Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Thep da toi the day II (c1-c3)

PHẦN THỨ HAI

CHƯƠNG I

    Nửa đêm. Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp

ẹp chạy qua đã được một lúc lâu rồi. Trăng suông trải lên

thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt giường

một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng

trong bóng tối lờ mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một

vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm cụi với tập

nhật ký thân thiết.

    Đầu bút chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:

"24 tháng Năm,

    Lại thử ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng

trống nữa trong nhật ký. Sáu tuần qua, không viết một chữ.

Đành vậy thôi.

    Lấy đâu ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ

này, đêm khuya, mình mới có thời giờ viết. Không ngủ

được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy

làm tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật

là một người ưu tú. Mãi bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân

giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần. Cố nhiên, Xê-

gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua

bọn mình họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước

tiến của "các con đỡ đầu” của chúng mình. Đến dự, có A-

kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh chàng trưởng

phòng quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu

được hạng người tự phụ "cái gì tôi cũng biết” ấy! Xê-gan

thì hớn hở. Người học trò anh là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đã

đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử Đảng. Phải, hai tháng

qua thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế,

người ta chẳng thấy tiếc sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công

tác ở Ban đặc biệt của Quân khu. Tại sao thế nhỉ? Mình

chẳng biết nữa.

    Xê-gan đã giao phó người học trò của anh cho mình.

Khi chia tay, anh nói:

    "Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây

nhớ. Đừng bỏ dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như

anh ta, cả hai đều có những điều học hỏi lẫn nhau được.

Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự

phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ

được và có thể đẩy anh ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta

ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người hướng dẫn thích

hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên

viết thư về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!"

    Hôm nay, Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới

của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình quen Giác- ki từ hồi ở

bộ đội.

    Ngày mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với

mình. Hình dạng anh chàng Đu-ba-va: vóc người tầm

thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng

sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba

người đã bị khai trừ ra khỏi tỉnh đoàn vì thuộc "khối đối lập

thợ thuyền". Giúp Đu-ba-va học tập thật không dễ. Lần nào

anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi quay

mình, làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-

va, cô học trò thứ hai của mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay

xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu tiên, anh ta nhìn Ôn-ga

suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:

    - Trang bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì

phải mặc quần da, mang đinh ba, đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny

đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc,

cũng chẳng ra mỡ.

    Ôn-ga cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình

không lầm thì Đu-ba-va là bạn Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi

thế này đủ rồi. Đi ngủ".

    *

    Nóng như thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt

ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga, sờ vào nóng bỏng. Đoàn

người dãi nắng mệt lử, uể oải bước lên cầu Họ không phải

là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên đường sắt

qua cầu sang bên phố.

    Đứng trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta.

Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven và đang nhìn hành khách

xuống tàu.

    Đến Cách Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri- ta

không trông thấy Pa-ven. Anh đứng ngắm Ri-ta với cặp mắt

tò mò khác thường. Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc,

bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo khoác ngoài

bằng da mềm vắt lên vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang

ngược bao quanh lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta đứng hơi

ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị nheo mắt lại. Lần

đầu tiên Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình

bằng cặp mắt ấy, và cũng lần đầu tiên trong đầu anh nảy ra

ý nghĩ: Ri-ta không phải chỉ là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh

đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ "tội lỗi", Pa-ven

gọi giật Ri-ta:

    - Tôi đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-

ta không trông thấy. Đến lúc đi rồi, tàu đã vào ga.

    Hai người dẫn nhau đến lối ra ke.

    Hôm qua, Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội

nghị của một huyện đoàn. Pa-ven được cử đi phụ với Ri-ta.

Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng được,

chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào

giờ tàu chạy, nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có

uy quyền điều khiển, ai không có giấy của ban này không

được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của

ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được

một phần mười những người cần đi. Không ai muốn ở lại

để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một chuyến

tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới

những toa xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị

bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu đả. Pa-ven và Ri-ta định

chen ra ke, nhưng không sao len được.

    Vốn biết hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn

gái đi qua kho chứa hành lý.

    Vất vả lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn.

Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ hôi đứng trước cửa xe,

giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có

đến trăm lần:

    - Tôi nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những

chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh trên cấm ngặt không được ai

trèo lên cả.

    Có những người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn

vào mũi anh những vé do ban xếp người phát cho họ đi toa

số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ,

tiếng kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối

thường thì không thể nào lên được Mà việc thì cần, không

đi được thì hội nghị không thành mất.

    Pa-ven kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động

của mình. Pa-ven sẽ len vào trong toa, bỏ cửa kính xuống

và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào khác.

    - Ri-ta đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng

minh thư tốt nhất.

    Pa-ven khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng

ngắn vào túi, cố ý để lòi báng súng và dây súng ra ngoài.

Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ toa xe.

Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành

khách, với được thành sắt bậc lên tàu.

    - Này, đồng chí đi đâu?

    Pa-ven ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.

    - Tôi là người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra

xem hành khách các đồng chí cho lên tàu có đủ vé của ban

xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy

may ngờ vực uy quyền của mình.

    Người công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi

trán và nói bằng một giọng hờ hững:

    - Ừ đồng chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí

chen vào được.

    Pa-ven chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng

nắm tay, trườn lên vai người khác, rướn tay đánh đu lấy giá

ghế trên; tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá; chửi thì

chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.

    "Quỷ tha ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái

nhà anh trời đánh thánh vật kia!". Một mụ béo phị mắng Pa-

ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ đã thu cái thân

hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai

chân đang kẹp lấy cái bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước,

hộp đựng sữa, hòm, bao và thùng ngổn ngang các ghế dài.

Không khí ngạt thở.

    Đáp lời chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:

    - Bà cho tôi xem vé của ban xếp người!

    Mụ phát khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai

cần đó:

    - Cái gì?

    Một cái đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng

ồ ồ rống lên:

    - Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho

nó một vé vào mõm ấy!

    Ngay trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là

Vát-ca: người nó lực lưỡng, ngực đầy lông, giương cặp

mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.

    - Mày nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé

gì?

    Từ giá ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn

tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn hạt hướng dương lách tách.

Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen. Pa-ven

không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta

vào trong toa đã.

    Pa-ven chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một

công nhân đường sắt đứng tuổi:

    - Hòm này của ai đây?

    Bác công nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục,

đi tất màu hạt dẻ:

    - Của nhà chị này!

    Phải kéo cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa,

không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm lên và đưa

cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:

    - Đồng bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.

    Khi Pa-ven đặt chiếc hòm lên đùi mụ kia thì nhà mụ mũi

tẹt ấy tru tréo lên:

    - Cái nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?

    Rồi mụ cầu cứu lão bên cạnh.

    - Mốt-ca ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo

cả lên thế!

    Tên gọi Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm

dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng Pa-ven:

    - Ê đồ muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ

mặt bây giờ!

    Pa-ven nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và

nói với bác công nhân đường sắt:

    - Đồng chí lùi ra cho một chút.

    Pa-ven dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng

sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở ngoài, chị nhanh tay đưa

cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang kẹp

bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí

Hồng quân trong đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn

việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong toa rồi. Đồng chí bộ

đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu

nhàu bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao

lên, làm cho Ri-ta bối rối và lo ngại. Chị không có chỗ nào

đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới, tay víu lấy

chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại.

Giọng ồ ồ ở phía trên phì ra:

    - Rõ thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả "mèo" lên

nữa!

    Một tên ngồi khuất đâu trên cao hết lên: "Mốt-ca! Cậu

cho nó dăm quả tống cho tối mắt đi!"

    Mụ mũi tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung

quanh toàn những bộ mặt ti tiện, hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-

ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho có

chỗ ngồi.

    - Này anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ

đồng chí này đứng. - Pa-ven nói với tên mà người ta gọi là

Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần thỉu làm

cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức

trên mu mắt phải.

    - Được mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay

tao - Pa-ven cố nén, nói với tên lưu manh như vậy, nhưng

vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu. Bọn chúng ở

bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:

    - Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra !

    Bao nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây

giờ bật ra, và trong những lúc như thế này, cử chỉ của anh

bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.

    - Bọn đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu

được tao đấy phải không? - Pa-ven, tay bíu lấy giá ghế thứ

hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái

mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên

con buôn đầu cơ ngã bổ nhào lên đầu những đứa khác, rồi

lăn kềnh xuống lối đi.

    "Bọn khốn nạn ! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả

như chó ấy!" Pa-ven giận dữ quát lên, tay vung khẩu súng

ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.

    Câu chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm

chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng vào bất cứ kẻ nào định

chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên

đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.

    Khi Pa-ven đã đưa Ri-ta lên ngồi trên ghế đã quang

người anh rỉ tai với Ri-ta:

    - Ri-ta ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.

    Ri-ta ngăn anh lại:

    - Pa-ven định đi đánh nhau với chúng đấy à?

    Pa-ven nói cho Ri-ta yên tâm:

    - Không, tôi sẽ về ngay.

    Pa-ven lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài

phút sau, anh đã có mặt ở phòng làm việc của Bua-mây-

stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách

cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau

khi nghe Pa-ven kể, đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra

khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi người.

    Bua-mây-stơ lẩm bẩm:

    - Tôi nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn

con buôn đầu cơ rồi.

    Một đội công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm

soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven giúp việc kiểm tra lại

cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt,

Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí

thư đoàn thanh niên đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn

viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở Cục công an

đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa- ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây

giờ đầy hành khách mới: những cán bộ đi công tác và các

chiến sĩ Hồng quân.

    Trên ghế tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi.

Những bó báo đã choán hết chỗ.

    Ri-ta nói:

    - Không sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.

    Đoàn tàu chuyển bánh.

    Nhìn qua cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều

lúc nãy ngồi trên đống bao bì. Tiếng kêu của mụ vẳng lại:

"Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi ?".

    Ri-ta và Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo

ngăn cách họ với những người bên cạnh. Hai người giở

bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu

chuyện chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.

    Xe lửa bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá

nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô nghiến ken két và răng rắc,

toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường sắt nối.

Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh

dày đặc. Rồi đêm tối giăng màn đen lên những khoang

cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như bưng.

    Ri-ta mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết.

    Pa-ven ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng

xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng không có chỗ đặt lưng.

Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc

mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc

của Pa-ven, Ri-ta nghĩ thầm: "Cậu Pa-ven ngồi mãi thế

được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng ngại không

muốn làm phiền mình đây". Ri-ta nói giọng thương mến:

"Đồng chí Pa-ven, bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm

xuống mà nghỉ!"

    Pa-ven ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi

cặp giò đã mỏi tê.

    "Mai chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng

hay đánh nhau ạ". Cánh tay Ri-ta ôm chặt lấy người đồng

chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc Ri-ta áp vào

má mình.

    Đối với anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân,

người đồng chí cùng chung lý tưởng, giảng viên chính trị

của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ. Khi ở

gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều

đó, cho nên cái ôm của người bạn gái hôm nay mới làm

lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe thấy hơi thở mạnh

và đều của Ri-ta; đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần

gũi đó như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp

dẫn ấy. Cuối cùng, Pa-ven phải dùng hết ý chí để nén lòng

mình lại.

    Hình như đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm

cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua niềm sung sướng

trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất.

Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của

bọn Nga trắng đã cướp mất của Ri-ta cả hai người. Một

người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn. Còn người

kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.

    Chẳng mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven.

Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú lên mới đánh thức anh dậy.

    *

    Ri-ta khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra,

có ghi thêm mấy đoạn ngắn:

    "11 tháng Tám,

   Xong hội nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã

đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ U-cơ-ren. Mọi công

việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven

được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-

va được phái đi làm bí thư Huyện đoàn Pê-séc thì không

đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố tiếp tục

học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven

bận đi công tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm

trọng nên bên ấy phải ra lệnh động viên thường xuyên. Hôm

qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì bên

mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó

cũng rất cần thiết đối với bên ấy”.

"23 tháng Tám,

    Hôm nay, mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-

ra-tốp, Pa-ven và một người lạ nữa đứng ở cửa phòng

hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:

    - Ở đấy toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói:

"Các anh không được phép can thiệp vào quyền hạn sử

dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm

chủ, chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả". Mồm

nó nói thế đấy, các cậu ạ. Lũ ăn hại nó nấp ở những chỗ ấy

đấy chứ ở đâu.

    Tiếp đó, Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-

tốp nhìn thấy mình, liền máy Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy

mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi lỉnh đi

ngay. Chắc Pa-ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu

cho mà xem. Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay

nói tục".

"27 tháng Tám,

    Ban thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây

giờ thì chưa thể ghi mọi chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ

bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm qua,

bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe

chở lương thực xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không

ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những mầu chuyện vụn vặt.

Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng

Giác-ki lập công xã năm người".

    *

    Đang giữa trưa ở xưởng máy, người ta gọi Pa-ven đến

dây nói. Ri-ta báo cho anh biết tối nay Ri-ta rỗi rãi có thể

giảng cho xong vấn đề đang nói dở: "Nguyên nhân thất

bại của Công xã Pa-ri".

    Tối hôm ấy, Pa-ven đến gần ngôi nhà phố Cơ-rúc U-ni-

ve, ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng Ri-ta có ánh đèn. Pa-

ven chạy lên thang gác và như mọi lần, lấy nắm tay đập

cửa và không chờ trả lời, đã bước vào ngay.

    Một cán bộ quân đội đang nằm trên giường Ri-ta;

giường này các bạn Ri-ta không một ai được phép ngồi

lên dù chỉ một chốc lát. Khẩu súng ngắn, cái xà-cột và chiếc

mũ đính sao nằm trên bàn. Ri-ta ngồi bên cạnh, tay ôm chặt

lấy người đàn ông kia. Hai người đang nói chuyện gì với

nhau, sôi nổi lắm... Pa- ven vào, Ri-ta quay ra nhìn, mặt hớn

hở.

    Anh cán bộ quân đội gỡ tay Ri-ta ra và đứng dậy.

    Ri-ta bắt tay Pa-ven và giới thiệu:

    - Đây là…

    Người đàn ông đó bắt tay Pa-ven rất chặt và đỡ lời Ri-

ta:

    - Tôi là Đa-vít Uốt-chi-nô-vích.

    Ri-ta vừa cười vừa nói với Pa-ven:

    - Anh ấy đến bất ngờ quá. Như hòn ngói rơi xuống đầu

mình…

    Cái bắt tay của Pa-ven thì lạnh nhạt. Đôi mắt anh ngầm

nảy lửa. Anh còn kịp nhận ra trên tay áo cán bộ quân đội

của Đa-vit có bốn gạch.

    Ri-ta chưa nói, thì Pa-ven cướp lời ngay:

    - Tôi chạy đến báo cho Ri-ta biết là hôm nay tôi bận

tham gia dỡ gỗ ở ngoài bến. Để Ri-ta khỏi phải chờ tôi...

Hơn nữa, hôm nay Ri-ta lại có khách. Thôi, tôi đi kẻo anh

em đang đợi ở dưới chân thang.

    Pa-ven đến một cách đột ngột và cũng đột ngột biến đi

ngay. Tiếng chân anh chạy nhanh thoăn thoắt xuống cầu

thang. Cửa đóng lại kêu đánh rầm một cái. Rồi lại im

phăng phắc.

    Trước cái nhìn ngạc nhiên của Đa-vít, Ri-ta nói một

giọng không vững lòng lắm:

    - Chắc anh ấy có chuyện gì đây.

    …Dưới gầm cầu, chiếc đầu tàu thở hồng hộc, lồng

ngực rắn chắc của nó phun ra hàng đàn đom đóm loé vàng.

Vòng đom đóm muôn hình, muôn vẻ tung lên và tắt biến đi

trong khói cuộn.

    Pa-ven đứng dựa lưng vào lan can cầu, nhìn những đèn

hiệu nhiều màu nhấp nháy trên ngã ba đường. Anh nhắm

mắt lại.

    Anh tự mình mỉa mai hỏi mình:

    "Đồng chí Pa-ven ơi, dù thế nào đi nữa, không hiểu cớ

sao đồng chí lại thấy lòng đau đớn đến như thế khi biết Ri-

ta đã có chồng kia chứ? Có khi nào Ri- ta nói với đồng chí

là Ri-ta chưa chồng đâu? Mà dù có nói chăng nữa, thì đã

sao? Cớ sao đồng chí lại bực dọc? Thôi, xin đồng chí thân

mến, đồng chí đã chẳng cho là giữa hai người chỉ có tình

bạn, tình đồng chí cùng chung lý tưởng và chỉ có thế thôi

đấy ư? Thế thì cớ sao đồng chí lại...? Và nhỡ người đó

không phải là chồng Ri-ta? Đa-vít Uốt-chi-nô-vích có thể là

anh hay là chú Ri-ta… Nếu như thế thì hóa ra, chàng ngố ạ,

anh đã giận oan người ta. Rõ ràng đồng chí cũng chỉ là một

đứa nhỏ nhen như những đứa đàn ông khác. Có phải anh

Ri-ta hay không, chuyện đó cũng dễ biết thôi. Nhưng nếu là

anh hay là chú, thì đồng chí sẽ ăn nói với Ri-ta ra sao về

thái độ của mình? Không ! Từ nay trở đi, đừng có đến gặp

Ri-ta nữa!"

    (Uốt chi-nô-vích là tên họ của Ri-ta. Ở Liên Xô, cha con,

anh em, chú cháu, vợ chồng đều lấy một tên họ trùng nhau.

Nghe qua tên Đa- vít Uốt chi-nô-vích có thể hiểu là anh hay

chú, và cũng có thể là chồng, cho nên Pa-ven thắc mắc)

    Còi tàu rú lên, ngắt luồng ý nghĩ của Pa-ven. "Muộn rồi.

Nghĩ vẩn vơ mãi ! Đã đến giờ về !".

    *

    Ở xóm Xô-lô-men-ca (tên gọi khu công nhân đường sắt

ở) năm thanh niên lập nên một tiểu công xã. Xã viên gồm

có Giác-ki, Pa-ven, một thanh niên Tiệp tóc hoe, vui tính tên

là Cơ-la-vi-sếch, Ô-cu-nhép và đồng chí A-chu-khin, bí thư

chi đoàn đoạn đầu máy kiêm nhân viên Ban đặc biệt ngành

đường sắt; cách đây không lâu, đồng chí ấy còn là thợ đốt

lò ở xưởng trung tu đầu máy.

    Họ kiếm được một căn phòng, rồi ba ngày liền, cứ đi

làm về là họ lau chùi, quét tước, quét lại vôi. Tiếng xô xách

nước loảng xoảng ầm ĩ khiến lắm lúc hàng phố tưởng là

chữa cháy. Họ đóng phản nằm, lấy lá khô ngoài công viên

nhồi vào bao làm đệm. Sang đến ngày thứ tư thì họ treo lên

tường bức chân dung Pê- tơ-rốp-ski( Một cán bộ lâu năm

của Đảng hồi đó làm Chủ tịch toàn U-cơ-ren) và một bản

đồ lớn. Gian phòng bóng lộn, trắng tinh.

    Giữa hai cửa sổ gian phòng là giá xếp đầy sách. Hai

hòm gỗ không lót bìa dày thay nệm dùng làm ghế ngồi, hòm

nữa to hơn làm tủ. Giữa phòng có kê một bàn bi-a thật

rộng, do các xã viên lấy lưng ra khiêng đến: mặt bàn dạ lót

màu xanh đã bị bóc đi rồi, bàn ấy ban ngày dùng làm bàn

viết, ban đêm là giường ngủ của Cơ-la-vi-sếch. Tất cả của

riêng tây của mỗi người đều đem đến đây. Cơ-la-vi-sếch

tính rất tỉ mẩn, đã làm bản kiểm kê tài sản của công xã,

định treo lên tường, nhưng bị anh em phản đối rầm rầm lại

thôi. Trong phòng cái gì cũng thành của chung. Tiền lương

tháng, thực phẩm được cấp phát và cả những quà bà con

thân thích gửi cho đều đem chia đều. Chỉ có vũ khí thì được

coi là của riêng mà thôi. Các xã viên nhất trí quyết nghị: ai vi

phạm nội quy tài sản công cộng và bất tín với anh em thì bị

khai trừ ra khỏi công xã. Ô-cu-nhép và Cơ-la-vi-sếch còn

nèo ghi thêm: và bị đuổi ra khỏi nhà này.

    Hôm ăn mừng thành lập công xã, tất cả cán bộ Đoàn ở

khu phố công nhân đường sắt đều đến dự. Mượn hàng

xóm được một ấm pha chè gộc và cho ra hết cả số đường

dự trữ. Anh chị em làm xong tuần trà thì hát đồng ca vang

lên.

Thế gian này nước mắt tràn đầy

Đời chúng ta nhục nhằn, lao khổ.

Nhưng rồi nhất định sẽ đến ngày. . .

    Ta-li-a, nữ công nhân xưởng thuốc lá, chỉ huy ban đồng

ca. Khăn trùm sợi đỏ tuột ra bên đầu, chị có đôi mắt của trẻ

em tinh nghịch. Chưa ai được ghé sát nhìn gần vào cặp

mắt ấy. Cái cười của Ta-li-a làm ai cũng vui lây. Cô thợ làm

hộp này nhìn đời qua tuổi trẻ đang nở hoa, nhìn đời trên

bậc thang của tuổi mười tám. Tay Ta-li-a đánh nhịp vung

lên và điệp khúc vang như tiếng kèn đồng.

Bài ca ta bay xa, bay khắp bốn phương

Ngọn cờ ta phấp phới khắp thế gian,

Đấy là máu đào của ta rực cháy

In trên cờ đỏ thắm sáng chói...

   Khuya lắm họ mới chia tay ra về. Tiếng hát chia tay

vang lên rộn rã làm mất giấc hàng phố đang yên ngủ.

   Giác-ki choài tay ra với ống nghe dây nói. Trong phòng

đồng chí bí thư phụ trách này, anh chị em đoàn viên đứng

chật, chuyện ồn ào. Giác-ki phải kêu lên:

   - Các cậu ơi! Khẽ một chút, chẳng còn nghe thấy gì cả.

   Tiếng chuyện trò hạ thấp hẳn giọng xuống.

   - Tôi nghe đây. Đồng chí đấy à? Vâng, vâng. Ngay bây

giờ. Chương trình họp à? Vẫn vấn đề ấy: vấn đề dỡ củi

ngoài bến? Không, cậu ta không đi công tác đâu cả. Đang

ở đây. Có muốn gọi cậu ta không? Được chờ nhé!

   Giác-ki vẫy gọi Pa-ven:

   - Nữ đồng chí Ri-ta Uốt-chi-nô-vích hỏi cậu. Và anh

chuyển ống nghe cho Pa-ven.

    - Ri-ta cứ tưởng là Pa-ven không có đấy. May quá, tối

nay Ri-ta không bận. Đến nhé. Hôm trước anh Ri-ta đi qua

rẽ vào chơi, anh em đã hai năm nay mới gặp nhau đấy.

    Hóa ra là anh Ri-ta!

    Pa-ven không còn để tai nghe Ri-ta nói những gì nữa.

Anh nghĩ đến buổi tối hôm ấy, nghĩ đến điều mà lòng anh đã

quyết định lúc đứng trên cầu. Ừ, ngay hôm nay, phải đến

gặp Ri-ta và tuyên bố cắt đứt. Tình yêu bắt phải nghĩ ngợi

nhiều và gây ra khá là đau đớn cho lòng. Lúc này không

phải là lúc nghĩ đến yêu.

    Tiếng bên kia ống nói:

    - Sao thế ? Pa-ven không nghe rõ Ri-ta nói phải không?

    - Có đang nghe. Đồng ý. Họp xong sẽ đến.

    Nói rồi, bỏ ống nói xuống.

    *

    Pa-ven nhìn thẳng vào mắt bạn, tay bám chặt mép chiếc

bàn gỗ sên và nói:

    - Chắc chắn là tôi không thể tiếp tục đến với Ri- ta

được nữa đâu.

    Hàng lông mi dày của người bạn gái đập đập vào nhau.

Chiếc bút chì trên tay đang lướt trên trang giấy bỗng ngừng

lại và ngả xuống nằm yên trên cuốn vở để mở.

    - Sao thế ?

    - Thời giờ mỗi lúc một khó thu xếp quá. Ri-ta cũng biết

đấy: càng ngày công tác càng gay. Bỏ học cũng đáng tiếc

lắm, nhưng đành phải gác lại...

    Pa-ven cảm thấy lời nói về cuối mình thiếu bề chắc

chắn. Anh nghĩ thầm:

    "Sao lại nói quanh thế Ra mi chẳng có can đảm lấy tay

đấm thẳng một cái vào trái tim mi ư?"

     Nghĩ thế, Pa-ven nói tiếp, giọng quả quyết hơn:

     - Ngoài ra, từ lâu đã định nói với Ri-ta là Pa-ven nghe

Ri-ta giảng thật ra không hiểu lắm đâu. Khi học với Xê-gan

thì trong đầu nhớ được hết. Còn với Ri-ta thì Pa-ven học

không có kết quả. Cứ mỗi lần nghe Ri-ta giảng xong, Pa-

ven lại phải tìm đến hỏi đồng chí Tô-ca-rếp. Đầu óc Pa-ven

chẳng chịu làm việc nữa. Ri-ta nên tìm một người học trò

vào sáng dạ mà giúp thì hơn.

     Và Pa-ven quay đi để tránh cái nhìn chằm chằm của

bạn. Anh nói thêm, nhất quyết:

     - Cho nên, chúng ta không nên tiếp tục làm mất thì giờ

chung của cả hai người.

     Pa-ven đứng dậy, chân nhẹ nhàng đẩy lùi chiếc ghế,

mắt nhìn xuống đầu Ri-ta đang cúi gục; ánh đèn soi rõ mặt

Ri-ta tái nhợt đi. Pa-ven đội mũ cát- két lên đầu:

     - Thôi, từ biệt đồng chí Ri-ta nhớ. Tiếc rằng lâu nay đã

làm phiền Ri-ta. Đáng lẽ phải nói với Ri-ta ngay từ lâu rồi.

Đấy là lỗi của Pa-ven.

     Ri-ta đưa tay ra bắt. Vẻ lạnh nhạt không ngờ của Pa-

ven làm chị lặng đi. Chị chỉ còn nói được mấy tiếng:

     - Pa-ven ạ, Ri-ta không oán trách gì Pa-ven hết. Ri-ta đã

không làm cho Pa-ven hiểu Ri-ta, thì Ri-ta đành phải chịu

lấy điều xảy ra hôm nay.

     Chân Pa-ven bước ra nặng nề. Anh lặng lẽ khép cửa

lại, rồi đi ra. Đến cổng, anh đứng lại suy nghĩ:

     "Có lẽ nên trở lại chăng? Nói cho Ri-ta hiểu... Nói để

làm gì cơ chứ? Để nhận một lời khinh bỉ đốp vào mặt và lại

bước ra cổng như thế này ư? Không!"

    Trên các ngả đường sắt vào nhà kho đoạn đầu máy,

những toa tàu xơ xác, những đầu tàu lạnh ngắt nằm lổng

chổng trông y như những bãi tha ma. Gió lùa vào thổi bay

mù mạt cưa trong nhà kho chứa gỗ từ nay bỏ trống không.

    Bọn phỉ của tên O-rơ-lích đang như thú dữ rình mồi

quanh thị trấn. Chúng men theo những khe sâu, men theo

các lối mòn trong rừng. Ban ngày lũ phỉ nghỉ chân trong

những bản lân cận, náu mình trong nhà của bọn chủ trại

nuôi ong giàu có, đêm đến chúng mò ra các ngả đường

sắt, lấy nanh vuốt cào cấu bóc đi từng mảng đường ray; khi

đã làm xong cái trò ghê tởm ấy, chúng lại bò về thu mình

trong sào huyệt.

    Thường có những chuyến tàu bị lăn nhào xuống chân

dốc nền đường, những toa xe bật tung lên vỡ tan tành, đè

bẹp gí những hành khách còn đang ngon giấc; những hạt

lúa mì quý đổ vãi ra mặt đường, trộn lẫn với máu và đất.

    Bọn phỉ tấn công những thị trấn thanh bình trong tổng.

Đàn gà mái hoảng sợ, kêu quang quác, chạy túa ra khắp

ngả. Một tiếng súng nổ vang trước ngôi nhà trắng của trụ

sở Xô-viết tổng, nghe như những cành khô kêu răng rắc

dưới chân người. Bọn phỉ cưỡi những con ngựa béo tốt,

chạy sục sạo khắp bản làng, gặp người là chém ngay.

