Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 5.2: Lên đường (2)

Sau buổi chia tay, On Yu tiến thẳng về phía khu giao thương nơi có bãi tập kết xe ngựa.

Dưới ánh nắng trưa, mùi mồ hôi, rơm khô và gỗ cũ bốc lên nồng nặc. Hàng dãy xe ngựa xếp thành hàng dài, người người chen chúc xung quanh, người gánh hàng, người đàm phán, người nghỉ chân đợi chuyến.

Một người đàn ông thấp tịt, đầu hói, mặc áo choàng nâu sẫm ngắn tay, bụng phệ, mặt đỏ au vì rượu – người môi giới – đứng gần bảng gỗ ghi lịch xe. Gặp ánh mắt dò hỏi của On Yu, hắn bước tới.

"Lên Alynis à? Một chuyến trong ngày còn kịp. Có xe ngựa thường dân trống, 6 chỗ, không sang nhưng chắc chắn tới nơi, trễ nhất là tối muộn. Hai mươi đồng xu, không bao ăn, bốn chặng dừng, ba điểm kiểm soát, bao đi thẳng, không lòng vòng."

On Yu gật đầu, trao tiền, nhận về mảnh thẻ gỗ có khắc số "12". Người môi giới chỉ tay về chiếc xe ngựa xếp gần cuối, vỏ gỗ trầy xước, bánh xe bám đầy bùn khô. "Đấy, số mười hai. Lên đi, sắp khởi hành rồi."

Chiếc xe ngựa gỗ cũ thô sơ ộp ẹp được phủ tấm bạt trắng sờn, có một chú ngựa đực lông nâu buộc trước xe, gặm rơm lười nhác. Người đánh xe là một ông lão râu xám, miệng ngậm ống tẩu bằng gỗ đen.

Bên trong xe là khoang hẹp với hai dãy ghế gỗ chạy dọc hai bên, giữa để trống, đủ cho 6 người ngồi. Trên nóc có ràng thêm mấy thùng rượu buộc dây thừng chằng chịt.

On Yu leo lên xe, cẩn thận nhấc vạt áo choàng. Cậu ngồi vào sát góc trái, vừa vặn che bớt ánh sáng gắt chiếu từ bạt trắng. Trên người cậu lúc này là bộ quần áo đơn giản mà ông Geniss từng đưa cho – sạch sẽ, gọn gàng, và có phần hơi lớn so với dáng người gầy, chiều cao " hơi có hạn" của cậu. Bên ngoài cậu khoác một chiếc áo choàng cũ nhưng không quá rách nát như lúc ban đầu. Trông cậu lúc này giống một người dân bình thường đang tìm đường mưu sinh hơn là một kẻ lang thang vô định. Chỉ có chiếc mũ trùm lớn kéo thấp từ áo choàng che đi phần lớn đường nét gương mặt sắc sảo, để lộ vài lọn tóc đen đã dài hơn chút so với hồi mới đến, chúng buông xuống trán – thứ duy nhất vẫn giữ lại nét tự do hoang dại của cậu.

Bên hông cậu, giấu sau lớp áo choàng là túi vải sờn to đùng. Bên trong không có gì đáng giá – chỉ vài ổ bánh mì do ông Geniss dúi vào trước lúc chia tay, chút tiền lộ phí còn sót lại, và một mớ đồ lặt vặt chẳng ai buồn ngó đến, được cậu gom góp từ góc khuất phủ bụi của tiệm tạp hóa nhà bà Abel.

Trong hơn một tháng nay, On Yu đã liên tục thí nghiệm và cải tiến chúng không ngừng, từ những món đồ cũ nát chẳng ai buồn để tâm như vỏ đèn dầu cũ, lõi dây đồng từ đồng hồ quả lắc hỏng, gương lõm cháy nắng, vài mảnh thủy tinh vỡ, hay ống kim loại rỗng từ cần câu gãy, qua tay On Yu, cậu biến chúng thành: một đèn tay dạng phản xạ nhiệt, dùng nến sáp và tấm gương lõm để khuếch đại ánh sáng – tiện lợi hơn nhiều so với đuốc hay đèn dầu truyền thống. Có cả một thiết bị phát tín hiệu ánh sáng đơn giản: chỉ là bộ vỏ kim loại mỏng, gắn chốt xoay và thấu kính vỡ, tạo ra ánh chớp đều đặn khi quay tay – dùng để ra hiệu khi cần thiết trong bóng tối. Một dụng cụ sưởi tay tự chế từ lõi than nhỏ và tấm dẫn nhiệt, có thể giữ ấm trong nhiều giờ khi trời trở lạnh. Ngoài ra còn có một bộ lọc nước thô cỡ nhỏ, sử dụng sỏi nung, than hoạt tính và vỏ vải lọc, đủ để giúp cậu yên tâm uống nước dọc đường mà không sợ đau bụng.

