thế nào để kiểm soát vấn đề. Điều này giúp cá nhân nhìn lại việc mình đã từng trải qua, và hy vọng vào hiện tại.
Mức độ lo lắng ở họ có thể giảm do họ sẽ nhìn tình huống của mình với thái độ khách quan hơn. Đây là một cách thức quan trọng trong việc giúp cá nhân phục hồi cân bằng.
¶ Thông tin:
Trước tiên, việc tìm kiếm những thông tin cá nhân cung cấp cho nhà tâm lý tình trạng của thân chủ. Thân chủ có nhìn tình trạng của mình với một bức tranh toàn vẹn hay chỉ là những mảnh ghép được hợp thành? Và họ có toàn bộ sự thật? Họ có đang làm “méo mó” tình trạng của mình bởi những cảm xúc hay định kiến ? Họ có hiểu được đây chỉ là những đáp ứng tự nhiên và những cảm xúc bình thường trong suốt thời gian khủng hoảng. Đặt những câu hỏi đi thẳng vào vấn đề và thúc đẩy, làm rõ những câu trả lời mang thông tin có thể giúp thân chủ trong hai việc: (1) nhà tâm lý có thể giúp thân chủ điền đầy đủ, chính xác vào những chỗ còn trống thông tin và (2) những nỗi sợ hãi và sự bận tâm quá mức có thể được giảm bớt khi được cung cấp những thông tin chính xác, đầy đủ. Cả hai điều này sẽ giúp phục hồi cân bằng.
¶ Tương tác:
Việc xem xét những thông tin trong cơn khủng hoảng có liên quan đến việc cá nhân tương tác như thế nào với tình huống khách quan. Làm thế nào để một cá nhân “theo đuổi” sự lựa chọn hành động để thay đổi cuộc sống của mình, (như mất việc hay người bạn đời) và điều gì được lựa chọn? (chăm sóc những đứa con khi người bạn đời mất hoặc bỏ đi). Giúp cá nhân nhận ra rằng những cơ hội và kết quả của bất kỳ những quyết định nào cho bản thân hay cho người khác đều có thể có liên quan. Kiểm tra những lựa chọn và những kết quả, sau đó tập họp lại theo những hướng có khả năng ứng phó cho cả hiện tại và trong hoàn cảnh tương lai.
Khi thân chủ trở nên mạnh mẽ hơn và có khả năng, họ sẽ có thể tự tìm hiểu bản thân trong các tình huống và làm thế nào để đáp ứng lại (về mặt cảm xúc và hành vi) với tình huống ấy.
Cung cấp hệ thống hỗ trợ
Một trong những nguyên nhân làm tăng thêm, kéo dài khủng hoảng là thiếu hệ thống hỗ trợ xã hội phù hợp. Can thiệp khủng hoảng phải bao gồm cả việc cung cấp sự hỗ trợ.
¶ Cuộc gọi lại
Điều quan trọng là những cuộc gọi lại phải nhanh chóng nhưng không có nghĩa là ngay lập tức, nếu nhà tâm lý gọi lại ngay sau vài phút sẽ khuyến khích mối quan hệ phụ thuộc. Thời gian gọi lại có thể khoảng 30 phút, điều này tạo cơ hội cho thân chủ suy nghĩ về mình, trở nên bình tĩnh hơn trước khi trình bày vấn đề của mình, quan trọng hơn điều này giúp nhà tâm lý thoát khỏi vai trò như một chuyên gia đầy quyền phép trong suy nghĩ của họ. Trường hợp cá nhân nguy cơ tự sát cao, thì điều dĩ nhiên nhà tâm lý cần phải thực hiện cuộc gọi ngay lập tức.
Cá nhân trong cơn khủng hoảng luôn cần sự đảm bảo rằng họ có thể gọi bất cứ lúc nào và nhà tâm lý sẽ sẵn sàng trò chuyện với họ trong vài phút. Dù được nhà tâm lý đề nghị, nhưng họ sẽ yên lặng “đấu tranh” với việc có gọi hay không, cuộc đấu tranh càng mãnh liệt làm gia tăng thêm khủng hoảng. Những cá nhân có lòng tự tôn thấp thường dễ rơi vào việc đấu tranh có nên hay không gọi cho nhà tâm lý.
Tuy nhiên những cuộc gọi luôn phải được đặt trong giới hạn, giới hạn này có thể thay đổi tùy theo tình trạng của thân chủ nhưng luôn luôn phải được tuân thủ.
¶ Mở rộng hệ thống hỗ trợ.
Cách tốt nhất để giúp đỡ một cá nhân là mở rộng hệ thống hỗ trợ ngay khi có thể. Điều này làm giảm những đòi hỏi ở nhà tâm lý, giúp cá nhân vượt qua khủng hoảng hiện nay, và có thể giúp ngăn ngừa khủng hoảng trong tương lai.
Khi làm việc với thân chủ, cố gắng xác định loại hệ thống hỗ trợ nào mà họ có: những mối quan hệ thân thuộc, bạn bè mà họ có? Ai là người có thể chia sẻ trong lúc khó khăn? Xác định các hệ thống hỗ trợ có thể giúp đỡ trực tiếp khi họ cần. Cần chắc chắn rằng nhà tâm lý có những hướng dẫn chuyên biệt để hỗ trợ cá nhân, đó không phải là hàng loạt những lời khuyên bằng lời không cần thiết, không mang lại lợi ích tại thời điểm hiện nay. Chú ý đến việc thân chủ cảm thấy đảm bảo, ổn định, thoải mái với hệ thống hỗ trợ ấy, và ngay khi họ dần dần rút lui khỏi hệ thống ấy.
¶ Đảm nhận trách nhiệm (be in charge)
Trong can thiệp khủng hoảng sử dụng hệ thống hỗ trợ đòi hỏi nhà tâm lý cần kiểm soát, định hướng buổi làm việc, kiểm soát mức độ và sự biểu lộ của tức giận, bảo vệ thân chủ khỏi áp lực hay sang chấn, kiểm soát mức độ lo âu… Đây là một trong những nguyên tắc làm việc, đặc biệt cần được tuân thủ khi làm việc cùng nguồn lực hỗ trợ là gia đình, bạn đời của thân chủ, trong đó bao gồm việc thiết lập khuôn khổ làm việc (lịch hẹn, thời gian…), tạo không an toàn, cởi mở,… cho thân chủ và những thành viên hỗ trợ khác biết họ có thể tự do, bày tỏ, chia sẻ, nhà tâm lý hỗ trợ họ nhìn vào vấn đề, xem xét chúng, hỗ trợ họ vượt qua với những giải pháp mới, giúp đỡ họ lựa chọn những cách thức tốt hơn trong việc bộc lộ, tránh tình trạng leo thang trong giao tiếp. Vấn đề quan trọng là tạo một không khí giao tiếp lành mạnh, điều đó bao gồm việc thiếp lập một số chỉ dẫn đặc biệt như:
(1) Trong cùng một thời điểm, chỉ nên có một người nói, mỗi người lắng nghe có mục đích nhằm để hiểu rõ nhận thức của cá nhân và sự biểu lộ và cảm thấy như thế nào.
(2) Cá nhân cần nói cho bản thân mình không phải cho người khác. Bất kỳ sự giả định nào về cảm xúc, suy nghĩ của một người khác đều cần được thể hiện, kiểm tra lại.
(3) Xác định sự tương phản, khác biệt làm nên suy nghĩ và cảm xúc, giữa thực tại và quan điểm dư luận.
(4) Bất cứ sự bộc lộ, biểu hiện mơ hồ nào cũng cần được làm rõ, để tất cả những người hiện diện cần hiểu được một cách rõ ràng.
(5) Sự khác biệt trong quan điểm luôn tồn tại và điều đó luôn đúng, không có gì là sai trái.
(6) Khi đang nói, một cá nhân có thể được khuyến khích mà không bị cắt ngang nhưng sự độc thoại không được chấp nhận, bởi tình trạng độc thoại gây mất hứng thú cho những người xung quanh, và tạo cảm giác cá nhân đang kiểm soát. Hơn thế nếu tình trạng này duy trì, nó có thể là nguyên nhân cho những cảm xúc leo thang ở chính cá nhân và có thể ở những thành viên khác. Chấm dứt tình trạng độc thoại bằng cách làm rõ vấn đề hỏi những người khác về điều họ đã nghe thấy, bàn luận về những đáp ứng không lời của một ai đó, … “Anh/chị đã mang lại rất nhiều ý kiến hay song tôi muốn chúng ta dừng lại và làm rõ chúng.”
Tập trung vào việc giải quyết vần đề
Đây được xem “xương sống” (backbone), là nỗ lực trọng tâm của tiến trình can thiệp khủng hoảng. Nhà tâm lý cùng thân chủ cố gắng xác định vấn đề chính đưa đến khủng hoảng và sau đó hỗ trợ họ lập kế hoạch, tiến hành các phương cách giải quyết vấn đề chính ấy. Có thể có những cảm xúc, và những vấn đề xuất hiện trong việc tìm ra cách thức giải quyết, nhưng cần chú ý rằng luôn tập trung vào vấn đề chính cho đến khi chúng được giải quyết. Lúc này nhà tâm lý và thân chủ như một nhóm cùng làm việc, William Glasser, tác giả của liệu pháp thực tế (Reality Therapy) đã sử dụng cụm từ chúng ta trong tham vấn: “Chúng ta có thể làm gì?” “Chúng ta giải quyết chúng như thế nào?” hay “hãy nhìn xem chúng ta có những tiến triển gì khi làm việc cùng nhau?” Việc thân chủ dấn thân vào hoàn thành kế hoạch mang nhiều ý nghĩa: (1) làm tăng cơ hội theo đuổi suốt tiến trình, (2) giúp phát triển khả năng tự lập (self-reliance).
Trong quá trình giải quyết vấn đề, cần tập trung vào việc thiết lập các mục tiêu, tìm những nguồn lực có giá trị sử dụng trong việc giải quyết vấn đề và động não tìm những lựa chọn khác nhau. Lên danh sách các lựa chọn có thể được sử dụng. Nếu thân chủ gặp khó khăn, cạn kiệt ý tưởng, thì nhà tâm lý có thể gợi ý, đề nghị một vài lựa chọn khác nhau, tuy nhiên nhà tâm lý không thể đưa ra lời khuyên bảo thân chủ phải làm điều gì?.
Sau khi lên danh sách các lựa chọn, hãy giúp thân chủ “nhìn thấy” trước kết quả của những lựa chọn hành động ấy, cả điểm tích cực lẫn tiêu cực. Câu hỏi lớn đặt ra là: “liệu lựa chọn theo cách thức này sẽ đi ngược lại những giá trị của thân chủ?”, Vd: người chồng đang gặp khó khăn về vấn đề tài chính. Lựa chọn giải quyết là làm thêm công việc thứ hai, tuy nhiên điều có giá trị ý nghĩa lớn của anh là mỗi tối dành thời gian cho gia đình, cuối tuần có thể đi lễ, vui chơi cùng các con, trong khi công việc làm thêm sẽ buộc anh ra ngoài vào mỗi tối và không có ngày nghỉ cuối tuần.
Tìm kiếm những mâu thuẫn, xung đột về giá trị bằng việc đặt 2 câu hỏi song song: kết quả có thể xảy ra? và cảm xúc của thân chủ trước những khả năng có thể xảy ra? Giúp thân chủ nhận thức được kết quả việc mình sẽ làm và lựa chọn. Tránh tình trạng cách thức giải quyết vấn đề này lại làm phát sinh một vấn đề khác thậm chí nghiêm trọng hơn.
¶ Yêu cầu, đề nghị các bước rõ ràng, xác thực
Sau khi lượng giá những lựa chọn khác nhau, hỗ trợ thân chủ lập tiến trình hành động theo từng bước một, hết bước này đến bước khác (step by step), mỗi bước là một mục tiêu nhỏ, đơn giản, nhưng chi tiết, rõ ràng, có thể thực hiện, (tránh đặt những mục tiêu lớn, hay cùng lúc phải hoàn thành nhiều mục tiêu…), cố gắng tiên liệu trước những chướng ngại vật có thể gặp phải, và cả những yếu tố khách quan có thể xuất hiện gây hại bất ngờ. Nhà tâm lý cần động viên, thúc đẩy họ thực hiện, đặt các câu hỏi thúc đẩy họ tự quyết định: Anh/chị sẽ làm gì, làm như thế nào, và khi nào?. Tuy nhiên, cảm xúc gây ảnh hưởng đến tình trạng thể chất làm thân chủ mệt mỏi, không muốn thực hiện, dễ bỏ cuộc, ít cố gắng, điều này đòi hỏi nhà tâm lý thể hiện sự kiên nhẫn, tin tưởng vào khả năng của thân chủ và giúp họ xây dựng kế hoạch thực hiện.
Bất kỳ một kế hoạch nào được tiến hành cũng cần giai đoạn xem xét lại tiến trình đã thực hiện, nhằm lượng giá, xác định lại mục tiêu, có những thay đổi cho phù hợp và tiếp tục được thực hiện cho đến khi hoàn thành mục tiêu chính đề ra.
¶ Tập trung vào thực tại
Những thông tin giúp tìm ra cách giải quyết vấn đề, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Một vài người có xu hướng tránh né vấn đề thực tại, và như vậy họ hy vọng tránh được nỗi đau. Một phần trong nhiệm vụ của nhà tâm lý là giúp họ đối mặt với nỗi đau, nhưng điều này cần phải được thực hiện một cách từ từ nhằm tránh cảm giác bị tràn ngập, chôn vùi. Chúng ta cần tạo ra một môi trường làm họ cảm thấy an toàn, thoải mái đủ để đối mặt với tình trạng của mình một cách trọn vẹn. Một trong những cách tốt nhất để đáp ứng với cảm xúc là lắng nghe chủ động (active listening), đây là một kiểu phương pháp lắng nghe nhạy bén để hiểu được những gì đang ẩn sâu bên trong, hay những thông điệp ngầm, và phản ánh lại cho thân chủ có thể nhận thấy điều đang ẩn sâu bên trong họ.
