Chương 7: Linh hồn loài người
Cái mà tôi gọi là "cái tâm con người văn minh" (la conscience del'homme civilisé) không ngừng lìa xa những bản năng chính yếu. Nhưngnhững bản năng ấy không phải vì thế mà biến mất. Bản năng chỉ mất liên lạcvới ý thức cho nên nó phải tự xác định sự hiện hữu của nó một cách giántiếp. Nó có thể bộc lộ qua những triệu chứng sinh lý, trong trường hợp suynhược thần kinh, hay có thể bộc lộ qua những điệu bộ gắt gỏng không thể cắtnghĩa được, những lúc bất thần quên mất điều muốn nói, vật muốn tìm,những câu nói lỡ lời. Người ta vẫn thích cho rằng mình làm chủ được linhhồn của mình. Nhưng nếu còn không tự chủ được sự nóng giận và sự xúcđộng hay không biết rằng yếu tố phi ý thức vẫn có nhiều cách để xen vào dựđịnh của họ, thì hẳn là họ chưa làm chủ được mình. Chính những siêu tượngvẫn sống độc lập trong ta đã sinh ra những yếu tố phi ý thức ấy. Con ngườingày nay muốn giấu giếm sự chia sẻ bản năng với tâm thức bằng cách ngăncách hai thành phần đó. Những khía cạnh của cuộc sống bên ngoài xếp riêngra một ngăn, những khía cạnh của tính tình họ xếp riêng ngăn khác, khôngbao giờ để cho hai phần đó được đối chứng với nhau.
Để nêu ra một thí dụ về cái "tâm lý ngăn cách" ấy tôi xin kể chuyện sauđây: một người nghiện rượu dự vào một phong trào tôn giáo. Y được các tínđồ lôi cuốn nên quên được thói uống rượu. Người ta cho rằng y đã đượcChúa làm phép chữa khỏi thói nghiện ngập và giới thiệu y với công chúngnhư một bằng chứng của ân xưng Thượng đế, của sự hiệu lực của tổ chứctôn giáo. Nhưng sau vài tuần lễ công khai thú nhận như thế, sự mới lạ ấykhông còn gì hấp dẫn nữa, y lại nghĩ rằng uống lại một vài ly rượu mạnhcũng không có hại gì. Thế là y trở lại uống rượu. Nhưng lần này thì tổ chức"làm việc thiện" kết luận người này là một trường hợp "bệnh" và khôngthuận tiện để trời can thiệp. Rồi họ đưa anh chàng vào bệnh viện để thầythuốc làm được việc hơn thầy lang trên Thiên đình.
Đó là một cạnh khía của tâm hồn con người "trí thức" ngày nay đáng đểta suy ngẫm vì nó biểu lộ sự gián đoạn và sự xáo trộn tâm lý đến độ đáng longại.
Nếu chúng ta tạm coi nhân loại là một người, chúng ta sẽ thấy loài ngườinhư một người bị lôi cuốn bởi những mãnh lực ở ngoài tầm ý thức của họ.Loài người cũng vậy, loài người thích xếp một số vấn đề của họ vào nhữngngăn kéo riêng biệt. Đó chính là lý do làm ta phải hết sức thận trọng vớinhững việc ta đang làm, bởi vì ngày nay nhân loại đang bị đe dọa bởi nhữngsự nguy hiểm chính họ tạo ra mà càng ngày họ càng không kiểm soát được.