Chúng vung kiếm vun vút, chém như bổ củi. Súng nổ thưa

thớt: chúng còn để dành đạn.

    Lũ phỉ hiện ra rất nhanh, rồi cũng biến đi rất nhanh. Bọn

chúng có tai mắt rình mò khắp nơi. Những cặp mắt cú vọ ấy

đã nhìn như xoáy vào trụ sở Xô-viết tổng mà lão thầy tu và

bọn cu-lắc thường rình mò. Có những đường dây liên lạc

vô hình từ đấy đến tận đám rừng rậm. Đạn dược, những

súc thịt lợn tươi, những chai rượu mạnh xanh xanh đều

được lén lút chở vào đấy. Cả tin tức cũng thậm thụt thì thầm

truyền đến tai những tên tiểu đầu lĩnh, rồi qua một mạng

lưới thông tin phức tạp hơn, đến tận tai tên trùm O-rơ-lích.

    Đám phỉ này tất cả chỉ gồm vẻn vẹn độ hai ba trăm tay

chuyên môn chặt đầu người, nhưng chia ra đến mấy toán

hoạt động cùng một lúc ở hai ba huyện. Ta vẫn chưa tóm

được chúng vì không sao theo dõi được chúng. Ban đêm,

nó làm phỉ, ban ngày nó lại khoác áo nông dân hiền lành,

loay hoay làm lụng ở sân, cho ngựa ăn và kéo tẩu thuốc.

Đứng trước thềm nhà chúng nhếch mép cười thầm, đưa

mắt lấm lét nhìn theo những đội kỵ binh tuần tra đi lùng dõi

chúng.

    Pu-dư-rếp-ski lâu nay mất cả nghỉ, mất cả ngủ: đồng chí

đã chỉ huy cả trung đoàn của mình phi ngựa lùng khắp ba

huyện. Đồng chí không biết mệt, kiên tâm lùng riết lũ giặc,

đôi khi đã nắm được đuôi của bọn chúng.

    Trong vòng một tháng tên phỉ O-rơ-lích phải rút bọn lâu

la của nó ra khỏi hai huyện. Nó bị ép trong một vòng vây

khép chặt đang giãy giụa.

    Trong thành phố, dòng đời cứ trôi xuôi như thường lệ.

Khắp năm khu chợ người lúc nhúc đông nghìn nghịt, tiếng

huyên náo rào rào, ầm ĩ. Hai xu hướng ngự trị ở nơi đây: kẻ

bán muốn bán giá cắt cổ, người mua muốn mua giá hời

nhất. Bọn bịp bợm đủ loại tha hồ mà trổ tài đánh xoáy. Có

đến hàng trăm dứa lùi lùi rình mò như một đàn rệp, cử chỉ

nhanh thoăn thoắt, cứ nhìn mắt chúng, người ta có thể biết

được đủ mọi tính tình, trừ bản chất làm ăn lương thiện. Cả

lũ cặn bã của thành phố đều tụ tập ở đây như bu vào một

đống phân với mục đích duy nhất: "xoay" của những ai lớ

ngớ mới đến. Những chuyến tàu thưa chạy đến như khạc

ra bên đường hàng đám người tay xách, lưng đeo nặng trĩu

những bao với bị. Bọn họ đều đi đến các ngả chợ này.

    Chiều tối, chợ nào cũng vắng tanh. Những phố buôn

bán, những dãy cửa hàng tối om, trông chẳng khác gì

những phố hoang. Họa hoằn mới có những tay cứng bóng

vía ban đêm dám mạo hiểm đi vào khu phố chết này, nơi

đây mỗi căn phố lặng ngắt đều như có quân bất lương nấp

sẵn và sắp sửa xồ ra hăm dọa. Đêm đêm lại hay có tiếng

súng nổ đánh đẹt một cái nghe như tiếng búa đập vào

mảnh tôn, rồi có tiếng người kêu ú ớ, máu sặc trong họng.

Và chờ cho đến lúc mấy anh công an ở các đồn gần đấy

cùng chạy đến (họ không dám đi từng người một) thì ngoài

cái xác người còn đang giãy chết ra chẳng còn thấy bóng

một ai. Bọn giết người đã đi xa rồi và tiếng nổ làm những

người còn đi chơi đêm lánh cho xa khu phố chợ. Phía

trước là rạp chiếu bóng "Ô-ri-ông" ánh điện dãi trên đường

phố và vỉa hè, công chúng đang chen chúc nhau ở đấy.

    Trong rạp máy chiếu phim lẹt xẹt. Trên màn ảnh, những

cặp tình nhân bất hạnh giết lẫn nhau, và mỗi lần phim đứt,

người xem lại la ó dữ dội.

    Ở khu trung tâm và ở các ngoại ô, cuộc sống xem ra

như không đi chệch vết xe cũ, và ngay ở Tỉnh ủy, nơi đầu

não của chính quyền cách mạng này, mọi sự vẫn trôi theo

dòng thường lệ. Song đấy chỉ là vẻ yên tĩnh bề ngoài.

    Cơn bão táp đang chín mùi, sắp nổ ra giữa thành phố.

    Có nhiều kẻ biết cơn bão táp sắp đến: chúng là những

kẻ từ các nơi kéo lên tỉnh, giấu không kín khẩu súng trường

trong tà áo dài nông dân. Chúng còn là những đứa giả

dạng làm bọn con buôn đầu cơ lương thực ngồi trên mái

các toa xe lửa đến đây, đáng lẽ đi tới chợ, lại mang những

bao bị ấy đến những địa chỉ mà chúng nhớ như in trong óc.

    Bọn chúng thì biết rõ, còn các xóm thợ và ngay cả

những người bôn-sê-vích thì lại không hay gì về cơn giông

tố đang kéo đến gần.

    Trong thành phố, chỉ có năm người bôn-sê-vích là nắm

vững tình hình chuẩn bị làm loạn của lũ phản động.

    Tàn quân Pết-lu-ra bị Hồng quân đuổi chạy sang nước

Ba Lan trắng đã câu kết chặt chẽ với các phái đoàn nước

ngoài ở Vác-xô-vi, chuẩn bị tham gia vào cuộc nổi loạn đã

dự định.

    Số tàn dư của các trung đoàn Pết-lu-ra được bí mật lập

thành đội xung kích.

    Bọn đầu sỏ phiến loạn của chúng cũng có bộ phận ở

Sê-pê-tốp ca nữa, gồm bốn mươi bảy tên, phần lớn là

những tên tích cực phản cách mạng mà trước đây ủy ban

đặc biệt địa phương vì cả tin, nên đã tha bổng chúng.

    Tổ chức này đo lão cố Vát-xi-li, lão chuẩn úy Vin- ních

và lão võ quan của bọn Pết-lu-ra là Cu-mên-cơ cầm đầu.

Hai đứa con gái lão cố, em và bố tên Vin- ních và cả lão

Xa-mô-tư-nha đã len lỏi được vào ủy ban hành chính sở tại

làm chân thư ký chép công văn, tiến hành do thám lượm tin

cho chúng.

    Bọn phiến loạn đã quyết định trong đêm khởi sự sẽ

ném lựu đạn vào phân đồn công an biên phòng đặc biệt,

đánh tháo tù và nếu có thể được thì chiếm nhà ga.

    Giữa khu phố lớn, trung tâm của cuộc nổi loạn sắp tới

chúng đang hết sức bí mật tập trung bọn sĩ quan lại. Trong

khi đó thì bầy thổ phỉ cũng tụ tập ở những khu rừng lân cận

ngoại ô. Từ những khu rừng ấy, chúng phái những tay chân

tin cậy của chúng sang Ru-ma-ni và đến tận nơi báo cáo

với đích thân Pết-lu-ra.

    *

    Giu-khơ-rai làm việc ở ủy ban đặc biệt quân khu chống

phản cách mạng. Đêm này nữa là sáu đêm ròng anh thức

trắng chưa hề nhắm mắt lấy một phút. Anh là một trong năm

người bôn- sê-vích biết rõ mọi chuyện. Giu-khơ-rai có cảm

giác như người đi săn đã dõi thấy vết chân con thú dữ

giữa lúc nó sắp nhảy xổ ra cắn.

    (Ủy ban đặc biệt, một cơ quan vừa là công an, vừa là

tình báo còn được gọi là công an đặc biệt nữa)

    Song biết mà không thể kêu lên, không thể báo động

được. Phải đập chết con ác thú. Có đập chết tươi nó, mới

có thể yên ổn làm ăn được, đi đâu khỏi phải nơm nớp nhìn

từng bụi rậm. Cần nhất đừng làm cho con thú dữ kia kinh

động. Trong trận tử chiến này, chiến sĩ phải có trí sáng suốt,

lòng kiên tĩnh và cánh tay vững mạnh mới đảm bảo được

thắng lợi.

    Ngày ấy, giờ ấy sắp đến nơi rồi.

    Tại một nơi nào đó ở thành phố, trong ngóc ngách của

tổ chức bí mật của chúng, bọn chúng đã họp kín với nhau

quyết định: đêm mai.

    Nhưng năm người bôn-sê-vích biết chuyện đã trù tính

chặn trước. Không, phải ra tay ngay hôm nay, ngay đêm

nay.

    Lúc tối, một chuyến xe lửa bọc sắt lặng lẽ không kéo

còi, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, và xe vừa ra khỏi, cổng lớn

nhà kho khép ngay lại, im ắng như không.

    Các đường dây điện báo trực tiếp hối hả truyền những

bức mật điện; những hàng chữ số đó bay đến đâu là bộ

đội biên phòng ở đấy quên cả ngủ, tróc cho tiệt ổ thú dữ.

    A-kim gọi dây nói cho Giác-ki.

    - Các hội nghị chi bộ đã triệu tập xong chưa? Thế nào?

Tốt. Đồng chí cùng với đồng chí bí thư Đảng ủy khu phố lại

họp ngay nhớ. Vấn đề tiếp tế củi thế mà trầm trọng hơn ta

tưởng đấy. Đến đây ta sẽ bàn - Giác-ki nghe xong câu nói

nhanh, với giọng quả quyết của A-kim, vừa đặt ống nói

xuống vừa càu nhàu:

    - Vẫn vấn đề củi. Còn là điên đầu với nó.

    Hai người bí thư Đảng và Đoàn từ trong chiếc xe của

anh lái Lít-kê bước ra. Lên đến tầng hai, họ hiểu ngay

không phải vấn đề củi.

    Một khẩu súng máy "Mác-xim" nằm trên bàn giấy đồng

chí phụ trách. Các chiến sĩ súng máy của đơn vị đặc công

đang tíu tít chung quanh. Ngoài hành lang, những đảng viên

và đoàn viên trung kiên của thành phố lặng lẽ đứng gác.

Trong phòng làm việc của đồng chí bí thư Tỉnh ủy, cuộc họp

bất thường của ban thường vụ sắp sửa kết thúc.

    Đường dây từ ngoài phố mắc qua cửa sổ con nối với

hai máy nói kiểu dùng khi hành quân.

    Người ta thì thầm nói chuyện với nhau. Giác-ki gặp A-

kim, Ri-ta và Mi-khai-lô ở trong phòng. Ri-ta mặc quân

phục, như hồi còn làm chính trị viên đại đội: mũ Bu-đi-on-ny,

váy ka-ki, thắt lưng đeo súng "Mô-de" nặng trĩu.

    Giác-ki sửng sốt hỏi:

     - Thế này nghĩa là thế nào?

     Ri-ta nói cho anh biết:

     - Tập báo động đấy, Giác-ki ạ. Chốc nữa, tất cả sẽ đến

khu phố đồng chí. Có hiệu lệnh là tập hợp ở Trường Lục

quân thứ năm. Anh chị em họp chi bộ xong thì cứ đến thẳng

đấy ngay. Chủ yếu là tập hợp thế nào cho không ai để ý

đến mình.

     Im lặng bao trùm khu rừng "Học sinh quân".

     ( Thời trước ở đây có trường "Học sinh quân" của chính

phủ Nga hoàng nên gọi là rừng "Học sinh quân")

     Hàng cây sên đại thụ đứng yên không lay động. Mặt

nước ao tù phủ đầy những mảng bèo đang yên ngủ. Những

lối đi rộng kín cỏ. Giữa rừng, sau bức tường trắng cao là

những tòa nhà của trường "Học sinh quân" trước kia, ngày

nay là Trường Lục quân thứ năm của Hồng quân. Đêm đã

khuya. Từng nhà trên không thắp đèn sáng. Đứng ngoài

trông vào có vẻ tịch mịch lắm. Ai qua đây cũng tưởng trong

mấy tòa nhà này mọi người đang ngủ say. Song nếu ngủ thì

tại sao hai cánh cửa đúc bằng gang nặng trình trịch lại mở

toang ra và ngoài của có hai đống đứng lù lù như hai con

cóc khổng lồ thế ? Người ở khắp các ngả trong khu công

nhân đường sắt kéo đến đều biết rằng có báo động đêm

thì trong trường chẳng ai ngủ đâu. Từ những cuộc họp chi

bộ Đảng, sau khi được nghe chỉ thị vắn tắt, họ liền đi thẳng

đến đây, lẳng lặng, không trò chuyện. Họ đi từng người một

hay từng đội, nhưng không quá ba người, trong túi người

nào cũng có chứng minh thư trên đề "Đảng cộng sản bôn-

sê-vích" hoặc "Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ- ren". Có

chìa một trong hai giấy chứng nhận đó mới qua được hai

cánh cửa đúc bằng gang này.

    Trong phòng họp lớn, người đã đông. Gian phòng này

thắp đèn sáng. Vải bạt che kín các cửa sổ. Những người

bôn-sê-vích họp mặt ở đây nói đùa nhau rằng cách tập báo

động này có vẻ công thức. Họ thản nhiên hút thuốc như

không có chuyện gì xảy ra. Không ai cảm thấy có biến cả.

Ai cũng tưởng tập hợp lại như thế chỉ là để kiểm tra tinh

thần kỷ luật của các đơn vị công tác đặc biệt mà thôi. Song

những cựu chiến binh dày kinh nghiệm hơn, vừa bước

chân vào cổng trường Lục quân, đã cảm thấy ngay có một

cái gì hoàn toàn không phải là tập báo động cả. Mọi việc

đều tiến hành một cách quá lặng lẽ. Theo tiếng hô khe khẽ,

từng trung đội học viên sĩ quan im lặng xếp thành hàng ngũ

, và súng máy xách tay, họ tiến ra ngoài đường. Ở ngoài

nhìn vào, không một ngôi nhà nào có chút ánh đèn.

    Pa-ven đến gần Đu-ba-va, khẽ hỏi:

    - Có gì nghiêm trọng không, Đu-ba-va?

    Đu-ba-va đang ngồi ở thành cửa sổ, cạnh một cô con

gái mà Pa-ven chỉ mới thoáng gặp ở nhà Giác-ki hôm kia.

Nghe hỏi, Đu-ba-va vỗ vai Pa-ven nói đùa:

    - Thế ra cậu lo mất hồn rồi à? Chẳng ngại gì đâu! Rồi

chúng mình sẽ dạy cậu đánh nhau. À, cậu không quen cô

này hay sao? - Đu-ba-va hất đầu chỉ về phía thiếu nữ kia: -

Đây là cô An-na. Họ gì, mình không biết, còn chức vụ: phụ

trách cơ sở tuyên truyền.

    Thiếu nữ nghe lời giới thiệu tinh nghịch của Đu- ba-va,

đưa mắt nhìn kỹ Pa-ven. Cô vuốt lại mái tóc tuột ra ngoài

khăn quàng màu hoa cà.

    Cặp mắt cô bạn mới bắt gặp mắt Pa-ven. Nhìn nhau

không nói mấy giây. Đôi mắt cô bạn đen xanh, ánh lên, hơi

kiêu kỳ dưới hàng mi dày mượt. Pa-ven quay sang nhìn

Đu-ba-va. Cảm thấy mặt mình đỏ lên, Pa- ven bực mình cau

mày và cố nhếch mép mỉm cười, hỏi cô bạn mới:

    - Vậy thì trong hai đồng chí, ai là người đang tuyên

truyền thuyết phục ai?

    Giữa lúc ấy, trong phòng họp có tiếng ồn ào. Đại đội

trưởng trèo lên ghế, hô lớn:

    - Các đảng viên cộng sản thuộc đại đội thứ nhất! Sắp

đội ngũ trong phòng này ! Mau lên, các đồng chí, mau lên !

    Vừa lúc ấy, Giu-khơ-rai, đồng chí chủ tịch Ban chấp

hành tỉnh và A-kim bước vào. Cả ba vừa mới tới đây. Gian

phòng chật ních người đứng sắp thành hàng. Đồng chí chủ

tịch bước lên chỗ đặt khẩu súng máy thường ngày dùng để

tập, giơ tay lên, cất tiếng nói:

    - Các đồng chí, hôm nay chúng ta họp nhau ở đây vì một

công việc rất khẩn trương. Việc đó đòi hỏi một tinh thần

trách nhiệm cao. Bây giờ thì tôi có thể nói ra điều mà hôm

qua chưa thể nói được, vì đấy là một bí mật quân sự quan

trọng. Đêm mai, trong thành phố này và các thành phố khác

của U-cơ-ren sẽ nổ ra cuộc nổi loạn của bọn phản cách

mạng. Thành phố đã đầy rẫy bọn võ quan trắng. Lũ phỉ đã

tập trung quanh thành. Một bộ phận của bọn phiến loạn ấy

đã chui vào tiểu đoàn thiết giáp của ta làm chân lái xe. Ủy

ban đặc biệt của ta đã khám phá ra vụ này và hôm nay,

chúng tôi huy động tất cả tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên

cộng sản tới đây để vũ trang đi dẹp phiến loạn. Tiểu đoàn

cộng sản thứ nhất và thứ hai sẽ cùng phối hợp hành động

với các đơn vị học sinh sĩ quan và Ban đặc biệt đã từng

quen chiến đấu. Học viên sĩ quan đã đi trước rồi. Giờ đến

lượt các đồng chí. Các đồng chí có mười lăm phút để nhận

vũ khí và xếp đội ngũ cho xong. Đồng chí Giu-khơ-rai đây

sẽ chỉ huy chiến đấu. Các đội trưởng sẽ nhận chỉ thị cụ thể

ở đồng chí Giu-khơ-rai. Tôi thiết tưởng không cần nói nhiều

với tiểu đoàn cộng sản ta đây về tính chất nghiêm trọng của

giờ phút này. Cuộc phiến loạn sắp nổ ngày mai, chúng ta

phải bóp chết nó ngay hôm nay.

    Mười lăm phút sau, toàn tiểu đoàn đã vũ trang đầy đủ

đội ngũ chỉnh tề đứng trong sân trường. Giu-khơ-rai đưa

mắt nhìn những hàng người đứng im.

    Đứng trước, cách hàng ba bước, hai người nai nịt gọn

gàng: tiểu đoàn trưởng Mê-nhay-lô, vóc người to lớn, vốn

làm nghề thợ đúc ở U-ran, và bên cạnh là A-kim làm chính

ủy. Bên trái, những trung đội thuộc đại đội thứ nhất. Trước

đại đội hai bước là đồng chí đại đội trưởng và đồng chí

chính trị viên. Sau lưng họ, những hàng quân im lặng của

tiểu đoàn cộng sản. Ba trăm tay súng.

    Giu-khơ-rai ra hiệu lệnh:

    - Đến giờ rồi! Tiến lên, bước!

    Ba trăm chiến sĩ tiến bước vào các ngả phố vắng tanh.

    Thành phố đang ngủ yên.

    Tiểu đoàn dừng chân tại phố Lơ-vốp, ngay chỗ đối diện

với phố Đi-cai. Bắt đầu hành động từ địa điểm này.

    Các khối nhà đều bị bao vây một cách lặng lẽ. Cơ quan

tham mưu đóng ngay trên thềm một cửa hiệu. Một chiếc ô-

tô từ khu trung tâm đổ xuống, xuôi dọc con đường Lơ-vốp,

đèn pha rọi lên hè phố. Chiếc xe đỗ xịch trước cơ quan

tham mưu.

     Anh thanh niên Guy-gô, con trai Lít-kê, lẩn này lái xe

đưa cha tới. Cha anh là tư lệnh đơn vị bảo vệ thành phố.

Ông nhảy xuống đường nói với con mấy câu vắn tắt bằng

tiếng Lét-tô-ni. Chiếc xe lại nhảy chồm lên phía trước và

trong nháy mắt đã biến vào lối rẽ sang phố Đơ-ni-tơ-rép.

Guy-gô mắt nhìn không chớp, hai tay như gắn chặt vào tay

lái, ngoặt sang phải, ngoặt sang trái.

     Cái tính lái xe táo bạo của Guy-gô thế mà cũng có lúc

được việc! Chẳng ai còn có ý muốn bắt phạt giam anh hai

đêm vì cái tội cầm lái điên cuồng này nữa.

     Và Guy-gô bay khắp phố phường như một trận cuồng

phong.

     Guy-gô đưa Giu-khơ-rai thoắt từ đầu này thành phố,

trong nháy mắt đã vụt đến đầu kia thành phố, làm cho Giu-

khơ-rai cũng phải khen:

     - Guy-gô ạ, nếu đêm nay không chẹt phải ai thì mai cậu

sẽ được thưởng một chiếc đồng hồ vàng.

     Guy-gô mừng quýnh, đáp lại bằng giọng Lét-tô- ni lơ lớ

của anh:

     - Em thì cứ tưởng là em đến phải ngồi tù mười ngày vì

cái tội lái bạt mạng này mất.

     Những đòn đầu tiên nhằm giáng vào tổng hành dinh bọn

phiến loạn. Những tên bị bắt và những tài liệu thu được

đưa ngay đến Ban đặc biệt.

     Trên phố Di-cai, ở ngõ cũng mang cái tên lạ lùng ấy tại

nhà số 1 có một đứa tên là Xuy-béc. Căn nhà nó ở có cửa

sổ nhìn ra một khu vườn, vườn này chỉ cách có bức tường

ngăn với ngôi nhà trước kia là nhà tu kín. Lúc quân ta đến

thì căn nhà không có ai ở đấy. Láng giềng nói là hôm ấy

Xuy-béc không về nhà. Khám trong nhà thì thấy có một hòm

lựu đạn cùng với bản danh sách có kèm địa chỉ. Đồng chí

Lít-kê hạ lệnh phục kích sẵn ở những địa chỉ ấy, còn mình

thì đứng lại bên bàn một phút xét qua những tài liệu tìm

được.

    Người đứng gác ở trong công viên là một học viên sĩ

quan trẻ tuổi. Cậu ta trông thấy rõ cửa sổ có ánh sáng.

Đứng ở trong góc này, có một mình thôi, chẳng thú tí nào;

cậu thấy ngài ngại. Người ta ra lệnh cho cậu gác bức

tường bao phủ khu vườn. Nhưng từ chỗ tường đến chỗ

ánh sáng yên ổn ở cửa sổ kia còn xa lắm. Hơn nữa, mặt

trăng quái ác kia lại cứ bị mây che mờ luôn. Trong bóng

tối, bụi cây nào cũng như có người trong ấy. Cậu học viên

sĩ quan lấy lưỡi lê dò dẫm quanh mình: chẳng có gì cả.

    "Sao lại đặt mình gác ở đây? Tường cao thế thì ai mà

leo vào được kia chứ. Thôi mình lại gần cửa sổ ngó vào

xem cái đã !". Nghĩ thế, cậu ta nhìn đầu tường cao chót vót

một lần nữa, rồi bước khỏi góc tối sặc mùi ẩm mốc ấy.

Cậu dừng lại bên cửa sổ một lát. Đồng chí Lít-kê thu nhặt

nhanh những giấy tờ và định bước ra khỏi phòng. Giữa lúc

đó trên đầu tường hiện ra một bóng đen. Bóng đen đó từ

trên tường nhìn thấy rõ người đứng gác trước cửa sổ và

cả người đang đứng ở trong phòng. Nhẹn như một con

mèo, nó chuyền sang một ngọn cây rồi bò xuống đất, rón

rén đến chỗ anh lính gác, tay nó vung lên và anh học viên sĩ

quan quỵ xuống. Lưỡi đoản kiếm cắm phập vào cổ người

gác lút đến tận cán.

    Tiếng súng nổ giữa khu vườn đập vào tai các chiến sĩ

đang vây quanh khu phố như một luồng điện giật.

     Sáu người lộp cộp chạy đến.

     Đồng chí Lít-kê đã chết, xác ngã trong chiếc ghế bành,

đầu đẫm máu gục trên bàn. Kính cửa sổ vỡ toang. Kẻ địch

không có thời giờ lấy lại tài liệu.

     Tiếng nổ tới tấp vang lên ở chân tường khu nhà tu kín.

Hung thủ đã nhảy ra phố và chuồn về khoảng đất trống ở

đường Lu-ki-an, vừa chạy hắn vừa bắn trở lại. Nhưng thoát

sao được: một viên đạn của ta đã bắn theo trúng.

     Khám xét suốt đêm. Hàng trăm người không có tên

trong danh sách hộ khẩu, nhưng có vũ khí và những tài liệu

khả nghi trong người, đã bị giải đến Ban đặc biệt, ở đây có

bộ phận chuyên môn tra xét.

     Ở một vài chỗ bọn phiến loạn đã dùng vũ trang kháng

cự. Ở phố Gi-liên, đồng chí An-tô-sa bị chúng bắn chết

giữa lúc ta đang khám xét một nhà.

     Tiểu đoàn Xô-lô-men-ca đêm ấy mất đi năm chiến sĩ.

Ban đặc biệt mất đồng chí Lit-kê, lão đồng chí bôn-sê-vích,

người lính gác trung thành và mẫn cán của nước cộng hòa.

     Âm mưu phiến loạn đã bị chặn đứng.

     Cũng đêm ấy Ở Sê-pê-tốp-ca, lão cố Vát-xi-li, hai con

gái và cả bè lũ nhà hắn đã bị bắt.

     Tình thế nguy ngập đã dịu dần.

     Song một kẻ thù mới lại đe dọa thành phố : thiếu củi,

đường xe lửa bị tê liệt, và tiếp sau đó là giặc đói và giặc

rét.

     Bánh mì và củi sẽ quyết định tất cả.

CHƯƠNG II

    Giu-khơ-rai trầm ngâm suy nghĩ; anh rút tẩu thuốc lá

đang ngậm ở miệng ra và khẽ lấy ngón tay sờ vào tàn

thuốc. Tẩu đã tắt ngóm.

    Chừng mười điếu thuốc lá tỏa khói xám, cuộn khúc trên

cao gần những ngọn đèn trần bóng mờ, lượn trên chiếc

ghế bành của đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh. Nét mặt

những người ngồi quanh bàn trong góc phòng làm việc

trông chỉ thấy lờ mờ như bị một làn sương nhẹ bao phủ.

    Tô-ca-rếp ngồi cạnh đồng chí chủ tịch Ban chấp hành,

ngực tì vào bàn. Ông già bứt chòm râu, cử chỉ đầy vẻ bực

tức. Chốc chốc Tô-ca-rếp lại đưa mắt liếc nhìn một tên hói

trán lùn tịt: tên này giọng the thé đang nói liến thoắng hàng

tràng những câu rỗng tuếch như trứng đã mút hết lòng.

    A-kim bắt gặp cái liếc mắt của người thợ nguội già Tô-

ca-rếp, cái nhìn đó làm anh nhớ lại thời thơ ấu: hồi đó nhà

bố mẹ anh có một con gà chọi, anh thường gọi đùa là "con

Móc mắt". Trước khi nhảy xổ vào đối thủ, con gà chọi ấy

cũng nhìn như kiểu Tô-ca-rếp đang nhìn bây giờ.

    Cuộc họp tỉnh ủy đã kéo dài hơn một tiếng rồi. Tên hói

trán là chủ tịch ủy ban vận chuyển gỗ củi. Hắn vừa lấy

những ngón tay rất nhẹn lật lật tập giấy, vừa nói thao thao:

    - Chính vì những lý do khách quan ấy mà quyết nghị của

tỉnh ủy và của cục quản lý đường sắt không thể thực hiện

được. Tôi xin nhắc lại: dù hạn cho một tháng nữa, chúng tôi

cũng không thể cung cấp được hơn bốn trăm thước khối

củi gỗ. Còn con số mười tám vạn thước khối mà các đồng

chí ấn định thì là... - Tên hói trán nghĩ để tìm ra tiếng muốn

nói. - Thì là chuyện không tưởng! - Nói xong hắn mím cái

miệng nhỏ xíu mắm môi lại, vẻ bực tức.