Sự lắng nghe của nhà tâm lý giúp thân chủ làm rõ vấn đề của mình. Khi áp dụng lắng nghe chủ động (active listening) nhà tâm lý thực hiện một sự bày tỏ, thể hiện tốt hơn cách đặt câu hỏi, điều này giúp giữ những vấn đề của thân chủ trong phạm vi trách nhiệm của họ, nhưng họ vẫn cảm thấy được sự hỗ trợ của nhà tâm lý trong quá trình tìm ra cách giải quyết vấn đề của mình. Nó thể hiện sự tôn trọng, chấp nhận, tin tưởng vào khả năng giải quyết của thân chủ. Và đây là nguyên nhân đòi hỏi nhà tâm lý cần phát triển kỹ thuật lắng nghe.
¶ Phát triển kỹ thuật lắng nghe
¶ Kiểm tra mức độ lo âu của thân chủ
Theo dõi mức độ lo âu ở thân chủ, và cố gắng điều chỉnh. Mặc dù một số những cơn lo âu có thể là động lực thúc đẩy họ đối mặt với vấn đề. Tuy nhiên mục tiêu hướng đến là điều chỉnh số lượng cơn lo âu được biểu hiện, làm thế nào để thể hiện, và kiểm soát chúng hiệu quả, bởi chúng có khả năng ảnh hưởng đến sự lựa chọn, tính quyết đoán, và tiến trình giải quyết vấn đề.
¶ Thăm dò cảm xúc của thân chủ
Trong tiến trình giải quyết vấn đề cảm xúc của thân chủ là rất quan trọng, những vòng cảm xúc ngắn thường xuất hiện vào thời điểm giải quyết vấn đề, nhưng đây không phải là biện pháp xuất hiện để giúp đỡ thân chủ trong cơn khủng hoảng. Trong nhiều trường hợp, đó có thể là sự hồi tưởng lại nỗi đau mất mát quá lớn (chu trình grief). Động viện, giúp đỡ thân chủ vượt qua cảm xúc về nỗi đau mất mát này, và chu trình grief sẽ hoàn tất.
Thân chủ sẽ bộc lộ rất nhiều cảm xúc, chia sẻ nỗi đau mà họ đang mang, những lo lắng trong quá trình thực hiện các bước giải quyết vấn đề, những cảm xúc quay trở về khi họ phải đối mặt với vấn đề và giải quyết chúng… Chúng ta có thể giúp họ phân loại những cảm xúc và nhận ra phần lớn trong chúng là cấp tính. Hãy lắng nghe và đáp ứng với họ bằng cả ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ, giúp họ nhận ra viễn cảnh sau khi giải quyết thành công vấn đề, đưa những phản hồi, động viên, thúc đẩy làm tăng năng lực bằng việc nhắc nhở họ nhìn lại những việc họ đã hoàn thành tốt. Luôn đặt câu hỏi “chúng ta đã làm được gì ?” “anh/chị cảm thấy như thế nào?”… để họ bộc lộ những cảm xúc, đánh giá được nguy cơ, và có bước chuẩn bị để ngăn chặn, giải quyết.
Nâng cao lòng tự tôn (self-esteem)
Lòng tự tôn bao gồm: sự tự nhận thấy giá trị (self-worth), năng lực (self-competence), và sự tự chấp nhận (self-acceptance) bản thân. Mục tiêu của bước thứ bảy này bao gồm: (1) đánh giá và hiểu được sự tự nhận thức, hình ảnh bản thân (self-image) và (2) khám phá ra khủng hoảng đã tác động như thế nào và cá nhân đã làm gì cũng sẽ tác động đến sự tự nhận thức về hình ảnh bản thân. Đây là thời điểm bảo vệ và nâng cao sự tự nhận thức về hình ảnh bản thân, bởi trong suốt giai đoạn khủng hoảng là sự lo âu, lòng tự tôn bị hạ thấp, cảm giác tuyệt vọng, thất bại, mặc cảm có lỗi. Một trong những cách đáp ứng về cảm xúc của lòng tự tôn thấp là giận dữ với người khác hay với chính bản thân mình, sự tuyệt vọng do không yêu cầu được giúp đỡ và thụ động tiêu cực chỉ ngồi yên chờ đợi sự giúp đỡ.
Điều quan trọng đầu tiên trong việc hỗ trợ thân chủ nâng cao sự tự nhận thức về hình ảnh bản thân, xây dựng lòng tự tôn chính là thái độ và cách cư xử trong quá trình làm việc với nhà tâm lý:
- Sự tôn trọng, chấp nhận vô điều kiện, không phán xét, và tin tưởng vào thân chủ.
- Hỗ trợ họ nhận ra những mục tiêu, sự mong đợi thiết thực và sự giới hạn trong việc hoàn thành những mục tiêu..
- Giúp họ nhận thấy những điều họ đang có, những điểm mạnh.
- Giúp họ lập danh sách những nguồn lực có thể sử dụng hỗ trợ họ nâng cao lòng tự tôn một cách lành mạnh.
- Hỗ trợ họ nhận ra mức độ của sự mong muốn thay đổi và phát triển tổ chức, cơ cấu giải quyết vấn đề… những điều mà họ có thể tận dụng hướng đến hoàn thành mục tiêu.
- Động viên, khuyến khích hỗ trợ thân chủ đối mặt với những khó khăn.
- Ngăn chặn việc lập lại những suy nghĩ tiêu cực đưa đến hành vi tiêu cực.
- Hỗ trợ thân chủ tăng sự tự nhận thức bản thân (self-awareness): (1) viết nhật ký, (2) bày tỏ những suy nghĩ và cảm xúc của mình.
- Hỗ trợ họ tăng sư tự chấp nhận bản thân (self-acceptance): (1) nhận ra hệ thống giá trị và niềm tin của bản thân, (2) khuyến khích sự quan tâm một cách tích cực, khách quan đến việc tự đấu tranh chống lại cảm giác bị hắt hủi, bỏ rơi. Hướng dẫn cho họ thấy được sự tương tác giữa việc tự nói (self-talk) tiêu cực có ảnh hưởng đến lòng tự tôn. Học cách tự chấp nhận bản thân.
- Sự đánh giá khách quan, chân thật về những điều tích cực, tiêu cực trong cuộc sống. Tập trung vào những điều tích cực, nhìn lại những thất bại như một cơ hội để học hỏi, trưởng thành.
- Cho thân chủ những phản hồi tích cực và thúc đầy sự tăng năng lực (reinforcement).
Nâng cao sự tự lực, độc lập, tự dựa vào khả năng và nỗ lực của bản thân (self-reliance)
Là bước thứ 8 trong tiến trình can thiệp, được thực hiện gần như song hành cùng mục tiêu nâng cao sự tự nhận thức về hình ảnh bản thân. Nâng cao khả năng tự lực trước hết phải cải thiện sự tự nhận thức về bản thân, sự tự tin (self-confident), tự nhận thấy giá trị (self-worth), năng lực (self-competence), và tự chấp nhận bản thân, khi những điều này được cải thiện, lòng tự tôn được nâng cao sẽ thúc đẩy cá nhân, tăng cường tính độc lập, tin tưởng vào khả năng và nỗ lực của bản thân trong việc đối mặt và giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Giải quyết thành công (đạt được mục tiêu đề ra trong khả năng của bản thân) những vấn đề trong cuộc sống làm tăng thêm lòng tự tôn.
¶ Xây dựng các nhóm hỗ trợ:
Xu hướng chỉ tập trung tin vào, cậy nhờ nhà tâm lý, và xem đây là người duy nhất hỗ trợ hiệu quả cho bản thân thường được sử dụng bởi các thân chủ, điều này gây ra tình trạng lệ thuộc, làm giảm tính tự lập. Nhà tâm lý cần làm rõ cho thân chủ hiểu, nhà tâm lý không thể đáp ứng tất cả các câu trả lời của họ, và tiến trình can thiệp tâm lý sẽ chấm dứt. Điều quan trọng là động viên, khuyến khích họ tin tưởng, bắt đầu đảm trách, tự thực hiện những công việc nhỏ với mục tiêu đơn giản và thực hiện thành công. Những thành công này giúp củng cố thêm sự tự tin, khả năng tự lập, tự chịu trách nhiệm về mình..
¶ Cổ vũ, động viên, khuyến khích sự tự giúp đỡ bản thân (self-help):
Một trong những nguyên tắc cơ bản của can thiệp khủng hoảng là: không giúp thân chủ làm bất cứ điều gì mà họ có thể tự thực hiện một cách thành công. Nếu có một sự chọn lựa giữa việc nhà tâm lý hay thân chủ là người thực hiện cuộc gọi, và thân chủ hoàn toàn có khả năng thực hiện, vậy hãy để thân chủ thực hiện điều đó. “…Quan điểm của nhà tâm lý là thân chủ là người có năng lực, khả năng, một người tốt, người hiện đang tạm thời bị chôn vùi bởi những đau khổ quá mức, người sẽ sử dụng sự giúp đỡ của nhà tâm lý để ứng phó với những đau khổ ấy và quay trở lại “con đường” của mình” (Douglas Puryer). Quan điểm chỉ rõ, chính thân chủ là người ứng phó với vấn đề của mình dưới sự hỗ trợ của nhà tâm lý, nhà tâm lý không ứng phó giúp cho họ. Khi cố gắng ứng phó với những đau khổ của khủng hoảng, cảm xúc của họ sẽ rơi xuống sâu hơn. Họ có thể có cách ứng phó đe dọa đến những nguồn lực an toàn trước đây và cảm thấy như sắp “vỡ tan”, mất mát, những lo âu, bối rối mới có thể hình thành. Vì những chuyển biến của khủng hoảng, thân chủ có thể thực hiện những quyết định mới, nghĩ ra cách giải quyết mới, tìm nguồn lực mới và có thể di chuyển đến những vai trò mới. Với cách giải quyết và vai trò mới, được tập họp lại và tiến hành có thể gây một vài stress cho bản thân, bởi những thay đổi về vị thế và chức vụ trong gia đình và cộng đồng, bao gồm việc chấp nhận cách giải quyết mới mức độ hài lòng, thoải mái của cách giải quyết này, những bài học từ cuộc sống… Tuy nhiên, sự thích nghi với cách giải quyết và vai trò mới sẽ xuất hiện, ít nhất cho đến khi những vai trò và kết quả của việc giải quyết các vấn đề được ổn định.
Tuy nhiên không phải trường hợp khủng hoảng nào cũng cần đến sự can thiệp của nhà tâm lý, và những trường hợp cần đến sự can thiệp của nhà tâm lý không nhất thiết đang trong tình trạng nguy kịch bởi thân chủ có thể sử dụng các dịch vụ hỗ trợ tâm lý như một trong nhiều nguồn lực hỗ trợ khác trên “con đường” giải quyết vấn đề của mình, và trong nhiều trường hợp khủng hoảng được can thiệp, có một số cá nhân cần được hỗ trợ về mặt y khoa, được “giám sát” do có xu hướng thực hiện những hành vi gây hậu quả nguy hiểm. Một trong những điều cần lưu ý khi can thiệp khủng hoảng là việc phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi những hành vi mang lại kết quả nguy hiểm này và đặt thân chủ trong phạm vi an toàn. Trong những hành vi tác động tiêu cực lên thân chủ trong tiến trình can thiệp thường gặp là việc sử dụng các chất như một cách “tự chữa bệnh” nhằm xoa dịu những đau khổ phải chịu đựng trong cơn khủng hoảng như: lạm dụng rượu, các chất kích thích, chất an dịu thần kinh…, tham gia vào các trò chơi cảm giác mạnh có thể gây nguy hiểm (như đua xe, …), thì việc xuất hiện những ý nghĩ tự sát như một cách giải quyết nhằm chấm dứt vĩnh viễn tình trạng đau khổ kéo dài, được đánh giá là đặc biệt nghiêm trọng bởi đây là sự lựa chọn mãi mãi không thể cứu vãn, thay đổi. AAS khẳng định: “Khủng hoảng là nhất thời và cái chết là mãi mãi”. Chính vì vậy, việc phát hiện và ngăn chặn ý định tự sát trên những thân chủ đang trong suốt quá trình can thiệp là cần thiết.
Ý tưởng tự sát có thể xuất hiện vào bất cứ giai đoạn nào trong tiến trình can thiệp, trong sự thay đổi của chuổi diễn biến khủng hoảng kèm theo những thay đổi cảm xúc. Đôi khi chỉ dừng lại là những ý tưởng, đôi khi là những kế hoạch được chuẩn bị tỉ mỉ và cả những lần toan tự sát bất thành… đưa đến những mức độ nguy cơ tự sát thành công khác nhau, nhưng khó có thể chắc chắn rằng một người có ý định tự sát thì có nguy cơ thấp, ít nguy hiểm hơn một người đã chuẩn bị kế hoạch… Vì vậy khi thân chủ đề cập (bằng lời nói hay không bằng lời nói) đến cái chết hãy thật sự quan tâm đến điều đó và thiết lập ngay một hệ thống hỗ trợ cho trường hợp khẩn cấp của thân chủ.
Phát hiện và ngăn chặn ý định tự sát trong cơn khủng hoảng
Là một việc làm cần thiết, tuy không phải trường hợp khủng hoảng nào đến với sự hỗ trợ tâm lý cũng mang ý định tự sát nhưng việc phát hiện và can thiệp kịp thời nhằm mục tiêu bảo vệ thân chủ trước những tiềm năng nguy hiểm có thể dự báo, đây là công việc, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của nhà tâm lý.
Phát hiện ý định tự sát ở thân chủ
Hàng loạt các bảng liệt kê những dấu hiệu nhằm hỗ trợ việc phát hiện sớm tự sát được các nhà tâm lý (William Zung, Sharon L Johnson, Dave Capuzzi…), nhiều tổ chức nghiên cứu (AFSP, AAS, Healthlife, The centre for crisis psychology…) được đúc kết. Tuy nhiên các dấu hiệu cảnh báo đơn lẻ này cần kết hợp với nhiều yếu tố khác như: nhân cách của của cá nhân (xu hướng, động cơ, tính cách, khí chất, năng lực), tiền sử gia đình, tiền sử bệnh, quá trình phát triển của bản thân, những kinh nghiệm từng trải, nguồn lực ứng phó, hoàn cảnh sống, các hệ thống hỗ trợ… để đánh giá nguy cơ tự sát một cách đầy đủ và chính xác.