Có thể nói rằng thế giới của chúng ta bị ngăn cách như tâm thần mộtngười suy nhược thần kinh, bức màn sắt tượng trưng cho đường ranh. NgườiTây phương biết rõ cái "ý chí cương cường" ghê gớm của các nước theo xãhội chủ nghĩa nên buộc lòng phải dùng những phương pháp tự vệ rất kỳ dị.Nhưng đồng thời họ cũng tự khoe cái đức của mình, cái thiện ý của mình.Cái họ không nhìn thấy là những tật xấu của họ trên trường bang quốc tế,được họ đem giấu dưới cái mặt nạ nền nếp thanh nhã; phe cộng sản không nềhà gì ném trả vào mặt họ những cái xấu xa ấy. Tây phương vẫn tha thứ mộtcách kín đáo và hơi e thẹn cho sự dối trá nên trường ngoại giao, sự lừa đảocố ý, sự đe dọa có che đậy, ngày nay phe cộng sản công nhiên đem nhữngmón ấy đối xử với họ thật hậu hĩ, tạo ra cho ta những cái "nút" suy nhượcthần kinh. Đó là bộ mặt nhăn nhó của "cái bóng" xấu xa của mình mà ngườiTây phương trông thấy đang cau có ở bên kia bức màn sắt.
Tình trạng ấy giải thích được cảm tưởng bất lực đang hành hạ biết baongười trong xã hội Tây phương. Họ bắt đầu hiểu rằng những khó khăn củahọ nguyên do bởi những vấn đề nội tâm mà ra; đối phó lại bằng cách sảnxuất nhiều vũ khí nguyên tử hay thi đua kinh tế không có mấy hiệu lực, bởivì đó là những phương tiện giống như con dao hai lưỡi. Ngày nay, trongchúng ta có nhiều người hiểu rằng liều thuốc tinh thần sẽ có hiệu quả hơn vìnó có thể tạo ra tình trạng bất khả xâm phạm về tâm thần để tránh khỏi sựnhiễm độc mỗi ngày một trầm trọng thêm.
Tất cả những gì người ta đã làm đến ngày nay có rất ít kết quả, tình trạngsẽ như thế mãi mãi nếu ta không làm hơn để cố gắng hiểu rằng kẻ khác đãphản chiếu cạnh khía tối tăm sa đọa của bản chất ta. Nếu chúng ta có thểthấy rõ cạnh khía sa đọa tối tăm ấy chúng ta sẽ khỏi nhiễm độc tinh thần.Trong tình trạng ngày nay, chúng ta mở cửa cho sự nhiễm độc bởi vì thực rachúng ta cũng làm y như họ. Nhưng chúng ta còn thêm bất lợi vì khôngmuốn thấy, không muốn hiểu ý nghĩa bất chính của việc làm dưới bề ngoàilương thiện.
Thế giới cộng sản có một thần tượng vĩ đại (chúng ta gọi là ảo tưởng, vớihy vọng tiêu hủy được nó bằng khả năng suy xét cao minh của ta). Thầntượng đó là giấc mộng về một thời đại Hoàng kim (hay Thiên đàng), thầnthánh hóa bởi niềm hy vọng muôn thuở; ai nấy đều dư dật, một lãnh tụ caominh và công bằng ngự trị trên một bầy con nít. Siêu tượng mãnh liệt ấy ámảnh thế giới cộng sản dưới hình thức ngây ngô nhất, nhưng nó không thể tiêutan được nếu chúng ta còn đem lập trường cao minh của chúng ta ra chốngđối họ. Chúng ta cũng vậy, cái ngây ngô của chúng ta thuận lợi cho họ, bởivì văn minh Tây phương cũng bị chi phối bởi hình thức khác của thần thoạiấy. Chúng ta cũng có những thành kiến, những hy vọng, những đợi chờ nhưthế mà ta không ngờ. Chúng ta cũng tin tưởng Quốc gia Thiên hựu, hòa bìnhthế giới, sự bình đẳng cho mọi người, những quyền lợi vĩnh cửu, sự côngbằng, chân lý và Thiên đàng ở Trần gian.
Sự thật đáng buồn là đời sống thực tế của người đời là một tập hợp nhữngmâu thuẫn: ngày và đêm, sinh và tử, sướng và khổ, thiện và ác.
Chúng ta cũng không biết chắc có khi nào một yếu tố thắng được yếu tốtương nghịch với nó, thiện thắng ác, vui sướng thắng buồn khổ: Cuộc đời làmột bãi chiến trường. Ngày xưa đã thế, ngày nay cũng vẫn thế. Nếu khôngnhư thế thì cuộc đời ngưng lại.
