Tay du ky phan 1
Hồi 1
Khí thiêng kết tụ sanh khỉ đá
Tâm thành tu niệm đạo nhân gian
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng, gọi là Tam Hoàng. Rồi đến vua Phục Hi, Thần Nông , Huỳnh , Nghiêu và Thuấn gọi là Ngũ Ðế .
Thuở ấy, Trung quốc chia làm bốn châu : Ðông Thắng Thần châu , Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiện Bộ châu , Bắc Cư Lư châu.
Ðặc biệt là nơi ven biển lại có một nước tên Ngao Lai. Trong nước ấy có một hòn núi gọi là Hoa Quả Sơn (Núi có nhiều thứ hoa quả lạ) đứng sừng sững giữa trời, bao phủ đồi cây gò đất. Trong cảnh hùng tráng âm u ấy có một tảng đá rất lớn , bề cao ba mươi sáu thước năm tấc, chu vi hai mươi bốn thước, trên mặt có chín lỗ thông thiên, bốn bên có tám hang thông ra rừng rậm!
Thật là một tảng đá dị thường, "Cấu Tạo từ thuở khai thiên lập địa" mà loài người không ai có thể tưởng tượng nổi. Với chiều cao vượt lên muôn vật trên mặt đất ấy tảng đá không bị che khuất , hứng chịu sức nóng và lạnh của nhật nguyệt, lần lần tụ tinh nứt ra một viên trứng đá.
Trong lâu năm, trứng ấy tượng hình, rồi gặp một trận gió lớn nỡ ra một con Khỉ đá , giống tạc hình người, đủ tai, mắt, miệng, mũi và tay chân rất lanh lẹ.
Khỉ đá đi đứng khắp vùng, cặp mắt chói lòa như hai cái đuôi sao Bắc Ðẩu .
Gặp lúc Ngọc Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện, thấy hào quang từ địa giới chói lên lấy làm lạ , sai thiên thần đến hỏi :
- Vì cớ gì lúc nầy nơi trần gian lại có hào quang chói sáng ?
Thiên thần không ai biết.
Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ ra cửa trời xem thử.
Hai thần tuân lệnh đi do xét một lúc, trở về báo :
- Tâu Thiên Hoàng ! Hào quang đó là đôi mắt của một con Khỉ đá !
Ngọc hoàng ngạc nhiên nói :
- Cõi trần gian, sao có loài khỉ phi thường ?
Hai thần tâu :
- Nơi Ðông Thắng Thần Châu có một hòn đá trên núi Hoa Quả, cảm khí âm dương, chứa hơi nhật nguyệt, nứt ra một trứng đá . Trứng ấy nở ra một con Khỉ , đôi mắt sáng quắc. Mỗi khi hắn ngó lên trời là hào quang chói lọi.
Ngọc Hoàng hỏi :
- Thế thì phải làm cách nào để tiêu diệt luồng nhãn khí đó ?
Hai thần tâu :
- Chẳng hề chi ! Hiện nay nó đang sống bằng hoa quả. Hạ thần tưởng chắc một thời gian đôi mắt nó sẽ mờ đi.
Ngọc Hoàng an lòng bỏ qua câu chuyện đó.
Thời gian qua trong cánh núi rừng hoang vắng, Khỉ đá đói ăn trái cây khát uống nước suối, ngày dạo khắp núi non, tối tìm hang động ẩn thân, làm bạn với loài hươu nai , khỉ, vượn khác.
Cái thời gian ấy cũng chẳng ai biết là bao lâu , người ta chỉ thấy Khỉ đá lúc ẩn, lúc hiện , Từ nơi nầy đến nơi khác, lúc ở nơi thanh vắng, lúc lại đến gần những vùng lân cận làng mạc xa xôi, để bắt chước lối sanh hoạt và tiếng nói của loài người.
Cũng trong thời gian đó, Khỉ đá gần gũi với bầy khỉ bạn, tập tành nhau lối ăn nói, xử sự trong có vẻ giống người.
Ngày kia, gặp lúc khí trời nóng bức, Khỉ đá dẫn cả đoàn ra hóng mát nơi bóng cội tùng.
Gió rừng ào ạc, trộn lẩn vối tiếng róc rách của dòng suối chảy xa xa.
Khỉ đá bảo bầy khỉ nhỏ :
- Chúng ta hãy tìm suối nước tắm cho mát.
Bầy khỉ nhỏ tán thành , tung tăng nhảy nhót về phía khe sâu. Ðó là một con khe lớn, nước trong vắt, uốn quanh theo rặng núi.
Bầy khỉ nhỏ nhìn làn nước nhăn mặt bảo nhau :
- Chưa biết khe sâu cạn, sao dám xuống tắm ?
Khỉ đá nói :
- Ðứa nào dám xuống trước ta sẽ tôn làm vua.
Cả bầy khỉ đều lắc đầu kinh sợ.
Khỉ đá nói :
- Ðể ta xuống đó cho mà xem.
Dứt lời, co chân nhảy ùm xuống nước.
Nhưng lạ làm sao, vừa lặn khỏi làn nước , Khỉ đá mở mắt ra trông thấy dưới đó là một khoảng không gian trống rỗng. Gần đó có một chiếc cầu ẩn khuất trong kẹt đá. Bên cầu cũng cây cũng trái xanh tươi, dưới cầu cũng nước trong veo chảy nghe róc rách. Cảnh lạ đó gợi vào tánh tò mò, Khỉ đá uốn mình nhảy vọt lên cầu, chạy ngược vào trong. Càng vào sâu, phong cảnh càng thêm u nhã.
Bên trong, sừng sững một toà nhà rộng lớn, trước cửa cổ một tấm biển, khắc mấy dòng chữ :
" Hoa Quả Sơn phước địa
Thủy Liêm động , động thiên "
Nghĩa là :
" Núi hoa qua đất phước
động Thủy Liêm hang trời "
Vừa bở ngỡ vừa mừng thầm, Khỉ đá trở lại cầu, tung mình nhảy lên mặt nước, mặt mày hân hoan, nhìn lũ khỉ nhỏ khịt mấy cái .
Lũ khỉ nhỏ thấy Khỉ đá ló đầu lên, đã vội xúm đến, quấn quít hỏi :
- Suối nước sâu cạn ? Có gì lạ chăng ?
Khỉ đá nói :
- Không sâu, không cạn, vì dưới đó không phải nước mà là một cảnh phi thường.
Lũ khỉ nhỏ ngạc nhiên, nhao nhao hỏi :
- Cảnh thế nào mà phi thường ?
Khỉ đá vừa đưa tay ra dấu vừa giảng giải :
- Có một cái cầu rất đẹp, bên cầu cỏ một tòa nhà uy nghi, lộng lẩy .
Một con trong lũ khỉ nhỏ hỏi :
- Trong ngôi nhà ấy có giêng gì chiếm cứ chăng ?
Khỉ đá nói :
- Không có gì cả ! Chỉ có lò , chén, nói, chảo, giường, ghế . Tất cả đều bằng đá .
Nghe chuyện lạ, bầy khỉ nhỏ hớn hở nói :
- Thế thì chúng ta đem nhau xuống đó làm chổ dung thân tránh cơn mưa gió phủ phàng nơi núi rừng hoang lạnh.
Khỉ đá gật đầu :
- Ðúng vậy ! Trời đã dành riêng chổ đó cho chúng ta, bỏ qua uổng lắm.
Bầy khỉ nhỏ nói :
- Vậy anh nhảy xuống trước, chúng tôi theo sau .
Khỉ đá co chân nhảy ùm xuống, lũ khỉ con răm rắp nhảy theo .
Chúng vừa nhảy xuống hang, vội vã lên cầu, chạy qua toà nhà lớn.
Rồi cùng nhau vào, đùa bưng nồi , đứa lấy chén, đứa lên giường, đứa xuống bếp, lăn xăn ..phá phách một hồi rồi ngồi lại rung đùi, nhịp vế .
Khi ấy Khỉ đá mới gọi cả lũ vào hỏi :
- Lúc còn ở trên núi, chúng ta có hứa nhau, ai xuống trước sẽ tôn làm vua, bây giờ bây quên lời đó sao ?
Lũ khỉ nhớ trực lại, vội vàng đến trước mặt Khỉ đá quì xuống, tôn làm đại vương.
Khỉ đá mỉm cười truyền rằng :
- Từ nay, ta làm vua lấy hiệu là Mỹ Hầu Vương, phong cho Vượn và Khỉ Ðột làm tả, hữu Thừa Tướng .
Khỉ đá cùng ở với các khỉ con , sống trong cảnh thanh nhàn, sáng lên chơi núi Hoa Quả , chiều về ngủ động Thủy Liêm, không còn chung chạ với các thú nơi rừng núi hoang lạnh. Hưởng phước lạc gần ba trăm năm.
Một hôm trời trong gió mát, lũ khỉ bày tiệc linh đình , vui chơi hỉ hả . Nhưng Khỉ đá không vui, đôi mắt lờ đờ nhìn mây gió rồi hai dòng lệ tuôn ròng . Lũ khỉ con ngạc nhiên hỏi :
- Tiệc vui này, có điều gì làm cho Ðại vương buồn chán ?
Khỉ đá gạt lệ nói :
- Ta nay tuy sung sướng nhưng còn lo nghĩ nhiều về mai hậu
Bọn khỉ cười nói:
- Thế này là chúng ta diễm phúc lắm rồi, có nhà cao cửa rộng , có hoa quả bốn mùa, ấm no đầy đủ, còn đòi gì hơn?
Khỉ đá nói :
- Các ngươi thấy sao mừng vậy, đâu nghĩ gì đến ngày mai ! Tuy ta sống ẩn náu nơi động, không vướng phép vua, không sợ loài thú dữ, nhưng rồi chúng ta có thể sống mãi không già chăng ? Chừng đó tử thần chờ trước cửa, làm sao giữ lại những ngày vui như vậy ?
Bầy khỉ nghe hỏi, đứa nào cũng sợ chết ngồi khoanh tay rầu rĩ !
Giữa lúc ấy, một con vượn già ngồi phắt dậy nói lớn :
- Ðại vương biết trước lo xa, quả là phi phàm vậy ! Trên đời ai tránh khỏi chết, trừ ba bậc : Tiên, Phật, Thánh Thần, có phép trường sanh bất tử kia .
Hầu vương nghe nói, hỏi :
- Ba bậc ấy ở đâu, nhà ngươi có biết chăng ?
Vượn tâu :
- Bậc siêu phàm ấy thường ở nơi non tiên, động đá .
Hầu Vương như nhẹ cơn buồn, khoan khoái nói với các khỉ nhỏ :
- Mai nầy ta từ giả các ngươi , thả bước phiêu lưu nơi chân trời, góc biển, tìm cho kỳ được thuốc trường sanh bất tử.
Bầy khỉ rú lên khen :
- Hay lắm ! Ðại vương đi thành công, chúng ta sẽ được sống mãi, an hưỡng nơi động nầy .
Một khỉ đột nói :
- Chúng ta hãy cùng lên núi Hoa Quả tìm nhiều trái quý về thết tiệc tiễn hành Ðại vương .
Lũ khỉ nhỏ gật đầu hy vọng vị Ðại vương của chúng sẽ tìm ra thuốc trường sanh bất tử, cứu cho cả loài tránh khỏi cái chết .
Sáng hôm ấy chúng rủ nhau lên núi Hoa Quả hái trái đem về, nào là bàn đào, quả mận, nào là hạ lê , hoài sơn , huỳnh tính đặt tiệc ê hề .
Hầu vương ngồi trước , dưới là quan chức , tiếp đến là khỉ con vừa ăn vừa đàm luận suốt ngày, không qua câu chuyện trường sanh bất tử .
Hôm sau , Hầu vương dậy sớm , bảo lũ khỉ bẻ nhiều tre kết làm bè . Rồi từ giả , chống bè ra biển cả, mặc cho gió dập sóng dồi , đêm sương ngày nắng !
