Thep da toi the day II (c1-c3)
PHẦN THỨ HAI
CHƯƠNG I
Nửa đêm. Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp
ẹp chạy qua đã được một lúc lâu rồi. Trăng suông trải lên
thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt giường
một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng
trong bóng tối lờ mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một
vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm cụi với tập
nhật ký thân thiết.
Đầu bút chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:
"24 tháng Năm,
Lại thử ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng
trống nữa trong nhật ký. Sáu tuần qua, không viết một chữ.
Đành vậy thôi.
Lấy đâu ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ
này, đêm khuya, mình mới có thời giờ viết. Không ngủ
được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy
làm tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật
là một người ưu tú. Mãi bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân
giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần. Cố nhiên, Xê-
gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua
bọn mình họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước
tiến của "các con đỡ đầu” của chúng mình. Đến dự, có A-
kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh chàng trưởng
phòng quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu
được hạng người tự phụ "cái gì tôi cũng biết” ấy! Xê-gan
thì hớn hở. Người học trò anh là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đã
đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử Đảng. Phải, hai tháng
qua thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế,
người ta chẳng thấy tiếc sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công
tác ở Ban đặc biệt của Quân khu. Tại sao thế nhỉ? Mình
chẳng biết nữa.
Xê-gan đã giao phó người học trò của anh cho mình.
Khi chia tay, anh nói:
"Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây
nhớ. Đừng bỏ dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như
anh ta, cả hai đều có những điều học hỏi lẫn nhau được.
Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự
phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ
được và có thể đẩy anh ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta
ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người hướng dẫn thích
hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên
viết thư về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!"
Hôm nay, Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới
của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình quen Giác- ki từ hồi ở
bộ đội.
Ngày mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với
mình. Hình dạng anh chàng Đu-ba-va: vóc người tầm
thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng
sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba
người đã bị khai trừ ra khỏi tỉnh đoàn vì thuộc "khối đối lập
thợ thuyền". Giúp Đu-ba-va học tập thật không dễ. Lần nào
anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi quay
mình, làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-
va, cô học trò thứ hai của mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay
xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu tiên, anh ta nhìn Ôn-ga
suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:
- Trang bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì
phải mặc quần da, mang đinh ba, đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny
đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc,
cũng chẳng ra mỡ.
Ôn-ga cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình
không lầm thì Đu-ba-va là bạn Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi
thế này đủ rồi. Đi ngủ".
*
Nóng như thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt
ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga, sờ vào nóng bỏng. Đoàn
người dãi nắng mệt lử, uể oải bước lên cầu Họ không phải
là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên đường sắt
qua cầu sang bên phố.
Đứng trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta.
Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven và đang nhìn hành khách
xuống tàu.
Đến Cách Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri- ta
không trông thấy Pa-ven. Anh đứng ngắm Ri-ta với cặp mắt
tò mò khác thường. Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc,
bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo khoác ngoài
bằng da mềm vắt lên vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang
ngược bao quanh lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta đứng hơi
ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị nheo mắt lại. Lần
đầu tiên Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình
bằng cặp mắt ấy, và cũng lần đầu tiên trong đầu anh nảy ra
ý nghĩ: Ri-ta không phải chỉ là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh
đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ "tội lỗi", Pa-ven
gọi giật Ri-ta:
- Tôi đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-
ta không trông thấy. Đến lúc đi rồi, tàu đã vào ga.
Hai người dẫn nhau đến lối ra ke.
Hôm qua, Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội
nghị của một huyện đoàn. Pa-ven được cử đi phụ với Ri-ta.
Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng được,
chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào
giờ tàu chạy, nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có
uy quyền điều khiển, ai không có giấy của ban này không
được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của
ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được
một phần mười những người cần đi. Không ai muốn ở lại
để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một chuyến
tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới
những toa xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị
bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu đả. Pa-ven và Ri-ta định
chen ra ke, nhưng không sao len được.
Vốn biết hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn
gái đi qua kho chứa hành lý.
Vất vả lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn.
Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ hôi đứng trước cửa xe,
giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có
đến trăm lần:
- Tôi nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những
chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh trên cấm ngặt không được ai
trèo lên cả.
Có những người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn
vào mũi anh những vé do ban xếp người phát cho họ đi toa
số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ,
tiếng kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối
thường thì không thể nào lên được Mà việc thì cần, không
đi được thì hội nghị không thành mất.
Pa-ven kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động
của mình. Pa-ven sẽ len vào trong toa, bỏ cửa kính xuống
và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào khác.
- Ri-ta đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng
minh thư tốt nhất.
Pa-ven khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng
ngắn vào túi, cố ý để lòi báng súng và dây súng ra ngoài.
Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ toa xe.
Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành
khách, với được thành sắt bậc lên tàu.
- Này, đồng chí đi đâu?
Pa-ven ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.
- Tôi là người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra
xem hành khách các đồng chí cho lên tàu có đủ vé của ban
xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy
may ngờ vực uy quyền của mình.
Người công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi
trán và nói bằng một giọng hờ hững:
- Ừ đồng chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí
chen vào được.
Pa-ven chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng
nắm tay, trườn lên vai người khác, rướn tay đánh đu lấy giá
ghế trên; tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá; chửi thì
chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.
"Quỷ tha ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái
nhà anh trời đánh thánh vật kia!". Một mụ béo phị mắng Pa-
ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ đã thu cái thân
hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai
chân đang kẹp lấy cái bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước,
hộp đựng sữa, hòm, bao và thùng ngổn ngang các ghế dài.
Không khí ngạt thở.
Đáp lời chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:
- Bà cho tôi xem vé của ban xếp người!
Mụ phát khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai
cần đó:
- Cái gì?
Một cái đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng
ồ ồ rống lên:
- Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho
nó một vé vào mõm ấy!
Ngay trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là
Vát-ca: người nó lực lưỡng, ngực đầy lông, giương cặp
mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.
- Mày nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé
gì?
Từ giá ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn
tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn hạt hướng dương lách tách.
Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen. Pa-ven
không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta
vào trong toa đã.
Pa-ven chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một
công nhân đường sắt đứng tuổi:
- Hòm này của ai đây?
Bác công nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục,
đi tất màu hạt dẻ:
- Của nhà chị này!
Phải kéo cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa,
không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm lên và đưa
cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:
- Đồng bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.
Khi Pa-ven đặt chiếc hòm lên đùi mụ kia thì nhà mụ mũi
tẹt ấy tru tréo lên:
- Cái nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?
Rồi mụ cầu cứu lão bên cạnh.
- Mốt-ca ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo
cả lên thế!
Tên gọi Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm
dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng Pa-ven:
- Ê đồ muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ
mặt bây giờ!
Pa-ven nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và
nói với bác công nhân đường sắt:
- Đồng chí lùi ra cho một chút.
Pa-ven dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng
sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở ngoài, chị nhanh tay đưa
cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang kẹp
bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí
Hồng quân trong đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn
việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong toa rồi. Đồng chí bộ
đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu
nhàu bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao
lên, làm cho Ri-ta bối rối và lo ngại. Chị không có chỗ nào
đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới, tay víu lấy
chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại.
Giọng ồ ồ ở phía trên phì ra:
- Rõ thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả "mèo" lên
nữa!
Một tên ngồi khuất đâu trên cao hết lên: "Mốt-ca! Cậu
cho nó dăm quả tống cho tối mắt đi!"
Mụ mũi tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung
quanh toàn những bộ mặt ti tiện, hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-
ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho có
chỗ ngồi.
- Này anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ
đồng chí này đứng. - Pa-ven nói với tên mà người ta gọi là
Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần thỉu làm
cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức
trên mu mắt phải.
- Được mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay
tao - Pa-ven cố nén, nói với tên lưu manh như vậy, nhưng
vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu. Bọn chúng ở
bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:
- Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra !
Bao nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây
giờ bật ra, và trong những lúc như thế này, cử chỉ của anh
bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.
- Bọn đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu
được tao đấy phải không? - Pa-ven, tay bíu lấy giá ghế thứ
hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái
mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên
con buôn đầu cơ ngã bổ nhào lên đầu những đứa khác, rồi
lăn kềnh xuống lối đi.
"Bọn khốn nạn ! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả
như chó ấy!" Pa-ven giận dữ quát lên, tay vung khẩu súng
ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.
Câu chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm
chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng vào bất cứ kẻ nào định
chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên
đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.
Khi Pa-ven đã đưa Ri-ta lên ngồi trên ghế đã quang
người anh rỉ tai với Ri-ta:
- Ri-ta ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.
Ri-ta ngăn anh lại:
- Pa-ven định đi đánh nhau với chúng đấy à?
Pa-ven nói cho Ri-ta yên tâm:
- Không, tôi sẽ về ngay.
Pa-ven lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài
phút sau, anh đã có mặt ở phòng làm việc của Bua-mây-
stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách
cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau
khi nghe Pa-ven kể, đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra
khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi người.
Bua-mây-stơ lẩm bẩm:
- Tôi nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn
con buôn đầu cơ rồi.
Một đội công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm
soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven giúp việc kiểm tra lại
cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt,
Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí
thư đoàn thanh niên đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn
viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở Cục công an
đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa- ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây
giờ đầy hành khách mới: những cán bộ đi công tác và các
chiến sĩ Hồng quân.
Trên ghế tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi.
Những bó báo đã choán hết chỗ.
Ri-ta nói:
- Không sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.
Đoàn tàu chuyển bánh.
Nhìn qua cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều
lúc nãy ngồi trên đống bao bì. Tiếng kêu của mụ vẳng lại:
"Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi ?".
Ri-ta và Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo
ngăn cách họ với những người bên cạnh. Hai người giở
bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu
chuyện chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.
Xe lửa bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá
nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô nghiến ken két và răng rắc,
toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường sắt nối.
Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh
dày đặc. Rồi đêm tối giăng màn đen lên những khoang
cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như bưng.
Ri-ta mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết.
Pa-ven ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng
xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng không có chỗ đặt lưng.
Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc
mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc
của Pa-ven, Ri-ta nghĩ thầm: "Cậu Pa-ven ngồi mãi thế
được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng ngại không
muốn làm phiền mình đây". Ri-ta nói giọng thương mến:
"Đồng chí Pa-ven, bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm
xuống mà nghỉ!"
Pa-ven ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi
cặp giò đã mỏi tê.
"Mai chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng
hay đánh nhau ạ". Cánh tay Ri-ta ôm chặt lấy người đồng
chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc Ri-ta áp vào
má mình.
Đối với anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân,
người đồng chí cùng chung lý tưởng, giảng viên chính trị
của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ. Khi ở
gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều
đó, cho nên cái ôm của người bạn gái hôm nay mới làm
lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe thấy hơi thở mạnh
và đều của Ri-ta; đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần
gũi đó như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp
dẫn ấy. Cuối cùng, Pa-ven phải dùng hết ý chí để nén lòng
mình lại.
Hình như đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm
cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua niềm sung sướng
trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất.
Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của
bọn Nga trắng đã cướp mất của Ri-ta cả hai người. Một
người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn. Còn người
kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.
Chẳng mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven.
Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú lên mới đánh thức anh dậy.
*
Ri-ta khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra,
có ghi thêm mấy đoạn ngắn:
"11 tháng Tám,
Xong hội nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã
đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ U-cơ-ren. Mọi công
việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven
được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-
va được phái đi làm bí thư Huyện đoàn Pê-séc thì không
đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố tiếp tục
học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven
bận đi công tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm
trọng nên bên ấy phải ra lệnh động viên thường xuyên. Hôm
qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì bên
mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó
cũng rất cần thiết đối với bên ấy”.
"23 tháng Tám,
Hôm nay, mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-
ra-tốp, Pa-ven và một người lạ nữa đứng ở cửa phòng
hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:
- Ở đấy toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói:
"Các anh không được phép can thiệp vào quyền hạn sử
dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm
chủ, chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả". Mồm
nó nói thế đấy, các cậu ạ. Lũ ăn hại nó nấp ở những chỗ ấy
đấy chứ ở đâu.
Tiếp đó, Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-
tốp nhìn thấy mình, liền máy Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy
mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi lỉnh đi
ngay. Chắc Pa-ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu
cho mà xem. Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay
nói tục".
"27 tháng Tám,
Ban thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây
giờ thì chưa thể ghi mọi chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ
bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm qua,
bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe
chở lương thực xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không
ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những mầu chuyện vụn vặt.
Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng
Giác-ki lập công xã năm người".
*
Đang giữa trưa ở xưởng máy, người ta gọi Pa-ven đến
dây nói. Ri-ta báo cho anh biết tối nay Ri-ta rỗi rãi có thể
giảng cho xong vấn đề đang nói dở: "Nguyên nhân thất
bại của Công xã Pa-ri".
Tối hôm ấy, Pa-ven đến gần ngôi nhà phố Cơ-rúc U-ni-
ve, ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng Ri-ta có ánh đèn. Pa-
ven chạy lên thang gác và như mọi lần, lấy nắm tay đập
cửa và không chờ trả lời, đã bước vào ngay.
Một cán bộ quân đội đang nằm trên giường Ri-ta;
giường này các bạn Ri-ta không một ai được phép ngồi
lên dù chỉ một chốc lát. Khẩu súng ngắn, cái xà-cột và chiếc
mũ đính sao nằm trên bàn. Ri-ta ngồi bên cạnh, tay ôm chặt
lấy người đàn ông kia. Hai người đang nói chuyện gì với
nhau, sôi nổi lắm... Pa- ven vào, Ri-ta quay ra nhìn, mặt hớn
hở.
Anh cán bộ quân đội gỡ tay Ri-ta ra và đứng dậy.
Ri-ta bắt tay Pa-ven và giới thiệu:
- Đây là…
Người đàn ông đó bắt tay Pa-ven rất chặt và đỡ lời Ri-
ta:
- Tôi là Đa-vít Uốt-chi-nô-vích.
Ri-ta vừa cười vừa nói với Pa-ven:
- Anh ấy đến bất ngờ quá. Như hòn ngói rơi xuống đầu
mình…
Cái bắt tay của Pa-ven thì lạnh nhạt. Đôi mắt anh ngầm
nảy lửa. Anh còn kịp nhận ra trên tay áo cán bộ quân đội
của Đa-vit có bốn gạch.
Ri-ta chưa nói, thì Pa-ven cướp lời ngay:
- Tôi chạy đến báo cho Ri-ta biết là hôm nay tôi bận
tham gia dỡ gỗ ở ngoài bến. Để Ri-ta khỏi phải chờ tôi...
Hơn nữa, hôm nay Ri-ta lại có khách. Thôi, tôi đi kẻo anh
em đang đợi ở dưới chân thang.
Pa-ven đến một cách đột ngột và cũng đột ngột biến đi
ngay. Tiếng chân anh chạy nhanh thoăn thoắt xuống cầu
thang. Cửa đóng lại kêu đánh rầm một cái. Rồi lại im
phăng phắc.
Trước cái nhìn ngạc nhiên của Đa-vít, Ri-ta nói một
giọng không vững lòng lắm:
- Chắc anh ấy có chuyện gì đây.
…Dưới gầm cầu, chiếc đầu tàu thở hồng hộc, lồng
ngực rắn chắc của nó phun ra hàng đàn đom đóm loé vàng.
Vòng đom đóm muôn hình, muôn vẻ tung lên và tắt biến đi
trong khói cuộn.
Pa-ven đứng dựa lưng vào lan can cầu, nhìn những đèn
hiệu nhiều màu nhấp nháy trên ngã ba đường. Anh nhắm
mắt lại.
Anh tự mình mỉa mai hỏi mình:
"Đồng chí Pa-ven ơi, dù thế nào đi nữa, không hiểu cớ
sao đồng chí lại thấy lòng đau đớn đến như thế khi biết Ri-
ta đã có chồng kia chứ? Có khi nào Ri- ta nói với đồng chí
là Ri-ta chưa chồng đâu? Mà dù có nói chăng nữa, thì đã
sao? Cớ sao đồng chí lại bực dọc? Thôi, xin đồng chí thân
mến, đồng chí đã chẳng cho là giữa hai người chỉ có tình
bạn, tình đồng chí cùng chung lý tưởng và chỉ có thế thôi
đấy ư? Thế thì cớ sao đồng chí lại...? Và nhỡ người đó
không phải là chồng Ri-ta? Đa-vít Uốt-chi-nô-vích có thể là
anh hay là chú Ri-ta… Nếu như thế thì hóa ra, chàng ngố ạ,
anh đã giận oan người ta. Rõ ràng đồng chí cũng chỉ là một
đứa nhỏ nhen như những đứa đàn ông khác. Có phải anh
Ri-ta hay không, chuyện đó cũng dễ biết thôi. Nhưng nếu là
anh hay là chú, thì đồng chí sẽ ăn nói với Ri-ta ra sao về
thái độ của mình? Không ! Từ nay trở đi, đừng có đến gặp
Ri-ta nữa!"
(Uốt chi-nô-vích là tên họ của Ri-ta. Ở Liên Xô, cha con,
anh em, chú cháu, vợ chồng đều lấy một tên họ trùng nhau.
Nghe qua tên Đa- vít Uốt chi-nô-vích có thể hiểu là anh hay
chú, và cũng có thể là chồng, cho nên Pa-ven thắc mắc)
Còi tàu rú lên, ngắt luồng ý nghĩ của Pa-ven. "Muộn rồi.
Nghĩ vẩn vơ mãi ! Đã đến giờ về !".
*
Ở xóm Xô-lô-men-ca (tên gọi khu công nhân đường sắt
ở) năm thanh niên lập nên một tiểu công xã. Xã viên gồm
có Giác-ki, Pa-ven, một thanh niên Tiệp tóc hoe, vui tính tên
là Cơ-la-vi-sếch, Ô-cu-nhép và đồng chí A-chu-khin, bí thư
chi đoàn đoạn đầu máy kiêm nhân viên Ban đặc biệt ngành
đường sắt; cách đây không lâu, đồng chí ấy còn là thợ đốt
lò ở xưởng trung tu đầu máy.
Họ kiếm được một căn phòng, rồi ba ngày liền, cứ đi
làm về là họ lau chùi, quét tước, quét lại vôi. Tiếng xô xách
nước loảng xoảng ầm ĩ khiến lắm lúc hàng phố tưởng là
chữa cháy. Họ đóng phản nằm, lấy lá khô ngoài công viên
nhồi vào bao làm đệm. Sang đến ngày thứ tư thì họ treo lên
tường bức chân dung Pê- tơ-rốp-ski( Một cán bộ lâu năm
của Đảng hồi đó làm Chủ tịch toàn U-cơ-ren) và một bản
đồ lớn. Gian phòng bóng lộn, trắng tinh.
Giữa hai cửa sổ gian phòng là giá xếp đầy sách. Hai
hòm gỗ không lót bìa dày thay nệm dùng làm ghế ngồi, hòm
nữa to hơn làm tủ. Giữa phòng có kê một bàn bi-a thật
rộng, do các xã viên lấy lưng ra khiêng đến: mặt bàn dạ lót
màu xanh đã bị bóc đi rồi, bàn ấy ban ngày dùng làm bàn
viết, ban đêm là giường ngủ của Cơ-la-vi-sếch. Tất cả của
riêng tây của mỗi người đều đem đến đây. Cơ-la-vi-sếch
tính rất tỉ mẩn, đã làm bản kiểm kê tài sản của công xã,
định treo lên tường, nhưng bị anh em phản đối rầm rầm lại
thôi. Trong phòng cái gì cũng thành của chung. Tiền lương
tháng, thực phẩm được cấp phát và cả những quà bà con
thân thích gửi cho đều đem chia đều. Chỉ có vũ khí thì được
coi là của riêng mà thôi. Các xã viên nhất trí quyết nghị: ai vi
phạm nội quy tài sản công cộng và bất tín với anh em thì bị
khai trừ ra khỏi công xã. Ô-cu-nhép và Cơ-la-vi-sếch còn
nèo ghi thêm: và bị đuổi ra khỏi nhà này.
Hôm ăn mừng thành lập công xã, tất cả cán bộ Đoàn ở
khu phố công nhân đường sắt đều đến dự. Mượn hàng
xóm được một ấm pha chè gộc và cho ra hết cả số đường
dự trữ. Anh chị em làm xong tuần trà thì hát đồng ca vang
lên.
Thế gian này nước mắt tràn đầy
Đời chúng ta nhục nhằn, lao khổ.
Nhưng rồi nhất định sẽ đến ngày. . .
Ta-li-a, nữ công nhân xưởng thuốc lá, chỉ huy ban đồng
ca. Khăn trùm sợi đỏ tuột ra bên đầu, chị có đôi mắt của trẻ
em tinh nghịch. Chưa ai được ghé sát nhìn gần vào cặp
mắt ấy. Cái cười của Ta-li-a làm ai cũng vui lây. Cô thợ làm
hộp này nhìn đời qua tuổi trẻ đang nở hoa, nhìn đời trên
bậc thang của tuổi mười tám. Tay Ta-li-a đánh nhịp vung
lên và điệp khúc vang như tiếng kèn đồng.
Bài ca ta bay xa, bay khắp bốn phương
Ngọn cờ ta phấp phới khắp thế gian,
Đấy là máu đào của ta rực cháy
In trên cờ đỏ thắm sáng chói...
Khuya lắm họ mới chia tay ra về. Tiếng hát chia tay
vang lên rộn rã làm mất giấc hàng phố đang yên ngủ.
Giác-ki choài tay ra với ống nghe dây nói. Trong phòng
đồng chí bí thư phụ trách này, anh chị em đoàn viên đứng
chật, chuyện ồn ào. Giác-ki phải kêu lên:
- Các cậu ơi! Khẽ một chút, chẳng còn nghe thấy gì cả.
Tiếng chuyện trò hạ thấp hẳn giọng xuống.
- Tôi nghe đây. Đồng chí đấy à? Vâng, vâng. Ngay bây
giờ. Chương trình họp à? Vẫn vấn đề ấy: vấn đề dỡ củi
ngoài bến? Không, cậu ta không đi công tác đâu cả. Đang
ở đây. Có muốn gọi cậu ta không? Được chờ nhé!
Giác-ki vẫy gọi Pa-ven:
- Nữ đồng chí Ri-ta Uốt-chi-nô-vích hỏi cậu. Và anh
chuyển ống nghe cho Pa-ven.
- Ri-ta cứ tưởng là Pa-ven không có đấy. May quá, tối
nay Ri-ta không bận. Đến nhé. Hôm trước anh Ri-ta đi qua
rẽ vào chơi, anh em đã hai năm nay mới gặp nhau đấy.
Hóa ra là anh Ri-ta!
Pa-ven không còn để tai nghe Ri-ta nói những gì nữa.
Anh nghĩ đến buổi tối hôm ấy, nghĩ đến điều mà lòng anh đã
quyết định lúc đứng trên cầu. Ừ, ngay hôm nay, phải đến
gặp Ri-ta và tuyên bố cắt đứt. Tình yêu bắt phải nghĩ ngợi
nhiều và gây ra khá là đau đớn cho lòng. Lúc này không
phải là lúc nghĩ đến yêu.
Tiếng bên kia ống nói:
- Sao thế ? Pa-ven không nghe rõ Ri-ta nói phải không?
- Có đang nghe. Đồng ý. Họp xong sẽ đến.
Nói rồi, bỏ ống nói xuống.
*
Pa-ven nhìn thẳng vào mắt bạn, tay bám chặt mép chiếc
bàn gỗ sên và nói:
- Chắc chắn là tôi không thể tiếp tục đến với Ri- ta
được nữa đâu.
Hàng lông mi dày của người bạn gái đập đập vào nhau.
Chiếc bút chì trên tay đang lướt trên trang giấy bỗng ngừng
lại và ngả xuống nằm yên trên cuốn vở để mở.
- Sao thế ?
- Thời giờ mỗi lúc một khó thu xếp quá. Ri-ta cũng biết
đấy: càng ngày công tác càng gay. Bỏ học cũng đáng tiếc
lắm, nhưng đành phải gác lại...
Pa-ven cảm thấy lời nói về cuối mình thiếu bề chắc
chắn. Anh nghĩ thầm:
"Sao lại nói quanh thế Ra mi chẳng có can đảm lấy tay
đấm thẳng một cái vào trái tim mi ư?"
Nghĩ thế, Pa-ven nói tiếp, giọng quả quyết hơn:
- Ngoài ra, từ lâu đã định nói với Ri-ta là Pa-ven nghe
Ri-ta giảng thật ra không hiểu lắm đâu. Khi học với Xê-gan
thì trong đầu nhớ được hết. Còn với Ri-ta thì Pa-ven học
không có kết quả. Cứ mỗi lần nghe Ri-ta giảng xong, Pa-
ven lại phải tìm đến hỏi đồng chí Tô-ca-rếp. Đầu óc Pa-ven
chẳng chịu làm việc nữa. Ri-ta nên tìm một người học trò
vào sáng dạ mà giúp thì hơn.
Và Pa-ven quay đi để tránh cái nhìn chằm chằm của
bạn. Anh nói thêm, nhất quyết:
- Cho nên, chúng ta không nên tiếp tục làm mất thì giờ
chung của cả hai người.
Pa-ven đứng dậy, chân nhẹ nhàng đẩy lùi chiếc ghế,
mắt nhìn xuống đầu Ri-ta đang cúi gục; ánh đèn soi rõ mặt
Ri-ta tái nhợt đi. Pa-ven đội mũ cát- két lên đầu:
- Thôi, từ biệt đồng chí Ri-ta nhớ. Tiếc rằng lâu nay đã
làm phiền Ri-ta. Đáng lẽ phải nói với Ri-ta ngay từ lâu rồi.
Đấy là lỗi của Pa-ven.
Ri-ta đưa tay ra bắt. Vẻ lạnh nhạt không ngờ của Pa-
ven làm chị lặng đi. Chị chỉ còn nói được mấy tiếng:
- Pa-ven ạ, Ri-ta không oán trách gì Pa-ven hết. Ri-ta đã
không làm cho Pa-ven hiểu Ri-ta, thì Ri-ta đành phải chịu
lấy điều xảy ra hôm nay.
Chân Pa-ven bước ra nặng nề. Anh lặng lẽ khép cửa
lại, rồi đi ra. Đến cổng, anh đứng lại suy nghĩ:
"Có lẽ nên trở lại chăng? Nói cho Ri-ta hiểu... Nói để
làm gì cơ chứ? Để nhận một lời khinh bỉ đốp vào mặt và lại
bước ra cổng như thế này ư? Không!"
Trên các ngả đường sắt vào nhà kho đoạn đầu máy,
những toa tàu xơ xác, những đầu tàu lạnh ngắt nằm lổng
chổng trông y như những bãi tha ma. Gió lùa vào thổi bay
mù mạt cưa trong nhà kho chứa gỗ từ nay bỏ trống không.
Bọn phỉ của tên O-rơ-lích đang như thú dữ rình mồi
quanh thị trấn. Chúng men theo những khe sâu, men theo
các lối mòn trong rừng. Ban ngày lũ phỉ nghỉ chân trong
những bản lân cận, náu mình trong nhà của bọn chủ trại
nuôi ong giàu có, đêm đến chúng mò ra các ngả đường
sắt, lấy nanh vuốt cào cấu bóc đi từng mảng đường ray; khi
đã làm xong cái trò ghê tởm ấy, chúng lại bò về thu mình
trong sào huyệt.
Thường có những chuyến tàu bị lăn nhào xuống chân
dốc nền đường, những toa xe bật tung lên vỡ tan tành, đè
bẹp gí những hành khách còn đang ngon giấc; những hạt
lúa mì quý đổ vãi ra mặt đường, trộn lẫn với máu và đất.
Bọn phỉ tấn công những thị trấn thanh bình trong tổng.
Đàn gà mái hoảng sợ, kêu quang quác, chạy túa ra khắp
ngả. Một tiếng súng nổ vang trước ngôi nhà trắng của trụ
sở Xô-viết tổng, nghe như những cành khô kêu răng rắc
dưới chân người. Bọn phỉ cưỡi những con ngựa béo tốt,
chạy sục sạo khắp bản làng, gặp người là chém ngay.
Chúng vung kiếm vun vút, chém như bổ củi. Súng nổ thưa
thớt: chúng còn để dành đạn.
Lũ phỉ hiện ra rất nhanh, rồi cũng biến đi rất nhanh. Bọn
chúng có tai mắt rình mò khắp nơi. Những cặp mắt cú vọ ấy
đã nhìn như xoáy vào trụ sở Xô-viết tổng mà lão thầy tu và
bọn cu-lắc thường rình mò. Có những đường dây liên lạc
vô hình từ đấy đến tận đám rừng rậm. Đạn dược, những
súc thịt lợn tươi, những chai rượu mạnh xanh xanh đều
được lén lút chở vào đấy. Cả tin tức cũng thậm thụt thì thầm
truyền đến tai những tên tiểu đầu lĩnh, rồi qua một mạng
lưới thông tin phức tạp hơn, đến tận tai tên trùm O-rơ-lích.
Đám phỉ này tất cả chỉ gồm vẻn vẹn độ hai ba trăm tay
chuyên môn chặt đầu người, nhưng chia ra đến mấy toán
hoạt động cùng một lúc ở hai ba huyện. Ta vẫn chưa tóm
được chúng vì không sao theo dõi được chúng. Ban đêm,
nó làm phỉ, ban ngày nó lại khoác áo nông dân hiền lành,
loay hoay làm lụng ở sân, cho ngựa ăn và kéo tẩu thuốc.
Đứng trước thềm nhà chúng nhếch mép cười thầm, đưa
mắt lấm lét nhìn theo những đội kỵ binh tuần tra đi lùng dõi
chúng.
Pu-dư-rếp-ski lâu nay mất cả nghỉ, mất cả ngủ: đồng chí
đã chỉ huy cả trung đoàn của mình phi ngựa lùng khắp ba
huyện. Đồng chí không biết mệt, kiên tâm lùng riết lũ giặc,
đôi khi đã nắm được đuôi của bọn chúng.
Trong vòng một tháng tên phỉ O-rơ-lích phải rút bọn lâu
la của nó ra khỏi hai huyện. Nó bị ép trong một vòng vây
khép chặt đang giãy giụa.
Trong thành phố, dòng đời cứ trôi xuôi như thường lệ.
Khắp năm khu chợ người lúc nhúc đông nghìn nghịt, tiếng
huyên náo rào rào, ầm ĩ. Hai xu hướng ngự trị ở nơi đây: kẻ
bán muốn bán giá cắt cổ, người mua muốn mua giá hời
nhất. Bọn bịp bợm đủ loại tha hồ mà trổ tài đánh xoáy. Có
đến hàng trăm dứa lùi lùi rình mò như một đàn rệp, cử chỉ
nhanh thoăn thoắt, cứ nhìn mắt chúng, người ta có thể biết
được đủ mọi tính tình, trừ bản chất làm ăn lương thiện. Cả
lũ cặn bã của thành phố đều tụ tập ở đây như bu vào một
đống phân với mục đích duy nhất: "xoay" của những ai lớ
ngớ mới đến. Những chuyến tàu thưa chạy đến như khạc
ra bên đường hàng đám người tay xách, lưng đeo nặng trĩu
những bao với bị. Bọn họ đều đi đến các ngả chợ này.
Chiều tối, chợ nào cũng vắng tanh. Những phố buôn
bán, những dãy cửa hàng tối om, trông chẳng khác gì
những phố hoang. Họa hoằn mới có những tay cứng bóng
vía ban đêm dám mạo hiểm đi vào khu phố chết này, nơi
đây mỗi căn phố lặng ngắt đều như có quân bất lương nấp
sẵn và sắp sửa xồ ra hăm dọa. Đêm đêm lại hay có tiếng
súng nổ đánh đẹt một cái nghe như tiếng búa đập vào
mảnh tôn, rồi có tiếng người kêu ú ớ, máu sặc trong họng.
Và chờ cho đến lúc mấy anh công an ở các đồn gần đấy
cùng chạy đến (họ không dám đi từng người một) thì ngoài
cái xác người còn đang giãy chết ra chẳng còn thấy bóng
một ai. Bọn giết người đã đi xa rồi và tiếng nổ làm những
người còn đi chơi đêm lánh cho xa khu phố chợ. Phía
trước là rạp chiếu bóng "Ô-ri-ông" ánh điện dãi trên đường
phố và vỉa hè, công chúng đang chen chúc nhau ở đấy.
Trong rạp máy chiếu phim lẹt xẹt. Trên màn ảnh, những
cặp tình nhân bất hạnh giết lẫn nhau, và mỗi lần phim đứt,
người xem lại la ó dữ dội.
Ở khu trung tâm và ở các ngoại ô, cuộc sống xem ra
như không đi chệch vết xe cũ, và ngay ở Tỉnh ủy, nơi đầu
não của chính quyền cách mạng này, mọi sự vẫn trôi theo
dòng thường lệ. Song đấy chỉ là vẻ yên tĩnh bề ngoài.
Cơn bão táp đang chín mùi, sắp nổ ra giữa thành phố.
Có nhiều kẻ biết cơn bão táp sắp đến: chúng là những
kẻ từ các nơi kéo lên tỉnh, giấu không kín khẩu súng trường
trong tà áo dài nông dân. Chúng còn là những đứa giả
dạng làm bọn con buôn đầu cơ lương thực ngồi trên mái
các toa xe lửa đến đây, đáng lẽ đi tới chợ, lại mang những
bao bị ấy đến những địa chỉ mà chúng nhớ như in trong óc.
Bọn chúng thì biết rõ, còn các xóm thợ và ngay cả
những người bôn-sê-vích thì lại không hay gì về cơn giông
tố đang kéo đến gần.
Trong thành phố, chỉ có năm người bôn-sê-vích là nắm
vững tình hình chuẩn bị làm loạn của lũ phản động.
Tàn quân Pết-lu-ra bị Hồng quân đuổi chạy sang nước
Ba Lan trắng đã câu kết chặt chẽ với các phái đoàn nước
ngoài ở Vác-xô-vi, chuẩn bị tham gia vào cuộc nổi loạn đã
dự định.
Số tàn dư của các trung đoàn Pết-lu-ra được bí mật lập
thành đội xung kích.
Bọn đầu sỏ phiến loạn của chúng cũng có bộ phận ở
Sê-pê-tốp ca nữa, gồm bốn mươi bảy tên, phần lớn là
những tên tích cực phản cách mạng mà trước đây ủy ban
đặc biệt địa phương vì cả tin, nên đã tha bổng chúng.
Tổ chức này đo lão cố Vát-xi-li, lão chuẩn úy Vin- ních
và lão võ quan của bọn Pết-lu-ra là Cu-mên-cơ cầm đầu.
Hai đứa con gái lão cố, em và bố tên Vin- ních và cả lão
Xa-mô-tư-nha đã len lỏi được vào ủy ban hành chính sở tại
làm chân thư ký chép công văn, tiến hành do thám lượm tin
cho chúng.
Bọn phiến loạn đã quyết định trong đêm khởi sự sẽ
ném lựu đạn vào phân đồn công an biên phòng đặc biệt,
đánh tháo tù và nếu có thể được thì chiếm nhà ga.
Giữa khu phố lớn, trung tâm của cuộc nổi loạn sắp tới
chúng đang hết sức bí mật tập trung bọn sĩ quan lại. Trong
khi đó thì bầy thổ phỉ cũng tụ tập ở những khu rừng lân cận
ngoại ô. Từ những khu rừng ấy, chúng phái những tay chân
tin cậy của chúng sang Ru-ma-ni và đến tận nơi báo cáo
với đích thân Pết-lu-ra.
*
Giu-khơ-rai làm việc ở ủy ban đặc biệt quân khu chống
phản cách mạng. Đêm này nữa là sáu đêm ròng anh thức
trắng chưa hề nhắm mắt lấy một phút. Anh là một trong năm
người bôn- sê-vích biết rõ mọi chuyện. Giu-khơ-rai có cảm
giác như người đi săn đã dõi thấy vết chân con thú dữ
giữa lúc nó sắp nhảy xổ ra cắn.