Tổ chức AFSP: Tự sát có thể được ngăn chặn, trong khi một số ít những trường hợp tự sát không có bất cứ dấu hiệu nào, thì phần lớn (75%) những người muốn tự sát luôn đưa ra những dấu hiệu cảnh báo bằng cách này hay cách khác, tuy nhiên còn tùy thuộc vào những người xung quanh họ có nhận ra và thực sự quan tâm đến những dấu hiệu của họ hay không.
Những dấu hiệu này thường xuất hiện sau, gần với một số sự kiện gây đau khổ (mất người thân yêu), thất bại (trong công việc, trong cuộc sống, những ước mơ).
Các dấu hiệu có thể quan sát được về khí sắc:
- Khí sắc giảm không ngừng, liên tục, ngày càng trở nên trầm buồn, lặng lẽ.
- Tính bi quan, yếm thế.
- Tuyệt vọng.
- Sự liều lĩnh tuyệt vọng.
- Lo âu, nỗi đau tinh thần và căng thẳng bên trong.
- Rút lui khỏi các mối quan hệ gia đình, nghề nghiệp, bạn bè, xã hội.
- Những vấn đề về giấc ngủ (thiếu ngủ, mất ngủ, ngủ li bì…)
Tăng hoặc bắt đầu sử dụng các chất cồn (rượu), thuốc (an thần, chất gây nghiện)
Gần đây xuất hiện những xung động, thôi thúc bốc đồng và tự mang đến những rủi ro nguy hiểm không cần thiết
Đe dọa tự sát hay bộc lộ một mong muốn mạnh mẽ là được chết
Lập kế hoạch: Cho, tặng, ban phát các vật yêu thích thuộc sỡ hữu của bản thân. Đột nhiên hay có xung động mua sắm những vật có tính sát thương như súng, hay lưu giữ thuốc độc, các loại thuốc khác.
Những cơn thịnh nộ, giận dữ không mong đợi, không thể kiểm soát.
Tổchức AAS đã đưa ra những dấu hiệu cảnh báo được viết tắt là: IS PATH WARM?
Ideation: ý tưởng ý nghĩ
Substance Abuse: lạm dụng chất
Purposelessness: không mục đích sống, bất định không phương hướng
Anxiety: lo âu, bối rối, bất an, rối loạn giấc ngủ.
Trapped: bị mắc kẹt, như rơi vào bẫy, cảm giác cố vùng vẫy như càng sâu không thể thoát.
Hopelessness: tuyệt vọng
Withdrawal: rút lui khỏi các mối quan hệ gia đình, nghề nghiệp, bạn bè, xã hội.
Anger: giận dữ
Recklessness: liều lĩnh, táo bạo
Mood Changes: thay đổi khí sắc nhanh chóng (một cách kịch tính). Khí sắc là yếu tố dễ nhận thấy, sự thay đổi khí sắc cần được chú ý như: trở nên lặng lẽ, buồn bã hơn, hoặc ngược lại trở nên vui vẻ, phấn khởi, nhẹ nhõm như mọi thứ đã được giải quyết (trường hợp này thường xuất hiện trong giai đoạn giải quyết vấn đề của tiến trình can thiệp)…
Tuy nhiên, những dấu hiệu trên có ý nghĩa cảnh báo nguy cơ tự sát không còn tùy thuộc vào khả năng đánh giá chủ quan của từng người (khả năng quan sát, nhạy bén, và sự quan tâm đúng mức đến các dấu hiệu). Tác giả William Zung đã đưa ra một bảng thống kê các câu hỏi, dưới dạng các câu hỏi phỏng vấn với 50 đề mục, nhằm đánh giá tiềm năng tự sát ở một người, bảng đánh giá này vừa mang tính chủ quan (do sự trả lời, tự đánh giá của thân chủ, nhận định của nhà tâm lý), vừa mang yếu tố khách quan (được đánh giá thông qua điểm số sau khi xử lý các câu trả lời).
Như vậy, việc phát hiện một thân chủ trong tiến trình can thiệp khủng hoảng có ý định tự sát đòi hỏi sự nhạy bén của nhà tâm lý, quan sát phát hiện càng sớm, ngăn chặn kịp thời thì khả năng tránh được kết quả tiêu cực càng cao. Nổi bật nhất trong các dấu hiệu tự sát là những dấu hiệu về khí sắc và cảm xúc của thân chủ, theo đó là những suy nghĩ, và hành vi của họ. Họ luôn báo hiệu bằng một cách nào đó cho người bên cạnh biết: đó có thể là những dấu hiệu mong muốn thu hút sự quan tâm của người khác, nhưng cũng có thể là lời chào vĩnh biệt… vì vậy sau khi phát hiện cần có sự đánh giá nguy cơ, mức độ gây nguy hiểm cho bản thân và người khác ở thân chủ nhằm có sự can thiệp nhanh chóng, phù hợp.
Thăm dò và đánh giá nguy cơ
Thông thường việc thăm dò và đánh giá nguy cơ nguy hiểm được tổng hợp từ nhiều yếu tố như:
Đánh giá mức độ nguy cơ thấp nhất được xem là chỉ mới có ý định tự sát, nguy cơ cao hơn ở những thân chủ có kế hoạch tự sát và càng cao ở các kế hoạch tự tự được sắp xếp rõ ràng, chi tiết, khả thi, chuẩn bị sẵn các phương tiện hỗ trợ việc tự sát (hay sử dụng các phương tiến có sẵn, thuận tiện), nguy hiểm nhất là những trường hợp đã từng toan tử tử, hay có tiền sử tự sát nhưng thất bại. Nhưng đôi khi khó mà khẳng định chắc chắn rằng một thân chủ mới có ý tưởng tự sát thì ít nguy hiểm hơn là một thân chủ đã có kế hoạch tự sát hay toan tự sát, bởi những sự tác động các yếu tố khách quan và những cảm xúc khó kiểm soát trong tình trạng khủng hoảng có thể làm xuất hiện những xung động tự sát bất ngờ. Tuy nhiên, ngoài yếu tố đánh giá nguy cơ theo các mức độ tự sát thì cần xem xét những yếu tố cá nhân cũng góp phần quan trọng trong việc dự đoán nguy cơ thực hiện hành vi tự sát và khả năng thành công của hành vi.
Nhân cách (xu hướng, động cơ, khí chất, tính cách, năng lực), vd: những cá nhân có khí chất ưu tư nổi bật có nguy cơ cao hơn nhóm khác bởi khả năng xuất hiện những xung động tự sát, hay cá nhân có xu hướng nghĩ đến tự sát như cách lựa chọn đầu tiên để giải quyết trước những đau khổ khó khăn trong cuộc sống.
Quan điểm của bản thân chịu chi phối của sự giáo dục gia đình, niềm tin tôn giáo…
Hoàn cảnh sống, môi trường sống, lưu ý tính sẵn có, thuận tiện của những phương tiện mang tính sát thương (dây thừng, dao, các loại thuốc…), sông hồ….
Tiền sử gia đình: có người tự sát…
Tiền sử bản thân: từng có ý định tự sát, toan tự sát, tự sát không thành công ở lần trước đó.
Tiền sử các bệnh, rối loạn trước đó, hay đang mắc phải, tiền sử sử dụng các chất có cồn, chất kích thích…
Giới tính: tỉ lệ nữ có ý định tự sát cao hơn nam giới, nhưng tỉ lệ nam giới tự sát thành công cao gấp 4 lần nữ giới do các phương pháp tự sát có tiềm năng gây tử vong cao….
Trong quá trình thăm dò, đánh giá nguy cơ cần chú ý tìm hiểu mục tiêu của hành vi tự sát qua những bộc lộ của thân chủ. Kết thúc quá trình thăm dò, nhà tâm lý cần tập họp những dữ kiện quan trọng về các yếu tố nguy cơ, và các yếu tố bảo vệ.
Nhận dạng mục tiêu của hành vi tự sát
Nhận dạng mục tiêu của hành vi tự sát, lý do, điều gì thúc đẩy việc thực hiện hành vi tự sát…là một bước đi đòi hỏi sự khéo léo của nhà tâm lý, mục tiêu của hành vi có thể được thân chủ bộc lộ, nhưng điều cần thiết là tìm được nhu cầu của thân chủ đứng sau hành vi tự sát. Từ ý nghĩ đến hành động là một bước đi đòi hỏi có sự thúc đẩy, ảnh hưởng, thông thường những điều có ý nghĩa quan trọng với thân chủ vừa là yếu tố bảo vệ vừa là yếu tố thúc đẩy đầy nguy cơ, vd: cái chết của người bạn đời có thể thúc đẩy nguy cơ tự sát với mục tiêu ra đi cùng người bạn đời, tuy nhiên tình yêu thương của người bạn đời là là yếu tố bảo vệ. Nhận diện được nhu cầu ẩn sâu trong quyết định tự sát, giúp việc ngăn chặn ý định tự sát có hiệu quả cao, bằng việc nâng đỡ, quan tâm, chia sẻ, cùng thân chủ tìm những lựa chọn khác để thỏa mãn nhu cầu, tạo hy vọng, đẩy lùi tự sát từ lựa chọn ưu tiên trở thành lựa chọn cuối cùng.
Tuy nhiên quá trình thăm dò, tìm hiểu cần tránh những câu hỏi trực tiếp, thách thức, mang màu sắc phê phán, bình phẩm…
Các bước ngăn chặn
Yêu cầu cần phải thực hiện ngay và kỹ năng can thiệp tức thời:
§ Điều quan trọng đầu tiên là việc tiếp nhận thông tin có ý định tự sát từ thân chủ bằng thái độ, và thể hiện sự quan tâm thật sự, xem xét vấn đề một cách nghiêm túc, vì 75% những người tự sát luôn báo hiệu cho gia đình, bạn bè… ý định của bản thân nên tất cả sự đe dọa và toan thực hiện hành vi được tiếp nhận một cách nghiêm túc, quan trọng. Tránh việc thể hiện (bằng lời hay không lời) sự khiếp sợ, shock, hay kinh hoàng, điều này gây nhiều ảnh hưởng đến tâm trạng của thân chủ, hơn hết tạo nên vị thế của nhà tâm lý không đủ vững chãi, để họ “nương tựa” tìm sự giúp đỡ.
§ Luôn sẵn sàng lắng nghe những cảm xúc, suy nghĩ, đau khổ… mà thân chủ bộc lộ, đặc biệt là khi họ đề cập đến việc làm thế nào để tự sát?. Tránh việc đưa ra những lời phê phán bình phẩm, nhận xét về các giá trị đạo đức, niềm tin tôn giáo, hay tranh cãi về quyết định tự sát, những lời nói mang tính lôi kéo như: “Anh/chị có quá nhiều điều trong cuộc sống cho…”, “Việc anh/chị tự sát sẽ làm đau lòng gia đình”. Tạo không gian thoải mái, dành thời gian lắng nghe họ, cho họ biết rằng họ đang được quan tâm, thấu hiểu, rằng họ không cô độc, lẻ loi một mình, quan trọng hơn hãy cho họ hiểu rằng những cảm xúc, cơn khủng hoảng tồi tệ này chỉ là nhất thời, chúng sẽ qua đi và hoàn toàn có thể điều trị, vấn đề khó khăn ấy hoàn toàn có thể giải quyết. Việc nhấn mạnh vào nỗi đau mà họ đang phải chịu đựng có thể thúc đẩy nhanh quyết định thực hiện hành vi tự sát vì vậy phải tránh những câu hỏi mang tính nhấn mạnh, nhằm phân tích nguyên nhân của nỗi đau mà họ đang trải qua.
Các yêu cầu cần thực hiện ngay:
§ Đánh giá mức độ nguy cơ của thân chủ, xem xét đến các yêu cầu cần thiết có sự can thiệp của các hệ thống hỗ trợ như y khoa (cần nhập viện theo dõi, sử dụng thuốc…), hay hệ thống hỗ trợ từ gia đình, những người cùng chung sống (lúc này cần thiết báo với người nhà tình trạng của thân chủ (nguyên tắc bảo mật trong điều trị có thể bị phá vỡ vì mục tiêu cáo nhất là tất cả vì lợi ích và an toàn của thân chủ.)… chủ động đề nghị, khuyến khích thân chủ lựa chọn, hoặc đưa ra những lời khuyên như một hệ thống hỗ trợ chuyên nghiệp. Thông thường thân chủ từ chối các dịch vụ hỗ trợ khác do tình trạng tuyệt vọng, và không tin rằng các hệ thống hỗ trợ có thể giúp được họ. Tuy nhiên nếu tình trạng của thân chủ là cần thiết, điều này đòi hỏi nhà tâm lý phải nâng đỡ, khuyến khích động viên họ, và sử dụng đến các nguồn lực hỗ trợ khác. Ví dụ: một sinh viên cao đẳng có ý định tự sát đã từ chối đến trung tâm sức khỏe tâm thần để gặp bác sĩ, cho đến khi người bạn cùng phòng đề nghị, động viên anh ta đi cùng. Sự hợp tác, nhất quán giữa các hệ thống hỗ trợ sẽ giúp đỡ thân chủ vượt qua.
§ Nếu thân chủ không sử dụng các hệ thống hỗ trợ khác ngoài nhà tâm lý thì cần thiết lập bản thỏa thuận cam kết phải báo ngay cho nhà tâm lý biết nếu có ý định thực hiện hành vi tự sát. Thay đổi thời gian làm việc, lịch làm việc được rút ngắn lại, các cuộc hẹn được tăng lên 2-3 buổi/tuần, đến khi nào nguy cơ gây nguy hiểm giảm. Cung cấp số điện thoại đường dây nóng 24/24, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần (nơi an dưỡng, - hiện tại VN chưa có trung tâm chuyên dành cho người khủng hoảng và có hành vi tự sát an dưỡng).