Trót mấy ngày bơ vơ trên mặt biển, Hầu vương nhìn chân trời bát ngát bao la, không biết đến nơi nào, đành nhắm mắt ngồi liều, phó mặc cho trời đất ! Gió ngàn vi vút thổi, khiến bè tre tấp vào bến Nam Thiện Bộ Châu . Nghe tiếng chim kêu lẩn với tiếng người văng vẳng, Hầu vương mở bừng mắt, xem thấy đất bằng, làng mạc lưa thưa, lòng mừng khắp khởi .
Hầu vương bỏ bè bước lên bờ , mấy ngư phủ vừa thấy , ngỡ là loài yêu quái rùng rùng bỏ chạy ! Một ông lão khiếp đảm, quýnh chân nằm chết điếng trên bải biển . Hầu vương chạy tới lột hết quần áo mặc vào , giả người đồng nội , lần mò đến tỉnh thành , học thêm tiếng người xứ ấy .
Rồi Hầu vương lại tiếp tục cuộc hành trình ngày đi, đêm nghĩ cố tìm cho được động Tiên, cửa Phật.
Nhưng than ôi ! Ði mãi chỉ gặp bọn đồ đanh, mưu lợi, không hề biết đạo là gì !
Hầu vương lưu lạc chín năm vất vả, vượt núi băng ngàn mà chưa đem lại một kết quả nào ! Lòng buồn chán ngán !
Mấy tháng sau, đi đến Tây Dương biển cả . Hầu vương nhìn ra khơi mây nước bao la , lòng thầm nghĩ :
- Ta đi khắp bốn phương trời, sá gì mặt biển này ?
Nghĩ vậy, Hầu vương tìm cây kết bè chống ra ngoài khơi, phó mặc cho mưa gào gió thét .
Sóng vỗ bè trôi , Hầu vương ngày nào cũng chỉ thấy mây xanh và nước biếc ! Thĩnh thoảng một vài con cá rựa chạy sóng sượt trên mặt nước . Hầu vương tưởng là Hà thần hiện lên. Có lúc trời chớp lạch , Hầu vương cũng ngỡ là thần tiên hiện đến !
Mấy ngày sau , bè trôi đến miền Tây Ngưu Hạ Châu , Hầu vương lại bõ bè lên bờ , xảy thấy núi cao chót vót, cây cối sum suê, hoa tươi xinh đẹp liền dừng bước lẩm bẩm :
- Núi cao, may ra có " Thánh , Thần , Tiên , Phật "
Hầu vương quay lên núi, thoan thoát chuyển từ cây này qua cây nọ , đu dây vượt suối , không bao lâu đến đĩnh núi .
Nhưng nhìn quanh quất cũng chỉ thấy toàn là cây núi mênh mông , gió rừng rào rạc, không có bóng dáng "thần tiên".
Hầu vương ngồi lên tảng đá, ngước mặt than :
- Thánh thần, Tiên, Phật nào hiểu được lòng ta, lòng của kẻ chân thành đang ngày đêm mơ ước !
Dứt lời , Hầu vương định xuống núi . Bỗng có tiếng hát từ xa vọng lại :
Non xanh rừng rậm,
Gió vàng reo, lấm tấm lá khô bay
Mộng đời, vừng mây bạc
Lòng đời, chung rượu say !
Nghêu ngao vui thú đêm ngày
Búa Tiên củi quế, miễn đầy gánh thôi.
Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời
Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình
Nghe tiếng người hát, Hầu vương mừng quýnh lên, lảm nhảm :
- Thần tiên đây rồi ! May lắm !
Liền chạy men theo tiếng hát. Ðến nơi, thấy lão tiều đang hái củi, Hầu vương bước tới thi lễ và cung kính thưa :
- Dệ tử đến ra mắt, có điều chi thất lễ xin thần tiên lượng thứ !
Lão tiều vội bỏ búa, nói :
- Chao ôi ! Ông lầm rồi , tôi vốn người nghèo khổ, làm nghề hái củi đổi gạo nuôi thân, có đâu được bậc phi thường ấy !
Hầu vương ngơ-ngác nói :
- Lạ thật, người không phải thần tiên, sao nói chuyện thần tiên lưu loát vậy ?
Tiều phu phì cười, hỏi :
- Tôi nói chuyện thần tiên bao giờ ?
Hầu vương nói :
- Tiếng ca vừa rồi , tôi có nghe ông hát :
Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời
Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình
Rõ ràng tiều ông là tiên vậy !
Tiều lão cười, đáp :
- Tôi không giấu gì ông, bài ca ấy của Tiên ông dạy tôi để hát cho khuây khỏa trong giờ mệt nhọc , không ngờ lọt đến tai ông, chắc tôi phải chịu lời khiển trách !
Hầu vương hỏi tiếp :
- Vậy thì Tiên ở đâu, xin tiều lão chỉ hộ cho.
Tiều phu nói :
- Tiên ông hiện ở tại xóm tôi . Cáeh đây không xa mấy, có một dãy núi tên là Linh Ðài phương thốn sơn , trong có động Tà Nguyệt Tam Tinh , Tiên ông hiệu là " Cu Bồ Ðề Tổ Sư " , ở đấy thu nhận đồ đệ rất nhiều, song các đồ đệ bị đuổi cũng không ít, hiện nay chỉ còn ước độ ba bốn mươi . Ông muốn đến đó phải theo đường nhỏ qua hướng Nam, chừng bảy tám dậm , là tới động.
Hầu vương nhìn ông tiều năn nỉ :
- Ðường đi đến động ngoằn ngoèo dễ lộn , mong ông thương đến , dẫn tôi cùng đi về xóm, tôi xin hậu tạ.
Tiều lão lắc đầu đáp :
- Giúp ông tôi không nệ công lao, ngặt vì tôi còn cha mẹ già, sớm chiều lo phụng dưỡng, phải ở lại hái củi đổi gạo , không tiện làm vừa lòng ông !
Nghe lão tiều than , Hầu vương cảm động , đành phải bái biệt ra đi.
Núi rừng thăm thẳm, đá cao chồng chất, chông gai hiểm trở . Hầu vương vốn quen miền sơn dã , đi riết một hồi bảy tám dậm, quả thấy một động lớn , cửa đóng kín không có bóng người thấp thoáng . Trước đó, một bia đá lớn đề mấy chữ " Linh Ðài phương thốn sơn Tà Nguyệt tam tinh động "
Hầu vương hớn hở, nhảy nhót tung tăng . Nhìn thấy vườn đào xum trái , liền phóc lên hái mấy quả ăn đở lòng .
Giây lát có tiếng động. Một đồng-tử bước ra hỏi :
- Ai cả gan dám vào đây ăn vụng đào ?
Hầu vương vội vã nhảy xuống nói :
- Tôi từ xa tìm đến đây học đạo , không phải kẻ tộm đào, xin tôn huynh hiễu cho .
Ðồng-tử nghi ngờ Hầu vương , nói :
- Anh thật lòng đến đây, tìm sư học đạo sao ?
Hầu vương thưa :
- Ðường xa ngàn dặm, không ngại gian lao, ngày đêm lặn lội, tôi chỉ mong được làm đệ tử nơi nầy .
Ðồng tử nhìn tướng mạo Hầu vương, mỉm cười, nói :
- Sư phụ vừa thức dậy , sửa soạn giảng kinh, dạy tôi ra rước người tu niệm, có lẽ anh đây là phải ?
Hầu vương mừng thầm, reo lên :
- Tiên ông quả là bậc tiên tri , xin tôn huynh đừng ngần ngại . Chính là tôi vậy .
Ðông tử gật đầu bảo :
- Ngươi cùng tôi vào ra mắt sư phụ .
Hầu vương tươi cười, nhí nhảnh theo đồng tử vào động, nhìn thấy quang cảnh uy nghiêm, nào cung châu , điện ngọc, nào phòng đọc sách , nào chổ giảng kinh , đâu đó trang hoàng rực rở . Thẳng đến trước Ngọc đài, thấy Bồ Ðề Tổ Sư ngồi trên ghế cao, bên dưới đệ tử đứng hầu hơn ba chục .
Hầu vương bước đến sụp lạy lia lịa, và thưa :
- Tiện nhân mộ đạo đến đây , xin ra mắt thầy .
Tổ Sư hỏi :
- Ngươi tên họ là chi ? Từ đâu đến ?
Hầu vương thưa :
- Tôi ở Ðông Thắng Thần Châu, núi Hoa Quả , động Thủy Liêm.
Tổ Sư nạt lớn :
- Kẻ ăn nói trớ trêu, tu hành sao được . Mau đuổi nó đi !
Hầu vương sợ sệt vừa lạy vừa nói :
- Lòng thành thật đâu dám trớ trêu, kính mong thầy thương xót.
Tổ Sư nói :
- Ðường từ Ðông Thắng Thần Châu đến đây cách hai cửa biển , và một cõi Nam Thiên Hạ Châu làm sao nhà ngươi đi được ?
Hầu vương thỏ thẻ thưa :
- Tôi dùng tre kết bè , vượt qua hai cửa biển , trèo non lặn lội hơn chín năm trời mới đến đây , cúi xin thầy đoái tưởng .
Tổ Sư nói :
- Ngươi đi lâu ngày là phải ! Vậy nhà người tên gì ?
- Tôi không có danh tánh . Nhưng ai rầy tôi không giận , ai đánh tôi không hờn.
Tổ Sư cau mày nói :
- Ta muốn biết danh tánh nhà ngươi, ngươi khai chi về tính nết .
Hầu vương thưa :
- Thưa thầy , tôi không cha mẹ !
Tổ Sư nói :
- Người sao không có cha mẹ, không lẽ cây đá sanh ngươi sao ?
Hầu vương thưa :
- Ðúng vậy ! Nguyên nơi núi Hoa Quả có hòn đá lớn , kết tinh nhật nguyệt lâu ngày , rồi một đêm mưa vang lên tiếng nổ , đá ấy nứt hai , sanh ngay tôi từ lúc đó .
Nghe nói, Tổ Sư mừng thầm hỏi :
- Như vậy là thiên địa cấu tạo ra ngươi . Thôi ngươi hãy đi qua lại cho ta xem nào .
Hầu vương đẹp dạ, đứng phắt lên chạy qua lại vài lần, rồi quỳ xuống nghe dạy .
Tổ Sư cười nói :
- Nhà ngươi bộ tịch hệt như khỉ . Ðể ta xét theo diện mạo mà đặt tên cho .
Hầu vương sụp lạy tạ ơn . Tổ Sư nói :
- Ta muốn theo hình dung nhà ngươi , đặt họ Hồ nhưng vì chữ hồ bõ khuyển bằng chỉ còn chữ cổ , chữ nguyệt. Cổ nguyệt có nghĩa là trăng già không tốt. Thôi ta đặt cho ngươi họ Tôn , chữ tôn bõ khuyển bằng còn chữ tử, chữ hệ là còn trẻ , còn lớn , còn khôn, tốt lắm !
Hầu vương mừng rỡ cúi đầu lạy tạ và thưa :
- Mong thầy luôn tiện mở lượng từ bi đặt tên luôn cho tôi, để dễ gọi lúc sai khiến .
Tổ Sư nói :
- Trong đạo có mười hai chữ người ta thường dùng " Quảng , Ðại , Trí, Huệ , Chơn , Như , Tánh , Hải , Ðĩnh , Ngộ , Viên, Giác . Trong mười hai chữ đó tính dồn tới ngươi nhằm vào chữ Ngộ .Vậy ta đặt tên ngươi là Tôn Ngộ Không .
Hầu vương khoái ý cười :
- Tốt lắm ! Tốt lắm ! Từ nay tôi mới biết được tên, xin chịu gọi là Ngộ Không .