(Ủy ban đặc biệt, một cơ quan vừa là công an, vừa là
tình báo còn được gọi là công an đặc biệt nữa)
Song biết mà không thể kêu lên, không thể báo động
được. Phải đập chết con ác thú. Có đập chết tươi nó, mới
có thể yên ổn làm ăn được, đi đâu khỏi phải nơm nớp nhìn
từng bụi rậm. Cần nhất đừng làm cho con thú dữ kia kinh
động. Trong trận tử chiến này, chiến sĩ phải có trí sáng suốt,
lòng kiên tĩnh và cánh tay vững mạnh mới đảm bảo được
thắng lợi.
Ngày ấy, giờ ấy sắp đến nơi rồi.
Tại một nơi nào đó ở thành phố, trong ngóc ngách của
tổ chức bí mật của chúng, bọn chúng đã họp kín với nhau
quyết định: đêm mai.
Nhưng năm người bôn-sê-vích biết chuyện đã trù tính
chặn trước. Không, phải ra tay ngay hôm nay, ngay đêm
nay.
Lúc tối, một chuyến xe lửa bọc sắt lặng lẽ không kéo
còi, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, và xe vừa ra khỏi, cổng lớn
nhà kho khép ngay lại, im ắng như không.
Các đường dây điện báo trực tiếp hối hả truyền những
bức mật điện; những hàng chữ số đó bay đến đâu là bộ
đội biên phòng ở đấy quên cả ngủ, tróc cho tiệt ổ thú dữ.
A-kim gọi dây nói cho Giác-ki.
- Các hội nghị chi bộ đã triệu tập xong chưa? Thế nào?
Tốt. Đồng chí cùng với đồng chí bí thư Đảng ủy khu phố lại
họp ngay nhớ. Vấn đề tiếp tế củi thế mà trầm trọng hơn ta
tưởng đấy. Đến đây ta sẽ bàn - Giác-ki nghe xong câu nói
nhanh, với giọng quả quyết của A-kim, vừa đặt ống nói
xuống vừa càu nhàu:
- Vẫn vấn đề củi. Còn là điên đầu với nó.
Hai người bí thư Đảng và Đoàn từ trong chiếc xe của
anh lái Lít-kê bước ra. Lên đến tầng hai, họ hiểu ngay
không phải vấn đề củi.
Một khẩu súng máy "Mác-xim" nằm trên bàn giấy đồng
chí phụ trách. Các chiến sĩ súng máy của đơn vị đặc công
đang tíu tít chung quanh. Ngoài hành lang, những đảng viên
và đoàn viên trung kiên của thành phố lặng lẽ đứng gác.
Trong phòng làm việc của đồng chí bí thư Tỉnh ủy, cuộc họp
bất thường của ban thường vụ sắp sửa kết thúc.
Đường dây từ ngoài phố mắc qua cửa sổ con nối với
hai máy nói kiểu dùng khi hành quân.
Người ta thì thầm nói chuyện với nhau. Giác-ki gặp A-
kim, Ri-ta và Mi-khai-lô ở trong phòng. Ri-ta mặc quân
phục, như hồi còn làm chính trị viên đại đội: mũ Bu-đi-on-ny,
váy ka-ki, thắt lưng đeo súng "Mô-de" nặng trĩu.
Giác-ki sửng sốt hỏi:
- Thế này nghĩa là thế nào?
Ri-ta nói cho anh biết:
- Tập báo động đấy, Giác-ki ạ. Chốc nữa, tất cả sẽ đến
khu phố đồng chí. Có hiệu lệnh là tập hợp ở Trường Lục
quân thứ năm. Anh chị em họp chi bộ xong thì cứ đến thẳng
đấy ngay. Chủ yếu là tập hợp thế nào cho không ai để ý
đến mình.
Im lặng bao trùm khu rừng "Học sinh quân".
( Thời trước ở đây có trường "Học sinh quân" của chính
phủ Nga hoàng nên gọi là rừng "Học sinh quân")
Hàng cây sên đại thụ đứng yên không lay động. Mặt
nước ao tù phủ đầy những mảng bèo đang yên ngủ. Những
lối đi rộng kín cỏ. Giữa rừng, sau bức tường trắng cao là
những tòa nhà của trường "Học sinh quân" trước kia, ngày
nay là Trường Lục quân thứ năm của Hồng quân. Đêm đã
khuya. Từng nhà trên không thắp đèn sáng. Đứng ngoài
trông vào có vẻ tịch mịch lắm. Ai qua đây cũng tưởng trong
mấy tòa nhà này mọi người đang ngủ say. Song nếu ngủ thì
tại sao hai cánh cửa đúc bằng gang nặng trình trịch lại mở
toang ra và ngoài của có hai đống đứng lù lù như hai con
cóc khổng lồ thế ? Người ở khắp các ngả trong khu công
nhân đường sắt kéo đến đều biết rằng có báo động đêm
thì trong trường chẳng ai ngủ đâu. Từ những cuộc họp chi
bộ Đảng, sau khi được nghe chỉ thị vắn tắt, họ liền đi thẳng
đến đây, lẳng lặng, không trò chuyện. Họ đi từng người một
hay từng đội, nhưng không quá ba người, trong túi người
nào cũng có chứng minh thư trên đề "Đảng cộng sản bôn-
sê-vích" hoặc "Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ- ren". Có
chìa một trong hai giấy chứng nhận đó mới qua được hai
cánh cửa đúc bằng gang này.
Trong phòng họp lớn, người đã đông. Gian phòng này
thắp đèn sáng. Vải bạt che kín các cửa sổ. Những người
bôn-sê-vích họp mặt ở đây nói đùa nhau rằng cách tập báo
động này có vẻ công thức. Họ thản nhiên hút thuốc như
không có chuyện gì xảy ra. Không ai cảm thấy có biến cả.
Ai cũng tưởng tập hợp lại như thế chỉ là để kiểm tra tinh
thần kỷ luật của các đơn vị công tác đặc biệt mà thôi. Song
những cựu chiến binh dày kinh nghiệm hơn, vừa bước
chân vào cổng trường Lục quân, đã cảm thấy ngay có một
cái gì hoàn toàn không phải là tập báo động cả. Mọi việc
đều tiến hành một cách quá lặng lẽ. Theo tiếng hô khe khẽ,
từng trung đội học viên sĩ quan im lặng xếp thành hàng ngũ
, và súng máy xách tay, họ tiến ra ngoài đường. Ở ngoài
nhìn vào, không một ngôi nhà nào có chút ánh đèn.
Pa-ven đến gần Đu-ba-va, khẽ hỏi:
- Có gì nghiêm trọng không, Đu-ba-va?
Đu-ba-va đang ngồi ở thành cửa sổ, cạnh một cô con
gái mà Pa-ven chỉ mới thoáng gặp ở nhà Giác-ki hôm kia.
Nghe hỏi, Đu-ba-va vỗ vai Pa-ven nói đùa:
- Thế ra cậu lo mất hồn rồi à? Chẳng ngại gì đâu! Rồi
chúng mình sẽ dạy cậu đánh nhau. À, cậu không quen cô
này hay sao? - Đu-ba-va hất đầu chỉ về phía thiếu nữ kia: -
Đây là cô An-na. Họ gì, mình không biết, còn chức vụ: phụ
trách cơ sở tuyên truyền.
Thiếu nữ nghe lời giới thiệu tinh nghịch của Đu- ba-va,
đưa mắt nhìn kỹ Pa-ven. Cô vuốt lại mái tóc tuột ra ngoài
khăn quàng màu hoa cà.
Cặp mắt cô bạn mới bắt gặp mắt Pa-ven. Nhìn nhau
không nói mấy giây. Đôi mắt cô bạn đen xanh, ánh lên, hơi
kiêu kỳ dưới hàng mi dày mượt. Pa-ven quay sang nhìn
Đu-ba-va. Cảm thấy mặt mình đỏ lên, Pa- ven bực mình cau
mày và cố nhếch mép mỉm cười, hỏi cô bạn mới:
- Vậy thì trong hai đồng chí, ai là người đang tuyên
truyền thuyết phục ai?
Giữa lúc ấy, trong phòng họp có tiếng ồn ào. Đại đội
trưởng trèo lên ghế, hô lớn:
- Các đảng viên cộng sản thuộc đại đội thứ nhất! Sắp
đội ngũ trong phòng này ! Mau lên, các đồng chí, mau lên !
Vừa lúc ấy, Giu-khơ-rai, đồng chí chủ tịch Ban chấp
hành tỉnh và A-kim bước vào. Cả ba vừa mới tới đây. Gian
phòng chật ních người đứng sắp thành hàng. Đồng chí chủ
tịch bước lên chỗ đặt khẩu súng máy thường ngày dùng để
tập, giơ tay lên, cất tiếng nói:
- Các đồng chí, hôm nay chúng ta họp nhau ở đây vì một
công việc rất khẩn trương. Việc đó đòi hỏi một tinh thần
trách nhiệm cao. Bây giờ thì tôi có thể nói ra điều mà hôm
qua chưa thể nói được, vì đấy là một bí mật quân sự quan
trọng. Đêm mai, trong thành phố này và các thành phố khác
của U-cơ-ren sẽ nổ ra cuộc nổi loạn của bọn phản cách
mạng. Thành phố đã đầy rẫy bọn võ quan trắng. Lũ phỉ đã
tập trung quanh thành. Một bộ phận của bọn phiến loạn ấy
đã chui vào tiểu đoàn thiết giáp của ta làm chân lái xe. Ủy
ban đặc biệt của ta đã khám phá ra vụ này và hôm nay,
chúng tôi huy động tất cả tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên
cộng sản tới đây để vũ trang đi dẹp phiến loạn. Tiểu đoàn
cộng sản thứ nhất và thứ hai sẽ cùng phối hợp hành động
với các đơn vị học sinh sĩ quan và Ban đặc biệt đã từng
quen chiến đấu. Học viên sĩ quan đã đi trước rồi. Giờ đến
lượt các đồng chí. Các đồng chí có mười lăm phút để nhận
vũ khí và xếp đội ngũ cho xong. Đồng chí Giu-khơ-rai đây
sẽ chỉ huy chiến đấu. Các đội trưởng sẽ nhận chỉ thị cụ thể
ở đồng chí Giu-khơ-rai. Tôi thiết tưởng không cần nói nhiều
với tiểu đoàn cộng sản ta đây về tính chất nghiêm trọng của
giờ phút này. Cuộc phiến loạn sắp nổ ngày mai, chúng ta
phải bóp chết nó ngay hôm nay.
Mười lăm phút sau, toàn tiểu đoàn đã vũ trang đầy đủ
đội ngũ chỉnh tề đứng trong sân trường. Giu-khơ-rai đưa
mắt nhìn những hàng người đứng im.
Đứng trước, cách hàng ba bước, hai người nai nịt gọn
gàng: tiểu đoàn trưởng Mê-nhay-lô, vóc người to lớn, vốn
làm nghề thợ đúc ở U-ran, và bên cạnh là A-kim làm chính
ủy. Bên trái, những trung đội thuộc đại đội thứ nhất. Trước
đại đội hai bước là đồng chí đại đội trưởng và đồng chí
chính trị viên. Sau lưng họ, những hàng quân im lặng của
tiểu đoàn cộng sản. Ba trăm tay súng.
Giu-khơ-rai ra hiệu lệnh:
- Đến giờ rồi! Tiến lên, bước!
Ba trăm chiến sĩ tiến bước vào các ngả phố vắng tanh.
Thành phố đang ngủ yên.
Tiểu đoàn dừng chân tại phố Lơ-vốp, ngay chỗ đối diện
với phố Đi-cai. Bắt đầu hành động từ địa điểm này.
Các khối nhà đều bị bao vây một cách lặng lẽ. Cơ quan
tham mưu đóng ngay trên thềm một cửa hiệu. Một chiếc ô-
tô từ khu trung tâm đổ xuống, xuôi dọc con đường Lơ-vốp,
đèn pha rọi lên hè phố. Chiếc xe đỗ xịch trước cơ quan
tham mưu.
Anh thanh niên Guy-gô, con trai Lít-kê, lẩn này lái xe
đưa cha tới. Cha anh là tư lệnh đơn vị bảo vệ thành phố.
Ông nhảy xuống đường nói với con mấy câu vắn tắt bằng
tiếng Lét-tô-ni. Chiếc xe lại nhảy chồm lên phía trước và
trong nháy mắt đã biến vào lối rẽ sang phố Đơ-ni-tơ-rép.
Guy-gô mắt nhìn không chớp, hai tay như gắn chặt vào tay
lái, ngoặt sang phải, ngoặt sang trái.
Cái tính lái xe táo bạo của Guy-gô thế mà cũng có lúc
được việc! Chẳng ai còn có ý muốn bắt phạt giam anh hai
đêm vì cái tội cầm lái điên cuồng này nữa.
Và Guy-gô bay khắp phố phường như một trận cuồng
phong.
Guy-gô đưa Giu-khơ-rai thoắt từ đầu này thành phố,
trong nháy mắt đã vụt đến đầu kia thành phố, làm cho Giu-
khơ-rai cũng phải khen:
- Guy-gô ạ, nếu đêm nay không chẹt phải ai thì mai cậu
sẽ được thưởng một chiếc đồng hồ vàng.
Guy-gô mừng quýnh, đáp lại bằng giọng Lét-tô- ni lơ lớ
của anh:
- Em thì cứ tưởng là em đến phải ngồi tù mười ngày vì
cái tội lái bạt mạng này mất.
Những đòn đầu tiên nhằm giáng vào tổng hành dinh bọn
phiến loạn. Những tên bị bắt và những tài liệu thu được
đưa ngay đến Ban đặc biệt.
Trên phố Di-cai, ở ngõ cũng mang cái tên lạ lùng ấy tại
nhà số 1 có một đứa tên là Xuy-béc. Căn nhà nó ở có cửa
sổ nhìn ra một khu vườn, vườn này chỉ cách có bức tường
ngăn với ngôi nhà trước kia là nhà tu kín. Lúc quân ta đến
thì căn nhà không có ai ở đấy. Láng giềng nói là hôm ấy
Xuy-béc không về nhà. Khám trong nhà thì thấy có một hòm
lựu đạn cùng với bản danh sách có kèm địa chỉ. Đồng chí
Lít-kê hạ lệnh phục kích sẵn ở những địa chỉ ấy, còn mình
thì đứng lại bên bàn một phút xét qua những tài liệu tìm
được.
Người đứng gác ở trong công viên là một học viên sĩ
quan trẻ tuổi. Cậu ta trông thấy rõ cửa sổ có ánh sáng.
Đứng ở trong góc này, có một mình thôi, chẳng thú tí nào;
cậu thấy ngài ngại. Người ta ra lệnh cho cậu gác bức
tường bao phủ khu vườn. Nhưng từ chỗ tường đến chỗ
ánh sáng yên ổn ở cửa sổ kia còn xa lắm. Hơn nữa, mặt
trăng quái ác kia lại cứ bị mây che mờ luôn. Trong bóng
tối, bụi cây nào cũng như có người trong ấy. Cậu học viên
sĩ quan lấy lưỡi lê dò dẫm quanh mình: chẳng có gì cả.
"Sao lại đặt mình gác ở đây? Tường cao thế thì ai mà
leo vào được kia chứ. Thôi mình lại gần cửa sổ ngó vào
xem cái đã !". Nghĩ thế, cậu ta nhìn đầu tường cao chót vót
một lần nữa, rồi bước khỏi góc tối sặc mùi ẩm mốc ấy.
Cậu dừng lại bên cửa sổ một lát. Đồng chí Lít-kê thu nhặt
nhanh những giấy tờ và định bước ra khỏi phòng. Giữa lúc
đó trên đầu tường hiện ra một bóng đen. Bóng đen đó từ
trên tường nhìn thấy rõ người đứng gác trước cửa sổ và
cả người đang đứng ở trong phòng. Nhẹn như một con
mèo, nó chuyền sang một ngọn cây rồi bò xuống đất, rón
rén đến chỗ anh lính gác, tay nó vung lên và anh học viên sĩ
quan quỵ xuống. Lưỡi đoản kiếm cắm phập vào cổ người
gác lút đến tận cán.
Tiếng súng nổ giữa khu vườn đập vào tai các chiến sĩ
đang vây quanh khu phố như một luồng điện giật.
Sáu người lộp cộp chạy đến.
Đồng chí Lít-kê đã chết, xác ngã trong chiếc ghế bành,
đầu đẫm máu gục trên bàn. Kính cửa sổ vỡ toang. Kẻ địch
không có thời giờ lấy lại tài liệu.
Tiếng nổ tới tấp vang lên ở chân tường khu nhà tu kín.
Hung thủ đã nhảy ra phố và chuồn về khoảng đất trống ở
đường Lu-ki-an, vừa chạy hắn vừa bắn trở lại. Nhưng thoát
sao được: một viên đạn của ta đã bắn theo trúng.
Khám xét suốt đêm. Hàng trăm người không có tên
trong danh sách hộ khẩu, nhưng có vũ khí và những tài liệu
khả nghi trong người, đã bị giải đến Ban đặc biệt, ở đây có
bộ phận chuyên môn tra xét.
Ở một vài chỗ bọn phiến loạn đã dùng vũ trang kháng
cự. Ở phố Gi-liên, đồng chí An-tô-sa bị chúng bắn chết
giữa lúc ta đang khám xét một nhà.
Tiểu đoàn Xô-lô-men-ca đêm ấy mất đi năm chiến sĩ.
Ban đặc biệt mất đồng chí Lit-kê, lão đồng chí bôn-sê-vích,
người lính gác trung thành và mẫn cán của nước cộng hòa.
Âm mưu phiến loạn đã bị chặn đứng.
Cũng đêm ấy Ở Sê-pê-tốp-ca, lão cố Vát-xi-li, hai con
gái và cả bè lũ nhà hắn đã bị bắt.
Tình thế nguy ngập đã dịu dần.
Song một kẻ thù mới lại đe dọa thành phố : thiếu củi,
đường xe lửa bị tê liệt, và tiếp sau đó là giặc đói và giặc
rét.
Bánh mì và củi sẽ quyết định tất cả.
CHƯƠNG II
Giu-khơ-rai trầm ngâm suy nghĩ; anh rút tẩu thuốc lá
đang ngậm ở miệng ra và khẽ lấy ngón tay sờ vào tàn
thuốc. Tẩu đã tắt ngóm.
Chừng mười điếu thuốc lá tỏa khói xám, cuộn khúc trên
cao gần những ngọn đèn trần bóng mờ, lượn trên chiếc
ghế bành của đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh. Nét mặt
những người ngồi quanh bàn trong góc phòng làm việc
trông chỉ thấy lờ mờ như bị một làn sương nhẹ bao phủ.
Tô-ca-rếp ngồi cạnh đồng chí chủ tịch Ban chấp hành,
ngực tì vào bàn. Ông già bứt chòm râu, cử chỉ đầy vẻ bực
tức. Chốc chốc Tô-ca-rếp lại đưa mắt liếc nhìn một tên hói
trán lùn tịt: tên này giọng the thé đang nói liến thoắng hàng
tràng những câu rỗng tuếch như trứng đã mút hết lòng.
A-kim bắt gặp cái liếc mắt của người thợ nguội già Tô-
ca-rếp, cái nhìn đó làm anh nhớ lại thời thơ ấu: hồi đó nhà
bố mẹ anh có một con gà chọi, anh thường gọi đùa là "con
Móc mắt". Trước khi nhảy xổ vào đối thủ, con gà chọi ấy
cũng nhìn như kiểu Tô-ca-rếp đang nhìn bây giờ.
Cuộc họp tỉnh ủy đã kéo dài hơn một tiếng rồi. Tên hói
trán là chủ tịch ủy ban vận chuyển gỗ củi. Hắn vừa lấy
những ngón tay rất nhẹn lật lật tập giấy, vừa nói thao thao:
- Chính vì những lý do khách quan ấy mà quyết nghị của
tỉnh ủy và của cục quản lý đường sắt không thể thực hiện
được. Tôi xin nhắc lại: dù hạn cho một tháng nữa, chúng tôi
cũng không thể cung cấp được hơn bốn trăm thước khối
củi gỗ. Còn con số mười tám vạn thước khối mà các đồng
chí ấn định thì là... - Tên hói trán nghĩ để tìm ra tiếng muốn
nói. - Thì là chuyện không tưởng! - Nói xong hắn mím cái
miệng nhỏ xíu mắm môi lại, vẻ bực tức.
Im lặng thấy càng kéo dài.
Giu-khơ-rai lấy móng tay gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi ra.
Giọng khàn khàn trong cổ họng Tô-ca-rếp phá tan không
khí im lặng:
- Cần quái gì phải nhai đi nhai lại mãi như thế. Anh bảo
rằng ở ủy ban vận chuyển gỗ của anh trước đây không sẵn
củi, giờ cũng không có nốt và sau này các anh cũng không
đào đâu ra được . . . Có phải anh nói thế không?
Tên hói trán nhún vai:
- Xin lỗi đồng chí, củi thì chúng tôi đã trữ sẵn, chỉ phải
cái không có xe chở đi. . . - Hắn ho lên một tiếng, lấy khăn
tay kẻ ô vuông ra lau cái trán bóng. Lau xong, bàn tay lần
mãi không thấy túi áo đâu, hắn bực mình nhét cái khăn vào
cặp giấy.
Đê nhếch-cô từ góc phòng lên tiếng:
- Thế anh đã tìm cách gì để chở củi chưa? Vì từ khi bọn
phụ trách chuyên môn dính vào cuộc âm mưu phiến loạn bị
bắt đến nay kể đã lâu rồi còn gì!
Tên hói trán quay lại phía Đê-nhếch-cô:.
- Tôi đã ba lần báo cáo với cục đường sắt là không có
phương tiện vận tải thì không làm ăn gì được...
Tô-ca-rếp ngắt lời hắn:
- Cái đó chúng tôi đều đã nghe lắp đi lắp lại mãi rồi -
Tô-ca-rếp hằn học nhìn hắn, giọng bực tức ra mặt - Thế ra
anh cho chúng tôi là đồ ngu cả hay sao?
Câu hỏi ấy làm cho tên hói trán thấy lạnh cả gáy.
Lần này hắn hạ thấp giọng nói khẽ:
- Tôi không chịu trách nhiệm về những hành động của
bọn phản cách mạng.
A-kim hỏi:
- Nhưng anh hẳn phải biết là nơi các anh cho đốn gỗ ở
cách đường xe lửa quá xa.
- Tôi có nghe nói thế, song đấy không phải là phạm vi
tôi phụ trách, nên tôi không thể báo cáo cấp trên về tình
trạng bất thường xảy ra ở phạm vi người khác được.
Chủ tịch hội đồng công đoàn hỏi:
- Anh có bao nhiêu người làm?
- Gần hai trăm.
Tô-ca-rếp cáu tiết:
- Thế ra một năm mỗi tên ăn hại chỉ làm được độc một
thước khối!
Chủ tịch công đoàn nói tiếp:
- Chúng tôi đã cấp phát cho ủy ban vận chuyển của các
anh khẩu phần lương ăn gấp đôi, chúng tôi phải rút của anh
chị em công nhân để cấp cho các anh như thế, ngược lại
thì các anh làm được những gì? Hai toa bánh mì đưa cho
các anh để phát cho công nhân, các anh đã nhét đâu mất?
Những câu nói từ bốn phía dồn dập trút lên đầu tên trán
hói, nhưng hắn ta tìm cách đánh lảng như con nợ trốn chủ
nợ.
Hắn nói quanh co, trơn tuột như chạch, không trả lời
thẳng, mắt lấm lét nhìn sang hai bên. Hắn đã cảm thấy nguy
đến nơi rồi. Rúm mình trong nỗi lo sợ hoảng hốt, hắn chỉ
ước muốn một điều độc nhất: chóng rời khỏi được chốn
này để về ăn bữa cơm chiều thịnh soạn với con vợ còn trẻ
của hắn giờ đây đang đọc cuốn truyện của Pôn-đờ-cốc để
giết thời giờ.
Giu-khơ-rai vừa chú ý nghe những câu trả lời của hắn,
vừa ghi vào tờ giấy sổ tay: "Phải điều tra kỹ thằng cha này
hơn, đây không phải đơn thuần là vấn đề thiếu tích cực. Đã
có một số tài liệu về hắn... Thôi, nói chuyện với hắn đã đủ
rồi. Để hắn cút đi cho rảnh. Còn chúng ta thì bắt tay vào
việc của ta đi thôi".
Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành đọc mảnh giấy ghi
mấy hàng chữ đó và nhìn Giu-khơ-rai gật đầu.
Giu-khơ-rai đứng dậy đi ra phòng ngoài gọi dây nói.
Lúc anh trở vào, chủ tịch Ban chấp hành đã đọc đến đoạn
cuối của nghị quyết.
" Cách chức toàn ban phụ trách cơ quan vận chuyển gỗ
vì hành động phá hoại hiển nhiên. Đưa vụ đốn gỗ này ra
tòa".
Cơ sự đã không đến nỗi nguy như hắn chờ đợi. Thật ra,
cách chức vì phá hoại thì chắc là đặt vấn đề nghi ngờ lòng
trung thành của hắn, nhưng đấy chẳng qua là chuyện vặt.
Còn việc đốn gỗ ở công trường Bai-a-rơ-ca thì hắn không
phải lo, vì nó không phải phạm vi của hắn. "Chà mình cứ
tưởng là tụi nó đã lần ra được manh mối gì rồi kia..."
Hắn gần như đã yên trí lắm, vừa cho giấy má vào cặp
vừa nói:
- Phải, tôi là một nhà chuyên môn ngoài Đảng, nên các
anh có quyền không tin tôi là phải. Nhưng lương tâm tôi
trong sạch. Tôi không làm được việc chỉ vì thực tế tôi
không thể làm nổi thôi.
Không ai trả lời hắn. Hắn bước ra, vội vã xuống thang
gác và mở cửa ra phố, thấy nhẹ nhõm cả người.
Một người mặc áo khoác bộ đội hỏi hắn:
- Vị cho biết tên là gì?
Hắn chột dạ trả lời ấp úng:
- Séc…vin-ski...
Phần tử lạc loài ấy vừa ra khỏi, trong phòng giấy của
chủ tịch Ban chấp hành tỉnh, mười ba cái đầu chụm sát vào
nhau trên chiếc bàn lớn.
Giu-khơ-rai ấn ngón tay trên tấm bản đồ mở rộng:
- Các đồng chí xem... Đây là ga Bai-a-rơ-ca, cách chỗ
lấy gỗ bảy dặm. Ở đấy có hai mươi mốt vạn thước khối gỗ
đang xếp đống. Đội quân lao động đã khó nhọc tám tháng
trời, mất bao nhiêu là công lao động. Kết quả thế nào?
Chúng nó đã phản ta, xe lửa và thành phố vẫn không có củi
để đốt. Gỗ đốn rồi phải chở sáu dặm đường nữa mới tới
được nhà ga. Muốn thế phải dùng ít nhất là năm nghìn xe
ngựa chở suốt một tháng, mà phải chở mỗi ngày hai
chuyến mới được. Thôn gần nhất ở đấy cũng cách mười
lăm dặm. Lại phải cái vạ tên O-rơ-lích và lũ phỉ lâu la của
hắn luôn quấy phá ở những vùng này. Các đồng chí có hiểu
tình hình như vậy là thế nào không?. . . Thế này đây: theo kế
hoạch thì đáng lẽ công trường khai thác gỗ bắt đầu từ đây
và làm dần về phía nhà ga. Nhưng quân khốn nạn chúng nó
lại vào mãi tận rừng sâu mở công trường. Chúng đã tính
sát: chúng ta không thể nào chở gỗ đã chặt tới đường sắt
được. Thật thế, chúng ta cũng chẳng đào đâu ra lấy trăm
chiếc xe ngựa. Chúng đã chơi chúng ta những đòn như thế
đấy. Lợi hại chẳng kém gì cái ban bạo động của chúng.
Quả đấm nắm chặt của Giu-khơ-rai nặng nề rơi chát
xuống tấm bản đồ.
Cả mười ba người đều tưởng tượng thấy rất rõ tai họa
đang ập đến, tai họa mà Giu-khơ-rai không nói ra. Mùa
đông đã kề bên cửa. Nhà thương, trường học, các cơ
quan và hàng trăm ngàn nhân dân lâm vào cảnh gió rét cắt
da mà không củi đốt, còn ở các nhà ga, hành khách đông
như kiến mà xe lửa mỗi tuần chỉ chạy được có một chuyến.
Mỗi người suy nghĩ miên man.
Giu-khơ-rai buông nắm tay ra:
- Có một biện pháp, các đồng chí ạ: phải làm cho xong
trong vòng ba tháng một con đường sắt nhỏ từ ga tới chỗ
đẵn gỗ - bảy dặm. Tính thế nào để trong một tháng rưỡi thì
đã làm được đến đầu chỗ đẵn gỗ. Việc này tôi đã nghĩ tám
ngày nay rồi... Muốn làm được thì... Giọng Giu-khơ-rai rít
lên trong cổ họng khô - Thì cần ba trăm năm mươi công
nhân và hai kỹ sư. Ở kho đoạn đầu máy Pu-sa Vô-đi-xa,
chúng ta đã có sẵn đường ray và bảy chiếc đầu máy do
thanh niên cộng sản tìm được. Trước chiến tranh người ta
đã định đặt một con đường sắt nhỏ từ đấy vào thành phố.
Nhưng ở Bai-a-rơ-ca, công nhân không có chỗ ở tại đấy
chỉ có độc một cái trường lâm nghiệp cũ đã đổ nát ở mãi tít
trong rừng. Phải chia công nhân thành từng toán đến làm
việc, hai tuần thay phiên một lần, vì mỗi phiên làm lâu hơn
nữa thì không chịu nổi. Ta phải phái các đoàn viên thanh
niên cộng sản đến đấy, anh A-kim thấy thế nào?
Và không đợi trả lời, Giu-khơ-rai nói tiếp:
- Đoàn thanh niên cộng sản phải cố hết sức điều động
tất cả những đoàn viên nào có thể điều động được đến đấy
trước hết là tổ chức đoàn ở Xô-lô-men- ca và một bộ phận
ở trong thành phố. Nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng nếu giải
thích cho lứa trẻ biết rằng có thế mới cứu được thành phố
khỏi chết rét, cứu được đường xe lửa khỏi bị tê liệt thì bọn
trẻ sẽ làm bằng được.
Đồng chí phụ trách đường sắt lắc đầu tỏ vẻ không tin,
giọng đồng chí mệt mỏi:
- Không biết giải quyết thế có ổn hay không. Tôi tính
không tài nào làm được đoạn đường sắt dài bảy dặm, trên
một khoảng đất không trơ trụi, trong hoàn cảnh hiện nay
đang tiết trời mùa thu, sắp bắt đầu có mưa rồi, lại sắp mùa
đông tháng giá…
Giu-khơ-rai, không quay lại nhìn đồng chí ấy cắt ngay:
- Đồng chí An-đrây Va-xi-li-ê-vích ạ, đồng chí cần phải
để tâm săn sóc hơn việc đốn gỗ! Còn con đường này,
chúng ta sẽ làm được.. Chẳng có ai lại chịu ngồi khoanh
tay chờ chết rét đâu.
*
Những hòm dụng cụ cuối cùng đã xếp lên toa xe.
Người làm trên xe lửa, ai nấy đã về phần việc của mình rồi.
Ngoài trời mưa nhỏ hạt, buốt cóng. Những giọt mưa trong
như những hạt pha lê lăn trên chiếc áo da ướt bóng loáng
của Ri-ta.
Từ biệt Tô-ca-rếp, Ri-ta bắt chặt tay đồng chí già. và
khẽ nói:
- Chúc các đồng chí thành công.
Cụ già ngước hàng lông mày xám, thân thiết nhìn Ri-ta.
Cụ nói lẩm bẩm, thốt lên những tiếng như đáp lại ý nghĩ của
chính mình:
- Phải, cái quân khốn ấy đã làm chúng mình mất ăn mất
ngủ. Ở đây các đồng chí phải để ý theo dõi. Nếu bên chúng
tôi có chuyện gì rắc rối thì bất cứ việc gì cần đến, các đồng
chí phải giúp ngay một tay mới được. Vì cái lũ đểu ấy
không có làm cái gì mà không ba hoa kiểu cách ngoài
miệng bao giờ. Thôi, tàu sắp chạy, già phải lên rồi, con ạ.
Ông già khép chặt cái áo vét-tông lại. Phút cuối cùng,
Ri-ta làm ra vẻ vô tình hỏi:
- Kìa, thế Pa-ven không cùng đi với các đồng chí hay
sao? Trong đám anh chị em đi đây, chẳng thấy anh ấy đâu
cả.
- À, cậu ấy hôm qua đã cùng đồng chí phụ trách công
trình ngồi xe goòng đi trước để chuẩn bị cho chúng tôi tới
sau.
Trên sân ga, Giác-ki và Đu-ba-va đang vội vã đi lại phía
cụ Tô-ca-rếp và Ri-ta. Cùng đi với họ có cả An-na Bô-khác,
áo ngắn mặc ngoài vắt thõng ngang vai, những ngón tay
mảnh khảnh của chị cặp một điếu thuốc lá đã tắt.
Nhìn về phía ba người đang đi tới, Ri-ta hỏi rốn cụ Tô-
ca-rếp:
- Pa-ven học với bác ra sao rồi, bác?
Tô-ca-rếp ngạc nhiên nhìn chị:
- Học gì? Cậu ấy lâu nay do cháu hướng dẫn học tập
cơ mà? Đã nhiều lần cậu ta nói với bác về cháu đấy. Thằng
bé nó khen cháu không ngớt lời.
Ri-ta nghe ông cụ nói, bụng vẫn chưa tin.
- Có thật thế không, đồng chí Tô-ca-rếp? Theo cháu
biết, anh ấy vẫn thường đến nhà bác để nhờ bác giảng lại
bài cháu hướng dẫn.
Ông già phá ra cười:
- Đến nhà bác à?... Tôi có thấy cậu ấy đến hỏi tôi bao
giờ đâu!
Còi tàu rú lên, Cơ-la-vi-sếch từ trong toa kêu to:
- Đồng chí Ri-ta ơi ! Đồng chí để cho bố già đi với
chúng tôi thôi chứ. Ai lại cứ giữ mãi ông cụ lại mà chuyện
thế ! Không có bố già thì chúng tôi biết làm ăn thế nào?
Anh chàng người Tiệp Khắc đó còn đang muốn nói
thêm gì nữa, nhưng nhận ra ba đồng chí đang đi đến gần
toa xe, anh im ngay. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh bắt
gặp cái nhìn lo lắng của An-na; trông thấy An-na mỉm cười
từ biệt Đu-ba-va, anh rời cửa sổ quay phắt ngay vào trong
toa, lòng buồn rười rượi.
*
Mưa thu quất vào mặt người. Những đám mây xám
nghịt mọng nước kéo lê thê trên nền trời thấp. Cảnh thu
muộn, những cánh rừng đã trút hết lá. Hàng cây cổ thụ
đứng chau mày, giấu lớp vỏ nhăn nheo dưới màng rêu
màu nâu. Mùa thu tàn nhẫn đã lột trần bộ áo sặc sỡ tươi
màu của rừng để thân cây đứng trơ trụi và hốc hác.
Ga xép hiu quạnh này náu mình chính giữa rừng vắng.
Từ ke bốc hàng lát đá, mới đắp thêm một dải đất lầy nhầy
chạy về phía rừng. Chung quanh, người hì hục làm, đông
như kiến.
Bùn nhầy nhụa, dính lấy mỗi bước đi. Ủng da lội bì bà bì
bõm nghe lớp nhớp khó chịu. Người ta hùng hục xúc đất,
đổ nền. Xà beng chạm loảng xoảng, cuốc bổ vào đá chan
chát.
Mưa tuôn như rây bột. Hạt mưa lạnh thấm qua quần áo.
Mưa đang cuốn đi công trình lao động của con người. Đất
thó vữa ra như cháo đặc sệt cứ từ những chỗ mới đắp tùn
xuống.
Quần áo bị ướt sũng, vừa nặng, vừa lạnh buốt. Nhưng
ngày này qua ngày khác, người ta vẫn cố làm rốn đến tận
tối mịt mới nghỉ tay.