Chính vì sự xung đột trong nội tâm con người mà những người Công giáotrước hết ước mong chóng diệt thế, người Phật giáo muốn diệt dục, diệt hếtmọi tưởng vọng thế phàm. Những câu trả lời chính yếu như vậy chỉ là mộtcách tự vẫn nếu không kèm theo những tư tưởng và hành động đạo đức, nếukhông kèm theo tinh thần riêng biệt tượng trưng cho thực chất của hai tôngiáo ấy để cải biến phần nào thái độ hoàn toàn từ khước cuộc sống.
Tôi xin nhấn mạnh điểm này vì ở thời đại chúng ta, hàng triệu ngườikhông tin tưởng một tôn giáo nào cả. Họ cũng không hiểu tôn giáo của họ.Nếu mọi việc đều trôi chảy không cần tôn giáo, họ không thấy ảnh hưởng gìnhưng gặp sự đau khổ bấy giờ mới sinh tai biến. Người ta bắt đầu tìm mộtlối thoát, suy ngẫm về ý nghĩa cuộc đời, về những kinh nghiệm đau thươngđã từng trải qua.
Theo kinh nghiệm của tôi, tôi thấy khách hàng của một y sĩ phân tâm họcthường thường là người Do Thái và người Tân giáo nhiều hơn người Cônggiáo. Sự kiện đó rất ý nghĩa. Dĩ nhiên phải như vậy vì Giáo hội Công giáovẫn còn chú trọng đến cura animarum, (chăm sóc linh hồn). Nhưng ở thờiđại khoa học này có khi người ta còn hỏi ông thầy những câu ngày trướcthuộc thẩm quyền của các nhà thần học. Người ta có cảm tưởng rằng cuộcđời sẽ khác hẳn nếu họ có thể tin tưởng thực sự là cuộc đời có một ý nghĩatin tưởng Thượng đế và đời sống vĩnh viễn cho kiếp sau. Quái tượng hãihùng về cái chết gần kề thường gợi ra những tư tưởng như thế. Từ thuở bansơ người ta đã biết luận về một Đấng Tối cao (một hay nhiều) và một thếgiới bên kia. Chỉ có ngày nay người ta mới tưởng rằng mình có thể tự miễnnhững ý tưởng ấy.
Người ta cho rằng những ý tưởng ấy không đúng chỉ vì chúng ta khôngthể tìm thấy ngai vàng Thượng đế bằng một cái vô tuyến viễn kính hay biếtchắc rằng cha mẹ thân yêu của mình còn sống ở thế giới bên kia. Tôi thì tôicho rằng những ý tưởng đó không đủ xác thực, bởi vì nó thuộc về những tintưởng của loài người từ thời tiền sử và tái hiện trong tâm tưởng ta chỉ nhânmột kích động nhỏ.
Con người ngày nay có thể xác định là mình không cần những sự kiện đóvà viện lẽ rằng không có bằng chứng khoa học. Vào lúc khác họ lại phàn nànrằng mình mất tin tưởng: Thượng đế ở trên khả năng hiểu biết của conngười, không có gì minh chứng sự sống bất diệt ở thế giới bên kia; đã là sựkiện bất khả tri giác, bất khả tri luận thì việc gì mà bận tâm tìm bằng chứng?Dù rằng với lý trí ta không nhận thấy đồ ăn của ta cần muối làm đồ ăn. Mặcdù người ta cãi rằng dùng muối chỉ là thói quen ăn thấy ngon miệng hay chỉlà một sự tin tưởng hão huyền, nhưng muối vẫn giúp cho chúng ta được khỏemạnh. Tại sao chúng ta lại cấm đoán những tin tưởng nâng đỡ chúng ta trongnhững lúc tâm thần khủng hoảng và đem lại ý nghĩa cho đời sống? Và ta căncứ vào đâu mà bảo rằng những tin tưởng ấy không đúng? Chắc có nhiềungười tán thưởng tôi nếu tôi không nghĩ đến lời tuyên bố không chút ngầnngại rằng những ý tưởng ấy chỉ là những ảo tưởng. Điều mà họ không nghĩđến là lời tuyên bố như thế cũng không thể chứng minh được như lời tuyênbố trái ngược hẳn. Chúng ta hoàn toàn tự do để lựa chọn quan điểm củamình: dù sao thì sự quyết định của ta cũng võ đoán.