Hồi 2
Phép nhiệm nhờ thầy truyền bí thuật
Tài cao về xứ giết yêu ma
Hầu vương từ ngày được tên họ, Tổ Sư truyền học trò đem ra ngoài dạy nghi lễ, cách ăn ở, lối cử xử . Và giao việc quét trước dọn sau , tưới hoa nhổ cỏ, làm suốt gần bảy năm trời.
Một hôm trời trong gió mát, nắng dịu lướt qua cửa sổ, rọi vào điện ngọc long lanh, như thiên tào nhìn xem cuộc giảng kinh nơi tiên động . Tổ Sư ngồi trên , dưới điện học trò lẵng lặng nghe lời giảng dạy.
Ngộ Không nghe kinh thấm ý, cào tai , gải mắt, trợn mắt nhướng mày, khoa tay múa chân đến nổi nhảy dựng ra ngoài hàng mà không biết.
Tổ Sư ngạc nhiên kêu hỏi :
- Nhà người sao vô lễ vậy ? Mau vào hàng nghe giảng đạo .
Ngộ Không thưa :
- Ðệ tử nghe lời thầy giảng giải hay quá, khiến cho lòng thành thích ý, nhảy múa không hay.
Tổ Sư nói :
-- Ngươi biết được lời hay của kinh giảng, vậy người ở đây bao lâu rồi, có biết chăng ?
Ngộ Không thưa :
- Ðệ tử thưa biết mấy năm mấy tháng. Chỉ nhớ hái củi trên núi này, gặp đào chín ăn được bảy mùa.
Tổ Sư vừa cười vừa nói :
- Núi ấy, tên gọi Lang Ðào mỗi năm một mùa trái chín, mà ngươi ăn được bảy mùa, là bảy năm rồi đó. Nay ngươi đã có trí nhớ ta muốn truyền dạy, chẳng biết ngươi thích học môn nào ?
Ngộ Không thưa :
- Mang ơn thầy dạy bảo, đệ tử xin tùy sự lựa chọn của thầy.
Tổ Sư nói :
- Phép đạo có 360 cửa , ngươi có thích học phép chư thuật không ?
Ngộ Không thưa :
- Phép ấy ra sao ?
Tổ Sư nói :
- Phép này biết trước mọi việc lành dữ, phước đức .
Ngộ Không thưa :
- Vậy có sống lâu đời đời chăng ?
Tổ sư nói :
- Không thể sống lâu đựợc !
Ngộ Không lắc đầu không chịu học.
Tổ Sư hỏi :
- Vậy ngươi chịu học phép chư lưu chăng ?
Ngộ Không thưa :
- Phép ấy thế nào xin thầy cho biết ?
Tổ Sư nói :
- Phép chư lưu làm được thầy, được thuốc được vái và tụng kinh niệm Phật ...v.v
- Phép ấy có sống đời đời chăng ?
Tổ Sư nói :
- Học phép nầy muốn sống đời, có khác nào trồng cột, tô vách !
Ngộ không sầm nét mặt suy nghĩ giây lâu, rồi nói :
- Thưa thầy , đệ tử vốn người dốt nát không thấu nổi lời cao kỳ , mong thầy phân rõ .
Tổ sư nhìn Ngộ không như dò ý, nói :
- Ngươi muốn cất nhà cao , trồng cột vào vách, ngoài xây tường. Tuy nhà chắc không ngã, nhưng khi hư rồi, cột nằm trong vách cũng mục nát luôn.
Ngộ không buồn bã đáp :
- Việc không bền , tôi không học , xin thầy thứ tội .
Thấy Ngộ không buồn , Tổ Sư bảo tiếp :
- Không hài lòng, ta sẽ dạy cho phép chư linh có sao đâu mà buồn vậy .
Ngộ không ngước mặt lên, nhìn Tổ Sư như van xin :
Phép ấy thế nào ? Nhờ thầy dạy bảo ?
Tổ Sư đáp :
- Phép tịch cốc này gọi là tham thiền, chỉ ngồi làm thinh tịnh dưỡng tinh thần thôi.
Ngộ Không hỏi vội :
- Ngôi làm thinh tịnh dưỡng, có thể sống hoài được chăng ?
Tổ Sư nói :
- Theo phép này, như đất mới vổ để vào lò gạch.
Ngộ Không ngớ ngẩn hỏi :
- Như thế nghĩa là sao ? Xin thầy giảng rõ ?
Tổ Sư phì cười :
- Ðất tuy vổ nên hình tấm gạch, song mới để lên lò chưa nung chín, đem ra dùng gặp nước phải rả .
Ngộ Không lắc đầu ý không chịu học .
Tổ Sư bảo :
- Nếu không muốn học chữ tịnh ta lẽ dạy chữ động cho .
Ngộ Không liền cúi đầu thưa :
- Thưa thầy , bất kể động, tịnh , miển được trường sanh bất tử tôi xin thọ giáo .
Tổ Sư nghiêm nét mặt nói :
- Phép ấy, uốn mình, bẻ xương , luyện hơi thở, uống thuốc kim đơn khỏi bệnh, được sống lâu muôn thuở. Mà phép trường sanh đó chẳng khác nào trăng dưới nước !
Ngộ Không vừa mừng vừa ngại, hỏi :
- Ðó , thầy vẫn giấu mẹo hoài, đệ tử biết đường nào theo !
Tổ Sư nói :
- Trăng trên trời rọi xuống nước, tuy có bóng nhưng không có thật .
Ngộ Không ngước lên nhìn Tổ Sư thưa :
- Vật như hư, đệ tử theo học cũng hoài công vô ích !
Tổ Sư đập bàn hét lớn , tay cầm thước bước xuống ghế, chỉ vào mặt Ngộ Không nói :
- Khỉ đột , phép nào cũng chê, mà còn đòi hỏi gì ?
Dứt lời, gõ óc Ngộ không ba cái, chắp tay sau đít quay vào phòng đóng cửa .
Các môn đệ đều thất kinh ! Kẻ oán Ngộ Không, người lo thầy giận.
Còn Ngộ Không chẳng hề sầu não, lại cười giỡn tươi vui .
Vì Ngộ Không biết thầy ra dấu : " Ðến canh ba lén vào cửa sau vô phòng thầy truyền phép ".
Ðêm hôm ấy, Ngộ Không nằm giả ngủ, chờ mọi người ngon giấc, lén dậy , ngồi nhìn ra cửa sổ . Bấy giờ mây cuộn sao mờ , trăng tà sương đổ , chốc chốc có tiếng gió thổi rì rào, như báo hiệu một đêm đầy hy vọng.
Ngộ Không đợi đúng canh ba lén vào ngõ sau, thấy cửa mở hé một cánh.
Bước vào phòng, Ngộ Không thấy thầy đang quay mặt vào vách ngủ liền quì sát bên giường không hề kinh động. Một lúc sau, Tổ Sư thức dậy duỗi chân ra ngâm mấy vần thơ :
Nhật nguyệt phôi pha nặng cõi trần
Nhàn lai vô sự kiếp tiên nhân
Linh đơn đạo thuật hầu chưa dễ
Chỉ dễ cho ai được hưởng phần
Lời thơ vừa dứt, Ngộ Không cất tiếng thưa :
- Tôi đến chờ thầy từ lúc gà giục gáy.
Tổ Sư nghe Ngộ Không nói, ngồi dậy nạt lớn :
- Loài khỉ, giờ này chưa ngủ, còn đến đây làm gì ?
Ngộ Không cúi đầu cung kính thưa :
- Lúc ban ngày thầy có dạy tôi , vào khoảng canh ba lén đến ngỏ sau thầy truyền phép, nên tôi mới bạo dạn vào phòng giữa lúc đêm khuya , xin thầy lượng thứ.
Tổ Ssư nghe nói, thầm nghĩ :
- Thằng nầy quả làa trời sanh, không phải phàm tục, nên đoán được mẹo ra dấu của ta .
Ngộ Không thấy Tổ Sư trầm ngâm suy nghĩ , liền hỏi :
- Ở đây không có ai, xin thầy truyền phép, tôi chẳng dám quên ơn.
Tổ Ssư nói :
- Ta mến người có phúc, thương kẻ thành tâm . Vả lại ngươi đã đoán ra mẹo của ta, rõ là kẻ phi thường, ta sẳn lòng truyền phép trường sanh bất tử cho.
Ngộ Không vui mừng, lạy tạ, rồi quì bên giường nghe lời chỉ dạy .
Tổ Sư giảng những câu khó hiểu, tưởng như Ngộ Không chậm biết.
Nhưng Ngộ Không vốn trời sinh ra có khiếu thông minh sẳn. Vả lại, ở động tiên lâu ngày đã am tường lời của Tổ Sư, nên Ngộ Không nghe qua thì hiểu liền, bèn lạy tạ lui ra nhà trước, ngồi lâm râm môt mình học thuộc lòng. Từ đó cứ đêm đến canh ba, ngày thì đứng bóng, Ngộ Không lén vào thọ giáo tập luyện mãi được ba năm.
Một hôm, Tổ Sư đang giảng kinh nói về việc báo ứng nhân quả , khái lược đại cương , trực nhớ đến Ngộ Không, liền hỏi :
- Ngộ Không đâu, có mặt đây chăng ?
Một tiếng dạ trong đám môn đệ vang lên, Ngộ Không bước đến quì thưa :
- Tôi có đây, thầy cần điều gì dạy bảo ?
Tổ Sư nói :
- Bấy lâu luyện ngươi đã luyện tập như thế nào ?
Ngộ Không thưa :
- Mấy lời thầy dạy đệ tử ngày đêm luyện tập không thiếu sót điều chi .
Tổ Sư đưa mắt nhìn đám môn đệ rồi quay lại nói :
- Tuy ngươi đã thông suốt nguồn cơn, nhưng con ba điều tai nạn đáng lo !
Ngộ Không hồi hồi suy nghĩ . Một lúc sau mới nói ra lời :
- Trong kinh dạy ai học được phép tiên , sánh cùng trời đất, sống lâu muôn thở , tinh thần đầy đủ, không bao giờ bệnh hoạn. Sao còn điều tai biến nào nữa, xin thầy chỉ cho đệ tử biết.
Tổ Sư mĩm cười, nói :
- Ðạo tiên mênh mông rộng lớn ! Ai cướp máy tạo hoá, cải định mệnh trời, quỉ thần không lượng thứ . Nay ngươi vừa luyện đặng phép sống lâu nhưng khó bề tránh khỏi ! Thầy đã đoán biết năm trăm năm về sau, ngươi sẽ bị trời đánh. Nếu ngươi tránh khỏi thì năm trăm năm nữa bị trời đốt. Lửa ấy không phải của trời hay của người, mà do âm khí xông lên, từ bàn chân ngươi ót thấu óc, ngủ tạng đều cháy ra tro, rất uổng công tu luyện ! Ngươi có thần thông tránh qua được tai hoạ ấy , thì cách năm trăm năm nữa, trời cho gió thổi . Gió này độc dữ , không phải gió của bốn phương, mà gió phát xuất từ óc ngươi thổi ngược về quả đất , đi qua lục-phủ ngủ tạng, ***g vào cửu khiếu, làm cho thịt xương rời rã ! Vậy ngươi nhớ lấy lời này, tránh ba tai nạn, kẻo bỏ mình !
Nghe nói Ngộ Không rởn ốc quì xuống thưa :
- Trăm lạy thầy, mở lượng từ bi thương người chân thật, truyền thê m phép lạ, tránh ba điều tai nạn. Tôi nguyện thọ ơn thầy trọn đời .
Tổ Sư cảm động nói :
- Ðiều đó tưở ng chẳng khó gì, chỉ sợ nhà ngươi không gia công luyện tập .
Ngộ Không mừng rỡ vội sụp lạy, thưa :
- Lâu nay lòng tôi mong ước luyện được phép trường sinh bất tử dầu khó khăn gian lao, quyết không sờn chi .
Tổ Sư nói :
- Ðạo tiên có ba mươi sáu phép thiên cang, bảy mươi hai phép địa sát . Nhà ngươi muốn luyện phép nào ?