Dải đất mới đắp mỗi ngày một chui thêm mãi vào rừng
sâu.
Cách nhà ga không xa, ngôi nhà đá sừng sững đứng
trơ xương, trông dữ tợn. Những thứ gì có thể dỡ được,
tháo được hoặc phá được thì đã bị lấy trộm đi từ bao giờ
rồi. Các cửa sổ, cửa ra vào giờ chỉ còn là những lỗ hổng.
Các cửa lò dưới bếp chỉ còn là những khoảng đen ngòm.
Mái nhà trơ những khe, lỗ, để lộ ra kèo cột bên trong.
Chỉ có nền nhà bằng bê-tông của bốn phòng rộng là
còn nguyên thôi. Tối đến, bốn trăm con người quần áo ướt
sũng, bê bết bùn lầy, chen chúc nhau nằm lên đấy rét run
cầm cập. Người ta đứng lại ngoài cửa vắt quần áo, từng
dòng nước bùn đục rỏ tong tong xuống đất. Họ nguyền rủa
trời mưa gió, cảnh lầy lội. Trên ổ rơm rải mỏng dính lên nền
bê-tông, họ nằm thành hàng san sát quắp lấy nhau mà ngủ
cho ấm. Quần áo bốc hơi ngùn ngụt mà không tài nào khô
được. Cửa sổ mất kính, che tạm bằng mấy chiếc bao tải,
nước mưa hắt vào rỉ xuống nền nhà. Từng cơn mưa đổ hồi
như trống giục, trút nước lên những mảnh tôn còn lại trên
mái; gió gào luồn qua khe liếp chặn cửa, thổi ùa vào trong.
Sáng dậy, đoàn người kéo đến túp lều xiêu vẹo xưa kia
là bếp; họ làm một bát nước chè rồi ra công trường. Trưa
nào cũng chỉ độc một món đậu nấu không chán ngấy với
sáu lạng bánh mì đen thui như than đá. Thành phố chỉ có
thể cung cấp cho họ được đến thế thôi.
Phụ trách công trình là ông già Va-lê-ri-an Pa-tô- sơ-kin,
người cao lớn khô đét, hai má hóp nhăn nheo. Cán bộ kỹ
thuật là Va-cu-lên-cô, người lùn tịt, mũi sư tử ngồi chòm
chõm trên khuôn mặt xương xẩu như lấy rìu mà đẽo vậy. Họ
đều ở nhờ nhà người trưởng ga.
Tô-ca-rếp ngủ ở trong phòng đồng chí công an đặc biệt
công tác ở ga này. Đồng chí ấy tên là Khô-li-a- va, có hai
cẳng ngắn ngủn, tính người cựa quậy luôn chân luôn tay, y
như giọt thủy ngân.
Đoàn người xây dựng đường sắt kiên cường chịu
đựng mọi sự thiếu thốn.
Nền đường mới đắp mỗi ngày một thọc sâu vào rừng.
Trong đoàn đã có chín người đào ngũ. Mấy ngày sau lại
có năm người nữa bỏ trốn.
Sang tuần thứ hai, công trường bị nó chơi một vố đầu
tiên: chuyến tàu chiều từ tỉnh lên không chở bánh mì cho
công trường.
Đu-ba-va đánh thức cụ Tô-ca-rếp dậy và báo tin ấy cho
đồng chí.
Người bí thư già của Đảng bộ công trường buông
thõng hai chân đầy lông xuống đất, tay gãi sồn sột vào nách
một cách giận dữ. Đồng chí vừa mặc quần áo vừa lẩm
bẩm:
- Chúng đã giở trò rồi!
Vừa lúc ấy, anh chàng Khô-li-a-va béo tròn như một quả
bóng lăn vào. Tô-ca-rếp liền ra lệnh cho anh ta:
- Đi nhanh ra dây nói, gọi đến Ban đặc biệt. - Rồi quay
lại dặn Đu-ba-va: - Còn cậu thì đừng có hở cái việc bánh mì
này cho một ai nhé !
Mất nửa tiếng quặc nhau với các nhân viên tổng đài
điện thoại, nhờ thái độ cương quyết, Khô-li-a-va đã liên lạc
được với đồng chí phó chủ nhiệm Ban đặc biệt là Giu-khơ-
rai. Nghe thấy Khô-li-a-va cãi nhau hoài với các nhân viên
tổng đài, Tô-ca-rếp sốt ruột quá giậm chân thình thịch.
Tiếng Giu-khơ-rai thét lên trong ống nói:
- Sao? Không chở bánh mì tới à? Được, để tôi hỏi
ngay lập tức xem ai làm ra cái chuyện này?
Tô-ca-rếp bực tức la to vào máy:
- Đồng chí cho tôi biết ngay điều này thì hơn: mai chúng
tôi lấy gì cho anh em ăn đây.
Giu-khơ-rai suy nghĩ. Một lát khá lâu sau, ông già bí thư
Đảng ủy công trường nghe đáp lại:
- Bánh mì, chúng tôi sẽ chở đến ngay đêm nay. Tôi sẽ
phái Guy-gô đánh xe tới, cậu ấy biết đường. Sáng mai, các
đồng chí sẽ có bánh ăn.
Tờ mờ sáng hôm sau, một chuyến xe bùn bắn bê bết
chở bánh mì tới ga. Lít-kê con, mệt nhoài, bước ra khỏi xe,
mặt mày phờ phạc vì suốt đêm không ngủ.
Cuộc đấu tranh để làm xong con đường ngày càng gay
go quyết liệt. Phân cục đường sắt báo cho biết là không có
tà vẹt. Ở thành phố thì không đào đâu ra phương tiện để
chuyển đường ray và đầu máy đến công trường. Ngay đến
cả các đầu máy nhỏ cũng cần phải sửa chữa lại khá nhiều
mới chạy được. Toán công nhân thứ nhất sắp hết hạn, thế
mà toán đến thay phiên vẫn chưa thấy mặt đâu cả. Không
thể nào cứ giữ những người đã kiệt sức này ở lại làm tiếp
được nữa.
Trong nếp nhà cũ kỹ, dưới ánh đèn dầu le lói, hội nghị
cán bộ kéo dài cho đến tận khuya.
Sáng sớm hôm sau, Tô-ca-rếp, Đu-ba-va, Cơ-la-vi-
sếch mang sáu người về thành phố để chữa đầu máy và
lấy đường ray. Cơ-la-vi-sếch nguyên là công nhân nướng
bánh mì nên được phái đến ban tiếp phẩm để kiểm tra, còn
những anh em khác thì đi cả về Pu- sa Vô-đi-sa.
Mà mưa thì vẫn trút xuống.
*
Pa-ven vất vả mới rút được chân ra khỏi vũng vùn nhầy
nhụa. Cảm thấy bần chân bỗng nhiên tê buốt, anh biết là
chiếc đế giày mục đã tụt mất hẳn rồi. Ngay từ ngày đầu tới
đây cho đến giờ, anh đã khổ sở vì đôi giày ống hỏng, đôi
giày lúc nào cũng ướt sũng, cũng bết bùn. Bây giờ thì một
chiếc đã mất hẳn đế, bàn chân giẫm thẳng trong bùn lạnh
thấu xương. Chân tê giá quá chừng, anh không còn sức để
làm việc nữa. Anh móc chiếc đế giày mới tụt ra khỏi bùn,
nhìn nó mà thất vọng. Anh quên cả lời anh tự hứa với mình
hôm trước, buột mồm văng tục chửi rủa,. rồi bỏ đi vào túp
lều nay dùng làm bếp. Ngồi cạnh bếp, anh tháo chiếc tất
ướt đầm đìa ra và hơ bàn chân đã tê cứng vào lửa.
Chị Ô-đác-ca, vợ bác gác đường sắt, được người cấp
dưỡng đưa vào làm phụ, đang thái củ cải trên chiếc bàn
nhà bếp. Trời phú cho chị vợ còn trẻ ấy của bác gác
đường sức vóc hơn người, đôi vai lực điền, bộ ngực dữ
như vâm, đôi hông dư sức, thẳng đứng. Chị ta đưa dao
thoăn thoắt, đống rau thái rồi chẳng mấy chốc đã chất cao
trên bàn.
Thấy mặt Pa-ven, chị ta nhìn có vẻ khinh bỉ và hằn học
hỏi:
- Định đến chực ăn đấy à? Còn hơi sớm một chút.
Chắc lại trốn việc chứ gì? Mà sao lại thò chân vào đấy?
Đây là nhà bếp chứ có phải nhà tắm đâu.
Chị ta đang chửi Pa-ven thì đồng chí cấp dưỡng đứng
tuổi bước vào.
Pa-ven giải thích tại sao mình lại vào bếp:
- Chiếc giày ống của tôi tan nát mất rồi.
Đồng chí cấp dưỡng nhìn chiếc giày ống rách nát và hất
đầu về phía chị Ô-đác-ca:
- Chồng chị ấy cũng võ vẽ nghề thợ giày đấy, nói bác ta
khâu hộ cho, kẻo ở đây không có giày thì tong đời.
Nghe nói, chị Ô-đác-ca nhìn Pa-ven và cảm thấy hơi
ngượng. Chị thú thật:
- Thế mà tôi đã tưởng lầm là anh trốn việc vào đây.
Pa-ven cười. Đến lượt chị Ô-đác-ca ngắm nghía chiếc
giày có vẻ là tay lành nghề lắm:
- Giày này chồng tôi chẳng buồn chữa đâu, giầy thế này
chữa chỉ toi công. Thôi để tôi mang đến cho anh một chiếc
giày cao-su cũ, tôi thấy bỏ vương ở nhà tôi ấy. Anh xỏ vào
cũng đỡ lạnh chân. Chứ ai đời lại để giầy không có đế mà
đi được, thật tội nợ. Nay mai lại sắp đại hàn, giày với dép
như thế thì anh đến quỵ mất.
Lần này thì chị Ô-đác-ca nói có chiều thương hại Pa-
ven lắm. Và chị đặt dao xuống, đi ra.
Một lát, chị mang về chiếc giày cao su đi tuyết và một
miếng vải băng. Chân hơ nóng, lấy vải bọc lại, thọc vào
giày rồi, Pa-ven lặng nhìn chị Ô-đác-ca thầm tỏ ý cảm ơn.
Tô-ca-rếp ở tỉnh về, nét mặt hầm hầm, giận dữ.
Đồng chí triệu tập các cán bộ lại nhà Khô-li-a-va và báo
cho mọi người biết những tin chẳng có gì là phấn khởi cả.
Đồng chí báo cáo với anh em:
- Chỗ nào cũng ỳ ra. Đi đến đâu cũng thấy bánh xe quay
nhưng quay chổng lên trời cả. Phải thấy rằng chúng ta
chưa trừ tiệt được bọn chó trắng. Khi chúng không còn thò
ra mống nào nữa thì nghĩa là chúng vẫn còn. Tôi nói toạc ra
cho anh em biết là công việc không được chạy lắm. Toán
thứ hai đến thay phiên giờ vẫn chưa tập hợp xong. Sẽ gửi
đến đây được bao nhiêu người cũng chưa rõ. Đại hàn sắp
tới nơi rồi. Trước khi trời bắt đầu vào rét, dù chết chúng ta
cũng phải vượt qua được đoạn lầy. Nếu không, rét đến, có
lấy răng mà gặm đất cũng không nổi đoạn đường. Ở trên
tỉnh, bọn nào làm láo rồi sẽ bị trùy cẩn thận. Còn chúng ta ở
đây phải ra sức làm nhanh gấp đôi mới được. Dù có chết
đi chết lại năm lần cũng phải làm cho xong nhánh đường
sắt này. Không xong thì còn mặt mũi nào làm người bôn-
sê-vích nữa. Không xong thì chỉ là một bọn ươn hèn mà
thôi. - Tô-ca- rếp nói, giọng hôm nay không khàn khàn như
mọi khi, tiếng cụ rung lên lanh lảnh như tiếng thép. Đôi mắt
sáng quắc dưới hàng lông mày cau cau đủ tỏ quyết tâm
ngoan cường của đồng chí già.
- Ngay hôm nay chúng ta sẽ họp kín, đánh thông trong
nội bộ. Ngày mai sẽ đi làm cả. Sáng mai thì cho những
người ngoài Đảng họ về. Còn chúng ta thì ở lại. Quyết nghị
của tỉnh ủy đây. - Tô-ca-rếp đưa tờ giấy gấp tư cho Pan-
cơ-ra-tốp.
Nhìn qua vai Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven thấy trong giấy có
những hàng chữ: "Cần thiết giữ lại ở công trường tất cả
các đoàn viên. Cho đến khi nào chở được chuyến gỗ thứ
nhất về mới được thay phiên. Thừa lệnh bí thư Ban chấp
hành Tỉnh. Ri-ta Uốt-chi-nô-vích".
Căn nhà chật chội, không còn chỗ mà len vào nữa. Một
trăm hai mươi con người chen chúc nhau, người đứng
dựa tường, người leo lên bàn, có người leo lên cả lò bếp.
Cuộc họp do Pan-cơ-ra-tốp khai mạc. Lão đồng chí Tô-
ca-rếp nói ngắn thôi, nhưng đoạn cuối làm choáng váng
mọi người:
- Ngày mai, các đảng viên và đoàn viên đều ở lại.
Ông già giơ tay đập vào khoảng không như để nhấn
mạnh là quyết nghị ấy như đanh đóng cột rồi. Cử chỉ ấy làm
tan vỡ mọi hy vọng muốn về tỉnh, về với những người thân,
tan hết hy vọng rút chân ra khỏi chốn bùn lầy này. Lúc đầu
tiếng nhao nhao nổi lên đến nỗi không còn nghe thấy gì
nữa. Ngọn đèn dầu nhỏ tí lay lắt như cũng phấp phỏng. Tối
quá, không còn trông rõ mặt người. Tiếng nói ồn ào mỗi lúc
một to. Nhóm này kháo nhau, mơ mộng gợi lại cảnh gia
đình đầm ấm, nhóm kia tức giận kêu mệt nhọc. Có nhiều
người không nói gì cả. Và chỉ có một người nói ra miệng
muốn đào ngũ. Giọng căm phẫn của hắn từ trong góc nhà
ném ra những câu nói chêm lời văng tục.
- Mẹ kiếp! Tôi đếch vào ở đây lấy một ngày nào nữa.
Đày ai đi khổ sai thì cũng phải có tội tình gì mới đày người
ta được chứ. Chúng tôi đây thì có tội gì? Đã giam chúng tôi
ở đây nửa tháng, xin đủ lắm rồi. Người ta là người chứ
không phải là sung rụng. Ai quyết định làm chỗ này thì kẻ ấy
tự dẫn xác đến đây mà làm lấy. Ai muốn thì cứ đến mà lăn
mình vào đống bùn này, còn tôi, đời tôi chỉ sống có một lần,
tôi phải giữ lấy thân tôi. Ngay ngày mai là tôi chuồn.
Ô-cu-nhếp đứng ngay trước mặt tên vừa la đó, anh quẹt
diêm soi xem mặt tên đào ngũ đó là đứa nào. Ánh lửa
diêm khoảnh khắc lóe lên trong bóng tối, làm lòi cả cái mặt
méo xệch, nhăn nhó, tức tối, mồm há hốc kia. Ô-cu-nhếp
nhận ra nó là con lão thư ký kế toán ở ban tiếp tế của tỉnh.
- Mày soi cái gì? Tao có phải ăn trộm ăn cắp đâu mà
phải giấu mặt.
Diêm tắt, Pan-cơ-ra-tốp vùng đứng phắt dậy. Anh đưa
mắt nặng nề, nhìn những người đứng gần, giọng ồ ồ:
- Kẻ nào dám há mồm sủa láo đấy? Đứa nào bảo
nhiệm vụ Đảng trao cho là khổ sai? Các anh em, chúng ta
không thể nào trở về tỉnh được. Chỗ của chúng ta là ở đây.
Nếu chúng ta bỏ đi tức là nhân dân sẽ bị chết rét. Ta càng
làm xong sớm thì càng về sớm. Còn đánh bài chuồn như
cái thằng khốn nạn vừa rồi thì lý tưởng của chúng ta, kỷ luật
của chúng ta không cho phép.
Pan-cơ-ra-tốp - anh công nhân bốc vác - vốn không ưa
nói dài, nhưng ngay mấy câu vắn tắt của anh cũng đã lại bị
cái giọng ban nãy cắt lời:
- Người ngoài Đảng, ngoài Đoàn thì được về phải
không?
Pan-cơ-ra-tốp trả lời đốp:
- Được.
Tức thì một tên mặc chiếc bành-tô ngắn diện phố lách
tới chỗ bàn. Hắn quăng ra một cái thẻ. Cái thẻ như cánh
dơi liệng, chạm vào ngực Pan-cơ-ra-tốp, rồi bắn ra, rơi
tõm xuống mặt bàn.
- Thẻ đây, xin các anh cầm lấy hộ. Xin phép các anh,
chết vì mảnh bìa này mà tội vào thân thì tôi xin đủ.
Hắn chưa dứt lời, tiếng phẫn nộ nhao nhao lên khắp
gian nhà:
- Mày quẳng cái gì đi đấy! Không biết nhục à!
- Đồ chó chết, cút đi!
- Cái thứ mặt ấy chui vào Đoàn cốt chỉ để kiếm một chỗ
nào ấm cái thần xác!
- Tống cổ nó đi!
- Được rồi chúng tao cho mày chỗ ấm, rõ cái đồ rận tha
bệnh thương hàn!
Tên vừa vứt thẻ Đoàn đó cúi gằm mặt lùi lũi bước ra.
Hắn đi qua, ai nấy đều giãn ra như tránh một con bệnh
truyền nhiễm. Hắn ra khỏi, cửa đóng kẹt lại.
Pan-cơ-ra-tốp vò cái chứng minh thư hắn bỏ, gí vào
ngọn đèn dầu.
Mảnh bìa bốc cháy, tàn quặn lại.
*
Có tiếng súng nổ. Từ phía túp nhà tồi tàn một bóng
người cưỡi ngựa phóng trốn vào rừng, biến trong đêm tối.
Người từ trong trường học và căn nhà đổ ùa ra. Có người
đụng phải tấm biển bằng gỗ dán đút vào kẽ cửa lớn.
Người ta quẹt diêm và lấy vạt áo che gió; ánh diêm lập lòe,
soi lên thì đọc thấy mấy chữ: "Chúng bay cút ngay khỏi nhà
ga này, ở đâu đến thì lại về đấy ngay lập tức. Kẻ nào ở lại
chúng ông sẽ cho ăn đạn vào sọ. Quân ta sẽ giết sạch,
không tha một mống. Gia hạn cho đến tối mai là cùng, phải
tuân lệnh này" Dưới có chữ ký: "Đầu lĩnh Sê-nốc".
Sê-nốc là bè đảng O-rơ-lích.
Trong phòng Ri-ta, cuốn nhật ký của chị để mở trên bàn.
"Mồng hai tháng Chạp
Sáng nay có tuyết đầu mùa rồi. Trời lạnh ghê người.
Gặp Vê-rê-sláp Ôn-sin-ski ở cầu thang. Mình và anh ta
cùng đi ra ngoài. Ôn-sin-ski nói:
- Tôi bao giờ cũng thích tuyết đầu mùa. Chà lạnh! Cảnh
tuyết đẹp ghê, phải không chị?
Mình nghĩ đến công trường Bai-a-rơ-ca nên trả lời anh
ta là mình rét và tuyết chẳng làm mình vui tí nào, trái lại chỉ
làm mình khổ tâm. Mình nói cho anh ta hiểu vì sao lại thế.
- Đấy là cách nhìn chủ quan của chị thôi. Nếu phát triển
quan điểm của chị thì, chẳng hạn như trong lúc chiến tranh,
không thể nào cho phép có tiếng cười và nói chung tất cả
những gì biểu hiện vui sống được ư? Nhưng thực tế có
như thế đâu chị? Thảm kịch là chỉ ở nơi hỏa tuyến. Ở đấy
mối cảm về cuộc sống luôn luôn bị cái chết kề bên cạnh
bóp nghẹt. Nhưng ngay ở đấy, vẫn có tiếng cười. Còn ở
hậu phương cuộc sống thế nào thì nó vẫn như thế : tiếng
cười và tiếng khóc, đau khổ và mừng vui, khao khát kịch
hát hoan lạc tình cảm, rạo rực tình yêu.
Trong những lời của Ôn-sin-ski, khó mà phân biệt là
châm biếm hay nói thật. Ôn-sin-ski là phái viên của Bộ dân
ủy ngoại giao. Vào Đảng từ năm 1917. Mặc theo lối
phương Tây, râu bao giờ cũng cạo nhẵn, người lúc nào
cũng bôi tí nước hoa. Anh ta ở phòng đồng chí Xê-pan,
cùng nhà với bọn mình. Chiều nào cũng đến thăm mình. Nói
chuyện với anh chàng cũng thấy hay hay. Anh ta đã từng ở
Pa-ri lâu, hiểu nhiều về phương Tây. Nhưng mình không hề
nghĩ rằng anh ta với mình có thể thành bạn thân được. Lý
do: đối với mình, anh ta trước hết coi mình là một phụ nữ,
rồi sau nữa mới là một đồng chí Đảng. Thật ra, anh ta
không che đậy gì những ý nghĩ, những thèm muốn của anh
ta cả. Kể cũng là một tay bạo nói thật. Và cái thú của anh ta
cũng không thô bạo đâu. Anh ta khéo nói tô vẽ cho nó đẹp.
Nhưng mình không ưa anh ta.
Tác phong chất phác tuy hơi cục cằn của Giu-khơ- rai
làm cho mình dễ gần hơn là cái nước sơn hào nhoáng Âu
hóa của Ôn-sin-ski.
Nhận được báo cáo ngắn từ Bai-a-rơ-ca gửi về. Mỗi
ngày đặt được hơn hai trăm thước đường. Tà-vẹt đặt ngay
trên đất đóng băng, lấy rìu và xà beng khoét đất ấy ra, rồi
đặt tà-vẹt vào đấy. Tất cả chỉ còn hai trăm bốn mươi
người. Toán thứ hai đến thay phiên đã bỏ trốn mất một
nửa. Điều kiện làm việc thật là gay. Giá tuyết như vậy
không biết rồi làm ăn ra sao?. .. Đu ba-va ở đấy đã được
một tuần. Trong số tám đầu máy ở Pu-sa Vô-đi-xa chỉ chọn
được năm. Những cái còn lại đều thiếu mất nhiều bộ phận.
Cục quản lý xe điện kiện Đu-ba-va vì anh ta cùng toàn
đội đã dùng vũ lực giữ tất cả các xe điện đi từ Pu-sa Vô-đi-
xa về tỉnh. Đu-ba-va bắt hành khách xuống, lấy toa tàu chở
đường ray đến công trường. Mười chín toa xe điện theo
đường quanh tỉnh chạy về ga. Công nhân xe điện hết sức
giúp họ.
Ở nhà ga, số đoàn viên thanh niên cộng sản Xô- lô-
men-ca còn lại suốt đêm hì hục xếp ray đi, và Đu- ba-va
cùng anh em trong đội chở những thanh ray về công trường
Bai-a-rơ-ca.
A-kim gạt đi không xét vụ khiếu nại về Đu-ba-va này ở
hội nghị thường vụ. Đu-ba-va đã trình bày với chúng tôi tình
trạng quan liêu lề mề quá quắt ở Cục xe điện. Họ khăng
khăng chỉ cho anh hai chiếc tàu điện và nhất định không
cho hơn. Túp-ta lên lớp Đu-ba-va:
- Thời buổi này phải bỏ tác phong du kích ấy đi, bây giờ
mà còn thế nữa thì có phen ngồi tù sớm. Làm như không
thể nào dàn xếp thương lượng được, nên cứ phải dùng tay
súng nói chuyện với nhau hay sao?
Mình chưa bao giờ thấy Đu-ba-va giận dữ đến thế. Anh
ta thét ầm khiến phòng họp Tỉnh đoàn rung lên.
- Đồ cạo giấy sao không vác mặt đứng ra mà thương
lượng? Chỉ ngồi ở đây như con đỉa hút mực lại còn cứ
xoen xoét cái lưỡi. Tớ mà về Bai-a-rơ-ca không có ray thì
người ta hớt mõm tớ đi ! Được rồi, phải gửi cậu lên công
trường mới chừa cái thói ngồi một chỗ làm vướng chân
người khác. Để cho cụ Tô-ca-rếp cụ ấy dạy cho cậu biết
thân?
Túp-ta đã viết đơn kiện Đu-ba-va, nhưng A-kim đề nghị
mình đi ra trước, còn anh ngồi lại nói chuyện với Túp-ta độ
mươi phút. Sau đó, Túp-ta hầm hầm đi ra, đỏ mặt tía tai vì
giận dữ.
3 tháng Chạp.
Tỉnh ủy lại nhận được đơn khiếu nại của Ban đặc biệt
ngành giao thông về một vụ mới xảy ra. Số là Pan-cơ-ra-
tốp, Ô-cu-nhếp cùng mấy đồng chí nữa đến ga Mô-lô-vi-lốp-
ca dỡ cửa lớn và cửa sổ của các tòa nhà bỏ không. Lúc họ
khiêng những thứ này lên tàu thì có một anh công an đặc
biệt của nhà ga định bắt họ. Họ tước vũ khí của anh kia.
Mãi đến khi tàu chạy, họ mới trả súng ngắn cho anh, nhưng
lại moi hết đạn đi. Họ cuỗm tất cả cửa giả đi. Phòng vật
liệu sở công chính lại còn tố cáo Tô-ca-rếp không được
phép đã tự động lấy hai mươi put đinh ở kho Bai-a-rơ-ca.
Thật ra thì số đinh này Tô-ca-rếp đã chia cho nông dân, thế
vào tiền công họ đã chuyển gỗ từ nơi đẵn đến công trường
để làm tà-vẹt.
( Một pút bằng 16,3 ki-lô)
Mình đã đem những chuyện này nói với đồng chí Giu-
khơ-rai. Anh cười bảo: "Tất cả những chuyện ấy, rồi chúng
ta sẽ dàn xếp đâu vào đấy cả".
Trên công trường, tình hình hết sức căng thẳng, quý
từng ngày một. Việc vặt gì cũng phải dùng đến hết mọi áp
lực. Luôn luôn phải kéo cổ những tên kìm hãm công việc
lên Tỉnh ủy. Đám thanh niên trên công trường ngày càng
hay phá nội quy.
Ôn-sin-ski mang đến cho mình một cái lò sưởi điện nhỏ.
Ôn-ga I-u-rê-nhê-va và mình dùng để sưởi tay. Nhưng trong
phòng có lò cũng chẳng ấm thêm. Không hiểu các anh em
làm trên công trường, nằm trong rừng, đêm nay ngủ làm
sao được? Ôn-ga kể chuyện: trong nhà thương lạnh quá,
bệnh nhân không dám thò đầu ra khỏi chăn. Cách ba ngày
mới được đốt củi sưởi một lần.
Không, đồng chí Ôn-sin-ski ạ, thảm kịch ở tiền tuyến
cũng, là thảm kịch của hậu phương.
4 tháng Chạp,
Tuyết suốt đêm. Tuyết xuống rất dày. Anh em ở Bai-a-
rơ-ca viết thư cho mình biết: mọi vật đều bị tuyết phủ hết.
Công việc bị đình lại. Người ta đổ ra quét tuyết lấy đường
đi. Hôm nay tỉnh ủy quyết nghị: công tác đợt thứ nhất trên
công trường trước ngày mồng một tháng Giêng năm 1922
phải làm xong đến giáp giới khu vực đốn gỗ. Người ta kể
lại rằng khi nghị quyết truyền đạt tới Bai-a-rơ-ca, thì Tô-ca-
rếp trả lời: "Nếu anh em chúng tôi không đổ hết, thì nhất
định làm được".
Chẳng nghe thấy nói gì về Pa-ven. Cũng lạ là chẳng có
"vụ" , nào về Pa-ven tương tự như kiểu Pan-cơ-ra- tốp đã
làm cả. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao Pa-ven
cứ tránh mặt tôi.
5 tháng Chạp.
Hôm qua thổ phỉ lại bắn vào công trường".
*
Ngựa rón rén đặt chân lên lớp tuyết mềm, xốp. Đôi lúc
móng ngựa giẫm gẫy cành cây nằm dập dưới tuyết kêu
răng rắc, con ngựa phì hơi, né sang một bên, nhưng bị
nòng súng trường không cắm lưỡi lê thúc vào đôi tai, liền
phi lên, đuổi theo những con đi trước.
Gần chục tên cưỡi ngựa vượt ngọn đồi ở đầu dải đất
nâu còn chưa bị tuyết phủ.
Chúng kìm ngựa lại đấy. Bàn đạp ngựa chạm vào nhau
xoang xoảng. Con ngựa đi đầu rùng mình quẫy mạnh, toàn
thân nó đã đẫm mồ hôi sau một đoạn đường dài. Thằng đi
đầu nói:
- Quân khốn kiếp chúng nó đang rúc trong cái nhà kia
kìa. Làm thế nào đuổi chúng đi như gạt sạch tuyết mới
được! Đầu lĩnh đã bảo chậm lắm ngày mai phải xua sạch
cái lũ châu chấu ấy ra khỏi đây. Vì nếu không thì cái lũ
"công nhân" chó chết ấy có thể mò được đến tận những
đống gỗ đã đốn kia.
Bọn đi ngựa xếp hàng dọc men theo nhánh đường sắt
tiến gần vào nhà ga. Chúng mon men từng bước đến
khoảng rừng trống mé trước cái trường học cũ rồi đứng
nấp sau những lùm cây.
Loạt súng nổ phá tan cái im lặng của đêm tối. Chùm
tuyết từ trên cành cây bạch dương có ánh trăng bạc dãi lên
rơi xuống như sóc chuyền cành. Giữa những hàng cây, lóe
lên những tia lửa đạn bắn lỗ chỗ những mảnh tường đắp
thạch cao; những mảnh kính Pan- cơ-ra-tốp lấy về lắp trên
cửa sổ bị vỡ tan tành.
Loạt súng đã lôi những người ngủ trên sàn bê- tông
choàng dậy, nhưng khi có những viên đạn chì như những
con dế độc bay vù vù trong phòng thì họ sợ hãi nằm rạp cả
xuống, mất hết trật tự, người này ngã vào người kia.
Đu-ba-va túm lấy áo ca-pốt Pa-ven.
- Cậu đi đâu?
- Ra ngoài.
Đu-ba-va rỉ tai nói hổn hển:
- Nằm xuống, thằng ngu ! Mày ló mặt ra, nó bắn chết
tươi ngay tại chỗ.
Họ nằm bò sát vào nhau, gần ngưỡng cửa ra vào. Đu-
ba-va nằm rạp xuống sàn nhà, tay chĩa súng ngắn ra phía
ngoài cửa. Pa-ven ngồi xổm, hồi hộp sờ ổ đạn súng ngắn.
Có năm viên tất cả. Sờ đến lỗ không đạn, anh quay ổ đạn
lại.
Súng ngừng nổ. Yên lặng đột ngột làm mọi người ngạc
nhiên. Đu-ba-va khẽ ra lệnh cho những người đang nằm:
- Anh em ai có vũ khí hãy tập hợp lại đây !
Pa-ven rón rén mở cửa. Ngoài khoảng rừng quang
vắng, không một bóng người. Bông tuyết rơi xuống quay
chầm chậm. Trong rừng sâu, lúc đó có mười tên kỵ mã
đang quất ngựa chạy.
Gần trưa, một chiếc xe goòng từ thành phố lao như bay
tới. Giu-khơ-rai và A-kim ở trong xe bước ra. Tô-ca-rếp và
Khô-li-a-va ra đón. Người ta tháo từ trên xe xuống khẩu
súng Mác-xim với mấy băng đạn và hai chục khẩu súng
trường. Khẩu súng máy bố trí ngay ở sân ga.
Mọi người vội vã đi đến chỗ làm việc. Tà áo ca- pốt của
Giu-khơ-rai quét trên mặt đất phủ tuyết, vẽ thành đường
ngoằn ngoèo. Anh đi như gấu chạy, người vặn bên này vặn
bên kia, chân hơi khoèo. Anh vẫn còn quen cái lối đi ấy
như bước trên boong rập rình của chiếc phóng ngư lôi hạm
hồi xưa. A-kim người cao, chân dài, nên vẫn theo kịp Giu-
khơ-rai. Chỉ có cụ Tô-ca-rếp chốc chốc lại phải cắm cổ
chạy theo.
Cụ nói:
- Việc thổ phỉ tập kích hãy còn là chuyện mệt vừa. Mệt
nhất là có gò đất chắn ngáng ngay lấy đường chúng tôi
đang làm. Ma xui quỷ khiến nó nằm lù lù ra đấy. Phải đào đi
cả một đống đất tướng.
Ông già dừng lại, quay lưng chắn gió, châm thuốc lá
một lòng bàn tay úp như cái phễu để che gió; cụ rít một hơi,
rồi lại đuổi theo các đồng chí. A-kim đứng lại chờ. Giu-khơ-
rai vẫn rảo bước đi trước.
A-kim hỏi Tô-ca-rếp:
- Sao, bác xem liệu ở đây ta có đủ sức làm xong con
đường đúng thời hạn không?
Tô-ca-rếp đắn đo một lát, rồi mới trả lời:
- Chắc chú cũng biết, thật ra, nói chung thì không thể
nào làm xong được, nhưng không làm xong cũng không
được. Cho nên phải xong.
Hai người đuổi kịp Giu-khơ-rai và cả ba cùng đi ngang
hàng với nhau. Ông già nói bằng một giọng phấn khởi:
- Then chốt vấn đề là trông vào chỗ "nhưng” ấy. Ở đây
chỉ có hai người, Pa-tô-sơ-kin và tồi biết được trong
những điều kiện chó má này, với mớ dụng cụ thô sơ và
nhân lực thiếu thốn như thế này thì không thể nào làm xong
được con đường. Nhưng được cái tất cả anh em ở đây
đều thấy là không xong con đường này cũng không được.
Cho nên tôi đã dám nói rằng: "Nếu anh em chúng tôi không
đổ hết thì nhất định làm được". Các đồng chí thử nhìn mà
xem. Chúng tôi làm hùng hục đã sang tháng thứ hai rồi. Ba
đợt dân công đã kế tiếp nhau làm ở đây và toán đang làm
là toán thứ tư, nhưng đám đoàn viên thanh niên cộng sản là
lực lượng cốt cán thì vẫn làm quần quật không nghỉ. Chính
vì họ trai trẻ nên họ mới đứng vững được như thế. Cũng đã
có đến một nửa anh em bị cảm mạo. Hễ cứ nhìn đám trẻ
ấy là không sao cầm lòng được, thật tội và thương. Thanh
niên như họ thật quý vô giá… Cái xó chết tiệt này rồi sẽ làm
nhiều anh em gục mất...
Nhánh đường sắt đã làm xong đoạn đầu tiên đến cách
nhà ga một cây số
Xa hơn nữa độ một cây rưỡi trên nền đường mới san
bằng, những thanh gỗ dài nằm bám xuống đất trông như
những cột hàng rào bị gió thổi bạt đi, đổ lăn ra. Đấy là tà-
vẹt. Xa nữa, đến chân gò đất là con đường mới đắp chưa
đặt ray.
Đây là nhóm làm đường số một của Pan-cơ-ra-tốp.
Bốn mươi người đặt tà-vẹt. Bác nông dân râu hoe, đi
giày rơm mới, đang từ từ kéo từng cây gỗ trên xe trượt
tuyết đẩy ra mặt đường. Xa xa, cũng có mấy chiếc xe nữa
đang dỡ gỗ xuống. Hai thanh sắt dài nằm trên đất, đó là
kích thước đường ray để đo tà- vẹt cho đều. Búa, xà beng,
cuốc xẻng thi nhau bổ xuống để san phẳng nền đất.
Đặt tà-vẹt là một công việc tỉ mỉ và phải làm từ từ. Tà-
vẹt đặt trên mặt đường phải bám rõ chặt và phải để thế
nào cho đường ray đặt lên dựa đều vào mỗi thanh tà-vẹt,
thanh nào cũng như thanh nào.