Với On Yu, đó là thành quả của một tháng lặng lẽ sống giữa hai thế giới, mang theo trí nhớ về nền văn minh cũ, và cố gắng đúc lại từng mảnh một trong lòng một thế giới mới chưa từng biết đến điện hay tín hiệu.

Lúc On Yu lên, trong xe đã có năm người khác.

Một người phụ nữ trẻ đang mang thai, mái tóc đen tết đơn giản, gương mặt hiền hậu. Cô dắt theo một bé gái tầm bảy tuổi – nhút nhát, ánh mắt to tròn đen láy, mái tóc suôn dài y hệt mẹ. Cô bé rụt rè nép vào tay mẹ khi ngồi xuống.

Một người đàn ông vạm vỡ, khoác áo da thú, mặt mũi rắn rỏi, vài vết sẹo trên cổ. Gương mặt nghiêm nghị nhưng không lạnh lùng, tự xưng là Arwin – từng làm lính đánh thuê.

Một gã béo tròn, mặt đỏ ửng, mặc áo ghi-lê vải thô bó sát bụng phệ, giọng oang oang:

"Ha ha! Chuyến đi tốt lành! Ta là Marrin, từng là đầu bếp trong quân đội, sau bị sa thải vì... ăn vụng đồ cấp trên! Giờ lên Alynis tìm vận may! Mọi người biết không, ta còn có họ nữa đấy – Marrin Hush!"

"'Hush' mà nói như búa bổ..." – On Yu thầm nghĩ, mỉm cười.

Người cuối cùng là một thanh niên cao gầy, tóc xanh lá đậm, đeo kính gọng bạc, ăn vận chỉn chu trong bộ áo dài tay thêu viền sẫm. Tay cầm quyển sách dày, bên người là túi vải nâu lớn.

"Chào mọi người, tôi là Velion Kert, đến từ nhà thờ nhỏ ở phía đông. Tôi lên Alynis dự kỳ thi công chức học viện. Mong được đồng hành thuận lợi."

Từng người giới thiệu, không khí ấm dần lên. Khi đến lượt mình, On Yu giới thiệu: "Tôi là Rion Veyne. Lên trung tâm tìm việc làm. Mong mọi người giúp đỡ."

Chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Gỗ kêu lạch cạch mỗi khi đi qua đoạn đường gồ ghề. Gió trưa len qua khe bạt khiến khoang xe mát dịu.

Thi thoảng, On Yu vén bạt vải ngó đầu ra. Khung cảnh dần thay đổi – từ khu nhà gạch xám rêu phong sang ruộng đồng thoáng đãng, rồi những cánh rừng rì rào trong nắng.

Dọc đường, mọi người trò chuyện thân mật. Gã béo nọ thì kể lể đủ mọi thứ về các câu chuyện trên trời dưới dất, về các khu chợ lớn, các món ăn nổi tiếng, các tin đồn về quý tộc và học viện Raventhal. Hắn thao thao bất tuyệt: nào là chuyện từng nấu cháo gà bị thiếu muối, nào là bị quý tộc đuổi khỏi bếp vì "lỡ ăn hai miếng cá muối hiếm". Không ai hỏi, nhưng ai cũng nghe. Cậu cũng hỏi thăm đôi chút, cười nói với mọi người.

Velion ngồi đối diện, đầu hơi cúi, mắt đọc sách nhưng tai vẫn thi thoảng liếc về phía Marrin, đôi lúc khẽ nhếch môi như nhịn cười.

Arwin thì cứ nhìn ra ngoài, mắt không mấy chớp, cứ như đang đánh giá địa hình, trong khi người phụ nữ nhẹ nhàng vỗ về con gái đang ngủ gục bên vai.