Ngộ Khôngó thưa :
- Tôi xin gắng công học bảy mươi hai phép địa sát để được rộng bề tiện dụng.
Tổ Sư liền gọi Ngộ Không đến gần tai nói nhỏ một hồi. Các môn đệ ngơ ngác không hiểu nói gì có lẻ nhìn Ngộ Không như ganh ghét, có người muốn tò mò nghe ngóng.
Ngộ Không đã sẳn thông phép trước , nên nhớ ngay dễ dàng không một lời thiếu sót.
Từ đó Ngộ Không ngày đêm lo luyện tập bảy mươi hai phép biến hóa thần thông. . .
Một chiều nắng êm, gió dịu . Vườn đào lá rung rào rạc , cánh bướm chập chờn với muốn hoa đua nở . Trước động , Tổ Sư ngồi xem học trò thi nhau luyện môn vật lộn. Ngộ Không ngứa nghề tung tăng chạy từ chổ ngay qua chỗ khác. .
Tổ Sư thấy thế hỏi :
- Bảy mươi hai phép, nhà ngươi luyện tập xong chưa, mà mãi lo nhảy nhót vậy ?
Ngộ Không thưa :
- Nhờ ơn thầy truyền phép, tôi luyện tập không sót môn nào, ngoài ra còn bay được lên không trở về như chim én .
Nghe nói, Tổ Sư gọi lại bảo :
- Hãy bay thử ta xem nào ?
Ngộ Không co chân nhảy vọt lên không, bay được hơn ba dậm, rồi quay về đáp trước mặt Tổ Sư, và nói :
- Thưa thầy, đằng vân như vậy đã đúng phép chưa ?
Tổ Sư cười lớn nói :
- Lối bay của ngươi là vong vân, chưa phải đằng vân. Phép đằng vân của thần tiên " Sớm mai " ở biển Bắc, chiều trở lại Thương Ngô . Mỗi ngày đi khắp bổn biển .
Ngộ Không thưa :
- Theo lời thầy nói, thì phép đằng vân khó lắm.
Tổ Sư nói :
- Trên đời không có việc gì là khó. Chỉ kkhó ở lòng người không chịu cố công.
Ngộ Không hăm hở đến thưa :
- Lượng thầy đã mở , chỉ còn chút phép đằng vân , xin thầy thương tình chỉ dạy.
Tổ Sư bảo Ngộ Không đứng dậy và nói :
- Phép đằng vân của thần tiên , phải ngồi xếp bằng niệm chú bay đi , khác với lối nhảy dựng của ngươi khi nãy. Ta sẽ dạy cho phép Cân Ðẩu Vân bay nhanh hơn tên bắn.
Ngộ Không đắc ý, tưởng như mình đang ngồi tít trên mây xanh đôi mắt mơ màng thích thú .
Tổ Sư ghé vào tai Ngộ không truyền thần chú, và bảo :
- Hãy niệm chú cho mau !
Ngộ Không y lời niệm chú, hai tay nắm chặc lại. Bỗng thân mình vụt bay lên, như vũ bão, giây lát quay về tính hơn mười muôn dặm.
Ðoạn thầy trò đem nhau về động. Ðêm ấy Ngộ Không tập luyện thông thạo. Tổ Sư lòng mừng, được người học trò phi phàm, tuyệt thế .
Từ đó, Tổ sư không còn hỏi han, hay nhắc nhở gì đến Ngộ Không nữa . Dođó Ngộ Không được tự do hiên ngang trời bể , sáng đến núi đào , chiều về tiên động.
Một hôm, các học trò cùng chơi dưới cội tùng, thấy Ngộ Không xúm đến, vổ vai hỏi :
- Hiền hữu tốt phước quá được thầy dạy bảy mươi hai phép biến hoá, nay luyện tập đã tinh thông chưa ?
Ngộ Không cười vuốt vai các bạn nói :
- Tình bạn không giấu nhau làm gì. Kể ra nhờ thầy chỉ dạy , tôi tập tành gắng công, nên phép nào cũng được tinh xảo.
Các môn đệ rối rít bảo :
- Nay thì giờ nhàn rổi hiền hữu thử ít phép coi chơi.
Ngộ Không vui vẻ đáp :
- Muốn thử phép chi các bạn cho biết ?
Các môn đệ lanh quanh bàn tán . Sau cùng bảo Ngộ Không :
-Muốn xem hiền hữu biến ra cây tùng được chăng ?
Ngộ Không liền niệm chú lâm râm, rùng mình một cái. Thốt nhiên hiện ra cây tòng, lá xanh cành rậm.
Bọn môn đệ thấy phép lạ, vổ tay reo hò vang dậy.
Tiếng vang vọng đến tiên điện. Tiên ông chống gậy bước ra hỏi :
- Chuyện chi reo hò như vậy ?
Nghe Tổ Sư hỏi, Ngộ Không thất kinh, hiện nguyên hình chạy vào nhập bọn.
Các môn đệ bước đến cúi đầu thưa :
- Chúng con chơi nhau vui miệng reo cười, mong thầy thứ lổi .
Tổ Sư nghiêm nét mặt quở :
- Bay la ré vang rền, làm náo động nơ i tiên cảnh, sao gọi là tu hành .
Lũ môn đệ sợ sệt thưa :
- Chúng tôi không dám giấu thầy , vì nghe Ngộ Không luyện được phép biến hoá thần thông, nên khi nảy có bảo Ngộ Không hoá ra cây tùng xem chơi. Ngộ Không chỉ niệm chú, rùng mình một cái đã hoá ra cây tùng sừng sững, vươn mình theo gió. Phép lạ khiến chúng tôi không nhịn cười được
Nói xong, cả bọn bước đến cúi đầu răm rắp lạy .
Tổ Sư nói :
- Thôi, chúng bay chờ đây.
Ðoạn gọi Ngộ Không tới mắng :
- Sao nhà ngươi đã vội khoe khoang, biến ra cây tùng cho chúng coi ? Khi người ta biết ngươi pháp thuật cao cường , đem lòng ganh ty. đồ mưu ám hại thì còn gì !
Ngộ Không khiếp sợ, sụp lạy thưa :
- Ðệ tử non lòng dại dột? Mong thầy thương tình tha lổi.
Tổ Sư nói :
- Ngươi là đứa khoe khoang, gàn dở , ta không quở phạt làm gì, song ngươi phải ra khỏi chốn này .
Ngộ Không nghe thầy nói, khóc tức tửi thưa :
- Xin thầy mở lượng từ bi dung thứ cho đệ tử được gần thầy ngày đêm hầu hạ. Nếu thầy quyết đuổi, đệ tử biết về đâu !
Tổ Sư lắc đầu nói :
- Thuở trước ngươi ở đâu, nay về đó cho an phận .
Ngộ Không sực nhớ cảnh củ, nhưng không muộn về cứ đứng khóc lóc van xin mãi :
- Sống nơi đây hơn mấy năm trời, mến thầy nhớ bạn, lẻ nào nhất đán thầy nỡ đuổi đệ tử về quê để ôm lòng sầu cách biệt.
Ngươi đừng nói nữa vô ích, đi cho kíp thì còn hồn , nán lại ta không dung thứ .
Ngộ Không biết thầy quá giận, khó bề năn nỉ ! Ðành phải cúi đầu bái biệt và từ giả các bạn.
Ngộ Không vừa bước chân đi. Tổ Sư kêu nói :
- Ngươi về xứ cũ ắt làm việc chẳng lành, nhưng lành hay dữ tùy ngươi đeo họa lấy. Ta chỉ cấm ngươi đừng xưng là đệ tử của ta, nếu ngươi nói nữa lời, sẽ bị thu hồi phép và hồn ngươi bị bắt giam cầm nơi địa ngục .
Ngộ Không thưa :
- Lời thầy đã nghiêm cấm đệ tử chẳng dám hở môi.
Sau khi bái biệt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân bay một giờ ra tới biển Ðông, nhắm hướng núi Hoa Quả bay về .
Tuy bao năm trời cách biệt, động Thủy Liêm vẫn còn tiếng chim kêu vượn hú, gió ngàn vi vút như tự thuở nào.
Thấy bầy khỉ nhỏ ra vào nơi cửa động, Ngộ Không đáp xuống gọi :
- Chúng bay ! Chúng bay đâu ! Ta đã về đây.
Nghe kêu, bọn khỉ lớn nhỏ rùng rùng chạy tới có hơn muôn ngàn con đứng vây quanh Ngộ Không, ríu rít hỏi :
- Ðại-vương ơi ! Ðại vương có biết xa chúng tôi đã bao năm rồi chăng ? Chúng tôi ở nhà trông bè Ðại vương như đói cơm , khát nước !
Ngộ Không nói :
- Nhưng quê nhà ta vẫn bình yên chứ ?
Bọn khỉ nói :
- Ðộng ta vừa bị một con yêu đến chiếm cứ, chúng tôi đánh không lại, nó giết và bắt rất nhiều. Nếu Ðại vương không về , xứ sở nhà ta sẽ về tay chúng cả !
Ngộ Không nghe nói, lửa giận phừng phừng nói :
- Con quái vật này ở đâu , cả gan phá phách. Ta quyết phanh thây nó trả thù cho chúng bay.
Bầy khỉ nói :
- Nó đến xưng là Hổn Thể Ma vương về hướng Bắc.
Ngộ Không hỏi :
- Từ đây đến đó bao la ?
Bầy khỉ thấy Ðại vương mình hăm hở trả thù lòng mừng khấp khởi, đáp :
- Nó nương mây đi tới, theo gió trở về , chúng tôi không biết phương nào ! Xin Ðại vương chờ nơi động sẽ gặp nó.
Ngộ Không căm tức, dậm mạnh chân xuống đất nói :
- Ta quyết tìm cho được nó, giết quách đi mới yên tâm.
Vừa dứt lời, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân bay qua phương Bắc .
Bay giây phút, nhìn thấy núi Khảm Nguyên cao lớn, có tiếng người nói, liền đáp xuống tìm kiếm.
Ngộ Không đi vòng qua núi, thấy một động lớn , đề ba chữ " Thuỷ Tang động " .
T rước sâu động, mấy con yêu nhỏ tung tăng nhảy múa.
Chúng vừa thấy Ngộ không, sợ sệt bỏ chạy vào trong đóng cửa .
Ngộ không kêu :
- Chúng bay hãy vào báo với Ma vương biết, có ta là Chúa động Thủy Liêm đến vấn tội.
Lũ tiểu yêu nghe nói thất kinh , hối hả chạy vào báo :
- Tâu Ðại vương, họa đã tới rồi ! Họa đã tới rồi ! Ngoài cửa động một con khỉ đột to lớn, xưng là Chúa động Thủy Liêm đến đây vấn tội Ðại vương.
Hổn Thế Ma vương vẫn điềm nhiên cười nói :
- Ta từng nghe bày khỉ nói, Chúa nó đi tu , có lẽ tiếc bần nên nay về đó . Bay thấy nó có khí giới gì chăng ? Và ăn mặc như thế nào ?
Tiểu yêu quì thưa :
- Con khỉ này đầu sói , mặc áo đỏ hoe hoe, lưng thắt dây vàng , chân đi giày đen, nữa in trần tục, nữa giống nhà tu, đang diệu võ giương oai, nhưng không khí giới, chỉ múa may không làm trò khỉ ngoài cửa.
Hổn Thế Ma vương nghe xong, mặc giáp cầm siêu, dẫn tiểu yêu xông ra ngoài cửa, hỏi lớn :
- Yêu hầu không biết danh ta sao, dám cả gan đến đây chọc giận ?
Nghe nói , Ngộ Không quay nhìn thấy Ma vương mặt áo giáp sắt, đầu đội kim khôi, chân mang hia đen, tay cầm siêu bạc, mình cao ba trượng , lưng lớn mười vây, sức mạnh có thừa, liền chỉ vào mặt Ma vương, hét :
- Loài quỉ sứ mắt to như chân tượng, không thấy được ta sao ?