Ở đây chỉ độc cụ già trưởng toán La-gu-chin là thạo kỹ
thuật đặt đường ray. Cụ là bố đẻ Ta-li-a. Tuy đã năm mươi
tư tuổi rồi mà đầu cụ không một sợi tóc bạc, râu vểnh ra
hai bên, đen như hắc ín. Cụ đã tự nguyện ở lại làm, đến
lượt thay phiên thứ tư vẫn không về. Cụ lăn lộn với đám
thanh niên, đồng cam cộng khổ; được toàn đội yêu kính.
Tuy là một người ngoài Đảng, bao giờ cụ cũng được mời
vào ngồi ghế danh dự trong tất cả các cuộc họp Đảng. Tự
hào với điều đó, cụ đã hứa là việc chưa xong thì quyết
không bỏ công trường về.
- Đời nào tôi có thể bỏ anh em mà về được, anh em
thử nghĩ mà xem. Rời tôi ra, anh em đặt tà-vẹt sẽ lúng túng
mất: công việc này cần phải có con mắt tinh, có tay quen
mới làm được. Còn tôi thì trong đời đã đặt không biết bao
nhiêu là tà-vẹt trên khắp đất nước Nga ta rồi... - Cứ mỗi lần
có chuyến thay phiên thì cụ lại nói bằng một giọng hồn
nhiên như thế và tự nguyện ở lại làm.
Pa-tô-sơ-kin tin ông cụ nên ít khi đến kiểm tra đoạn
đường cụ làm. Lúc Giu-khơ-rai, A-kim và Tô- ca-rếp đến
chỗ anh em làm việc thì Pan-cơ-ra-tốp đang bổ búa xuống
moi đất chôn tà-vẹt, người anh mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ
gay.
A-kim mãi mới nhận ra được anh chàng công nhân
khuân vác đó. Pan-cơ-ra-tốp gầy xọp đi. Hai gò má cao
bây giờ càng gồ lên, mặt rửa quấy quá, trông càng xám xịt
và hốc hác thêm.
- Kìa, các đồng chí phụ trách trên tỉnh đã xuống.
Anh nói và chìa bàn tay nóng bỏng, ướt đẫm mồ hôi ra
bắt tay A-kim.
Tiếng cuốc xẻng ngừng lại. A-kim thấy chung quanh đều
là những khuôn mặt xanh vàng. Áo ca-pốt và áo ngắn mặc
ngoài của họ cởi ra, ném lăn lóc ngay trên mặt đất phủ
tuyết.
Nói chuyện với cụ La-gu-chin xong, Tô-ca-rếp kéo Pan-
cơ-ra-tốp đi và dẫn hai đồng chí tỉnh ủy đến đám đất đã san
bằng. Chàng công nhân khuân vác ít nói đi cạnh Giu-khơ-
rai.
Giu-khơ-rai nghiêm giọng hỏi Pan-cơ-ra-tốp:
- Pan-cơ-ra-tốp, chú cho tôi biết việc xảy ra ở Mô- tô-vi-
lốp-ca giữa chú và nhân viên công an đặc biệt! Chú nghĩ
sao, có thấy là tước vũ khí của người ta như thế thì quá lắm
không?
Pan-cơ-ra-tốp mỉm cười, luống cuống:
- Chúng tôi tước vũ khí của hắn ta là do có sự thoả
thuận cả; chính tự hắn ta yêu cầu như thế. Hắn là một thằng
quen chúng tôi. Chúng tôi nói hết với hắn hoàn cảnh khó
khăn của chúng ta. Nghe xong, hắn ta nói: "Các cậu ạ, mình
không đủ quyền cho các cậu chở cửa đi được đâu. Có
lệnh của đồng chí Gie-din- ski( Đồng chí Gie-din-ski phụ
trách công an tình báo ở trung ương lúc bấy giờ ) bảo phải
ngăn ngừa tình trạng trộm cướp tài sản của nhà ga cơ mà.
Cái thằng cha trưởng ga khốn nạn ở đây vốn thù với mình.
Nó hay ăn cắp mà mình thì không để cho nó ăn cắp. Nếu để
các cậu lấy cửa đi nó nhất định sẽ tố cáo mình với cấp trên
và đưa mình ra tòa án cách mạng. Đấy, thà các cậu cứ
tước vũ khí của mình rồi hãy khuân đồ chở đi. Nếu thằng
trưởng ga không báo cáo lên trên thì coi như là ổn". Chúng
tôi đã làm y như thế. Những cánh cửa cái, cửa sổ ấy,
chúng tôi có phải lấy dùng cho chúng tôi đâu.
Nhận thấy tia sáng nụ cười long lanh trên đôi mắt Giu-
khơ-rai, Pan-cơ-ra-tốp nói thêm:
- Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu có phạt thì cứ để mình
chúng tôi chịu phạt, đừng làm tội thằng bé ấy.
- Việc đó đã giải quyết xong đâu vào đấy rồi, không nói
nữa. Nhưng từ nay về sau đừng có làm những chuyện ấy
nữa. Làm như thế là phá kỷ luật đấy. Chúng ta có đủ sức
mạnh để đấu tranh có tổ chức mà tiêu diệt bệnh quan liêu.
Thôi được. Giờ ta nói đến chuyện quan trọng hơn. - Và
Giu-khơ-rai bắt đầu hỏi tỉ mỉ đầu đuôi chuyện thổ phỉ tập
kích hôm vừa rồi.
*
Chỗ ấy cách ga bốn cây số rưỡi, những chiếc xẻng thi
nhau khoét đất kịch hệt. Anh em đang xẻ cái gò đứng chắn
giữa đường.
Chung quanh có bảy người đứng gác, vũ khí trong tay
có khẩu ca-ra-bin của Khô-li-a-va và mấy khẩu súng ngắn
của Pa-ven, Pan-cơ-ra-tốp, Đu-ba-va và Khô-mu-tốp. Vũ
khí của toàn đội chỉ có thế.
Kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ngồi trên dốc đang ghi mấy con số
vào sổ tay. Chỉ còn một mình kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ở lại vì tên
kỹ sư Va-cu-lên-cô sáng nay đã chuồn mất về tỉnh. Hắn cho
là thà chịu xử tội đào ngũ còn hơn phải ăn đạn của bọn phỉ,
chết uổng mạng.
Pa-tô-sơ-kin quay lại khẽ nói với Khô-mu-tốp đứng
trước mặt mình:
- Bốc cái gò này đi phải mất nửa tháng. Đất có tuyết
đóng thành băng cứng quá.
Khô-mu-tốp vốn người ít nói, mặt lúc nào cũng cau cau,
nghe thế thì cắn môi vào ria mép, tỏ vẻ tức giận đáp lại:
- Hạn trên cho chúng ta tất cả chỉ có hăm nhăm ngày,
thế mà cụ định lấy nghiến nửa tháng cho đoạn đường này
à?
- Hạn trên cho như thế là không sát. Thật ra suốt đời tôi
chưa bao giờ làm đường trong điều kiện như thế này và
với số lượng thành phần người như thế này. Tôi cũng có
thể tính sai, mà thật tôi đã tính sai hai lần rồi.
Giữa lúc đó, Giu-khơ-rai, A-kim và Pan-cơ-ra-tốp tới
gần chỗ san nền đất. Từ trên gò đất, anh em trông thấy
ngay ba người đang đi đến.
Một cậu mắt lác, mặc áo len thủng, hở cả khuỷu tay,
thích vào người Pa-ven. Đấy là Pết-ca Tơ-rô-phi- mốp, vốn
là một thợ bắt bù loong ở xưởng đường sắt. Anh ta giơ tay
chỉ về phía dưới chân gò đất:
- Cậu trông kìa! Ai thế nhỉ?
Tức thì, Pa-ven, tay vẫn cầm xẻng, chạy xuống dốc
băng băng. Dưới vành mũ, đôi mắt anh mỉm cười thắm
thiết. Giu-khơ-rai nắm chặt tay anh lâu hơn những người
khác.
- Chào chú Pa-ven. Chú ăn mặc quần nọ áo kia như
thế, có trời nhận ra được!
Pan-cơ-ra-tốp cười gượng, nói đùa với A-kim:
- Được cái năm ngón chân cậu ta cũng khéo bảo nhau,
lúc nào cũng tòi ra ngoài cả. Lại được mấy cái thằng đào
ngũ còn thông đồng nhau xoáy của cậu ấy cái áo ca-pốt.
May mà Ô-cu-nhếp, cùng tổ với cậu ta, cho cậu ta cái áo
vét-tông. Hai tay ấy thật là con chấy cắn đôi, - Pan-cơ-ra-
tốp giọng buồn buồn quay về phía A-kim nói thêm. - Không
hề gì đâu, Pa-vơ- lu-sa là một anh chàng máu nóng. Cậu ấy
đến sẽ sưởi ấm trên sàn bê-tông một tuần vì ổ rơm thì
mỏng dính gần như là nằm không. Rồi đến cái nước mặc
"thứ áo ván gỗ bốn dài hai ngắn" mất thôi.
Ô-cu-nhếp lông mày da đen, mũi hơi cong, nheo cặp
mắt láu lỉnh cãi lại:
- Chúng tôi chẳng để Pa-vơ-lu-sa đổ đâu. Nếu cho biểu
quyết thì chúng tôi tán thành ngay để cậu ấy vào bếp làm
chân cấp dưỡng, giữ chức lính trù bị cho Ô-đác-ca. Ở đấy
nếu cậu ta không phải tay ngốc thì vừa được no bụng, lại
vừa được ấm thân, hoặc là vì ở gần bếp, hoặc là vì có hơi
bà Ô-đác-ca.
Chuỗi cười vui vẻ của mọi người vang lên làm át cả
tiếng nói của Ô-cu-nhếp.
Lần đầu tiên người ta cười trong ngày hôm ấy.
Giu-khơ-rai xem xét gò đất, rồi cùng Tô-ca-rếp và Pa-
tô-sơ-kin ngồi xe trượt tuyết đến khu vực đốn gỗ, xong lại
quay về. Mọi người vẫn kiên tâm đào đất trên gò. Nhìn
những nhát cuốc sáng loáng, nhìn những cái lưng khom
đem hết sức ra làm, Giu-khơ-rai nói khẽ với A-kim:
- Chẳng mít-tinh làm quái gì nữa. Bác Tô-ca-rếp ạ bác
nói đúng đấy, đám trẻ thật là những người quý vô giá. Thép
tôi là ở chỗ này đây.
Giu-khơ-rai nhìn những anh em đào đất làm việc, cặp
mắt vốn nghiêm của anh đầy mến thương âu yếm lẫn tự
hào cương nghị. Cách đây không lâu, một số trong đám
chàng trai trẻ này đã từng nhô lưỡi lê thép xông lên trong
đêm đi dẹp phiến loạn. Và bây giờ đây chính họ lại đang
ôm ấp một ý nguyện duy nhất: khơi mạch máu thép đường
ray nối đến tận những đống củi quý như vàng, nguồn sức
nóng và sự sống.
Ôn tồn nhưng giọng rất tự tin, kỹ sư Pa-tô-sơ-kin trình
bày cho Giu-khơ-rai biết là không thể nào mở thông đường
qua gò đất trong vòng hai tuần lễ được.
Giu-khơ-rai tai vẫn lắng nghe con tính của kỹ sư, trong
óc nghĩ thầm cách giải quyết.
- Các đồng chí hãy rút hết người sang bên kia gò để
mở đường tiếp, còn quả đồi này thì chúng ta sẽ có cách
khắc phục.
Giu-khơ-rai ngồi nói chuyện hồi lâu ở dây nói nhà ga.
Khô-li-a-va đứng gác ngoài cửa. Anh ta nghe rõ đằng sau
lưng mình tiếng nói trầm trầm của Giu-khơ-rai.
- Gọi điện ngay cho đồng chí tham mưu trưởng quân
khu, bảo tôi đề nghị với đồng chí ấy cho trung đoàn của Pu-
dư-rếp-ski đến khu vực công trường. Phải quét sạch bọn
phỉ ở khu này. Gửi cả chiếc tàu bọc sắt và công binh từ căn
cứ đến đây. Còn những việc khác, tôi sẽ tự giải quyết lấy.
Đêm tôi sẽ về. Bảo Guy- gô mười hai giờ đêm nay đánh xe
ra ga.
Trong căn nhà, sau mấy lời ngắn của A kim, Giu- khơ-
rai bắt đầu nói chuyện. Một tiếng đồng hồ qua mà không ai
để ý đến thời gian. Chuyện trò thân mật giữa đồng chí và
đồng chí. Giu-khơ-rai nói cho anh em biết không thể nào
kéo dài được thời hạn đã ấn định, đến mồng một tháng
Giêng phải làm xong công trình đường sắt này.
- Chúng ta chuyển công tác của công trường sang chế
độ quân sự. Các đảng viên cộng sản phải tổ chức thành
đại đội công tác đặc biệt. Chỉ định đồng chí Đu-ba-va làm
đại đội trưởng. Sáu phân đội thì mỗi phân đội một nhiệm vụ
nhất định. Công việc còn lại chia đều làm sáu phần. Mỗi
phân đội có phần việc của mình. Trước ngày mồng một
tháng Giêng, tất cả mọi việc phải xong. Phân đội nào xong
trước thì nghỉ trước và được về tỉnh. Ngoài ra, chủ tịch
đoàn Ban chấp hành tỉnh sẽ đề nghị Ban chấp hành Trung
ương U-cơ-ren( Hội đồng bộ trưởng U-crai-na) tặng
thưởng huân chương Cờ Đỏ cho người lao động khá nhất
trong mỗi phân đội.
Đã chỉ định xong đội trưởng của các đội. Đội một: đồng
chí Pan-cơ-ra-tốp, đội hai: đồng chí Đu-ba-va, đội ba: đồng
chí Khô-mu-tốp, đội bốn: đồng chí La- gu-chin, đội năm:
đồng chí Pa-ven, đội sáu: đồng chí Ô-cu-nhếp.
Giu-khơ-rai kết thúc bài nói chuyện:
- Còn người phụ trách chung toàn bộ công trường,
nghĩa là nhà lãnh đạo tư tưởng và tổ chức của công trường
thì vẫn là đồng chí An-tôn Nhi-ki-phô-rô-vích Tô-ca-rếp.
Từng nhịp vỗ tay rào rào dường như có cả một đàn
chim cất cánh bay lên. Những khuôn mặt khắc khổ hôm nay
cười tươi nở. Câu nói đùa thân mật, trong đoạn cuối câu
chuyện, từ miệng một người xưa nay vốn nghiêm nghị, đã
làm nổ ra một chuỗi cười tiêu tan hết căng thẳng trong óc
từ nãy đến giờ của người nghe chăm chú.
Hai mươi con người tiễn chân A-kim và Giu-khơ- rai
đến tận chiếc xe goòng.
Lúc bắt tay chào Pa-ven, nhìn chiếc giày bám đầy tuyết
của Pa-ven, Giu-khơ-rai nói khẽ:
- Anh sẽ gửi giày xuống cho chú. Chân chú bị tê cóng
rồi còn gì nữa?
- Xem chừng tê cứng rồi, anh ạ. Đã buốt buốt và bắt
đầu sưng. - Pa-ven đáp lại và sực nhớ đến lời ngỏ xin từ
lâu, anh nắm tay áo Giu-khơ-rai: - Anh có thể cho em mấy
viên đạn súng ngắn được không anh? Em chỉ còn ba viên
đạn tốt thôi.
Giu-khơ-rai ngậm ngùi lắc đầu, nhưng trông thấy vẻ thất
vọng trong cặp mắt Pa-ven, anh không do dự, cởi ngay
khẩu Mô-de của mình đưa cho Pa-ven.
- Đây anh tặng chú.
Pa-ven vẫn chưa tin ngay là mình được một vật tặng từ
lâu hằng mơ ước, nhưng Giu-khơ-rai đã khoác cây súng
lên vai Pa-ven:
- Cầm lấy, cầm lấy. Anh biết mắt chú đã mê nó từ lâu.
Nhưng chú phải cẩn thận, chớ bắn phải người nhà đấy
nhớ. Còn ba hộp đạn đầy đấy, anh cho chú cả.
Những cặp mắt thèm muốn đều nhìn chòng chọc vào
Pa-ven. Có người kêu lên:
- Páp-ca ơi, đưa tớ đổi cho cậu lấy đôi giày ống lót dạ
và thêm cả một chiếc áo da ngắn nào!
Pan-cơ-ra-tốp lấy tay phát vào lưng Pa-ven nói trêu:
- Thằng khập khiễng, đổi lấy đôi giày đi cho được việc.
Cứ kéo lê mãi chiếc giày cao su thì chẳng sống đến ngày
lễ Thiên Chúa giáng sinh đâu !
Đặt chân lên bậc xe goòng, Giu-khơ-rai tỳ vào gối viết
giấy phép cho khẩu súng vừa tặng.
Mới sáng tinh sương ngày hôm sau đã thấy ầm ầm ở
ngã ba đường, đoàn tàu bọc sắt đi vào ga. Hơi tỏa ra trắng
xóa như lông ngỗng trời, bốc lên thành những lùm khói dày
đặc rồi tan vào bầu trời trong và lạnh giá. Những người
mặc áo da từ những toa xe bọc sắt bước ra. Mấy giờ sau,
ba anh công binh đến chôn sâu hai quả mìn to tướng màu
thép nâu nâu; họ buộc hai dây dài vào mìn và bắn mấy phát
súng hiệu. Nghe súng hiệu, người ta vội vàng chạy tản,
tránh xa cái gò trở nên ghê sợ. Diêm châm vào đầu ngòi
mìn, làm phụt lửa lân tinh.
Trong một lúc, hàng trăm con người có mặt hồi hộp như
thắt lòng lại. Một phút, hai phút chờ đợi sợ hãi... Bỗng nhiên
mặt đất chuyển mình, một sức mạnh ghê gớm đã cuốn bay
những đỉnh dốc của ngọn đồi, tung lên cao những mảnh đất
lớn. Tiếng nổ thứ hai mạnh hơn tiếng thứ nhất. Tiếng nổ
ghê người vang khắp khu rừng, ầm ầm, hỗn loạn, kèm theo
tiếng rào rào của những tảng đất bị bắn tung lên rơi xuống.
Chỗ ấy vừa rồi còn là ngọn đồi, giờ đã biến thành hố
sâu toác ra, chung quanh trong vòng hai chục thước, đất
vụn bắn tung tóe khắp mặt tuyết trắng như đường.
Mọi người cầm xà beng và xẻng cuốc chạy túa lại chỗ
hố sâu do mìn nổ vừa đào lên.
Sau khi Giu-khơ-rai đi khỏi, ở công trường, không khí
thi đua mở ra sôi nổi: ai sẽ là người lao động khá nhất?
Trời còn rất lâu mới sáng, Pa-ven đã khẽ trở dậy để
không làm thức giấc anh em. Anh cố lê đôi chân tê cứng
trên sàn nhà lạnh buốt, vào bếp, đun nước sôi pha chè, rồi
trở ra đánh thức toàn đội dậy.
Khi toàn công trường sẵn sàng thì bên ngoài trời đã
sáng rõ.
Buổi uống nước chè sáng ở nhà bếp, Pan-cơ-ra-tốp
chen đến bàn Đu-ba-va và đội của anh ta là đám thanh niên
xưởng sửa chữa vũ khí. Pan-cơ-ra-tốp nói với Đu-ba-va,
giọng có vẻ bực tức:
- Cậu thấy chưa, thằng cha Páp-ca đã đánh thức đội
của nó dậy từ lúc trời chưa sáng. Tớ đoán chắc chúng nó
đã đặt được hai mươi thước đường rồi. Anh em trong đội
tớ nói là Páp-ca khéo động viên các anh em thợ các phân
xưởng chính nhà máy xe lửa của nó, bọn họ định ngày hăm
nhăm tháng Chạp là đã làm xong đoạn đường của đội. Ra
nó muốn xách mũi tất cả chúng ta đấy chắc. Nhưng xin lỗi
các tướng ấy để rồi xem ai hơn !
Đu-ba-va cười nhạt. Anh thừa hiểu tại sao cách làm
của phân đội công nhân các phân xưởng chính nhà máy xe
lửa lại chạm đến lòng người bí thư thanh niên khu bến tàu
như vậy. Việc làm của Pa-ven là một roi quất mạnh vào cả
bản thân Đu-ba-va nữa: lặng lẽ không nói, Pa-ven đã lên
tiếng thách thức công trường.
Pan-cơ-ra-tốp nói:
- Tình bạn là một chuyện, còn đây là chuyện khác: đây là
vấn đề ai hơn ai.
Gần giữa trưa, công việc đang hăng hái của đội Pa-ven
bỗng nhiên bị ngừng lại. Người gác đứng bên giá súng
trông thấy một toán kỵ binh xuất hiện trong rừng, liền bắn
báo động.
- Cầm lấy súng anh em ơi! Có phỉ ! - Pa-ven la to và
quẳng xẻng xuống, rồi nhảy bổ lại gốc cây có treo khẩu
súng mô-de của anh.
Lấy súng xong, cả đội nằm dàn ngay ra mặt tuyết cạnh
đường. Những người kỵ binh đi đầu vẫy mũ. Một người
trong bọn họ kêu to:
- Dừng lại, các đồng chí! Người nhà đây mà!
Chừng năm mươi chiến sĩ kỵ binh, đội mũ Bu-đi- on-ny
có sao đỏ, đang men theo đường cái, tiến lại gần.
Thì ra đó là một trung đội của trung đoàn Pu-dư- rếp-ski
đến thăm công trường. Pa-ven để ý đến cái tai cụt của con
ngựa người chỉ huy cưỡi. Con ngựa cái lông xám đẹp có
đốm trắng trên trán không chịu đứng yên một chỗ, cứ đi
xoay vòng tròn dưới tay cương của người cưỡi nó. Thốt
nhiên, Pa-ven nhảy bổ đến chỗ con ngựa, và lúc Pa-ven
chạy đến tóm lấy bờm thì nó sợ hãi lùi lại.
- Lư-sca, con nỡm này, không ngờ ta lại gặp mi ở đây!
Con yêu mĩ miều cụt tai của ta xông pha lửa đạn mà vẫn
còn sống yên lành đấy ư?...
Pa-ven âu yếm ôm lấy cái cổ mềm mại của con ngựa
và lấy tay vuốt ve cái mũi phập phồng của nó.
Người chỉ huy chăm chú nhìn Pa-ven. Sau khi đã nhận
ra người quen, đồng chí sửng sốt kêu lên:
- Ơ kìa ! Pa-ven đấy à? Cậu nhận ra ngựa của cậu mà
sao không nhận ra Xê-rê-đa. Chào người anh em.
*
Trên tỉnh đều dồn sức "chạy" cho công trường. Cố
gắng đó đã ảnh hưởng tốt đến công việc ở đây ngay. Giác-
ki đã dốc hết lực lượng ở quận ủy, gửi toàn bộ đoàn viên
còn lại đến Bai-a-rơ-ca. Ở khu Xô-lô-men- ca chỉ còn lại có
số nữ đồng chí. Ở Trường kỹ thuật cầu đường, Giác-ki đã
tìm cách lập được một đội sinh viên nữa gửi ra công
trường.
Lúc báo tin đó cho A-kim, Giác-ki nói nửa đùa, nửa
thật:
- Chỉ còn độc mình tôi với phái vô sản giống cái ở lại
nhà. Tôi sẽ để Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, thay tôi sẽ viết lên
cánh cửa: "Ban phụ nữ". Còn tôi thì cũng chạy đến Bai-a-
rơ-ca nốt thôi. Bởi vì đồng chí có thấy không, giống đàn ông
ở lại có độc mình tôi. Thật là không tiện. Các cô ấy cứ nhìn
tôi bằng cặp mắt nghi ngờ. Chắc thế nào các cô ấy cũng
nói với nhau: "Cái anh chàng ngỗng đực đầu đàn này phái
tụi con trai đi hết, còn mình thì ở lại". Hay có khi còn nói
những câu tệ hơn nữa kia. Đề nghị đồng chí đồng ý cho tôi
đi.
A-kim cười nhưng không đồng ý.
Người kéo đến Bai-a-rơ-ca rất đông, trong số đó có cả
sáu mươi sinh viên trường kỹ thuật cầu đường.
Giu-khơ-rai đã lấy được ở Cục đường sắt bốn toa xe
gửi đến chỗ công trường làm chỗ tạm trú cho những công
nhân mới đến.
Phân đội Đu-ba-va được lệnh rút ra khỏi công trường đi
Pu-sa Vô-đi-xa để lấy một số đầu máy nhỏ và sáu mươi
lăm toa trần cho nhánh đường sắt này. Công việc này
được tính vào nhiệm vụ trên công trường của họ.
Trước khi đi, Đu-ba-va góp ý kiến với cụ Tô-ca-rếp là
nên gọi Cơ-la-vi-sếch lên công trường và giao cho anh ta
một phân đội mới tổ chức. Tô-ca-rếp đồng ý và ra lệnh
ngay, không ngờ đến duyên cớ chính đã làm Đu-ba-va nghĩ
đến chàng trai người Tiệp kia ở trên đời. Duyên cớ ấy là
bức thư của An-na vừa gửi cho anh, do các anh em ở Xô-
lô-men-ca mới đến mang tới. An-na viết:
"Anh Đu-ba-va! Em và anh Cơ-la-vi-sếch đã chọn cho
các anh một đống sách. Gửi anh và toàn thể những chiến sĩ
xung kích ở Bai-a-rơ-ca lời chào nồng nhiệt. Các anh là
những tay rất cừ. Chúc các anh can đảm và nghị lực. Hôm
qua đã phát hết nhẵn số củi cuối cùng còn lại trong kho.
Cơ-la-vi-sếch nhờ chuyển lời thăm anh. Anh ấy là một thanh
niên rất trội. Chính tự tay anh ấy nướng bánh mì cho các
anh đấy. Anh ấy không giao cho ai làm cả. Tự tay anh ấy
rây lấy bột mì, nhào lấy bột bánh. Không biết anh ấy khéo
kiếm đâu ra được thứ bột mì tốt nên bánh mì làm ra rất
ngon, khác hẳn với thứ bánh em vẫn lĩnh hàng ngày. Tối
đến, anh chị em đều họp mặt ở nhà em: Có Ta-li-a, con cụ
La-gu-chin, A-rơ-chu-kin, Cơ-la- vi-sếch và đôi khi cả Giác-
ki cũng đến. Có đẩy mạnh được việc học, nhưng phần lớn
là nói đến tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người, nhất là
thường nói đến các anh trên công trường. Chị em đều bực
mình vì chuyện đồng chí Tô-ca-rếp từ chối không nhận họ
lên công trường làm việc. Chị em quả quyết gian khổ thế
nào đi nữa cũng sẽ chịu được như mọi người. Ta- li-a nói:
"Mình sẽ mặc áo của thầy mình và sẽ lên gặp ông cụ, xem
ông cụ có đuổi ra khỏi đấy được không nào".
Chắc nó sẽ làm thế thật đấy. Anh chuyển hộ lời em
thăm anh chàng mắt đen. An-na".
*
Bão tuyết bỗng nổi lên dữ dội. Trời bị mây xám nghịt
kéo đến phủ kín vòm trời tụt xuống thấp hẳn. Tuyết rơi dày
đặc. Đến chiều tối, gió rít vào các ống khói, gào thét giữa
rừng cây, chạy đuổi theo những cơn lốc tuyết xoáy tròn, làm
cho khu rừng ngập những tiếng hú ghê rợn.
Bão gầm thét, phá phách suốt đêm. Tuy lò đốt cả đêm,
người vẫn thấy rét buốt thấu xương. Gian nhà ga đổ nát
này không còn giữ được hơi nóng cho người.
Sáng hôm sau, các đội lao động ra làm việc, thụt chân
sâu vào tầng tuyết dày cồm cộm. Nhưng trên rừng cây, mặt
trời đỏ rực và nền trời trong xanh không chút vẩn mây.
Phân đội Pa-ven quét tuyết trên phần đường của mình
bị ngập tuyết. Cho đến lúc này, Pa-ven mới cảm thấy hết
khổ cực của giá rét. Chiếc áo cũ Ô-cu- nhếp cho chẳng làm
anh ấm được, còn chiếc giày cao- su thì nhét đầy tuyết
đóng băng. Đã mấy lần giày thụt vào đống tuyết. Vì anh ngủ
trên sàn nhà rắn như đá nên ở cổ mọc lên hai cái nhọt
tướng. Cụ Tô-ca-rếp cho anh cái khăn mặt dùng làm khăn
quàng cổ.
Pa-ven cầm cái xẻng to bằng gỗ hùng hục gạt tuyết,
người anh gầy rạc đi, hai mắt sưng đỏ húp lên.
Giữa lúc đó, một chuyến tàu chở hành khách đang ì ạch
bò đến tận ga. Chiếc đầu máy hết hơi cố sức lắm mới lôi
được con tàu về đây. Trong toa than, không còn lấy một
thanh củi, những thanh củi cuối cùng sắp cháy rụi hết trong
lò.
Người thợ máy kêu với trưởng ga:
- Cho củi thì chúng tôi đi, bằng không thì bây giờ trong
máy cũng hãy còn có cái để chạy được một tí, xin cho lái
dẹp vào khu tàu trú.
Thế là người ta lái tàu dẹp sang bên và giải thích cho
đám hành khách thất đảm kia biết lý do dừng lại. Người
trong các toa chật ních, kẻ thở vắn than dài, đứa chửi rủa
ầm ĩ.
Trưởng ga mách nước cho những người lái chuyến tàu:
- Các anh lại nói chuyện với cụ già kia kìa, ông cụ đang
đi ở ke ấy. Cụ ấy là phụ trách công trường ở đây. Cụ ta có
thể hạ lệnh xe trượt tuyết chở củi đến cho đầu tàu. Ở đây
họ vẫn dùng củi gỗ làm tà vẹt đấy mà.
Mấy người lái tàu đến gặp Tô-ca-rếp. Ông cụ bảo họ:
- Chúng tôi sẽ cho gỗ, nhưng không cho không đâu. Vì
đây là vật liệu xây dựng của chúng tôi. Hiện công trường
chúng tôi đang bị tuyết phủ làm ngăn trở công việc mà
trong tàu các anh có sáu bảy trăm hành khách. Đàn bà, trẻ
con thì có thể ở lại trong toa, còn những người khác thì
xuống vác xẻng đi xúc tuyết độ đến chiều tối là được. Có
làm thế thì mới được cấp củi cho tàu chạy. Bằng không thì
xin mời họ cứ ngồi với con tàu chết tiệt đến sang năm mới
vậy.
Có tiếng người sửng sốt la lên nhao nhao phía sau lưng
Pa-ven:
- Anh em ơi, trông kìa! Trông tất cả đám người kia
xuống đông quá! Lại có cả phụ nữ nữa kia!
Pa-ven quay lại.
Tô-ca-rếp đi đến gần nói:
- Đấy giao cho chú một trăm người. Chú giao việc cho
họ và trông họ làm, đừng để họ khoanh tay đứng không.
Pa-ven phân công cho những người mới đến. Một anh
chàng cao lêu nghêu mặc đồng phục ngành đường sắt có
cổ bằng lông cừu, đầu đội mũ da dê ấm. Hắn ta đang quay
cái xẻng trên tay, tỏ vẻ bực tức và quay sang phía người
đàn bà trẻ tuổi đứng cạnh đội mũ da rái cá, trên mỏm có
chiếc núm bằng lông nõn, hắn càu nhàu:
- Không đời nào anh lại xúc tuyết, chẳng ai có quyền bắt
anh được cả. Anh là kỹ sư cầu đường, nếu họ cầu xin anh
giúp thì anh có thể giúp đỡ chỉ huy công việc cho họ. Còn
như xúc tuyết thì không phải việc của anh, không phải việc
của em. Không ai bắt ta làm được. Không có chỉ thị cấp
nào quy định làm như thế cả. Cái lão già ấy đã làm trái
nguyên tắc. Anh sẽ kiện cho lão ta biết tay. - Rồi hắn hỏi
một công nhân đứng gần hắn ta nhất: - Ai là đội trưởng ở
đây?
Pa-ven đi tới:
- Sao anh không làm việc?
Thằng kia đưa mắt khinh bỉ nhìn Pa-ven từ đầu đến
chân:
- Còn anh là ai?
- Tôi là công nhân.
- Thế thì tôi chẳng thèm nói với anh. Cứ bảo đội trưởng
hay là giám thị lại đây.
Pa-ven quắc mắt nhìn hắn:
- Không muốn làm à? Tùy đấy. Nhưng nếu vé không có
dấu của chúng tôi thì đừng hòng lên tàu. Đây là mệnh lệnh
của đồng chí phụ trách công trường.
Nói xong, Pa-ven quay sang phía người phụ nữ:
- Còn chị nữa, chị cũng không chịu làm phải không?
Nhưng bỗng Pa-ven ngẩn người ra trong giây lát: trước
mặt anh là Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va.
Tô-nhi-a khó khăn lắm mới nhận ra cái người mặc rách
rưới này là Pa-ven. Pa-ven đứng ngay đó, trước mặt Tô-
nhi-a, mình khoác manh áo rách bươm, chân xỏ đôi ủng kỳ
quái, cổ buộc cái khăn mặt cáu bẩn, mặt đã lâu không rửa.
Chỉ độc có đôi mắt là vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên một
ngọn lửa không gì dập tắt được. Đôi mắt Pa-ven. Thế mà
cái người rách rưới y như ma cà bông này cách đây không
lâu đã là người mà Tô-nhi-a yêu dấu ! Không ngờ được.
Mới chẳng bao lâu mà sự đời đã thay đổi cả!
Tô-nhi-a mới lấy chồng, lần này theo chồng về một
thành phố lớn, nơi chồng đảm nhiệm một chức vụ trọng yếu
ở Cục đường sắt. Và trên đường đi, tại chốn này đây, Tô-
nhi-a lại phải tình cờ gặp lại người tình thuở ấy ! Tô-nhi-a
thấy ngại ngùng không dám đưa tay ra bắt. Va-xi-li, chồng
chị, sẽ nghĩ thế nào, nếu chị bắt tay Pa-ven? Đời Pa-ven đã
xuống dốc đến thế thì mình cũng ngượng với mình thật. Rõ
ràng là anh chàng đốt lò này đã chẳng ngóc đầu lên được:
anh ta chẳng làm được nghề ngỗng gì hơn cái nghề đi xúc
đất!
Tô-nhi-a đứng ngây, mặt đỏ bừng, thẹn thùng, luống
cuống. Tên kỹ sư, thấy gã rách rưới cứ nhìn vợ mình chằm
chằm không rời mắt, thì cho là gã ta xấc xược, tức điên
người. Hắn quẳng xẻng xuống đất, lại gần Tô-nhi-a.
- Lại đằng này Tô-nhi-a. Anh không thể nhìn cái thằng
khố rách áo ôm la-da-rôn này mà yên được.
( La-da-rôn, dân bị coi là hạ lưu xừ Náp-lơ trong truyện
Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi)
Pa-ven đã đọc truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi, nên
thừa hiểu thế nào là la-da-rôn rồi.
- Nếu tao là la-da-rôn thì mày chỉ là một thằng tư sản mà
người ta chưa cắt cổ nốt. - Pa-ven thét lên cự lại tên kỹ sư,
rồi quay nhìn Tô-nhi-a, nói gọn lỏn mấy tiếng: - Còn đồng
chí Tu-ma-nô-va, đồng chí hãy nhặt xẻng đứng vào hàng mà
làm đi. Đừng có bắt chước cái loài bò đực ăn no béo xác
ấy. Xin lỗi, nhưng tôi không biết hắn với đồng chí là thế nào.
Pa-ven nhìn đôi giày đi tuyết của Tô-nhi-a, mỉm cười
không thiện cảm và nói thêm:
- Tôi chẳng khuyên ai lần chần ở lại đây làm gì. Hôm
mới rồi, bọn phỉ vừa đến quấy chúng tôi đấy.
Nói xong, Pa-ven quay đi, lê gót giày cao su, bon về chỗ
anh em mình.