Mục tiêu lâu dài hướng đến:
Theo dõi nguy cơ tự sát lâu dài trên thân chủ, chú ý sự thay đổi giữa các nhân tố bảo vệ tích cực và các nhân tố nguy cơ.
Can thiệp khủng hoảng có hiệu quả, cải thiện lòng tự tôn, làm giàu thêm các nguồn lực hỗ trợ, mở rộng các mối quan hệ cởi mở, tích cực, nâng cao khả năng tự giải quyết vấn đề của mình.
Và tùy theo từng vấn đề cụ thể trên từng trường hợp mà nhà tâm lý có thể có thêm nhiều những mục tiêu lâu dài cần thiết khác
Bài Báo cáo trong Hội thảo về Biện pháp Phòng chống Bạo hành Gia đình (22-3-2008) tổ chức tại Phòng khám Đa khoa Tân Định
LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ CÓ VẤN ĐỀ BẠO HÀNH TRONG GIA ĐÌNH
BCV: BS. Nguyễn Minh Tiến
Phần 1: Khái niệm chung
Bạo hành gia đình là một hình thức xâm hại mà một người này gây ra cho một người khác và việc đó xảy ra bên trong gia đình.
Thông thường nạn nhân là:
Người đồng hôn phối (thường là người vợ)
Người tình (thường là nữ)
Người già (có thể là cha hoặc mẹ của kẻ gây bạo hành)
Một đứa trẻ (có thể con của kẻ gây bạo hành)
Bạo hành gia đình là một vấn đề nghiêm trọng, là nguyên nhân khá phổ biến gây thương tích cho phụ nữ.
Nạn nhân có thể vừa bị những tổn thương cơ thể vừa có những sang chấn về tinh thần
Khó biết được chính xác bạo hành xảy ra như thế nào vì hầu hết nạn nhân đều không thông báo điều này cho người khác biết
Không có mẫu nạn nhân “điển hình”. Mỗi trường hợp là một tình huống độc nhất.
Bạo hành gia đình có thể xảy ra với mọi lứa tuổi, mọi thành phần kinh tế,mọi trình độ học thức và ở mọi nền văn hóa
Thuật ngữ
Domestic violence Bạo hành gia đình
Battery Đánh đập
Abuse Xâm hại, ngược đãi, lạm dụng
Physical abuse Xâm hại thể xác
Sexual Abuse Xâm hại tình dục
Emotional abuse Xâm hại về tinh thần, tình cảm
Neglect Bỏ bê, không quan tâm chăm sóc
Hầu hết thủ phạm đều là người thân quen, thường là:
* một người đàn ông ngược đãi bạn gái;
* chồng ngược đãi vợ;
* cha, mẹ hoặc một người chăm sóc khác ngược đãi trẻ em;
* con cái ngược đãi cha mẹ già…
Các loại bạo hành
Phân chia theo thể loại bạo hành
Bạo hành thể xác
Bạo hành tình dục
Bạo hành tinh thần
Bạo hành xã hội (hoặc bỏ bê trong trường hợp trẻ em, người già, người thiểu năng…)
Phân chia theo thể loại nạn nhân
Bạo hành với bạn tình hoặc người đồng hôn phối (partner/spouse abuse)
Bạo hành với trẻ em (child abuse)
Bạo hành với người già (elderly abuse)
Phần 2: Thực trạng tại Việt Nam
Hiện trạng
Cuộc khảo sát của Ủy Ban Các Vấn Đề Xã Hội (thuộc Quốc Hội) được thực hiện vào năm 2005 tại 16 huyện, thị thuộc 8 tỉnh, thành ở Việt Nam cho thấy: hơn 60% số vụ ly hôn có liên quan đến bạo hành.
Từ 2000-2005: có 186.954 vụ ly hôn, trong đó 53% vụ có xảy ra hành vi đánh đập, ngược đãi trực tiếp dẫn đến ly hôn.
Riêng 2005: có 65.000 vụ ly hôn, trong đó 39.700 vụ (hơn 60%) liên quan đến BHGĐ
Hằng năm có 2,3% gia đình có các hành vi bạo lực về thể chất (đánh đập), 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần và 30% cặp vợ chồng xảy ra hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục.
Năm 2005, ở đồng bằng sông Cửu Long có 1.319 ca nhập viện do bạo hành gia đình. Trong đó khoảng 1.000 ca tự tử, và 30 trường hợp tử vong.
Khảo sát cũng cho thấy 60% trường hợp bạo hành liên quan đến rượu (nghiện rượu, lạm dụng rượu). Các yếu tố khác: ngoại tình, khó khăn kinh tế…
Theo bà Nguyễn Thị Hoài Thu: cứ 2-3 ngày có 1 người chết vì BHGĐ. Trong năm 2005, có 1.113 vụ giết người thì 14% số đó là BHGĐ.
Các nghiên cứu cho thấy có 10% số vụ BHGĐ dẫn đến những thương tích nặng, gây tàn tật, giảm khả năng lao động. Một số vụ dẫn đến tử vong do đánh đập, đầu độc, sử dụng hung khí…
Khía cạnh Luật pháp:
Hiện Luật Hôn nhân Gia đình qui định: phải có tỷ lệ thương tật trên 10% và có đơn tố cáo thì mới tiến hành thủ tục buộc tội.
Từ 9/2006, Dự thảo luật Phòng Chống Bạo Hành đã được Quốc Hội xem xét, bàn luận và trưng cầu ý kiến
Một số chuyển biến và thuận lợi
Thời gian qua (nhất là từ năm 2000 trở đi), nhiều dự án chống BHGĐ đã được thực hiện như: Dự án chống BHGĐ của Trung tâm Tư vấn TLGD và Tình yêu-Hôn nhân-Gia đình TpHCM, Dự án “Ngôi nhà Bình Yên” của Trung tâm Phụ nữ và Phát triển...
Một số dự án bảo vệ phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới cũng đã được triển khai ở một số địa phương dưới sự tài trợ, giúp đỡ chuyên môn của các tổ chức nước ngoài
Nhiều Hội thảo chuyên đề và thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng thời gian gần đây đã đưa vấn đề BHGĐ ra dư luận công khai để phân tích, tranh luận và thu nhận phản hồi từ rất nhiều những vụ bạo hành được phát hiện.
Dự luật Phòng Chống BHGĐ cũng đã được Quốc Hội ngiên cứu, thảo luận sâu và nhận được nhiều sự quan tâm từ dư luận
Một số yếu tố không thuận lợi
Vẫn còn nhiều niềm tin sai lầm tồn tại trong công chúng về BHGĐ và vấn đề cho đến nay vẫn còn được xem nhẹ hoặc được coi là việc riêng của các gia đình
Các cơ quan chức năng chưa làm hết trách nhiệm và chưa quyết liệt trong xử lý
Còn đang giai đoạn hoàn chỉnh về luật
Thiếu các cơ sở hỗ trợ và nhân viên làm chuyên môn
Theo điều phối viên Claudia Garcia Moreno của WHO:
Bạo hành gia đình chỉ có thể được ngăn chặn khi chính phủ và cộng đồng kiên quyết chống lại tệ nạn này
Theo TS Robin Harr, chuyên gia ngành pháp luật tội phạm và tội phạm học, Trường ĐH miền tây bang Arizona (Mỹ) :
Phụ nữ Châu Á thường thiếu nội lực để từ bỏ cuộc hôn nhân có bạo hành , thiếu nội lực để sống độc lập và nếu ly hôn họ sẽ phải đối mặt với vấn đề kinh tế và nhà ở. Người phụ nữ thường cho rằng nhà là tài sản của người chồng, nếu ly hôn thì họ sẽ không có nhà để ở.
Lý do nữa là các dịch vụ phúc lợi xã hội dành cho phụ nữ bị hành hung, ly hôn và con cái rất thiếu. phụ nữ ly hôn ít được hỗ trợ học nghề, việc làm, nhà ở, nuôi con và ít được tư vấn. Luật và các nguồn hỗ trợ pháp lý cho nạn nhân bị bạo hành còn thiếu.
Đối với nhiều nước ở Châu Á , người phụ nữ không dám ly hôn vì sợ mất mặt, sợ xã hội đàm tiếu và từ đó sẽ mất các nguồn hỗ trợ...
Phần 3: Các dấu hiệu giúp phát hiện BHGĐ
Bạo hành thể xác
có thể từ nhẹ cho đến rất nặng
Thờ ơ
Ngắt véo gây đau
Đánh đau, gây thương tích ở khu vực khó phát hiện
Xô đẩy, kềm xiết
Giật, kéo, lắc mạnh; kéo, rứt tóc
Tát, cắn
Đấm đá
Bóp cổ, ném đồ vật vào nạn nhân
Đánh đập nặng, gây thương tích (gãy xương, chấn thương nội tạng)
Quăng ném nạn nhân
Đánh đá vùng bụng gây sẩy thai hoặc sinh non
Sử dụng hung khí có sẵn trong nhà tấn công nạn nhân
Gây thương tích nặng, không cho nạn nhân chữa trị
Dùng phương tiện có dự định (dao, súng,... )
Hủy hoại, làm biến dạng hình thể (acid, cắt xẻo...)
Giết
Bạo hành tình dục
Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân
Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn
Ghen tuông bệnh hoạn
Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân
Sờ mó khi nạn nhân không đồng ý
Từ chối tình dục, âu yếm
Dùng từ thô tục để gọi nạn nhân
Ép buộc quan hệ tình dục để làm nhục, gây đau
Buộc cởi y phục trước con cái, công chúng
Cố tình lăng nhăng với phụ nữ khác (cho nạn nhân biết)
Buộc nạn nhân nhìn thủ phạm làm tình với người khác
Quan hệ tình dục sau khi đánh đập
Sử dụng đồ vật để làm tình
Bạo dâm, cắt xẻo
Giết nạn nhân sau khi quan hệ
Bạo hành tinh thần
Mắng nhiếc, chê bai, xỉ nhục nạn nhân
Hạ thấp giá trị trước mặt người khác
Chửi mắng, nạt nộ vô cớ
Chửi rủa, mang tên bố mẹ nạn nhân ra nguyền rủa
Bạo hành về xã hội
Theo dõi, kiểm soát sinh hoạt của nạn nhân
Kiểm soát thư từ, điện thoại
Cô lập nạn nhân, ngăn trở các mối quan hệ xã hội
Kiểm soát tài chính
Khiến nạn nhân sống phụ thuộc không tự quyết định được
Chu kỳ bạo lực
Bạo hành đối với trẻ em là một vấn đề nghiêm trọng và các dấu hiệu để phát hiện thường khó khăn hơn ở người lớn. Chỉ thấy một dấu hiệu vẫn chưa đủ để nói rằng có bạo hành. Nhưng cần nghiêm túc nghĩ đến có bạo hành nếu dấu hiệu này có khuynh hướng lập đi lập lại, hoặc có nhiều dấu hiệu xảy ra cùng lúc.
Các dấu hiệu chung về bạo hành trẻ em
Ở Trẻ
Thay đổi đột ngột về hành vi hoặc học lực giảm sút
Thái độ cảnh giác, dò xét, lo sợ điều gì đó
Vẻ phục tùng, thụ động, thu rút
Ở Cha mẹ
Ít quan tâm con cái
Phủ nhận các vấn đề của con hoặc quy trách nhiệm cho trẻ
Yêu cầu giáo viên kỷ luật nặng với con
Xem con như gánh nặng, của nợ
Đòi hỏi con thực hiện những việc quá sức
Quan hệ giữa trẻ và cha mẹ
Hiếm khi xúc chạm hoặc nhìn nhau
Dùng lời tiêu cực để nói về quan hệ của họ
Dấu hiệu nghi ngờ bạo hành cơ thể ở trẻ em
Dấu hiệu nghi ngờ có bạo hành thể xác ở trẻ em
Ở Trẻ
Vết bỏng, vết cắn, vết thâm tím, bầm mắt, gãy xương không lý giải được lý do (đặc biệt sau khi trẻ nghỉ học vài ngày)
Trên da có những tổn thương cũ mới khác nhau, bằng chứng của bạo hành nhiều lần
Thái độ thu rút, lùi lại khi có người lớn đến gần
Có một người lớn trong gia đình thông báo trẻ bị đánh đập
Ở Cha mẹ
Giải thích một cách mâu thuẫn, không thuyết phục về những vết thương của trẻ
Mô tả trẻ là đứa xấu xa hoặc bằng những lời lẽ tiêu cực
Kỷ luật khắc khe, thô bạo đối với trẻ
Có thể có tiền sử bị ngược đãi từ thuở bé
Dấu hiệu nghi ngờ bạo hành tình dục ở trẻ em
Ở Trẻ
Khó khăn khi ngồi hoặc đi
Từ chối thay quần áo tập thể dục, từ chối hoạt động thể lực
Ác mộng / Đái dầm
Đột ngột thay đổi khẩu vị
Mắc một bệnh STD (đặc biệt khi trẻ < 14t)
Thể hiện những hiểu biết hoặc hành vi khác thường về giới tính
Bỏ nhà
Tự khai báo là bị xâm hại tình dục
Có thai
Ở Cha mẹ
Bảo vệ trẻ quá đáng, ngăn trẻ tiếp xúc trẻ khác, người khác
Là người giữ kẽ, khó tiếp xúc
Có tính ghen tuông, kiểm soát người khác trong gia đình
Dấu hiệu nghi ngờ có sự bỏ bê, không chăm sóc
Ở Trẻ
Thường hay nghỉ học
Hay xin hoặc lấy cắp thức ăn và tiền
Có biểu hiện thiếu sự chăm sóc sức khỏe: răng miệng, chủng ngừa, thị lực (kính đeo)
Người dơ bẩn, có mùi hôi
Mặc không đủ ấm khi trời lạnh
Sớm sử dụng rượu, ma túy
Nói rằng không có ai ở nhà để chăm sóc
Ở Cha mẹ hoặc người chăm sóc
Tỏ vẻ bàng quan, xa cách trẻ
Có vẻ hờ hững hoặc trầm uất
Ứng xử kỳ quặc hoặc phi lý
Sử dụng rượu, ma túy...