Ma vương cười ha hả nói :
- Ngươi hình thù nhỏ bé, tuổi tác ít oi , đến đây không mang khí giới, dám nói chuyện chống trời , e cho đầu lìa khỏi cổ .
Ngộ Không đỏ mặt, mắng :
- Quân khốn kiếp, ăn cướp động Thủy Liêm, gây tang tóc chẳng lành. Nay gặp ta không biết sửa mình chịu trói, còn buông lời sấc láo !
Ta quyết phanh thây mi ra muôn mảnh.
Nói xong nhảy phốc tới thoi vào mặt Hổn Thế Ma vương. Ma vương lách mình tránh khỏi và nói :
- Hãy khoan ! Ta lớn mi nhỏ , ta dùng đao, mi tay không, dù ta thắng cũng mang tiếng cười chê để ta bõ đao đánh cùng mi cho biết sức.
Vừa dứt lời Ngộ không nhảy tới đánh đùa. Ma vương dình dang trở tay chậm chạp, bị Ngộ Không đánh tiếp mấy thoi, mặt mày sưng húp. Ma vương túng thế lấy siêu chém, Ngộ Không lách mình tránh khỏi, rồi bứt năm sợi lông bỏ vào miệng, niệm chú lâm râm, phun ra một cái biến thành vô số khỉ, vây phủ Hổn Thế Ma vương.
Con thì đeo cổ , con cắn tai , con níu chân, Ma vương khiếp đảm tinh thần, day trở không kịp, bị Ngộ Không giật siêu chém làm hai khúc .
Ðoạn kéo rốc vào động giết hết bầy tiểu yêu rồi rùng mình thu lông lại . Ngộ Không tìm các khỉ con bị Hỗn Thế Ma vương bắt nhốt, đem ra ngoài , rồi nổi lửa đốt động Thủy Tang cháy rụi. Thấy động đã cháy, Ngộ Không quay bảo mấy khỉ nhỏ :
- Chúng bây mau mau nhắm mắt, ta làm phép đưa về động.
Bọn khỉ nhỏ đều nhắm mắt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân , phát lên một trận gió bay đi ráo. Về tới núi Hoa Quả sa xuống, Ngộ Không bảo lũ khỉ nhỏ mở mắt ra xem. Bầy khỉ mở mắt ra, thấy núi Hoa Quả động Thủy Liêm, lòng hớn hở, dắt nhau vào. Bọn khỉ ở trong động chạy ra đón rước, bày tiệc thết đải.
Vượn và khỉ đột hỏi Ngộ Không :
- Ðại vương đánh với Hỗn Thế Ma.Vương thắng phụ dường nào ?
Ngộ Không thuật lại việc chiến thắng vừa rồi. Tất cả khỉ trong động đều vổ tay khen và hỏi :
- Ðại vương tìm học phép tiên nơi nào mà giỏi quá vậy ?
Ngộ Không đem chuyện đường xa ngàn dậm, tầm sư học đạo kể lại cho bầy khỉ nghe.
Bầy khỉ reo lên nói :
- Ðại vương phước lớn lắm và có chí mới thành quả như vậy !
Ngộ Không cười nói :
- Bây ơi, ta được thầy tiên cho tên họ mới là vinh dự chớ !
Bầy khỉ nghe Ngộ Không nói có tên họ, xúm nhau hỏi :
- Họ gì vậy, Ðại vượng ?
Ngộ không nói :
- Ta nay họ Tôn tên là Ngộ Không, vậy từ nay các ngươi nghe ai nói đến Tôn Ngộ Không là ta đó .
Bầy khỉ vổ tay cười ầm và nói :
- Ðại vương là Ðại Tôn, thì chúng tôi cũng được gọi là Tiểu tôn .
Tiếng cười lại nổi lên, bên ngoài gió rít rào rạc, nguồn vui trở lại với động Thủy Liêm như dạo nào thuở trước.
Hồi 5
Phá vườn đào, Ðại Thánh trộm linh đơn
Loạn cung trời, chư thần bị bại trận
Nói về Tôn Ngộ Không làm chức Tề Thiên Ðại Thánh, không thuộc ngạch nào, chẳng biết phẩm chi, thấy trước cửa có đề năm chữ Tề Thiên Ðại Thánh Phủ, thì tin là chức ấy, ngày ăn tối ngủ, có hai vị tiên lại chầu hầu, dạo chơi khắp cả thiên cung, môt mình thong thả, gặp Tam Thanh thì kêu bằng tướng công, thấy Tứ Ðế thì chào rằng Bệ Hạ! Còn Cửu Diện là chín sao Bắc đẩu, năm tướng Ngủ phương, bốn vị Thiên vương, Nhị thập bát tú, Lục đinh, Lục giáp, năm ông Ngũ lão, các vị thiên thần đều quen biết, kêu bằng anh em! Nay tới hướng Ðông, mai chơi phía Bắc, cứ việc dạo chơi hoài, các vị thiên thần đà lát mặt!
Ngày kia Thượng Ðế lâm trào, có Tinh Dương Hứa Chân quân tâu rằng:
- Tề Thiên Ðại Thánh mỗi ngày dạo khắp các nơi, ở không ắt sanh sự, xin Bệ Hạ cấp cho nó coi một việc mà cầm chân, để khỏi lo sanh tệ .
Thượng Ðế nạp tấu, bèn đòi Tề Thiên Ðại Thánh vào chầu .
Tề Thiên đến bái rồi tâu rằng:
- Chẳng hay Bệ Hạ đòi Lão Tôn đến ban thưởng vật chi?
Thượng Ðế phán rằng:
- Trẫm thấy khanh ở không, chẳng có phần chi cai trị cho vui, nên đòi khanh vào đây, trẫm giao vườn Bàn đào cho khanh cai trị, coi giữ cho thường, chớ nên sơ hở để chúng phá phách .
Tề Thiên mừng rỡ, tạ ơn rồi lui ra.
Về gần tới phủ, ghé vườn Bàn đào, mới đến cửa ngõ, có Thổ Ðịa giữ vườn ấy đón lại hỏi rằng:
- Ðại Thánh đi đâu đây?
Tề Thiên nói:
- Ta mới vâng chỉ vườn này, nên đến mà tra xét .
Thổ Ðịa làm lễ, rồi kêu các lực sĩ ra dẫn Tề Thiên vào vườn, Thổ Ðịa cũng theo hầu .
Tề Thiên đi coi khắp hết, rồi hỏi Thổ Ðịa vườn này có mấy cây đào?
Thổ Ðịa thưa rằng:
- Nội vườn cộng hết thảy là ba ngàn sáu trăm cây, phía trước một ngàn hai trăm cây bông trái nhỏ, ba ngàn năm mới chín một kỳ, ăn nó thì thành tiên, nhẹ mình mà thêm sức. Còn giữa vườn một ngàn hai trăm cây, bông trái có từng, trái ngọt lắm, sáu ngàn năm mới chín một kỳ, ăn nó thì bay như chim mà trường sinh bất lão. Còn phía sau một ngàn hai trăm cây, chín ngàn năm mới chín một kỳ, trái có gân màu tía, nhỏ hột hơn hết, ăn nó thì sống bằng trời đất .
Tề Thiên nghe nói thì mừng thầm, đếm y số rồi trở về phủ.
Từ đó về sau không đi chơi đâu hết, hễ năm ba bữa thì ra vườn đào một lần, đi thì có Thổ Ðịa và Lực sĩ với Tiên lại theo hầu.
Ngày kia thấy vườn đào có trái chín, tìm tâm muốn nếm cho biết mùi, ngặt quan hầu theo hoài, làm sao mà ăn lén cho đặng.
Tề Thiên kiếm kế mà nói rằng:
- Thôi, các ngươi ra ngoài cửa mà giữ cửa vườn, để ta ở nhà mát mà nghỉ một chút .
Ai nấy đều vâng lệnh mà lui ra hết.
Chừng đó Tề Thiên lại nhà mát cởi đồ y phục ra, nhảy phóc lên cây đào, lựa trái nào chín mùi thì hái mà ăn tươi, làm một bụng lứ lừ mới nhảy xuống, bận áo đội lại xong rồi, ra cửa kêu Tiên lại về phủ.
Từ đó sắp sau, bắt bén, làm thế đó hoài, làm riết gần hết vườn đào!
Ngày kia Vương Mẫu nương nương ở cung Diêu Trì tại hướng Tây (Bà này là chúa mấy vị tiên nữ), đến kỳ đào chín sửa soạn làm hội Bàn Ðào, bèn sai bảy nàng tiên bận bảy sắc áo, là: Thanh y tiên nữ, Huỳnh y tiên nữ, Tạo y tiên nữ, Tố y tiên nữ, Hồng y tiên nữ, Tử y tiên nữ, Lục y tiên nữ, xách giỏ lam đi hái trái Bàn đào.
Khi bảy nàng tiên đến cửa vườn, thì thấy có Thổ Ðịa, Lực sĩ và Tiên lại giữ cửa.
Bảy nàng tiên nói:
- Chúng tôi vâng lệnh Vương Mẫu đến đây hái đào về làm hội .
Thổ Ðịa nói:
- Khoan vào đã, các cô! Xưa khác nay khác. Vả Thượng Ðế có sai Tề Thiên Ðại Thánh cai trị vườn này, chờ chúng tôi thưa lại đã .
Thất tiên hỏi:
- Tề Thiên Ðại Thánh bây giờ ở đâu?
Thổ Ðịa nói:
- Ðại Thánh ở trong vườn, đương ngủ trong nhà mát .
Thất tiên nói:
- Chúng tôi đi có giờ khắc, chẳng dám trễ lâu, xin ông dắt vào nhà mát mà ra mắt, chớ biết chừng nào ngài dậy mà chờ!
Thổ Ðịa nghe các tiên nói phải, liền dắt Thất tiên nữ vào nhà mát, thấy áo mão để đó mà không biết Ðại Thánh đi đâu, kiếm cùng vườn mà chẳng thấy!
Té ra Ðại Thánh ăn vụng no rồi biến hình ra nhỏ còn hai tấc, chun nằm trong hột đào mà ngủ, nên kiếm không đặng.
Còn Thất tiên nữ nóng về nên nói rằng:
- Chúng tôi vâng lệnh Vương Mẫu đến đây, mà kiếm Ðại Thánh chẳng đặng, lẽ nào dám về không!
Tiên lại nói:
- Ðại Thánh hay dạo đã quen, chắc là đi tìm bạn, các cô vâng chỉ thì hái lần đi, chừng Ðại Thánh về, chúng tôi sẽ thưa lại .
Thất tiên nữ y lời, ra vườn trước hái đầy ba giỏ. Rồi lại vườn sau không thấy đào chín, còn những trái xanh, là bị Tề Thiên ăn hổn!
Thất tiên nữ nói:
- Lạ này, hội này là hội lớn, chánh chín ngàn năm, sao vườn này không có trái chín, hái sao cho đầy một giỏ.
Bởi vườn sau trái ít, nên hái đặng bảy giỏ mà thôi. Ba thứ đào vì sao lại chín một lượt? Là vì ba ngàn năm chín một thứ, hái hai giỏ, hội nhỏ; sáu ngàn năm chín một thứ nữa, hái hai thứ đặng sáu giỏ thì hội trung, đến chín ngàn năm chín một thứ nữa, đặng bảy giỏ nên chín ngàn năm thì đại hội.
Khi Thất tiên nữ kiếm khắp vườn, thấy phía nam trái đào ở trên nhành nửa xanh nửa đỏ.
Thanh y tiên nữ kéo nhành ấy xuống, Huỳnh y tiên nữ hái rồi, Thanh y tiên nữ buông nhành đào bật lên .
Tề Thiên té nhào xuống, giật mình thức dậy, hiện hình rút thiết bảng hét lớn rằng:
- Chúng bây là yêu quái ở đâu? Sao dám cả gan hái đào trộm .