Lời nói vừa rồi của Pa-ven tác động ngay cả đến anh
chàng kỹ sư.
Tô-nhi-a đã bảo được hắn ở lại và đi xúc tuyết vậy.
Chiều đến, xong việc, hành khách lại trở về ga. Chồng
Tô-nhi-a nhảy tót đi trước, vội chiếm chỗ tốt trong toa. Tô-
nhi-a dừng lại để anh em công nhân đi hết. Pa-ven mệt
nhoài chống xẻng đi sau cùng. Khi hai người đi ngang
nhau, Tô-nhi-a lên tiếng:
- Chào Pa-vơ-lu-sa. Nói thật với anh, tôi không ngờ lại
thấy anh như thế này. Hóa ra chính quyền Xô-viết không có
việc gì khác tốt hơn đáng giao cho anh hay sao mà lại để
anh đi xúc đất như vậy? Tôi cứ tưởng đã từ lâu anh làm
chính ủy hay là giữ một chức vụ gì đại khái như vậy rồi kia
đấy. Đời anh thật cũng chẳng lấy gì được may mắn lắm
nhỉ...
Pa-ven dừng lại, ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a từ đầu đến
chân.
- Còn tôi, tôi cũng không ngờ gặp cô lại đến nỗi... bọc
đường thế này - Nghĩ mãi anh mới tìm được tiếng nói bóng
bẩy thích hợp và nhẹ hơn.
Tai Tô-nhi-a đỏ tía lên.
- Anh vẫn cái tật cục cằn như trước.
Pa-ven vác xẻng lên vai và rảo bước đi. Được vài
bước, anh mới đáp lại:
- Tính cục cằn của tôi, nói cô đừng giận, nó còn hơn cái
điệu lịch sự của cô, đồng chí Tu-ma-nô-va ạ! Về đời tôi,
không mượn lo cô phải lo hộ. Đâu vẫn vào đấy. Chỉ có đời
cô thì tôi không ngờ là nó đốn đến thế. Cách đây hai năm,
cô khá hơn nhiều, lúc đó cô còn dám bắt tay một người thợ
và cô không lấy đó làm xấu hổ. Nhưng bây giờ thì người cô
sặc mùi băng phiến. Nói thật tình ra, tôi chẳng có gì để nói
với cô nữa.
*
Pa-ven nhận được thư của A-rơ-chom. Anh cho biết
sắp cưới vợ và khẩn khoản giục Pa-ven thế nào cũng phải
về dự.
Gió dứt lá thư khỏi tay Pa-ven, lá thư bay lên không như
con chim bồ câu. Không, anh chẳng đi dự đám cưới được
đâu. Có thể nào lại nghĩ đến đi được! Từ hôm qua, thằng
gấu Pan-cơ-ra-tốp đã đuổi kịp phân đội của anh và đang
tiến với một đà nhanh ai cũng phải sợ. Anh công nhân bến
tàu này dốc toàn lực lao lên phía trước, quyết chí vươn lên
hàng đầu, vẻ trầm tĩnh ngày thường của anh đã biến đi, anh
luôn luôn động viên toàn anh em "bến tàu” của mình làm
việc với một nhịp điệu như điên cuồng.
Pa-tô-sơ-kin theo dõi cuộc thi đua giữa những người
làm đường, một cuộc thi im lặng mà ác liệt này. Ông già
gãi đầu ngạc nhiên tự hỏi mình: "Không hiểu họ là những
con người thế nào mà làm được như vậy nhỉ? Cái sức
mạnh thật khó hiểu kia là thế nào? Thật nếu trời cứ thế này
cho được tám ngày nữa thì chúng mình sẽ làm được tới
khu rừng đã đốn gỗ. Tục ngữ nói rất đúng: có sống hết đời,
học hành trọn kiếp, cho đến già vẫn còn thấy là mình dốt.
Việc làm của những con người này đã làm đảo lộn hết mọi
con tính và tất cả các chỉ tiêu".
Cơ-la-vi-sếch ở dưới tỉnh lên mang đến số bánh mì
cuối cùng do chính tay anh làm ra. Thăm Tô-ca-rếp xong,
anh đến chỗ làm việc tìm Pa-ven. Đôi bạn gặp nhau thân
thiết. Cơ-la-vi-sếch mỉm cười rút trong bao túi ra một cái
áo bông Thụy Điển màu vàng rất choáng. Anh lấy tay vỗ
mặt da mềm của chiếc áo và nói với Pa-ven:
- Áo gửi cho cậu đây. Có đoán được ai gửi không?...
Hừ, cậu ngốc quá đi thôi! Đồng chí Ri-ta gửi cho cậu đấy vì
chị ấy không muốn cậu chết rét, ngốc ạ!Chẳng là anh A-
kim nói với chị ấy là cậu mặc trần có cái vét-tông, chịu rét
mà làm việc. Áo này do đồng chí Ô-sin-ski tặng chị ấy, mới
cầm lấy ở tay anh ta tặng, chị ấy đưa ngay cho mình và
bảo: "Mang ra cho Pa- ven". Ôn-sin-ski nhăn nhó nói: "Tôi
có thể gửi cho đồng chí ấy chiếc áo ca-pốt". Nhưng Ri-ta
cười hơ hớ: "Thôi, anh ấy mặc áo khoác ngắn làm việc
tiện hơn. Cơ-la-vi-sếch mang hộ nhớ!".
Pa-ven cầm tấm áo sang trọng đó trong tay, lòng xiết
nỗi ngạc nhiên. Anh ngập ngừng một hồi mới khoác nó lên
người đang rét run cầm cập. Lớp lông mềm làm cho vai và
ngực anh thấy ấm lại ngay.
*
Ri-ta ghi trong nhật ký:
20 tháng Chạp.
Đang mùa bão. Tuyết xuống nhiều, gió rít mạnh. Các
anh em ở Bai-a-rơ-ca đã gần đến đích thì những cơn rét
dữ và bão tuyết làm cho họ phải dừng lại. Họ bị ngập trong
tuyết. Đất có tuyết phủ đông cứng lại, đào đất gay thật. Chỉ
còn lại tất cả bảy trăm năm mươi thước nữa thôi, nhưng là
những thước đường ác liệt nhất.
Tô-ca-rếp báo tin: trên công trường chớm có dịch
thương hàn, có ba người đã mắc bệnh.
22 tháng Chạp.
Không ai ở Bai-a-rơ-ca về dự cuộc họp toàn thể chấp
hành tỉnh đoàn thanh niên. Bọn phỉ vừa làm trúc chuyến tàu
chở bánh mì ở đoạn đường cách Bai- a-rơ-ca mười bảy
cây số. Theo mệnh lệnh của đại diện Ban dân ủy cung cấp,
toàn thể công nhân xây dựng đường sắt phải điều đến chỗ
xảy ra tai nạn.
23 tháng Chạp.
Lại thêm bảy người mắc thương hàn từ Bai-a-rơ- ca
đưa về tỉnh. Trong số đó có Ô-cu-nhếp. Mình có ra ga.
Người ta đưa xuống những xác đã chết cứng vì lạnh từ các
thành toa của chuyến tàu mới ở Khác- cốp tới. Ở nhà
thương rét lắm. Trận bão tuyết tai ác! Bao giờ mới hết bão
cho?
24 tháng chạp.
Vừa ở đằng Giu-khơ-rai về. Té ra là đúng: đêm qua O-
rơ-lích đã dẫn cả lũ phỉ tập kích vào Bai-a- rơ-ca. Ta với
chúng đánh nhau trong hai tiếng đồng hồ. Quân phỉ cắt mất
đường dây, nên mãi sáng nay Giu-khơ-rai mới nhận được
báo cáo đích xác. Thổ phỉ bị đánh lui. Cụ Tô-ca-rếp bị
thương, đạn xuyên vào ngực. Hôm nay người ta sẽ đưa cụ
về đây. Cơ-la-vi- sếch bị chém chết. Đêm ấy, anh đến
phiên đi gác. Chính anh trông thấy bọn phỉ, anh liền vừa
báo động, vừa bắn chặn bọn giặc nhảy xổ vào, nhưng vì
không chạy kịp đến trường học, nên đã bị bọn phỉ chém
chết. Trong đội công nhân làm đường có mười một người
bị thương. Hiện giờ có chiếc tàu bọc sắt và hai đội kỵ binh
đang tuần tiễu ở đấy.
Pan-cơ-ra-tốp lên thay cụ Tô-ca-rếp phụ trách công
trường. Ban ngày, Pu-dư-rếp-ski đã vây một bộ phận phỉ ở
đồi Gơ-lu-bô-ki và đã giết sạch không còn một mống.
Nhiều công nhân làm đường ngoài Đảng không đợi tàu
đến nữa, đã bỏ công trường lần theo đường tà-vẹt trốn về.
25 tháng Chạp.
Người ta dã đưa cụ Tô-ca-rếp và những anh em bị
thương khác về đây và đem ngay vào bệnh viện cứu chữa.
Các bác sĩ đều hứa cứu sống ông già. Cụ ta nằm mê man
không biết gì. Tính mệnh của những người khác không
nguy lắm, có thể qua được.
Tỉnh ủy và chấp hành tỉnh đoàn chúng mình nhận được
bức điện từ Bai-a-rơ-ca gửi về: "Để trả lời vụ quấy rối của
bọn thổ phỉ, chúng tôi, những người xung phong xây dựng
đường sắt, đã họp mít-tinh cùng với đơn vị tàu bọc sắt
mang tên "Vì chính quyền Xô-viết" và các chiến sĩ Hồng
quân trung đoàn kỵ binh, xin hứa với các đồng chí, dù trở
lực thế nào, đúng ngày mồng một tháng Giêng, chúng tôi sẽ
cung cấp được củi cho thành phố. Chúng tôi nguyện tiếp
tục làm việc với dũng khí càng tăng lên gấp bội. Đảng cộng
sản, người đã tin cậy gửi chúng tôi tới đây, muôn năm!
Chủ tịch buổi mít-tinh: Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Bí thư: Béc-
din".
Thi hài Cơ-la-vi-sếch đã được an táng tại Xô-lô- men-
ca, theo tang lễ quân đội.
*
Đống củi ta hằng mong gần tới rồi, chẳng còn bao xa
nữa, nhưng công việc tiến hành chậm chạp không thể chịu
được, vì bệnh thương hàn mỗi ngày cướp mất hàng chục
bàn tay có ích, lúc này cần vô cùng, quý vô cùng.
Pa-ven đi về phía ga, bước lảo đảo như người say
rượu hai chân chỉ chực khuỵu xuống. Anh bị sốt từ lâu
nhưng hôm nay cảm thấy người khó chịu hơn hẳn mọi khi.
Bệnh thương hàn lâu nay phá tỉa đội làm đường, bây
giờ đã bắt đầu tấn công đến Pa-ven. Nhưng sức vóc rắn
chắc của anh đã chống cự lại, và năm hôm nay, anh vẫn
còn đủ sức nhấc mình khỏi sàn bê tông loáng thoáng phủ
rơm, để cùng anh em đi làm. Ngay cả cái áo lông ấm của
Ri-ta biếu và đôi giày ống lót dạ của Giu-khơ-rai gửi cho
đang bọc lấy đôi chân tê buốt, cũng không thể cứu anh khỏi
nguy được.
Mỗi bước đi, anh thấy ngực đau nhói như dao đâm,
răng đánh vào nhau lập cập, mắt hoa lên và cây cối chung
quanh đối với anh hình như đang quay cuồng một cách lạ
lùng.
Khó nhọc lắm anh mới lê bước được đến ga. Tiếng ồn
ào khác thường làm anh ngạc nhiên. Cố nhìn xem: thì ra có
một chuyến tàu dài dằng dặc đỗ dọc suốt nhà ga. Trên
những toa trần, toàn là các đầu máy nhỏ, đường ray, tà-vẹt.
Những người đi theo đoàn tàu mới đến đang bốc những
hàng ấy xuống. Pa-ven đi mấy bước nữa, người đã thấy
loạng choạng mất thăng bằng. Rồi đầu anh từ từ chạm đất.
Má đang nóng bừng áp vào tuyết thấy lành lạnh, dễ chịu.
Mấy giờ sau, có người đi qua vấp phải người anh,
người ta mới đưa anh về căn nhà. Pa-ven thở dốc, tâm
thần mê man, không nhận ra được ai nữa. Y sĩ ở chiếc tàu
bọc sắt được mời đến khám, chẩn đoán:
"Bị sưng phổi nặng và bị thương hàn. Nhiệt độ 41,5.
Còn nhức đầu xương và sưng cổ, nhưng không đáng kể vì
so với hai chứng trên chỉ là bệnh vặt. Chỉ hai bệnh trên
cũng đủ qua đời”.
Pan-cơ-ra-tốp và Đu-ba-va vừa đi chuyến tàu dài tới đã
hết sức tìm mọi cách cứu sống Pa-ven.
A-li-ô-sa Cô-khan-ski là người cùng quê với Pa- ven
được giao trách nhiệm đưa người bệnh về Sê-pê- tốp-ca.
Nhờ toàn đội của Pa-ven giúp tay vào, chủ yếu là nhờ
áp lực của Khô-li-a-va, nên Pan-cơ-ra-tốp và Đu- ba-va
mới đưa được Pa-ven mê man bất tỉnh và A- li-ô-sa vào
một toa tàu đã chật ních người. Vì sợ bệnh thương hàn
truyền nhiễm, hành khách không cho đưa vào toa. Họ phản
đối ầm ĩ và dọa khi tàu chạy, họ sẽ quẳng người bệnh
xuống đường.
Khô-li-a-va vung súng lục trước mũi những ai cản trở
việc đưa người bệnh lên tàu. Anh thét lên:
- Người ốm này không có bệnh truyền nhiễm! Thế nào
cũng phải để cho người bệnh đi, dù cho có phải đuổi tất cả
mọi người xuống thì cũng cứ phải đưa đi ! Nói cho bọn các
anh nhớ rằng, nếu định chạm tay vào người anh ta, tôi sẽ
báo cho các nhân viên công an đặc biệt ở các ga dọc
đường: đuổi tất cả xuống tàu và tống giam ngay. A-li-ô-sa
này, đây là khẩu Mô- de của Pa-ven, cầm lấy, nếu đứa nào
dám đầu têu cho Pa-ven xuống thì cứ bắn ngay.
Khô-li-a-va nói dọa thêm câu ấy.
Tàu chuyển bánh. Trên sân ga vắng, Pan-cơ-ra- tốp đi
lại gần Đu-ba-va.
- Cậu thấy thế nào, liệu có sống được không?
Không có tiếng trả lời.
- Về thôi. Đu-ba-va, nó sẽ thế nào thì cũng đành thôi. Tất
cả công việc giờ do chúng mình phải gánh vác cả. Đêm
nay, phải chuyển các đầu máy xuống để sáng mai còn đốt
lò thử xem.
Khô-li-a-va gọi điện thoại suốt dọc đường tàu, nói
chuyện với các bạn công an đặc biệt của mình và tha thiết
đề nghị họ không để cho hành khách khiêng bệnh nhân Pa-
ven xuống tàu. Mãi đến lúc nhận được lời các bạn hứa
chắc chắn sẽ làm theo lời anh yêu cầu anh mới đi ngủ.
Đến một nhà ga lớn, người ta khiêng từ chuyến tàu chở
khách xuống ngay sân ga một xác chết, xác một người
thanh niên lạ mặt tóc hoe. Anh ta là ai, vì sao chết, chẳng ai
biết cả. Các nhân viên công an đặc biệt của nhà ga nhớ tới
lời yêu cầu của Khô-li- a-va, bèn chạy lại toa xe để ngăn
cản không cho khiêng xuống, nhưng đến lúc chính mắt trông
thấy người thanh niên kia đã chết thật, họ đành phải cho
phép khiêng xác đến nhà xác của trạm tiêu chuyển.
Họ gọi ngay dây nói về Bai-a-rơ-ca báo cho Khô- li a-va
biết tin bạn anh đã chết, số phận của người bạn đó bấy lâu
đã làm cho anh rất lo ngại.
Một bức điện ngắn từ Bai-a-rơ-ca báo về Tỉnh ủy tin
Pa-ven từ trần.
Còn A-li-ô-sa Cô-khan-ski thì sau khi đã đưa được Pa-
ven về tới gia đình, chính A-li-ô-sa lại bị bệnh thương hàn
quật ngã.
*
"9 tháng Giêng.
Sao lòng tôi thấy đau đớn nặng nề như vậy? Trước khi
ngồi vào bàn, tôi đã khóc nhiều. Ai tưởng được rằng Ri-ta
này lại có thể khóc được, có thể khóc đau xót như thế
được ! Có phải bao giở nước mắt cũng là dấu hiệu của sự
yếu lòng không? Hôm nay ta khóc vì đau đớn sâu xa trong
lòng. Tại sao đau đớn này lại đến với ta giữa một ngày
thắng lợi lớn, khi giặc rét rùng rợn đã bị đánh bại rồi, khi
các ga xe lửa đã có củi gỗ quý giá chất đầy ăm ắp trong
kho? Tại sao nó lại đến vào giữa ngày mà tôi vừa được
dự lễ chiến thắng trong cuộc hội nghị mở rộng của Xô-viết
thành phố, lễ mừng những người anh hùng xây dựng
đường sắt? Phải, chúng ta đã thắng lợi, nhưng để góp vào
thắng lợi đó, hai người đã hy sinh: Cơ-la-vi-sếch và Pa-
ven.
Cái chết của Pa-ven đã làm cho tôi thấy một sự thật:
đối với tôi, Pa-ven thân quý hơn là tôi vẫn tưởng.
Thôi từ nay tôi bỏ không viết cuốn nhật ký này nữa. Rồi
có khi nào tôi bắt đầu một cuốn nhật ký mới nữa không?
Không biết thế nào. Ngay mai viết thư đến Khác-cốp báo
tin tôi đồng ý nhận công tác ở Trung ương đoàn thanh niên
cộng sản U-cơ-ren".
CHƯƠNG III
Tuổi thanh xuân đã thắng. Pa-ven qua khỏi trận sốt
thương hàn. Lần này là lần thứ tư, anh đã thập tử nhất sinh
mà sống trở lại. Nằm mất một tháng rồi Pa-ven mới gượng
dậy được, người gầy và xanh, chân đứng còn run; tay vịn
vào tường, anh lần tập đi vài bước trong phòng. Mẹ phải
đỡ anh mới ra được đến cửa sổ, và đứng đấy nhìn con
đường cái rất lâu. Từng vũng tuyết tan óng ánh trên mặt
đường. Tuyết bắt đầu tan, báo hiệu mùa xuân.
Ngay trước cửa sổ, trên cành anh đào, có con chim sẻ
đậu đang tỉa lông, giơ bụng xám, mắt ranh mãnh liếc nhìn
Pa-ven. Pa-ven lấy ngón tay gõ vào kính cửa sổ, khẽ mở
miệng nói:
- Thế là ta với mi đã qua mùa đông rồi đấy, chim nhỉ.
Mẹ hốt hoảng nhìn anh:
- Con nói với ai thế ?
- Con nói với con chim sẻ... Thôi nó bay đi mất rồi, con
chim nỡm!
Và Pa-ven mỉm một nụ cười yếu ớt.
Mùa xuân rồi. Pa-ven nghĩ đến trở về thành phố. Anh
thấy sức thì đã khá, có thể đi được, nhưng trong cơ thể có
một cái gì khác thường. Một hôm anh đang dạo chơi ngoài
vườn, bỗng thấy đau nhói trong xương sống, khiến anh ngã
vật ra đất. Khó nhọc lắm anh mới dậy và bò về phòng
được. Ngày hôm sau, bác sĩ khám bệnh anh rất kỹ. Bác sĩ
gõ những đốt xương sống, thấy có lỗ thủng sâu hoắm trong
xương, lấy làm lạ, hỏi anh:
- Sao lưng đồng chí lại bị thủng sâu thế này?
- Thưa bác sĩ, đấy là vết một viên đá lát đường bắn vào
lưng tôi. Trước thành Rốp-nô, có một quả đại bác 81 ly nổ
tung mặt đất...
- Thế đồng chí làm thế nào mà đi được nữa? Viên đá
bắn thủng lưng như thế không đau sao?
- Không. Tôi bị đá bắn vào lưng, nằm lăn ra đất đến
ngót hai hai tiếng đồng hồ, rồi lại lên ngựa đi. Mãi đến bây
giờ mới thấy đau là lần đầu.
Bác sĩ cau mày suy nghĩ, tay nắn mãi vết lõm trên lưng.
- Hừ !... Bị một cú như thế, gay đấy, chú ạ! Xương sống
con người ta không ưa bị đá giáng vào như thế đâu. Hy
vọng là đồng chí sẽ không thấy đau nữa. Thôi, mặc áo vào,
đồng chí Pa-ven ạ.
Bác sĩ ái ngại nhìn người bệnh, không giấu nổi vẻ lo âu.
A-rơ-chom về ở nhà Schi-ô-sa, vợ anh, một người đàn
bà chẳng có gì là đáng ưa cả. Nhà vợ là nông dân nghèo.
Một hôm, Pa-ven đến thăm anh. Một đứa bé con nhếch
nhác, mắt lác, đang chạy nhông ở sân nhỏ bẩn thỉu. Thấy
Pa-ven vào, thằng bé giương mắt ti hí nhìn chòng chọc, rồi
hí hoáy thọc ngón tay một cách nghiêm túc vào lỗ mũi, cất
tiếng hỏi:
- Hỏi gì? Định vào nhà người ta ăn cắp chắc? Cút đi
ngay, không mẹ người ta chửi cho đấy!
Túp lều cũ kỹ, thấp lè tè, cánh cửa sổ bé tí xíu mở ra. A-
rơ-chom gọi Pa-ven:
- Vào đây Pa-vơ-lu-sa!
Một mụ già mặt vàng như nghệ đang loay hoay trước
cửa lò. Mụ gườm gườm đưa mắt lườm Pa-ven và né
người tránh cho khách đi. Xong mụ lại về với mấy cái nồi
của mụ, mụ xê đi dịch lại làm nồi va chạm vào nhau loảng
xoảng.
Hai đứa bé gái, bím tóc lơ thơ vài sợi, trèo phắt lên trên
lò bếp ngồi và trố mắt nhìn người khách lạ một cách tọc
mạch.
A-rơ-chom ngồi ở bàn, có vẻ ngượng ngùng. Cả mẹ lẫn
em đều không tán thành anh lấy Schi-ô-sa. Anh đã ba năm
đi lại với nhà cô Ga-li-a xinh đẹp làm nghề khâu, con gái
bác thợ đá. Chẳng hiểu làm sao, vốn con nhà vô sản gốc,
anh lại bỏ Ga-li-a để lấy nhà chị Schi-ô-sa chẳng ra gì, đâm
đầu vào cái gia đình năm miệng ăn mà chẳng có ai là tay
thợ cả. A-rơ-chom xong việc ở sở đầu máy về nhà, lại nai
lưng ra với cái cày, đem hết sức gây dựng lại cơ đồ cho
nhà chị Schi-ô-sa đang lụn bại này.
A-rơ-chom hiểu rằng Pa-ven không tán thành bước
đường tụt lại đằng sau của anh, bước đường "tiểu tư sản
hóa", như Pa-ven thường nói. Giờ đây, anh để ý xem em
sẽ xử sự như thế nào trong cái cảnh nhà mình thế này.
Hai anh em hỏi han nhau qua loa mấy câu sáo chẳng ra
đâu vào đâu rồi Pa-ven tỏ ý muốn ra về. A-rơ-chom giữ lại.
- Ở chơi đã, ăn với chúng tao tí chút. Chị sắp mang sữa
đến. Mai mày định đi thật đấy à? Trông mày còn yếu lắm,
Páp-ca ạ.
Schi-ô-sa bước vào, chào Pa-ven và gọi A-rơ-chom
xuống nhà dưới khiêng vật gì giúp một tay. Mình Pa-ven ở
lại với mụ già ít nói. Tiếng chuông nhà thờ vọng vào cửa
sổ. Mụ già buông gậy chọc lò, càu nhàu:
- Giê-su-ma, lạy Chúa tôi, đầu tắt mặt tối thế này chẳng
có lúc nào mà ngắm nguyện nữa.
Mụ tụt khăn quàng ra khỏi cổ, rồi vừa nhìn gườm gườm
người khách lạ, vừa đi đến góc buồng, chỗ bày những ảnh
tượng lạnh lẽo, lâu ngày trông đã sỉn. Mụ đưa ba ngón tay
phải gầy giơ xương chụm vào nhau, rồi bắt đầu làm dấu.
Mấp máy đôi môi khô héo, mụ lâm râm cầu nguyện.
- Lạy Cha chúng tôi ở trên đời, chúng tôi nguyện danh
Cha cả sáng...
Ngoài sân thằng bé cưỡi lên lưng con lợn sề đen trùi
trũi có đôi tai chảy lòng thòng. Nó lấy chân không thúc vào
sườn lợn, tay bíu chặt mớ lông; con vật đang xoay tròn, vừa
quẫy vừa gầm gừ. Thằng bé thét lên:
- Hư, đi ! Đi! Hê, gượm tí đã nào !
Con lợn sề lồng lên trong sân, cố vật thằng bé trên lưng
ngã xuống đất. Song thằng bé ngồi chắc lắm.
Mụ già bỏ kinh, bỏ nguyện, thò đầu ra cửa sổ:
- Đồ quỷ sứ! Rồi tao dạy cho mày cưỡi ngựa. Có xuống
ngay không, thằng chết tiệt. Ngã chết bây giờ! Nghịch thế
thì thôi !
Con lợn sề đã tìm cách thoát được tay kỵ mã. Mụ già
yên trí lại quay về với ảnh tượng. Nét mặt sùng kính, mụ tiếp
tục cầu kinh.
- Nước Cha trị đến…
Thằng bé con nước mắt chảy quanh, bước vào cửa. Nó
lấy cánh tay áo quệt lên cái mũi bị ngã dập xuống đất và
khóc mếu vì mũi đau. Nó vòi:
- Mẹ ơi, cho con cái kẹo.
Mụ già phát khùng quay lại:
- Đồ quỷ mắt lác, mày không để cho bà xong buổi
nguyện. Đồ chó đẻ, đợi đấy, rồi bà lấy kẹo cho mày.
Nói rồi, mụ nhặt cái roi trên ghế dài. Thằng bé biến
ngay lập tức. Hai đứa bé gái nằm sau lò bếp phì cười. Mụ
lại quay vào cầu nguyện, lần này nữa là lần thứ ba.
Pa-ven đứng dậy và đi ra ngay, chẳng đợi A-rơ- chom
nữa. Khi anh ra khỏi, quay lại khép cổng, thì thấy mụ già
còn ngó qua cửa sổ ở ngách nhà nhìn theo anh.
"Không hiểu thế quái nào mà ông A-rơ-chom lại chúi
đầu vào đây. Rồi đến chết cũng không rút cũng ra được.
Bà Schi-ô-sa rồi sẽ đẻ sòn sòn năm một. Ông A-rơ-chom
rồi sẽ sa lầy vào đấy như con bọ hung trong đống phân. -
Pa-ven chán ngán bước theo con đường vắng ngắt của thị
trấn nhỏ, vừa đi vừa nghĩ ngợi. - Lo cho ông ấy có thể còn
đổ đốn hơn nữa đến bỏ cả công việc ở sở đầu máy về nhà
ở lỳ với vợ. Thế mà mình cứ định bụng lôi ông ấy đi công
tác, đi hoạt động !"
Pa-ven sung sướng ngày mai được đi rồi, ngày mai trở
về thành phố lớn, gặp lại bạn bè và những người mà anh
yêu quý. Thành phố đồ sộ, sức sống tràn trề, vẻ náo nhiệt
của dòng người không lúc nào ngớt, tiếng xe điện ầm ầm,
tiếng còi xe hơi inh ỏi, tất cả hấp dẫn anh. Song, cái chính
là anh cảm thấy tâm hồn anh bị thu hút bởi những lớp nhà
rộng mênh mông, xây bằng gạch; những công xưởng ám
khói, các thứ máy móc và tiếng dây chuyền da lướt ngọt
trên bánh xe. Anh bị hút về nơi có những bánh lái khổng lồ
quay tít theo đà máy chạy hối hả về nơi có mùi đầu máy, về
những thứ đối với anh đã trở thành thân thuộc. Ở đây trong
cái thị trấn nhỏ lầm lì này, đi dạo chơi quanh ngoài phố, Pa-
ven cảm thấy rất là khó thở. Thị trấn nhỏ này đối với anh trở
nên xa lạ và chán ngấy, điều đó anh chẳng lấy làm ngạc
nhiên. Anh chán ngấy đến nỗi ban ngày ra phố đi quanh
cũng đủ thấy khó chịu. Mỗi khi đi ngang qua nhà những mụ
lắm điều đang ngồi lê trên thềm nhà, Pa-ven nghe thấy các
mụ nói liến thoắng huyên thiên.
- Các bà ơi, xem kìa. Cái thằng kia nó chui ở đâu ra mà
trông rõ khiếp !
- Chắc nó là thằng ho lao, cái ngực sắp đi đời rồi.
- Nhưng cái áo ngoài của nó trông có vẻ đắt tiền đấy.
- Chắc nó xoáy ở đâu chứ gì...
Và chuyện các mụ cứ rặt như thế. Pa-ven nghe lắm, rác
cả tai.
Từ lâu, anh thấy mình đã đứt rễ hẳn với nơi này. Thành
phố lớn ngoài kia đối với anh gần gũi hơn, thân thiết hơn.
Các đồng chí với anh là một gia đình bền chặt, vui tươi. Với
lại, ngoài ấy, anh còn có công tác.
Pa-ven bước chân đến rừng thông từ lúc nào cũng
không để ý đến nữa. Anh dừng lại ở chỗ đường rẽ đôi.
Bên phía tay phải, sau hàng rào cao với những cọc nhọn
hoắt, ngăn cách với rừng, là nhà pha cổ lỗ, âm u hình thù
đáng ghét, và sau nhà pha là những nếp nhà quét vôi trắng
của nhà thương.
Chính ở bãi rộng này đây, Va-li-a và các đồng chí đã bị
treo cổ. Pa-ven đứng im lặng một lúc lâu trước nơi ngày
trước đặt giá treo cổ. Rồi anh lần bước xuống lối hào sâu,
lững thững đi ra huyệt chung của anh chị em ở trên gò.
Những bàn tay trìu mến đã đặt lên các ngôi mộ những
vòng hoa kết bằng cành thông và rào quanh nghĩa địa nhỏ
này một hàng rào cây lá tươi. Đỉnh gò có những cây thông
cao vút trấn ngự. Cỏ non như tơ xanh phủ lên sườn gò
thoai thoải.
Thị trấn nhỏ đến đây là hết phố. Cảnh vật nơi này tịch
mịch, rầu rầu. Rừng thông hiu hắt. Không gian phảng phất
mùi lá khô rữa và mùi đất mùa xuân nhuần lại.
Nơi đây, anh chị em ta đã anh dung hy sinh để cho cuộc
đời cười được với những kẻ sinh ra trong cùng khổ, những
kẻ từ thuở lọt lòng mẹ là đã bắt đầu kiếp làm trâu ngựa.
Pa-ven từ từ ngả mũ, lòng tràn ngập một mối buồn vô
hạn.
Cái quý nhất của con người ta là đời sống. Đời người
chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận
vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ
thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm
mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta
đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự
nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống
gấp lên mới được. Vì tật bệnh vô lý hay một sự tình cờ bi
đát nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời.
Mang nặng trong lòng những ý nghĩ ấy, Pa-ven rời khỏi
nghĩa địa.
Mẹ buồn rầu sửa soạn hành lý cho con lên đường. Pa-
ven nhìn mẹ: mẹ khóc nhưng quay mặt đi không để anh
trông thấy.
- Con ở lại có được không, con? Con xem, mẹ già rồi.
Cứ lủi thủi ở một mình thì khổ mẹ lắm, con ạ. Đấy, đẻ ra
ngần ấy đứa con, nhưng chúng nó vừa lớn lên thì mỗi đứa
đi một ngả. Cái gì nó kéo mày ra tỉnh thế, hở Pa-ven? Ở
đây sống cũng được chứ sao? Hay mày cũng đã có món
nào? Chắc mày đã phải lòng một con mái tóc ngắn nào
rồi? Cấm đứa nào nói với mụ già này một câu. Thằng A-
rơ-chom lấy vợ chẳng bảo qua tao một tiếng. Mày lại càng
tệ nữa. Chỉ khi nào chúng mày ốm đau què quặt, mẹ mới
được trông thấy mặt chúng mày thôi.
Mẹ dịu dàng bảo Pa-ven như thế, vừa nói vừa xếp mớ
quần áo của con vào túi đã giặt sạch.
Pa-ven ôm lấy vai mẹ, kéo mẹ lại gần:
- Không đâu. Con chẳng có con mái nào đâu, mẹ ạ. Gà
thì lấy gà có phải không mẹ. Mẹ gọi thế chẳng hóa ra con là
gà sống à?
Anh làm mẹ phải bật cười.
- Mẹ ơi, con đã thề không nghĩ gì đến gái, nếu ta chưa
diệt hết bọn tư sản trên khắp thế gian này. Chắc mẹ lại bảo
như thế thì phải chờ lâu lắm phải không? Không đâu, mẹ ạ,
bọn tư sản chẳng đứng được lâu nữa...Rồi tất cả loài
người sẽ là một nước cộng hòa. Và các cụ ông, cụ bà già
như mẹ đã suốt đời làm lụng thì sẽ được sang nghỉ bên Ý,
ở đấy ấm áp, chung quanh toàn là biển cả. Ở bên nước Ý,
không bao giờ có mùa đông, mẹ ạ. Chúng con sẽ đưa mẹ,
những người già như mẹ, đến ở trong những dinh cơ của
bọn tư sản, và mẹ sẽ ngồi sưởi nắng ấm. Còn chúng con,
chúng con sẽ đi sửa nốt bọn tư sản bên Mỹ.
- Con ạ, mẹ chẳng còn sống được đến ngày có câu
chuyện tiên phật của con đâu… Ông con xưa kia cũng ngỗ
ngược như con, ông làm thủy thủ, đi khắp năm châu bốn
biển. Nói trộm vía ông, cụ thật là tay ghê gớm. Trận Xê-va-
xtô-pôn, cụ đánh hăng thế nào mà khi về nhà thì thấy cụ
thiếu một chân một tay. Người ta gắn cho cụ hai huân
chương thập tự và hai mề đay có cuống của Nga hoàng.
Nhưng rồi ông cụ cũng chỉ chết cực chết khổ. Cụ bướng
lắm. Một lần cụ vác nạng nện vào đầu người Nhà nước.
Thế là bị tù một năm. Người ta tống vào nhà pha, huân
chương thập tự cũng chả cứu thoát được. Mẹ thấy tính con
dễ thường theo về tính ông ngày trước.
- Mẹ ơi, con sắp xa mẹ, mẹ nói chuyện không vui ấy làm
gì? Thôi, mẹ đưa cho con cái đàn gió, đã lâu lắm con
chẳng mó đến nó.
Pa-ven cúi xuống hàng phím bọc xà cừ. Mẹ sửng sốt vì
tiếng đàn của anh lạ đi, nghe không như ngày trước nữa.
Hết vẻ ngỗ nghịch vô tư lự, chất hăng say xốc nổi, những
ngón láy và ngón đệm mà cả thị trấn đều biết tài tay chơi
đàn gió trẻ tuổi Pa-ven. Nhạc anh chơi bây giờ thánh thót,
trầm bổng, nghe không kém phần mạnh mà càng thêm có
chiều sâu nữa.
*
Pa-ven ra ga một mình.
Anh đã nói được cho mẹ ở lại nhà: anh không để mẹ đi
tiễn vì không muốn thấy mẹ khóc khi chia tay.
Xe lửa phải xông xáo mà lên, toa nào toa ấy đứng ngồi
chen chúc. Pa-ven chiếm giường trên tầng cao nhất và nhìn
xuống đám người hầm hầm la lối đứng chật cả chỗ đi.
Cảnh chuyến tàu nào cũng vậy, người ta kéo những
bao, những túi lê sền sệt, nhét vào dưới gầm ghế.