Phần 4: Hỗ trợ nạn nhân bị bạo hành (tức thời)
Khi tình trạng bạo hành được biết đến thì thường là đã có hậu quả nghiêm trọng
Trong tức thời cần phải bảo đảm sự an toàn cho các nạn nhân, nhất là phụ nữ, trẻ em và người già
Giải pháp tạm lánh tại nhà hàng xóm, bạn bè, cha mẹ, hoặc tại các trung tâm dịch vụ hỗ trợ chống bạo hành gia đình
Trong tình huống nguy hiểm, cần cách ly, quản thúc hoặc thậm chí tạm bắt giữ thủ phạm gây bạo hành
Các cơ quan chức năng bao gồm công an, cán bộ pháp luật, chính quyền và đoàn thể tại địa phương... phối hợp cùng làm việc để bảo đảm an toàn tức thời cho các nạn nhân
Các chăm sóc trực tiếp cho nạn nhân bao gồm: chăm sóc y tế, nâng đỡ tâm lý, can thiệp khủng hoảng; giải quyết chỗ ở, thực phẩm, bảo tồn quan hệ với người thân, nhất là quan hệ mẹ con (trừ trường hợp mẹ bạo hành với con)
Phần 5: Hỗ trợ nạn nhân bị bạo hành (lâu dài)
Xử lý pháp luật đối với thủ phạm
Giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến nạn nhân (thủ tục ly hôn, quyền nuôi con, quyền lợi về tài chính trong gia đình, quyền thừa kế, quyền lợi trong công việc hoặc khi xin việc làm, xem xét trợ cấp, người giám hộ thay thế trong trường hợp nạn nhân là trẻ em...)
Chăm sóc sức khỏe lâu dài trong những trường hợp thương tật nặng, giám định sức khỏe, phục hồi di chứng cho nạn nhân... Hoặc điều trị cai nghiện rượu, ma túy (nếu có)
Chăm sóc tâm lý lâu dài trong trường hợp có sang chấn nặng, điều trị thuốc hoặc tâm lý trị liệu khi cần thiết, kể cả tâm lý trị liệu gia đình
Giúp nạn nhân và gia đình nạn nhân vưọt qua khủng hoảng và nâng cao các kỹ năng ứng phó cho cuộc sống sau này
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 3 năm 2008
ĐÔI LỜI VỚI BẠN ĐỌC
Năm 2007 là một năm rất đáng nhớ đối với chúng tôi.
Với những nỗ lực không mệt mỏi, cuối cùng chúng tôi cũng đã thực hiện được mong ước của mình.
Website www.tamlytrilieu.com đã được thai nghén, ấp ủ, và sau cùng đã ra mắt bạn đọc ngày 11 tháng 9 năm 2007. Đến nay website Tâm Lý Trị liệu vẫn tiếp tục vững bước trên hành trình phục vụ bạn đọc.
Kể từ ngày ra mắt bạn đọc, website của chúng tôi không ngừng cập nhật thông tin và mở rộng các giao lưu, liên kết trên mạng. Đồng thời chúng tôi cũng không ngừng tiếp thu các ý kiến từ bạn đọc để tiếp tục nâng cao chất lượng công việc của mình.
Nhiều trang web và blog chuyên môn về tâm lý đã trích dẫn hoặc đăng lại các bài viết và bài dịch của chúng tôi. Toàn bộ các bài giảng về tâm lý trị liệu của chúng tôi (được dùng để giảng dạy môn tâm lý trị liệu tại Đại học Văn Hiến và các lớp huấn luyện kỹ năng tham vấn của Hội KH Tâm lý Giáo dục Tp.HCM) đã được "sử dụng lại" trên một số thư viện điện tử.
Sẽ không hay nếu sớm hài lòng với những gì hiện có, bởi lẽ Website này vẫn còn đang trong tiến trình hình thành và phát triển. Mong rằng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến cho chúng ta, những người cùng chung sức học tập, thực hành và nghiên cứu chuyên ngành tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu tại Việt Nam.
Chúng tôi mong sẽ tiếp tục nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý đồng nghiệp và bạn hữu gần xa.
Địa chỉ liên hệ:
Trụ sở Chi Hội Trăng Non,
29 Phan Xích Long, P.3, Phú Nhuận, Tp.HCM
Điện thoại liên hệ:
BS Nguyễn Minh Tiến
0908 33 0908
Email:
.RỐI LOẠN STRESS SAU SANG CHẤN
(PTSD: Post-Traumatic Stress Disorder)
BS. NGUYỄN MINH TIẾN
Vào lúc khởi đầu của ngành tâm thần học hiện đại, những sự kiện có tính cách quá sức chịu đựng hoặc ngoài tầm khả năng kiểm soát của con người – được biết như những sang chấn tâm lý (psychological trauma) đã là trung tâm của sự chú ý. Sigmund Freud đầu tiên đã nghĩ rằng những sang chấn thời thơ ấu là nguyên nhân gây ra những chứng bệnh tâm thần, và ông đã diễn giải triệu chứng của những bệnh nhân bị bệnh hysterie và các chứng nhiễu tâm khác như là sự tái hiện mang tính biểu tượng của những sự kiện gây sang chấn xảy ra trong thực tế trước đó. Nhưng, về sau, khi ông nhận thấy rằng câu chuyện của những bệnh nhân của ông phần lớn là các huyễn tưởng (fantasy) và do sự diễn giải sai lầm (misinterpretation) thì vai trò của các sang chấn tâm lý trong quá trình hình thành các chứng nhiễu tâm trở nên ít được chú ý hơn. Các bác sĩ tâm thần thường có khuynh hướng mô tả các sang chấn đặc hiệu, ví dụ những trải nghiệm trong chiến tranh, trong các trại tập trung, các vụ cưỡng bức tình dục, các thảm họa dân sự, xâm hại trẻ em... như những vấn đề tách biệt. Chỉ đến những thập niên cuối thế kỷ XX người ta mới nhận ra nhiều đặc điểm chung của các tình trạng ấy.
Bản chất của sang chấn, lứa tuổi và nhân cách của nạn nhân, cùng những phản ứng của bạn bè, gia đình và cộng đồng, tất cả đều có ảnh hưởng lên kết quả cuối cùng; nhưng hội chứng rối loạn stress sau sang chấn (PTSD: post-traumatic stress disorder) vẫn xuất hiện với những đặc điểm nhất định không đổi cho dù những yếu tố phụ trợ nêu trên có thể khác nhau. Sự kiện gây sang chấn thường được tiếp theo sau bởi một giai đoạn chết lặng cảm xúc và phản ứng chối từ có thể kéo dài nhiều giờ cho đến nhiều năm. Kế đó, những ý nghĩ và cảm xúc đi kèm theo sự kiện sẽ được tái hiện lại một cách vô thức. Sự tái hiện này có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức, có thể là những cơn ác mộng, những ấn tượng thị giác, ý nghĩ ám ảnh, ảo giác và sự tái diễn hay sống lại những trải nghiệm về sang chấn. Trong giai đoạn này nạn nhân có thể được chẩn đoán lầm là tâm thần phân liệt hoặc sử dụng ma túy. Sự sống lại và chìm đắm trong sang chấn cứ lập đi lập lại và luân phiên với những giai đoạn chết lặng và chối từ về cảm xúc. Trong những trường hợp ít nghiêm trọng hơn, chu trình này sẽ được giải quyết và các sự kiện gây sang chấn sẽ được hòa lẫn vào các trải nghiệm sống của nạn nhân. Tuy nhiên, tình trạng này có thể trở thành kinh niên khi sang chấn cứ lập đi lập lại hoặc vượt quá sức chịu đựng, như trường hợp xâm hại trẻ em kéo dài, những trải nghiệm trong các trại tập trung, hoặc sang chấn xảy ra ở những người lớn đã từng có một tuổi thơ bất hạnh...
Người ta chưa hiểu rõ tại sao nhiều người vẫn có khả năng chịu đựng được những “công kích” từ các sự kiện gây sang chấn mà không bị ảnh hưởng lâu dài, trong khi đó những người khác thì lại có thể bị “gắn chặt” vào sang chấn. Mức độ của stress chắc chắn là một yếu tố quan trọng, bởi vì tất cả mọi người đều có một mức độ giới hạn nhất định của sự chịu đựng: ít có ai sống sót từ các trại tập trung của Đức Quốc xã mà lại không bị tổn thương về tâm lý.
Giai đọan phát triển cảm xúc của nạn nhân cũng rất quan trọng: một người lớn có cá tính mạnh và được một hệ thống hỗ trợ xã hội tốt sẽ có điều kiện được bảo vệ trước các sang chấn tốt hơn nhiều so với một đứa trẻ. Những thanh niên Mỹ tham dự chiến tranh Việt Nam cũng được thấy dễ xảy ra PTSD.
Trong thực tế, việc cắt đứt hoặc mất hẳn sự hỗ trợ xã hội dường như là một nguyên nhân quan trọng của việc mất khả năng khắc phục các ảnh hưởng của sang chấn. Điều này được thấy trong các thảm họa dân sự khi bị cắt đứt khỏi sự liên lạc với cộng đồng chung – tai nạn tại đảo Three Mile và thảm họa chất độc tại Love Canal là những ví dụ. Thậm chí còn thương tâm hơn trong những trường hợp trẻ em bị ngược đãi về thể xác hoặc bị xâm hại tình dục bởi chính những người lớn mà các em phụ thuộc vào để sống. Trái lại, có nhiều người dường như vẫn “bình yên” sau sang chấn tâm lý nếu môi trường sống mang đến cho họ những sự hỗ trợ cần thiết.
Ở những người mà hậu quả của sang chấn đã ăn sâu bén rễ, sẽ xuất hiện cảm giác “bơ vơ”, “mất chỗ dựa” và cảm giác “bị bạc đãi”. Họ cảm thấy không thể chủ động quyết định được số phận của chính mình. Thay vào đó, trong tình trạng mất chỗ dựa ấy, tâm trí họ vẫn thường xuyên ở trong trạng thái cảnh giác về một khả năng trở lại của sang chấn. Một số âm thanh, mùi hương và một vài tình huống đặc biệt có thể kích thích sự tái hiện một ký ức về sang chấn, kèm theo những cảm giác không thể chịu đựng nỗi. Một cách thức để đương sự có thể giải quyết nỗi sợ này là tránh né tất cả những tình huống, thậm chí tránh né cả những cảm xúc nào có liên quan đến sang chấn. Điều này dễ dẫn đến trạng thái tự cô lập bản thân ra khỏi các mối quan hệ xã hội hoặc đương sự tìm cách tự vùi mình vào công việc.
Những sang chấn tâm lý nghiêm trọng nhất là khi có sự phá vỡ những mối quan hệ thân thiết, gây mất lòng tin nặng nề, như những trường hợp loạn luân, chứng kiến cái chết thê thảm của người mà mình thương yêu; hoặc khi có sự phá vỡ sự tòan vẹn của bản ngã như trong các trường hợp nạn nhân bị hiếp dâm, tra khảo, hoặc những người đã thực hiện những hành vi hung bạo trong điều kiện stress quá sức chịu đựng. Nhiều người bị sang chấn đã tránh né những mối quan hệ thân thiết, vì họ sợ xảy ra một sự xâm phạm khác đối với sự gắn bó ấy. Việc tránh né các mối quan hệ cảm xúc làm giảm đi ý nghĩa của đời sống sau sang chấn và tiếp tục duy trì những ảnh hưởng tiêu cực của sang chấn.
Mặc dù đã tự giới hạn mình về các quan hệ cảm xúc, nhưng cơ thể của những nạn nhân bị sang chấn vẫn tiếp tục phản ứng với các kích thích về thể chất cũng như về cảm xúc như thể vẫn còn tồn tại những nỗi lo sợ bị hủy diệt. Hệ thần kinh thực vật vẫn tiếp tục chuẩn bị cho cơ thể của một trạng thái cảnh giác, “chuẩn bị hành động”. Đã có trường hợp một cựu binh sau chiến tranh đã có có lúc nhìn lầm những cử động của người bạn tình trên giường ngủ như là... một cuộc tấn công của đối phương. Những tiếng động nhỏ len vào phòng ngủ của một người bị hội chứng PTSD cũng có thể gây nên một cơn ác mộng sống động bao gồm cả việc tái hiện lại thật chi tiết những sự kiện gây sang chấn trước đó. Những nạn nhân này thường cố xua đuổi các ký ức về sang chấn ra khỏi phần ý thức tình táo của họ, và chỉ thấy chúng trở lại trong giấc ngủ. Những cơn ác mộng như thế thường xảy ra vào các thời điểm có các sự kiện chuyển biến quan trọng về thể chất hoặc tâm lý như tuổi dậy thì, khi lập gia đình, sinh con, bắt đầu bị một căn bệnh hoặc khi về hưu...
Khi việc “rút lui” khỏi những quan hệ cảm xúc bị thất bại, một số người có thể bị chìm đắm trở lại vào sự tái diễn lại sang chấn. Những cựu binh Mỹ sau chiến tranh Việt Nam lại có thể tòng quân làm lính đánh thuê, những nạn nhân của tệ lọan luân trở thành gái mãi dâm, những trẻ em từng bị ngược đãi thể xác có khuynh hướng thường xuyên thực hiện những việc làm tự gây thương tích cho bản thân. Freud trước đây xem việc đương sự tự ý tiếp xúc lại với sang chấn như là một cố gắng tích cực nhằm giành lại quyền làm chủ bản thân (mastery). Ngày nay, có bằng chứng cho thấy rằng, trong khi đáp ứng với sang chấn, đã có sự gia tăng sản xuất các chất endorphin và enkephalin, những chất giống như morphin, xuất hiện một cách tự nhiên bên trong não của đương sự. Tình trạng sang chấn nghiêm trọng và lập đi lập lại có thể khiến cơ thể đương sự bị “nghiện” với các chất opioid của chính mình, và tình trạng nghiện này được thỏa mãn bằng cách tiếp xúc trở lại với các hoàn cảnh tương tự như hoàn cảnh gây ra sang chấn. Lý thuyết này cũng phù hợp với thực tế rằng những ảnh hưởng tâm-sinh lý thường xuyên của sang chấn đã khiến nhiều nạn nhân tìm đến với rượu và ma túy.