Tuy nhiên, có một lý do chỉ căn cứ vào kinh nghiệm nhưng rất quan trọngkhiến cho chúng ta chấp nhận những ý tưởng không thể chứng minh được.Đó là phương diện hữu ích của những ý tưởng ấy, con người cần có những ýniệm đại quát và những tin tưởng để thấy cuộc đời có ý nghĩa và để tìm chỗđứng trong vũ trụ. Họ có thể chịu đựng cuộc thử thách kinh khủng nếu họnghĩ rằng việc làm của họ có ý nghĩa. Nhưng họ ngã lòng nếu đã đau khổ lạicòn nghe theo lời nói của một thằng xuẩn ngốc.
Vai trò của biểu tượng tôn giáo là đem lại ý nghĩa cho kiếp sống. NgườiDa đỏ Pueblos tưởng mình là con Mặt trời, sự tin tưởng ấy đem lại cho đờisống họ một chiều hướng (và một mục đích) vượt lên trên cuộc sống hữu hạnrất xa. Cá nhân họ tìm được chỗ nảy nở và họ có thể đạt tới mức độ sungmãn đời sống của con người văn minh chúng ta, những con người mà đờisống không có ý nghĩa tâm linh, biết rằng mình không bằng con số không(và sẽ còn như thế).
Chính vì con người cảm thấy đời sống của mình có ý nghĩa rộng hơn sựsinh hoạt hằng ngày cho nên họ có thể vượt lên trên cuộc sinh hoạt, biếnmình thành cái máy kiếm tiền và tiêu tiền. Nếu cảm giác ấy khiến họ khiếmkhuyết, họ sẽ thấy mình khổ sở, đọa lạc. Nếu Thánh Paul tin chắc mình chỉlà anh thợ dệt rong không có gì hơn, hẳn là ông không thể có địa vị như thế.Đời sống chân thực của ông, đời sống có ý nghĩa của ông đặt trên sự tintưởng mình là thông sứ của Đấng Tối Cao. Người ta có thể cho ông là tự caotự đại, nhưng điều ấy có giá trị gì trước Lịch sử và sự phê phán của thế hệsau. Thần tượng ngự trị trên đời ông đã làm cho ông có cái gì hơn một ngườithợ dệt nhiều.
Tuy nhiên một thần tượng xây dựng trên những biểu tượng như thế khôngphải do tâm thức người ta tạo ra. Nó xảy ra cũng như một biến cố. Khôngphải con người Jesus tạo ra huyền tượng người-trời. Huyền tượng ấy có từtrước khi ngài sinh ra hàng mấy thế kỷ. Chính ngài đã bị huyền tượng ấychiếm cứ, như Thánh Marc từng nói với chúng ta, nó đưa ngài lên trên cuộcsống co hẹp của một người thợ dệt ở Nazareth.