Đến khi tàu chuyển bánh, hành khách mới bớt nóng nảy,
và bao giờ cũng thế, cứ đến lúc này thì người ta bắt đầu
giở bánh ra ăn nghiến ngấu.
Pa-ven chẳng mấy chốc đã ngủ lăn.
Nhà đầu tiên anh muốn đến thăm ở trung tâm thành phố,
trên đường lớn Ca-rét-sa-tích. Anh từ từ leo lên thang cầu.
Cảnh chung quanh quen mắt, chẳng có gì khác cả. Anh
bước qua cầu nhà ga, để tay lướt trên thành cầu nhẵn trơn.
Đến chỗ xuống thang, anh dừng lại: trên cầu vắng ngắt.
Ngửa trông lên cao thăm thẳm, bóng tối mượt như nhung
phủ lấy nền trời.
Trên vòm trời cao, hằng hà sa số vì sao lấp lánh ánh
sáng màu lân tinh. Ở phía dưới, chỗ mặt đất lẫn với chân
trời, không biết đâu là ranh giới, thành phố rắc trong đêm
hàng triệu ánh đèn điện.
Có đông người đi lên qua mặt Pa-ven. Tiếng nói gay
gắt của đám người tranh cãi nhau một câu chuyện gì phá
sự yên tĩnh của đêm tối. Và Pa-ven, mắt rời những ánh đèn
của thành phố, bước xuống thang.
Trong phòng phát giấy của Ủy ban đặc biệt quận ở
đường Cơ-rét-sa-tích, người phụ trách cho Pa-ven biết là
Giu-khơ-rai đã đổi đi tỉnh khác từ lâu.
Đồng chí đó hỏi đi hỏi lại Pa-ven; mãi đến khi đã tin là
Pa-ven có quen riêng Giu-khơ-rai, mới cho biết qua loa
thêm. Cách đây hai tháng, Giu-khơ-rai được lệnh điều đi
Ta-sơ-ken, đến công tác ở mặt trận Tuốc- kết-stan. Pa-ven
nghe tin chán đến nỗi không buồn hỏi thêm nữa. Chẳng nói
chẳng rằng, anh quay gót đi ra. Mệt quá, anh ngồi xuống
bậc cửa nghỉ một lát.
Tàu điện chạy qua, bánh xe sắt lăn rầm rầm vang cả
phố. Trên các vỉa hè dòng thác người lũ lượt tràn đi. Náo
nhiệt quá ! Lúc thì có tiếng cười rúc rích của đàn bà, lúc thì
giọng trầm trầm của đàn ông, lúc thì giọng lanh lảnh của
một chàng trai trẻ măng, lúc thì giọng ồ ồ của ông già. Làn
sóng người trôi đi không lúc nào ngớt, ai nấy dáng dấp vội
vàng. Xe điện sáng trưng, đèn pha xe hơi rọi lên đột ngột,
hàng điện bật lên chói rực quanh biển quảng cáo của rạp
chiếu bóng bên cạnh. Và chỗ nào cũng là đám đông ngồn
ngộn, làm cho phố xá không lúc nào vắng tiếng huyên náo.
Đấy là buổi tối ở một thành phố lớn.
Cảnh tấp nập ồn ào của đại lộ này làm Pa-ven khuây
khỏa nỗi buồn vì tin Giu-khơ-rai đã được điều động đi nơi
khác. Biết đi đâu bây giờ? Hay về phố Xô-lô- men-ca với lũ
bạn? Xa quá! Và anh nhớ ra một nhà quen ở gần đây, ngay
phố Trường đại học Cơ-rúc-lô. Phải đến ngay đấy mới
được.. Bởi vì sau Giu-khơ-rai thì Ri-ta chính là đồng chí mà
anh muốn gặp trước tiên. Vả chăng, đến đây, có thể ngủ
buồng A-kim được.
Từ xa, anh đã nhìn thấy ánh đèn sáng ở cửa sổ trên
tầng gác. Để trấn tĩnh lòng mình, anh áp người vào cánh
cửa gỗ sên. Lên đến cầu thang, lại đứng dừng mấy giây
nữa. Trong buồng Ri-ta, có tiếng người nói chuyện, có
tiếng đàn ghi-ta.
"Tiếng đàn ghi-ta? Thế ra được chơi cả ghi-ta nữa kia
à? Chế độ bây giờ có vẻ nới ra tợn”. Pa-ven nghĩ bụng như
vậy và khẽ gõ cửa buồng. Cảm thấy mình hồi hộp, anh cắn
chặt môi.
Một người đàn bà trẻ lạ mặt, có để tóc mai quăn, ra mở
cửa. Người ấy nhìn Pa-ven:
- Anh hỏi ai?
Người đàn bà không khép cửa, và trông cách Pa- ven
đưa mắt nhìn vào đồ đạc trong buồng, chị ta cũng đủ đoán
hiểu ý.
- Tôi muốn hỏi chị Ri-ta Uốt-chi-nô-vích.
- Chị ấy không ở đây nữa. Hồi tháng Giêng chị ấy đổi đi
Khác-cốp và giờ nghe đâu lại đổi đi Mát-xcơ-va.
- Thế đồng chí A-kim còn ở đây hay cũng đi rồi?
- Đồng chí A-kim cũng không có đây, hiện nay đồng chí
ấy làm bí thư thanh niên cộng sản ở Ô-đét-xa.
Pa-ven chỉ có cách là quay đi. Niềm vui trở về thành phố
thế là mờ mất rồi...
Giờ thì phải liệu lo đi tìm chỗ ngủ đêm thôi.
"Cứ chạy quanh tìm các bạn thân như thế, mình có mỏi
nhừ chân cũng chẳng thấy ai".
Pa-ven càu nhàu, cau có, cố nén thất vọng. Tuy nhiên,
anh cũng còn cầu may chuyến nữa, đến tìm Pan-cơ-ra-tốp.
Pan-cơ-ra-tốp ở gần bến tàu, đến cậu ấy không xa bằng đi
đến phố Xô-lô-men-ca.
Tìm đến được nhà Pan-cơ-ra-tốp thì người anh đã mệt
nhoài. Anh gõ cánh cửa trước kia có hồi sơn đỏ, định
bụng: "Nếu cậu ta cũng đi nơi khác nốt rồi thì mình chẳng đi
đâu lang thang mãi nữa. Tìm béng cái thuyền nào chui
xuống ngủ qua đêm nay thôi".
Một bà cụ nhỏ nhắn, đội vuông khăn giản dị chít dưới
cằm, ra mở cửa. Bà cụ là mẹ Pan-cơ-ra-tốp.
- Thưa mẹ, anh Pan-cơ-ra-tốp có nhà không ạ?
- Em nó vừa mới về.
Bà cụ không nhận ra Pa-ven và quay vào gọi con:
- Pan-cơ-ra-tốp ơi, có anh nào hỏi con đấy.
Pa-ven bước theo bà cụ vào nhà, đặt túi xuống đất.
Pan-cơ-ra-tốp đã ngồi vào ăn ở bàn, quay ra nhìn Pa-ven:
- Có phải anh hỏi tôi thì mời anh ngồi chơi và cho biết
có việc gì. Anh cho tôi làm nốt bát xúp này vì từ sáng, tôi chỉ
độc nốc nước lã trừ bữa.
Và Pan-cơ-ra-tốp cầm lấy cái thìa gỗ to tướng.
Pa-ven ngồi xuống ghế dựa, mặt ghế đã thủng.
Anh bỏ mũ cát-két ra rồi theo thói quen lấy mũ lau mồ
hôi trán.
"Chẳng lẽ mặt mũi mình thay đổi đến nỗi cậu ta không
nhận ra được mình nữa ư?"
Pan-cơ-ra-tốp húp luôn hai thìa xúp, rồi thấy khách chưa
nói gì, liền quay ra hỏi khách lần nữa.
- Anh nói cho nghe đi. Có chuyện gì thế anh?
Bàn tay cầm mẩu bánh chưa đưa tới mồm đã dừng lại
nửa chừng, Pan-cơ-ra-tốp bàng hoàng chớp chớp mắt.
- Ô kìa . . . Hãy khoan . . . Thế này là thế nào, hở trời?
Thấy mặt bạn đỏ bừng, rúm lại vì nghĩ lung, Pa- ven
không nhịn được nữa, phì cười.
- Páp-ca ơi! Chúng tao ngỡ mày chết rồi!... Hãy khoan!
Tên anh là gì?
Nghe Pan-cơ-ra-tốp kêu rú lên, mẹ và chị gái anh ở
buồng bên chạy ra. Rồi cuối cùng cả ba người nắm chắc là
chính Pa-ven đang ngồi trước mặt họ.
Cả nhà đã ngủ lâu rồi, Pan-cơ-ra-tốp còn ngồi kể mãi
những việc xảy ra trong bốn tháng qua.
- Mùa rét vừa rồi, Giác-ki và Đu-ba-va được đi Khác-
cốp. Chẳng phải công tác vớ vẩn đâu. Tụi nó được vào Đại
học cộng sản, học lớp dự bị. Tất cả mười lăm đứa được
triệu tập đến. Lúc bấy giờ, có phong trào sôi nổi đòi đi học,
tao cũng làm đơn. Tao nghĩ bụng: mình phải ních thêm vào
cái túi khôn của mình, vì trong đầu mình hiểu biết ít ỏi quá.
Nhưng tiểu ban lấy học sinh cho tao rơi, mày ạ.
Pan-cơ-ra-tốp thở ra bực dọc, rồi nói tiếp:
- Mới đầu, việc tao có vẻ trôi chảy lắm. Tao đủ hết tiêu
chuẩn: tao có thẻ đảng viên, tao đã đủ thời hạn công tác dự
bị ở Đoàn; về thành phần xuất thân và bản thân, không có gì
lôi thôi, tao không vấp vì những cái đó. Nhưng khi sát hạch
tao về chính trị thì tao bị bương.
Tao vào vấn đáp trước một đồng chí trong tiểu ban.
Đồng chí ấy ra cho tao câu hỏi hóc này: "Đồng chí Pan-cơ-
ra-tốp, đồng chí hiểu gì về triết học thì nói đi”. Mày biết tao
thì hiểu quái gì về triết học. Nhưng tao nhớ ra, có một thằng
cha khuân vác trước kia cùng làm với chúng tao, một thằng
giang hồ có đi học lít-xê lít xiếc. Nó đi làm cho ra vẻ ta đây
lao động ấy mà. Nó có lần kể cho chúng tao nghe, xưa kia
ở bên nước Hy Lạp, có những nhà thông thái nghĩ ra nhiều
cái lắm. Người ta gọi họ là những nhà triết học. Trong
những tay triết học loại đó, có một tay tao quên khuấy mất
tên, hình như là I-đê-ô-ghen thì phải, tay này suốt đời chui
trong cái thùng tô-nô ở và đại khái những chuyện như thế. .
Giỏi nhất đám triết học ấy là một tay có thể chứng minh bốn
mươi lần liền: cái gì đen là trắng, và ngược lại, trắng là
đen. Nói tóm lại là một bọn nghĩ cách úm người ta. Vì vậy
cho nên lúc bấy giờ tao mới nghĩ đến câu chuyện thằng học
trò lít-xê kể và tao tự bảo: "Tay ủy viên tiểu ban này định
quay mình đây”. Mà lão ta ngồi đấy nhìn tao ranh mãnh thật.
Cho nên tao mới sa chân vào đĩa. Tao nói: "Triết học là trò
bịp đời và nhồi sọ. Tôi không ưa học gì những của ngớ
ngẩn ấy, các đồng chí ạ! Còn lịch sử Đảng thì khác, tôi để
hết tâm trí nghiên cứu lịch sử Đảng”. Tao nói thế xong thì
các tay trong tiểu ban mới truy tao thêm, hỏi vặn tao học ở
đâu mà hiểu triết học như thế. Tao mới nói thêm mấy điều
nữa mà thằng học trò lít-xê đã nói với tao. Thế là cả tiểu
ban lăn ra cười. Tao phát cáu. Tao bảo rằng: "Có cái gì mà
các đồng chí nhạo báng tôi như chế thằng ngu thế?" Tao
nhặt lấy mũ và đi ngay về nhà.
Sau đó, đồng chí đã hỏi tao lại gặp tao ở tỉnh ủy. Nói
chuyện ba tiếng đồng hồ liền. Tao mới hiểu ra thằng học trò
lít-xê nói lòe chúng tao. Bởi vì tao nghe nói thì ra triết học
một sự vĩ đại và rất là tinh anh sáng suốt.
Thằng Đu-ba-va và thằng Giác-ki thì trúng. Thằng Đu
ba-va thì tao chịu nó, nó học ra trò. Song còn Giác- ki thì
chẳng hơn tao mấy. Nó nhờ cái huân chương mà thoát,
nhất định là như thế. Nói tóm lại tao lại quay về làm ăn với
sông nước. Tao được chỉ định về ban quản lý bến tàu. Tao
thay đồng chí phụ trách ke bốc hàng. Trước kia cả ngày tao
to tiếng với chính quyền về một đống vấn đề dính dáng đến
Đoàn. Nay chính tao phải lãnh đạo cái khoản ấy. Thỉnh
thoảng xảy đến như thế này: có tên nào giả ốm, hay tên nào
nhác rơi vào tay tao, tao vừa lấy cương vị phụ trách chính
quyền, vừa lấy cương vị bí thư chi đoàn đì cho cẩn thận.
Song, cuộc đời không phải chỉ có tao, xin lỗi mày nhé. Tao
sẽ kể về tao sau. Còn cái gì tao chưa kể cho mày nghe
nữa nhỉ? Về tin tức A-kim, mày đã hỏi thăm được rồi. Các
chấp ủy cũ, còn lại có Túp- ta, vẫn làm công tác cũ. Tô-ca-
rếp thì bí thư Đảng ủy Xô-lô-men-ca, Ô-cu-nhếp trước cũng
ở tổ công xã với mày thì ở quận đoàn thanh niên. Ta-li-a thì
làm giảng viên chính trị. Svê-tai-ép thay chân mày ở xí
nghiệp. Tao không biết nó lắm. Thỉnh thoảng gặp ở tỉnh
đoàn, trông không đụt đâu, nhưng tự ái ra dáng. Mày nhớ
An-na Bô-khác chứ? Cô ấy cũng ở Xô-lô- men-ca, phụ
trách công tác phụ vận ở quận ủy. Tao đã kể hết cho mày
nghe về tin tức các cậu quen. Đấy mày xem, Đảng cho
nhiều cậu đi học. Hiện nay ở đây tất cả cán bộ cũ đang cày
khỏe ở Trường Đảng. Trên hứa sang năm cũng cho tao
theo học ở đấy.
Hai người mải chuyện, quá nửa đêm lâu rồi mới ngủ.
Sáng hôm sau, Pa-ven dậy thì Pan-cơ-ra-tốp đã ra bến tàu.
Em gái Pan-cơ-ra-tốp là Đu-xi-a, một cô gái to khỏe giống
anh như đúc, bưng nước chè mời Pa-ven uống và nói đến
mọi chuyện vặt. Cha Pan- cơ-ra-tốp không có nhà. Ông cụ
làm thợ máy trên tàu thủy, còn đang ngược tàu.
Pa-ven sửa soạn ra phố. Sắp đi, Đu-xi-a dặn lại:
- Nhớ về ăn cơm, anh nhé. Nhà em chờ cơm anh đấy.
*
Trụ sở tỉnh đoàn thanh niên thường vẫn tấp nập. Cửa
mở ra rồi lại đóng sập vào luôn tay. Trong hành lang và các
buồng, người chờ đông; phòng hành chính, tiếng máy chữ
gõ inh tai.
Pa-ven dừng lại ngoài hiên một lát, ngó vào hy vọng
gặp mặt nào quen. Chẳng thấy ai, anh mới đi vào phòng
đồng chí bí thư. Đồng chí bí thư mặc sơ- mi xanh, ngồi
trước một bàn giấy đồ sộ. Pa-ven vào, đồng chí ấy chỉ nhìn
qua, rồi lại cúi xuống viết.
Pa-ven ngồi đối diện và chăm chú nhìn người bí thư
thay chân A-kim ấy.
Đồng chí bí thư đánh dấu chấm hết lên trang giấy anh
đang viết và hỏi Pa-ven:
- Đồng chí muốn gì?
Pa-ven trình bày trường hợp của mình:
- Phải cải tử hoàn sinh cho tôi trên danh sách tổ chức
của Đoàn và cho tôi trở lại phân xưởng chính nhà máy xe
lửa. Đề nghị đồng chí chỉ thị cho bên tổ chức như vậy.
Đồng chí bí thư ngả người dựa vào ghế và trả lời, giọng
lưỡng lự.
- Tất nhiên chúng tôi sẽ khôi phục đoàn tịch cho đồng
chí, điều đó không còn phải nói gì nữa. Nhưng điều đồng
chí về phân xưởng chính nhà máy xe lửa thì không tiện.
Svê-tai-ép đang phụ trách ở đấy, cậu ấy là chấp ủy viên tỉnh
đoàn mới bầu lại khóa vừa rồi. Chúng tôi sẽ điều đồng chí
đi nơi khác vậy.
Mắt Pa-ven hơi nhíu lại:
- Tôi về đấy không phải để làm khó cho công tác của
đồng chí Svê-tai-ép đâu. Tôi muốn về làm chuyên môn của
tôi, chứ không phải làm bí thư chi đoàn. Với lại trong người
tôi chưa được khỏe, đề nghị đừng điều tôi đi nơi khác.
Đồng chí bí thư gật đầu, ghi mấy chữ vào mảnh giấy.
- Đồng chí đưa mảnh giấy này cho Túp-ta, cậu ta sẽ bố
trí cho đâu vào đấy.
Bên phòng cán bộ, Túp-ta đang mắng như tát nước
người giúp việc thống kê của mình. Pa-ven nghe hai bên
cãi nhau nửa phút, nhưng thấy câu chuyện có vẻ kéo dài,
liền ngắt lời anh chàng Túp-ta đang nóng như lửa:
- Thôi, cậu sẽ chỉnh đồng chí ấy sau. Đây là giấy giới
thiệu, cậu làm hộ giấy chính thức cho mình đi.
Túp-ta hết nhìn giấy lại nhìn Pa-ven. Sau cùng mới nói
ra lời:
- Sao, cậu chưa chết à? Vậy làm thế nào bây giờ? Tên
cậu đã gạch khỏi danh sách rồi. Chính mình gửi trả Trung
ương thẻ đoàn viên của cậu. Với lại vừa rồi Trung ương
mới lấy lại danh sách đoàn viên cả nước. Theo thông tri
của Trung ương Đoàn, ai không ghi tên lại thì coi như bị
khai trừ. Cậu chỉ còn có cách nộp đơn xin gia nhập đoàn
lại, theo đúng những quy định thường lệ.
Túp-ta tuyên bố thẳng cánh như vậy. Pa-ven cau mặt lại:
- Vậy ra cậu ta vẫn chứng nào tật ấy. Cậu còn trẻ mà tệ
hại hơn một con chuột già rúc trong đống công văn. Bao
giờ cậu mới ra hồn người được?
Túp-ta chồm lên, như bị rệp đốt:
- Cậu đừng lên lớp đây. Đây phụ trách công việc đây
làm. Thông tri thảo ra không phải để cho người ta vi phạm
nó. Còn cậu gọi đây là chuột già thì cậu sẽ phải trả lời về
câu phỉ báng đó.
Túp-ta nói câu sau này có vẻ hăm dọa. Hắn đưa rộng
tay vơ lấy chồng phong bì chưa mở: thái độ tỏ vẻ không
muốn nói chuyện thêm nữa.
Pa-ven thong thả đứng dậy ra cửa. Chợt nghĩ lại điều gì
anh quay trở vào nhặt mảnh giấy đồng chí bí thư giới thiệu
còn để trên bàn trước mặt Túp-ta. Túp-ta nhìn Pa-ven. ông
cụ non cáu kỉnh và tỉ mẩn ấy có đôi tai to vểnh ra, trông vừa
đáng ghét, vừa buồn cười.
- Thôi được, kết tội đây là "làm đảo lộn thống kê" thì cứ
kết tội, nhưng đây hỏi lại: tại sao cậu lại dám thi hành kỷ
luật một người đã chết mà cứ tự tiện, không có giấy tờ văn
bản nào quyết định trước hẳn hoi? Trường hợp này có thể
xảy ra với tất cả mọi người: người ta ốm rồi chết. Nhất định
không có thông tri nào cho phép cậu làm như thế.
- Hì, hì, hì - Người giúp việc Túp-ta không thể giữ trung
lập được mãi nữa, bật lên cười thích chí.
Túp-ta ấn gãy đầu bút chì. Hắn cầm mầu chì gãy ném
xuống sàn, chưa kịp trả lời đối phương, thì người đông đã
kéo ùa vào phòng, cười nói bô bô. Trong bọn mới vào có
Ô-cu-nhếp. Thế là chỉ còn nghe thấy những tiếng reo vui và
sửng sốt, những câu hỏi không bao giờ hết. Vài phút sau,
lại một đám thanh niên nữa vào trong bọn đó có Ôn-ga. Chị
nắm lấy tay Pa-ven rất lâu, ngạc nhiên, nhưng tươi sáng
hẳn lên.
Người ta lại bắt Pa-ven kể chuyện lại. Nguồn vui thật
thà của những đồng chí, tình bạn chân thành, lòng mến
thương thông cảm, những nắm tay chặt, những bàn tay vỗ
lên vai, chắc nịch và thân ái, tất cả làm Pa-ven quên hẳn
chuyện Túp-ta.
Gần cuối, Pa-ven kể thêm cho các đồng chí nghe câu
chuyện giữa mình và Túp-ta vừa rồi. Ai cũng tức giận. Ôn-
ga quắc mắt lườm Túp-ta, rồi đi đến phòng đồng chí bí thư.
- Cánh ta đi tìm đồng chí Nhê-giơ-đa-nốp để đồng chí
ấy cạo cho hắn một mẻ.
Ô-cu-nhếp nói thế và choàng lấy vai Pa-ven kéo đi theo
Ôn-ga cùng với đám đông các đồng chí.
Ôn-ga nóng giận bừng bừng:
- Túp-ta này quan liêu hạng nặng! Phải truất cổ hắn khỏi
ban tổ chức và điều đến chỗ Pan-cơ-ra-tốp cho làm nghề
khuân vác lấy một năm mới được.
Ô-cu-nhếp, Ôn-ga và các đồng chí khác đòi đuổi cổ
Túp-ta khỏi phòng cán bộ. Đồng chí bí thư nghe họ nói,
cười độ lượng. Nhê-giơ-đa-nốp cố làm cho Ôn- ga nguôi
giận:
- Về việc khôi phục quyền lợi sinh hoạt Đoàn cho Pa-
ven thì chẳng cần phải nói lại nữa. Sẽ phát ngay thẻ đoàn
viên cho cậu ta. Còn như Túp-ta là một anh chàng máy móc
thì rất đồng ý với các đồng chí như thế. Đấy là khuyết điểm
chính của cậu ấy. Nhưng cũng phải thú thật với các đồng
chí rằng cậu ấy tổ chức công việc rất khá. Trong tất cả
những cơ quan lãnh đạo của Đoàn mà tôi đã làm từ trước
đến nay, công tác tổ chức và thống kê này thật rắc rối như
chui vào rừng rậm vậy. Chẳng còn biết tin vào con số nào.
Nhưng ở đây thì làm thống kê rất tốt. Các đồng chí cũng
biết Túp-ta thức suốt đêm hì hục làm ở bàn giấy. Cho nên ý
kiến tôi là các đồng chí muốn cất chức cậu ấy thì cất chức
lúc nào cũng được. Song lấy một cậu khác tốt mà làm
thống kê tồi thay hắn ta thì không còn tình trạng quan liêu,
điều đó đã hẳn đi rồi, nhưng đồng thời thống kê cũng sẽ
không ra đâu vào đâu. Vậy cứ nên để cho cậu ấy làm. Tôi
sẽ phê bình thật lực cậu ấy. Sẽ có tác dụng tốt đối với cậu
ấy trong một thời gian. Rồi có thế nào, sau này sẽ hay.
- Thôi, thế cũng được. - Ô-cu-nhếp gật đầu rồi nói với
Pa-ven: - Pa-ven, ta về Xô-lô-men-ca đi. Hôm nay có họp
đoàn ở câu lạc bộ chúng mình. Chưa ai biết cậu về. Rồi bất
thình lình, ta giới thiệu: "Xin nhường lời cho Pa-ven!". Hoan
hô Pa-ven. Mày không chết là phải lắm. Giai cấp vô sản
mạnh thêm vì cái cẳng mày. - Ô-cu-nhếp kết luận một cách
khôi hài như vậy và lấy hai tay ôm lấy Pa-ven đẩy ra hành
lang.
- Ôn-ga cũng đến đấy chứ?
- Nhất định đến chứ!
*
Nhà Pan-cơ-ra-tốp đợi mãi không thấy Pa-ven về ăn
cơm. Đêm cũng không thấy về ngủ. Ô-cu-nhếp đã đưa Pa-
ven về ở nhà mình. Anh có một phòng riêng ở trụ sở Xô-
viết. Về đến nhà, có gì là cho bạn ăn nấy, rồi mang đến cho
Pa-ven hai bó báo và hai quyển sổ cái - sổ ghi biên bản
các buổi họp của thường vụ quận đoàn thanh niên. Anh
bảo bạn:
- Cậu nghiên cứu tất cả những tài liệu này đi. Trong khi
cậu mất thời giờ với bệnh thương hàn của cậu thì thời gian
như nước chảy đi đã nhiều rồi đấy! Đọc đi để hiểu việc đã
qua và việc trước mắt. Tối mình về đón cậu rồi cùng đến
câu lạc bộ. Nếu mệt thì cứ ngả lưng làm một giấc.
Người bí thư quận đoàn thanh niên nhét vội một đống
thư với tài liệu và giấy chứng nhận vào túi, (Ô- cu-nhếp ghét
những cặp da, cặp của anh quẳng ở gậm giường), rồi đi
quanh phòng xem lại một lượt trước khi ra cửa.
Tối đến, anh về thì thấy khắp phòng báo chí tung bừa
bãi, đống sách để dưới gầm giường cũng bị lôi ra. Nhiều
quyển khác chất trên bàn làm việc. Pa-ven ngồi trên
giường đọc tập thư của Trung ương mới gửi đến mà anh
tìm thấy dưới gối của bạn.
- Thằng tướng cướp, mày lục gì cái ổ của tao thế?- Ô-
cu-nhếp làm bộ quát lên, giả vờ tức giận. - Xem nào, xem
nào, đồng chí! Tôi bắt được đồng chí đọc tài liệu mật. Cứ
để cho quân này chui vào buồng mình thì có ngày hỏng!
Pa-ven mỉm cười, để lá thư xuống.
- Cậu nhỡ tàu rồi. Thư này có gì mà mật. Trái lại, chính
cậu lấy tài liệu riêng tối mật làm chao đèn kia kìa. Trông
xem! Bị sém cả rìa nữa là khác.
Ô-cu-nhếp cầm lấy tờ giấy đã bị làm chao đèn đó, anh
vừa đọc qua tiêu đề đã lấy tay vỗ lên trán:
- Thế mà mình tìm mãi ba hôm nay cái mảnh giấy tai ác
này. Nó biến mất, tưởng rơi xuống sông, xuống biển, giờ
mình nhớ ra rồi. Hôm kia, thằng Vô-lưn- xếp đến đây, chính
là nó máy tay lấy làm chao đèn. Rồi nó lại quần quật đi tìm
.- Ô-cu-nhếp gấp mảnh giấy lại cẩn thận rồi đút xuống dưới
đệm, nói giọng không lo nữa - Thôi chốc nữa hãy xếp dọn
lại. Giờ chén một miếng đã rồi còn đi ra câu lạc bộ. Nào
Pa- vơ-lu sa, ngồi xuống đây.
Ô cu-nhếp móc túi lấy con cá khô gói trong một tờ báo,
lại móc túi kia lấy hai đầu mẩu bánh mì. Rồi trải luôn tờ báo
ra góc bàn, cầm đầu con cá nện vào gỗ để cá róc hết thịt.
Ô-cu-nhếp ngồi vào bàn, hàm nhai nghiến ngấu. Rất vui,
anh kể tin mới cho Pa-ven nghe, vừa nói chuyện đứng đắn,
vừa chêm câu bông đùa.
Đến câu lạc bộ, Ô-cu-nhếp đưa Pa-ven vào cửa sau,
giấu ở hậu trường. Trong góc phòng rộng thênh thang, Ta-
li-a con cụ La-gu-chin và An-na Bô-khác đang ngồi mé bên
phải sân khấu, cạnh chỗ đặt cây đàn dương cầm, chung
quanh hai chị là nhóm thanh niên cộng sản đường sắt.
Trước mặt An-na, ngồi vắt vẻo trên ghế dựa là Vô-lưn-xép,
bí thư chi đoàn sở đầu máy, mặt đỏ chót như một quả táo
đang mùa tháng Tám, mặc áo da cũ, trước kia màu đen,
nay đã bạc phếch.
Vô lưn-xép có tóc và lông mày vàng như lúa chín. Ngồi
cạnh Vô-lưn-xép là Svê-tai-ép, đẹp trai, tóc màu hạt dẻ,
môi cong rõ nét, ngồi thơ thẩn dựa tay vào nắp dương
cầm. Cổ áo khoác của Svê-tai-ép để hở.
Ô-cu-nhếp đến gần họ, còn nghe thấy An-na đang nói
hết câu:
- Có những người cứ muốn làm rắc rối quá lắm việc kết
nạp những đồng chí mới. Svê-tai-ép là một.
Svê-tai-ép không chịu, cãi lại, giọng khinh bạc ra mặt:
- Đoàn không phải là quán trọ.
Ta-li-a nhìn thấy Ô-cu-nhếp reo lên:
- Kìa, trông Ô-cu-nhếp mà xem. Anh ấy hôm nay có vẻ
phởn thế, mặt mày rạng rỡ như cái ấm đồng mới đánh
bóng ấy.
Mấy người kéo Ô-cu-nhếp lại hỏi chuyện tới tấp:
- Cậu ở đâu đến thế ?
- Ta bắt đầu đi thôi chứ.
Ô-cu-nhếp giơ tay can họ.
- Đợi một tí các cậu ạ. Đồng chí Tô-ca-rếp sắp đến và
sẽ khai mạc hội nghị.
- Vừa vặn bố già đến kia rồi! - An-na trông thấy Tô-ca-
rếp, vội nói.
Đồng chí bí thư Đảng ủy quận đang đi về phía họ. Ô-cu-
nhếp chạy ra đón:
- Bố ơi, bố vào đằng sau sân khấu, tôi đưa bố gặp một
cậu quen bố. Chắc là bố sẽ ngạc nhiên!
- Cái gì nữa thế? - ông già lẩm bẩm, kéo nốt hơi thuốc
lá nữa. Nhưng Ô-cu-nhếp đã nắm lấy tay ông cụ kéo đi rồi.
Ô-cu-nhếp lắc chuông dữ dội đến nỗi những người hay
chuyện xấu thói nhất cũng phải tin.
Đằng sau Tô-ca-rếp là pho tượng Mác, người sáng tạo
thiên tài ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, đầu Người
như đầu con sư tử nổi lên trong đám cành thông trang trí.
Trong khi Ô-cu-nhếp nói lý do buổi họp, đồng chí Tô-ca-rếp
không rời mắt nhìn Pa-ven còn đứng ở hậu trường.
- Thưa các đồng chí, trước khi vào chương trình nghị
sự, tôi xin giới thiệu một đồng chí muốn xin nói mấy lời với
chi bộ. Đồng chí Tô-ca-rếp và tôi đã đồng ý để đồng chí ấy
nói.
Tiếng vỗ tay đồng ý nổi lên. Ô-cu-nhếp giới thiệu:
- Xin mời đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nói chuyện!
Trong một trăm người có mặt, có đến tám mươi người
biết Pa-ven. Và khi bóng dáng quen thuộc hiện ra trước
diễn đàn và người thanh niên xanh xao, dong dỏng cao, bắt
đầu nói thì những tiếng reo vui mừng và một tràng dài vỗ
tay hoan hô như bão dậy chào anh.
- Các đồng chí thân mến!
Giọng Pa-ven từ tốn song không sao giấu nổi cảm
động:
- Không ngờ hôm nay tôi được trở lại với các đồng chí,
trở về vị trí của tôi trong đội ngũ của chúng ta. Tôi sung
sướng lắm. Tôi được gặp lại ở đây rất nhiều bạn thân của
tôi. Tôi ở nhà Ô-cu-nhếp được đọc báo cáo biết rằng: khu
Xô-lô-men-ca ta có thêm một phần ba đoàn viên mới,
những anh chị em mới của chúng ta; ở các xưởng và ở sở
đầu máy thì bọn "chế tạo bật lửa” đã không còn nữa và ta
đã lôi những đầu tàu vứt đi ngoài "nghĩa địa sắt” về chữa
lại dùng. Tất cả điều đó chứng tỏ đất nước chúng ta đang
sống lại và đang lấy lại sức. Như thế thì đời đáng sống lắm
chứ! Giữa lúc thế này, hỏi tôi nhắm mắt mà chết làm sao
được?
Đôi mắt Pa-ven long lanh nét cười sung sướng.
Khi Pa-ven đi xuống, lại ngồi gần An-na và Ta- li-a thì
tiếng hoan hô nồng nhiệt cứ kéo dài tiễn theo anh mãi. Anh
đưa tay ra bắt vội vàng hết người này đến người khác.
Các bạn ngồi xít lại nhường chỗ cho anh. Bàn tay của Ta-li-
a đặt lên bàn tay anh, nắm rất chặt, rất chặt.
An-na tròn mắt nhìn anh, hàng mi dài khẽ mấp máy, cái
nhìn niềm nở có một cái gì đó sửng sốt.
*
Ngày qua ngày trôi đi. Không thể nào gọi là những ngày
bình thường được. Mỗi ngày mang lại một cái gì mới. Sáng
dậy, định chương trình làm việc hằng ngày, Pa-ven buồn
rầu nhận thấy ngày có phần ngắn quá và công việc anh định
làm, nhiều việc đến không xong mất.
Pa-ven trọ ở nhà Ô-cu-nhếp và làm chân phụ lắp máy
điện ở xưởng.
Anh phải bàn cãi rất lâu với Ô-cu-nhếp: Ô-cu-nhếp nhất
định không đồng ý để Pa-ven, dù tạm thời đi nữa, không
tham gia công tác lãnh đạo.
- Chúng ta đang thiếu người mà cậu lại muốn thảnh thơi
dưới xưởng. Cậu đừng viện bệnh cậu ra nữa. Mình đây
mình cũng bị sốt thương hàn, vừa ốm dậy, mệt suốt một
tháng trời, nhưng mình chống gậy đến quận đoàn làm việc.
Mình biết tính cậu, chắc còn có lý do gì chính nữa, chứ
chẳng phải tại bệnh đâu. - Và Ô- cu-nhếp hỏi dồn Pa-ven: -
Thật thế nào, nói cho mình nghe đi.
- Cậu đoán không lầm: sự thật là mình muốn có thời giờ
học thêm.
Ô-cu-nhếp đắc chí, nói oang oang:
- A, a!... Ra thế đấy! Cậu muốn học. Thế cậu cho mình
là không muốn học hay sao? Như thế là ích kỷ, ông bạn già
của tôi ạ! Nếu thế thì hóa ra chúng mình công tác như đẩy
xe bò, còn cậu thì học. Không được, chú mình ạ. Ngay sáng
mai, cậu phải đến ban tổ chức.
Song, bàn cãi hồi lâu. Ô-cu-nhếp cuối cùng đã phải
nhân nhượng:
- Thôi được, mình để cậu yên trong hai tháng, không
đụng đến. Cậu biết thế là mình tốt bụng đấy! Nhưng theo
mình nghĩ, cậu có lẽ không ăn ý với Svê-tai-ép đâu: thằng
cha ấy hợm mình quá lắm.