    Im lặng thấy càng kéo dài.

    Giu-khơ-rai lấy móng tay gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi ra.

Giọng khàn khàn trong cổ họng Tô-ca-rếp phá tan không

khí im lặng:

    - Cần quái gì phải nhai đi nhai lại mãi như thế. Anh bảo

rằng ở ủy ban vận chuyển gỗ của anh trước đây không sẵn

củi, giờ cũng không có nốt và sau này các anh cũng không

đào đâu ra được . . . Có phải anh nói thế không?

    Tên hói trán nhún vai:

    - Xin lỗi đồng chí, củi thì chúng tôi đã trữ sẵn, chỉ phải

cái không có xe chở đi. . . - Hắn ho lên một tiếng, lấy khăn

tay kẻ ô vuông ra lau cái trán bóng. Lau xong, bàn tay lần

mãi không thấy túi áo đâu, hắn bực mình nhét cái khăn vào

cặp giấy.

    Đê nhếch-cô từ góc phòng lên tiếng:

    - Thế anh đã tìm cách gì để chở củi chưa? Vì từ khi bọn

phụ trách chuyên môn dính vào cuộc âm mưu phiến loạn bị

bắt đến nay kể đã lâu rồi còn gì!

    Tên hói trán quay lại phía Đê-nhếch-cô:.

    - Tôi đã ba lần báo cáo với cục đường sắt là không có

phương tiện vận tải thì không làm ăn gì được...

    Tô-ca-rếp ngắt lời hắn:

    - Cái đó chúng tôi đều đã nghe lắp đi lắp lại mãi rồi -

Tô-ca-rếp hằn học nhìn hắn, giọng bực tức ra mặt - Thế ra

anh cho chúng tôi là đồ ngu cả hay sao?

    Câu hỏi ấy làm cho tên hói trán thấy lạnh cả gáy.

    Lần này hắn hạ thấp giọng nói khẽ:

    - Tôi không chịu trách nhiệm về những hành động của

bọn phản cách mạng.

    A-kim hỏi:

    - Nhưng anh hẳn phải biết là nơi các anh cho đốn gỗ ở

cách đường xe lửa quá xa.

    - Tôi có nghe nói thế, song đấy không phải là phạm vi

tôi phụ trách, nên tôi không thể báo cáo cấp trên về tình

trạng bất thường xảy ra ở phạm vi người khác được.

    Chủ tịch hội đồng công đoàn hỏi:

    - Anh có bao nhiêu người làm?

    - Gần hai trăm.

    Tô-ca-rếp cáu tiết:

    - Thế ra một năm mỗi tên ăn hại chỉ làm được độc một

thước khối!

    Chủ tịch công đoàn nói tiếp:

    - Chúng tôi đã cấp phát cho ủy ban vận chuyển của các

anh khẩu phần lương ăn gấp đôi, chúng tôi phải rút của anh

chị em công nhân để cấp cho các anh như thế, ngược lại

thì các anh làm được những gì? Hai toa bánh mì đưa cho

các anh để phát cho công nhân, các anh đã nhét đâu mất?

    Những câu nói từ bốn phía dồn dập trút lên đầu tên trán

hói, nhưng hắn ta tìm cách đánh lảng như con nợ trốn chủ

nợ.

    Hắn nói quanh co, trơn tuột như chạch, không trả lời

thẳng, mắt lấm lét nhìn sang hai bên. Hắn đã cảm thấy nguy

đến nơi rồi. Rúm mình trong nỗi lo sợ hoảng hốt, hắn chỉ

ước muốn một điều độc nhất: chóng rời khỏi được chốn

này để về ăn bữa cơm chiều thịnh soạn với con vợ còn trẻ

của hắn giờ đây đang đọc cuốn truyện của Pôn-đờ-cốc để

giết thời giờ.

    Giu-khơ-rai vừa chú ý nghe những câu trả lời của hắn,

vừa ghi vào tờ giấy sổ tay: "Phải điều tra kỹ thằng cha này

hơn, đây không phải đơn thuần là vấn đề thiếu tích cực. Đã

có một số tài liệu về hắn... Thôi, nói chuyện với hắn đã đủ

rồi. Để hắn cút đi cho rảnh. Còn chúng ta thì bắt tay vào

việc của ta đi thôi".

    Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành đọc mảnh giấy ghi

mấy hàng chữ đó và nhìn Giu-khơ-rai gật đầu.

    Giu-khơ-rai đứng dậy đi ra phòng ngoài gọi dây nói.

Lúc anh trở vào, chủ tịch Ban chấp hành đã đọc đến đoạn

cuối của nghị quyết.

    " Cách chức toàn ban phụ trách cơ quan vận chuyển gỗ

vì hành động phá hoại hiển nhiên. Đưa vụ đốn gỗ này ra

tòa".

    Cơ sự đã không đến nỗi nguy như hắn chờ đợi. Thật ra,

cách chức vì phá hoại thì chắc là đặt vấn đề nghi ngờ lòng

trung thành của hắn, nhưng đấy chẳng qua là chuyện vặt.

Còn việc đốn gỗ ở công trường Bai-a-rơ-ca thì hắn không

phải lo, vì nó không phải phạm vi của hắn. "Chà mình cứ

tưởng là tụi nó đã lần ra được manh mối gì rồi kia..."

    Hắn gần như đã yên trí lắm, vừa cho giấy má vào cặp

vừa nói:

    - Phải, tôi là một nhà chuyên môn ngoài Đảng, nên các

anh có quyền không tin tôi là phải. Nhưng lương tâm tôi

trong sạch. Tôi không làm được việc chỉ vì thực tế tôi

không thể làm nổi thôi.

    Không ai trả lời hắn. Hắn bước ra, vội vã xuống thang

gác và mở cửa ra phố, thấy nhẹ nhõm cả người.

    Một người mặc áo khoác bộ đội hỏi hắn:

    - Vị cho biết tên là gì?

    Hắn chột dạ trả lời ấp úng:

    - Séc…vin-ski...

    Phần tử lạc loài ấy vừa ra khỏi, trong phòng giấy của

chủ tịch Ban chấp hành tỉnh, mười ba cái đầu chụm sát vào

nhau trên chiếc bàn lớn.

    Giu-khơ-rai ấn ngón tay trên tấm bản đồ mở rộng:

    - Các đồng chí xem... Đây là ga Bai-a-rơ-ca, cách chỗ

lấy gỗ bảy dặm. Ở đấy có hai mươi mốt vạn thước khối gỗ

đang xếp đống. Đội quân lao động đã khó nhọc tám tháng

trời, mất bao nhiêu là công lao động. Kết quả thế nào?

Chúng nó đã phản ta, xe lửa và thành phố vẫn không có củi

để đốt. Gỗ đốn rồi phải chở sáu dặm đường nữa mới tới

được nhà ga. Muốn thế phải dùng ít nhất là năm nghìn xe

ngựa chở suốt một tháng, mà phải chở mỗi ngày hai

chuyến mới được. Thôn gần nhất ở đấy cũng cách mười

lăm dặm. Lại phải cái vạ tên O-rơ-lích và lũ phỉ lâu la của

hắn luôn quấy phá ở những vùng này. Các đồng chí có hiểu

tình hình như vậy là thế nào không?. . . Thế này đây: theo kế

hoạch thì đáng lẽ công trường khai thác gỗ bắt đầu từ đây

và làm dần về phía nhà ga. Nhưng quân khốn nạn chúng nó

lại vào mãi tận rừng sâu mở công trường. Chúng đã tính

sát: chúng ta không thể nào chở gỗ đã chặt tới đường sắt

được. Thật thế, chúng ta cũng chẳng đào đâu ra lấy trăm

chiếc xe ngựa. Chúng đã chơi chúng ta những đòn như thế

đấy. Lợi hại chẳng kém gì cái ban bạo động của chúng.

    Quả đấm nắm chặt của Giu-khơ-rai nặng nề rơi chát

xuống tấm bản đồ.

    Cả mười ba người đều tưởng tượng thấy rất rõ tai họa

đang ập đến, tai họa mà Giu-khơ-rai không nói ra. Mùa

đông đã kề bên cửa. Nhà thương, trường học, các cơ

quan và hàng trăm ngàn nhân dân lâm vào cảnh gió rét cắt

da mà không củi đốt, còn ở các nhà ga, hành khách đông

như kiến mà xe lửa mỗi tuần chỉ chạy được có một chuyến.

    Mỗi người suy nghĩ miên man.

    Giu-khơ-rai buông nắm tay ra:

    - Có một biện pháp, các đồng chí ạ: phải làm cho xong

trong vòng ba tháng một con đường sắt nhỏ từ ga tới chỗ

đẵn gỗ - bảy dặm. Tính thế nào để trong một tháng rưỡi thì

đã làm được đến đầu chỗ đẵn gỗ. Việc này tôi đã nghĩ tám

ngày nay rồi... Muốn làm được thì... Giọng Giu-khơ-rai rít

lên trong cổ họng khô - Thì cần ba trăm năm mươi công

nhân và hai kỹ sư. Ở kho đoạn đầu máy Pu-sa Vô-đi-xa,

chúng ta đã có sẵn đường ray và bảy chiếc đầu máy do

thanh niên cộng sản tìm được. Trước chiến tranh người ta

đã định đặt một con đường sắt nhỏ từ đấy vào thành phố.

Nhưng ở Bai-a-rơ-ca, công nhân không có chỗ ở tại đấy

chỉ có độc một cái trường lâm nghiệp cũ đã đổ nát ở mãi tít

trong rừng. Phải chia công nhân thành từng toán đến làm

việc, hai tuần thay phiên một lần, vì mỗi phiên làm lâu hơn

nữa thì không chịu nổi. Ta phải phái các đoàn viên thanh

niên cộng sản đến đấy, anh A-kim thấy thế nào?

    Và không đợi trả lời, Giu-khơ-rai nói tiếp:

    - Đoàn thanh niên cộng sản phải cố hết sức điều động

tất cả những đoàn viên nào có thể điều động được đến đấy

trước hết là tổ chức đoàn ở Xô-lô-men- ca và một bộ phận

ở trong thành phố. Nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng nếu giải

thích cho lứa trẻ biết rằng có thế mới cứu được thành phố

khỏi chết rét, cứu được đường xe lửa khỏi bị tê liệt thì bọn

trẻ sẽ làm bằng được.

    Đồng chí phụ trách đường sắt lắc đầu tỏ vẻ không tin,

giọng đồng chí mệt mỏi:

    - Không biết giải quyết thế có ổn hay không. Tôi tính

không tài nào làm được đoạn đường sắt dài bảy dặm, trên

một khoảng đất không trơ trụi, trong hoàn cảnh hiện nay

đang tiết trời mùa thu, sắp bắt đầu có mưa rồi, lại sắp mùa

đông tháng giá…

    Giu-khơ-rai, không quay lại nhìn đồng chí ấy cắt ngay:

    - Đồng chí An-đrây Va-xi-li-ê-vích ạ, đồng chí cần phải

để tâm săn sóc hơn việc đốn gỗ! Còn con đường này,

chúng ta sẽ làm được.. Chẳng có ai lại chịu ngồi khoanh

tay chờ chết rét đâu.

    *

    Những hòm dụng cụ cuối cùng đã xếp lên toa xe.

Người làm trên xe lửa, ai nấy đã về phần việc của mình rồi.

Ngoài trời mưa nhỏ hạt, buốt cóng. Những giọt mưa trong

như những hạt pha lê lăn trên chiếc áo da ướt bóng loáng

của Ri-ta.

    Từ biệt Tô-ca-rếp, Ri-ta bắt chặt tay đồng chí già. và

khẽ nói:

    - Chúc các đồng chí thành công.

    Cụ già ngước hàng lông mày xám, thân thiết nhìn Ri-ta.

Cụ nói lẩm bẩm, thốt lên những tiếng như đáp lại ý nghĩ của

chính mình:

    - Phải, cái quân khốn ấy đã làm chúng mình mất ăn mất

ngủ. Ở đây các đồng chí phải để ý theo dõi. Nếu bên chúng

tôi có chuyện gì rắc rối thì bất cứ việc gì cần đến, các đồng

chí phải giúp ngay một tay mới được. Vì cái lũ đểu ấy

không có làm cái gì mà không ba hoa kiểu cách ngoài

miệng bao giờ. Thôi, tàu sắp chạy, già phải lên rồi, con ạ.

    Ông già khép chặt cái áo vét-tông lại. Phút cuối cùng,

Ri-ta làm ra vẻ vô tình hỏi:

    - Kìa, thế Pa-ven không cùng đi với các đồng chí hay

sao? Trong đám anh chị em đi đây, chẳng thấy anh ấy đâu

cả.

    - À, cậu ấy hôm qua đã cùng đồng chí phụ trách công

trình ngồi xe goòng đi trước để chuẩn bị cho chúng tôi tới

sau.

    Trên sân ga, Giác-ki và Đu-ba-va đang vội vã đi lại phía

cụ Tô-ca-rếp và Ri-ta. Cùng đi với họ có cả An-na Bô-khác,

áo ngắn mặc ngoài vắt thõng ngang vai, những ngón tay

mảnh khảnh của chị cặp một điếu thuốc lá đã tắt.

    Nhìn về phía ba người đang đi tới, Ri-ta hỏi rốn cụ Tô-

ca-rếp:

    - Pa-ven học với bác ra sao rồi, bác?

    Tô-ca-rếp ngạc nhiên nhìn chị:

    - Học gì? Cậu ấy lâu nay do cháu hướng dẫn học tập

cơ mà? Đã nhiều lần cậu ta nói với bác về cháu đấy. Thằng

bé nó khen cháu không ngớt lời.

    Ri-ta nghe ông cụ nói, bụng vẫn chưa tin.

    - Có thật thế không, đồng chí Tô-ca-rếp? Theo cháu

biết, anh ấy vẫn thường đến nhà bác để nhờ bác giảng lại

bài cháu hướng dẫn.

    Ông già phá ra cười:

   - Đến nhà bác à?... Tôi có thấy cậu ấy đến hỏi tôi bao

giờ đâu!

   Còi tàu rú lên, Cơ-la-vi-sếch từ trong toa kêu to:

   - Đồng chí Ri-ta ơi ! Đồng chí để cho bố già đi với

chúng tôi thôi chứ. Ai lại cứ giữ mãi ông cụ lại mà chuyện

thế ! Không có bố già thì chúng tôi biết làm ăn thế nào?

   Anh chàng người Tiệp Khắc đó còn đang muốn nói

thêm gì nữa, nhưng nhận ra ba đồng chí đang đi đến gần

toa xe, anh im ngay. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh bắt

gặp cái nhìn lo lắng của An-na; trông thấy An-na mỉm cười

từ biệt Đu-ba-va, anh rời cửa sổ quay phắt ngay vào trong

toa, lòng buồn rười rượi.

   *

   Mưa thu quất vào mặt người. Những đám mây xám

nghịt mọng nước kéo lê thê trên nền trời thấp. Cảnh thu

muộn, những cánh rừng đã trút hết lá. Hàng cây cổ thụ

đứng chau mày, giấu lớp vỏ nhăn nheo dưới màng rêu

màu nâu. Mùa thu tàn nhẫn đã lột trần bộ áo sặc sỡ tươi

màu của rừng để thân cây đứng trơ trụi và hốc hác.

   Ga xép hiu quạnh này náu mình chính giữa rừng vắng.

Từ ke bốc hàng lát đá, mới đắp thêm một dải đất lầy nhầy

chạy về phía rừng. Chung quanh, người hì hục làm, đông

như kiến.

   Bùn nhầy nhụa, dính lấy mỗi bước đi. Ủng da lội bì bà bì

bõm nghe lớp nhớp khó chịu. Người ta hùng hục xúc đất,

đổ nền. Xà beng chạm loảng xoảng, cuốc bổ vào đá chan

chát.

   Mưa tuôn như rây bột. Hạt mưa lạnh thấm qua quần áo.

Mưa đang cuốn đi công trình lao động của con người. Đất

thó vữa ra như cháo đặc sệt cứ từ những chỗ mới đắp tùn

xuống.

    Quần áo bị ướt sũng, vừa nặng, vừa lạnh buốt. Nhưng

ngày này qua ngày khác, người ta vẫn cố làm rốn đến tận

tối mịt mới nghỉ tay.

    Dải đất mới đắp mỗi ngày một chui thêm mãi vào rừng

sâu.

    Cách nhà ga không xa, ngôi nhà đá sừng sững đứng

trơ xương, trông dữ tợn. Những thứ gì có thể dỡ được,

tháo được hoặc phá được thì đã bị lấy trộm đi từ bao giờ

rồi. Các cửa sổ, cửa ra vào giờ chỉ còn là những lỗ hổng.

Các cửa lò dưới bếp chỉ còn là những khoảng đen ngòm.

Mái nhà trơ những khe, lỗ, để lộ ra kèo cột bên trong.

    Chỉ có nền nhà bằng bê-tông của bốn phòng rộng là

còn nguyên thôi. Tối đến, bốn trăm con người quần áo ướt

sũng, bê bết bùn lầy, chen chúc nhau nằm lên đấy rét run

cầm cập. Người ta đứng lại ngoài cửa vắt quần áo, từng

dòng nước bùn đục rỏ tong tong xuống đất. Họ nguyền rủa

trời mưa gió, cảnh lầy lội. Trên ổ rơm rải mỏng dính lên nền

bê-tông, họ nằm thành hàng san sát quắp lấy nhau mà ngủ

cho ấm. Quần áo bốc hơi ngùn ngụt mà không tài nào khô

được. Cửa sổ mất kính, che tạm bằng mấy chiếc bao tải,

nước mưa hắt vào rỉ xuống nền nhà. Từng cơn mưa đổ hồi

như trống giục, trút nước lên những mảnh tôn còn lại trên

mái; gió gào luồn qua khe liếp chặn cửa, thổi ùa vào trong.

    Sáng dậy, đoàn người kéo đến túp lều xiêu vẹo xưa kia

là bếp; họ làm một bát nước chè rồi ra công trường. Trưa

nào cũng chỉ độc một món đậu nấu không chán ngấy với

sáu lạng bánh mì đen thui như than đá. Thành phố chỉ có

thể cung cấp cho họ được đến thế thôi.

    Phụ trách công trình là ông già Va-lê-ri-an Pa-tô- sơ-kin,

người cao lớn khô đét, hai má hóp nhăn nheo. Cán bộ kỹ

thuật là Va-cu-lên-cô, người lùn tịt, mũi sư tử ngồi chòm

chõm trên khuôn mặt xương xẩu như lấy rìu mà đẽo vậy. Họ

đều ở nhờ nhà người trưởng ga.

    Tô-ca-rếp ngủ ở trong phòng đồng chí công an đặc biệt

công tác ở ga này. Đồng chí ấy tên là Khô-li-a- va, có hai

cẳng ngắn ngủn, tính người cựa quậy luôn chân luôn tay, y

như giọt thủy ngân.

    Đoàn người xây dựng đường sắt kiên cường chịu

đựng mọi sự thiếu thốn.

    Nền đường mới đắp mỗi ngày một thọc sâu vào rừng.

    Trong đoàn đã có chín người đào ngũ. Mấy ngày sau lại

có năm người nữa bỏ trốn.

    Sang tuần thứ hai, công trường bị nó chơi một vố đầu

tiên: chuyến tàu chiều từ tỉnh lên không chở bánh mì cho

công trường.

    Đu-ba-va đánh thức cụ Tô-ca-rếp dậy và báo tin ấy cho

đồng chí.

    Người bí thư già của Đảng bộ công trường buông

thõng hai chân đầy lông xuống đất, tay gãi sồn sột vào nách

một cách giận dữ. Đồng chí vừa mặc quần áo vừa lẩm

bẩm:

    - Chúng đã giở trò rồi!

    Vừa lúc ấy, anh chàng Khô-li-a-va béo tròn như một quả

bóng lăn vào. Tô-ca-rếp liền ra lệnh cho anh ta:

    - Đi nhanh ra dây nói, gọi đến Ban đặc biệt. - Rồi quay

lại dặn Đu-ba-va: - Còn cậu thì đừng có hở cái việc bánh mì

này cho một ai nhé !

     Mất nửa tiếng quặc nhau với các nhân viên tổng đài

điện thoại, nhờ thái độ cương quyết, Khô-li-a-va đã liên lạc

được với đồng chí phó chủ nhiệm Ban đặc biệt là Giu-khơ-

rai. Nghe thấy Khô-li-a-va cãi nhau hoài với các nhân viên

tổng đài, Tô-ca-rếp sốt ruột quá giậm chân thình thịch.

     Tiếng Giu-khơ-rai thét lên trong ống nói:

     - Sao? Không chở bánh mì tới à? Được, để tôi hỏi

ngay lập tức xem ai làm ra cái chuyện này?

     Tô-ca-rếp bực tức la to vào máy:

     - Đồng chí cho tôi biết ngay điều này thì hơn: mai chúng

tôi lấy gì cho anh em ăn đây.

     Giu-khơ-rai suy nghĩ. Một lát khá lâu sau, ông già bí thư

Đảng ủy công trường nghe đáp lại:

     - Bánh mì, chúng tôi sẽ chở đến ngay đêm nay. Tôi sẽ

phái Guy-gô đánh xe tới, cậu ấy biết đường. Sáng mai, các

đồng chí sẽ có bánh ăn.

     Tờ mờ sáng hôm sau, một chuyến xe bùn bắn bê bết

chở bánh mì tới ga. Lít-kê con, mệt nhoài, bước ra khỏi xe,

mặt mày phờ phạc vì suốt đêm không ngủ.

     Cuộc đấu tranh để làm xong con đường ngày càng gay

go quyết liệt. Phân cục đường sắt báo cho biết là không có

tà vẹt. Ở thành phố thì không đào đâu ra phương tiện để

chuyển đường ray và đầu máy đến công trường. Ngay đến

cả các đầu máy nhỏ cũng cần phải sửa chữa lại khá nhiều

mới chạy được. Toán công nhân thứ nhất sắp hết hạn, thế

mà toán đến thay phiên vẫn chưa thấy mặt đâu cả. Không

thể nào cứ giữ những người đã kiệt sức này ở lại làm tiếp

được nữa.

    Trong nếp nhà cũ kỹ, dưới ánh đèn dầu le lói, hội nghị

cán bộ kéo dài cho đến tận khuya.

    Sáng sớm hôm sau, Tô-ca-rếp, Đu-ba-va, Cơ-la-vi-

sếch mang sáu người về thành phố để chữa đầu máy và

lấy đường ray. Cơ-la-vi-sếch nguyên là công nhân nướng

bánh mì nên được phái đến ban tiếp phẩm để kiểm tra, còn

những anh em khác thì đi cả về Pu- sa Vô-đi-sa.

    Mà mưa thì vẫn trút xuống.

    *

    Pa-ven vất vả mới rút được chân ra khỏi vũng vùn nhầy

nhụa. Cảm thấy bần chân bỗng nhiên tê buốt, anh biết là

chiếc đế giày mục đã tụt mất hẳn rồi. Ngay từ ngày đầu tới

đây cho đến giờ, anh đã khổ sở vì đôi giày ống hỏng, đôi

giày lúc nào cũng ướt sũng, cũng bết bùn. Bây giờ thì một

chiếc đã mất hẳn đế, bàn chân giẫm thẳng trong bùn lạnh

thấu xương. Chân tê giá quá chừng, anh không còn sức để

làm việc nữa. Anh móc chiếc đế giày mới tụt ra khỏi bùn,

nhìn nó mà thất vọng. Anh quên cả lời anh tự hứa với mình

hôm trước, buột mồm văng tục chửi rủa,. rồi bỏ đi vào túp

lều nay dùng làm bếp. Ngồi cạnh bếp, anh tháo chiếc tất

ướt đầm đìa ra và hơ bàn chân đã tê cứng vào lửa.

    Chị Ô-đác-ca, vợ bác gác đường sắt, được người cấp

dưỡng đưa vào làm phụ, đang thái củ cải trên chiếc bàn

nhà bếp. Trời phú cho chị vợ còn trẻ ấy của bác gác

đường sức vóc hơn người, đôi vai lực điền, bộ ngực dữ

như vâm, đôi hông dư sức, thẳng đứng. Chị ta đưa dao

thoăn thoắt, đống rau thái rồi chẳng mấy chốc đã chất cao

trên bàn.

    Thấy mặt Pa-ven, chị ta nhìn có vẻ khinh bỉ và hằn học

hỏi:

   - Định đến chực ăn đấy à? Còn hơi sớm một chút.

Chắc lại trốn việc chứ gì? Mà sao lại thò chân vào đấy?

Đây là nhà bếp chứ có phải nhà tắm đâu.

   Chị ta đang chửi Pa-ven thì đồng chí cấp dưỡng đứng

tuổi bước vào.

   Pa-ven giải thích tại sao mình lại vào bếp:

   - Chiếc giày ống của tôi tan nát mất rồi.

   Đồng chí cấp dưỡng nhìn chiếc giày ống rách nát và hất

đầu về phía chị Ô-đác-ca:

   - Chồng chị ấy cũng võ vẽ nghề thợ giày đấy, nói bác ta

khâu hộ cho, kẻo ở đây không có giày thì tong đời.

   Nghe nói, chị Ô-đác-ca nhìn Pa-ven và cảm thấy hơi

ngượng. Chị thú thật:

   - Thế mà tôi đã tưởng lầm là anh trốn việc vào đây.

   Pa-ven cười. Đến lượt chị Ô-đác-ca ngắm nghía chiếc

giày có vẻ là tay lành nghề lắm:

   - Giày này chồng tôi chẳng buồn chữa đâu, giầy thế này

chữa chỉ toi công. Thôi để tôi mang đến cho anh một chiếc

giày cao-su cũ, tôi thấy bỏ vương ở nhà tôi ấy. Anh xỏ vào

cũng đỡ lạnh chân. Chứ ai đời lại để giầy không có đế mà

đi được, thật tội nợ. Nay mai lại sắp đại hàn, giày với dép

như thế thì anh đến quỵ mất.

   Lần này thì chị Ô-đác-ca nói có chiều thương hại Pa-

ven lắm. Và chị đặt dao xuống, đi ra.

   Một lát, chị mang về chiếc giày cao su đi tuyết và một

miếng vải băng. Chân hơ nóng, lấy vải bọc lại, thọc vào

giày rồi, Pa-ven lặng nhìn chị Ô-đác-ca thầm tỏ ý cảm ơn.

   Tô-ca-rếp ở tỉnh về, nét mặt hầm hầm, giận dữ.

    Đồng chí triệu tập các cán bộ lại nhà Khô-li-a-va và báo

cho mọi người biết những tin chẳng có gì là phấn khởi cả.

Đồng chí báo cáo với anh em:

    - Chỗ nào cũng ỳ ra. Đi đến đâu cũng thấy bánh xe quay

nhưng quay chổng lên trời cả. Phải thấy rằng chúng ta

chưa trừ tiệt được bọn chó trắng. Khi chúng không còn thò

ra mống nào nữa thì nghĩa là chúng vẫn còn. Tôi nói toạc ra

cho anh em biết là công việc không được chạy lắm. Toán

thứ hai đến thay phiên giờ vẫn chưa tập hợp xong. Sẽ gửi

đến đây được bao nhiêu người cũng chưa rõ. Đại hàn sắp

tới nơi rồi. Trước khi trời bắt đầu vào rét, dù chết chúng ta

cũng phải vượt qua được đoạn lầy. Nếu không, rét đến, có

lấy răng mà gặm đất cũng không nổi đoạn đường. Ở trên

tỉnh, bọn nào làm láo rồi sẽ bị trùy cẩn thận. Còn chúng ta ở

đây phải ra sức làm nhanh gấp đôi mới được. Dù có chết

đi chết lại năm lần cũng phải làm cho xong nhánh đường

sắt này. Không xong thì còn mặt mũi nào làm người bôn-

sê-vích nữa. Không xong thì chỉ là một bọn ươn hèn mà

thôi. - Tô-ca- rếp nói, giọng hôm nay không khàn khàn như

mọi khi, tiếng cụ rung lên lanh lảnh như tiếng thép. Đôi mắt

sáng quắc dưới hàng lông mày cau cau đủ tỏ quyết tâm

ngoan cường của đồng chí già.