Huyền tượng có nguồn gốc xa xôi, từ thuở có những người thái cổ biết kểchuyện, họ kể lại giấc mơ của họ và trí tưởng tượng của họ có mãnh lực gâyxúc động sâu xa cho người nghe. Những người kể chuyện ấy không khác nàonhững người sau này người ta gọi là thi sĩ hay triết gia. Người kể chuyệnthời thái cổ không tìm hiểu nguồn gốc truyện tưởng tượng của mình. Mãi vềsau này người ta mới bắt đầu tự hỏi truyện kể đã bắt nguồn từ đâu. Nhưngtrong cái xứ mà bây giờ chúng ta gọi là Cổ Hy Lạp, đã có những khối óc kháthông minh để cho rằng những truyện thiên thần chỉ là một cách phóng đạiđời sống thực sự của vua chúa và lãnh tụ đã chết chôn dưới đất và truyền lạitheo một tục lệ còn cổ sơ. Ở thời ấy người ta đã hiểu rằng huyền tượng xa sựthực quá, không thể hiểu theo ý nghĩa bề ngoài. Họ bèn có ý diễn lại thànhhình thức khả dĩ hơn để cho mọi người đều hiểu được. Đến một thời kỳ gầnđây chúng ta lại thấy người ta làm như vậy đối với những biểu tượng củagiấc mơ. Bấy giờ khoa tâm lý học đang còn ở thời kỳ phôi thai, nhưng ngườita đã nhận thấy giấc mơ có tầm quan trọng. Nhưng cũng như người Hy Lạpđã tin rằng huyền tượng của họ chỉ là sự bóp méo lịch sử (quan trọng mộtcách "bình thường", hợp lý), một vài người đi tiên phong về tâm lý học đãkết luận rằng ý nghĩa của giấc mơ không phải ý nghĩa bền ngoài nó cho tathấy. Hình ảnh và biểu tượng trong giấc mơ chỉ được coi là những hình thứckỳ dị của tâm tình dồn nén hiện ra trong tâm thức. Vậy là người ta nhất địnhcho rằng giấc mơ có ý nghĩa khác hẳn nội dung bề ngoài của nó.
Tôi đã nói ở trên rằng tôi phải gạt bỏ ý kiến ấy và tôi trở lại nghiên cứu cảhình thức lẫn nội dung của giấc mơ. Tại sao giấc mơ lại phải có ý nghĩa gìkhác các nội dung của nó? Trong thiên nhiên có cái gì lại không phải làchính nó chăng? Giấc mơ là một hiện tượng bình thường và tự nhiên. SáchTalmud (1) còn nói rằng: "Giấc mơ chính là sự giải thích của nó." Sở dĩ cósự lẫn lộn vì nội dung của giấc mơ chỉ là những biểu tượng, như vậy có rấtnhiều nghĩa. Nhưng biểu tượng chỉ dẫn cho ta những ngõ ngách khác hẳnnhững ngõ ngách của tâm thức vẫn thường dùng, nó bảo ta phải chú trọngvào những gì thuộc về tiềm thức của ta hay ta không ý thức được hẳn.
Đối với người có óc khoa học, những hiện tượng như ý nghĩa biểu tượnglàm vướng víu vì họ không thể trình bày chúng sao cho thỏa mãm lý trí và lýluận của ta được. Nhưng chúng không phải là vấn đề duy nhất của nhà tâmlý học. Sự khó khăn đã bắt đầu có từ những hiện tượng xúc động mà nhà tâmlý học không thể cố gắng cách nào để định nghĩa dứt khoát. Trong cả haitrường hợp trên đây thì nguồn gốc sự khó khăn đều là sự tham gia của tiềmthức.
Tôi biết rõ quan điểm của người có óc khoa học nên tôi hiểu rằng thật làkhổ tâm khi phải khảo sát những điều mình không nắm chắc được hay khôngý niệm được hẳn hoi. Trong trường hợp này, người ta bực mình vì sự việcrành rành ra đó mà không thể trình bày cho ra vẻ "trí thức". Muốn trình bày,phải hiểu rõ đời sống con người, vì đời sống tạo ra những xúc động vànhững biểu tượng.