Pa-ven lại về xưởng. Svê-tai-ép lấy làm nghi ngại. Hắn
đinh ninh cho là Pa-ven về xưởng thế nào cũng xảy ra tranh
chấp về lãnh đạo với hắn. Vốn tự ái thành bệnh, hắn liền
chuẩn bị đối phó. Nhưng, ngay những ngày đầu, hắn đã
thấy ra ngay là hắn nghi ngại không đâu. Khi Pa-ven được
tin anh em định cử mình vào thường vụ Đoàn thì anh thân
đến ban bí thư ngay và viện cớ đã được Ô-cu-nhếp đồng ý,
anh trình bày thì được anh em rút không đem vấn đề đó ra
bàn nữa. Trong chi đoàn thành niên xưởng máy, Pa-ven
phụ trách nhóm nghiên cứu chính trị, nhưng anh không
muốn vào thường vụ. Tuy về tổ chức, anh đứng ngoài lãnh
đạo, ảnh hưởng của anh vẫn thấy rõ trong mọi công tác.
Với một thái độ thân ái và không để ai nhận thấy, anh đã
giúp Svê-tai- ép nhiều phen thoát khỏi tình thế khó xử.
Một hôm, Svê-tai-ép vào đến xưởng, lấy làm lạ: toàn thể
chi đoàn thanh niên cộng sản và chừng ba mươi anh chị
em ngoài tổ chức đang lau cửa sổ, chùi máy móc, cọ ghét
bụi đã cáu lại từ bao năm nay, dọn sắt vụn và các thứ rác
bẩn linh tinh đổ ra sân. Pa- ven thì cầm một chiếc chổi gộc,
hì hục kỳ cọ nền xi- măng bê bết dầu mỡ.
Svê-tai-ép sửng sốt hỏi Pa-ven:
- Lau chùi dọn dẹp để làm gì thế này?
Pa-ven trả lời vắn tắt:
- Bọn tôi không muốn làm việc trong ghét bụi cáu bẩn
nữa. Ở đây đã hai mươi năm nay, chẳng lau chùi, dọn dẹp
gì cả. Trong tám ngày, chúng tôi sẽ quét dọn sạch, làm cho
xưởng ta mới lại.
Svê-tai-ép nhún vai bỏ đi.
Đám anh em thợ điện không những chỉ dọn xưởng mình
làm mà còn động đến cả sân lớn nhà máy từ lâu đã trở
thành chỗ đổ rác. Ở đây chẳng còn thiếu một thứ gì. Hằng
trăm bộ trục các toa xe lửa, hàng núi sắt gỉ, nào đệm nối
toa, nào đường ray, nào ổ bánh... hàng ngàn tấn sắt bỏ
hủy, bỏ hoại ngoài trời. Nhưng đang tấn công vào đống rác
lớn thì hành chính ngăn lại:
- Còn nhiều việc quan trọng hơn. Cái sân không dọn
cũng chẳng chết ai, không vội gì.
Thấy hành chính nói vậy, anh em thợ điện đành chỉ lấy
gạch lát bậc thang đi lên xưởng mình, rồi đặt lưới sắt để cọ
giày thôi, không dọn ngoài sân nữa. Nhưng bên trong
xưởng, mỗi tối, sau giờ làm, vẫn tiếp tục lau chùi. Được
một tuần lễ, kỹ sư chính Stơ- ri có việc bước chân vào
xưởng thấy xưởng tràn ngập ánh sáng. Những cửa sổ lớn
có khung sắt, trước kia bị bụi lẫn với dầu ma-dút bám từ
đời kiếp nào, giờ đã sạch trơn, làm thông được ánh mặt
trời rọi vào buồng để máy, nắng ánh lên những bộ phận
đồng bóng loáng của những máy nổ Đi-ê-den. Nhũng bộ
máy thì sơn lại màu xanh; trên nan hoa các bánh xe, một
bàn tay nắn nót lại còn vẽ cả những mũi tên màu vàng.
Kỹ sư Stơ-ri sửng sốt:
- Hừ...
Ở góc cuối buồng máy, có mấy người đã xong việc.
Stơ-ri lại đấy. Gặp Pa-ven đang cầm trong tay một hộp sắt
tây đầy sơn, kỹ sư Stơ-ri gọi lại:
- Đồng chí dừng lại tôi hỏi. Tôi tán thành sáng kiến của
các đồng chí. Song các đồng chí lấy đâu ra sơn này mà
dùng thế ? Nhà máy đang thiếu sơn. Tôi đã cấm không ai
được lấy sơn ra dùng nếu không có lệnh tôi. Để sơn những
bộ phận đầu máy xe lửa cần hơn dùng vào việc các đồng
chí làm.
- Đồng chí hỏi sơn này ở đâu? Chúng tôi bòn lấy ở
những hộp sơn vứt đi ngoài đống rác. Cạo vét hai hôm
được mười ki-lô. Thưa đồng chí, tất cả những việc chúng
tôi làm đều đúng nguyên tắc.
Người kỹ sư lại "hừ" một cái nữa, lần này có vẻ bối rối
thật.
- Nếu thế thì lẽ tất nhiên các đồng chí cứ sơn... Hừ...
Quái thật. Tại sao bỗng dưng lại có cái lối tự mình làm tội
mình để cho xưởng sạch thế này? Các đồng chí lau chùi
quét dọn thế này ngoài giờ làm cả thì phải?
Pa-ven thấy trong giọng nói người kỹ sư có vẻ ngạc
nhiên một cách thật thà.
- Phải. Đồng chí nghĩ thế nào?
- Được Nhưng...
- Không có tiếng "nhưng" nào đứng vững được, đồng
chí Stơ-ri ạ. Ai bảo đồng chí là người bôn-sê- vích thấy ghét
bẩn chất đống mà để yên được? Rồi đồng chí xem, chúng
tôi sẽ mở rộng phong trào. Đồng chí chưa hết ngạc nhiên
đâu.
Nói rồi, Pa-ven đi thẳng ra cửa, né tránh người kỹ sư
để sơn khỏi quệt vào ông ta.
*
Tối nào cũng vậy, Pa-ven ra ngồi đọc sách ngoài thư
viện công cộng đến tận khuya. Anh chơi thân với ba người
giữ sách và giở hết khoa tán ra, anh gạ được họ cho cái
quyền mơ mãi mới được là tha hồ lục chọn sách. Pa-ven
mang chiếc ghế cao đến bắc áp vào những ngăn tủ lớn
đựng sách, rồi ngồi vắt vẻo trên đó hàng giờ, giở hết quyển
này đến quyển khác, tìm những sách anh cần hay anh thích.
Phần lớn là sách cũ. Chỉ có vẻn vẹn một số sách mới chứa
trong chiếc tủ không lấy gì làm to lắm. Trong tủ ấy xếp lẫn
lộn những sách của thời nội chiến, bộ Tư bản luận của
Mác, cuốn Gót-sắt(Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn tiến bộ
Mỹ Giắc Lơn đơn) và một số sách khác. Trong đám sách
cũ, Pa-ven lục ra một cuốn tiểu thuyết nhan đề là Spác-ta-
quýt-xơ(Một lãnh tụ nô lệ chống lại chủ nô thời đế quốc La
Mã trước công lịch). Anh đọc ngốn cuốn sách đó trong hai
đêm và đọc xong xếp nó vào tủ, bên cạnh những sách của
Mác-xim Gooc-ki. Những sách anh thích, anh thường xếp
lại với nhau như vậy.
Những người giữ sách thấy anh xếp lại như thế cũng
mặc. Đối với họ, sách xếp thế nào chẳng được.
*
Tình hình của chi đoàn thanh niên cộng sản đang yên
ắng đột nhiên náo động lên bởi một việc rắc rối, mới đầu
cũng thường thôi. Cốt-sca Phi-đin là ủy viên thường vụ chi
đoàn các xưởng trung tu, một anh chàng mũi tẹt, mặt sần
sùi, dáng dấp chậm chạp; trong khi khoan một tấm sắt, anh
ta đánh gãy một mũi khoan Mỹ, đắt tiền lắm. Nguyên nhân vì
anh ta làm ẩu một cách quá quẩn. Tệ hơn thế nữa: anh ta
gần như là cố ý làm ra như thế. Chuyện xảy ra vào buổi
sáng. Đốc công Khô-đô-rốp bảo anh ta khoan tấm sắt. Lúc
đầu anh ta từ chối. Nhưng vì Khô-đô-rốp nhất định bắt làm,
nên anh ta phải cầm lấy tấm sắt đưa vào bàn máy và bắt
đầu khoan. Khô-đô-rốp vốn khó tính, lại hay chấp nhặt, cả
xưởng chẳng ai ưa. Ông ta trước kia là men-sê-vích, nay
chẳng tham gia sinh hoạt tập thể gì cả, nhìn thanh niên cộng
sản thì nhìn lệch lạc nhưng được cái thạo nghề ra trò và đối
với công việc thì tận tuỵ. Thấy Cốt-sca khoan "khô", nghĩa là
không cho dầu vào mũi khoan, Khô-đô-rốp đùng đùng chạy
lại chỗ máy khoan, giữ tay Cốt-sca lại.
- Anh mù à? Hay anh mới trên trời rơi xuống? - Khô-đô-
tốp hét váng lên, biết rõ là dùng như thế thì chỉ nháy mắt là
mũi khoan đi đời mất thôi.
Nhưng Cốt-sca cự lại tay đốc công và cứ cho máy
chạy. Khô-đô-rốp đi mách xưởng trưởng. Cốt-sca hãm
máy, chạy đi lấy vịt dầu lại, để khi xưởng trưởng đến thì đã
cho dầu đâu vào đấy rồi. Khi hắn trở về đến máy thì mũi
khoan gãy tan tành. Xưởng trưởng viết giấy đề nghị đuổi
Cốt-sca. Thường vụ chi đoàn bênh anh ta, lấy cớ là Khô-
đô-rốp hay trù thanh niên. Chính quyền không chịu và việc
ấy lại đem ra bàn trong ban thường vụ thanh niên toàn
xưởng. Câu chuyện bắt đầu như vậy.
Năm ủy viên thường vụ thì ba chủ trương cảnh cáo Cốt-
sca và đuổi anh đi công tác khác. Svê-tai-ép cũng trong số
ấy. Hai người nữa giữ ý kiến là Cốt- sca không có lỗi gì
hết.
Thường vụ họp trong buồng giấy Svê-tai-ép. Ở đây có
một chiếc bàn lớn phủ vải đỏ, nhiều chiếc ghế dài và ghế
đẩu do anh em thanh niên ban mộc đóng; trên tường có
ảnh các vị lãnh tụ; sau bàn họp, lá cờ Đoàn thanh niên cộng
sản phủ khắp chiều ngang bức tường. Svê tai-ép, vốn nghề
thợ rèn, thoát ly sản xuất làm cán bộ Đoàn. Nhờ có năng
lực nên chỉ trong vòng bốn tháng vừa qua đã được đề bạt
vào công tác lãnh đạo thanh niên. Hắn có chân trong
thường vụ thanh niên quận và cả cấp ủy thanh niên tỉnh.
Hắn trước làm thợ rèn ở nhà máy cơ khí, mới về đường
sắt ít lâu nay. Ngay từ buổi đầu, hắn đã nắm chặt mọi quyền
hành trong tay mình. Tự phụ và đã định là làm bằng được
hắn đi ngay tới chỗ bóp chết sáng kiến của thanh niên,
muốn thò tay vào mọi việc và vì hắn không thể làm lấy tất cả
một mình, hắn đâm cáu với những người giúp việc, cho họ
là ỳ ra không biết làm gì hết. Cả đến trong phòng làm việc
của hắn, hắn cũng tự đứng trông coi, bắt anh em sắp đặt
theo ý kiến riêng của mình.
Svê-tai-ép chủ tọa buổi họp, ngả người trong chiếc ghế
bành bọc da độc nhất mượn của góc đỏ (câu lạc bộ nhà
máy) đem kê ở đây. Buổi họp này là một buổi họp kín. Khi
đồng chí Khô-mu-tốp, bí thư chi bộ Đảng, đề nghị nói thì có
tiếng người gõ vào cánh cửa đã cài then. Svê-tai- ép lấy
làm phật ý, nhăn mặt lại. Vẫn tiếng gõ cửa. Nữ đồng chí
Ca-chi-u-sa Dê-lê-nô-va đứng dậy mở cửa. Người gõ cửa
là Pa-ven. Ca-chi-u-sa để anh vào.
Pa-ven đã đến một chiếc ghế đầu không có người ngồi.
Svê-tai-ép gọi giật anh lại:
- Đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin, đây là một buổi họp
riêng của thường vụ chúng tôi.
Má đỏ bừng, Pa-ven từ từ quay lại phía bàn:
- Tôi biết thường vụ họp kín. Song, quan tâm đến việc
các đồng chí giải quyết vụ Cốt-sca như thế nào, tôi muốn
nhân vụ này đề ra một vấn đề mới. Có phải đồng chí phản
đối không muốn cho tôi dự họp không?
- Tôi không phản đối, nhưng chắc đồng chí hiểu rằng
những buổi họp kín thế này, chỉ có các ủy viên thường vụ
được họp thôi. Nhiều người quá, khó thảo luận. Thôi, đồng
chí đã đến thì đồng chí cứ ngồi.
Lần đầu tiên Pa-ven bị nói như tát đốp vào mặt như thế.
Mày anh nhíu lại, trán nhăn sâu.
Đồng chí Khô-mu-tốp càu nhàu, giọng nói có vẻ không
bằng lòng Svê-tai-ép:
- Giở nguyên tắc ra với nhau làm quái gì mới được?
Nhưng Pa-ven giơ tay ra hiệu cho đồng chí Khô- mu-tốp
đừng nói nữa và ngồi xuống ghế.
Đồng chí Khô-mu-tốp bắt đầu vào vấn đề:
- Đây là ý kiến tôi. Về phần Khô-đô-rốp, anh ta không
hòa với anh em, có thế. Song, trong đoàn viên của ta, kỷ
luật rất tồi. Nếu tất cả thanh niên cộng sản nhà ta đánh gãy
hết mũi khoan thì ta lấy gì mà làm. Với lại làm như thế thì
chẳng phải là gương tốt cho người ngoài Đảng! Tôi nghĩ
rằng phải cảnh cáo Cốt-sca lần thứ nhất.
Svê tai-ép không để đồng chí bí thư chi bộ Đảng nói hết
lời, phản đối ngay. Nghe Svê-tai-ép nói suốt mười phút
đồng hồ, Pa-ven hiểu thái độ của thường vụ. Đến khi sắp
sửa biểu quyết thì anh xin phát biểu.
Svê-tai-ép cố kìm mình lại, để cho anh nói.
- Thưa các đồng chí, tôi xin trình bày ý kiến của tôi về
Cốt-sca. - Giọng nói Pa-ven tuy anh không muốn gay gắt
mà vẫn cứ gay gắt. - Vụ Cốt-sca này là một dấu hiệu đáng
lo ngại. Nhưng vấn đề chủ yếu không phải chỉ có việc Cốt-
sca. Hôm qua tôi lấy được mấy con số. - Pa-ven móc túi
lấy sổ tay ra. - Những con số này, bộ phận điểm giờ cho tôi
biết. Xin các đồng chí chú ý nghe cho: ngày nào cũng thế,
hai mươi ba phần trăm thanh niên cộng sản vào làm việc
chậm từ năm đến mười lăm phút. Đi làm chậm đã thành
một cái lệ. Mười bảy phần trăm đoàn viên thanh niên nghỉ
việc dứt khoát một hay hai ngày mỗi tháng, trong khi đó
thanh niên ngoài Đoàn chuồn việc như thế có mười bốn
phần trăm. Những con số quất vào đầu óc ta mạnh hơn cả
rồi. Nhân tiện đây, tôi ghi được mấy số liệu nữa: trong các
đảng viên, mỗi tháng có bốn phần trăm trốn việc một ngày
và bốn phần trăm đi chậm. Thợ lớn tuổi ngoài Đảng mỗi
tháng mười một phần trăm trốn việc một ngày và mười ba
phần trăm đi chậm. Về làm hỏng máy móc dụng cụ thì chín
mươi phần trăm do thợ trẻ, trong số đó chỉ có bảy phần
trăm do thợ mới. Do đó, có thể kết luận là thanh niên chúng
ta làm ăn rất là tồi so với đảng viên và thợ lớn tuổi. Nhưng
tình hình không phải ban nào cũng như vậy. Tổ rèn rất tốt,
đáng làm gương cho toàn nhà máy noi theo. Tổ điện cũng
tạm được. Còn các tổ khác thì tình hình đại khái như trên tôi
đã nói. Theo ý tôi, đồng chí Khô-mu-tốp nói rằng thanh niên
kỷ luật rất tồi mới chỉ nói có một phần tư sự thật. Nhiệm vụ
của chúng ta là phải uốn nắn những sự chuệch choạc ấy.
Tôi nói ở đây không phải là tuyên truyền hay diễn thuyết mít-
tinh, song thật là chúng ta phải đem hết nghị lực đấu tranh
với cái tính làm ẩu và mặc sao hay vậy. Các bác thợ già
thường bảo thẳng vào mặt chúng ta: xưa kia làm cho chủ
còn tốt hơn thế, làm cho thằng tư bản có lương tâm nhà
nghề hơn thế. Bây giờ ta làm chủ, ta không có lý do gì để
tha thứ cho ta cả. Và kẻ có lỗi, không phải chỉ là Cốt- sca
hay ai, mà trước hết là các đồng chí và tôi, bởi vì chúng ta
đã chẳng đấu tranh cho ra trò để chống cái tệ đó mà đôi
khi lại còn viện cớ này cớ khác bênh những tên như Cốt-
sca nữa.
Vừa rồi, các đồng chí Xa-mô-khin và Bu-ti-li-ắc có nói
rằng Cốt-sca Phi-đin là một người của ta. Nào anh ta là
"trung kiên" như ta vẫn nói, nào là anh ta tích cực, tổ chức
trao cho việc gì cũng làm tròn. Còn việc anh ta đánh gãy
mũi khoan thì chẳng qua là chuyện không may. Ai mà chẳng
có lúc đánh gãy thế! Hơn nữa anh ta lại là người mình, còn
lão đốc công kia thì là người ngoài… Cái lối nói như vậy
đấy. Thử hỏi, cho đến nay, nào có ai là người đi sát Khô-
đô- rốp?... Ông già tủn mủn ấy có ba mươi năm làm nghề !
Hãy để tạm ra một bên, khoan nói đến thái độ chính trị của
ông ta. Trong trường hợp này, ông ta phải, ông ta là người
ngoài, nhưng ông ta đã gìn giữ của công. Còn chúng ta thì
phá hoại dụng cụ mua của nước ngoài. Cái tội ấy là tội gì?
Tôi thấy rằng phải trị ngay cú đầu tiên mới được, phải mở
cuộc tấn công vào mặt ấy.
Tôi đề nghị như sau: Cốt-sca Phi-đin là kẻ lười nhác,
làm ẩu, phá hoại sản xuất, phải khai trừ khỏi Đoàn. Đưa
toàn bộ việc này lên báo tường và không sợ người ta bàn
tán xôn xao, cứ công bố những con số tôi nói ở trên lên xã
luận của báo tường. Chúng ta đủ mạnh để làm như thế,
chúng ta có chỗ dựa để làm như thể. Đại đa số đoàn viên
thanh niên là những người lao động tốt. Trong số đó, sáu
người đoàn viên đã từng trải qua công tác ở Bai-a-rơ-ca,
và đấy là trường đào luyện đáng tin cậy nhất. Có họ ủng hộ,
có họ tham gia, chúng ta sẽ uốn thẳng được những cái
chuệch choạc. Nhưng chúng ta phải bỏ hẳn cái lối nhìn, lối
giải quyết việc hiện giờ của chúng ta đi.
Pa-ven thường trầm tĩnh và ít lời, lần này nói rất hăng và
gay gắt. Lần đầu tiên, Svê-tai-ép nhìn ra đúng cái chất của
người thợ điện ấy. Hắn hiểu là Pa- ven nói có lý, song chính
lòng đố kỵ đã khiến hắn không đồng ý với Pa-ven. Hắn hiểu
trệch lời tham luận của Pa-ven là phê bình đả kích toàn bộ
tình hình tổ chức, là một sự xúc phạm đến uy tín cá nhân của
bản thân hắn. Và hắn rắp tâm đánh gãy gục Pa- ven. Hắn
bắt đầu chỉ trích lại bằng cách buộc Pa-ven là biện bạch
cho tên men-sê-vích Khô-đô-rốp.
Tranh luận sôi nổi ròng rã ba tiếng đồng hồ. Đến khuya,
hội nghị tổng kết các ý kiến. Svê-tai-ép bị cái lý cứng của
những sự việc đánh bại và đa số không ủng hộ hắn nữa
mà ngả về Pa-ven. Hắn đi tới một bước sai - vi phạm dân
chủ nội bộ: trước khi biểu quyết lần cuối, hắn yêu cầu Pa-
ven ra khỏi phòng họp.
- Được, tôi xin ra, tuy rằng đồng chí đuổi tôi ra thì đồng
chí chẳng vẻ vang gì. Nhưng tôi xin nói trước cho đồng chí
biết: nếu ở đây đồng chí bức được người ta theo ý kiến
đồng chí thì mai họp toàn thể nhà máy, tôi sẽ xin phát biểu
trong cuộc họp toàn thể đó, đồng chí sẽ không có đa số
đâu, tôi tin như thế. Đồng chí sai rồi, đồng chí Svê-tai-ép ạ.
Còn đồng chí Khô-mu- tốp tôi nghĩ đồng chí cần phải nêu
vấn đề này lên trong tổ chức Đảng, trước phiên họp toàn
thể nhà máy ngày mai.
Svê-tai-ép thét lên, giọng như thách thức:
- Anh tưởng dọa được tôi à? Không cần đến thứ anh
dạy tôi con đường đấu tranh trong tổ chức đó. Trước tổ
chức, tôi sẽ đem chính vấn đề anh ra để tổ chức xét. Anh
đã không muốn mó tay vào làm gì thì đừng cản trở người
khác làm.
Cửa phòng đóng lại, Pa-ven đưa tay lên trán nóng bỏng
và đi qua một buồng giấy bỏ không ra phía cửa. Ra đến
ngoài, anh thở căng lồng ngực. Rồi châm một điếu thuốc
hút, đi về phía túp nhà nhỏ trên đồi Ba- ti-ép chỗ ở của cụ
Tô-ca-rếp.
Pa-ven bước vào nhà Tô-ca-rếp thì người thợ lắp máy
ấy đang ăn tối.
- Có chuyện gì thế ? Kể đi, chú. - Lão đồng chí Tô- ca-
rếp kéo Pa-ven ngồi vào bàn, nói với vợ - Bà Đa- ri-a nó
ơi, bà mày dọn cả cho chú ấy ăn với.
Vợ đồng chí, bà Đa-ri-a Phô-mi-nít-sơ-na, to lớn và béo
khỏe trái hẳn chồng, bưng đến cho Pa-ven một đĩa xúp kê,
và lấy khăn ăn trắng chùi môi ướt, bà ân cần mời Pa-ven:
- Ăn đi, chú.
Trước kia, khi đồng chí Tô-ca-rếp còn làm ở xưởng,
Pa-ven hay đến chơi khuya với đồng chí, song từ ngày ốm
khỏi ra tỉnh đến nay, lần này là lần đầu tiên anh đến tìm
đồng chí già.
Người thợ lắp máy chăm chú nghe anh. Không nói gì
thêm, ông cụ đưa thìa xúc mạnh vào đĩa, miệng "hèm, hèm"
ra vẻ nghe thủng câu chuyện.
Ăn xong đĩa xúp, ông cụ lấy khăn tay lau bộ ria, rồi húng
hắng ho rặn ra cho giọng nói đỡ khàn.
- Lẽ tất nhiên chú nói có lý. Đáng lẽ chúng ta phải thật
sự đề thẳng vấn đề ấy ra từ sớm. Các xưởng của nhà máy
xe lửa là cơ sở chủ chốt trong quận này. Phải bắt đầu từ
đấy. Nhưng do việc này, chú va chạm mạnh với Svê-tai-ép
phải không? Như thế thì không tốt. Tính cậu ta khó bảo lắm.
Song công tác thanh vận thì chú biết làm cơ mà? Nhân tiện
hỏi chú, giờ chú công tác gì trong tổ chức bên xưởng máy.
- Cháu công tác ở bộ phận chuyên môn của cháu. Nói
chung thì hoạt động mỗi chỗ một tí. Trong chi đoàn, cháu
lãnh đạo một nhóm nghiên cứu chính trị.
- Thế chú làm gì ở thường vụ Đoàn.
Pa-ven bối rối.
- Cháu mới về, người còn yếu, lại muốn để thời giờ học
tập một chút, cháu không chính thức tham gia lãnh đạo.
- Ấy, ấy thế đấy! - Cụ Tô-ca-rếp cao giọng nói, không
tán thành ý kiến Pa-ven. - Chú hiểu rằng chú chỉ viện được
cái cớ sức yếu nên tôi không chỉnh chú mà thôi. Nhưng bây
giờ sức khỏe khá hơn rồi chứ?
- Vâng.
- Nếu thế thì phải nhận lấy công tác đi, mà nhận thật sự.
Không nên giữ kẽ làm gì. Chú xem có ở đâu đứng ở ngoài
rìa mà làm được việc nên hồn? Ai cũng có thể bảo chú là
trốn tránh trách nhiệm và chú không nói lại thế nào được.
Ngay từ mai phải sửa chỗ sai đó đi. Còn cậu Ô-cu-nhếp,
tôi phải khép cậu ta vào khuôn phép mới được.
Cụ Tô-ca-rếp kết luận như thế, giọng lộ ra vẻ phật ý.
- Xin bố đừng phê bình Ô-cu-nhếp. Chính cháu nằn nì
cậu ấy đừng giao công tác gì cho cháu bây giờ.
Cụ Tô-ca-rếp xì một tiếng chế nhạo:
- Chú nằn nì và nó chịu chú? Các chú thanh niên cộng
sản mà như thế? Thôi, lần này bỏ qua cho các chú. Chú
cầm báo đọc cho lão nghe như trước kia đi . Mắt lão kém
lắm rồi.
Thường vụ Đảng ủy đồng ý với ý kiến của đa số trong
thường vụ Đoàn. Một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn đề
ra với tổ chức của Đảng và của Đoàn, đảng viên và đoàn
viên phải lấy việc làm của mình nêu gương chấp hành kỷ
luật lao động. Trong buổi họp của thường vụ. Svê-tai-ép bị
phê bình kịch liệt. Mới đầu hắn nổi tự ái cãi lại, song bị lời
phát biểu của đồng chí bí thư Lô-pa-khin, một người đứng
tuổi, mặt tái vì lao, dồn vào chỗ bí, hắn đành phải nhượng
bộ và nhận một phần sai lầm của mình.
Ngày hôm sau, báo tường các nhà máy đăng những
bài làm cho công nhân hết sức chú ý. Người ta đọc to các
bài báo đó lên và thảo luận sôi nổi. Buổi tối, họp Đoàn,
đông khác hẳn mọi khi, người ta chỉ nói toàn về những bài
báo đó thôi.
Cốt-sca bị khai trừ, và Pa-ven được cử vào thường vụ
Đoàn, phụ trách công tác chính trị.
Mọi người nghe Nhê-giơ-đa-nốp nói, yên lặng và chăm
chú một cách khác thường. Diễn giả nói về những nhiệm vụ
mới, về giai đoạn phấn đấu mới mà các xưởng nhà máy xe
lửa phải vượt qua.
Họp xong, Pa-ven ra ngoài đứng đợi Svê-tai-ép.
Anh đón gặp người bí thư Đoàn:
- Chúng ta cùng đi về đi, hai chúng mình có chuyện phải
nói với nhau.
Svê-tai-ép hỏi lại, giọng khản đi.
- Chuyện gì mới được?
Pa-ven khoác tay Svê-tai-ép, đi vài bước, rồi dừng lại
trước một tấm ghế dài.
- Chúng mình ngồi đây một chốc.
Và anh ngồi xuống trước.
Lửa ở đầu điếu thuốc trong tay Svê-tai-ép khi sáng đỏ
khi tắt dụi.
- Svê-tai-ép này, tại sao cậu cứ mâu thuẫn với mình?
Mấy phút im lặng.
- Chuyện có thế thôi ư? Thế mà mình cứ tưởng cậu có
chuyện công tác muốn nói với mình.
Giọng Svê-tai-ép không bình thường. Hắn làm bộ ngạc
nhiên.
Pa-ven quả quyết đặt tay lên đầu gối Svê-tai-ép, gọi
hắn bằng tên thân:
- Đim-ca, cậu đừng đánh trống lảng. Cái lối ấy chỉ tốt
với những nhà ngoại giao thôi. Cậu bảo thẳng cho tớ biết:
vì sao cậu không ưa tớ?
Svê tai-ép cử động có vẻ bực tức:
- Cậu có gì mà lôi thôi với tớ thế? Mâu thuẫn gì? Chính
tớ đã đề nghị cậu tham gia lãnh đạo. Cậu từ chối và bây
giờ lại làm như là tớ cho cậu ra rìa.
Giọng nói của hắn không thật. Pa-ven, tay không rời
đầu gối bạn, run run nói:
- Cậu không muốn nói thật thì tớ nói toạc ra vậy. Cậu
tưởng mình muốn ngáng đường cậu. Cậu tưởng mình mơ
ước cái chức bí thư của cậu. Nếu không phải thế thì chẳng
đến nỗi nào có chuyện to tiếng vì cái vụ Cốt-sca. Cách đối
xử với nhau như vậy hại đến mọi công việc. Nếu chỉ là hai
thằng khó chịu với nhau thì chẳng quan hệ gì lắm. Cậu
muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Nhưng từ mai, hai chúng mình
sẽ làm việc với nhau rồi. Nếu cứ hục hặc như thế thì công
việc sẽ ra sao? Cậu hãy nghe tớ nói, không có gì chia rẽ
chúng ta hết. Cậu cũng như tớ là con nhà công nhân. Nếu
cậu cho sự nghiệp chung là quý báu hơn cả thì cậu bắt tay
tớ và ngày mai chúng mình sẽ bắt đầu thân thiết làm việc
với nhau. Song nếu cậu không bỏ những tính khí ấy đi, nếu
cậu cứ luẩn quẩn với những chuyện đôi co bần tiện, thì mỗi
va chạm xảy ra trong công tác chỉ tổ làm cho hai chúng
mình chống nhau kịch liệt. Tay tớ đây, nếu cậu cho tay tớ
còn là tay đồng chí thì cậu bắt tay tớ.
Lòng vui sướng, Pa-ven cảm thấy những ngón tay gân
guốc của Svê-tai-ép nằm trong lòng bàn tay của mình.
Một tuần qua. Ở trụ sở Đảng ủy quận, đã hết giờ làm
việc. Trong phòng của các ban đã im lặng, không một tiếng
động. Nhưng đồng chí Tô-ca-rếp vẫn chưa rời cơ quan.
Ngồi trong ghế bành đồng chí mải miết đọc tài liệu mới gửi
đến. Có tiếng gõ cửa.
- Cứ vào
Pa-ven vào đặt trước mặt đồng chí bí thư hai bản khai
đã ghi đầy đủ.
- Cái gì thế chú?
- Bố ơi, cháu nộp giấy tờ này để xin nhận trách nhiệm
với Đảng. Cháu nghĩ là đã đến lúc. Nếu bố đồng ý, đề nghị
bố đảm bảo cho đơn xin gia nhập Đảng của cháu.
Cụ Tô-ca-rếp đọc qua, rồi nhìn người thanh niên trong
mấy giây và không nói gì, cầm lấy bút. Trên cột ghi tuổi
đảng của những đảng viên giới thiệu đồng chí Ca-rơ-sa-
ghin Pa-ven An-đơ-rê-ê-vích được làm đảng viên dự bị
Đảng cộng sản (bôn-sê-vích) Nga, đồng chí Tô-ca-rếp đưa
tay vũng chắc viết lên: "Vào Đảng từ 1903” và bên cạnh hạ
một chữ ký chân phương.
- Ký rồi đây, chú mày. Tôi biết chú không bao giờ làm
nhơ mái tóc bạc của lão.
*
Trong phòng, không khí ngột ngạt. Ai cũng chỉ có một ý
nghĩ: làm sao mau đến phía đằng ấy, đến những con
đường hai bên trồng cây hạt dẻ ở khu phố Xô- lô-men-ca,
gần nhà ga.
Svê tai-ép mồ hôi nhễ nhại, nói như van nài:
- Đề nghị cho nghỉ thôi, Páp-ca ạ. Mình nóng quá không
chịu được nữa.
Ca-chi-u-sa và sau chị, nhiều người khác cũng đều
đồng thanh tán thành ý kiến Svê-tai-ép.
Pa-ven gấp sách lại. Buổi học của nhóm nghiên cứu
hôm đó đến đây là xong.
Toàn nhóm đứng dậy nói cười huyên náo. Giữa lúc ấy
chuông dây nói reo lên hối hả. Svê-tai-ép cầm ống nghe và
trả lời, cố nói to át mọi giọng ồn ào trong phòng.
Nói xong, buông máy, Svê-tai-ép quay về phía Pa-ven:
- Pa-ven ơi, ngoài ga có hai toa ngoại giao của lãnh sự
quán Ba Lan đang đỗ. Họ bị hỏng điện mà một giờ nữa tàu
chạy. Phải chữa dây điện. Cậu cầm hòm đồ đi ngay đi.
Việc cần lắm.
Hai toa xe lộng lẫy của công ty toa xe giường ngủ quốc
tế đậu ở ke thứ nhất ngoài ga. Toa phòng khách thì đèn
sáng trưng, còn toa bên cạnh thì tối om. Pa-ven lại gần toa
xe, nắm lấy thành sắt của bậc toa, định trèo lên.
Từ tường nhà ga, một người đàn ông chạy vội đến,
nắm lấy vai anh.
- Anh này đi đâu?
Giọng nói quen quen, Pa-ven quay lại. Người ấy mặc
áo khoác da, đội mũ cát-két vành rộng, mũi lõ mỏng dính,
mắt nhìn trừng trừng ra ý dò xét.
Đến lúc ấy, Ác-chu-khin mới nhận ra Pa-ven. Anh buông
vai người trẻ tuổi, nét mặt tươi dần, song cặp mắt lại nhìn
hòm đồ như dò hỏi:
- Cậu đi đâu thế ?
Pa-ven trả lời vắn tắt. Một bóng người nữa từ sau toa
hiện ra:
- Để tớ đi gọi người liên lạc của họ.
Pa-ven theo chân người liên lạc bước vào. Trong toa
phòng khách, có mấy người ngồi, ăn mặc cầu kỳ, quần áo
du lịch sang trọng. Ở bàn khách phủ khăn thêu hoa hồng,
một người đàn bà ngồi quay lưng ra cửa. Lúc Pa-ven
bước vào, người đàn bà ấy đang nói chuyện với một viên
sĩ quan cao lớn đứng trước mặt. Người thợ điện vừa bước
vào thì họ im ngay không nói chuyện nữa.
Pa-ven xem xét rất nhanh những dây điện từ bóng đèn
cuối cùng của toa này đi sang toa sau. Thấy không việc gì,
Pa-ven ra khỏi phòng khách, cố tìm ra chỗ hỏng. Người liên
lạc bụng phệ, cổ như cổ trâu, mặc đồng phục có đốm khuy
đồng mang hình diều hâu một đầu. Hắn ta theo sát anh
không rời một bước.
- Ta sang toa bên, ở đây không có gì hỏng, pin đèn vẫn
chạy. Chắc là hỏng ở bên kia.
Người liên lạc khóa trái cửa lại, rồi đi vào lối đi tối mò
của toa sau. Pa-ven bấm đèn soi những đường dây; anh
tìm ra ngay chỗ chập dây. Chỉ mấy phút, bóng đèn đầu tiên
bật lên trong lối đi, tỏa ánh sáng đục mờ. Pa-ven bảo
người liên lạc đi theo anh:
- Phải mở buồng này ra để thay bóng. Bóng trong
buồng cháy hết rồi.
- Thế thì phải gọi bà ấy sang. Bà ta giữ chìa khóa.