    - Ngay hôm nay chúng ta sẽ họp kín, đánh thông trong

nội bộ. Ngày mai sẽ đi làm cả. Sáng mai thì cho những

người ngoài Đảng họ về. Còn chúng ta thì ở lại. Quyết nghị

của tỉnh ủy đây. - Tô-ca-rếp đưa tờ giấy gấp tư cho Pan-

cơ-ra-tốp.

    Nhìn qua vai Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven thấy trong giấy có

những hàng chữ: "Cần thiết giữ lại ở công trường tất cả

các đoàn viên. Cho đến khi nào chở được chuyến gỗ thứ

nhất về mới được thay phiên. Thừa lệnh bí thư Ban chấp

hành Tỉnh. Ri-ta Uốt-chi-nô-vích".

    Căn nhà chật chội, không còn chỗ mà len vào nữa. Một

trăm hai mươi con người chen chúc nhau, người đứng

dựa tường, người leo lên bàn, có người leo lên cả lò bếp.

    Cuộc họp do Pan-cơ-ra-tốp khai mạc. Lão đồng chí Tô-

ca-rếp nói ngắn thôi, nhưng đoạn cuối làm choáng váng

mọi người:

    - Ngày mai, các đảng viên và đoàn viên đều ở lại.

    Ông già giơ tay đập vào khoảng không như để nhấn

mạnh là quyết nghị ấy như đanh đóng cột rồi. Cử chỉ ấy làm

tan vỡ mọi hy vọng muốn về tỉnh, về với những người thân,

tan hết hy vọng rút chân ra khỏi chốn bùn lầy này. Lúc đầu

tiếng nhao nhao nổi lên đến nỗi không còn nghe thấy gì

nữa. Ngọn đèn dầu nhỏ tí lay lắt như cũng phấp phỏng. Tối

quá, không còn trông rõ mặt người. Tiếng nói ồn ào mỗi lúc

một to. Nhóm này kháo nhau, mơ mộng gợi lại cảnh gia

đình đầm ấm, nhóm kia tức giận kêu mệt nhọc. Có nhiều

người không nói gì cả. Và chỉ có một người nói ra miệng

muốn đào ngũ. Giọng căm phẫn của hắn từ trong góc nhà

ném ra những câu nói chêm lời văng tục.

    - Mẹ kiếp! Tôi đếch vào ở đây lấy một ngày nào nữa.

Đày ai đi khổ sai thì cũng phải có tội tình gì mới đày người

ta được chứ. Chúng tôi đây thì có tội gì? Đã giam chúng tôi

ở đây nửa tháng, xin đủ lắm rồi. Người ta là người chứ

không phải là sung rụng. Ai quyết định làm chỗ này thì kẻ ấy

tự dẫn xác đến đây mà làm lấy. Ai muốn thì cứ đến mà lăn

mình vào đống bùn này, còn tôi, đời tôi chỉ sống có một lần,

tôi phải giữ lấy thân tôi. Ngay ngày mai là tôi chuồn.

    Ô-cu-nhếp đứng ngay trước mặt tên vừa la đó, anh quẹt

diêm soi xem mặt tên đào ngũ đó là đứa nào. Ánh lửa

diêm khoảnh khắc lóe lên trong bóng tối, làm lòi cả cái mặt

méo xệch, nhăn nhó, tức tối, mồm há hốc kia. Ô-cu-nhếp

nhận ra nó là con lão thư ký kế toán ở ban tiếp tế của tỉnh.

    - Mày soi cái gì? Tao có phải ăn trộm ăn cắp đâu mà

phải giấu mặt.

    Diêm tắt, Pan-cơ-ra-tốp vùng đứng phắt dậy. Anh đưa

mắt nặng nề, nhìn những người đứng gần, giọng ồ ồ:

    - Kẻ nào dám há mồm sủa láo đấy? Đứa nào bảo

nhiệm vụ Đảng trao cho là khổ sai? Các anh em, chúng ta

không thể nào trở về tỉnh được. Chỗ của chúng ta là ở đây.

Nếu chúng ta bỏ đi tức là nhân dân sẽ bị chết rét. Ta càng

làm xong sớm thì càng về sớm. Còn đánh bài chuồn như

cái thằng khốn nạn vừa rồi thì lý tưởng của chúng ta, kỷ luật

của chúng ta không cho phép.

    Pan-cơ-ra-tốp - anh công nhân bốc vác - vốn không ưa

nói dài, nhưng ngay mấy câu vắn tắt của anh cũng đã lại bị

cái giọng ban nãy cắt lời:

    - Người ngoài Đảng, ngoài Đoàn thì được về phải

không?

    Pan-cơ-ra-tốp trả lời đốp:

    - Được.

    Tức thì một tên mặc chiếc bành-tô ngắn diện phố lách

tới chỗ bàn. Hắn quăng ra một cái thẻ. Cái thẻ như cánh

dơi liệng, chạm vào ngực Pan-cơ-ra-tốp, rồi bắn ra, rơi

tõm xuống mặt bàn.

    - Thẻ đây, xin các anh cầm lấy hộ. Xin phép các anh,

chết vì mảnh bìa này mà tội vào thân thì tôi xin đủ.

    Hắn chưa dứt lời, tiếng phẫn nộ nhao nhao lên khắp

gian nhà:

    - Mày quẳng cái gì đi đấy! Không biết nhục à!

    - Đồ chó chết, cút đi!

    - Cái thứ mặt ấy chui vào Đoàn cốt chỉ để kiếm một chỗ

nào ấm cái thần xác!

    - Tống cổ nó đi!

    - Được rồi chúng tao cho mày chỗ ấm, rõ cái đồ rận tha

bệnh thương hàn!

    Tên vừa vứt thẻ Đoàn đó cúi gằm mặt lùi lũi bước ra.

Hắn đi qua, ai nấy đều giãn ra như tránh một con bệnh

truyền nhiễm. Hắn ra khỏi, cửa đóng kẹt lại.

    Pan-cơ-ra-tốp vò cái chứng minh thư hắn bỏ, gí vào

ngọn đèn dầu.

    Mảnh bìa bốc cháy, tàn quặn lại.

    *

    Có tiếng súng nổ. Từ phía túp nhà tồi tàn một bóng

người cưỡi ngựa phóng trốn vào rừng, biến trong đêm tối.

Người từ trong trường học và căn nhà đổ ùa ra. Có người

đụng phải tấm biển bằng gỗ dán đút vào kẽ cửa lớn.

Người ta quẹt diêm và lấy vạt áo che gió; ánh diêm lập lòe,

soi lên thì đọc thấy mấy chữ: "Chúng bay cút ngay khỏi nhà

ga này, ở đâu đến thì lại về đấy ngay lập tức. Kẻ nào ở lại

chúng ông sẽ cho ăn đạn vào sọ. Quân ta sẽ giết sạch,

không tha một mống. Gia hạn cho đến tối mai là cùng, phải

tuân lệnh này" Dưới có chữ ký: "Đầu lĩnh Sê-nốc".

    Sê-nốc là bè đảng O-rơ-lích.

    Trong phòng Ri-ta, cuốn nhật ký của chị để mở trên bàn.

"Mồng hai tháng Chạp

    Sáng nay có tuyết đầu mùa rồi. Trời lạnh ghê người.

Gặp Vê-rê-sláp Ôn-sin-ski ở cầu thang. Mình và anh ta

cùng đi ra ngoài. Ôn-sin-ski nói:

    - Tôi bao giờ cũng thích tuyết đầu mùa. Chà lạnh! Cảnh

tuyết đẹp ghê, phải không chị?

    Mình nghĩ đến công trường Bai-a-rơ-ca nên trả lời anh

ta là mình rét và tuyết chẳng làm mình vui tí nào, trái lại chỉ

làm mình khổ tâm. Mình nói cho anh ta hiểu vì sao lại thế.

    - Đấy là cách nhìn chủ quan của chị thôi. Nếu phát triển

quan điểm của chị thì, chẳng hạn như trong lúc chiến tranh,

không thể nào cho phép có tiếng cười và nói chung tất cả

những gì biểu hiện vui sống được ư? Nhưng thực tế có

như thế đâu chị? Thảm kịch là chỉ ở nơi hỏa tuyến. Ở đấy

mối cảm về cuộc sống luôn luôn bị cái chết kề bên cạnh

bóp nghẹt. Nhưng ngay ở đấy, vẫn có tiếng cười. Còn ở

hậu phương cuộc sống thế nào thì nó vẫn như thế : tiếng

cười và tiếng khóc, đau khổ và mừng vui, khao khát kịch

hát hoan lạc tình cảm, rạo rực tình yêu.

    Trong những lời của Ôn-sin-ski, khó mà phân biệt là

châm biếm hay nói thật. Ôn-sin-ski là phái viên của Bộ dân

ủy ngoại giao. Vào Đảng từ năm 1917. Mặc theo lối

phương Tây, râu bao giờ cũng cạo nhẵn, người lúc nào

cũng bôi tí nước hoa. Anh ta ở phòng đồng chí Xê-pan,

cùng nhà với bọn mình. Chiều nào cũng đến thăm mình. Nói

chuyện với anh chàng cũng thấy hay hay. Anh ta đã từng ở

Pa-ri lâu, hiểu nhiều về phương Tây. Nhưng mình không hề

nghĩ rằng anh ta với mình có thể thành bạn thân được. Lý

do: đối với mình, anh ta trước hết coi mình là một phụ nữ,

rồi sau nữa mới là một đồng chí Đảng. Thật ra, anh ta

không che đậy gì những ý nghĩ, những thèm muốn của anh

ta cả. Kể cũng là một tay bạo nói thật. Và cái thú của anh ta

cũng không thô bạo đâu. Anh ta khéo nói tô vẽ cho nó đẹp.

Nhưng mình không ưa anh ta.

    Tác phong chất phác tuy hơi cục cằn của Giu-khơ- rai

làm cho mình dễ gần hơn là cái nước sơn hào nhoáng Âu

hóa của Ôn-sin-ski.

    Nhận được báo cáo ngắn từ Bai-a-rơ-ca gửi về. Mỗi

ngày đặt được hơn hai trăm thước đường. Tà-vẹt đặt ngay

trên đất đóng băng, lấy rìu và xà beng khoét đất ấy ra, rồi

đặt tà-vẹt vào đấy. Tất cả chỉ còn hai trăm bốn mươi

người. Toán thứ hai đến thay phiên đã bỏ trốn mất một

nửa. Điều kiện làm việc thật là gay. Giá tuyết như vậy

không biết rồi làm ăn ra sao?. .. Đu ba-va ở đấy đã được

một tuần. Trong số tám đầu máy ở Pu-sa Vô-đi-xa chỉ chọn

được năm. Những cái còn lại đều thiếu mất nhiều bộ phận.

    Cục quản lý xe điện kiện Đu-ba-va vì anh ta cùng toàn

đội đã dùng vũ lực giữ tất cả các xe điện đi từ Pu-sa Vô-đi-

xa về tỉnh. Đu-ba-va bắt hành khách xuống, lấy toa tàu chở

đường ray đến công trường. Mười chín toa xe điện theo

đường quanh tỉnh chạy về ga. Công nhân xe điện hết sức

giúp họ.

    Ở nhà ga, số đoàn viên thanh niên cộng sản Xô- lô-

men-ca còn lại suốt đêm hì hục xếp ray đi, và Đu- ba-va

cùng anh em trong đội chở những thanh ray về công trường

Bai-a-rơ-ca.

    A-kim gạt đi không xét vụ khiếu nại về Đu-ba-va này ở

hội nghị thường vụ. Đu-ba-va đã trình bày với chúng tôi tình

trạng quan liêu lề mề quá quắt ở Cục xe điện. Họ khăng

khăng chỉ cho anh hai chiếc tàu điện và nhất định không

cho hơn. Túp-ta lên lớp Đu-ba-va:

    - Thời buổi này phải bỏ tác phong du kích ấy đi, bây giờ

mà còn thế nữa thì có phen ngồi tù sớm. Làm như không

thể nào dàn xếp thương lượng được, nên cứ phải dùng tay

súng nói chuyện với nhau hay sao?

    Mình chưa bao giờ thấy Đu-ba-va giận dữ đến thế. Anh

ta thét ầm khiến phòng họp Tỉnh đoàn rung lên.

    - Đồ cạo giấy sao không vác mặt đứng ra mà thương

lượng? Chỉ ngồi ở đây như con đỉa hút mực lại còn cứ

xoen xoét cái lưỡi. Tớ mà về Bai-a-rơ-ca không có ray thì

người ta hớt mõm tớ đi ! Được rồi, phải gửi cậu lên công

trường mới chừa cái thói ngồi một chỗ làm vướng chân

người khác. Để cho cụ Tô-ca-rếp cụ ấy dạy cho cậu biết

thân?

    Túp-ta đã viết đơn kiện Đu-ba-va, nhưng A-kim đề nghị

mình đi ra trước, còn anh ngồi lại nói chuyện với Túp-ta độ

mươi phút. Sau đó, Túp-ta hầm hầm đi ra, đỏ mặt tía tai vì

giận dữ.

3 tháng Chạp.

   Tỉnh ủy lại nhận được đơn khiếu nại của Ban đặc biệt

ngành giao thông về một vụ mới xảy ra. Số là Pan-cơ-ra-

tốp, Ô-cu-nhếp cùng mấy đồng chí nữa đến ga Mô-lô-vi-lốp-

ca dỡ cửa lớn và cửa sổ của các tòa nhà bỏ không. Lúc họ

khiêng những thứ này lên tàu thì có một anh công an đặc

biệt của nhà ga định bắt họ. Họ tước vũ khí của anh kia.

Mãi đến khi tàu chạy, họ mới trả súng ngắn cho anh, nhưng

lại moi hết đạn đi. Họ cuỗm tất cả cửa giả đi. Phòng vật

liệu sở công chính lại còn tố cáo Tô-ca-rếp không được

phép đã tự động lấy hai mươi put đinh ở kho Bai-a-rơ-ca.

Thật ra thì số đinh này Tô-ca-rếp đã chia cho nông dân, thế

vào tiền công họ đã chuyển gỗ từ nơi đẵn đến công trường

để làm tà-vẹt.

    ( Một pút bằng 16,3 ki-lô)

    Mình đã đem những chuyện này nói với đồng chí Giu-

khơ-rai. Anh cười bảo: "Tất cả những chuyện ấy, rồi chúng

ta sẽ dàn xếp đâu vào đấy cả".

    Trên công trường, tình hình hết sức căng thẳng, quý

từng ngày một. Việc vặt gì cũng phải dùng đến hết mọi áp

lực. Luôn luôn phải kéo cổ những tên kìm hãm công việc

lên Tỉnh ủy. Đám thanh niên trên công trường ngày càng

hay phá nội quy.

    Ôn-sin-ski mang đến cho mình một cái lò sưởi điện nhỏ.

Ôn-ga I-u-rê-nhê-va và mình dùng để sưởi tay. Nhưng trong

phòng có lò cũng chẳng ấm thêm. Không hiểu các anh em

làm trên công trường, nằm trong rừng, đêm nay ngủ làm

sao được? Ôn-ga kể chuyện: trong nhà thương lạnh quá,

bệnh nhân không dám thò đầu ra khỏi chăn. Cách ba ngày

mới được đốt củi sưởi một lần.

    Không, đồng chí Ôn-sin-ski ạ, thảm kịch ở tiền tuyến

cũng, là thảm kịch của hậu phương.

4 tháng Chạp,

   Tuyết suốt đêm. Tuyết xuống rất dày. Anh em ở Bai-a-

rơ-ca viết thư cho mình biết: mọi vật đều bị tuyết phủ hết.

Công việc bị đình lại. Người ta đổ ra quét tuyết lấy đường

đi. Hôm nay tỉnh ủy quyết nghị: công tác đợt thứ nhất trên

công trường trước ngày mồng một tháng Giêng năm 1922

phải làm xong đến giáp giới khu vực đốn gỗ. Người ta kể

lại rằng khi nghị quyết truyền đạt tới Bai-a-rơ-ca, thì Tô-ca-

rếp trả lời: "Nếu anh em chúng tôi không đổ hết, thì nhất

định làm được".

    Chẳng nghe thấy nói gì về Pa-ven. Cũng lạ là chẳng có

"vụ" , nào về Pa-ven tương tự như kiểu Pan-cơ-ra- tốp đã

làm cả. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao Pa-ven

cứ tránh mặt tôi.

5 tháng Chạp.

    Hôm qua thổ phỉ lại bắn vào công trường".

    *

    Ngựa rón rén đặt chân lên lớp tuyết mềm, xốp. Đôi lúc

móng ngựa giẫm gẫy cành cây nằm dập dưới tuyết kêu

răng rắc, con ngựa phì hơi, né sang một bên, nhưng bị

nòng súng trường không cắm lưỡi lê thúc vào đôi tai, liền

phi lên, đuổi theo những con đi trước.

    Gần chục tên cưỡi ngựa vượt ngọn đồi ở đầu dải đất

nâu còn chưa bị tuyết phủ.

    Chúng kìm ngựa lại đấy. Bàn đạp ngựa chạm vào nhau

xoang xoảng. Con ngựa đi đầu rùng mình quẫy mạnh, toàn

thân nó đã đẫm mồ hôi sau một đoạn đường dài. Thằng đi

đầu nói:

    - Quân khốn kiếp chúng nó đang rúc trong cái nhà kia

kìa. Làm thế nào đuổi chúng đi như gạt sạch tuyết mới

được! Đầu lĩnh đã bảo chậm lắm ngày mai phải xua sạch

cái lũ châu chấu ấy ra khỏi đây. Vì nếu không thì cái lũ

"công nhân" chó chết ấy có thể mò được đến tận những

đống gỗ đã đốn kia.

    Bọn đi ngựa xếp hàng dọc men theo nhánh đường sắt

tiến gần vào nhà ga. Chúng mon men từng bước đến

khoảng rừng trống mé trước cái trường học cũ rồi đứng

nấp sau những lùm cây.

    Loạt súng nổ phá tan cái im lặng của đêm tối. Chùm

tuyết từ trên cành cây bạch dương có ánh trăng bạc dãi lên

rơi xuống như sóc chuyền cành. Giữa những hàng cây, lóe

lên những tia lửa đạn bắn lỗ chỗ những mảnh tường đắp

thạch cao; những mảnh kính Pan- cơ-ra-tốp lấy về lắp trên

cửa sổ bị vỡ tan tành.

    Loạt súng đã lôi những người ngủ trên sàn bê- tông

choàng dậy, nhưng khi có những viên đạn chì như những

con dế độc bay vù vù trong phòng thì họ sợ hãi nằm rạp cả

xuống, mất hết trật tự, người này ngã vào người kia.

    Đu-ba-va túm lấy áo ca-pốt Pa-ven.

    - Cậu đi đâu?

    - Ra ngoài.

    Đu-ba-va rỉ tai nói hổn hển:

    - Nằm xuống, thằng ngu ! Mày ló mặt ra, nó bắn chết

tươi ngay tại chỗ.

    Họ nằm bò sát vào nhau, gần ngưỡng cửa ra vào. Đu-

ba-va nằm rạp xuống sàn nhà, tay chĩa súng ngắn ra phía

ngoài cửa. Pa-ven ngồi xổm, hồi hộp sờ ổ đạn súng ngắn.

Có năm viên tất cả. Sờ đến lỗ không đạn, anh quay ổ đạn

lại.

    Súng ngừng nổ. Yên lặng đột ngột làm mọi người ngạc

nhiên. Đu-ba-va khẽ ra lệnh cho những người đang nằm:

    - Anh em ai có vũ khí hãy tập hợp lại đây !

    Pa-ven rón rén mở cửa. Ngoài khoảng rừng quang

vắng, không một bóng người. Bông tuyết rơi xuống quay

chầm chậm. Trong rừng sâu, lúc đó có mười tên kỵ mã

đang quất ngựa chạy.

    Gần trưa, một chiếc xe goòng từ thành phố lao như bay

tới. Giu-khơ-rai và A-kim ở trong xe bước ra. Tô-ca-rếp và

Khô-li-a-va ra đón. Người ta tháo từ trên xe xuống khẩu

súng Mác-xim với mấy băng đạn và hai chục khẩu súng

trường. Khẩu súng máy bố trí ngay ở sân ga.

    Mọi người vội vã đi đến chỗ làm việc. Tà áo ca- pốt của

Giu-khơ-rai quét trên mặt đất phủ tuyết, vẽ thành đường

ngoằn ngoèo. Anh đi như gấu chạy, người vặn bên này vặn

bên kia, chân hơi khoèo. Anh vẫn còn quen cái lối đi ấy

như bước trên boong rập rình của chiếc phóng ngư lôi hạm

hồi xưa. A-kim người cao, chân dài, nên vẫn theo kịp Giu-

khơ-rai. Chỉ có cụ Tô-ca-rếp chốc chốc lại phải cắm cổ

chạy theo.

    Cụ nói:

    - Việc thổ phỉ tập kích hãy còn là chuyện mệt vừa. Mệt

nhất là có gò đất chắn ngáng ngay lấy đường chúng tôi

đang làm. Ma xui quỷ khiến nó nằm lù lù ra đấy. Phải đào đi

cả một đống đất tướng.

    Ông già dừng lại, quay lưng chắn gió, châm thuốc lá

một lòng bàn tay úp như cái phễu để che gió; cụ rít một hơi,

rồi lại đuổi theo các đồng chí. A-kim đứng lại chờ. Giu-khơ-

rai vẫn rảo bước đi trước.

    A-kim hỏi Tô-ca-rếp:

    - Sao, bác xem liệu ở đây ta có đủ sức làm xong con

đường đúng thời hạn không?

    Tô-ca-rếp đắn đo một lát, rồi mới trả lời:

    - Chắc chú cũng biết, thật ra, nói chung thì không thể

nào làm xong được, nhưng không làm xong cũng không

được. Cho nên phải xong.

    Hai người đuổi kịp Giu-khơ-rai và cả ba cùng đi ngang

hàng với nhau. Ông già nói bằng một giọng phấn khởi:

    - Then chốt vấn đề là trông vào chỗ "nhưng” ấy. Ở đây

chỉ có hai người, Pa-tô-sơ-kin và tồi biết được trong

những điều kiện chó má này, với mớ dụng cụ thô sơ và

nhân lực thiếu thốn như thế này thì không thể nào làm xong

được con đường. Nhưng được cái tất cả anh em ở đây

đều thấy là không xong con đường này cũng không được.

Cho nên tôi đã dám nói rằng: "Nếu anh em chúng tôi không

đổ hết thì nhất định làm được". Các đồng chí thử nhìn mà

xem. Chúng tôi làm hùng hục đã sang tháng thứ hai rồi. Ba

đợt dân công đã kế tiếp nhau làm ở đây và toán đang làm

là toán thứ tư, nhưng đám đoàn viên thanh niên cộng sản là

lực lượng cốt cán thì vẫn làm quần quật không nghỉ. Chính

vì họ trai trẻ nên họ mới đứng vững được như thế. Cũng đã

có đến một nửa anh em bị cảm mạo. Hễ cứ nhìn đám trẻ

ấy là không sao cầm lòng được, thật tội và thương. Thanh

niên như họ thật quý vô giá… Cái xó chết tiệt này rồi sẽ làm

nhiều anh em gục mất...

    Nhánh đường sắt đã làm xong đoạn đầu tiên đến cách

nhà ga một cây số

    Xa hơn nữa độ một cây rưỡi trên nền đường mới san

bằng, những thanh gỗ dài nằm bám xuống đất trông như

những cột hàng rào bị gió thổi bạt đi, đổ lăn ra. Đấy là tà-

vẹt. Xa nữa, đến chân gò đất là con đường mới đắp chưa

đặt ray.

    Đây là nhóm làm đường số một của Pan-cơ-ra-tốp.

    Bốn mươi người đặt tà-vẹt. Bác nông dân râu hoe, đi

giày rơm mới, đang từ từ kéo từng cây gỗ trên xe trượt

tuyết đẩy ra mặt đường. Xa xa, cũng có mấy chiếc xe nữa

đang dỡ gỗ xuống. Hai thanh sắt dài nằm trên đất, đó là

kích thước đường ray để đo tà- vẹt cho đều. Búa, xà beng,

cuốc xẻng thi nhau bổ xuống để san phẳng nền đất.

    Đặt tà-vẹt là một công việc tỉ mỉ và phải làm từ từ. Tà-

vẹt đặt trên mặt đường phải bám rõ chặt và phải để thế

nào cho đường ray đặt lên dựa đều vào mỗi thanh tà-vẹt,

thanh nào cũng như thanh nào.

    Ở đây chỉ độc cụ già trưởng toán La-gu-chin là thạo kỹ

thuật đặt đường ray. Cụ là bố đẻ Ta-li-a. Tuy đã năm mươi

tư tuổi rồi mà đầu cụ không một sợi tóc bạc, râu vểnh ra

hai bên, đen như hắc ín. Cụ đã tự nguyện ở lại làm, đến

lượt thay phiên thứ tư vẫn không về. Cụ lăn lộn với đám

thanh niên, đồng cam cộng khổ; được toàn đội yêu kính.

Tuy là một người ngoài Đảng, bao giờ cụ cũng được mời

vào ngồi ghế danh dự trong tất cả các cuộc họp Đảng. Tự

hào với điều đó, cụ đã hứa là việc chưa xong thì quyết

không bỏ công trường về.

    - Đời nào tôi có thể bỏ anh em mà về được, anh em

thử nghĩ mà xem. Rời tôi ra, anh em đặt tà-vẹt sẽ lúng túng

mất: công việc này cần phải có con mắt tinh, có tay quen

mới làm được. Còn tôi thì trong đời đã đặt không biết bao

nhiêu là tà-vẹt trên khắp đất nước Nga ta rồi... - Cứ mỗi lần

có chuyến thay phiên thì cụ lại nói bằng một giọng hồn

nhiên như thế và tự nguyện ở lại làm.

    Pa-tô-sơ-kin tin ông cụ nên ít khi đến kiểm tra đoạn

đường cụ làm. Lúc Giu-khơ-rai, A-kim và Tô- ca-rếp đến

chỗ anh em làm việc thì Pan-cơ-ra-tốp đang bổ búa xuống

moi đất chôn tà-vẹt, người anh mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ

gay.

     A-kim mãi mới nhận ra được anh chàng công nhân

khuân vác đó. Pan-cơ-ra-tốp gầy xọp đi. Hai gò má cao

bây giờ càng gồ lên, mặt rửa quấy quá, trông càng xám xịt

và hốc hác thêm.

     - Kìa, các đồng chí phụ trách trên tỉnh đã xuống.

     Anh nói và chìa bàn tay nóng bỏng, ướt đẫm mồ hôi ra

bắt tay A-kim.

     Tiếng cuốc xẻng ngừng lại. A-kim thấy chung quanh đều

là những khuôn mặt xanh vàng. Áo ca-pốt và áo ngắn mặc

ngoài của họ cởi ra, ném lăn lóc ngay trên mặt đất phủ

tuyết.

     Nói chuyện với cụ La-gu-chin xong, Tô-ca-rếp kéo Pan-

cơ-ra-tốp đi và dẫn hai đồng chí tỉnh ủy đến đám đất đã san

bằng. Chàng công nhân khuân vác ít nói đi cạnh Giu-khơ-

rai.

     Giu-khơ-rai nghiêm giọng hỏi Pan-cơ-ra-tốp:

     - Pan-cơ-ra-tốp, chú cho tôi biết việc xảy ra ở Mô- tô-vi-

lốp-ca giữa chú và nhân viên công an đặc biệt! Chú nghĩ

sao, có thấy là tước vũ khí của người ta như thế thì quá lắm

không?

     Pan-cơ-ra-tốp mỉm cười, luống cuống:

     - Chúng tôi tước vũ khí của hắn ta là do có sự thoả

thuận cả; chính tự hắn ta yêu cầu như thế. Hắn là một thằng

quen chúng tôi. Chúng tôi nói hết với hắn hoàn cảnh khó

khăn của chúng ta. Nghe xong, hắn ta nói: "Các cậu ạ, mình

không đủ quyền cho các cậu chở cửa đi được đâu. Có

lệnh của đồng chí Gie-din- ski( Đồng chí Gie-din-ski phụ

trách công an tình báo ở trung ương lúc bấy giờ ) bảo phải

ngăn ngừa tình trạng trộm cướp tài sản của nhà ga cơ mà.

Cái thằng cha trưởng ga khốn nạn ở đây vốn thù với mình.