On Yu chia cho cô bé ổ bánh mì dù đã nguội nhưng vẫn còn thơm, mềm . Cô bé nhận, lí nhí cảm ơn.

" Chúng tôi muốn lên Alynis để tìm cha con bé." người phụ nữ mỉm cười, giọng nhỏ nhẹ, " Anh ấy làm việc ở đó từ hơn một năm rồi... Đây là lần đầu hai mẹ con đi xa như vậy. Hy vọng mọi chuyện sẽ tốt đẹp."

On Yu gật đầu, đáp lời động viên.

Ba lần xe dừng lại vì kiểm tra thông hành. Lần đầu, lính chỉ nhìn qua cửa, đếm đầu người.

Lần hai, có lính vào lật thùng rượu, nhấc vải che, xem xét các thẻ chuyến của hành khách. Nhưng chúng cũng chỉ làm qua loa cho có lệ.

Lần ba, chỉ cần giơ thẻ gỗ là được cho qua.

Đúng như ông Geniss nói – đi cùng đoàn khách thường dân dễ qua mặt hơn nhiều. Cả ba lần đều trót lọt, kiểm tra chỉ mang tính hình thức. Nếu đi một mình, chắc chắn cậu đã không xuôi chèo mát mái như thế. On Yu mừng thầm trong lòng.

Chiều ngả dần về tây, ánh sáng qua tán cây thành từng vệt dài.

Lúc tối muộn, đoàn xe chầm chậm rẽ vào một con đường lát đá bằng phẳng – dấu hiệu của khu trung tâm đang đến gần. Tường thành xa xa thấp thoáng hiện ra, sừng sững hùng vĩ giữa sắc trời đã vào đêm.

Alynis – trái tim của đế quốc – đang rộng mở trước mắt cậu.

Một cảm xúc mới lạ đang nhen nhóm trong lòng.

Sau khi lão phu xe nói chuyện xong với đám lính canh ở 2 bên cổng thành, dúi vào tay chúng 1 số thứ gì đó, xe ngựa lăn bánh tiến vào chính giữa cổng.

On Yu và đoàn khách đi cùng cậu đã vào tới quận Alynis.

Những ánh sáng lờ mờ từ các cột đèn dầu treo cao nơi góc phố nhuộm lên bức màn đen sẫm của đêm màu tím than buông một vẻ cổ kính mơ hồ. On Yu là người đầu tiên nhảy xuống từ xe. Ánh đèn lồng từ quán trọ ven đường rọi xuống, vẽ một cái bóng dài của cậu trên nền đất. Cậu khẽ cúi đầu chào từ biệt những hành khách còn lại, rồi bước tới thanh toán nốt số tiền còn thiếu cho người đánh xe. Gã phu xe nhận lấy từng đồng bạc cũ kỹ bằng một nụ cười nửa miệng, đoạn vung roi, đánh xe rẽ ngoặt vào bóng đêm phía sau.

Lần đầu tiên đặt chân đến quận Alynis – trung tâm chính của thủ đô hoa lệ Dazelra, On Yu không khỏi choáng ngợp.

Phồn hoa. Đó là từ đầu tiên vụt lên trong đầu cậu.

Tất nhiên, nó không thể so sánh với Seoul hiện đại – nơi ánh đèn LED sáng choang, đủ màu sắc hay các đại lộ chói lóa– nhưng sau hơn một tháng sống trong cảnh nghèo khó ở quận ngoại ô Perbut, nơi những ngõ tối bùn đất và tiếng rên xiết của bụng đói là chuyện thường ngày, thì cảnh tượng trước mắt cậu lúc này thực sự là một thế giới khác.

Alynis rực rỡ ngay cả trong đêm. Phồn hoa hơn bất cứ nơi nào của Perbut.

Những tòa nhà hai tầng lợp ngói xám phủ dây thường xuân ngả bóng dưới ánh đèn mờ, khung cửa sổ kính màu nhuốm sắc đỏ cam bởi ánh sáng từ bên trong. Các cửa hiệu quần áo, tiệm may, quán ăn, hiệu sách và nhà hàng sang trọng trải dài hai bên đại lộ chính, chiếm gần như mọi khoảng trống.