Thất tiên nữ hãi kinh đồng quỳ xuống mà thưa rằng:
- Chúng tôi không phải yêu quái, thiệt là Thất tiên nữ vâng lệnh Vương Mẫu hái đào làm hội, có trình Thổ Ðịa, vào kiếm Ðại Thánh không đặng, chị em tôi sợ trễ nên phải hái lần, xin Ðại Thánh bớt giận và tha tội .
Tề Thiên nghe rõ thì đổi giận làm vui mà nói rằng:
- Thôi, các tiên nga chờ dậy. Chẳng hay Vương Mẫu làm tiệc đãi ai?
Thất tiên nữ thưa rằng:
- Lệ thường thì mời Phật Tổ bên Tây Phương, Quan Âm bên Nam Hải, Sùng Ân bên Ðông huê, Huỳnh Linh bên Bắc địa, Huỳnh Giác ở Trung ương và Tam Thanh, Tứ đế, Thái Ất, Bát tiên, Ðịa tạng vương, Thập điện, Tứ Hải long vương, và các vị thần tiên tinh tú, đồng hội tề, rước Thượng Ðế qua phó Bàn Ðào .
Tề Thiên hỏi:
- Có thỉnh ta chăng?
Thất tiên thưa:
- Chúng tôi không nghe nói .
Tề Thiên nói:
- Ta làm chức Tề Thiên Ðại Thánh lại có công giữ vườn sao không mời ta dự tiệc .
Thất tiên nữ thưa rằng:
- Lệ cũ thì vậy, chớ kỳ này không biết thế nào?
Tề Thiên nói:
- Phải, thôi, các cô đứng cho vững đã .
Nói rồi niệm chú làm phép định thân, chỉ các tiên nga mà nói rằng:
- Ðứng đó, đứng đó!
Thất tiên nữ đứng như trời trồng.
Tề Thiên thấy các tiên nữ trơ trơ dưới cội đào, liền nhảy vào nhà mát mặc áo đội mão, rồi cân đẩu vân đi phó hội trước, xảy gặp Xích Cước đại tiên .
Tề Thiên sinh ra một kế, liền bái mà hỏi rằng:
- Chẳng hay ông đạo đi đâu?
Xích Cước đại tiên nói:
- Tôi đi phó hội Bàn Ðào .
Tề Thiên nói:
- Thượng Ðế khen tôi có tài cân đẩu vân hay lắm, nên sai tôi đón các thần tiên mà dặn rằng: "Lệ này phải hội tề tại đền Thông Minh; tập lễ xong rồi, sẽ hội Bàn Ðào luôn thể".
Xích Cước ngỡ là thiệt cải lệ, nên quay lại đi qua Thông Minh điện.
Còn Tề Thiên thấy Xích Cước đi xa rồi niệm chú... Biến hình ra Xích Cước, rồi riết qua hội Bàn Ðào.
Khi vào tới Bửu các, thấy tiệc dọn chỉnh tề, những đồ mỹ miều kể đà không xiết, mà không có rượu với đào, và chưa thấy ai dự tiệc.
Tề Thiên muốn làm lén ba miếng, xảy có mùi rượu bên phía Ðông phất qua thơm nực mũi, Tề Thiên bước qua thấy hũ rượu rất ngon thì bắt thèm, ngặt có quan canh, biết làm sao đặng! Liền nhổ lông bỏ vào miệng nhai nhỏ phun ra, hóa ra con buồn ngủ bay đậu trên mặt quân canh, quân liền ngủ gục hết.
Lúc này Tề Thiên làm lộng, lựa mấy ngón nhất hạng bưng qua phía Ðông mà ăn, nên cổ bàn lỡ hết.
Tề Thiên ăn đồ no nốc, uống rượu say mềm! Nghĩ rằng:
- Không xong, khi mình giữ vườn thì lựa đào ngất ăn hết, nay lại ăn vụng làm lỡ hết cổ bàn, khui hết mấy chinh rượu mà uống! Nếu đến chừng khách tới, thì chúng bắt chẳng sai, chi bằng lén lén về dinh mình mà ngủ, dầu có lậu ra cũng dễ chối .
Làm tuồng tỉnh táo riết về phủ Tề Thiên, nhằm lúc say ba ngù, đi lạc qua cung Ðâu Suất.
Khi ấy Tề Thiên thấy bảng đề Ðâu Suất cung thì sực nhớ rằng:
- Cung Ðâu Suất là chỗ Thái Thượng lão quân ở, nếu vậy mình đã đi lạc xa rồi! Xưa rày cũng lâu đến ông này, sẳn dịp ghé thăm luôn thể .
Nói rồi sửa bước vào, chẳng dè ông Thái Thượng mắc giảng kinh trên lầu với ông Nhiên Ðăng, các đệ tử đều đứng hầu nghe giảng, nên Tề Thiên vào cung Ðâu Suất không thấy một người, liền đi thẳng vào phòng, thấy trong năm cái bầu đựng những thuốc kim đơn.
Tề Thiên mừng quá nói rằng:
- Từ mình thành tiên tới nay, biết thứ thuốc này là quý, song chưa đặng luyện chế mà cứu người, may gặp vật này, mà không có chủ, vậy mình uống thử ít viên .
Nói rồi trút bầu thuốc bỏ vào miệng nhai nuốt.
Tề Thiên làm một hơi sạch trơn trong bầu chẳng còn huờn nào hết, nhờ thuốc dã rượu hết say giựt mình ngẫm nghĩ rằng:
- Không xong rồi, họa lớn bằng trời, không phải dễ! Nếu Thượng Ðế hay đặng ắt tánh mạng chẳng còn! Chi bằng chạy về động Thủy Liêm mà trốn .
Nói rồi nhảy tới Tây Thiên Môn, tàng hình ra khỏi cửa, cân đẩu vân nhảy xuống Hoa Quả Sơn, kêu lớn rằng:
- Chúng bây ôi! Ta đã về đây!
Yêu tinh và quần hầu quỳ lạy mà thưa rằng:
- Ðại Thánh nỡ nào bỏ chúng tôi lâu quá vậy!
Tề Thiên nói:
- Không bao lâu mà!
Vừa nói vừa đi vào động, Tứ kiện tướng lạy mừng rồi hỏi rằng:
- Ðại Thánh đã ở trên trời một trăm mười một năm, chẳng hay làm chức chi vậy?
Tề Thiên nói:
- Ta nhớ đâu ba bốn tháng, mà dưới thế này đến một trăm mười một năm! Nói cho phải, chuyến này khá. Thượng Ðế hậu đãi và phong cho Tề Thiên Ðại Thánh .
Lại thuật hết các công chuyện từ khi đi cho đến về đây. Yêu quỷ và quần hầu mừng rỡ, rót rượu nước dừa dâng lên. Tề Thiên hớp một miếng, rồi phun phèo phèo, nhăn mặt mà rằng:
- Uống không đặng! Hồi sớm ta lại cung Diêu Trì uống những quỳnh tương tiên tửu, hơi thơm ngát, vị ngạt ngào, thương hại cho chúng bây biết làm sao mà uống cho đặng đồ quý ấy! Vậy thì ta lén lên trộm về vài hủ các ngươi uống một đứa một chút cũng đặng trường sinh .
Yêu quỷ và quần hầu tạ ơn, Tề Thiên Ðại Thánh ra khỏi cửa động làm phép tàng hình, cân đẩu vân lén vô cung Diêu Trì, thấy quân canh còn ngủ!
Tề Thiên lựa hai hủ lớn cập nách, còn hai tay xách hai hủ nữa là bốn hủ, rồi tàng hình đem về động, làm hội tiên tửu uống với yêu quái và quần hầu.
Nói về Thất tiên nữ tới mười hai giờ mới tan phép định thân, đồng xách giỏ hoa lam về tâu với Vương Mẫu rằng:
- Chúng tôi hái hai vườn đào trước y số, đến vườn đào sau không còn một trái. Chắc Tề Thiên Ðại Thánh ăn vụng hết. Chị em tôi đương kiếm đào, xảy đâu Ðại Thánh nhảy ra hành hung muốn đánh, hỏi hội này mời ai, chúng tôi nói theo lệ cũ, rồi Ðại Thánh làm phép định thân, đến bây giờ chúng tôi mới tỉnh hồn về đặng .
Lúc ấy Vương Mẫu nghe nói nổi giận, liền vào tâu với Thượng Ðế...
Xảy có quân canh vào tâu:
- Không biết ai ăn vụng lỡ cổ bàn hết, và uống rượu, lại lấy mất hết bốn hủ quỳnh tương lớn .
Kế Tứ đại tiên sư vào tâu rằng:
- Tôi chế thuốc Cửu Chuyển kim đơn, đặng làm hội Ðơn Ngươn, chẳng biết ăn trộm ở đâu mà trút hết năm bầu. Xin Thượng Ðế cho người tra xét .
Thượng Ðế nghe tâu lấy làm lạ .
Xảy thấy Tiên lại vào tâu rằng:
- Tề Thiên Ðại Thánh đi dạo hôm qua tới bữa nay chưa về .
Thượng Ðế sanh nghi!
Kế Xích Cước đại tiên vào tâu rằng:
- Hôm qua tôi vâng lệnh Vương Mẫu phó hội Bàn đào, gặp Tề Thiên Ðại Thánh nói với tôi rằng: Bệ Hạ dạy tôi đến Thông Minh điện diễn lễ rồi sẽ phó hội Bàn đào, tôi trở lại đền Thông Minh hôm qua tới nay, mà chẳng thấy tin giá ngự nên tôi phải đến đây đợi lệnh .
Thượng Ðế kinh hãi phán rằng:
- Trẫm không truyền chỉ đòi hiền khanh, chắc là Ngộ Không nó gạt khanh đó. Vậy thì Linh Quan đi xét bắt Ngộ Không về đây coi nào!
Giây lát Linh Quan đi xét ra rõ cớ ấy, trở về mà tâu rằng:
- Các việc ấy đều nơi Tôn Ngộ Không hết; nay nó đã trốn về núi Hoa Quả động Thủy Liêm, đang làm tiệc tiên tửu ở dưới là rượu nó ăn trộm đó .
Thượng Ðế nghe qua nổi trận lôi đình, hạ chỉ đòi bốn vị Thiên tướng, Lý Thiên Vương, Na Tra, Nhị thập bát tú, Cửu Diện tinh quân, Ngũ Phương yết đế, bốn vị Công Tào, các vị Thiên thần dẫn mười muôn thiên binh xuống vây núi Hoa Quả, bắt cho được Tôn Ngộ Không đem về trị tội.
Khi ấy chư thần tướng dẫn mười muôn binh xuống vây núi Hoa Quả, Lý Thiên Vương truyền trên bủa lưới khắp trời, gọi là Thiên la, dưới bủa lưới khắp đất, gọi là Ðịa võng, trên chín lớp lưới, dưới chín lớp lưới, cộng lại là mười tám lưới.
Trước sai mấy vì sao dữ tợn, kéo binh tới trước động Thủy Liêm khiêu chiến.
Khi tới động, Cửu Diện tinh quân kêu rằng:
- Ðại Thánh ở đâu? Chúng ta vâng chỉ đến đòi Ðại Thánh về trời, nếu bất tuân thì bị giết cả động .
Tiểu yêu về báo lại...
Tề Thiên đang nhậu với Tứ kiện tướng quân và các Yêu vương, nghe báo chẳng hề sợ sệt, lại ngâm thơ rằng:
Ngỏa nguê tiệc rượu lại ngâm thi,
Bao quản ngoài tai tiếng thị phi.
Ngâm đặng hai câu, có quân vào báo rằng:
- Cửu Diện hung thần nhục mạ lắm!
Tề Thiên cười rằng:
- Kệ nó đừng báo làm chi, cứ đóng cửa cho chặt .