Sự giới hạn cảm xúc, tìm kiếm hoặc tái diễn lại sang chấn, lạm dụng ma túy, rượu như hậu quả của sang chấn, đã tạo thêm những vấn đề hoàn toàn mới và thường là không giải quyết được, khiến làm lu mờ nguyên nhân gây sang chấn ban đầu. Một số nhà chuyên môn về sức khỏe tâm thần không thực hiện thường qui việc hỏi những bệnh nhân của họ về tình trạng ngược đãi thân thể hoặc lạm dụng tình dục. Nhiều tài liệu chuyên môn còn có khuynh hướng xem những vấn đề “dị thường” này chỉ có thể xảy ra ở các “tầng lớp thấp” trong xã hội. Thế nhưng tình trạng loạn luân và xâm hại trẻ em lại có thể xảy ra ở tất cả mọi thầnh phần trong dân chúng, và việc lạm dụng rượu hay ma túy để đáp ứng với sang chấn thì hầu như có tính phổ quát.
Hầu hết các sự kiện gây sang chấn quá sức chịu đựng đều có liên quan đến chấn thương thân thể hoặc xâm hại tình dục. Vụ bắt cóc trẻ em trên xe đưa rước học sinh ở Chowchilla, California là không bình thường vì có 26 nạn nhân không bị tổn thương về thân thể. Tuy nhiên, bốn năm sau, tất cả số trẻ này đều được thấy có biểu hiện của PTSD ở nhiều mức độ, và các triệu chứng đều đặc biệt tương tự như nhau, dù rằng các trẻ này có sự khác biệt lớn về tuổi tác và ở vào các giai đoạn phát triển tâm thần-cảm xúc khác nhau.
Trẻ em đặc biệt rất nhạy cảm với những tác động kéo dài của sang chấn tâm lý và tình trạng dằn xé càng trầm trọng khi thủ phạm gây ra sang chấn lại là một người lớn mà trẻ đang trông cậy vào để có được tình yêu thương và sự che chở. Những trẻ em là nạn nhân của tệ loạn luân hoặc ngược đãi thể xác thường bị mất cảm giác cơ bản về sự an toàn; trẻ có thể phải suốt đời đấu tranh với sự hòai nghi, với sự giận dữ bị dồn nén và với những ký ức thương đau. Để duy trì lòng tin vào người mà trẻ đang sống phụ thuộc, trẻ thường có khuynh hướng tự kết tội chính bản thân mình hoặc qui cho một tác nhân khác ở bên ngoài đã gây ra tình trạng ngược đãi. Giống như trường hợp những người lớn đã “đồng cảm” với những kẻ khủng bố bắt cóc họ, những trẻ em bị ngược đãi cũng có thể “đồng cảm” với thủ phạm gây ra ngược đãi và “bảo vệ” cho họ, việc xâm hại chỉ có thể được chứng minh sau một thời gian tiếp xúc lâu dài và thăm hỏi thân tình. Tình trạng tự căm ghét bản thân của trẻ có thể được biểu hiện bằng nhiều cách khác nhau: từ trầm cảm nhẫn nhục, cho đến việc nhiều lần tự gây thương tích cho bản thân và thậm chí là mưu toan tự sát. Một số trẻ bị ngược đãi, đặc biệt là các bé trai, có thể chuyển sự gây hấn ra bên ngòai dưới hình thức các hành động chống đối xã hội.
Nhiều trẻ bị ngược đãi có chỉ số thông minh thấp và một số cho thấy có tổn thương thần kinh ngay cả khi không bị chấn thương ở vùng đầu. Những cảm giác quá sức chịu đựng liên quan đến sang chấn có ảnh hưởng đến khả năng sắp xếp thông tin một cách hợp lý. Những trẻ này khi tiếp xúc với những kích thích gợi lại sang chấn, những cảm giác nảy sinh thậm chí có thể gây ra một phản ứng lọan thần.
Các sang chấn cấp (acute trauma) được trị liệu tốt nhất là khi nó vừa xảy ra. Các tác động của tai nạn hoặc thảm họa có thể được giải quyết nếu như các phản ứng phòng vệ chống lại ký ức về sang chấn không trở nên quá nổi trội khiến cho nó bị phân ly, tách biệt khỏi ý thức nạn nhân. Một khi những tác động này trở nên kéo dài, có thể sẽ khó khăn cho cả nạn nhân lẫn người trị liệu trong việc hiểu được mối tương quan giữa các ký ức về sang chấn và cơ cấu phòng vệ thứ phát, mà từ đó dẫn đến lạm dụng rượu, trầm cảm mạn tính, hành vi bốc đồng, tính nét bừa bãi, tai nạn giao thông, và thậm chí cả xâm hại trẻ em.
Điều quan trọng ngay từ đầu là phải xác định rõ cả sự khác biệt lẫn sự liên hệ giữa sang chấn ban đầu và những hành vi kém thích nghi xảy ra sau đó. Khi hiểu được mối liên hệ này, lọai hành vi ấy sẽ tạm thời giảm bớt. Khi mối liên hệ không được xác định, nạn nhân bị PTSD sẽ càng lúc càng trở nên hụt hẫng, và thậm chí đặt ra những đòi hỏi nài nỉ với nhà trị liệu. Mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu khi đó trở nên có tính “lạm dụng lẫn nhau” (mutually abusive) bằng cách có thể gây hồi tưởng lại một số khía cạnh của sang chấn bạn đầu. Học cách dung nạp những cảm giác liên quan đến sang chấn là công việc chủ yếu của hầu hết các nạn nhân. Họ thường nhất thời trở nên căng thẳng hơn, rối loạn hơn khi phải nhận diện những cảm giác xuất hiện lúc họ phản ứng với những sự kiện trong quá khứ và trong hiện tại. Họ có thể cần phải được dùng thuốc để làm giảm những đáp ứng khó chịu về thể chất và cảm xúc. Nhưng những nỗi sợ hãi trong quá khứ chỉ có thể được trải nghiệm một cách an toàn chỉ khi nào thiết lập được một mối quan hệ trị liệu ngày càng có thêm lòng tin và sự an toàn. Việc xây dựng một sự hợp tác trị liệu như thế có thể bị ảnh hưởng bởi sự giới hạn cảm xúc về quá khứ, tình trạng lạm dụng rượu, ma túy, và các hành vi kém thích nghi khác.
Chỉ hiểu biết về quá khứ thôi chưa đủ để hồi phục lại tổn thương, dù điều đó làm sáng tỏ những gì đã xảy ra và giúp cho người bệnh hướng đến những cách thức tốt hơn trong việc giải quyết các hậu quả của sang chấn. Mối quan hệ trị liệu tự nó có lẽ là phần quan trọng nhất của việc trị liệu; nó giúp tái lập lòng tin cơ bản và thuyết phục người bệnh tin rằng những trải nghiệm mà họ đã có là sự thật chứ không phải là sự tưởng tượng bệnh hoạn. Trị liệu nhóm (group therapy) là đặc biệt có ích. Nó cho phép nạn nhân bị sang chấn chia sẻ cái quá khứ riêng tư của họ với những người khác; những người này cũng sẽ hiểu được họ vì cũng đã từng có những trải nghiệm tương tự như họ. Cùng lúc ấy, nạn nhân có thể thiết lập được những mối quan hệ chân tình với những “người bạn đồng hành” này. Trị liệu nhóm giúp nạn nhân thoát khỏi tính thụ động và cảm giác thường xuyên thấy mình là nạn nhân, bởi trong nhóm, khi một người nào đó đang cố gắng đương đầu với một vấn đề, thì những người khác có thể làm dịu bớt sự lo âu khi nó nảy sinh. Hoàn cảnh trị liệu nhóm cũng gần giống với đời sống thực tế hơn là trị liệu cá nhân, vì các thành viên trong nhóm cũng đặt ra cho nhau cả những đòi hỏi thích hợp lẫn không thích hợp, và những đòi hỏi này đôi khi cũng “nhuốm màu” sang chấn trong quá khứ. Chỉ sau khi bệnh nhân có thể tách biệt được những cảm giác thuộc về sự kiện trong quá khứ với những cảm giác thích hợp trong hiện tại, họ mới có thể tái lập được một cảm nhận về lịch sử của bản thân mình với một quá khứ, một hiện tại và một tương lai.
Tham khảo: Post-Traumatic Stress Disorder
(Bessel van der Kolk, M.D., Giảng viên môn Tâm thần học, ĐH Y khoa Harvard; Giám đốc Cơ sở Trị liệu Sang chấn – Traumatic Clinic, thuộc Trung tâm Sức khỏe Tâm thần Massachusetts, Hoa Kỳ)STRESS LÀ GÌ?
BS. NGUYỄN MINH TIẾN (dịch và tổng hợp)
Phần II
SINH LÝ HỌC CỦA STRESS
Chúng ta biết rằng những xáo trộn trên một bình diện của một hệ thống sẽ dẫn đến những thay đổi trong các bình diện khác của hệ thống đó. Trong khi stress dẫn đến sự nhận định rằng sự kiện là có tính đe dọa hoặc có hại, thì việc nhận định này cũng sẽ sinh ra những đáp ứng sinh lý cũng như những đáp ứng về cảm xúc và hành vi. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét chi tiết về sinh lý học của stress.
Những con đường sinh học được kích hoạt trong stress
Đáp ứng sinh lý đối với stress được điều hòa thông qua thông qua hệ thần kinh, nội tiết và hệ miễn dịch. Các đáp ứng thần kinh, nội tiết và miễn dịch xảy ra với sự khác biệt về khuynh độ thời gian (temporal gradient). Các đáp ứng sinh lý tức thì được điều hòa bởi hệ thần kinh thực vật (ANS: autonomic nervous system). Các đáp ứng trung gian được điều hòa bởi tuyến tủy thượng thận, một tuyến nội tiết nằm dưới sự kiểm soát của ANS. Các đáp ứng dài hạn được điều hòa bởi hệ nội tiết và hệ miễn dịch. Mỗi một trong số các hệ thống này đều có những ảnh hưởng rộng rãi trên các mô đích (target tissue) trong cơ thể (Allen, 1983). Những đáp ứng này lại được kiểm soát bởi vùng hạ đồi (hypothalamus) - một nhóm những neuron thần kinh nằm ở vùng đáy não. Hạ đồi cùng với hệ limbic (phần não điều hòa cảm xúc) kiểm soát những chức năng cơ bản của cơ thể như ăn, uống, sinh hoạt tình dục, cảm xúc, sự vui thích (pleasure) và sự trừng phạt (punishment). Hệ limbic và hạ đồi lại chịu ảnh hưởng của vỏ não - phần ngoài cùng của não có vai trò điều hòa các chức năng cao cấp như suy nghĩ, lý luận và ký ức.
Hệ thần kinh thực vật
Hệ thần kinh thực vật (ANS) kiểm soát các quá trình cơ bản của cơ thể như nhịp tim, hô hấp, huyết áp và tiêu hóa. ANS cũng kiểm soát chức năng các nội tạng mà chúng ta rất ít nhận biết được. Hệ ANS gồm hai phần: hệ giao cảm(sympathetic) và đối giao cảm (parasympathetic). Hệ giao cảm chuẩn bị cho cơ thể thực hiện những hành động; tác dụng chung của nó trên các mô đích là gây “khuấy động” (arousal). Hệ đối giao cảm liên quan đến việc duy trì những nhu cầu cơ bản của cơ thể. Tác động của nó nói chung được ví như công việc của một người nội trợ: thải bỏ chất cặn bã, xây dựng kho dự trữ năng lượng và săn sóc cơ thể khi bị nhiễm trùng. Hai hệ này có tác dụng đối kháng nhau. Ví dụ, hệ giao cảm làm tăng nhịp tim, trong khi đối giao cảm làm nhịp tim chậm lại, chúng tác dụng như “tay ga” và “thắng” khi lái xe. Tác động sau cùng trên một cơ quan nhất định là một chức năng do sự hoạt hóa tương đối của hai hệ này.
Sự hoạt hóa hệ giao cảm xảy ra thường nhất trong stress và chuẩn bị cho đương sự thực hiện những hành động mạnh mẽ, “chống hoặc chạy”, nhằm ứng phó với các tác nhân gây stress. Tăng nhịp tim, tăng sức co bóp của cơ tim và tăng cung lượng tim sẽ đẩy nhanh việc cung cấp oxy và năng lượng cho hoạt động mạnh của các khối cơ lớn (cho phản ứng “chống hoặc chạy”). Các mạch máu đến cơ vân giãn ra, tăng sự cấp máu cần thiết cho hoạt động cơ. Các mạch máu đến ruột co lại, làm chậm quá trình hấp thu thức ăn. Mạch máu đến da cũng co lại, hạn chế sự mất máu trong trường hợp bị chấn thương. Khả năng đông máu tăng lên, cũng giúp hạn chế sự mất máu khi chấn thương. Cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương đều tăng. Sự gia tăng nhịp thở và giãn phế quản cho phép tăng trao đổi O2 và CO2, đáp ứng với nhu cầu khi hoạt động mạnh. Thoát mồ hôi nhằm thải bớt thân nhiệt gia tăng quá mức. Các chức năng cơ thể không góp phần vào sự sinh tồn trước mắt đều sẽ bị ngưng lại. Có sự giảm hoạt động tiêu hóa. Nhu động ruột chậm lại; các cơ vòng đường tiêu hóa và tiết niệu co lại hạn chế sự thải các chất bã.