Dù đã tối muộn, người qua lại vẫn còn khá đông: các thương nhân quấn khăn thêu vàng, quý tộc mặc áo choàng viền chỉ bạc, người dân tấp nập ngược xuôi. Trên mặt đường lát đá trắng bóng loáng, những cỗ xe ngựa đóng huy hiệu gia tộc quý tộc, hoặc xe thồ của thương nhân vẫn qua lại không ngừng, tạo nên âm thanh đặc trưng của bánh gỗ lăn nghiến lên nền đá. Chúng đều tỏa ra vẻ hào nhoáng.

Không giống như Perbut – quận ngoại ô tạm bợ – nơi đây hầu như không có những con hẻm hôi thối, những mái nhà xập xệ hay cảnh trẻ con lấm lem bán rong, mà thay vào đó là những hàng tiệm trưng biển hiệu sáng bóng, nhà hàng ấm cúng bày đèn lồng đỏ treo cao, tiệm may bày ra cả hàng ma-nơ-canh với áo đầm lụa xếp tầng.

Người dân nơi đây ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, giày da đánh bóng, áo choàng nhung, váy xếp tầng, áo sơ mi cài cổ, mũ lông, tay đeo bao tay lụa hoặc dây đeo ngọc mảnh đều toát lên vẻ khá giả. Phụ nữ trang điểm nhẹ, tóc búi cao gọn gàng, thỉnh thoảng có người dùng cả quạt giấy trang trí hoa văn. Thậm chí cả đám trẻ con đang chạy chơi ở ven đường cũng được mặc đồ bông thêu tay, khác xa với những mảnh vải vá chằng vá đụp mà On Yu từng thấy ở Perbut.

Những chiếc đèn dầu treo cao trước các nhà dân và hàng quán, đung đưa nhẹ trong gió đêm, kết hợp với những chùm đèn thủy tinh được chiếu từ trên ban công rọi xuống, tạo thành thứ ánh sáng vàng ấm êm dịu mà ấm cúng rọi sáng cả con phố bằng. Mùi bánh mì mới nướng, mùi thịt hầm và hương thảo dược thoảng từ những quán ăn xung quanh khiến bụng cậu réo lên lần nữa.

On Yu cảm thấy mình như lạc giữa một vùng đất ánh sáng, ánh đèn, âm thanh, mùi hương – tất cả như muốn nhấn chìm cậu trong một thế giới trật tự, ấm áp và thanh bình, khác biệt đến ngỡ ngàng so với thế giới ẩm thấp, nghèo khó nhưng đầy tình người ở Perbut. Cậu không thể không so sánh, cùng là thủ đô Dazelra, mà sự chênh lệch về giàu nghèo, cơ sở vật chất, chất lượng sống, thậm chí không khí đều như đến từ hai thế giới khác nhau. Dù cậu biết rõ: phía sau những bức tường kia, tầng tầng địa vị xã hội vẫn chia rẽ thế giới này bằng một đường ranh sắt đá.

On Yu lặng lẽ rút ra những đồng tiền lẻ cuối cùng trong túi – một số đồng bạc nhỏ còn lại sau khi trả tiền xe ngựa. Cắn răng, cậu bước vào một tiệm bánh nằm khuất trong góc hẻm sáng đèn, nơi mùi bơ và bột nướng thơm lan tỏa ra tận phố. Một ổ bánh nhỏ xíu – có nhân quả khô và phủ một lớp mật ong – được gói trong giấy dầu, bày trong tủ gỗ sạch sẽ. Giá của nó cao gấp ba, bốn lần so với cùng loại ở quận Perbut. Thứ hương thơm ngậy bơ và vỏ bánh giòn rụm đó khiến dạ dày cậu cồn cào như muốn lật tung lên.

Và với một người sống chắt chiu suốt hơn một tháng nay bằng bánh khô, súp loãng và rau củ dập nát thừa từ chợ, món bánh này gần như là một xa xỉ phẩm.

Cậu tìm một góc khuất giữa hai tòa nhà gạch cao, nép mình bên bậc thềm đá bên ngoài bức tường gạch phủ rêu cũ kỹ dẫn xuống kho hàng của một quán ăn cũ trông như đã không dùng đến từ lâu, nơi ánh đèn lồng từ xa vẫn rọi được vài vệt sáng mờ.