Nói rồi ngâm hai câu nữa:
Thơ rượu sẳn vui ngâm lại nhậu,
Công danh chỉ tính kiếp cùng chầy.
Kế tiểu yêu vào hớt hải báo rằng:
- Ðại Thánh ôi! Không xong! Chín vị hung thần phá hư cửa động rồi .
Tề Thiên nổi giận nói rằng:
- Ta say quá, thôi Ðộc Giác quỷ vương dẫn bảy mươi hai chúa động ra trước, còn ta với Tứ kiện tướng theo sau . Ðộc Giác quỷ vương vâng lệnh dẫn bảy mươi hai chúa động xông ra, bị Cửu Diện chận đánh nên phải thối lại, ra không khỏi động!
Kế Tề Thiên xách thiết bảng tới hét lớn rằng:
- Tránh Tránh .
Ðộc Giác và bảy mươi hai chúa động tránh vẹt hai bên.
Tề Thiên xông ra đánh Cửu Diện phải lui ra cửa động.
Cửu Diện nói rằng:
- Bật Mã Ôn không sợ chết, ngươi phạm tội trời:
1.) Ăn vụng Bàn đào.
2.) Uống lén rượu ngự tửu.
3.) Ăn vụng cổ bàn của Vương Mẫu.
4.) Lén uống thuốc kim đơn của Lão quân.
5.) Ăn trộm ngự tửu đem về làm tiệc, nay còn cự chống cho thêm tội nữa sao?
Tề Thiên cười ngất nói rằng:
- Năm điều đó quả có, ta không thèm chối , mà bây giờ chúng bây muốn cái gì?
Cữu Diện nói:
- Nay Thượng Ðế sai chúng ta xuống bắt ngươi, ngươi mau chịu phép, kẻo liên lụy cả động .
Tề Thiên nổi giận nói rằng:
- Chúng bây là đồ khốn, tài phép bao nhiêu mà nói lớn lối! Ta đập một cây cho rồi đời .
Cửu Diện hổn chiến, bị Tề Thiên mạnh mẽ qua, Cửu Diện đánh không lại vụt chạy hết, về trại thưa rằng:
- Hầu yêu mạnh bạo vô cùng, chúng tôi đánh không lại .
Lý Thiên Vương sai bốn vị Thiên Vương dẫn Nhị thập bát tú kéo binh ra vây phủ.
Tề Thiên chẳng hề nao núng, dẫn bốn tướng mạnh và Ðộc Giác quỷ vương với bảy mươi hai động chủ ra cự địch.
Ðánh từ giờ thìn cho đến mặt trời lặn, Ðộc Giác quỷ vương và bảy mươi hai chúa động đều bị thiên thần bắt hết, trừ ra có Tứ kiện tướng chạy khỏi.
Còn đó Tề Thiên đương đánh với Tứ vị Thiên vương, Lý thiên Vương và Na Tra thái tử, Tề Thiên nhổ một nắm lông bỏ vô miệng nhai nhỏ phun ra, hóa hình Tề Thiên vô số, đều cầm thiết bảng trợ chiến với mình.
Tứ vị Thiên vương, Lý Tịnh Na Tra đều bại tẩu! Tề Thiên dùn mình thâu lông lại, về tới cửa động, thấy Tứ Kiện Tướng dàn quân nghinh tiếp.
Tứ Kiện Tướng khóc ba tiếng, rồi cười ba tiếng.
Tề Thiên hỏi:
- Vì cớ nào đã khóc lại cười?
Tứ Kiện Tướng thưa rằng:
- Khóc là khóc bảy mươi hai chúa động và quỷ vương bị bắt, còn cười là mừng Ðại Thánh thắng trận mới về .
Tề Thiên nói:
- Sự chinh chiến thắng bại là việc thường, hơi nào mà buồn bực. Chúng ta ăn cho no, ngủ cho khỏe, mai bắt Thiên Vương lại mà báo thù .
Chúng khỉ đều thỉnh lệnh.
Nói về Lý Tịnh thâu binh, các Thiên Vương về dưng yêu quái hổ hang rất nhiều, mà bắt không đặng một con khỉ.
Lý Thiên Vương truyền Thiên binh treo lục lạc theo Thiên la Ðịa võng, hễ nghe rung lục lạc thì đón bắt, đừng cho yêu hầu trốn thoát.
Hồi 8
Như Lai tạo kinh truyền Cực Lạc
Quan Âm vâng chỉ xuống Tràng An
Nói về Phật Tổ từ tạ Ngọc Ðế về đến Lôi Âm bửu sái, để các vị Bồ Tát Kim Cang cầm tràng phan bửu sái ra tiếp giá.
Như Lai lên ngồi tòa sen, hào quang sáng lòa.
Các Bồ Tát Kim Cang chắp tay làm lễ hỏi:
- Phá cõi trời, làm rối bàn đào hội, là ai vậy?
Như Lai phán các việc đầu đuôi, hết thảy nghe nói đều mừng rỡ lui chầu.
Ngày kia Phật Tổ kêu các vị Ấ La, Yết Ðế, Bồ Tát, Kim Cang mà nói rằng:
- Từ thâu đặng yêu hầu tính lại đặng năm trăm năm dưới phàm. Nay ta có một bửu bồn, kêu là Vu Lan bồn có đủ trái ngon bông lạ cho các ngươi hưởng nhờ, ý các ngươi muốn chăng?
Hết thảy chắp tay tạ ơn.
Phật Tổ biểu Ấ Nang Ca Diếp phân phát cho đại chúng.
Hết thảy cảm tạ rồi, xin Như Lai giảng dạy.
Như Lai giảng tam thừa kinh phép chánh quả rồi nói với chúng rằng:
- Ta xem trong bốn cõi đại bộ châu, con người lành dữ khác nhau. Tại Ðông Thắng thần châu kính trời đất, có lòng hiền, Tây Ngưu hạ châu không tham ái; Bắc Cư lư châu hay sát sanh vọng ngữ, còn Nam Thiện bộ châu tham dâm dục, hay đâm chém, miệng lưỡi hung dữ độc ác. Nay ta có ba tạng chân kinh khá khuyên người lành . Chư vị Bồ Tát chắp tay hỏi:
- Ba tạng kinh thế nào?
Như Lai nói:
- Một tạng nói về việc trời, một tạng nói về trời đất, môt tạng nói về việc đất, còn một tạng thì cứu ma độ quỷ. Ba tạng cộng lại là 25 bộ cai ra một muôn năm ngàn một trăm bốn mươi bốn cuốn (15.144) thiệt là phép chu nhân thánh thiện. Ta muốn cho về Ðông Ðộ, e thiên hạ ngu dại chê bai phép Phật, chẳng biết kinh du là chánh tông. Phải đặng một người tài phép giỏi qua Ðông Ðộ khuyên dạy chúng sanh, sẽ đặng có công đức như non. Ai muốn lãnh đi?
Quan Âm Bồ Tát nói:
- Tôi tuy bất tài, xin qua Ðông Ðộ kiếm một người đi thỉnh kinh .
Như Lai cả đẹp nói:
- Quan Âm thần thông biến hóa đi đặng. Như có đi thì đi trên mây, mà chớ đi cao lắm, ngươi tuy có lòng mà cũng khó đi đặng, nay ta cho ngươi năm phép báu .
Liền dạy Ấ Nang Ca Diếp lấy cà sa và Cữu huờn tích trượng đặng cho người thỉnh kinh bền lòng đi, khi bận áo cà sa khỏi đọa luân hồi, cầm tích trượng khỏi bị hại. Quan Âm lạy mà lãnh.
Như Lai lấy ba cái cô nhi là cái vòng, nói rằng:
- Ba cái cô nhi nầy như một, cái nầy đọc chú ba lần thì biến hóa mà trừ yêu. Như gặp yêu thì nhờ phép nầy khuyên dạy nó phải đi theo người lấy kinh làm học trò. Như nó không chịu thì cho nó đội cái nầy trên đầu tự nhiên dính vào thịt gỡ ra không đặng. Nó không vâng phục thì đọc chú cho nó nhứt đầu chịu không nỗi, thì nó mới đầu vào phép ta .
Quan Âm lãnh rồi làm lễ lui ra, kêu Huệ Ngạn đi theo.
Quan Âm gói áo cà sa lại, đưa Huệ Ngạn cầm, lại cất Kim Cô, tay cầm Tích trượng, xuống khỏi Linh Sơn. Tới gần núi có Ngọc Chân Quân Kim Ðãnh đại tiên rước vào pha trà hỏi:
- Chẳng hay Bồ Tát đi đâu?
Quan Âm nói:
- Tôi vâng chỉ Như Lai đến Ðông Ðộ tìm người lấy kinh .
Ðại tiên hỏi:
- Chừng nào người lấy kinh đi tới?
Quan Âm nói:
- Chưa biết chừng độ hai ba mươi năm thì tới .
Liền từ giã đại tiên đi nửa chừng mây, ngó xuống sông Lưu Sa thấy ba người chết chìm.
Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
- Người phàm khó qua chỗ nầy đặng mà lấy kinh .
Xảy thấy nổi sóng gió, một con yêu rất xấu xa, hét lớn một tiếng nhảy lên bờ cầm bửu trượng xốc lại đánh Quan Âm .
Huệ Ngạn cầm côn chận lại nạt rằng:
- Quái vật chớ chạy .
Hai người hổn chiến hơn mười hiệp chưa phân hơn thua.
Yêu ấy đỡ lại rồi hỏi rằng:
- Ngươi ở đâu mà dám đến cự với ta?
Huệ Ngạn nói:
- Ta là Nhị Thái Tử của Lý Thiên Vương là Mộc Tra đây, ngươi sao dám đón đường?
Quái ấy nói:
- Ta nhớ ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành, sao lại đến làm chi?
Mộc Tra nói:
- Trên kia là thầy ta đó .
Quái ấy nghe nói liền chạy tới trước mặt Quan Âm cúi đầu lạy thưa rằng:
- Xin tha tội cho tôi thú thiệt: Nguyên trước tôi hầu Ngọc Ðế làm chức Quyện Liêm đại tướng, nhân hội bàn đào lỡ tay làm bể đèn lưu ly nên Ngọc Ðế bắt tội đánh 800 roi, đày xuống hạ giới, biến ra xấu xa, còn bảy ngày có gươm bay đến đâm hông tôi một lần, đau đớn quá chừng. Lại thêm đói lạnh chịu không nỗi, nên làm sóng gió bắt người qua lại mà ăn thịt, nay rủi phạm nhằm Bồ Tát .
Quan Âm nói:
- Ngươi đã có tội lại ăn thịt người ta, tội càng thêm nặng. Nay ta lãnh sắc Phật Tổ qua Ðông Ðộ tìm người lấy kinh. Ta muốn ngươi đợi đây theo người lên Tây Phương thỉnh kinh, ta kêu gươm bay đó không đâm ngươi nữa. Sau này nên công hết tội, đặng phục chức cũ, ngươi nghĩ thế nào?
Quái ấy nói:
- Tôi xin quy y làm lành. Từ trước đến nay mấy người đi lấy kinh qua đây đều bị tôi ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông, không dè mấy sọ ấy không chìm cứ nổi trên mặt nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại treo chỗ trống kia, tính ra chín người đi lấy kinh bị hại rồi .
Quan Âm nói:
- Ngươi khá đem mấy cái đó treo trên chót núi, đợi người lấy kinh tới sẽ có việc dùng .
Quái vật vâng lời dạy dỗ, cải ác quy y.
Quan Âm thí phát cho con yêu ấy rồi. Lấy sông Lưu Aa làm họ, nên đặt họ Sa, đặt tên thánh gọi là Ngộ Tịnh.
Khi ấy Ngộ Tịnh đưa Quan Âm và Huệ Ngạn khỏi sông rồi, răn lòng không ăn ai nữa. Dùng trái cây đỡ dạ mà đợi kẻ thỉnh kinh.