Đáp ứng giao cảm, hay phản ứng “chống hoặc chạy”, được khơi dậy nhanh chóng để đáp ứng với stress vì nó được điều hòa qua trung gian các giao nối thần kinh (neural connection). Đó là những đáp ứng tương đối tự động và đã được “lập trình” về mặt sinh học để đáp ứng với các tác nhân gây stress cả về thể chất lẫn tâm lý. Tất cả chúng ta đều trải qua những biến đổi này khi bị ai đó đe dọa, khi thình lình gặp một con rắn, hoặc khi suýt bị tai nạn xe cộ. Những thay đổi này cũng xảy ra trong đáp ứng với những mối đe dọa cho sức khỏe tâm lý của chúng ta như khi dự thi, cảm giác giận một ai đó, hoặc khi phải nói trước đám đông. Nhưng cơ thể chúng ta phản ứng như nhau trong trong cả hai tình huống, không khác biệt.
Tủy thượng thận (adrenal medulla)
Tác động của hệ thần kinh thực vật chỉ ngắn hạn. Sự khuấy động được duy trì bởi một cơ chế trung gian: sự phóng thíchepinephrine (E) và norepinephrine (NE) từ tủy thượng thận. Tuyến thượng thận được định vị ở trên đỉnh của hai quả thận và gồm hai vùng có chức năng độc lập: vùng tủy và vùng vỏ. Do sự kích hoạt thần kinh giao cảm, E và NE sẽ được phóng thích từ tủy thượng thận. Một khi vào máu, E và NE sẽ lưu hành và gây ảnh hưởng trên các cơ quan đích. Tác động của chúng cũng giống như sự kích hoạt giao cảm. Chúng tăng cường và kéo dài sự khuấy động sinh lý gây ra do sự kích hoạt giao cảm, và vì thế cũng tạo điều kiện cho phản ứng “chống hoặc chạy”. Hệ quả sau cùng của tác động này là tăng nhịp tim, huyết áp, hô hấp và tăng đường huyết; giảm hoạt động của hệ tiêu hóa.
Đáp ứng của thượng thận xảy ra chậm hơn nhưng kéo dài hơn đáp ứng giao cảm, vì nó liên quan đến cả hai con đường thần kinh và hóa học. Nói chung, cần khoảng 20-30 phút để các tác dụng sinh lý của E và NE được thể hiện. Những tác dụng này kéo dài khoảng một giờ hoặc hơn, vì E và NE được thải chậm khỏi hệ tuần hoàn. Thời gian tác dụng của E và NE từ thượng thận lâu gấp 10 lần so với đáp ứng giao cảm.
Hệ nội tiết và hệ miễn dịch
Hệ nội tiết và hệ miễn dịch điều hòa giai đoạn 3 của các biến đổi sinh lý trong đáp ứng với stress. Bốn tuyến nội tiết cơ bản có liên quan đến đáp ứng với stress: tuyến yên (pituitary), tuyến giáp (thyroid), vỏ thượng thận (adrenal cortex) vàtuyến tụy (pancreas). Các tuyến này tiết ra những hormone vào hệ tuần hoàn gây tác dụng trên các cơ quan đích. Trái với sự kích hoạt giao cảm và tác dụng của E và NE từ tủy thượng thận, sự kích hoạt các hormone trong đáp ứng stress cần thời gian từ nhiều phút đến nhiều giờ trước khi tác dụng được biểu hiện tại cơ quan đích. Tác dụng của các hormone cũng kéo dài lâu hơn. Hình 4-4 cho thấy một tổng quan về hệ nội tiết. Tuyến yên nằm ở phần đáy não và được kiểm soát bởi vùng hạ đồi. Tuyến yên thường được gọi là tuyến “chủ đạo” (master gland) vì nó có ảnh hưởng kiểm soát các tuyến nội tiết khác. Tuyến yên được chia thành hai phần: thùy trước và thùy sau. Thùy trước tiết ra 6 loại hormone; 5 trong số này là các hormone “định hướng” (trophic hormone) bởi vì chúng ảnh hưởng đến sự tiết hormone của các tuyến khác. Trong đáp ứng stress, chúng ta chỉ tập trung vào 2 loại hormone “định hướng” là ACTH (Adrenal Cortex Trophic Hormone) và TSH(Thyroid Stimulating Hormone). Hormone thứ sáu của thùy trước tuyến yên là GH (Growth Hormone). GH không phải là hormone “định hướng”; nó có tác dụng trực tiếp lên mô đích một cách độc lập với các hormone khác. Sự phóng thích các hormone từ thùy trước tuyến yên chịu sự chi phối bởi các tín hiệu hóa học từ vùng hạ đồi. Vùng hạ đồi phóng thích ra các thông điệp hóa học, mà đến lượt chúng lại bị kiểm soát bởi lượng hormone lưu hành trong máu (cơ chế feedback âm), và bởi những sợi thần kinh ly tâm đi từ hệ limbic và vỏ não.
Thùy sau tuyến yên tiết ra hai hormone: ADH (Anti-Diuretic Hormone) và oxytocin. Cả hai đều có tác dụng trực tiếp trên mô và không phải là hormone “định hướng”. Chỉ ADH có liên quan đến đáp ứng stress. ADH thực ra được tổng hợp từ vùng hạ đồi, theo các mạch máu nhỏ vận chuyển đến thùy sau tuyến yên để dự trữ. Sự phóng thích ADH được kiểm soát bởi các thụ thể thẩm thấu (osmoreceptor) ở vùng hạ đồi nhạy cảm với các nồng độ trong dịch cơ thể. Vì ADH ảnh hưởng lên các nồng độ trong dịch cơ thể nên ở đây lại có sự hiện diện của một cơ chế feedback âm.
Trong stress có sự gia tăng phóng thích GH từ tuyến yên. GH cho phép tăng tiêu dùng năng lượng trong tế bào và làm tăng đường huyết (Asterita, 1985). Sự gia tăng năng lượng khả dụng và sử dụng hiệu quả năng lượng ấy sẽ chuẩn bị cho đương sự thực hiện được những hành động mạnh mẽ trong đáp ứng với stress. Trong stress, tuyến yên cũng tiết ra ADH, chất này tác động lên thận làm tăng sự tái hấp thu nước và làm tăng lượng dịch trong cơ thể (Asterita, 1985). Việc này bảo vệ cơ thể chống lại sự mất máu và sốc do chấn thương. Và do làm tăng thể tích máu, nó cũng gây tăng huyết áp.
Vỏ thượng thận là phần ngoài của tuyến thượng thận, từ đó có hai nhóm hormone được phóng thích: glucocorticoid (GC) và mineralocorticoid (MC). Sự phóng thích GC được kiểm soát bởi ACTH của tuyến yên. Lượng GC tuần hoàn sẽ ảnh hưởng lên sự tiết ACTH ở trục hạ đồi - tuyến yên. Trong stress, có sự tăng tiết ACTH và dẫn đến tăng tiết GC ở vỏ thượng thận. GC huy động protein và mỡ từ các mô, biến đổi protein và mỡ thành glucose tại gan. Điều này làm tăng chất đường và mỡ trong máu, sẵn sàng cho đương sự có nguồn năng lượng cần thiết cho các đáp ứng với stress. GC cũng ảnh hưởng trên các đáp ứng của cơ thể với các chấn thương và nhiễm trùng. Chúng ức chế tình trạng viêm trong chấn thương và nhiễm trùng, bằng cách ức chế sự thoát huyết tương từ máu và ức chế khả năng di chuyển của bạch cầu đến vùng bị chấn thương và nhiễm trùng. GC cũng ức chế đáp ứng miễn dịch bằng cách thu nhỏ tuyến ức (thymus), lách và hạch bạch huyết, đồng thời ức chế sự phát triển của tế bào lympho và sự tạo kháng thể (Asterita, 1985). Sự gia tăng phóng thích GC trong stress vì thế không chỉ giữ cho cơ thể có đủ năng lượng2, mà còn kềm hãm cơ chế bảo vệ đã được “cài đặt” sẵn trong cơ thể chống lại chấn thương và nhiễm trùng. Điều này có ý nghĩa, nếu chúng ta nhớ rằng những mục đích trung gian của các đáp ứng sinh lý với stress là nhằm chuẩn bị cho cơ thể thực hiện những hoạt động thể chất. Việc giảm quá trình viêm sẽ giữ cho huyết tương ở lại trong dòng máu, ở đó nó có thể vận chuyển năng lượng và những hoạt chất cần thiết cho phản ứng “chống hoặc chạy”. Việc sản sinh lympho bào và kháng thể cần sử dụng protein mà GC cần đến để chuyển chúng thành glucose để tạo năng lượng. Những “công việc nội trợ” giải quyết các chấn thương và nhiễm trùng được “hy sinh” để giải quyết mối đe dọa trước mắt. Loại hormone quan trọng thứ hai được phóng thích từ vỏ thượng thận là mineralocorticoid (MC). MC có tác dụng trên thận giúp giữ nước và muối cho cơ thể. Việc này làm tăng thể tích máu và tăng huyết áp, vì thế hỗ trợ cho tác dụng của ADH.
Tuyến giáp nằm ở cổ, ngay trước thanh quản. Sự phóng thích thyroxin của tuyến giáp được kiểm soát bởi TSH của tuyến yên. Thyroxin làm tăng chuyển hóa và tiêu dùng glucose. Nó cũng làm tăng tiêu dùng oxy trong tế bào. Trong stress, thyroxin được tăng tiết. Sự huy động các nguồn năng lượng sẵn có và gia tăng tiêu dùng các năng lượng ấy giúp cơ thể chuẩn bị các hoạt động ứng phó với stress (Asterita, 1985).
Tuyến tụy nằm kế dạ dày. Nó có chức năng như một tuyến nội tiết và tiết ra hai hormone là insulin và glucagon. Sự tiết hai hormone này được chi phối bởi đường huyết. Glucagon kích thích sự phóng thích chất đường dự trữ vào trong máu. Trong stress, sự tiêu dùng quá nhiều đường do hoạt động thể lực sẽ kích thích tiết glucagon để giúp bổ sung nồng độ glucose trong máu, giữ cho cơ thể sẵn sàng hoạt động. Insulin thì có tác dụng ngược lại. Khi đường huyết tăng cao, sự tiết insulin được kích thích, kết quả là làm tăng dự trữ đường ở gan, cơ vân và mô mỡ. Đường huyết giảm do hoạt động trong tình trạng stress sẽ ức chế tiết insulin. Trong khi sự tăng đường huyết do tăng phóng thích E, NE, Thyroxin và GC trong stress thường sẽ kích thích tiết insulin. Kết quả chung là làm tăng đường huyết để nhằm chuẩn bị sẵn năng lượng cần thiết cho cơ thể “chống hoặc chạy” (Asterita, 1985).
Nồng độ GC cao cũng ức chế hệ miễn dịch. Trong thực tế, chức năng đích thực của hệ miễn dịch phụ thuộc vào nồng độ bình thường của những hormone khác. Những thay đổi nội tiết kèm theo stress sẽ dẫn đến thay đổi chức năng miễn dịch. Tuyến ức và các mô khác có vai trò trong đáp ứng miễn dịch cũng có thể bị biến đổi bởi hệ thần kinh thực vật. Tác động của stress trên chức năng miễn dịch là rất phức tạp. Cả hai tình trạng tăng và giảm miễn dịch đều đi kèm với stress, tùy theo điều kiện xảy ra stress và tùy theo ta quan sát khía cạnh nào của chức năng miễn dịch.
Các đáp ứng sinh lý với stress - Tóm tắt
Một hệ thống các đáp ứng phức tạp được quan sát thấy trong stress; kích hoạt giao cảm trong thời gian ngắn, phản ứng trung gian tiết E và NE từ tủy thượng thận, và các biến đổi kéo dài của hệ nội tiết và hệ miễn dịch. Những đáp ứng này có tính bổ sung cho nhau. Chúng chuẩn bị về sinh học giúp đương sự thực hiện những hành động mạnh mẽ, liên tục để ứng phó với các tác nhân gây stress về cả thể chất lẫn tâm lý. Hệ quả sinh lý chính của stress là tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng đường huyết, tăng đông máu, tăng chuyển hóa và tăng hô hấp; giảm các quá trình tiêu hóa, bài tiết và viêm. Trong những điều kiện nhất định, stress cũng có thể ức chế miễn dịch. Vì thế, stress có những tác động mạnh mẽ và rộng rãi.
Các đáp ứng sinh lý với stress và những chiến lược ứng phó về nhận thức - hành vi
Chúng ta đã xem xét các đáp ứng với stress và các chiến lược ứng phó về nhận thức - hành vi như những trạng thái độc lập. Thật ra chúng có liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Đâu là bản chất của mối liên quan này? Có hai lý thuyết để trả lời cho câu hỏi này: một nhấn mạnh vào tính phổ quát (generality); một nhấn mạnh vào tính đặc hiệu (specificity) của các đáp ứng sinh lý. Những người theo quan điểm phổ quát (Selye, 1956; Wolf, 1950) cho rằng tất cả các tác nhân gây stress đều tương đương nhau trong việc tạo ra sự hoạt hóa phổ quát đã được lập trình sẵn về sinh học. Các biến đổi sinh lý vì vậy được xem là giống nhau dưới mọi điều kiện stress và ứng phó với stress. Những người theo quan điểm đặc hiệu cho rằng mức độ và mô hình của các đáp ứng với stress thay đổi tùy theo sự nhận định, tình trạng khuấy động cảm xúc và đáp ứng nhận thức - hành vi của đương sự đối với sự kiện gây stress (Mason, 1975a).
Vẫn còn thiếu dữ liệu hỗ trợ một cách chắc chắn cho cả hai giả thuyết. Dường như có một sự khác biệt trong mô hình khuấy động sinh lý tùy theo chiến lược được sử dụng để ứng phó với các tác nhân gây stress. Ví dụ, mô hình đáp ứng khác nhau về tim mạch có liên quan đến kiểu ứng phó chủ động hay thụ động (Obrist, 1976); tránh né hoặc cảnh giác (Lacey, 1978). Những mô hình khác nhau về xuất tiết hormone cũng liên quan đến những cảm giác khước từ hoặc lo lắng (Mason, 1975a); giận dữ hoặc sợ hãi (Ax, 1953). Vì thế, các đáp ứng với stress không có tính chất phổ quát và đồng nhất. Chỉ một phần các đáp ứng được kể đến trong các phần trước có thể thấy được trong bất kỳ một mối tương giao gây stress nào đó. Vài trường hợp, các đáp ứng sinh lý lại được phân chia thành nhiều đáp ứng, cái này có thể thay đổi không kèm theo cái khác; ví dụ, huyết áp có thể tăng, nhưng nhịp tim lại không thay đổi.