Gió từ con đường chính thổi qua, mát lạnh nhưng không mang theo cái mùi hôi nồng của rác mục hay tiếng cãi vã lẫn la hét thường trực ở khu ổ chuột. Ở đây, ngay cả những con chuột cũng dường như di chuyển một cách lịch sự hơn. Ánh sáng từ những ngọn đèn dầu treo cao trên cột trụ pha lẫn ánh lửa từ các lò sưởi trước quán ăn, tạo thành một thứ ánh sáng mềm dịu, phủ lên lớp đá lát đường những vệt bóng nhấp nhô như sóng.

On Yu ngồi xuống, nhẹ nhàng mở gói bánh, nhìn nó một lúc lâu.

Sau đó, cậu cẩn thận bẻ ra một miếng thật nhỏ, đưa lên miệng. Vị ngọt nhẹ thấm vào đầu lưỡi khiến cổ họng ấm lên tức thì – vừa là cảm giác dễ chịu, vừa là nỗi xót xa. Cậu nhai chậm rãi hết mức có thể, từng chút một, không dám ăn nhanh, như thể chỉ cần quá tay một chút thôi thì cái vị thơm ngon và ấm áp này sẽ biến mất mãi mãi.

Chút xa xỉ ấy là tất cả những gì còn lại cho buổi tối hôm nay.

Cậu ăn một cách dè sẻn đến mức phải dừng lại sau mỗi lần cắn, ngồi nhìn bánh thêm một lúc nữa rồi mới tiếp tục.

Không phải vì no. Mà vì không muốn hết.

Giữa ánh đèn, tiếng bước chân, và sự phồn hoa lấp lánh của quận trung tâm, cậu trông chẳng khác gì một hạt bụi nhỏ bé vừa rơi lạc từ một thế giới khác. Nhưng On Yu không rụt người lại. Cậu ngồi đó với một dáng điệu bình thản, dõi theo từng ánh mắt, từng cử động của những con người đi qua, như thể cố ghi nhớ tất cả – màu áo họ mặc, cách họ nói chuyện, những quán ăn họ ghé vào, và cả mùi thơm của thức ăn hòa lẫn mùi tinh dầu từ xe ngựa quý tộc lướt ngang.

Từng chút một, On Yu đang khắc họa lại thế giới này trong đầu.

Cậu biết mình sẽ không có chỗ nghỉ đêm nay. Cậu không đủ tiền để vào trọ ở nơi phồn hoa này – nơi mà chỉ một bữa ăn đã có thể ngốn gần hết số xu lẻ còn lại trong túi cậu. Không chốn dừng chân. Không người quen. Không danh phận. Nhưng cậu cũng không sợ. Đây không phải lần đầu cậu phải qua đêm giữa đường phố, và chắc chắn sẽ không phải lần cuối.

Chiếc bánh nhỏ xíu đã ăn hết từ lâu. Cậu cứ thế đi giữa phố phường, mắt không ngừng quét qua từng cửa hiệu, từng góc phố, ánh nhìn vẫn bình thản nhưng ẩn giấu một vẻ tò mò. Tiếng nhạc du dương từ một nhà hàng vọng ra, xen lẫn mùi thơm của rượu và thức ăn, khiến bụng cậu hơi cồn cào. Nhưng cậu không dừng lại.

Đêm đã sâu. Sau khi lang thang khắp vài tuyến phố lớn, ngắm nhìn những cửa tiệm lần lượt đóng cửa dần, từng ánh đèn vụt tắt sau khung cửa kính màu, và âm thanh náo nhiệt tan dần thành tĩnh lặng, phố xá dần chìm vào giấc ngủ yên lặng, chỉ còn tiếng bánh xe lẻ loi và ánh sáng lác đác từ vài cửa tiệm chưa đóng muộn, bước chân On Yu cũng dần chậm lại.

Cậu đã thấm mệt.

On Yu lặng lẽ đi về phía một góc nhỏ yên tĩnh bên dưới mái hiên hẹp của một tiệm sách đã đóng cửa. Cậu cuộn người lại, tựa người vào vách tường đá lạnh, kéo áo choàng sát người, giấu cả túi vải cẩn thận dưới lớp áo choàng, ánh mắt vẫn ánh lên vẻ điềm tĩnh như thường.