Nó hay ăn cắp mà mình thì không để cho nó ăn cắp. Nếu để

các cậu lấy cửa đi nó nhất định sẽ tố cáo mình với cấp trên

và đưa mình ra tòa án cách mạng. Đấy, thà các cậu cứ

tước vũ khí của mình rồi hãy khuân đồ chở đi. Nếu thằng

trưởng ga không báo cáo lên trên thì coi như là ổn". Chúng

tôi đã làm y như thế. Những cánh cửa cái, cửa sổ ấy,

chúng tôi có phải lấy dùng cho chúng tôi đâu.

    Nhận thấy tia sáng nụ cười long lanh trên đôi mắt Giu-

khơ-rai, Pan-cơ-ra-tốp nói thêm:

    - Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu có phạt thì cứ để mình

chúng tôi chịu phạt, đừng làm tội thằng bé ấy.

    - Việc đó đã giải quyết xong đâu vào đấy rồi, không nói

nữa. Nhưng từ nay về sau đừng có làm những chuyện ấy

nữa. Làm như thế là phá kỷ luật đấy. Chúng ta có đủ sức

mạnh để đấu tranh có tổ chức mà tiêu diệt bệnh quan liêu.

Thôi được. Giờ ta nói đến chuyện quan trọng hơn. - Và

Giu-khơ-rai bắt đầu hỏi tỉ mỉ đầu đuôi chuyện thổ phỉ tập

kích hôm vừa rồi.

    *

    Chỗ ấy cách ga bốn cây số rưỡi, những chiếc xẻng thi

nhau khoét đất kịch hệt. Anh em đang xẻ cái gò đứng chắn

giữa đường.

    Chung quanh có bảy người đứng gác, vũ khí trong tay

có khẩu ca-ra-bin của Khô-li-a-va và mấy khẩu súng ngắn

của Pa-ven, Pan-cơ-ra-tốp, Đu-ba-va và Khô-mu-tốp. Vũ

khí của toàn đội chỉ có thế.

    Kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ngồi trên dốc đang ghi mấy con số

vào sổ tay. Chỉ còn một mình kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ở lại vì tên

kỹ sư Va-cu-lên-cô sáng nay đã chuồn mất về tỉnh. Hắn cho

là thà chịu xử tội đào ngũ còn hơn phải ăn đạn của bọn phỉ,

chết uổng mạng.

    Pa-tô-sơ-kin quay lại khẽ nói với Khô-mu-tốp đứng

trước mặt mình:

    - Bốc cái gò này đi phải mất nửa tháng. Đất có tuyết

đóng thành băng cứng quá.

    Khô-mu-tốp vốn người ít nói, mặt lúc nào cũng cau cau,

nghe thế thì cắn môi vào ria mép, tỏ vẻ tức giận đáp lại:

    - Hạn trên cho chúng ta tất cả chỉ có hăm nhăm ngày,

thế mà cụ định lấy nghiến nửa tháng cho đoạn đường này

à?

    - Hạn trên cho như thế là không sát. Thật ra suốt đời tôi

chưa bao giờ làm đường trong điều kiện như thế này và

với số lượng thành phần người như thế này. Tôi cũng có

thể tính sai, mà thật tôi đã tính sai hai lần rồi.

    Giữa lúc đó, Giu-khơ-rai, A-kim và Pan-cơ-ra-tốp tới

gần chỗ san nền đất. Từ trên gò đất, anh em trông thấy

ngay ba người đang đi đến.

    Một cậu mắt lác, mặc áo len thủng, hở cả khuỷu tay,

thích vào người Pa-ven. Đấy là Pết-ca Tơ-rô-phi- mốp, vốn

là một thợ bắt bù loong ở xưởng đường sắt. Anh ta giơ tay

chỉ về phía dưới chân gò đất:

    - Cậu trông kìa! Ai thế nhỉ?

    Tức thì, Pa-ven, tay vẫn cầm xẻng, chạy xuống dốc

băng băng. Dưới vành mũ, đôi mắt anh mỉm cười thắm

thiết. Giu-khơ-rai nắm chặt tay anh lâu hơn những người

khác.

    - Chào chú Pa-ven. Chú ăn mặc quần nọ áo kia như

thế, có trời nhận ra được!

    Pan-cơ-ra-tốp cười gượng, nói đùa với A-kim:

    - Được cái năm ngón chân cậu ta cũng khéo bảo nhau,

lúc nào cũng tòi ra ngoài cả. Lại được mấy cái thằng đào

ngũ còn thông đồng nhau xoáy của cậu ấy cái áo ca-pốt.

May mà Ô-cu-nhếp, cùng tổ với cậu ta, cho cậu ta cái áo

vét-tông. Hai tay ấy thật là con chấy cắn đôi, - Pan-cơ-ra-

tốp giọng buồn buồn quay về phía A-kim nói thêm. - Không

hề gì đâu, Pa-vơ- lu-sa là một anh chàng máu nóng. Cậu ấy

đến sẽ sưởi ấm trên sàn bê-tông một tuần vì ổ rơm thì

mỏng dính gần như là nằm không. Rồi đến cái nước mặc

"thứ áo ván gỗ bốn dài hai ngắn" mất thôi.

    Ô-cu-nhếp lông mày da đen, mũi hơi cong, nheo cặp

mắt láu lỉnh cãi lại:

    - Chúng tôi chẳng để Pa-vơ-lu-sa đổ đâu. Nếu cho biểu

quyết thì chúng tôi tán thành ngay để cậu ấy vào bếp làm

chân cấp dưỡng, giữ chức lính trù bị cho Ô-đác-ca. Ở đấy

nếu cậu ta không phải tay ngốc thì vừa được no bụng, lại

vừa được ấm thân, hoặc là vì ở gần bếp, hoặc là vì có hơi

bà Ô-đác-ca.

    Chuỗi cười vui vẻ của mọi người vang lên làm át cả

tiếng nói của Ô-cu-nhếp.

    Lần đầu tiên người ta cười trong ngày hôm ấy.

    Giu-khơ-rai xem xét gò đất, rồi cùng Tô-ca-rếp và Pa-

tô-sơ-kin ngồi xe trượt tuyết đến khu vực đốn gỗ, xong lại

quay về. Mọi người vẫn kiên tâm đào đất trên gò. Nhìn

những nhát cuốc sáng loáng, nhìn những cái lưng khom

đem hết sức ra làm, Giu-khơ-rai nói khẽ với A-kim:

     - Chẳng mít-tinh làm quái gì nữa. Bác Tô-ca-rếp ạ bác

nói đúng đấy, đám trẻ thật là những người quý vô giá. Thép

tôi là ở chỗ này đây.

     Giu-khơ-rai nhìn những anh em đào đất làm việc, cặp

mắt vốn nghiêm của anh đầy mến thương âu yếm lẫn tự

hào cương nghị. Cách đây không lâu, một số trong đám

chàng trai trẻ này đã từng nhô lưỡi lê thép xông lên trong

đêm đi dẹp phiến loạn. Và bây giờ đây chính họ lại đang

ôm ấp một ý nguyện duy nhất: khơi mạch máu thép đường

ray nối đến tận những đống củi quý như vàng, nguồn sức

nóng và sự sống.

     Ôn tồn nhưng giọng rất tự tin, kỹ sư Pa-tô-sơ-kin trình

bày cho Giu-khơ-rai biết là không thể nào mở thông đường

qua gò đất trong vòng hai tuần lễ được.

     Giu-khơ-rai tai vẫn lắng nghe con tính của kỹ sư, trong

óc nghĩ thầm cách giải quyết.

     - Các đồng chí hãy rút hết người sang bên kia gò để

mở đường tiếp, còn quả đồi này thì chúng ta sẽ có cách

khắc phục.

     Giu-khơ-rai ngồi nói chuyện hồi lâu ở dây nói nhà ga.

Khô-li-a-va đứng gác ngoài cửa. Anh ta nghe rõ đằng sau

lưng mình tiếng nói trầm trầm của Giu-khơ-rai.

     - Gọi điện ngay cho đồng chí tham mưu trưởng quân

khu, bảo tôi đề nghị với đồng chí ấy cho trung đoàn của Pu-

dư-rếp-ski đến khu vực công trường. Phải quét sạch bọn

phỉ ở khu này. Gửi cả chiếc tàu bọc sắt và công binh từ căn

cứ đến đây. Còn những việc khác, tôi sẽ tự giải quyết lấy.

Đêm tôi sẽ về. Bảo Guy- gô mười hai giờ đêm nay đánh xe

ra ga.

     Trong căn nhà, sau mấy lời ngắn của A kim, Giu- khơ-

rai bắt đầu nói chuyện. Một tiếng đồng hồ qua mà không ai

để ý đến thời gian. Chuyện trò thân mật giữa đồng chí và

đồng chí. Giu-khơ-rai nói cho anh em biết không thể nào

kéo dài được thời hạn đã ấn định, đến mồng một tháng

Giêng phải làm xong công trình đường sắt này.

     - Chúng ta chuyển công tác của công trường sang chế

độ quân sự. Các đảng viên cộng sản phải tổ chức thành

đại đội công tác đặc biệt. Chỉ định đồng chí Đu-ba-va làm

đại đội trưởng. Sáu phân đội thì mỗi phân đội một nhiệm vụ

nhất định. Công việc còn lại chia đều làm sáu phần. Mỗi

phân đội có phần việc của mình. Trước ngày mồng một

tháng Giêng, tất cả mọi việc phải xong. Phân đội nào xong

trước thì nghỉ trước và được về tỉnh. Ngoài ra, chủ tịch

đoàn Ban chấp hành tỉnh sẽ đề nghị Ban chấp hành Trung

ương U-cơ-ren( Hội đồng bộ trưởng U-crai-na) tặng

thưởng huân chương Cờ Đỏ cho người lao động khá nhất

trong mỗi phân đội.

     Đã chỉ định xong đội trưởng của các đội. Đội một: đồng

chí Pan-cơ-ra-tốp, đội hai: đồng chí Đu-ba-va, đội ba: đồng

chí Khô-mu-tốp, đội bốn: đồng chí La- gu-chin, đội năm:

đồng chí Pa-ven, đội sáu: đồng chí Ô-cu-nhếp.

     Giu-khơ-rai kết thúc bài nói chuyện:

     - Còn người phụ trách chung toàn bộ công trường,

nghĩa là nhà lãnh đạo tư tưởng và tổ chức của công trường

thì vẫn là đồng chí An-tôn Nhi-ki-phô-rô-vích Tô-ca-rếp.

     Từng nhịp vỗ tay rào rào dường như có cả một đàn

chim cất cánh bay lên. Những khuôn mặt khắc khổ hôm nay

cười tươi nở. Câu nói đùa thân mật, trong đoạn cuối câu

chuyện, từ miệng một người xưa nay vốn nghiêm nghị, đã

làm nổ ra một chuỗi cười tiêu tan hết căng thẳng trong óc

từ nãy đến giờ của người nghe chăm chú.

    Hai mươi con người tiễn chân A-kim và Giu-khơ- rai

đến tận chiếc xe goòng.

    Lúc bắt tay chào Pa-ven, nhìn chiếc giày bám đầy tuyết

của Pa-ven, Giu-khơ-rai nói khẽ:

    - Anh sẽ gửi giày xuống cho chú. Chân chú bị tê cóng

rồi còn gì nữa?

    - Xem chừng tê cứng rồi, anh ạ. Đã buốt buốt và bắt

đầu sưng. - Pa-ven đáp lại và sực nhớ đến lời ngỏ xin từ

lâu, anh nắm tay áo Giu-khơ-rai: - Anh có thể cho em mấy

viên đạn súng ngắn được không anh? Em chỉ còn ba viên

đạn tốt thôi.

    Giu-khơ-rai ngậm ngùi lắc đầu, nhưng trông thấy vẻ thất

vọng trong cặp mắt Pa-ven, anh không do dự, cởi ngay

khẩu Mô-de của mình đưa cho Pa-ven.

    - Đây anh tặng chú.

    Pa-ven vẫn chưa tin ngay là mình được một vật tặng từ

lâu hằng mơ ước, nhưng Giu-khơ-rai đã khoác cây súng

lên vai Pa-ven:

    - Cầm lấy, cầm lấy. Anh biết mắt chú đã mê nó từ lâu.

Nhưng chú phải cẩn thận, chớ bắn phải người nhà đấy

nhớ. Còn ba hộp đạn đầy đấy, anh cho chú cả.

    Những cặp mắt thèm muốn đều nhìn chòng chọc vào

Pa-ven. Có người kêu lên:

    - Páp-ca ơi, đưa tớ đổi cho cậu lấy đôi giày ống lót dạ

và thêm cả một chiếc áo da ngắn nào!

    Pan-cơ-ra-tốp lấy tay phát vào lưng Pa-ven nói trêu:

    - Thằng khập khiễng, đổi lấy đôi giày đi cho được việc.

Cứ kéo lê mãi chiếc giày cao su thì chẳng sống đến ngày

lễ Thiên Chúa giáng sinh đâu !

    Đặt chân lên bậc xe goòng, Giu-khơ-rai tỳ vào gối viết

giấy phép cho khẩu súng vừa tặng.

    Mới sáng tinh sương ngày hôm sau đã thấy ầm ầm ở

ngã ba đường, đoàn tàu bọc sắt đi vào ga. Hơi tỏa ra trắng

xóa như lông ngỗng trời, bốc lên thành những lùm khói dày

đặc rồi tan vào bầu trời trong và lạnh giá. Những người

mặc áo da từ những toa xe bọc sắt bước ra. Mấy giờ sau,

ba anh công binh đến chôn sâu hai quả mìn to tướng màu

thép nâu nâu; họ buộc hai dây dài vào mìn và bắn mấy phát

súng hiệu. Nghe súng hiệu, người ta vội vàng chạy tản,

tránh xa cái gò trở nên ghê sợ. Diêm châm vào đầu ngòi

mìn, làm phụt lửa lân tinh.

    Trong một lúc, hàng trăm con người có mặt hồi hộp như

thắt lòng lại. Một phút, hai phút chờ đợi sợ hãi... Bỗng nhiên

mặt đất chuyển mình, một sức mạnh ghê gớm đã cuốn bay

những đỉnh dốc của ngọn đồi, tung lên cao những mảnh đất

lớn. Tiếng nổ thứ hai mạnh hơn tiếng thứ nhất. Tiếng nổ

ghê người vang khắp khu rừng, ầm ầm, hỗn loạn, kèm theo

tiếng rào rào của những tảng đất bị bắn tung lên rơi xuống.

    Chỗ ấy vừa rồi còn là ngọn đồi, giờ đã biến thành hố

sâu toác ra, chung quanh trong vòng hai chục thước, đất

vụn bắn tung tóe khắp mặt tuyết trắng như đường.

    Mọi người cầm xà beng và xẻng cuốc chạy túa lại chỗ

hố sâu do mìn nổ vừa đào lên.

    Sau khi Giu-khơ-rai đi khỏi, ở công trường, không khí

thi đua mở ra sôi nổi: ai sẽ là người lao động khá nhất?

    Trời còn rất lâu mới sáng, Pa-ven đã khẽ trở dậy để

không làm thức giấc anh em. Anh cố lê đôi chân tê cứng

trên sàn nhà lạnh buốt, vào bếp, đun nước sôi pha chè, rồi

trở ra đánh thức toàn đội dậy.

    Khi toàn công trường sẵn sàng thì bên ngoài trời đã

sáng rõ.

    Buổi uống nước chè sáng ở nhà bếp, Pan-cơ-ra-tốp

chen đến bàn Đu-ba-va và đội của anh ta là đám thanh niên

xưởng sửa chữa vũ khí. Pan-cơ-ra-tốp nói với Đu-ba-va,

giọng có vẻ bực tức:

    - Cậu thấy chưa, thằng cha Páp-ca đã đánh thức đội

của nó dậy từ lúc trời chưa sáng. Tớ đoán chắc chúng nó

đã đặt được hai mươi thước đường rồi. Anh em trong đội

tớ nói là Páp-ca khéo động viên các anh em thợ các phân

xưởng chính nhà máy xe lửa của nó, bọn họ định ngày hăm

nhăm tháng Chạp là đã làm xong đoạn đường của đội. Ra

nó muốn xách mũi tất cả chúng ta đấy chắc. Nhưng xin lỗi

các tướng ấy để rồi xem ai hơn !

    Đu-ba-va cười nhạt. Anh thừa hiểu tại sao cách làm

của phân đội công nhân các phân xưởng chính nhà máy xe

lửa lại chạm đến lòng người bí thư thanh niên khu bến tàu

như vậy. Việc làm của Pa-ven là một roi quất mạnh vào cả

bản thân Đu-ba-va nữa: lặng lẽ không nói, Pa-ven đã lên

tiếng thách thức công trường.

    Pan-cơ-ra-tốp nói:

    - Tình bạn là một chuyện, còn đây là chuyện khác: đây là

vấn đề ai hơn ai.

    Gần giữa trưa, công việc đang hăng hái của đội Pa-ven

bỗng nhiên bị ngừng lại. Người gác đứng bên giá súng

trông thấy một toán kỵ binh xuất hiện trong rừng, liền bắn

báo động.

    - Cầm lấy súng anh em ơi! Có phỉ ! - Pa-ven la to và

quẳng xẻng xuống, rồi nhảy bổ lại gốc cây có treo khẩu

súng mô-de của anh.

    Lấy súng xong, cả đội nằm dàn ngay ra mặt tuyết cạnh

đường. Những người kỵ binh đi đầu vẫy mũ. Một người

trong bọn họ kêu to:

    - Dừng lại, các đồng chí! Người nhà đây mà!

    Chừng năm mươi chiến sĩ kỵ binh, đội mũ Bu-đi- on-ny

có sao đỏ, đang men theo đường cái, tiến lại gần.

    Thì ra đó là một trung đội của trung đoàn Pu-dư- rếp-ski

đến thăm công trường. Pa-ven để ý đến cái tai cụt của con

ngựa người chỉ huy cưỡi. Con ngựa cái lông xám đẹp có

đốm trắng trên trán không chịu đứng yên một chỗ, cứ đi

xoay vòng tròn dưới tay cương của người cưỡi nó. Thốt

nhiên, Pa-ven nhảy bổ đến chỗ con ngựa, và lúc Pa-ven

chạy đến tóm lấy bờm thì nó sợ hãi lùi lại.

    - Lư-sca, con nỡm này, không ngờ ta lại gặp mi ở đây!

Con yêu mĩ miều cụt tai của ta xông pha lửa đạn mà vẫn

còn sống yên lành đấy ư?...

    Pa-ven âu yếm ôm lấy cái cổ mềm mại của con ngựa

và lấy tay vuốt ve cái mũi phập phồng của nó.

    Người chỉ huy chăm chú nhìn Pa-ven. Sau khi đã nhận

ra người quen, đồng chí sửng sốt kêu lên:

    - Ơ kìa ! Pa-ven đấy à? Cậu nhận ra ngựa của cậu mà

sao không nhận ra Xê-rê-đa. Chào người anh em.

    *

    Trên tỉnh đều dồn sức "chạy" cho công trường. Cố

gắng đó đã ảnh hưởng tốt đến công việc ở đây ngay. Giác-

ki đã dốc hết lực lượng ở quận ủy, gửi toàn bộ đoàn viên

còn lại đến Bai-a-rơ-ca. Ở khu Xô-lô-men- ca chỉ còn lại có

số nữ đồng chí. Ở Trường kỹ thuật cầu đường, Giác-ki đã

tìm cách lập được một đội sinh viên nữa gửi ra công

trường.

    Lúc báo tin đó cho A-kim, Giác-ki nói nửa đùa, nửa

thật:

    - Chỉ còn độc mình tôi với phái vô sản giống cái ở lại

nhà. Tôi sẽ để Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, thay tôi sẽ viết lên

cánh cửa: "Ban phụ nữ". Còn tôi thì cũng chạy đến Bai-a-

rơ-ca nốt thôi. Bởi vì đồng chí có thấy không, giống đàn ông

ở lại có độc mình tôi. Thật là không tiện. Các cô ấy cứ nhìn

tôi bằng cặp mắt nghi ngờ. Chắc thế nào các cô ấy cũng

nói với nhau: "Cái anh chàng ngỗng đực đầu đàn này phái

tụi con trai đi hết, còn mình thì ở lại". Hay có khi còn nói

những câu tệ hơn nữa kia. Đề nghị đồng chí đồng ý cho tôi

đi.

    A-kim cười nhưng không đồng ý.

    Người kéo đến Bai-a-rơ-ca rất đông, trong số đó có cả

sáu mươi sinh viên trường kỹ thuật cầu đường.

    Giu-khơ-rai đã lấy được ở Cục đường sắt bốn toa xe

gửi đến chỗ công trường làm chỗ tạm trú cho những công

nhân mới đến.

    Phân đội Đu-ba-va được lệnh rút ra khỏi công trường đi

Pu-sa Vô-đi-xa để lấy một số đầu máy nhỏ và sáu mươi

lăm toa trần cho nhánh đường sắt này. Công việc này

được tính vào nhiệm vụ trên công trường của họ.

    Trước khi đi, Đu-ba-va góp ý kiến với cụ Tô-ca-rếp là

nên gọi Cơ-la-vi-sếch lên công trường và giao cho anh ta

một phân đội mới tổ chức. Tô-ca-rếp đồng ý và ra lệnh

ngay, không ngờ đến duyên cớ chính đã làm Đu-ba-va nghĩ

đến chàng trai người Tiệp kia ở trên đời. Duyên cớ ấy là

bức thư của An-na vừa gửi cho anh, do các anh em ở Xô-

lô-men-ca mới đến mang tới. An-na viết:

    "Anh Đu-ba-va! Em và anh Cơ-la-vi-sếch đã chọn cho

các anh một đống sách. Gửi anh và toàn thể những chiến sĩ

xung kích ở Bai-a-rơ-ca lời chào nồng nhiệt. Các anh là

những tay rất cừ. Chúc các anh can đảm và nghị lực. Hôm

qua đã phát hết nhẵn số củi cuối cùng còn lại trong kho.

Cơ-la-vi-sếch nhờ chuyển lời thăm anh. Anh ấy là một thanh

niên rất trội. Chính tự tay anh ấy nướng bánh mì cho các

anh đấy. Anh ấy không giao cho ai làm cả. Tự tay anh ấy

rây lấy bột mì, nhào lấy bột bánh. Không biết anh ấy khéo

kiếm đâu ra được thứ bột mì tốt nên bánh mì làm ra rất

ngon, khác hẳn với thứ bánh em vẫn lĩnh hàng ngày. Tối

đến, anh chị em đều họp mặt ở nhà em: Có Ta-li-a, con cụ

La-gu-chin, A-rơ-chu-kin, Cơ-la- vi-sếch và đôi khi cả Giác-

ki cũng đến. Có đẩy mạnh được việc học, nhưng phần lớn

là nói đến tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người, nhất là

thường nói đến các anh trên công trường. Chị em đều bực

mình vì chuyện đồng chí Tô-ca-rếp từ chối không nhận họ

lên công trường làm việc. Chị em quả quyết gian khổ thế

nào đi nữa cũng sẽ chịu được như mọi người. Ta- li-a nói:

"Mình sẽ mặc áo của thầy mình và sẽ lên gặp ông cụ, xem

ông cụ có đuổi ra khỏi đấy được không nào".

    Chắc nó sẽ làm thế thật đấy. Anh chuyển hộ lời em

thăm anh chàng mắt đen. An-na".

    *

    Bão tuyết bỗng nổi lên dữ dội. Trời bị mây xám nghịt

kéo đến phủ kín vòm trời tụt xuống thấp hẳn. Tuyết rơi dày

đặc. Đến chiều tối, gió rít vào các ống khói, gào thét giữa

rừng cây, chạy đuổi theo những cơn lốc tuyết xoáy tròn, làm

cho khu rừng ngập những tiếng hú ghê rợn.

    Bão gầm thét, phá phách suốt đêm. Tuy lò đốt cả đêm,

người vẫn thấy rét buốt thấu xương. Gian nhà ga đổ nát

này không còn giữ được hơi nóng cho người.

    Sáng hôm sau, các đội lao động ra làm việc, thụt chân

sâu vào tầng tuyết dày cồm cộm. Nhưng trên rừng cây, mặt

trời đỏ rực và nền trời trong xanh không chút vẩn mây.

    Phân đội Pa-ven quét tuyết trên phần đường của mình

bị ngập tuyết. Cho đến lúc này, Pa-ven mới cảm thấy hết

khổ cực của giá rét. Chiếc áo cũ Ô-cu- nhếp cho chẳng làm

anh ấm được, còn chiếc giày cao- su thì nhét đầy tuyết

đóng băng. Đã mấy lần giày thụt vào đống tuyết. Vì anh ngủ

trên sàn nhà rắn như đá nên ở cổ mọc lên hai cái nhọt

tướng. Cụ Tô-ca-rếp cho anh cái khăn mặt dùng làm khăn

quàng cổ.

    Pa-ven cầm cái xẻng to bằng gỗ hùng hục gạt tuyết,

người anh gầy rạc đi, hai mắt sưng đỏ húp lên.

    Giữa lúc đó, một chuyến tàu chở hành khách đang ì ạch

bò đến tận ga. Chiếc đầu máy hết hơi cố sức lắm mới lôi

được con tàu về đây. Trong toa than, không còn lấy một

thanh củi, những thanh củi cuối cùng sắp cháy rụi hết trong

lò.

    Người thợ máy kêu với trưởng ga:

    - Cho củi thì chúng tôi đi, bằng không thì bây giờ trong

máy cũng hãy còn có cái để chạy được một tí, xin cho lái

dẹp vào khu tàu trú.

    Thế là người ta lái tàu dẹp sang bên và giải thích cho

đám hành khách thất đảm kia biết lý do dừng lại. Người

trong các toa chật ních, kẻ thở vắn than dài, đứa chửi rủa

ầm ĩ.

    Trưởng ga mách nước cho những người lái chuyến tàu:

    - Các anh lại nói chuyện với cụ già kia kìa, ông cụ đang

đi ở ke ấy. Cụ ấy là phụ trách công trường ở đây. Cụ ta có

thể hạ lệnh xe trượt tuyết chở củi đến cho đầu tàu. Ở đây

họ vẫn dùng củi gỗ làm tà vẹt đấy mà.

    Mấy người lái tàu đến gặp Tô-ca-rếp. Ông cụ bảo họ:

    - Chúng tôi sẽ cho gỗ, nhưng không cho không đâu. Vì

đây là vật liệu xây dựng của chúng tôi. Hiện công trường

chúng tôi đang bị tuyết phủ làm ngăn trở công việc mà

trong tàu các anh có sáu bảy trăm hành khách. Đàn bà, trẻ

con thì có thể ở lại trong toa, còn những người khác thì

xuống vác xẻng đi xúc tuyết độ đến chiều tối là được. Có

làm thế thì mới được cấp củi cho tàu chạy. Bằng không thì

xin mời họ cứ ngồi với con tàu chết tiệt đến sang năm mới

vậy.

    Có tiếng người sửng sốt la lên nhao nhao phía sau lưng

Pa-ven:

    - Anh em ơi, trông kìa! Trông tất cả đám người kia

xuống đông quá! Lại có cả phụ nữ nữa kia!

    Pa-ven quay lại.

    Tô-ca-rếp đi đến gần nói:

    - Đấy giao cho chú một trăm người. Chú giao việc cho

họ và trông họ làm, đừng để họ khoanh tay đứng không.

    Pa-ven phân công cho những người mới đến. Một anh

chàng cao lêu nghêu mặc đồng phục ngành đường sắt có

cổ bằng lông cừu, đầu đội mũ da dê ấm. Hắn ta đang quay

cái xẻng trên tay, tỏ vẻ bực tức và quay sang phía người

đàn bà trẻ tuổi đứng cạnh đội mũ da rái cá, trên mỏm có

chiếc núm bằng lông nõn, hắn càu nhàu:

    - Không đời nào anh lại xúc tuyết, chẳng ai có quyền bắt

anh được cả. Anh là kỹ sư cầu đường, nếu họ cầu xin anh

giúp thì anh có thể giúp đỡ chỉ huy công việc cho họ. Còn

như xúc tuyết thì không phải việc của anh, không phải việc

của em. Không ai bắt ta làm được. Không có chỉ thị cấp

nào quy định làm như thế cả. Cái lão già ấy đã làm trái

nguyên tắc. Anh sẽ kiện cho lão ta biết tay. - Rồi hắn hỏi

một công nhân đứng gần hắn ta nhất: - Ai là đội trưởng ở

đây?

    Pa-ven đi tới:

    - Sao anh không làm việc?