Còn Quan Âm và Huệ Ngạn đi một hồi lâu xảy thấy núi cao chớn chở, hơi dữ bay lên núi mịt mù, đi qua không được.
Quan Âm tính đằng vân mà qua núi.
Xảy đâu trận gió thổi tới, hiện ra một con yêu tinh đầu heo tướng dữ tay cầm Cào cỏ (đinh ba) đập lại Quan Âm .
Mộc Tra cản lại hét một tiếng lớn rằng:
- Ðồ yêu quái đừng vô phép, coi gậy sắt đây nè .
Con tinh trả lời rằng:
- Hòa Thượng này không biết sợ chết, coi cào cỏ ta đây .
Hai người đánh dưới chân núi, chưa biết hơn thua .
Quan Âm ở nữa lừng bỏ bông sen xuống cản ngang, hai người đánh không đặng nữa; con tinh thất kinh mới hỏi:
- Ngươi là Hòa Thượng ở đâu hóa bông sen mà dọa bợm?
Huệ Ngạn nói:
- Ngươi là thú thai phàm mắt thịt, nên không biết ta. Ta là học trò Phật Quan Âm, thầy ta bỏ bông sen mà ta không biết .
Con tinh hỏi:
- Quan Âm ở Nam Hải là một vị Phật quét ba tai, trừ tám nạn phải không?
Huệ Ngạn nói:
- Vậy chớ ai?
Con tinh nghe nói, bỏ cào cỏ lạy Huệ Ngạn mà hỏi thăm rằng:
- Chẳng hay Quan Âm ở đâu, xin anh làm ơn dắt tôi ra mắt!
Huệ Ngạn ngước mặt chỉ mà nói rằng:
- Ngươi coi có phải là Phật Bà không?
Con tinh ngó thấy cúi đầu lạy mà nói lớn rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội .
Quan Âm hiện xuống mà hỏi rằng:
- Ngươi là Ông Chãng thành tinh, hay là heo rừng sanh quát, mà đón ta vậy?
Con tinh nói:
- Tôi không phải heo rừng, cũng không phải Ông Chãng (heo rừng lâu năm quá, mọc nanh bó hàm, tục sợ như hùm, kêu tưng bằng Ông Chãng) tôi là Thiên Bồng nguyên soái ở sông Ngân (Thiên Hà) bởi say rượu đi lạc vào cung Nguyệt mà chọc Hằng Nga, bị ông Linh Quan bắt giải về Thượng Ðế, Thượng Ðế bắt tội đánh tôi hai ngàn dùi, rồi đày xuống Trung Giai. Tôi đi đầu thai lạc đường nhằm heo rừng nái, mới ra thân thể như vậy. Tôi tức giận cắn heo nái chết tươi, và giết bầy heo rừng tuyệt tộc. Chiếm cứ hòn núi nầy, ăn thịt người đở đói, không dè nay gặp Phật Bồ Tát, xin cứu độ làm ơn .
Quan Âm hỏi:
- Núi nầy gọi là gì?
Con tinh nói:
- Núi nầy gọi là núi Phước Lăng, có một cái động gọi là động Vân San, chủ động ấy gọi là Mão Nhị Thơ thấy tôi có nghề võ, vời tôi tới làm người lớn trong nhà. Ở coi giúp việc gần một năm, nàng ấy tới số gia tài về tôi, ở không ăn mãi núi lở non mòn, túng cùng phải ăn người cho qua bữa, xin Bồ Tát cứu độ mà làm ơn .
Quan Âm nói:
- Người xưa rằng: Muốn có đường đi tới, thì đừng làm mất đường lui. Nếu mất đường đi tới, thì phải cùng đường. Khi ngươi ở cõi trên đà phạm phép, thì nay phải đọa mà không bỏ lòng hung, lại giết người hại vật, thì một tội sinh hai, ấy là muốn cùng đường đó .
Con tinh nói:
- Còn cùng chẳng còn cũng không cần. Nếu cử ăn thịt người thì thấy ngáp gió, hèn chi người ta nói: Y theo phép quan thì đánh chết, y theo phép Phật thì đói chết. Là phải lắm mà. Tính bề đi phức cho xong thê. Thà bắt chúng đi đường, ăn mỡ tươi béo lắm, cần gì 2 tội, 3 tội, ngàn tội, muôn tội nà .
Quan Âm nói:
- Lòng người muốn phải, trời cũng thuận theo. Như ngươi tu theo phép, ta cũng có món nuôi mình được, trái cây, rau, gạo, ăn cũng no lòng, lựa phải ăn mỡ người ta mới sống?
Con tinh nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, lạy Quan Âm mà nói rằng:
- Tôi muốn giải nghiệp mà đi tu, song mắc lấy tội trời, cầu sao cho khỏi?
Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật Tổ, xuống cõi trần mà tìm kẻ thỉnh kinh. Nếu ngươi chịu làm đệ tử người thỉnh kinh, mà tới Tây Phương thì phước đủ trừ tội, ta cứu ngươi nạn khỏi tai qua .
Con tinh nói:
- Chịu theo, chịu theo" Quan Âm thí phát (thế phát) xong rồi cứ theo dèo đặt họ, gọi là Trư, đặt tên thánh là Ngộ Năng, giữ theo phép Phật, phải ăn chay cử mặn và cử ngũ uẩn (năm món như đồ mặn là: Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu và ngò) ở đợi thầy thỉnh kinh đi tới .
Quan Âm dặn rồi liền đi với Huệ Ngạn.
Ði một hồi lâu thấy một con rồng Bạch bị treo tại cửa trời. Rồng Bạch thấy Quan Âm, liền cả kêu xin cứu.
Quan Âm hỏi:
- Ngươi là rồng ở đâu mà bị treo ở đó?
Rồng Bạch nói: "Tôi là Thái Tử con Long vương Ngao Thận ở biển Tây. Bởi tôi nổi lửa đốt trái châu trước đền, cha tôi giận tâu với vua Trời, rằng tôi ngỗ nghịch. Nên Thượng Ðế treo tôi giửa thinh không đánh ba trăm roi, và đợi ít ngày xử trãm. Xin Phật Bồ Tát cứu mạng làm nhơn .
Quan Âm nghe nói liền đằng vân ới Huệ Ngạn mà lên trời, cậy Khưu Thiên Sư và Thượng thiên sư dắt ngài vào điện.
Quan Âm tâu rằng:
- Tôi vâng sắc Phật Tổ, xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, gặp rồng có tội bị treo, nên tôi vào tấu, xin Bệ Hạ tha tội rồng ấy mà cho theo tôi, đặng đỡ gót kẻ thỉnh kinh ra công mà chuộc tội .
Thượng Ðế nghe tấu, ruyền tướng trời mở trói nghiệt long (rồng dữ) giao cho Bồ Tát. Quan Âm từ tạ, rồng nhỏ cũng lạy tạ ơn .
Quan Âm dẫn rồng nhỏ xuống núi dặn rằng:
- Ngươi ở khe này, đợi thầy thỉnh kinh đi ngang qua, sẽ hóa thành ngựa kim đỡ gót . Rồng con vâng lệnh ở đó mà chờ.
Còn Quan Âm đi với Mộc Tra, đi hèn lâu mới tới năm hòn núi. Ngó thấy hào quang muôn trượng, hơi ấm ngàn trùng.
Huệ Ngạn hỏi:
- Núi Ngũ Hành mà có hào quang, có khi tại bùa của Phật Tổ .
Quan Âm nói:
- Phải, Tề Thiên Ðại Thánh phá hội Bàn Ðào, phản thiên cung năm xưa, nên bị núi đè tại đó . Thầy trò lên núi, thấy lá bùa sáu chữ chân ngôn là: Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng.
Quan Âm xem rồi than thở chẳng xiết, liền ngâm một bài kệ.
Thơ rằng:
Thương hại yêu hầu bỏ phép công,
Năm xưa làm loạn cậy sức hùng
Kể từ Phật Tổ dằn năm núi,
Bao thuở ra ngoài lại cõi Ðông.
Ðại Thánh nằm sấp dưới chân núi cả kêu rằng:
- Ai ngâm thơ trên non mà ngạo ta đó?
Quan Âm nghe hỏi liền đi lần xuống mà xem, ngó thấy dưới chân núi, có thần núi và Thổ Ðịa canh giữ.
Các thần đều nghinh tiếp Quan Âm và dắt đến trước mặt ÐạiThánh.
Quan Âm thấy Ðại Thánh nằm dưới núi ló đầu ra, miệng nhóp nhép lia mà cục cựa không đặng.
Ngài mới hỏi rằng:
- Họ Tôn có biết ta chăng?
Ðại Thánh trợn cặp mắt lửa tròng vàng, gật đầu mà nói lớn:
- Làm sao mà không biết! Ngài ở Nam Hải núi Phổ Ðà, cả làn cả thương, cứu khổ cứu nạn, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Cám ơn lắm, cám ơn lắm! Tôi nằm đây coi một bữa bằng một năm, không ai ngó ngàng tới. Chẳng hay Bồ Tát đi đâu mà ghé đây? Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật, đi xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, đi ngang qua đây nên ghé mà thăm đó .
Ðại Thánh nói:
- Phật Như Lai nói gạt, đè tôi dưới núi nầy. Gần năm trăm năm, cựa mình không đặng. Xin Bồ Tát làm phước, cứu lão Tôn một phen .
Quan Âm nói:
- Ngươi làm tội đầy trời, nếu cứu ngươi ra, quen thói yêu càng không nên lắm .
Ðại Thánh nói:
- Tôi đã ăn năn chừa lỗi, xin ngài cứu độ, tôi chịu đi tu .
Quan Âm nghe nói quá đỗi mừng, mới nói với Ðại Thánh rằng:
- Ngươi muốn làm phải thì trời cũng độ cho, ngươi đã quyết tu hành, đợi ta xuống Ðại Ðường tìm một thầy thỉnh kinh, dặn ghé mà cứu, thì ngươi theo làm đệ tử, giữ phép Phật mà đi tới Tây Phương thỉnh kinh về, cũng thành chánh quả .
Ðại Thánh nói:
- Tôi chịu, tôi chịu .
Quan Âm nói:
- Ngươi dốc lòng tu niệm, ta đặt tên thánh cho .
Ðại Thánh nói:
- Tôi tên là Ngộ Không khỏi mất công đặt nữa .
Quan Âm nghe nói mừng rằng:
- Khi trước ta có độ hai người tu, cũng lót chữ Ngộ. Nay ngươi cũng lót chữ Ngộ nữa, trùng phái với nhau, tốt lắm, tốt lắm".
Nói rồi từ giã ra về.
Như Ðại Thánh là: Thấu tánh sáng lòng theo đạo Phật.
Còn Quan Âm thì: Ra công hết sức kiếm thầy Thần.
Quan Âm cùng Mộc Tra đi xuống Ðông Ðộ. Ngày kia đến đất Trường An là nước Ðại Ðường, hai thầy trò hiện hình ra hai thầy chùa ghẻ lát mà đi lộn với người và tới chợ Trường An, thì trời đã tối, mới đi ngay vào miễu Thổ Ðịa.
Ông Ðịa hết hồn, binh ma mất vía, biết là Phật Quan Âm giả dạng, ra làm lễ rước vào.
Thổ Ðịa đi báo với Thành Hoàng và thần các miễu, đều vào ra mắt mà rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội chúng tôi, vì sự rước trễ .
Quan Âm nói:
- Các ngươi đừng lậu tiếng, ta vâng sắc Phật Tổ, đi tìm kẻ thỉnh kinh, ta ngụ nhờ trong miễu ít ngày, đợi tìm đặng kẻ thỉnh kinh, ta sẽ từ giã.
Các thần ở đâu về đó, còn ông Ðịa dọn ra ở đở ngoài Thành Hoàng (Thành Hoàng bổn xứ là ông thần ở đình lớn trong tỉnh sở tại).
Còn hai thầy trò giả dạng, ở miễu Thổ Ðịa thường bữa đi dọ tin.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com