Các đáp ứng nhận thức - hành vi và đáp ứng sinh lý thường bổ sung cho nhau. Đáp ứng sinh lý có tính tương xứng với các chiến lược ứng phó về nhận thức - hành vi được áp dụng. Tư tưởng, hành động và sinh lý của chúng ta có quan hệ qua lại với nhau; bình diện này ảnh hưởng đến bình diện kia. Nếu không thì chúng ta sẽ cố gắng làm một việc này trong lúc cơ thể chúng ta lại được chuẩn bị để làm một việc khác. Trái với lý thuyết hoạt hóa phổ quát, có lẽ không có một mô hình khuấy động sinh lý duy nhất nào xảy ra với mọi sự kiện gây stress, mọi chiến lược ứng phó và mọi đáp ứng cảm xúc, do có một sự linh hoạt giới hạn trong các đáp ứng sinh lý đối với stress (Holroyd, 1979).
STRESS - MỘT QUÁ TRÌNH
Từ một cách nhìn hệ thống, stress là một đáp ứng tích hợp, đa bình diện (multilevel) của đương sự đối với các kích thích bên trong và bên ngoài. Các bình diện đáp ứng khác nhau có tính phụ thuộc lẫn nhau.
Có một khuynh hướng suy nghĩ về stress theo một cách thức “thẳng tắp”: kích thích - cơ thể sống- đáp ứng: Một sự kiện nào đó xảy ra, đương sự nhận thấy sự kiện có tính đe dọa, và kế đó sinh đáp ứng về cảm xúc, hành vi và sinh lý. Mối tương giao khi ấy được hoàn tất. Tuy nhiên, đây không phải là sự thể hiện đúng đắn về một mối tương giao gây stress khi nó xảy ra trong môi trường tự nhiên (Lazarus, Folkman, 1984). Stress được khái niệm hóa tốt hơn như là một quá trình tiếp diễn, hai chiều và lập đi lập lại (Leventhal, Nerenz, 1983). Khi đối đầu với tác nhân gây stress, các đáp ứng sinh lý và sự ứng phó đầu tiên của chúng ta sẽ làm biến đổi sự kiện. Kế đó, chúng ta nhận định lại sự kiện đã bị biến đổi ấy, rồi điều chỉnh lại các đáp ứng sinh lý và ứng phó của chúng ta sao cho phù hợp; rồi đáp ứng này lại làm biến đổi sự kiện, cứ thế tiếp diễn... Việc ứng phó theo kiểu định hướng vấn đề sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến kích thích gốc. Ứng phó kiểu định hướng cảm xúc ảnh hưởng gián tiếp đến “đầu vào” bằng cách thay đổi sự nhận định hoặc phản ứng cảm xúc của đương sự đối với sự kiện. Vì thế, stress và đáp ứng là một quá trình xoay vòng (circular process) trong đó những cố gắng ứng phó làm biến đổi sự kiện theo một vòng cung phản hồi (feedback loop). Để thêm tính phức tạp, chúng ta lại thường ứng phó với nhiều tác nhân gây stress chồng chéo lên nhau bằng những cách thức phức tạp.
Tóm lại, stress có thể được xem là một đáp ứng đa bình diện của một con người đối với các kích thích được nhận định là đe dọa hoặc có hại. Đáp ứng này có thể ít nhiều cải thiện được kích thích gây stress.
HỆ QUẢ THÍCH NGHI (ADAPTATIONAL OUTCOMES)
Quan niệm về stress như một quá trình liên tục, lòng vòng, dẫn đến việc xem xét về những hệ quả thích nghi, hoặc những tác dụng lũy tiến theo thời gian của những cố gắng ứng phó của chúng ta với tác nhân gây stress. Những hệ quả thích nghi có thể được xem như trạng thái sinh học - tâm lý của một người ở một thời điểm nào đó; nó giống như một khuôn hình đứng yên của một cuốn băng video. Hoạt động được ghi trong khuôn hình đó có thể được hiểu dựa trên những gì xảy ra trong một số khuôn hình trước đó (hệ quả thích nghi ngắn hạn) hoặc nhiều khuôn hình trước đó (hệ quả thích nghi dài hạn). Chúng ta có thể lượng giá những hệ quả thích nghi trên các bình diện sinh lý, nhận thức, cảm xúc, hành vi và xã hội. Nói cách khác, sức khỏe thể chất , cảm xúc, sự thỏa mãn, thái độ, năng lực hành vi và các mối quan hệ xã hội của con người là một phần trong kết quả chung của khả năng tương giao giữa họ với môi trường sống.
Trước khi bàn đến những hệ quả thích nghi một cách đầy đủ hơn, có hai điểm quan trọng cần nhớ.
Thứ nhất, stress không nhất thiết phải có một tác động tiêu cực. Stress còn có thể được xem như một như một động lực thúc đẩy tăng trưởng, phát triển tinh thần hăng say và các năng lực thuần thục. Điều này được ẩn chứa trong những ý niệm về sự thử thách (challenge), đối tượng ủy thác (commitment) và sự hỗ trợ xã hội (social support). Những người được bảo vệ tránh stress quá mức có lẽ có nguy cơ cao bởi vì họ không thể phát triển được những kỹ năng ứng phó cần thiết trong đời sống hằng ngày (Murphy, 1979). “Thiếu stress” vì thế cũng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực (Frankenhaeuser, 1978). Stress có thể dẫn đến những hệ quả tích cực. Giải quyết thành công những đe dọa và thách thức sẽ đưa đến những cảm xúc tích cực, tạo nên những cảm giác về tính hữu dụng của bản thân và sức khỏe thể chất. Thứ hai, các hệ quả thích nghi là kết quả của một số yếu tố đi kèm theo tình trạng stress. Sẽ là sai lầm khi thay thế lý thuyết về mầm mống sinh-y học gây ra bệnh tật bằng quan niệm cho rằng stress làyếu tố duy nhất và quan trọng nhất giúp thích nghi về thể chất và tâm lý - xã hội. Để xử lý stress, mà chỉ tạo nên một lý thuyết về mầm mống tâm lý - xã hội, thì cũng sẽ không hoàn hảo giống như chỉ dựa vào một lý thuyết về sinh-y học vậy. Chúng ta sẽ xem xét những phương thức mà stress có thể ảnh hưởng đến sự thích nghi về sinh lý.
Sự thích nghi về sinh lý
Từ stress đến bệnh
Sự khuấy động sinh lý đi kèm theo stress là một đáp ứng thích nghi, ngắn hạn đối với những kích thích đe dọa hoặc có hại về thể chất. Sự khuấy động sinh lý thúc đẩy đương sự thực hiện những hành động mạnh mẽ để tránh né, trốn thoát, hoặc khắc phục mối đe dọa thể chất ấy. Do những phát triển về văn hóa xã hội trong hàng trăm năm qua, chúng ta đã tương đối ít đương đầu với những mối đe dọa về thể chất. Ngày nay, phần lớn các tác nhân gây stress đều có bản chất tâm lý-xã hội, và vì thế không còn tuân theo các giải pháp “chống hoặc chạy” nữa, tuy nhiên sự hoạt hóa sinh lý (physiological mobilization) vẫn xảy ra. Khi đối đầu với một mối đe dọa về thể chất, sự hoạt hóa này tương đối ngắn. Chúng ta hoặc sẽ giải quyết thành công mối đe dọa này hoặc là sẽ bị giết chết. Nhưng đối với những tác nhân gây stress về tâm lý-xã hội, sự hoạt hóa sẽ xảy ra thường xuyên và trong một thời gian dài. Cái cơ chế thích nghi về sinh học-hành vi khi ứng phó với những đe dọa về thể chất dường như ít có tính thích nghi khi giải quyết các đe dọa về tâm lý-xã hội.
Khi tần số, cường độ và thời gian xảy ra sự hoạt hóa sinh lý đi kèm theo stress trở nên quá mức, nó có thể gây nên những tác dụng tai hại (Depue, Monroe, Shachman, 1979). Tần số, cường độ và thời gian diễn ra sự hoạt hóa tùy thuộc vào sự nhận định của đương sự về môi trường sống và những kỹ năng ứng phó của họ. Sự hoạt hóa quá mức có thể xảy ra khi đương sự nhận định sai lầm một sự kiện vô hại thành một sự kiện thật sự đe dọa hoặc có hại, và khi họ không có đủ những kỹ năng và tiềm năng ứng phó hiệu quả với các tác nhân gây stress.
Nghiên cứu về tương quan, dịch tễ (Cohen, 1979) và thực nghiệm (Miller, 1980) thấy rằng có một mối liên quan rõ rệt, tuy vừa phải, giữa tần số, cường độ và có lẽ cả thời gian xảy ra stress với sức khỏe. Stress không phải là yếu tố duy nhất quyết định tình trạng sức khỏe. Tương tác của nó với những hành vi liên quan sức khỏe và với các yếu tố môi trường và sinh học sẽ được bàn đến trong những chương khác.
Từ bệnh đến stress
Stress không chỉ góp phần tạo nên bệnh, mà bệnh và việc điều trị bệnh cũng có thể gây stress. Liên quan này có tính hai chiều. Bệnh và việc trị bệnh cũng khiến đương sự nhận biết mối đe dọa về thể chất, cũng như về tâm lý-xã hội của họ. Bệnh và việc trị bệnh cũng thể hiện những công việc thích nghi trên nhiều bình diện. Stress gây nên do bệnh và việc trị bệnh có thể ảnh hưởng trên diễn tiến và tiên lượng bệnh, và làm cho khả năng lành bệnh thêm phức tạp. Chất lượng của những kỹ thuật chăm sóc sức khỏe hiện có đối với bệnh nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi về mặt sinh lý. Tuy nhiên, bệnh và việc trị bệnh thường có tính gây stress và cần đến sự ứng phó định hướng vấn đề và định hướng cảm xúc. Nếu một người bệnh thiếu những kỹ năng ứng phó, thì bệnh và việc trị bệnh có thể sẽ gây nên sự khuấy động sinh lý thường xuyên, nặng nề và kéo dài, mà điều này có thể can thiệp vào khả năng lành bệnh. Quan hệ thầy thuốc và bệnh nhân cũng ảnh hưởng đến sự lành bệnh vì nó đóng vai trò quan trọng trong khả năng của người bệnh ứng phó với stress do bệnh và việc trị bệnh gây ra. Nghiên cứu về tương quan và thực nghiệm cho thấy bệnh nhân được cung cấp thông tin chính xác và cung cấp những chiến lược ứng phó hiệu quả sẽ thích nghi tốt hơn về cảm xúc, hành vi, xã hội và sinh lý (Turk, Meichenbaum,Genest, 1983). Ví dụ, những nghiên cứu về hiệu quả của những trường hợp sinh con được chuẩn bị tốt cho thấy việc cung cấp thông tin, khả năng kiểm soát, tiên đoán và các chiến lược ứng phó cho những bà mẹ tương lai sẽ giúp làm giảm đau, giảm sử dụng các phương pháp vô cảm, tăng sự hợp tác của thai phụ khi lâm bồn, giảm mất máu, giảm các can thiệp sản khoa và giảm thời gian chuyển dạ. Sự huấn luyện như vậy cũng có lợi cho trẻ sơ sinh do tăng cung cấp oxy trong máu thai, chỉ số Apgar cao hơn, giảm bệnh tật và tử vong (Genest, 1981).
Các mối liên hệ khác giữa stress và bệnh tật
Các đáp ứng dùng để ứng phó với stress cũng có thể được đánh giá dựa trên kết quả của chúng nhằm làm tổn hại hay tăng cường cho sức khỏe. Các hình thức ứng phó với stress thường gặp, như hút thuốc và uống rượu, đưa những chất gây bệnh vào trong cơ thể. Các hình thức khác như thư giãn và tập thể dục lại có tác dụng có lợi.
Nếu stress thường xuyên, nặng nề, mạn tính góp phần gây bệnh, liệu những sự kiện và cảm xúc tích cực thường xuyên có thể tăng cường sức khỏe hoặc tạo nên hiệu quả lành bệnh được không? Trong khi có một số bằng chứng lẻ tẻ cho rằng chuyện này có thể đúng, nhưng việc kết luận thì vẫn còn thiếu nhiều dữ liệu.
TÓM TẮT
Từ mô hình hệ thống, những rối loạn trên một bình diện của hệ thống có thể ảnh hưởng đến những bình diện khác. Mối liên quan giữa stress và sức khỏe cho thấy một hiệu quả như thế. Stress không chỉ gợi lên những ứng phó về cảm xúc và hành vi, mà còn dẫn đến những biến đổi sinh lý. Khi có một sự mất cân bằng liên tục giữa những đòi hỏi đặt ra cho đương sự và khả năng ứng phó của đương sự, các tác động tiêu cực về sinh lý có thể xảy ra.
Stress không nhất thiết là tiêu cực và chắc chắn không phải là yếu tố quyết định sức khỏe duy nhất (hoặc quan trọng nhất). Stress không thể tránh được. Nó là sản phẩm của mối tương giao giữa một cá thể với môi trường sống. Nó là phần tàng ẩn trong một hệ thống mở. Stress thậm chí còn có tính khích lệ và tạo nên sự tăng trưởng. Tuy nhiên, khi stress vượt quá tiềm năng ứng phó của chúng ta, nó có thể gây ra những tác động tai hại.
Sức khỏe của con người được xác định một cách phức tạp. Nó bị ảnh hưởng thông qua các cơ chế tâm sinh lý gián tiếp mà ta gọi là STRESS. Nó cũng chịu ảnh hưởng bởi các hành vi giúp tăng cường sức khỏe hoặc gây tác hại cho sức khỏe, bởi các hành động và quyết định nhằm đáp ứng với bệnh tật và việc điều trị bệnh. Các thông số tâm lý vì thế cũng có vai trò quan trọng đối với sức khỏe.
.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com