Một ngày dài trôi qua.

Đêm nay, một lần nữa, cậu là kẻ vô danh giữa lòng thành phố sáng rực, lặng lẽ quan sát thế giới này như một người ngoài cuộc.

Mai, cậu sẽ bắt đầu khám phá nơi này – quận Alynis, trái tim của Dazelra.

-------

PHỤ LỤC:

Một mớ đồ lặt vặt chẳng ai buồn ngó đến, được On Yu gom góp từ góc khuất phủ bụi của tiệm tạp hóa nhà bà Abel. Người khác nhìn vào chỉ thấy toàn thứ bỏ đi: lõi đồng hồ hỏng, dây đồng rối, vài tấm kính mờ đục, ống kim loại cũ, nắp lọ cháy cạnh, vài mảnh sứ rạn và vải vụn. Nhưng trong mắt On Yu, chúng là kho báu. Là những mảnh ghép thô sơ để cậu dựng lại một phần nhỏ của thế giới cũ – thế giới của logic, của công nghệ, nơi mọi thứ không cần đến ma lực mà vẫn vận hành chính xác như định luật.

Trong căn phòng nhỏ chật hẹp tối tăm phía sâu trong quán ăn của ông Geniss – nơi mà trước kia đã từng là nhà kho chứa toàn những dụng cụ làm bếp cũ kĩ, nay lại được On Yu âm thầm lén coi là lãnh địa của riêng mình, dưới ánh đèn dầu lập lòe, cậu dành cả buổi tối mày mò. Một thiết bị lọc nước được lắp xong đầu tiên: ba ống gốm cũ được cắt ngắn, bên trong nhồi sỏi nung, than vụn đốt từ gỗ táo, và vải bông đã nấu chín qua nước sôi. Cậu thử lọc nước từ vũng nhỏ sau nhà – vốn luôn có mùi đất – rồi nếm thử sau khi lọc. Không còn mùi hôi. Cũng không vị lạ. Dạ dày hôm sau không phản ứng gì – thành công.

Tiếp theo là đèn phản xạ tay. On Yu lấy lõi của chiếc gương cháy nắng và mài lại bề mặt cong thành một tấm phản xạ lõm, gắn vào phần sau của hộp đèn dầu nhỏ. Khi đặt nến vào giữa và hướng ra phía trước, ánh sáng tăng lên gấp đôi, chiếu rõ cả mặt tường đối diện. Không hoàn hảo như đèn pin, nhưng vượt xa cây nến hay đuốc thông thường.

Rồi là thiết bị phát tín hiệu ánh sáng – một bộ chớp tay thủ công. Cậu ghép vỏ kim loại mỏng thành hình hộp, chèn vào một trục quay gắn lưỡi cắt ánh sáng làm bằng vỏ đồng hồ hỏng. Khi xoay tay quay bên ngoài, thiết bị tạo ra những chớp sáng đều đặn và có thể điều chỉnh tần suất. Cậu từng dùng loại tín hiệu như thế để giao tiếp lặng trong các nhiệm vụ mật thám – nay, dù ở một thế giới không ai hiểu hệ thống ấy, cậu vẫn làm lại – vì biết đâu cần ra hiệu khi nguy cấp.

Cuối cùng là lò sưởi tay. On Yu lấy lõi than cháy dở từ lò bếp cũ, nghiền nhỏ rồi gói trong lớp giấy sáp, đặt vào một khay sắt rỗng, trên cùng phủ lớp mỏng đất sét và kim loại mỏng làm tấm dẫn nhiệt. Khi đốt nhẹ bằng tia lửa, thiết bị có thể giữ ấm suốt gần hai giờ – đủ để qua đêm lạnh.

Những thứ này chẳng ai đánh đổi lấy một đồng bạc, cũng không ai hiểu công dụng thực sự. Nhưng với On Yu, đó là vũ khí. Không phải để chiến đấu – mà để sống sót, để chuẩn bị cho những điều không ngờ sẽ đến. Để không bao giờ phải lùi lại như khi còn ở SINN-07, nơi mọi thứ phụ thuộc vào hệ thống – và khi hệ thống sụp đổ, con người trở tay không kịp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com