    Thằng kia đưa mắt khinh bỉ nhìn Pa-ven từ đầu đến

chân:

    - Còn anh là ai?

    - Tôi là công nhân.

    - Thế thì tôi chẳng thèm nói với anh. Cứ bảo đội trưởng

hay là giám thị lại đây.

    Pa-ven quắc mắt nhìn hắn:

    - Không muốn làm à? Tùy đấy. Nhưng nếu vé không có

dấu của chúng tôi thì đừng hòng lên tàu. Đây là mệnh lệnh

của đồng chí phụ trách công trường.

    Nói xong, Pa-ven quay sang phía người phụ nữ:

    - Còn chị nữa, chị cũng không chịu làm phải không?

    Nhưng bỗng Pa-ven ngẩn người ra trong giây lát: trước

mặt anh là Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va.

    Tô-nhi-a khó khăn lắm mới nhận ra cái người mặc rách

rưới này là Pa-ven. Pa-ven đứng ngay đó, trước mặt Tô-

nhi-a, mình khoác manh áo rách bươm, chân xỏ đôi ủng kỳ

quái, cổ buộc cái khăn mặt cáu bẩn, mặt đã lâu không rửa.

Chỉ độc có đôi mắt là vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên một

ngọn lửa không gì dập tắt được. Đôi mắt Pa-ven. Thế mà

cái người rách rưới y như ma cà bông này cách đây không

lâu đã là người mà Tô-nhi-a yêu dấu ! Không ngờ được.

Mới chẳng bao lâu mà sự đời đã thay đổi cả!

    Tô-nhi-a mới lấy chồng, lần này theo chồng về một

thành phố lớn, nơi chồng đảm nhiệm một chức vụ trọng yếu

ở Cục đường sắt. Và trên đường đi, tại chốn này đây, Tô-

nhi-a lại phải tình cờ gặp lại người tình thuở ấy ! Tô-nhi-a

thấy ngại ngùng không dám đưa tay ra bắt. Va-xi-li, chồng

chị, sẽ nghĩ thế nào, nếu chị bắt tay Pa-ven? Đời Pa-ven đã

xuống dốc đến thế thì mình cũng ngượng với mình thật. Rõ

ràng là anh chàng đốt lò này đã chẳng ngóc đầu lên được:

anh ta chẳng làm được nghề ngỗng gì hơn cái nghề đi xúc

đất!

    Tô-nhi-a đứng ngây, mặt đỏ bừng, thẹn thùng, luống

cuống. Tên kỹ sư, thấy gã rách rưới cứ nhìn vợ mình chằm

chằm không rời mắt, thì cho là gã ta xấc xược, tức điên

người. Hắn quẳng xẻng xuống đất, lại gần Tô-nhi-a.

    - Lại đằng này Tô-nhi-a. Anh không thể nhìn cái thằng

khố rách áo ôm la-da-rôn này mà yên được.

    ( La-da-rôn, dân bị coi là hạ lưu xừ Náp-lơ trong truyện

Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi)

    Pa-ven đã đọc truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi, nên

thừa hiểu thế nào là la-da-rôn rồi.

    - Nếu tao là la-da-rôn thì mày chỉ là một thằng tư sản mà

người ta chưa cắt cổ nốt. - Pa-ven thét lên cự lại tên kỹ sư,

rồi quay nhìn Tô-nhi-a, nói gọn lỏn mấy tiếng: - Còn đồng

chí Tu-ma-nô-va, đồng chí hãy nhặt xẻng đứng vào hàng mà

làm đi. Đừng có bắt chước cái loài bò đực ăn no béo xác

ấy. Xin lỗi, nhưng tôi không biết hắn với đồng chí là thế nào.

    Pa-ven nhìn đôi giày đi tuyết của Tô-nhi-a, mỉm cười

không thiện cảm và nói thêm:

    - Tôi chẳng khuyên ai lần chần ở lại đây làm gì. Hôm

mới rồi, bọn phỉ vừa đến quấy chúng tôi đấy.

    Nói xong, Pa-ven quay đi, lê gót giày cao su, bon về chỗ

anh em mình.

    Lời nói vừa rồi của Pa-ven tác động ngay cả đến anh

chàng kỹ sư.

    Tô-nhi-a đã bảo được hắn ở lại và đi xúc tuyết vậy.

    Chiều đến, xong việc, hành khách lại trở về ga. Chồng

Tô-nhi-a nhảy tót đi trước, vội chiếm chỗ tốt trong toa. Tô-

nhi-a dừng lại để anh em công nhân đi hết. Pa-ven mệt

nhoài chống xẻng đi sau cùng. Khi hai người đi ngang

nhau, Tô-nhi-a lên tiếng:

    - Chào Pa-vơ-lu-sa. Nói thật với anh, tôi không ngờ lại

thấy anh như thế này. Hóa ra chính quyền Xô-viết không có

việc gì khác tốt hơn đáng giao cho anh hay sao mà lại để

anh đi xúc đất như vậy? Tôi cứ tưởng đã từ lâu anh làm

chính ủy hay là giữ một chức vụ gì đại khái như vậy rồi kia

đấy. Đời anh thật cũng chẳng lấy gì được may mắn lắm

nhỉ...

    Pa-ven dừng lại, ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a từ đầu đến

chân.

    - Còn tôi, tôi cũng không ngờ gặp cô lại đến nỗi... bọc

đường thế này - Nghĩ mãi anh mới tìm được tiếng nói bóng

bẩy thích hợp và nhẹ hơn.

    Tai Tô-nhi-a đỏ tía lên.

    - Anh vẫn cái tật cục cằn như trước.

    Pa-ven vác xẻng lên vai và rảo bước đi. Được vài

bước, anh mới đáp lại:

    - Tính cục cằn của tôi, nói cô đừng giận, nó còn hơn cái

điệu lịch sự của cô, đồng chí Tu-ma-nô-va ạ! Về đời tôi,

không mượn lo cô phải lo hộ. Đâu vẫn vào đấy. Chỉ có đời

cô thì tôi không ngờ là nó đốn đến thế. Cách đây hai năm,

cô khá hơn nhiều, lúc đó cô còn dám bắt tay một người thợ

và cô không lấy đó làm xấu hổ. Nhưng bây giờ thì người cô

sặc mùi băng phiến. Nói thật tình ra, tôi chẳng có gì để nói

với cô nữa.

    *

    Pa-ven nhận được thư của A-rơ-chom. Anh cho biết

sắp cưới vợ và khẩn khoản giục Pa-ven thế nào cũng phải

về dự.

    Gió dứt lá thư khỏi tay Pa-ven, lá thư bay lên không như

con chim bồ câu. Không, anh chẳng đi dự đám cưới được

đâu. Có thể nào lại nghĩ đến đi được! Từ hôm qua, thằng

gấu Pan-cơ-ra-tốp đã đuổi kịp phân đội của anh và đang

tiến với một đà nhanh ai cũng phải sợ. Anh công nhân bến

tàu này dốc toàn lực lao lên phía trước, quyết chí vươn lên

hàng đầu, vẻ trầm tĩnh ngày thường của anh đã biến đi, anh

luôn luôn động viên toàn anh em "bến tàu” của mình làm

việc với một nhịp điệu như điên cuồng.

   Pa-tô-sơ-kin theo dõi cuộc thi đua giữa những người

làm đường, một cuộc thi im lặng mà ác liệt này. Ông già

gãi đầu ngạc nhiên tự hỏi mình: "Không hiểu họ là những

con người thế nào mà làm được như vậy nhỉ? Cái sức

mạnh thật khó hiểu kia là thế nào? Thật nếu trời cứ thế này

cho được tám ngày nữa thì chúng mình sẽ làm được tới

khu rừng đã đốn gỗ. Tục ngữ nói rất đúng: có sống hết đời,

học hành trọn kiếp, cho đến già vẫn còn thấy là mình dốt.

Việc làm của những con người này đã làm đảo lộn hết mọi

con tính và tất cả các chỉ tiêu".

   Cơ-la-vi-sếch ở dưới tỉnh lên mang đến số bánh mì

cuối cùng do chính tay anh làm ra. Thăm Tô-ca-rếp xong,

anh đến chỗ làm việc tìm Pa-ven. Đôi bạn gặp nhau thân

thiết. Cơ-la-vi-sếch mỉm cười rút trong bao túi ra một cái

áo bông Thụy Điển màu vàng rất choáng. Anh lấy tay vỗ

mặt da mềm của chiếc áo và nói với Pa-ven:

   - Áo gửi cho cậu đây. Có đoán được ai gửi không?...

Hừ, cậu ngốc quá đi thôi! Đồng chí Ri-ta gửi cho cậu đấy vì

chị ấy không muốn cậu chết rét, ngốc ạ!Chẳng là anh A-

kim nói với chị ấy là cậu mặc trần có cái vét-tông, chịu rét

mà làm việc. Áo này do đồng chí Ô-sin-ski tặng chị ấy, mới

cầm lấy ở tay anh ta tặng, chị ấy đưa ngay cho mình và

bảo: "Mang ra cho Pa- ven". Ôn-sin-ski nhăn nhó nói: "Tôi

có thể gửi cho đồng chí ấy chiếc áo ca-pốt". Nhưng Ri-ta

cười hơ hớ: "Thôi, anh ấy mặc áo khoác ngắn làm việc

tiện hơn. Cơ-la-vi-sếch mang hộ nhớ!".

   Pa-ven cầm tấm áo sang trọng đó trong tay, lòng xiết

nỗi ngạc nhiên. Anh ngập ngừng một hồi mới khoác nó lên

người đang rét run cầm cập. Lớp lông mềm làm cho vai và

ngực anh thấy ấm lại ngay.

   *

   Ri-ta ghi trong nhật ký:

20 tháng Chạp.

   Đang mùa bão. Tuyết xuống nhiều, gió rít mạnh. Các

anh em ở Bai-a-rơ-ca đã gần đến đích thì những cơn rét

dữ và bão tuyết làm cho họ phải dừng lại. Họ bị ngập trong

tuyết. Đất có tuyết phủ đông cứng lại, đào đất gay thật. Chỉ

còn lại tất cả bảy trăm năm mươi thước nữa thôi, nhưng là

những thước đường ác liệt nhất.

   Tô-ca-rếp báo tin: trên công trường chớm có dịch

thương hàn, có ba người đã mắc bệnh.

22 tháng Chạp.

   Không ai ở Bai-a-rơ-ca về dự cuộc họp toàn thể chấp

hành tỉnh đoàn thanh niên. Bọn phỉ vừa làm trúc chuyến tàu

chở bánh mì ở đoạn đường cách Bai- a-rơ-ca mười bảy

cây số. Theo mệnh lệnh của đại diện Ban dân ủy cung cấp,

toàn thể công nhân xây dựng đường sắt phải điều đến chỗ

xảy ra tai nạn.

23 tháng Chạp.

   Lại thêm bảy người mắc thương hàn từ Bai-a-rơ- ca

đưa về tỉnh. Trong số đó có Ô-cu-nhếp. Mình có ra ga.

Người ta đưa xuống những xác đã chết cứng vì lạnh từ các

thành toa của chuyến tàu mới ở Khác- cốp tới. Ở nhà

thương rét lắm. Trận bão tuyết tai ác! Bao giờ mới hết bão

cho?

24 tháng chạp.

   Vừa ở đằng Giu-khơ-rai về. Té ra là đúng: đêm qua O-

rơ-lích đã dẫn cả lũ phỉ tập kích vào Bai-a- rơ-ca. Ta với

chúng đánh nhau trong hai tiếng đồng hồ. Quân phỉ cắt mất

đường dây, nên mãi sáng nay Giu-khơ-rai mới nhận được

báo cáo đích xác. Thổ phỉ bị đánh lui. Cụ Tô-ca-rếp bị

thương, đạn xuyên vào ngực. Hôm nay người ta sẽ đưa cụ

về đây. Cơ-la-vi- sếch bị chém chết. Đêm ấy, anh đến

phiên đi gác. Chính anh trông thấy bọn phỉ, anh liền vừa

báo động, vừa bắn chặn bọn giặc nhảy xổ vào, nhưng vì

không chạy kịp đến trường học, nên đã bị bọn phỉ chém

chết. Trong đội công nhân làm đường có mười một người

bị thương. Hiện giờ có chiếc tàu bọc sắt và hai đội kỵ binh

đang tuần tiễu ở đấy.

   Pan-cơ-ra-tốp lên thay cụ Tô-ca-rếp phụ trách công

trường. Ban ngày, Pu-dư-rếp-ski đã vây một bộ phận phỉ ở

đồi Gơ-lu-bô-ki và đã giết sạch không còn một mống.

Nhiều công nhân làm đường ngoài Đảng không đợi tàu

đến nữa, đã bỏ công trường lần theo đường tà-vẹt trốn về.

25 tháng Chạp.

   Người ta dã đưa cụ Tô-ca-rếp và những anh em bị

thương khác về đây và đem ngay vào bệnh viện cứu chữa.

Các bác sĩ đều hứa cứu sống ông già. Cụ ta nằm mê man

không biết gì. Tính mệnh của những người khác không

nguy lắm, có thể qua được.

   Tỉnh ủy và chấp hành tỉnh đoàn chúng mình nhận được

bức điện từ Bai-a-rơ-ca gửi về: "Để trả lời vụ quấy rối của

bọn thổ phỉ, chúng tôi, những người xung phong xây dựng

đường sắt, đã họp mít-tinh cùng với đơn vị tàu bọc sắt

mang tên "Vì chính quyền Xô-viết" và các chiến sĩ Hồng

quân trung đoàn kỵ binh, xin hứa với các đồng chí, dù trở

lực thế nào, đúng ngày mồng một tháng Giêng, chúng tôi sẽ

cung cấp được củi cho thành phố. Chúng tôi nguyện tiếp

tục làm việc với dũng khí càng tăng lên gấp bội. Đảng cộng

sản, người đã tin cậy gửi chúng tôi tới đây, muôn năm!

Chủ tịch buổi mít-tinh: Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Bí thư: Béc-

din".

    Thi hài Cơ-la-vi-sếch đã được an táng tại Xô-lô- men-

ca, theo tang lễ quân đội.

    *

    Đống củi ta hằng mong gần tới rồi, chẳng còn bao xa

nữa, nhưng công việc tiến hành chậm chạp không thể chịu

được, vì bệnh thương hàn mỗi ngày cướp mất hàng chục

bàn tay có ích, lúc này cần vô cùng, quý vô cùng.

    Pa-ven đi về phía ga, bước lảo đảo như người say

rượu hai chân chỉ chực khuỵu xuống. Anh bị sốt từ lâu

nhưng hôm nay cảm thấy người khó chịu hơn hẳn mọi khi.

    Bệnh thương hàn lâu nay phá tỉa đội làm đường, bây

giờ đã bắt đầu tấn công đến Pa-ven. Nhưng sức vóc rắn

chắc của anh đã chống cự lại, và năm hôm nay, anh vẫn

còn đủ sức nhấc mình khỏi sàn bê tông loáng thoáng phủ

rơm, để cùng anh em đi làm. Ngay cả cái áo lông ấm của

Ri-ta biếu và đôi giày ống lót dạ của Giu-khơ-rai gửi cho

đang bọc lấy đôi chân tê buốt, cũng không thể cứu anh khỏi

nguy được.

    Mỗi bước đi, anh thấy ngực đau nhói như dao đâm,

răng đánh vào nhau lập cập, mắt hoa lên và cây cối chung

quanh đối với anh hình như đang quay cuồng một cách lạ

lùng.

    Khó nhọc lắm anh mới lê bước được đến ga. Tiếng ồn

ào khác thường làm anh ngạc nhiên. Cố nhìn xem: thì ra có

một chuyến tàu dài dằng dặc đỗ dọc suốt nhà ga. Trên

những toa trần, toàn là các đầu máy nhỏ, đường ray, tà-vẹt.

Những người đi theo đoàn tàu mới đến đang bốc những

hàng ấy xuống. Pa-ven đi mấy bước nữa, người đã thấy

loạng choạng mất thăng bằng. Rồi đầu anh từ từ chạm đất.

Má đang nóng bừng áp vào tuyết thấy lành lạnh, dễ chịu.

    Mấy giờ sau, có người đi qua vấp phải người anh,

người ta mới đưa anh về căn nhà. Pa-ven thở dốc, tâm

thần mê man, không nhận ra được ai nữa. Y sĩ ở chiếc tàu

bọc sắt được mời đến khám, chẩn đoán:

    "Bị sưng phổi nặng và bị thương hàn. Nhiệt độ 41,5.

Còn nhức đầu xương và sưng cổ, nhưng không đáng kể vì

so với hai chứng trên chỉ là bệnh vặt. Chỉ hai bệnh trên

cũng đủ qua đời”.

    Pan-cơ-ra-tốp và Đu-ba-va vừa đi chuyến tàu dài tới đã

hết sức tìm mọi cách cứu sống Pa-ven.

    A-li-ô-sa Cô-khan-ski là người cùng quê với Pa- ven

được giao trách nhiệm đưa người bệnh về Sê-pê- tốp-ca.

    Nhờ toàn đội của Pa-ven giúp tay vào, chủ yếu là nhờ

áp lực của Khô-li-a-va, nên Pan-cơ-ra-tốp và Đu- ba-va

mới đưa được Pa-ven mê man bất tỉnh và A- li-ô-sa vào

một toa tàu đã chật ních người. Vì sợ bệnh thương hàn

truyền nhiễm, hành khách không cho đưa vào toa. Họ phản

đối ầm ĩ và dọa khi tàu chạy, họ sẽ quẳng người bệnh

xuống đường.

     Khô-li-a-va vung súng lục trước mũi những ai cản trở

việc đưa người bệnh lên tàu. Anh thét lên:

     - Người ốm này không có bệnh truyền nhiễm! Thế nào

cũng phải để cho người bệnh đi, dù cho có phải đuổi tất cả

mọi người xuống thì cũng cứ phải đưa đi ! Nói cho bọn các

anh nhớ rằng, nếu định chạm tay vào người anh ta, tôi sẽ

báo cho các nhân viên công an đặc biệt ở các ga dọc

đường: đuổi tất cả xuống tàu và tống giam ngay. A-li-ô-sa

này, đây là khẩu Mô- de của Pa-ven, cầm lấy, nếu đứa nào

dám đầu têu cho Pa-ven xuống thì cứ bắn ngay.

     Khô-li-a-va nói dọa thêm câu ấy.

     Tàu chuyển bánh. Trên sân ga vắng, Pan-cơ-ra- tốp đi

lại gần Đu-ba-va.

     - Cậu thấy thế nào, liệu có sống được không?

     Không có tiếng trả lời.

     - Về thôi. Đu-ba-va, nó sẽ thế nào thì cũng đành thôi. Tất

cả công việc giờ do chúng mình phải gánh vác cả. Đêm

nay, phải chuyển các đầu máy xuống để sáng mai còn đốt

lò thử xem.

     Khô-li-a-va gọi điện thoại suốt dọc đường tàu, nói

chuyện với các bạn công an đặc biệt của mình và tha thiết

đề nghị họ không để cho hành khách khiêng bệnh nhân Pa-

ven xuống tàu. Mãi đến lúc nhận được lời các bạn hứa

chắc chắn sẽ làm theo lời anh yêu cầu anh mới đi ngủ.

     Đến một nhà ga lớn, người ta khiêng từ chuyến tàu chở

khách xuống ngay sân ga một xác chết, xác một người

thanh niên lạ mặt tóc hoe. Anh ta là ai, vì sao chết, chẳng ai

biết cả. Các nhân viên công an đặc biệt của nhà ga nhớ tới

lời yêu cầu của Khô-li- a-va, bèn chạy lại toa xe để ngăn

cản không cho khiêng xuống, nhưng đến lúc chính mắt trông

thấy người thanh niên kia đã chết thật, họ đành phải cho

phép khiêng xác đến nhà xác của trạm tiêu chuyển.

   Họ gọi ngay dây nói về Bai-a-rơ-ca báo cho Khô- li a-va

biết tin bạn anh đã chết, số phận của người bạn đó bấy lâu

đã làm cho anh rất lo ngại.

   Một bức điện ngắn từ Bai-a-rơ-ca báo về Tỉnh ủy tin

Pa-ven từ trần.

   Còn A-li-ô-sa Cô-khan-ski thì sau khi đã đưa được Pa-

ven về tới gia đình, chính A-li-ô-sa lại bị bệnh thương hàn

quật ngã.

   *

   "9 tháng Giêng.

   Sao lòng tôi thấy đau đớn nặng nề như vậy? Trước khi

ngồi vào bàn, tôi đã khóc nhiều. Ai tưởng được rằng Ri-ta

này lại có thể khóc được, có thể khóc đau xót như thế

được ! Có phải bao giở nước mắt cũng là dấu hiệu của sự

yếu lòng không? Hôm nay ta khóc vì đau đớn sâu xa trong

lòng. Tại sao đau đớn này lại đến với ta giữa một ngày

thắng lợi lớn, khi giặc rét rùng rợn đã bị đánh bại rồi, khi

các ga xe lửa đã có củi gỗ quý giá chất đầy ăm ắp trong

kho? Tại sao nó lại đến vào giữa ngày mà tôi vừa được

dự lễ chiến thắng trong cuộc hội nghị mở rộng của Xô-viết

thành phố, lễ mừng những người anh hùng xây dựng

đường sắt? Phải, chúng ta đã thắng lợi, nhưng để góp vào

thắng lợi đó, hai người đã hy sinh: Cơ-la-vi-sếch và Pa-

ven.

   Cái chết của Pa-ven đã làm cho tôi thấy một sự thật:

đối với tôi, Pa-ven thân quý hơn là tôi vẫn tưởng.

     Thôi từ nay tôi bỏ không viết cuốn nhật ký này nữa. Rồi

có khi nào tôi bắt đầu một cuốn nhật ký mới nữa không?

Không biết thế nào. Ngay mai viết thư đến Khác-cốp báo

tin tôi đồng ý nhận công tác ở Trung ương đoàn thanh niên

cộng sản U-cơ-ren".

CHƯƠNG III

   Tuổi thanh xuân đã thắng. Pa-ven qua khỏi trận sốt

thương hàn. Lần này là lần thứ tư, anh đã thập tử nhất sinh

mà sống trở lại. Nằm mất một tháng rồi Pa-ven mới gượng

dậy được, người gầy và xanh, chân đứng còn run; tay vịn

vào tường, anh lần tập đi vài bước trong phòng. Mẹ phải

đỡ anh mới ra được đến cửa sổ, và đứng đấy nhìn con

đường cái rất lâu. Từng vũng tuyết tan óng ánh trên mặt

đường. Tuyết bắt đầu tan, báo hiệu mùa xuân.

   Ngay trước cửa sổ, trên cành anh đào, có con chim sẻ

đậu đang tỉa lông, giơ bụng xám, mắt ranh mãnh liếc nhìn

Pa-ven. Pa-ven lấy ngón tay gõ vào kính cửa sổ, khẽ mở

miệng nói:

   - Thế là ta với mi đã qua mùa đông rồi đấy, chim nhỉ.

   Mẹ hốt hoảng nhìn anh:

   - Con nói với ai thế ?

   - Con nói với con chim sẻ... Thôi nó bay đi mất rồi, con

chim nỡm!

   Và Pa-ven mỉm một nụ cười yếu ớt.

   Mùa xuân rồi. Pa-ven nghĩ đến trở về thành phố. Anh

thấy sức thì đã khá, có thể đi được, nhưng trong cơ thể có

một cái gì khác thường. Một hôm anh đang dạo chơi ngoài

vườn, bỗng thấy đau nhói trong xương sống, khiến anh ngã

vật ra đất. Khó nhọc lắm anh mới dậy và bò về phòng

được. Ngày hôm sau, bác sĩ khám bệnh anh rất kỹ. Bác sĩ

gõ những đốt xương sống, thấy có lỗ thủng sâu hoắm trong

xương, lấy làm lạ, hỏi anh:

    - Sao lưng đồng chí lại bị thủng sâu thế này?

    - Thưa bác sĩ, đấy là vết một viên đá lát đường bắn vào

lưng tôi. Trước thành Rốp-nô, có một quả đại bác 81 ly nổ

tung mặt đất...

    - Thế đồng chí làm thế nào mà đi được nữa? Viên đá

bắn thủng lưng như thế không đau sao?

    - Không. Tôi bị đá bắn vào lưng, nằm lăn ra đất đến

ngót hai hai tiếng đồng hồ, rồi lại lên ngựa đi. Mãi đến bây

giờ mới thấy đau là lần đầu.

    Bác sĩ cau mày suy nghĩ, tay nắn mãi vết lõm trên lưng.

    - Hừ !... Bị một cú như thế, gay đấy, chú ạ! Xương sống

con người ta không ưa bị đá giáng vào như thế đâu. Hy

vọng là đồng chí sẽ không thấy đau nữa. Thôi, mặc áo vào,

đồng chí Pa-ven ạ.

    Bác sĩ ái ngại nhìn người bệnh, không giấu nổi vẻ lo âu.

    A-rơ-chom về ở nhà Schi-ô-sa, vợ anh, một người đàn

bà chẳng có gì là đáng ưa cả. Nhà vợ là nông dân nghèo.

Một hôm, Pa-ven đến thăm anh. Một đứa bé con nhếch

nhác, mắt lác, đang chạy nhông ở sân nhỏ bẩn thỉu. Thấy

Pa-ven vào, thằng bé giương mắt ti hí nhìn chòng chọc, rồi

hí hoáy thọc ngón tay một cách nghiêm túc vào lỗ mũi, cất

tiếng hỏi:

    - Hỏi gì? Định vào nhà người ta ăn cắp chắc? Cút đi

ngay, không mẹ người ta chửi cho đấy!

    Túp lều cũ kỹ, thấp lè tè, cánh cửa sổ bé tí xíu mở ra. A-

rơ-chom gọi Pa-ven:

    - Vào đây Pa-vơ-lu-sa!

    Một mụ già mặt vàng như nghệ đang loay hoay trước

cửa lò. Mụ gườm gườm đưa mắt lườm Pa-ven và né

người tránh cho khách đi. Xong mụ lại về với mấy cái nồi

của mụ, mụ xê đi dịch lại làm nồi va chạm vào nhau loảng

xoảng.

    Hai đứa bé gái, bím tóc lơ thơ vài sợi, trèo phắt lên trên

lò bếp ngồi và trố mắt nhìn người khách lạ một cách tọc

mạch.

    A-rơ-chom ngồi ở bàn, có vẻ ngượng ngùng. Cả mẹ lẫn

em đều không tán thành anh lấy Schi-ô-sa. Anh đã ba năm

đi lại với nhà cô Ga-li-a xinh đẹp làm nghề khâu, con gái

bác thợ đá. Chẳng hiểu làm sao, vốn con nhà vô sản gốc,

anh lại bỏ Ga-li-a để lấy nhà chị Schi-ô-sa chẳng ra gì, đâm

đầu vào cái gia đình năm miệng ăn mà chẳng có ai là tay

thợ cả. A-rơ-chom xong việc ở sở đầu máy về nhà, lại nai

lưng ra với cái cày, đem hết sức gây dựng lại cơ đồ cho

nhà chị Schi-ô-sa đang lụn bại này.

    A-rơ-chom hiểu rằng Pa-ven không tán thành bước

đường tụt lại đằng sau của anh, bước đường "tiểu tư sản

hóa", như Pa-ven thường nói. Giờ đây, anh để ý xem em

sẽ xử sự như thế nào trong cái cảnh nhà mình thế này.

    Hai anh em hỏi han nhau qua loa mấy câu sáo chẳng ra

đâu vào đâu rồi Pa-ven tỏ ý muốn ra về. A-rơ-chom giữ lại.

    - Ở chơi đã, ăn với chúng tao tí chút. Chị sắp mang sữa

đến. Mai mày định đi thật đấy à? Trông mày còn yếu lắm,

Páp-ca ạ.

    Schi-ô-sa bước vào, chào Pa-ven và gọi A-rơ-chom

xuống nhà dưới khiêng vật gì giúp một tay. Mình Pa-ven ở

lại với mụ già ít nói. Tiếng chuông nhà thờ vọng vào cửa

sổ. Mụ già buông gậy chọc lò, càu nhàu:

    - Giê-su-ma, lạy Chúa tôi, đầu tắt mặt tối thế này chẳng

có lúc nào mà ngắm nguyện nữa.

     Mụ tụt khăn quàng ra khỏi cổ, rồi vừa nhìn gườm gườm

người khách lạ, vừa đi đến góc buồng, chỗ bày những ảnh

tượng lạnh lẽo, lâu ngày trông đã sỉn. Mụ đưa ba ngón tay

phải gầy giơ xương chụm vào nhau, rồi bắt đầu làm dấu.