Nhà tâm lý học cổ điển được tự do để từ chối không kể đến hiện tượngxúc động hay ý niệm về tiềm thức. Tuy thế nhưng vẫn có những điều màthầy thuốc trị bệnh bắt buộc mình phải chú ý đến. Bởi vì những xung đột tâmtính và sự can thiệp của tiềm thức là những sự kiện họ luôn luôn phải kể đếntrong sự tìm tòi khoa học. Khi chữa cho một người bệnh, họ gặp những hiệntượng phi lý như thế, nó không chịu để cho người ta phân tích, nó không đểý đến khả năng của người ta có thể trình bày cho có nghĩa lý hay không. Nhưvậy ta không lạ gì rằng những người không có chút kinh nghiệm trị bệnh nàokhó lòng mà hiểu được chút gì khi tâm lý học liên hệ trực tiếp đến nhữngviệc phiền toái của cuộc sống thực sự. Tập bắn bia không có gì đáng ví vớicuộc pháo kích nơi chiến trường; thầy thuốc phải đối phó với những tai họacủa cuộc chiến tranh thực sự. Ông phải đối phó với những sự thực tâm thầndù rằng ông không thể nhập chúng vào một định nghĩa khoa học. Bởi vậycho nên không có giáo trình nào có thể dạy cho ta tâm lý học. Người ta chỉcó thể dạy nó cho ta bằng kinh nghiệm cụ thể. Chúng ta có thể hiểu rõ điềuđó khi suy xét một vài biểu tượng rất quen thuộc.
Thí dụ biểu tượng thập tự của Ky Tô giáo có rất nhiều ý nghĩa, nhiều khíacạnh gợi lên nhiều cảm xúc; nhưng một thập tự ở sau một tên người chỉ cónghĩa là người ấy đã chết. Cái dương vật là một biểu tượng phổ biến trongtôn giáo Ấn Độ, nhưng một đứa trẻ vẽ nó lên tường, thì đó chỉ là nó chú ýđến bộ phận sinh dục của nó. Những ám ảnh lúc tuổi thơ và lúc thiếu thờithường vẫn còn ám ảnh mãi người ta khi lớn tuổi, vì vậy nhiều giấc mơđương nhiên ám chỉ tình dục. Nếu không hiểu như thế thì thật là phi lý.Nhưng khi một người thợ điện nói đến cắm phích điện (tượng trưng cho bộphận sinh dục đực) vào lỗ cung cấp điện (tượng trưng cho bộ sinh dục cái) takhông thể điên rồ mà bảo rằng người ấy hành động dưới sự ám ảnh lúc thiếuthời. Anh ta chỉ dùng những danh từ nghề nghiệp một cách lý thú, ý vị màthôi. Khi một người Ấn Độ có tri thức nói đến Lingam(dương vật tượngtrưng cho thần Siva trong thần thoại Ấn Độ) chúng ta hiểu rằng họ gợi đếnnhững điều mà chúng ta không bao giờ thấy ăn nhập gì với cái dương vật.Cái Lingam hẳn là không phải một ngụ ý bỉ ổi, cũng như chữ thập khôngphải chỉ là dấu hiệu chỉ một người đã chết. Tùy theo trình độ hiểu biết củangười nằm mơ mà hình ảnh như thế có ý nghĩa khác nhau.
Sự giải thích các giấc mơ và các biểu trưng đòi hỏi phải có trí tuệ. Takhông thể biến đổi sự giải thích ấy thành hệ thống máy móc để sau đó có thểnhồi nhét vào đầu những cá nhân thiếu trí tưởng tượng. Sự giải thích ấy vừađòi hỏi một sự hiểu biết tăng dần về cá tính của người nằm mơ, và, để giảithích cá tính ấy, vừa cần tăng cường một ý thức về cá tính riêng của chínhngười giải thích. Không một thầy thuốc từng trải nào lại nghi ngờ rằng cónhững quy tắc dựa vào kinh nghiệm có thể tỏ ra đắc dụng, và đồng thời phảiáp dụng chúng với sự thận trọng và trí tuệ. Ta có thể tuân theo tất cả cácquy tắc đúng theo lý thuyết, tuy nhiên ta có thể bị sa lầy vào những sự phi lýkinh hoàng nhất, đơn giản vì đã bỏ qua một chi tiết tưởng là vô nghĩa trongkhi một trí tuệ nhay bén hơn sẽ nắm bắt được tầm quan trọng của nó.Thường thì ngay đến một con người rất thông minh cũng có thể bị lầm lạctrầm trọng bởi sự thiếu trực giác hoặc tính nhạy cảm.