Người bảo vệ không dám để Pa-ven đứng đấy một
mình, kéo anh đi theo. Người đàn bà bước vào trong
buồng trước. Pa-ven đi theo ngay sau. Người liên lạc đứng
ở ngưỡng cửa, thân hình phì nộn chật cả lối ra vào. Pa-ven
nhìn qua gian phòng: hai hòm da xinh treo trên lưới, một áo
khoác lụa quàng trên giường, một lọ nước hoa và một hộp
phấn bé xíu bằng ngọc thạch để trên bàn con gần cửa sổ.
Người đàn bà ngồi vào góc giường, rồi vừa quấn lại mớ
tóc màu gai, vừa trông người thợ làm.
Tên liên lạc cúi cổ trâu xuống, trịnh trọng thưa:
- Xin phép bà cho con đi một phút. Quan "pan" thiếu tá
gọi con lấy rượu bia ướp lạnh để ngài xơi.
( Pan : Tiếng Ba Lan nghĩa là "ông, ngài")
Người đàn bà trả lời, giọng uốn éo, đỏng đảnh:
- Cho người đi.
Hai người nói với nhau bằng tiếng Ba Lan.
Vệt sáng của ngọn đèn ngoài hành lang rọi vào, đổ
ngang vai người đàn bà. Tấm áo dài bằng lụa nõn Ly-ông,
do nhà hàng thợ may giỏi nhất Pa-ri cắt, để lộ hai cánh tay
và đôi vai. Một viên kim cương óng ánh như một giọt nước
chấm sáng ở vành tai nhỏ nhắn. Pa-ven chỉ nhìn thấy cánh
tay và vai người đàn bà, nõn nà như tạc bằng ngà voi. Mặt
người ấy lẩn trong tối. Pa-ven lấy tuốc-nơ-vít xoay xoay mấy
cái thay bóng đèn trần và chỉ một phút sau, cả gian phòng
lại sáng. Chỉ còn phải xem lại cái bóng đèn thứ hai mắc ở
mé trên chiếc giường người đàn bà đang ngồi. Pa-ven
dừng lại trước mặt người đàn bà ấy.
- Tôi cần thử cái bóng này.
- À phải, tôi cản trở việc anh làm.
Người đàn bà trả lời bằng tiếng Nga rất đúng giọng, rồi
nhẹ nhàng ngồi dậy và đứng gần Pa-ven. Giờ thì anh nhìn
rõ cả người. Đôi mày gãy góc, đôi môi mím chặt kiêu kỳ.
Không còn nghi ngờ gì nữa: nó là con Nen-ly Lê-sinh-ski.
Đứa con gái lão thầy kiện cũng vừa nhận ra cái nhìn sửng
sốt của Pa-ven. Nhưng nếu Pa-ven nhận ra nó, thì nó lại
không nhận ra được người thợ điện này là thằng bé láng
giềng ngỗ ngược, mới có bốn năm qua mà đã lớn hẳn lên.
Để trả lời vẻ ngạc nhiên của Pa-ven, nó cau mày khinh
khỉnh đi ra cửa phòng; đứng ở đấy nó gõ mũi giày nhỏ tí
bóng nhoáng vào tường gỗ, tỏ ý sốt ruột. Pa-ven tháo bóng
thứ hai, soi lên ánh sáng xem và chính anh không ngờ tới,
cả con Nen-ly Lê-sinh-ski lại càng không ngờ tới nữa, anh
buột mồm hỏi nó bằng tiếng Ba Lan:
- Vích-to cũng có ở đây chứ?
Pa-ven hỏi thế, song không quay mặt lại. Anh không
trông thấy mặt con Nen-ly, nhưng thấy lâu nó không đáp, đủ
hiểu nó nghe hỏi thì ngơ ngác đến thế nào.
- Thế anh biết Vích-to à?
- Sao lại không biết! Ta trước ở cạnh nhà nhau mà. -
Pa-ven quay lại nhìn nó.
- Anh là Pa-ven, con mụ.. - Nen-ly nói nửa chừng.
Pa-ven nhắc tiếp:
- Con mụ nấu bếp đấy.
- Ô anh lớn nhanh thật. Tôi nhớ ra anh trước kia là một
thằng bé con rất gấu.
Nen-ly nhìn anh từ đầu đến chân một cách sống sượng:
- Anh hỏi Vích-to làm gì? Nếu tôi không nhớ lầm thì anh
với Vích-to có ưa nhau đâu.
Nen-ly nói giọng lanh lảnh như chim, những mong cuộc
gặp gỡ bất ngờ này làm nó đỡ sốt ruột chờ tàu. Đồ nghề
của người thợ điện bắt rất nhanh vào tường gỗ một chiếc
đinh ốc mới.
- Vích-to còn nợ tôi. Nếu cô gặp hắn thì cô bảo hắn là tôi
vẫn đợi có dịp hắn trả nợ đấy.
- Anh cho biết Vích-to nợ anh bao nhiêu để tôi trả hộ.
Nó rất hiểu cái "nợ” Pa-ven đòi là cái nợ gì. Nó biết
chuyện xảy ra với tên lính nguy Pết-lu-ra ngày trước, nhưng
nó thích trêu "thằng nhãi này” nên giở giọng chọc tức chơi.
Pa-ven im không nói. Nen-ly buồn rầu hỏi thăm:
- Anh này, có phải biệt thự nhà tôi đã bị cướp phá tan
tành và giờ đổ nát rồi, phải không anh? Giàn cây và những
bồn hoa cũng bị phá trụi sạch rồi phải không?
- Nhà ấy nay thuộc về chúng tôi rồi, không phải của các
người nữa. Việc gì chúng tôi lại phá.
Nen-ly cười mỉa:
- Ô ô! Tôi xem ra cả anh nữa cũng bị người ta lên lớp
cho rồi. Nhưng toa này là toa của phái đoàn Ba Lan. Trong
toa này, tôi là chủ và anh vẫn là thằng hầu của tôi như ngày
trước. Giờ anh đang chữa điện cho tôi có đèn dùng, để tôi
nằm đọc sách thoải mái trên chiếc giường này. Trước kia
thì mẹ anh giặt quần áo cho nhà tôi, còn anh thì xách nước.
Bây giờ ta lại gặp nhau nhưng phận người nào vẫn phận
người ấy, không có gì khác trước.
Nó nói với vẻ đắc thắng, lấy làm thú vị một cách tinh ác.
Pa-ven vừa lấy dao con cạo đầu dây điện vừa nhìn con bé
Ba Lan, chẳng giấu vẻ chế nhạo.
- Nếu chỉ vì nhà chị thì chỉ một chiếc đinh gỉ tôi cũng
chẳng thèm chịu đóng cho chị nhờ. Nhưng vì bọn tư sản đã
sinh ra cái giống ngoại giao thì chúng ta đây, chúng ta cũng
muốn tỏ ra cho chúng nó biết ta đã có chính quyền trong
tay, chúng ta không thèm lấy đầu các người, chúng ta lại
còn tỏ ra lễ độ nữa. Chứ chẳng có ăn nói xách mé như nhà
chị.
Nen-ly đỏ chín má.
- Giá các anh chiếm được Vác-sa-va thì chẳng biết các
anh sẽ định làm gì tôi? Bắt tôi làm nàng hầu hay băm thịt tôi
ra làm ba-tê?
Nó đứng ưỡn ở cửa, điệu bộ đỏm dáng; hai lỗ mũi rất
dâm quen mùi thuốc phiện trắng, phập phồng, mấp máy.
Đèn bật sáng trên đầu giường, Pa ven đứng nhổm dậy:
- Ai người ta thiết gì nhà chị? Ngữ ấy thì chết non sớm
vì thuốc phiện trắng, chứ chẳng phải đợi đến gươm đây
chém cổ. Cái con người chị như thế, cho đây ngủ đây cũng
chẳng thèm.
Pa-ven nhặt hòm đồ, đi hai bước ra cửa. Nen-ly nép về
bên. Ra đến đầu lối đi, anh mới nghe thấy. tiếng nó chửi
thầm:
- Thằng bôn-sê-vích chết tiệt!
*
Tối hôm sau, Pa-ven đang đi ra thư viện thì gặp Ca-chi-
u-sa. Chị đưa bàn tay nhỏ xíu nắm lấy áo Pa- ven, vừa
cười vừa chặn đường.
- Chạy đi đâu thế hở ông Chính trị và Huấn luyện?
Pa-ven cũng đùa, đáp lại:
- Thưa mẹ ranh, con ra thư viện. Xê ra cho người ta đi.
Anh khẽ nắm lấy vai Ca-chi-u-sa, đẩy nhẹ cô xuống
đường. Ca-chi-u-sa gỡ tay anh ra và quay lại đi theo anh.
- Pa-vơ-lu-sa này, người ta không thể lúc nào cũng học
tập. Hôm nay, anh có biết không, anh phải đến dự tối vui
của chúng tôi. Bà con hôm nay tụ tập ở nhà Di-na Gơ-la-
đúc. Bọn con gái bảo tôi phải kéo anh đến. Nhưng anh thì
anh chỉ biết độc có cắm đầu vào chính trị thôi. Có thể nào
anh chẳng nghĩ gì đến vui chơi, giải trí cả. - Ca-chi-u-sa cố
nài ép. - Thôi, hôm nay anh nghỉ đọc sách một tối thì ngày
mai đầu óc anh lại càng nhẹ nhõm !
- Tối vui gì mới được? Ở đấy người ta làm gì nào?
Ca-chi-u-sa nhại lại anh, giọng chế nhạo:
- Người ta làm gì ấy à? Người ta không cầu kinh là
được rồi. Đến đấy vui một lúc, thế thôi. Anh chơi được đàn
gió phải không? Tôi chưa được nghe anh chơi bao giờ.
Nào, anh chiều lòng tôi một chút. Chú con Di-na có cái đàn
gió, nhưng ông ta chơi tồi lắm. Bọn con gái chú ý đến anh
lắm, mà anh cứ gầy khô đi trên đống sách. Có luật nào
cấm thanh niên cộng sản vui chơi giải trí đâu? Tôi còn khẩn
khoản mời thì anh đến đi. Nếu không tôi giấn đấy, giận rõ
một tháng cho mà xem.
Người con gái có đôi mắt to làm nghề thợ sơn ấy là
một đồng chí tốt và một đoàn viên khá. Pa-ven không muốn
mếch lòng cô, tuy nghĩ đến tối vui ấy, anh thấy có một cái gì
không quen và ngớ ngẩn nữa.
Nhà người thợ chữa đầu máy xe lửa Gơ-la-đúc tối nay
đông người và rất ồn ào. Để cho bọn trẻ tha hồ vui chơi,
người lớn rút cả vào phòng trong. Ở buồng lớn phía trước
và ở hàng hiên trông ra vườn nhỏ, có chừng mười lăm
thanh niên nam nữ quây quần. Lúc Pa-ven tới thì ở đấy họ
đang chơi trò gọi là "mớm cho chim bồ câu ăn". Giữa hiên
ngoài, hai ghế dựa áp lưng vào nhau, cô chủ nhà làm
trưởng trò ra lệnh: một anh con trai và một chị con gái ngồi
vào ghế. Trưởng trò hô lên: "Mớm chim bồ câu !" Thế là gã
trai và ả gái đang ngồi áp lưng vào nhau, quay ngay đầu lại
hai miệng gặp nhau và hôn môi nhau giữa công chúng. Rồi
người ta gọi chơi trò "cái nhẫn", trò "người đưa thư", trò
nào cũng có ôm nhau hôn. Khi chơi đến trò "người đưa
thư" thì vì ngoài hiên sáng, người ta đưa nhau vào trong
buồng tắt đèn hôn nhau để không ai trông thấy. Ai không
thú những trò ấy thì ở một góc, trên mặt bàn tròn, có cỗ bài
để chơi trò "lơn hoa". Cô bé ngồi cạnh Pa-ven, mới mười
sáu tuổi, tên gọi Mua-ra, đưa đôi mắt xanh liếc anh và chìa
ra cho anh một lá bài, thủ thỉ:
- Hoa tím này.
Mấy năm trước đây, Pa-ven cũng đã dự những buổi tối
như thế này. Tuy bấy giờ anh chẳng trực tiếp chơi mấy, anh
còn cho cái cách chơi ấy hết sức tự nhiên. Song bây giờ
anh đã thoát ly hẳn cuộc đời tủn mủn tiểu tư sản của thị trấn
nhỏ, buổi vui tối nay đối với anh có một cái gì kỳ quái và hơi
lố bịch nữa.
Dù sao, tay anh cũng đã cầm lá bài "chim chuột" rồi.
Trên lá bài, cạnh chữ "hoa tím", có dòng chữ "Em ưa anh
lắm".
Pa-ven nhìn cô bé. Cô bé nhìn lại, chẳng bối rối chút
nào.
- Thế nào?
Câu hỏi của Pa-ven hơi nặng nề. Mua-ra đã nghĩ sẵn
câu trả lời.
Cô bé chìa một lá bài nữa cho Pa-ven.
- Hoa hồng nữa này.
Cạnh chữ "hoa hồng", có dòng chữ: "Anh là người
trong.mộng của em". Pa-ven quay sang cô bé, dịu giọng
hỏi:
- Tại sao em cứ nghịch trò vớ vẩn này?
Mua-ra bối rối, xấu hổ.
- Em bộc lộ tình cảm của em làm cho anh bực mình hay
sao?
Rồi bĩu môi đỏng đảnh.
Pa-ven không trả lời. Nhưng lại muốn hiểu xem cô bé là
con nhà ai. Anh hỏi lại mấy câu, cô bé vui vẻ trả lời. Mấy
phút sau, anh được biết cô bé đang học trường bảy năm,
cha là công nhân đường sắt, đã gặp Pa-ven từ lâu và muốn
làm thân với Pa-ven.
- Tên em là gì?
- Mua-ra Vô-lưn-xép.
- Có phải anh trai em là bí thư chi đoàn sở đầu máy
không?
- Vâng.
Giờ thì Pa-ven hiểu cô bé là ai rồi. Rõ ràng là Vô- lưn-
xép, một trong những đoàn viên thanh niên tích cực nhất
quận này, đã không chú ý đến giáo dục em gái mình, và cô
bé cứ là một cô ả tiểu tư sản tầm thường mãi. Từ một năm
nay, cô bé năng lui tới những tối vui tổ chức ở nhà bạn,
đem đến đấy những chiếc hôn làm chóng mặt được. Cô bé
đã gặp Pa-ven nhiều lần đến chơi với anh mình.
Mua-ra nhận ra người con trai ngồi bên không tán thành
thái độ của mình; khi người ta gọi cô vào chơi "mớm cho
chim bồ câu ăn", cô thấy Pa-ven cau mày, liền từ chối
thẳng. Hai người ngồi với nhau mấy phút nữa, Mua-ra kể
chuyện đời mình. Ca-chi-u-sa đến tìm họ.
- Mình mang đàn gió lại nhớ, Pa-ven chơi hộ vài bài!
Rồi nheo mắt nhìn Mua-ra một cách láu lỉnh, Ca- chi-u-
sa hỏi:
- Thế nào, quen nhau rồi chứ?
Pa-ven kéo Ca-chi-u-sa ngồi cạnh anh, và nhân lúc
chung quanh đang cười đùa, la hét ầm ĩ, anh bảo bạn:
- Mình không chơi đâu. Mình đi dạo với Mua-ra một lúc.
- A, a, có người cắn câu. - Ca-chi-u-sa hỏi, ra dáng hiểu
cả rồi.
- Phải. Cắn câu rồi đấy. Tôi hỏi Ca-chi-u-sa, ở đây
ngoài hai chúng ta, có ai là đoàn viên nữa không? Hay chỉ
có hai chúng ta rơi vào một "ổ chim bồ câu"?
Ca-chi-u-sa làm lành, nói cho Pa-ven biết:
- Họ thôi không làm trò điên nữa đâu. Sắp nhảy rồi.
Pa-ven đứng dậy:
- Thế thì tốt. Mời mụ cứ nhảy. Còn tôi với Mua- ra đi
đây.
Một buổi tối, An-na Bô-khác đến nhà Ô-cu-nhếp. Chỉ
gặp có Pa-ven ở đấy.
- Anh bận lắm phải không? Đi dự phiên họp toàn thể
của Xô-viết đi nào. Để lúc về, đi có bạn cho vui, chứ họp về
khuya lắm.
Một lát, Pa-ven mặc xong quần áo. Đầu giường anh
treo khẩu Mô-de: khẩu súng này nặng quá. Anh mở ngăn
kéo Ô-cu-nhếp, lấy khẩu Bơ-rao-ninh cho vào túi. Rồi viết
lại mẩu giấy cho Ô-cu-nhếp và giấu chìa khóa vào chỗ đã
hẹn với nhau.
Ở rạp hát, hai người gặp Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga. Mấy
người cùng ngồi gần nhau. Những lúc phiên họp tạm nghỉ,
họ đi dạo chơi với nhau ngoài sân. Như An-na đã đoán
trước, buổi họp kéo dài đến một giờ khuya. Ôn-ga đề nghị:
- Hay các cậu về cả nhà mình ngủ. Khuya lắm rồi mà
các cậu lại ở xa.
An-na từ chối:
- Thôi, mình đã hẹn với Pa-ven đi về rồi.
Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga cứ dọc đường cái đi xuôi, còn
bọn về khu phố Xô-lô-men-ca thì đi ngược lên.
Đêm ngột ngạt, tối mịt như bưng lấy mắt. Cả thành phố
đã ngủ kỹ. Các đại biểu ra về, mỗi người mỗi ngả, đi theo
các phố im phăng phắc. Tiếng nói và tiếng chân họ cứ chìm
dần trong đêm. Pa-ven và An- na đã đi khỏi các phố lớn
một quãng xa. Đến phố chợ, vào giờ này vắng tanh, vắng
ngắt thì gặp đội tuần tra họ giữ lại hỏi giấy rồi cho đi. Qua
con đường lớn, vào một phố vắng không có đèn. Phố này
chạy ngang một bãi đất bỏ hoang. Hai người rẽ sang trái,
rồi men theo con đường chạy dọc những kho chính của nhà
máy xe lửa. Những nếp nhà dài bằng bê-tông, trông tối đen
và ghê sợ. An-na đột nhiên đâm lo. Chị len lét nhìn vào đêm
tối, trả lời Pa-ven nhát gừng chẳng ra đâu vào đâu. Đến khi
cái bóng đen làm chị hoảng hóa ra là cái cột dây thép thì
chị cười phá lên, cắt nghĩa cho Pa-ven hiểu điều làm mình
sợ. An-na khép cánh tay mình dưới cánh tay Pa-ven, sát
vai mình vào vai bạn và thấy vững lòng hơn.
- Mình năm nay mới có hai mươi hai tuổi đầu nhưng
thần kinh bị rão như một bà lão rồi, Pa-ven có thể cho mình
là nhát gan. Mình không phải nhát gan đâu. Nhưng hôm nay
không hiểu tại sao mình thấy não cân bị kích thích lạ. Giờ có
Pa-ven đi bên cạnh, mình không lo nữa và thấy xấu hổ là đã
hốt hoảng.
Vẻ trấn tĩnh của Pa-ven, đầu lửa đỏ của điếu thuốc lá
anh cầm chốc chốc lại soi lên một bên mặt anh, đôi mày
của anh cong một cách cứng cỏi, tất cả những điều đó làm
An-na tiêu tan hết nỗi hoảng sợ vì đêm hôm tối mịt, vì cảnh
hoang vắng của bãi đất bỏ không, cả vì câu chuyện giết
người khủng khiếp xảy ra hôm qua ở khu phố Pa- dôn, vừa
được nghe kể chuyện xong lúc ở rạp hát.
Hai người đã vượt qua dãy nhà kho, đi qua cái cầu nhỏ
bắc ngang con lạch và đi vào con đường phố ga; con
đường này đưa tới khúc đường hầm dưới gầm đường xe
lửa chạy, khúc đường hầm nối thông mé bên thành phố với
cả khu phố đường sắt.
Hai người đã bỏ xa nhà ga ở mé bên tay phải. Một
đoàn xe chạy vào đường đỗ xe, ở cuối dãy nhà kho. Đây
đã là giang sơn mà họ quen thuộc rồi. Trên kia, đường tàu
chạy, ánh sáng màu óng ánh ở những đèn kho và đèn hiệu;
gần kho đầu máy, một chiếc đầu máy chạy đi chạy lại, thở
dốc ra như một con vật mệt lử sắp được nghỉ đêm.
Cửa vào đường hầm, có cái đèn treo trên móc sắt gỉ.
Gió hiu hiu khẽ đưa đẩy ngọn đèn, ánh sáng mờ vàng ệch
đong đưa, hắt lên tường bên này rồi lại hắt lên tường bên
kia của đường hầm.
Khỏi đường hầm mười bước, ngay bên đường có nếp
nhà nhỏ trơ trụi, chính giữa căn nhà ấy có vết thủng lớn há
hốc. Hai năm trước đây, một quả trái phá hạng nặng tương
trúng ngôi nhà, làm trong nhà bể tung từng mảng và mặt
nhà đổ vỡ tan nát. Trông nếp nhà ấy chẳng khác một ông
lão ăn mày ngồi bên vệ đường chìa vết thương của mình ra
cho người qua lại trông thấy. Trên mặt đường cao, một
chuyến tàu chạy qua.
An-na thở phào.
- Ta gần đến nhà rồi.
Pa-ven gỡ tay An-na ra. Song An-na không chịu bỏ. Hai
người qua một căn nhà đổ nát.
Bỗng có tiếng động sau lưng. Tiếng chân chạy gấp,
tiếng thở hồng hộc. Có người đuổi theo họ.
Pa-ven giật tay ra định đối phó, nhưng An-na thất kinh
cứ ôm ghì lấy anh. Đến khi Pa-ven gỡ tay ra được thì muộn
quá rồi: những ngón tay cứng như sắt đã nắm lấy cổ anh;
anh quẫy mạnh nhưng kẻ hành hung đã sấn đến trước mặt.
Nó lấy tay sờ cổ họng anh, nắm lấy cổ áo vặn mạnh, rồi
ngẩng đầu anh lên trước nòng một khẩu súng ngắn, khẩu
súng từ từ giơ lên vẽ thành một vòng cung.
Mắt người thợ điện như bị thôi miên, nhìn theo khẩu
súng giơ lên theo đường vòng cung, óc anh căng thẳng
quá sức người chịu đựng. Cái chết từ nòng súng đen
ngòm nhìn thẳng vào mắt anh, và Pa-ven không đủ sức nhìn
đi chỗ khác, dù chỉ là một phần trăm giây đồng hồ. Anh đợi
phát súng, nhưng không thấy nổ. Mắt anh tròn xoe nhìn thấy
mặt thằng cướp. Sọ nó to, cằm nó bạnh, râu ria đen sì tua
tủa; mắt nó nấp dưới bóng đen vành rộng mũ cát-két.
Pa-ven liếc nhìn An-na mặt trắng bệch như vôi.
Một đứa trong ba thằng cướp kéo An-na vào xó thủng
của căn nhà đổ. Nó vặn tay người con gái, đè ra đất. Một
bóng đen nữa đi kèm Pa-ven, anh chỉ thấy bóng nó in trên
tường hầm. Đằng sau, trong gian nhà đổ nát, có tiếng vật
lộn. An-na cố giãy không chịu; tiếng kêu cứu bỗng im bặt:
An-na bị nó lấy mũ cát-két nhét vào mồm. Tên cướp to đầu
đang ôm ghì Pa-ven không chịu để đứa khác hiếp mà nó
chỉ đứng xem: như con thú dữ, nó muốn sán ngáy đến mồi
ngon. Hình như nó là chủ tướng và nó không ưa làm cho
đứa khác ăn. Anh con trai nó nắm trong tay này mặt non
choẹt ấy mà. Trông cách ăn mặc, dáng chừng là "một
thằng mọi" làm ở sở đầu máy thì phải. Thằng nhãi con này
chẳng có gì nguy hiểm cả.
"Ta gõ hai ba lần cái củ tỏi này vào hoa cái nó, rồi ta chỉ
cho nó con đường chạy qua bãi hoang thì nó sẽ chạy biến
về phố, không dám ngoái cổ lại". Và thằng cướp nới nắm
tay đang siết chặt của nó ra.
- Xéo! Chạy đi khỏi đây ngay lập tức. Hễ mở mồm kêu,
ông cho kẹo vào mồm ngay. - Và nó lấy nòng súng cốc vào
trán Pa-ven. - Cút đi ngay! Nó rống lên, rồi hạ súng xuống
cho nạn nhân của nó chạy đi, khỏi sợ nó cho ăn đạn vào
lưng.
Pa-ven lùi lại phía sau, đi chếch hai bước, mắt không
rời thằng cướp. Thằng cướp lại tưởng gã thanh niên non
choẹt ấy vẫn còn sợ nó bắn vào đầu và không để ý cứ đi về
phía căn nhà.
Tay Pa-ven thò ngay vào túi. "Chỉ cốt là đừng chậm
quá!” , Anh quay phắt lại, giơ thẳng tay trái, nhằm đúng
thằng cướp. Nó nhận ra nó đã tính lầm thì chậm quá mất
rồi. Viên đạn chọc thủng mạng mỡ.
Nó không kịp giơ tay lên trời, loạng choạng ngã khuỵu
vào tường hầm, rồi kêu lên không ra tiếng, ngón tay bíu
chặt lấy tường, xác nó từ từ rơi phịch xuống đất. Từ chỗ
thủng của căn nhà đổ, một bóng đen vụt ra, nhảy phắt
xuống rãnh sân. Pa-ven bắn phát thứ hai theo nó. Một bóng
nữa lom khom, ba chân bốn cẳng chạy vụt vào hầm tối.
Súng lại nổ. Đạn bật vào tường bê-tông, bụi trắng rắc theo
lên bóng đen. Nó nhảy né sang bên, rồi biến mất vào đêm
tối. Khẩu Bơ-rao-ninh còn bắn theo ba phát inh tai nữa.
Dưới chân tường hầm, thằng cướp to đầu hấp hối, quằn
quại như con giun.
Pa-ven đỡ An-na dậy. Chị chưa hết kinh hoàng, nhìn tên
cướp già giãy giụa, còn chưa tin hẳn là thoát nạn.
Pa-ven dìu An-na đi trong đêm tối, về phía phố, xa dần
chỗ có ánh đèn. Hai người cùng chạy về phía nhà ga. Trên
bờ cao của đường sắt, gần đường hầm, có ánh đèn đi
tuần soi rối rít. Một tiếng súng báo động nổ ầm trên đường
sắt.
Khi hai người về đến nhà An-na thì gà nhà ai đã gáy
sáng trên đồi Ba-ti-sep. An-na nằm dài trên giường. Pa-
ven ngồi bên bàn. Anh hút thuốc, nhìn những vòng khói tỏa
đang bay lên trần nhà... Thằng cướp vừa bị bắn chết là
người thứ tư anh đã giết trong đời.
Nói chung, trên đời này, có thể nào có một đức can
đảm tuyệt đối, bao giờ cũng biểu hiện một cách toàn vẹn
không nhỉ? Nhớ lại những cảm nghĩ của mình trong việc xảy
ra vừa qua, Pa-ven thú thật với mình là những phút đầu tiên,
con mắt đen ngòm của nòng súng đã làm anh sợ hết hồn.
Và anh đã bắn trượt hai bóng đen chạy trốn, có phải chỉ vì
anh hỏng một bên mắt, phải dùng tay trái bắn không?
Không. Cách có vài bước mà thôi, anh có thể bắn tin hơn
nhiều. Thế mà lại bắn không trúng, tại anh đã cuống, đã
hấp tấp, điều đó chứng tỏ tâm thần anh có phần nào hốt
hoảng.
Đèn để bàn chiếu lên đầu anh. An-na nhìn bạn, theo dõi
từng nét cử động trên mặt. Thoạt trông, Pa- ven có vẻ bình
tĩnh. Chỉ có nếp nhăn trên trán tỏ ra anh đang nghĩ lung.
- Nghĩ gì thế Pa-ven?
Những ý nghĩ của anh bị câu hỏi đột ngột đánh bạt, bay
đi đâu mất như làn khói thuốc đang tỏa ra khỏi ánh đèn.
Anh trả lời theo ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong óc:
- Tôi phải tìm đến đồng chí chỉ huy đơn vị bảo vệ thành
phố. Tôi phải báo cáo với đồng chí ấy mới được.
Anh cố nén mệt mỏi, miễn cưỡng đứng dậy.
An-na không chịu buông tay anh ngay; chị không muốn
phải ở lại nhà một mình. An-na tiễn Pa-ven ra cửa, đứng
nhìn theo mãi con người đối với mình từ nay thân quý và
gần gũi quá. Chờ cho đến khi Pa- ven đã đi khuất vào bóng
tối, chị mới trở vào đóng cửa lại.
Có Pa-ven đến gặp cho biết, cơ quan bảo vệ của
đường sắt mới hiểu .ra vụ giết người khó hiểu này. Người
ta nhận ngay ra mặt tên bị giết là Phim-ca Sê-rếp, một tên
cướp đường và giết người đã tái phạm nhiều lần mà các
bộ phận điều tra hình sự đã nhẵn mặt.
Ngày hôm sau, ai cũng biết chuyện xảy ra ở đường
hầm.
Nhân đó mà có chuyện va chạm bất ngờ xảy ra giữa
Pa-ven và Svê-tai-ép.
Giữa lúc cả xưởng đang mải miết làm việc thì Svê- tai-
ép bước vào, gọi Pa-ven ra ngoài hành lang, kéo đến một
chỗ xa, có vẻ cảm động lắm, lúc đó không biết bắt đầu câu
chuyện thế nào, cuối cùng hỏi Pa-ven:
- Cậu cho mình biết chuyện xảy ra đêm qua thế nào?
- Cậu biết cả rồi còn gì?
Svê-tai-ép nhún vai một cách cáu kỉnh. Người thợ điện
hiểu đâu là câu chuyện ở đường hầm động đến lòng Svê-
tai-ép hơn người khác. Pa-ven không biết anh chàng thợ
rèn bề ngoài phớt lạnh này trong bụng rất cảm An-na. Đối
với An-na, chẳng phải mình anh chàng có thiện cảm, song
cảm tình ở hắn ta phức tạp hơn người khác. Được Ta-li-a
vừa cho biết chuyện xảy ra đêm qua ở đường hầm, Svê-
tai-ép nghe xong, một câu hỏi làm hắn ta nhức óc. Hắn biết
không thể nào đem hỏi trực tiếp Pa-ven được; song hắn
muốn biết rõ sự thật thế nào. Hắn cũng cảm thấy lờ mờ
những điều mình lo ngại đây có phần ích kỷ bần tiện; song
lần này, trong cuộc đấu tranh của những tình cảm mâu
thuẫn ở lòng hắn; bản năng thô bạo, bản năng thú vật đã
thắng mất rồi. Hắn bắt đầu nói với Pa-ven bằng giọng khàn
khàn:
- Pa-ven này, câu chuyện mình hỏi, cậu đừng kế với ai.
Cậu hiểu mình muốn cậu đừng nói với An-na, làm An-na
nghĩ ngợi. Mà cậu cũng có thể tin là mình cũng không nói
với ai hết. Mình đề nghị cậu cho mình biết, khi thằng cướp
giữ chịt lấy cậu thì mấy thằng kia có hiếp được An-na
không?
Nói đến đoạn cuối của câu, Svê-tai-ép sượng mặt quá
quay đi nhìn chỗ khác.
Pa-ven bắt đầu lờ mờ hiểu Svê-tai-lo np: "Nếu cậu ta
đối với An-na không có gì thì cậu ta cũng. chẳng lo cuống
cuồng như thế. Nhưng nếu cậu ta yêu An-na thì...". Pa-ven
thấy có điều gì tổn thương đến An-na.
- Cậu hỏi thế làm gì?
Svê-tai-ép nói lí nhí, chẳng hiểu nói gì cả, rồi thấy người
ta đã đoán được bụng mình, hắn đâm cáu:
- Tại sao cậu lại nói lảng đi như thế? Tôi hỏi cậu để cậu
trả lời tôi. Cậu lại đi hỏi vặn lại tôi.
- Cậu yêu An-na phải không?
Im lặng. Rồi Svê-tai-ép khó nhọc dằn ra tiếng:
- Phải.
Pa-ven không nén được phẫn nộ, quay gót đi ra hiên,
không thèm ngoái lại nhìn.
*
…Ô-cu-nhếp đứng quanh quẩn ở gần giường bạn, lúng
ta lúng túng hồi lâu rồi mới đến ngồi sát xuống mép
giường, để tay lên cuốn sách Pa-ven đang đọc.
- Pa-vơ-lu-sa ơi, cậu có biết không, mình phải kể cậu
nghe chuyện này, cậu biết chưa nhỉ? Câu chuyện có vẻ vớ
vẩn mà lại chẳng vớ vẩn tí nào. Chuyện là... giữa Ta-li-a La-
gu-chi-na với mình. Cậu hiểu, mình ưa cô ấy. - Ô-cu-nhếp,
vẻ ngượng ngùng, đưa tay gãi đầu nhưng không thấy bạn
chế, đánh bạo nói nốt.
- Và Ta-li-a cũng thế. .. Chắc cậu hiểu rồi. Mình chẳng
phải kể nữa. Câu chuyện rõ ràng chẳng phải soi đèn mới
hiểu. Hôm qua, hai chúng mình bàn nhau, tính xem duyên
phận thế nào, định lập gia đình với nhau. Mình hai mươi hai
tuổi, hai đứa cùng có quyền bầu cử cả rồi. Mình định xây
dựng với Ta-li-a trên nguyên tắc bình đẳng. Cậu nghĩ thế
nào?
Pa-len suy nghĩ một lát.
- Cậu bảo mình còn nghĩ thế nào nữa? Cậu cũng như
Ta-li-a là bạn thân của mình. Bọn chúng ta như người ta nói
là cùng một dòng máu mủ. Các mặt lợi ích khác, ta cũng
đều giống nhau cả. Với lại Ta-li-a là một nữ thanh niên rất
tốt... Rõ ràng là nên lắm rồi.
Hôm sau, Pa-ven mang hòm xiểng sang với anh em ở
tập thể gần sở đầu máy. Vài ngày sau ở nhà An-na có tổ
chức một tối vui, chẳng có rượu chè nhậu nhẹt gì, thật là
một buổi tối vui cộng sản, để mừng cặp vợ chồng mới Ta-
li-a La-gu-chi-na và Nhi-ca-lai Ố-cu-nhếp. Một buổi tối gợi
lại những kỷ niệm xưa và đọc những quyển sách say mê
nhất. Người ta hát đồng ca với nhau, hát nhiều bài và hát
rất hay nữa. Những bài ca chiến đấu vang bay đi xa. Đến
khuya, Ca-chi-u-sa và Mua-ra mang đàn gió lại. Tiếng đàn
trầm mượt và tiếng láy đệm thánh thót như nhịp chuông
bạc, vang âm khắp gian phòng. Tối hôm ấy, Pa-ven lại cầm
lấy đàn chơi như ngày nào. Và đến khi chàng gấu Pan-cơ-
ra-tốp lại xông ra nhảy nữa là điều mà mọi người lạ nhất thì
Pa-ven bốc hẳn; đàn gió của anh lại như xưa, dốc hết nhiệt
tình:
Này kìa, đường phố, đường phố với bao ánh sáng!
Thằng chó đểu Đê-ni-kin đang giận điên người!
Ở Xi-bê-ri Ủy ban đặc biệt chống phản cách mạng!
Đã đập chết tan tành bọn Côn-sắc, Ha! Ha !...
Đàn gió ca ngợi dĩ vãng, những năm rực ánh lửa và tình
bạn ngày nay, ca ngợi đấu tranh và lòng yêu đời. Nhưng khi
Vô-lưn-xép đỡ lấy đàn chơi bài "Ô này! Quả táo !"... hết
sức vui nhộn của những người thủy thủ thì chỉ có Pa-ven
nhảy, làm điệu vũ say sưa đến điên cuồng ấy ! Bị điệu nhạc
hầm hập sôi nổi lôi cuốn Pa-ven đã nhảy cuộc nhảy thứ ba
và cũng là cuộc nhảy cuối cùng trong đời anh. ( còn nữa)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com