Mấp máy đôi môi khô héo, mụ lâm râm cầu nguyện.

     - Lạy Cha chúng tôi ở trên đời, chúng tôi nguyện danh

Cha cả sáng...

     Ngoài sân thằng bé cưỡi lên lưng con lợn sề đen trùi

trũi có đôi tai chảy lòng thòng. Nó lấy chân không thúc vào

sườn lợn, tay bíu chặt mớ lông; con vật đang xoay tròn, vừa

quẫy vừa gầm gừ. Thằng bé thét lên:

     - Hư, đi ! Đi! Hê, gượm tí đã nào !

     Con lợn sề lồng lên trong sân, cố vật thằng bé trên lưng

ngã xuống đất. Song thằng bé ngồi chắc lắm.

     Mụ già bỏ kinh, bỏ nguyện, thò đầu ra cửa sổ:

     - Đồ quỷ sứ! Rồi tao dạy cho mày cưỡi ngựa. Có xuống

ngay không, thằng chết tiệt. Ngã chết bây giờ! Nghịch thế

thì thôi !

     Con lợn sề đã tìm cách thoát được tay kỵ mã. Mụ già

yên trí lại quay về với ảnh tượng. Nét mặt sùng kính, mụ tiếp

tục cầu kinh.

     - Nước Cha trị đến…

     Thằng bé con nước mắt chảy quanh, bước vào cửa. Nó

lấy cánh tay áo quệt lên cái mũi bị ngã dập xuống đất và

khóc mếu vì mũi đau. Nó vòi:

     - Mẹ ơi, cho con cái kẹo.

     Mụ già phát khùng quay lại:

     - Đồ quỷ mắt lác, mày không để cho bà xong buổi

nguyện. Đồ chó đẻ, đợi đấy, rồi bà lấy kẹo cho mày.

    Nói rồi, mụ nhặt cái roi trên ghế dài. Thằng bé biến

ngay lập tức. Hai đứa bé gái nằm sau lò bếp phì cười. Mụ

lại quay vào cầu nguyện, lần này nữa là lần thứ ba.

    Pa-ven đứng dậy và đi ra ngay, chẳng đợi A-rơ- chom

nữa. Khi anh ra khỏi, quay lại khép cổng, thì thấy mụ già

còn ngó qua cửa sổ ở ngách nhà nhìn theo anh.

    "Không hiểu thế quái nào mà ông A-rơ-chom lại chúi

đầu vào đây. Rồi đến chết cũng không rút cũng ra được.

Bà Schi-ô-sa rồi sẽ đẻ sòn sòn năm một. Ông A-rơ-chom

rồi sẽ sa lầy vào đấy như con bọ hung trong đống phân. -

Pa-ven chán ngán bước theo con đường vắng ngắt của thị

trấn nhỏ, vừa đi vừa nghĩ ngợi. - Lo cho ông ấy có thể còn

đổ đốn hơn nữa đến bỏ cả công việc ở sở đầu máy về nhà

ở lỳ với vợ. Thế mà mình cứ định bụng lôi ông ấy đi công

tác, đi hoạt động !"

    Pa-ven sung sướng ngày mai được đi rồi, ngày mai trở

về thành phố lớn, gặp lại bạn bè và những người mà anh

yêu quý. Thành phố đồ sộ, sức sống tràn trề, vẻ náo nhiệt

của dòng người không lúc nào ngớt, tiếng xe điện ầm ầm,

tiếng còi xe hơi inh ỏi, tất cả hấp dẫn anh. Song, cái chính

là anh cảm thấy tâm hồn anh bị thu hút bởi những lớp nhà

rộng mênh mông, xây bằng gạch; những công xưởng ám

khói, các thứ máy móc và tiếng dây chuyền da lướt ngọt

trên bánh xe. Anh bị hút về nơi có những bánh lái khổng lồ

quay tít theo đà máy chạy hối hả về nơi có mùi đầu máy, về

những thứ đối với anh đã trở thành thân thuộc. Ở đây trong

cái thị trấn nhỏ lầm lì này, đi dạo chơi quanh ngoài phố, Pa-

ven cảm thấy rất là khó thở. Thị trấn nhỏ này đối với anh trở

nên xa lạ và chán ngấy, điều đó anh chẳng lấy làm ngạc

nhiên. Anh chán ngấy đến nỗi ban ngày ra phố đi quanh

cũng đủ thấy khó chịu. Mỗi khi đi ngang qua nhà những mụ

lắm điều đang ngồi lê trên thềm nhà, Pa-ven nghe thấy các

mụ nói liến thoắng huyên thiên.

    - Các bà ơi, xem kìa. Cái thằng kia nó chui ở đâu ra mà

trông rõ khiếp !

    - Chắc nó là thằng ho lao, cái ngực sắp đi đời rồi.

    - Nhưng cái áo ngoài của nó trông có vẻ đắt tiền đấy.

    - Chắc nó xoáy ở đâu chứ gì...

    Và chuyện các mụ cứ rặt như thế. Pa-ven nghe lắm, rác

cả tai.

    Từ lâu, anh thấy mình đã đứt rễ hẳn với nơi này. Thành

phố lớn ngoài kia đối với anh gần gũi hơn, thân thiết hơn.

Các đồng chí với anh là một gia đình bền chặt, vui tươi. Với

lại, ngoài ấy, anh còn có công tác.

    Pa-ven bước chân đến rừng thông từ lúc nào cũng

không để ý đến nữa. Anh dừng lại ở chỗ đường rẽ đôi.

Bên phía tay phải, sau hàng rào cao với những cọc nhọn

hoắt, ngăn cách với rừng, là nhà pha cổ lỗ, âm u hình thù

đáng ghét, và sau nhà pha là những nếp nhà quét vôi trắng

của nhà thương.

    Chính ở bãi rộng này đây, Va-li-a và các đồng chí đã bị

treo cổ. Pa-ven đứng im lặng một lúc lâu trước nơi ngày

trước đặt giá treo cổ. Rồi anh lần bước xuống lối hào sâu,

lững thững đi ra huyệt chung của anh chị em ở trên gò.

    Những bàn tay trìu mến đã đặt lên các ngôi mộ những

vòng hoa kết bằng cành thông và rào quanh nghĩa địa nhỏ

này một hàng rào cây lá tươi. Đỉnh gò có những cây thông

cao vút trấn ngự. Cỏ non như tơ xanh phủ lên sườn gò

thoai thoải.

    Thị trấn nhỏ đến đây là hết phố. Cảnh vật nơi này tịch

mịch, rầu rầu. Rừng thông hiu hắt. Không gian phảng phất

mùi lá khô rữa và mùi đất mùa xuân nhuần lại.

    Nơi đây, anh chị em ta đã anh dung hy sinh để cho cuộc

đời cười được với những kẻ sinh ra trong cùng khổ, những

kẻ từ thuở lọt lòng mẹ là đã bắt đầu kiếp làm trâu ngựa.

    Pa-ven từ từ ngả mũ, lòng tràn ngập một mối buồn vô

hạn.

    Cái quý nhất của con người ta là đời sống. Đời người

chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận

vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ

thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm

mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta

đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự

nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống

gấp lên mới được. Vì tật bệnh vô lý hay một sự tình cờ bi

đát nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời.

    Mang nặng trong lòng những ý nghĩ ấy, Pa-ven rời khỏi

nghĩa địa.

    Mẹ buồn rầu sửa soạn hành lý cho con lên đường. Pa-

ven nhìn mẹ: mẹ khóc nhưng quay mặt đi không để anh

trông thấy.

    - Con ở lại có được không, con? Con xem, mẹ già rồi.

Cứ lủi thủi ở một mình thì khổ mẹ lắm, con ạ. Đấy, đẻ ra

ngần ấy đứa con, nhưng chúng nó vừa lớn lên thì mỗi đứa

đi một ngả. Cái gì nó kéo mày ra tỉnh thế, hở Pa-ven? Ở

đây sống cũng được chứ sao? Hay mày cũng đã có món

nào? Chắc mày đã phải lòng một con mái tóc ngắn nào

rồi? Cấm đứa nào nói với mụ già này một câu. Thằng A-

rơ-chom lấy vợ chẳng bảo qua tao một tiếng. Mày lại càng

tệ nữa. Chỉ khi nào chúng mày ốm đau què quặt, mẹ mới

được trông thấy mặt chúng mày thôi.

     Mẹ dịu dàng bảo Pa-ven như thế, vừa nói vừa xếp mớ

quần áo của con vào túi đã giặt sạch.

     Pa-ven ôm lấy vai mẹ, kéo mẹ lại gần:

     - Không đâu. Con chẳng có con mái nào đâu, mẹ ạ. Gà

thì lấy gà có phải không mẹ. Mẹ gọi thế chẳng hóa ra con là

gà sống à?

     Anh làm mẹ phải bật cười.

     - Mẹ ơi, con đã thề không nghĩ gì đến gái, nếu ta chưa

diệt hết bọn tư sản trên khắp thế gian này. Chắc mẹ lại bảo

như thế thì phải chờ lâu lắm phải không? Không đâu, mẹ ạ,

bọn tư sản chẳng đứng được lâu nữa...Rồi tất cả loài

người sẽ là một nước cộng hòa. Và các cụ ông, cụ bà già

như mẹ đã suốt đời làm lụng thì sẽ được sang nghỉ bên Ý,

ở đấy ấm áp, chung quanh toàn là biển cả. Ở bên nước Ý,

không bao giờ có mùa đông, mẹ ạ. Chúng con sẽ đưa mẹ,

những người già như mẹ, đến ở trong những dinh cơ của

bọn tư sản, và mẹ sẽ ngồi sưởi nắng ấm. Còn chúng con,

chúng con sẽ đi sửa nốt bọn tư sản bên Mỹ.

     - Con ạ, mẹ chẳng còn sống được đến ngày có câu

chuyện tiên phật của con đâu… Ông con xưa kia cũng ngỗ

ngược như con, ông làm thủy thủ, đi khắp năm châu bốn

biển. Nói trộm vía ông, cụ thật là tay ghê gớm. Trận Xê-va-

xtô-pôn, cụ đánh hăng thế nào mà khi về nhà thì thấy cụ

thiếu một chân một tay. Người ta gắn cho cụ hai huân

chương thập tự và hai mề đay có cuống của Nga hoàng.

Nhưng rồi ông cụ cũng chỉ chết cực chết khổ. Cụ bướng

lắm. Một lần cụ vác nạng nện vào đầu người Nhà nước.

Thế là bị tù một năm. Người ta tống vào nhà pha, huân

chương thập tự cũng chả cứu thoát được. Mẹ thấy tính con

dễ thường theo về tính ông ngày trước.

   - Mẹ ơi, con sắp xa mẹ, mẹ nói chuyện không vui ấy làm

gì? Thôi, mẹ đưa cho con cái đàn gió, đã lâu lắm con

chẳng mó đến nó.

   Pa-ven cúi xuống hàng phím bọc xà cừ. Mẹ sửng sốt vì

tiếng đàn của anh lạ đi, nghe không như ngày trước nữa.

Hết vẻ ngỗ nghịch vô tư lự, chất hăng say xốc nổi, những

ngón láy và ngón đệm mà cả thị trấn đều biết tài tay chơi

đàn gió trẻ tuổi Pa-ven. Nhạc anh chơi bây giờ thánh thót,

trầm bổng, nghe không kém phần mạnh mà càng thêm có

chiều sâu nữa.

   *

   Pa-ven ra ga một mình.

   Anh đã nói được cho mẹ ở lại nhà: anh không để mẹ đi

tiễn vì không muốn thấy mẹ khóc khi chia tay.

   Xe lửa phải xông xáo mà lên, toa nào toa ấy đứng ngồi

chen chúc. Pa-ven chiếm giường trên tầng cao nhất và nhìn

xuống đám người hầm hầm la lối đứng chật cả chỗ đi.

   Cảnh chuyến tàu nào cũng vậy, người ta kéo những

bao, những túi lê sền sệt, nhét vào dưới gầm ghế.

   Đến khi tàu chuyển bánh, hành khách mới bớt nóng nảy,

và bao giờ cũng thế, cứ đến lúc này thì người ta bắt đầu

giở bánh ra ăn nghiến ngấu.

   Pa-ven chẳng mấy chốc đã ngủ lăn.

    Nhà đầu tiên anh muốn đến thăm ở trung tâm thành phố,

trên đường lớn Ca-rét-sa-tích. Anh từ từ leo lên thang cầu.

Cảnh chung quanh quen mắt, chẳng có gì khác cả. Anh

bước qua cầu nhà ga, để tay lướt trên thành cầu nhẵn trơn.

Đến chỗ xuống thang, anh dừng lại: trên cầu vắng ngắt.

Ngửa trông lên cao thăm thẳm, bóng tối mượt như nhung

phủ lấy nền trời.

    Trên vòm trời cao, hằng hà sa số vì sao lấp lánh ánh

sáng màu lân tinh. Ở phía dưới, chỗ mặt đất lẫn với chân

trời, không biết đâu là ranh giới, thành phố rắc trong đêm

hàng triệu ánh đèn điện.

    Có đông người đi lên qua mặt Pa-ven. Tiếng nói gay

gắt của đám người tranh cãi nhau một câu chuyện gì phá

sự yên tĩnh của đêm tối. Và Pa-ven, mắt rời những ánh đèn

của thành phố, bước xuống thang.

    Trong phòng phát giấy của Ủy ban đặc biệt quận ở

đường Cơ-rét-sa-tích, người phụ trách cho Pa-ven biết là

Giu-khơ-rai đã đổi đi tỉnh khác từ lâu.

    Đồng chí đó hỏi đi hỏi lại Pa-ven; mãi đến khi đã tin là

Pa-ven có quen riêng Giu-khơ-rai, mới cho biết qua loa

thêm. Cách đây hai tháng, Giu-khơ-rai được lệnh điều đi

Ta-sơ-ken, đến công tác ở mặt trận Tuốc- kết-stan. Pa-ven

nghe tin chán đến nỗi không buồn hỏi thêm nữa. Chẳng nói

chẳng rằng, anh quay gót đi ra. Mệt quá, anh ngồi xuống

bậc cửa nghỉ một lát.

    Tàu điện chạy qua, bánh xe sắt lăn rầm rầm vang cả

phố. Trên các vỉa hè dòng thác người lũ lượt tràn đi. Náo

nhiệt quá ! Lúc thì có tiếng cười rúc rích của đàn bà, lúc thì

giọng trầm trầm của đàn ông, lúc thì giọng lanh lảnh của

một chàng trai trẻ măng, lúc thì giọng ồ ồ của ông già. Làn

sóng người trôi đi không lúc nào ngớt, ai nấy dáng dấp vội

vàng. Xe điện sáng trưng, đèn pha xe hơi rọi lên đột ngột,

hàng điện bật lên chói rực quanh biển quảng cáo của rạp

chiếu bóng bên cạnh. Và chỗ nào cũng là đám đông ngồn

ngộn, làm cho phố xá không lúc nào vắng tiếng huyên náo.

Đấy là buổi tối ở một thành phố lớn.

   Cảnh tấp nập ồn ào của đại lộ này làm Pa-ven khuây

khỏa nỗi buồn vì tin Giu-khơ-rai đã được điều động đi nơi

khác. Biết đi đâu bây giờ? Hay về phố Xô-lô- men-ca với lũ

bạn? Xa quá! Và anh nhớ ra một nhà quen ở gần đây, ngay

phố Trường đại học Cơ-rúc-lô. Phải đến ngay đấy mới

được.. Bởi vì sau Giu-khơ-rai thì Ri-ta chính là đồng chí mà

anh muốn gặp trước tiên. Vả chăng, đến đây, có thể ngủ

buồng A-kim được.

   Từ xa, anh đã nhìn thấy ánh đèn sáng ở cửa sổ trên

tầng gác. Để trấn tĩnh lòng mình, anh áp người vào cánh

cửa gỗ sên. Lên đến cầu thang, lại đứng dừng mấy giây

nữa. Trong buồng Ri-ta, có tiếng người nói chuyện, có

tiếng đàn ghi-ta.

   "Tiếng đàn ghi-ta? Thế ra được chơi cả ghi-ta nữa kia

à? Chế độ bây giờ có vẻ nới ra tợn”. Pa-ven nghĩ bụng như

vậy và khẽ gõ cửa buồng. Cảm thấy mình hồi hộp, anh cắn

chặt môi.

   Một người đàn bà trẻ lạ mặt, có để tóc mai quăn, ra mở

cửa. Người ấy nhìn Pa-ven:

   - Anh hỏi ai?

   Người đàn bà không khép cửa, và trông cách Pa- ven

đưa mắt nhìn vào đồ đạc trong buồng, chị ta cũng đủ đoán

hiểu ý.

   - Tôi muốn hỏi chị Ri-ta Uốt-chi-nô-vích.

   - Chị ấy không ở đây nữa. Hồi tháng Giêng chị ấy đổi đi

Khác-cốp và giờ nghe đâu lại đổi đi Mát-xcơ-va.

   - Thế đồng chí A-kim còn ở đây hay cũng đi rồi?

   - Đồng chí A-kim cũng không có đây, hiện nay đồng chí

ấy làm bí thư thanh niên cộng sản ở Ô-đét-xa.

   Pa-ven chỉ có cách là quay đi. Niềm vui trở về thành phố

thế là mờ mất rồi...

   Giờ thì phải liệu lo đi tìm chỗ ngủ đêm thôi.

   "Cứ chạy quanh tìm các bạn thân như thế, mình có mỏi

nhừ chân cũng chẳng thấy ai".

   Pa-ven càu nhàu, cau có, cố nén thất vọng. Tuy nhiên,

anh cũng còn cầu may chuyến nữa, đến tìm Pan-cơ-ra-tốp.

Pan-cơ-ra-tốp ở gần bến tàu, đến cậu ấy không xa bằng đi

đến phố Xô-lô-men-ca.

   Tìm đến được nhà Pan-cơ-ra-tốp thì người anh đã mệt

nhoài. Anh gõ cánh cửa trước kia có hồi sơn đỏ, định

bụng: "Nếu cậu ta cũng đi nơi khác nốt rồi thì mình chẳng đi

đâu lang thang mãi nữa. Tìm béng cái thuyền nào chui

xuống ngủ qua đêm nay thôi".

   Một bà cụ nhỏ nhắn, đội vuông khăn giản dị chít dưới

cằm, ra mở cửa. Bà cụ là mẹ Pan-cơ-ra-tốp.

   - Thưa mẹ, anh Pan-cơ-ra-tốp có nhà không ạ?

   - Em nó vừa mới về.

   Bà cụ không nhận ra Pa-ven và quay vào gọi con:

   - Pan-cơ-ra-tốp ơi, có anh nào hỏi con đấy.

   Pa-ven bước theo bà cụ vào nhà, đặt túi xuống đất.

Pan-cơ-ra-tốp đã ngồi vào ăn ở bàn, quay ra nhìn Pa-ven:

    - Có phải anh hỏi tôi thì mời anh ngồi chơi và cho biết

có việc gì. Anh cho tôi làm nốt bát xúp này vì từ sáng, tôi chỉ

độc nốc nước lã trừ bữa.

    Và Pan-cơ-ra-tốp cầm lấy cái thìa gỗ to tướng.

    Pa-ven ngồi xuống ghế dựa, mặt ghế đã thủng.

    Anh bỏ mũ cát-két ra rồi theo thói quen lấy mũ lau mồ

hôi trán.

    "Chẳng lẽ mặt mũi mình thay đổi đến nỗi cậu ta không

nhận ra được mình nữa ư?"

    Pan-cơ-ra-tốp húp luôn hai thìa xúp, rồi thấy khách chưa

nói gì, liền quay ra hỏi khách lần nữa.

    - Anh nói cho nghe đi. Có chuyện gì thế anh?

    Bàn tay cầm mẩu bánh chưa đưa tới mồm đã dừng lại

nửa chừng, Pan-cơ-ra-tốp bàng hoàng chớp chớp mắt.

    - Ô kìa . . . Hãy khoan . . . Thế này là thế nào, hở trời?

    Thấy mặt bạn đỏ bừng, rúm lại vì nghĩ lung, Pa- ven

không nhịn được nữa, phì cười.

    - Páp-ca ơi! Chúng tao ngỡ mày chết rồi!... Hãy khoan!

Tên anh là gì?

    Nghe Pan-cơ-ra-tốp kêu rú lên, mẹ và chị gái anh ở

buồng bên chạy ra. Rồi cuối cùng cả ba người nắm chắc là

chính Pa-ven đang ngồi trước mặt họ.

    Cả nhà đã ngủ lâu rồi, Pan-cơ-ra-tốp còn ngồi kể mãi

những việc xảy ra trong bốn tháng qua.

    - Mùa rét vừa rồi, Giác-ki và Đu-ba-va được đi Khác-

cốp. Chẳng phải công tác vớ vẩn đâu. Tụi nó được vào Đại

học cộng sản, học lớp dự bị. Tất cả mười lăm đứa được

triệu tập đến. Lúc bấy giờ, có phong trào sôi nổi đòi đi học,

tao cũng làm đơn. Tao nghĩ bụng: mình phải ních thêm vào

cái túi khôn của mình, vì trong đầu mình hiểu biết ít ỏi quá.

Nhưng tiểu ban lấy học sinh cho tao rơi, mày ạ.

     Pan-cơ-ra-tốp thở ra bực dọc, rồi nói tiếp:

     - Mới đầu, việc tao có vẻ trôi chảy lắm. Tao đủ hết tiêu

chuẩn: tao có thẻ đảng viên, tao đã đủ thời hạn công tác dự

bị ở Đoàn; về thành phần xuất thân và bản thân, không có gì

lôi thôi, tao không vấp vì những cái đó. Nhưng khi sát hạch

tao về chính trị thì tao bị bương.

     Tao vào vấn đáp trước một đồng chí trong tiểu ban.

Đồng chí ấy ra cho tao câu hỏi hóc này: "Đồng chí Pan-cơ-

ra-tốp, đồng chí hiểu gì về triết học thì nói đi”. Mày biết tao

thì hiểu quái gì về triết học. Nhưng tao nhớ ra, có một thằng

cha khuân vác trước kia cùng làm với chúng tao, một thằng

giang hồ có đi học lít-xê lít xiếc. Nó đi làm cho ra vẻ ta đây

lao động ấy mà. Nó có lần kể cho chúng tao nghe, xưa kia

ở bên nước Hy Lạp, có những nhà thông thái nghĩ ra nhiều

cái lắm. Người ta gọi họ là những nhà triết học. Trong

những tay triết học loại đó, có một tay tao quên khuấy mất

tên, hình như là I-đê-ô-ghen thì phải, tay này suốt đời chui

trong cái thùng tô-nô ở và đại khái những chuyện như thế. .

Giỏi nhất đám triết học ấy là một tay có thể chứng minh bốn

mươi lần liền: cái gì đen là trắng, và ngược lại, trắng là

đen. Nói tóm lại là một bọn nghĩ cách úm người ta. Vì vậy

cho nên lúc bấy giờ tao mới nghĩ đến câu chuyện thằng học

trò lít-xê kể và tao tự bảo: "Tay ủy viên tiểu ban này định

quay mình đây”. Mà lão ta ngồi đấy nhìn tao ranh mãnh thật.

Cho nên tao mới sa chân vào đĩa. Tao nói: "Triết học là trò

bịp đời và nhồi sọ. Tôi không ưa học gì những của ngớ

ngẩn ấy, các đồng chí ạ! Còn lịch sử Đảng thì khác, tôi để

hết tâm trí nghiên cứu lịch sử Đảng”. Tao nói thế xong thì

các tay trong tiểu ban mới truy tao thêm, hỏi vặn tao học ở

đâu mà hiểu triết học như thế. Tao mới nói thêm mấy điều

nữa mà thằng học trò lít-xê đã nói với tao. Thế là cả tiểu

ban lăn ra cười. Tao phát cáu. Tao bảo rằng: "Có cái gì mà

các đồng chí nhạo báng tôi như chế thằng ngu thế?" Tao

nhặt lấy mũ và đi ngay về nhà.

     Sau đó, đồng chí đã hỏi tao lại gặp tao ở tỉnh ủy. Nói

chuyện ba tiếng đồng hồ liền. Tao mới hiểu ra thằng học trò

lít-xê nói lòe chúng tao. Bởi vì tao nghe nói thì ra triết học

một sự vĩ đại và rất là tinh anh sáng suốt.

     Thằng Đu-ba-va và thằng Giác-ki thì trúng. Thằng Đu

ba-va thì tao chịu nó, nó học ra trò. Song còn Giác- ki thì

chẳng hơn tao mấy. Nó nhờ cái huân chương mà thoát,

nhất định là như thế. Nói tóm lại tao lại quay về làm ăn với

sông nước. Tao được chỉ định về ban quản lý bến tàu. Tao

thay đồng chí phụ trách ke bốc hàng. Trước kia cả ngày tao

to tiếng với chính quyền về một đống vấn đề dính dáng đến

Đoàn. Nay chính tao phải lãnh đạo cái khoản ấy. Thỉnh

thoảng xảy đến như thế này: có tên nào giả ốm, hay tên nào

nhác rơi vào tay tao, tao vừa lấy cương vị phụ trách chính

quyền, vừa lấy cương vị bí thư chi đoàn đì cho cẩn thận.

Song, cuộc đời không phải chỉ có tao, xin lỗi mày nhé. Tao

sẽ kể về tao sau. Còn cái gì tao chưa kể cho mày nghe

nữa nhỉ? Về tin tức A-kim, mày đã hỏi thăm được rồi. Các

chấp ủy cũ, còn lại có Túp- ta, vẫn làm công tác cũ. Tô-ca-

rếp thì bí thư Đảng ủy Xô-lô-men-ca, Ô-cu-nhếp trước cũng

ở tổ công xã với mày thì ở quận đoàn thanh niên. Ta-li-a thì

làm giảng viên chính trị. Svê-tai-ép thay chân mày ở xí

nghiệp. Tao không biết nó lắm. Thỉnh thoảng gặp ở tỉnh

đoàn, trông không đụt đâu, nhưng tự ái ra dáng. Mày nhớ

An-na Bô-khác chứ? Cô ấy cũng ở Xô-lô- men-ca, phụ

trách công tác phụ vận ở quận ủy. Tao đã kể hết cho mày

nghe về tin tức các cậu quen. Đấy mày xem, Đảng cho

nhiều cậu đi học. Hiện nay ở đây tất cả cán bộ cũ đang cày

khỏe ở Trường Đảng. Trên hứa sang năm cũng cho tao

theo học ở đấy.

    Hai người mải chuyện, quá nửa đêm lâu rồi mới ngủ.

Sáng hôm sau, Pa-ven dậy thì Pan-cơ-ra-tốp đã ra bến tàu.

Em gái Pan-cơ-ra-tốp là Đu-xi-a, một cô gái to khỏe giống

anh như đúc, bưng nước chè mời Pa-ven uống và nói đến

mọi chuyện vặt. Cha Pan- cơ-ra-tốp không có nhà. Ông cụ

làm thợ máy trên tàu thủy, còn đang ngược tàu.

    Pa-ven sửa soạn ra phố. Sắp đi, Đu-xi-a dặn lại:

    - Nhớ về ăn cơm, anh nhé. Nhà em chờ cơm anh đấy.

    *

    Trụ sở tỉnh đoàn thanh niên thường vẫn tấp nập. Cửa

mở ra rồi lại đóng sập vào luôn tay. Trong hành lang và các

buồng, người chờ đông; phòng hành chính, tiếng máy chữ

gõ inh tai.

    Pa-ven dừng lại ngoài hiên một lát, ngó vào hy vọng

gặp mặt nào quen. Chẳng thấy ai, anh mới đi vào phòng

đồng chí bí thư. Đồng chí bí thư mặc sơ- mi xanh, ngồi

trước một bàn giấy đồ sộ. Pa-ven vào, đồng chí ấy chỉ nhìn

qua, rồi lại cúi xuống viết.

    Pa-ven ngồi đối diện và chăm chú nhìn người bí thư

thay chân A-kim ấy.

    Đồng chí bí thư đánh dấu chấm hết lên trang giấy anh

đang viết và hỏi Pa-ven:

     - Đồng chí muốn gì?

     Pa-ven trình bày trường hợp của mình:

     - Phải cải tử hoàn sinh cho tôi trên danh sách tổ chức

của Đoàn và cho tôi trở lại phân xưởng chính nhà máy xe

lửa. Đề nghị đồng chí chỉ thị cho bên tổ chức như vậy.