Mỗi khi tìm cách hiểu những biểu trưng thì lúc nào ta cũng phải làm việckhông chỉ với bản thân biểu trưng, mà còn với toàn thể con người đã sảnsinh ra những biểu trưng ấy. Điều đó bao hàm rằng ta khám phá thế giớivăn hóa của người ấy, và khi làm như thế, ta lấp thật đầy những lỗ hổngtrong sự giáo dục của chính ta. Tôi đã tạo ra một quy tắc là: xem mỗi trườnghợp như một vấn đề không có tiền lệ mà tôi hoàn toàn không biết gì về nó cả.Thói quen có thể tiện lợi và hữu dụng chừng nào ta còn dừng lại ở bề mặtcủa sự vật, nhưng ngay khi ta đụng tới những vấn đề quan trọng thì chínhcuộc sống lại dẫn trò, còn những tiền giả định bóng bẩy mang tính lý thuyếtthì chỉ là những ngôn từ vô hiệu.
Trí tưởng tượng và trực cảm là cần thiết cho khả năng lĩnh hội của chúngta. Mặc dù theo ý kiến thông thường, chúng chủ yếu quý giá đối với thi sĩ vànghệ sĩ (còn trong những công việc dựa trên lý tính thì không nên quá tinvào chúng), nhưng những phẩm chất ấy, trong thực tế, cũng rất cần thiết chonhững cấp độ cao siêu của khoa học. Ở đó, chúng giữ vai trò ngày càngquan trọng bổ sung cho vai trò của trí tuệ "thuộc lý tính" và của việc ứngdụng trí tuệ vào một vấn đề đặc thù. Ngay cả môn vật lý, khoa học chính xácnhất trong những khoa học ứng dụng, cũng phụ thuộc vào một điểm bất ngờcủa trực giác vốn được cái vô thức khởi động (mặc dù sau đó, có thể việckhôi phục tiến trình logic cũng dẫn đến cùng một kết quả giống như trựcgiác).
Trực giác gần như là cốt yếu trong việc cắt nghĩa những biểu trưng và,nhờ nó ta thường có thể đạt tới chỗ hiểu ngay lập tức về người nằm mơ.Nhưng nếu thần cảm tốt lành ấy có thể có sức thuyết phục một cách chủquan, thì nó cũng có thể là nguy hiểm. Nó dễ có nguy cơ dẫn tới một cảmgiác yên tâm đầy ảo tưởng. Chẳng hạn, nó có thể xui khiến nhà phân tích vàngười nằm mơ kéo dài tiến trình dễ chịu và dễ dàng của những mối liên hệgiữa họ cho đến khi nhấn chìm cả người này lẫn người kia vào một cơn mơtập thể. Cơ sở chắc chắn của một hiểu biết trí tuệ thực sự và một sự lĩnh hộiđích thực về tinh thần sẽ mất đi nếu ta bằng lòng với sự thỏa mãn mơ hồrằng ta đã hiểu "thần cảm". Ta chỉ có thể giải thích và nhận biết một khi tađã quy những trực giác thành một sự hiểu biết chính xác về những sự kiện vàvề những mối liên hệ logic của chúng.
Một nhà nghiên cứu lương thiện công nhận rằng một sự quy giản như vậykhông phải lúc nào cũng làm được, nhưng sẽ là không lương thiện nếukhông luôn luôn bảo vệ sự cần thiết lý trí. Ngay cả một nhà bác học thì cũnglà một con người. Vậy nên tất nhiên là, như bao nhiêu người khác, ông takhông ưa cái mà ông ta không thể giải thích được. Sẽ là một ảo tưởng chungkhi tin rằng điều chúng ta nhận biết được hôm nay nói lên tất cả những gì taắt có thể nhận biết được vào một lúc nào đó. Chẳng có gì dễ bị tổn thươnghơn một lý thuyết khoa học, bởi vì nó chỉ là một nỗ lực nhất thời nhằm giảithích những sự kiện, chứ không phải là một chân lý vĩnh cửu tự thân.
(1) Chép kinh điển của người Do Thái
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com