     Đồng chí bí thư ngả người dựa vào ghế và trả lời, giọng

lưỡng lự.

     - Tất nhiên chúng tôi sẽ khôi phục đoàn tịch cho đồng

chí, điều đó không còn phải nói gì nữa. Nhưng điều đồng

chí về phân xưởng chính nhà máy xe lửa thì không tiện.

Svê-tai-ép đang phụ trách ở đấy, cậu ấy là chấp ủy viên tỉnh

đoàn mới bầu lại khóa vừa rồi. Chúng tôi sẽ điều đồng chí

đi nơi khác vậy.

     Mắt Pa-ven hơi nhíu lại:

     - Tôi về đấy không phải để làm khó cho công tác của

đồng chí Svê-tai-ép đâu. Tôi muốn về làm chuyên môn của

tôi, chứ không phải làm bí thư chi đoàn. Với lại trong người

tôi chưa được khỏe, đề nghị đừng điều tôi đi nơi khác.

     Đồng chí bí thư gật đầu, ghi mấy chữ vào mảnh giấy.

     - Đồng chí đưa mảnh giấy này cho Túp-ta, cậu ta sẽ bố

trí cho đâu vào đấy.

     Bên phòng cán bộ, Túp-ta đang mắng như tát nước

người giúp việc thống kê của mình. Pa-ven nghe hai bên

cãi nhau nửa phút, nhưng thấy câu chuyện có vẻ kéo dài,

liền ngắt lời anh chàng Túp-ta đang nóng như lửa:

     - Thôi, cậu sẽ chỉnh đồng chí ấy sau. Đây là giấy giới

thiệu, cậu làm hộ giấy chính thức cho mình đi.

     Túp-ta hết nhìn giấy lại nhìn Pa-ven. Sau cùng mới nói

ra lời:

    - Sao, cậu chưa chết à? Vậy làm thế nào bây giờ? Tên

cậu đã gạch khỏi danh sách rồi. Chính mình gửi trả Trung

ương thẻ đoàn viên của cậu. Với lại vừa rồi Trung ương

mới lấy lại danh sách đoàn viên cả nước. Theo thông tri

của Trung ương Đoàn, ai không ghi tên lại thì coi như bị

khai trừ. Cậu chỉ còn có cách nộp đơn xin gia nhập đoàn

lại, theo đúng những quy định thường lệ.

    Túp-ta tuyên bố thẳng cánh như vậy. Pa-ven cau mặt lại:

    - Vậy ra cậu ta vẫn chứng nào tật ấy. Cậu còn trẻ mà tệ

hại hơn một con chuột già rúc trong đống công văn. Bao

giờ cậu mới ra hồn người được?

    Túp-ta chồm lên, như bị rệp đốt:

    - Cậu đừng lên lớp đây. Đây phụ trách công việc đây

làm. Thông tri thảo ra không phải để cho người ta vi phạm

nó. Còn cậu gọi đây là chuột già thì cậu sẽ phải trả lời về

câu phỉ báng đó.

    Túp-ta nói câu sau này có vẻ hăm dọa. Hắn đưa rộng

tay vơ lấy chồng phong bì chưa mở: thái độ tỏ vẻ không

muốn nói chuyện thêm nữa.

    Pa-ven thong thả đứng dậy ra cửa. Chợt nghĩ lại điều gì

anh quay trở vào nhặt mảnh giấy đồng chí bí thư giới thiệu

còn để trên bàn trước mặt Túp-ta. Túp-ta nhìn Pa-ven. ông

cụ non cáu kỉnh và tỉ mẩn ấy có đôi tai to vểnh ra, trông vừa

đáng ghét, vừa buồn cười.

    - Thôi được, kết tội đây là "làm đảo lộn thống kê" thì cứ

kết tội, nhưng đây hỏi lại: tại sao cậu lại dám thi hành kỷ

luật một người đã chết mà cứ tự tiện, không có giấy tờ văn

bản nào quyết định trước hẳn hoi? Trường hợp này có thể

xảy ra với tất cả mọi người: người ta ốm rồi chết. Nhất định

không có thông tri nào cho phép cậu làm như thế.

    - Hì, hì, hì - Người giúp việc Túp-ta không thể giữ trung

lập được mãi nữa, bật lên cười thích chí.

    Túp-ta ấn gãy đầu bút chì. Hắn cầm mầu chì gãy ném

xuống sàn, chưa kịp trả lời đối phương, thì người đông đã

kéo ùa vào phòng, cười nói bô bô. Trong bọn mới vào có

Ô-cu-nhếp. Thế là chỉ còn nghe thấy những tiếng reo vui và

sửng sốt, những câu hỏi không bao giờ hết. Vài phút sau,

lại một đám thanh niên nữa vào trong bọn đó có Ôn-ga. Chị

nắm lấy tay Pa-ven rất lâu, ngạc nhiên, nhưng tươi sáng

hẳn lên.

    Người ta lại bắt Pa-ven kể chuyện lại. Nguồn vui thật

thà của những đồng chí, tình bạn chân thành, lòng mến

thương thông cảm, những nắm tay chặt, những bàn tay vỗ

lên vai, chắc nịch và thân ái, tất cả làm Pa-ven quên hẳn

chuyện Túp-ta.

    Gần cuối, Pa-ven kể thêm cho các đồng chí nghe câu

chuyện giữa mình và Túp-ta vừa rồi. Ai cũng tức giận. Ôn-

ga quắc mắt lườm Túp-ta, rồi đi đến phòng đồng chí bí thư.

    - Cánh ta đi tìm đồng chí Nhê-giơ-đa-nốp để đồng chí

ấy cạo cho hắn một mẻ.

    Ô-cu-nhếp nói thế và choàng lấy vai Pa-ven kéo đi theo

Ôn-ga cùng với đám đông các đồng chí.

    Ôn-ga nóng giận bừng bừng:

    - Túp-ta này quan liêu hạng nặng! Phải truất cổ hắn khỏi

ban tổ chức và điều đến chỗ Pan-cơ-ra-tốp cho làm nghề

khuân vác lấy một năm mới được.

    Ô-cu-nhếp, Ôn-ga và các đồng chí khác đòi đuổi cổ

Túp-ta khỏi phòng cán bộ. Đồng chí bí thư nghe họ nói,

cười độ lượng. Nhê-giơ-đa-nốp cố làm cho Ôn- ga nguôi

giận:

     - Về việc khôi phục quyền lợi sinh hoạt Đoàn cho Pa-

ven thì chẳng cần phải nói lại nữa. Sẽ phát ngay thẻ đoàn

viên cho cậu ta. Còn như Túp-ta là một anh chàng máy móc

thì rất đồng ý với các đồng chí như thế. Đấy là khuyết điểm

chính của cậu ấy. Nhưng cũng phải thú thật với các đồng

chí rằng cậu ấy tổ chức công việc rất khá. Trong tất cả

những cơ quan lãnh đạo của Đoàn mà tôi đã làm từ trước

đến nay, công tác tổ chức và thống kê này thật rắc rối như

chui vào rừng rậm vậy. Chẳng còn biết tin vào con số nào.

Nhưng ở đây thì làm thống kê rất tốt. Các đồng chí cũng

biết Túp-ta thức suốt đêm hì hục làm ở bàn giấy. Cho nên ý

kiến tôi là các đồng chí muốn cất chức cậu ấy thì cất chức

lúc nào cũng được. Song lấy một cậu khác tốt mà làm

thống kê tồi thay hắn ta thì không còn tình trạng quan liêu,

điều đó đã hẳn đi rồi, nhưng đồng thời thống kê cũng sẽ

không ra đâu vào đâu. Vậy cứ nên để cho cậu ấy làm. Tôi

sẽ phê bình thật lực cậu ấy. Sẽ có tác dụng tốt đối với cậu

ấy trong một thời gian. Rồi có thế nào, sau này sẽ hay.

     - Thôi, thế cũng được. - Ô-cu-nhếp gật đầu rồi nói với

Pa-ven: - Pa-ven, ta về Xô-lô-men-ca đi. Hôm nay có họp

đoàn ở câu lạc bộ chúng mình. Chưa ai biết cậu về. Rồi bất

thình lình, ta giới thiệu: "Xin nhường lời cho Pa-ven!". Hoan

hô Pa-ven. Mày không chết là phải lắm. Giai cấp vô sản

mạnh thêm vì cái cẳng mày. - Ô-cu-nhếp kết luận một cách

khôi hài như vậy và lấy hai tay ôm lấy Pa-ven đẩy ra hành

lang.

    - Ôn-ga cũng đến đấy chứ?

    - Nhất định đến chứ!

    *

    Nhà Pan-cơ-ra-tốp đợi mãi không thấy Pa-ven về ăn

cơm. Đêm cũng không thấy về ngủ. Ô-cu-nhếp đã đưa Pa-

ven về ở nhà mình. Anh có một phòng riêng ở trụ sở Xô-

viết. Về đến nhà, có gì là cho bạn ăn nấy, rồi mang đến cho

Pa-ven hai bó báo và hai quyển sổ cái - sổ ghi biên bản

các buổi họp của thường vụ quận đoàn thanh niên. Anh

bảo bạn:

    - Cậu nghiên cứu tất cả những tài liệu này đi. Trong khi

cậu mất thời giờ với bệnh thương hàn của cậu thì thời gian

như nước chảy đi đã nhiều rồi đấy! Đọc đi để hiểu việc đã

qua và việc trước mắt. Tối mình về đón cậu rồi cùng đến

câu lạc bộ. Nếu mệt thì cứ ngả lưng làm một giấc.

    Người bí thư quận đoàn thanh niên nhét vội một đống

thư với tài liệu và giấy chứng nhận vào túi, (Ô- cu-nhếp ghét

những cặp da, cặp của anh quẳng ở gậm giường), rồi đi

quanh phòng xem lại một lượt trước khi ra cửa.

    Tối đến, anh về thì thấy khắp phòng báo chí tung bừa

bãi, đống sách để dưới gầm giường cũng bị lôi ra. Nhiều

quyển khác chất trên bàn làm việc. Pa-ven ngồi trên

giường đọc tập thư của Trung ương mới gửi đến mà anh

tìm thấy dưới gối của bạn.

    - Thằng tướng cướp, mày lục gì cái ổ của tao thế?- Ô-

cu-nhếp làm bộ quát lên, giả vờ tức giận. - Xem nào, xem

nào, đồng chí! Tôi bắt được đồng chí đọc tài liệu mật. Cứ

để cho quân này chui vào buồng mình thì có ngày hỏng!

    Pa-ven mỉm cười, để lá thư xuống.

     - Cậu nhỡ tàu rồi. Thư này có gì mà mật. Trái lại, chính

cậu lấy tài liệu riêng tối mật làm chao đèn kia kìa. Trông

xem! Bị sém cả rìa nữa là khác.

     Ô-cu-nhếp cầm lấy tờ giấy đã bị làm chao đèn đó, anh

vừa đọc qua tiêu đề đã lấy tay vỗ lên trán:

     - Thế mà mình tìm mãi ba hôm nay cái mảnh giấy tai ác

này. Nó biến mất, tưởng rơi xuống sông, xuống biển, giờ

mình nhớ ra rồi. Hôm kia, thằng Vô-lưn- xếp đến đây, chính

là nó máy tay lấy làm chao đèn. Rồi nó lại quần quật đi tìm

.- Ô-cu-nhếp gấp mảnh giấy lại cẩn thận rồi đút xuống dưới

đệm, nói giọng không lo nữa - Thôi chốc nữa hãy xếp dọn

lại. Giờ chén một miếng đã rồi còn đi ra câu lạc bộ. Nào

Pa- vơ-lu sa, ngồi xuống đây.

     Ô cu-nhếp móc túi lấy con cá khô gói trong một tờ báo,

lại móc túi kia lấy hai đầu mẩu bánh mì. Rồi trải luôn tờ báo

ra góc bàn, cầm đầu con cá nện vào gỗ để cá róc hết thịt.

     Ô-cu-nhếp ngồi vào bàn, hàm nhai nghiến ngấu. Rất vui,

anh kể tin mới cho Pa-ven nghe, vừa nói chuyện đứng đắn,

vừa chêm câu bông đùa.

     Đến câu lạc bộ, Ô-cu-nhếp đưa Pa-ven vào cửa sau,

giấu ở hậu trường. Trong góc phòng rộng thênh thang, Ta-

li-a con cụ La-gu-chin và An-na Bô-khác đang ngồi mé bên

phải sân khấu, cạnh chỗ đặt cây đàn dương cầm, chung

quanh hai chị là nhóm thanh niên cộng sản đường sắt.

Trước mặt An-na, ngồi vắt vẻo trên ghế dựa là Vô-lưn-xép,

bí thư chi đoàn sở đầu máy, mặt đỏ chót như một quả táo

đang mùa tháng Tám, mặc áo da cũ, trước kia màu đen,

nay đã bạc phếch.

     Vô lưn-xép có tóc và lông mày vàng như lúa chín. Ngồi

cạnh Vô-lưn-xép là Svê-tai-ép, đẹp trai, tóc màu hạt dẻ,

môi cong rõ nét, ngồi thơ thẩn dựa tay vào nắp dương

cầm. Cổ áo khoác của Svê-tai-ép để hở.

    Ô-cu-nhếp đến gần họ, còn nghe thấy An-na đang nói

hết câu:

    - Có những người cứ muốn làm rắc rối quá lắm việc kết

nạp những đồng chí mới. Svê-tai-ép là một.

    Svê-tai-ép không chịu, cãi lại, giọng khinh bạc ra mặt:

    - Đoàn không phải là quán trọ.

    Ta-li-a nhìn thấy Ô-cu-nhếp reo lên:

    - Kìa, trông Ô-cu-nhếp mà xem. Anh ấy hôm nay có vẻ

phởn thế, mặt mày rạng rỡ như cái ấm đồng mới đánh

bóng ấy.

    Mấy người kéo Ô-cu-nhếp lại hỏi chuyện tới tấp:

    - Cậu ở đâu đến thế ?

    - Ta bắt đầu đi thôi chứ.

    Ô-cu-nhếp giơ tay can họ.

    - Đợi một tí các cậu ạ. Đồng chí Tô-ca-rếp sắp đến và

sẽ khai mạc hội nghị.

    - Vừa vặn bố già đến kia rồi! - An-na trông thấy Tô-ca-

rếp, vội nói.

    Đồng chí bí thư Đảng ủy quận đang đi về phía họ. Ô-cu-

nhếp chạy ra đón:

    - Bố ơi, bố vào đằng sau sân khấu, tôi đưa bố gặp một

cậu quen bố. Chắc là bố sẽ ngạc nhiên!

    - Cái gì nữa thế? - ông già lẩm bẩm, kéo nốt hơi thuốc

lá nữa. Nhưng Ô-cu-nhếp đã nắm lấy tay ông cụ kéo đi rồi.

    Ô-cu-nhếp lắc chuông dữ dội đến nỗi những người hay

chuyện xấu thói nhất cũng phải tin.

     Đằng sau Tô-ca-rếp là pho tượng Mác, người sáng tạo

thiên tài ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, đầu Người

như đầu con sư tử nổi lên trong đám cành thông trang trí.

Trong khi Ô-cu-nhếp nói lý do buổi họp, đồng chí Tô-ca-rếp

không rời mắt nhìn Pa-ven còn đứng ở hậu trường.

     - Thưa các đồng chí, trước khi vào chương trình nghị

sự, tôi xin giới thiệu một đồng chí muốn xin nói mấy lời với

chi bộ. Đồng chí Tô-ca-rếp và tôi đã đồng ý để đồng chí ấy

nói.

     Tiếng vỗ tay đồng ý nổi lên. Ô-cu-nhếp giới thiệu:

     - Xin mời đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nói chuyện!

     Trong một trăm người có mặt, có đến tám mươi người

biết Pa-ven. Và khi bóng dáng quen thuộc hiện ra trước

diễn đàn và người thanh niên xanh xao, dong dỏng cao, bắt

đầu nói thì những tiếng reo vui mừng và một tràng dài vỗ

tay hoan hô như bão dậy chào anh.

     - Các đồng chí thân mến!

     Giọng Pa-ven từ tốn song không sao giấu nổi cảm

động:

     - Không ngờ hôm nay tôi được trở lại với các đồng chí,

trở về vị trí của tôi trong đội ngũ của chúng ta. Tôi sung

sướng lắm. Tôi được gặp lại ở đây rất nhiều bạn thân của

tôi. Tôi ở nhà Ô-cu-nhếp được đọc báo cáo biết rằng: khu

Xô-lô-men-ca ta có thêm một phần ba đoàn viên mới,

những anh chị em mới của chúng ta; ở các xưởng và ở sở

đầu máy thì bọn "chế tạo bật lửa” đã không còn nữa và ta

đã lôi những đầu tàu vứt đi ngoài "nghĩa địa sắt” về chữa

lại dùng. Tất cả điều đó chứng tỏ đất nước chúng ta đang

sống lại và đang lấy lại sức. Như thế thì đời đáng sống lắm

chứ! Giữa lúc thế này, hỏi tôi nhắm mắt mà chết làm sao

được?

    Đôi mắt Pa-ven long lanh nét cười sung sướng.

    Khi Pa-ven đi xuống, lại ngồi gần An-na và Ta- li-a thì

tiếng hoan hô nồng nhiệt cứ kéo dài tiễn theo anh mãi. Anh

đưa tay ra bắt vội vàng hết người này đến người khác.

Các bạn ngồi xít lại nhường chỗ cho anh. Bàn tay của Ta-li-

a đặt lên bàn tay anh, nắm rất chặt, rất chặt.

    An-na tròn mắt nhìn anh, hàng mi dài khẽ mấp máy, cái

nhìn niềm nở có một cái gì đó sửng sốt.

    *

    Ngày qua ngày trôi đi. Không thể nào gọi là những ngày

bình thường được. Mỗi ngày mang lại một cái gì mới. Sáng

dậy, định chương trình làm việc hằng ngày, Pa-ven buồn

rầu nhận thấy ngày có phần ngắn quá và công việc anh định

làm, nhiều việc đến không xong mất.

    Pa-ven trọ ở nhà Ô-cu-nhếp và làm chân phụ lắp máy

điện ở xưởng.

    Anh phải bàn cãi rất lâu với Ô-cu-nhếp: Ô-cu-nhếp nhất

định không đồng ý để Pa-ven, dù tạm thời đi nữa, không

tham gia công tác lãnh đạo.

    - Chúng ta đang thiếu người mà cậu lại muốn thảnh thơi

dưới xưởng. Cậu đừng viện bệnh cậu ra nữa. Mình đây

mình cũng bị sốt thương hàn, vừa ốm dậy, mệt suốt một

tháng trời, nhưng mình chống gậy đến quận đoàn làm việc.

Mình biết tính cậu, chắc còn có lý do gì chính nữa, chứ

chẳng phải tại bệnh đâu. - Và Ô- cu-nhếp hỏi dồn Pa-ven: -

Thật thế nào, nói cho mình nghe đi.

    - Cậu đoán không lầm: sự thật là mình muốn có thời giờ

học thêm.

    Ô-cu-nhếp đắc chí, nói oang oang:

    - A, a!... Ra thế đấy! Cậu muốn học. Thế cậu cho mình

là không muốn học hay sao? Như thế là ích kỷ, ông bạn già

của tôi ạ! Nếu thế thì hóa ra chúng mình công tác như đẩy

xe bò, còn cậu thì học. Không được, chú mình ạ. Ngay sáng

mai, cậu phải đến ban tổ chức.

    Song, bàn cãi hồi lâu. Ô-cu-nhếp cuối cùng đã phải

nhân nhượng:

    - Thôi được, mình để cậu yên trong hai tháng, không

đụng đến. Cậu biết thế là mình tốt bụng đấy! Nhưng theo

mình nghĩ, cậu có lẽ không ăn ý với Svê-tai-ép đâu: thằng

cha ấy hợm mình quá lắm.

    Pa-ven lại về xưởng. Svê-tai-ép lấy làm nghi ngại. Hắn

đinh ninh cho là Pa-ven về xưởng thế nào cũng xảy ra tranh

chấp về lãnh đạo với hắn. Vốn tự ái thành bệnh, hắn liền

chuẩn bị đối phó. Nhưng, ngay những ngày đầu, hắn đã

thấy ra ngay là hắn nghi ngại không đâu. Khi Pa-ven được

tin anh em định cử mình vào thường vụ Đoàn thì anh thân

đến ban bí thư ngay và viện cớ đã được Ô-cu-nhếp đồng ý,

anh trình bày thì được anh em rút không đem vấn đề đó ra

bàn nữa. Trong chi đoàn thành niên xưởng máy, Pa-ven

phụ trách nhóm nghiên cứu chính trị, nhưng anh không

muốn vào thường vụ. Tuy về tổ chức, anh đứng ngoài lãnh

đạo, ảnh hưởng của anh vẫn thấy rõ trong mọi công tác.

Với một thái độ thân ái và không để ai nhận thấy, anh đã

giúp Svê-tai- ép nhiều phen thoát khỏi tình thế khó xử.

    Một hôm, Svê-tai-ép vào đến xưởng, lấy làm lạ: toàn thể

chi đoàn thanh niên cộng sản và chừng ba mươi anh chị

em ngoài tổ chức đang lau cửa sổ, chùi máy móc, cọ ghét

bụi đã cáu lại từ bao năm nay, dọn sắt vụn và các thứ rác

bẩn linh tinh đổ ra sân. Pa- ven thì cầm một chiếc chổi gộc,

hì hục kỳ cọ nền xi- măng bê bết dầu mỡ.

    Svê-tai-ép sửng sốt hỏi Pa-ven:

    - Lau chùi dọn dẹp để làm gì thế này?

    Pa-ven trả lời vắn tắt:

    - Bọn tôi không muốn làm việc trong ghét bụi cáu bẩn

nữa. Ở đây đã hai mươi năm nay, chẳng lau chùi, dọn dẹp

gì cả. Trong tám ngày, chúng tôi sẽ quét dọn sạch, làm cho

xưởng ta mới lại.

    Svê-tai-ép nhún vai bỏ đi.

    Đám anh em thợ điện không những chỉ dọn xưởng mình

làm mà còn động đến cả sân lớn nhà máy từ lâu đã trở

thành chỗ đổ rác. Ở đây chẳng còn thiếu một thứ gì. Hằng

trăm bộ trục các toa xe lửa, hàng núi sắt gỉ, nào đệm nối

toa, nào đường ray, nào ổ bánh... hàng ngàn tấn sắt bỏ

hủy, bỏ hoại ngoài trời. Nhưng đang tấn công vào đống rác

lớn thì hành chính ngăn lại:

    - Còn nhiều việc quan trọng hơn. Cái sân không dọn

cũng chẳng chết ai, không vội gì.

    Thấy hành chính nói vậy, anh em thợ điện đành chỉ lấy

gạch lát bậc thang đi lên xưởng mình, rồi đặt lưới sắt để cọ

giày thôi, không dọn ngoài sân nữa. Nhưng bên trong

xưởng, mỗi tối, sau giờ làm, vẫn tiếp tục lau chùi. Được

một tuần lễ, kỹ sư chính Stơ- ri có việc bước chân vào

xưởng thấy xưởng tràn ngập ánh sáng. Những cửa sổ lớn

có khung sắt, trước kia bị bụi lẫn với dầu ma-dút bám từ

đời kiếp nào, giờ đã sạch trơn, làm thông được ánh mặt

trời rọi vào buồng để máy, nắng ánh lên những bộ phận

đồng bóng loáng của những máy nổ Đi-ê-den. Nhũng bộ

máy thì sơn lại màu xanh; trên nan hoa các bánh xe, một

bàn tay nắn nót lại còn vẽ cả những mũi tên màu vàng.

     Kỹ sư Stơ-ri sửng sốt:

     - Hừ...

     Ở góc cuối buồng máy, có mấy người đã xong việc.

Stơ-ri lại đấy. Gặp Pa-ven đang cầm trong tay một hộp sắt

tây đầy sơn, kỹ sư Stơ-ri gọi lại:

     - Đồng chí dừng lại tôi hỏi. Tôi tán thành sáng kiến của

các đồng chí. Song các đồng chí lấy đâu ra sơn này mà

dùng thế ? Nhà máy đang thiếu sơn. Tôi đã cấm không ai

được lấy sơn ra dùng nếu không có lệnh tôi. Để sơn những

bộ phận đầu máy xe lửa cần hơn dùng vào việc các đồng

chí làm.

     - Đồng chí hỏi sơn này ở đâu? Chúng tôi bòn lấy ở

những hộp sơn vứt đi ngoài đống rác. Cạo vét hai hôm

được mười ki-lô. Thưa đồng chí, tất cả những việc chúng

tôi làm đều đúng nguyên tắc.

     Người kỹ sư lại "hừ" một cái nữa, lần này có vẻ bối rối

thật.

     - Nếu thế thì lẽ tất nhiên các đồng chí cứ sơn... Hừ...

Quái thật. Tại sao bỗng dưng lại có cái lối tự mình làm tội

mình để cho xưởng sạch thế này? Các đồng chí lau chùi

quét dọn thế này ngoài giờ làm cả thì phải?

     Pa-ven thấy trong giọng nói người kỹ sư có vẻ ngạc

nhiên một cách thật thà.

     - Phải. Đồng chí nghĩ thế nào?

     - Được Nhưng...

    - Không có tiếng "nhưng" nào đứng vững được, đồng

chí Stơ-ri ạ. Ai bảo đồng chí là người bôn-sê- vích thấy ghét

bẩn chất đống mà để yên được? Rồi đồng chí xem, chúng

tôi sẽ mở rộng phong trào. Đồng chí chưa hết ngạc nhiên

đâu.

    Nói rồi, Pa-ven đi thẳng ra cửa, né tránh người kỹ sư

để sơn khỏi quệt vào ông ta.

    *

    Tối nào cũng vậy, Pa-ven ra ngồi đọc sách ngoài thư

viện công cộng đến tận khuya. Anh chơi thân với ba người

giữ sách và giở hết khoa tán ra, anh gạ được họ cho cái

quyền mơ mãi mới được là tha hồ lục chọn sách. Pa-ven

mang chiếc ghế cao đến bắc áp vào những ngăn tủ lớn

đựng sách, rồi ngồi vắt vẻo trên đó hàng giờ, giở hết quyển

này đến quyển khác, tìm những sách anh cần hay anh thích.

Phần lớn là sách cũ. Chỉ có vẻn vẹn một số sách mới chứa

trong chiếc tủ không lấy gì làm to lắm. Trong tủ ấy xếp lẫn

lộn những sách của thời nội chiến, bộ Tư bản luận của

Mác, cuốn Gót-sắt(Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn tiến bộ

Mỹ Giắc Lơn đơn) và một số sách khác. Trong đám sách

cũ, Pa-ven lục ra một cuốn tiểu thuyết nhan đề là Spác-ta-

quýt-xơ(Một lãnh tụ nô lệ chống lại chủ nô thời đế quốc La

Mã trước công lịch). Anh đọc ngốn cuốn sách đó trong hai

đêm và đọc xong xếp nó vào tủ, bên cạnh những sách của

Mác-xim Gooc-ki. Những sách anh thích, anh thường xếp

lại với nhau như vậy.

    Những người giữ sách thấy anh xếp lại như thế cũng

mặc. Đối với họ, sách xếp thế nào chẳng được.

    *

    Tình hình của chi đoàn thanh niên cộng sản đang yên

ắng đột nhiên náo động lên bởi một việc rắc rối, mới đầu

cũng thường thôi. Cốt-sca Phi-đin là ủy viên thường vụ chi

đoàn các xưởng trung tu, một anh chàng mũi tẹt, mặt sần

sùi, dáng dấp chậm chạp; trong khi khoan một tấm sắt, anh

ta đánh gãy một mũi khoan Mỹ, đắt tiền lắm. Nguyên nhân vì

anh ta làm ẩu một cách quá quẩn. Tệ hơn thế nữa: anh ta

gần như là cố ý làm ra như thế. Chuyện xảy ra vào buổi

sáng. Đốc công Khô-đô-rốp bảo anh ta khoan tấm sắt. Lúc

đầu anh ta từ chối. Nhưng vì Khô-đô-rốp nhất định bắt làm,

nên anh ta phải cầm lấy tấm sắt đưa vào bàn máy và bắt

đầu khoan. Khô-đô-rốp vốn khó tính, lại hay chấp nhặt, cả

xưởng chẳng ai ưa. Ông ta trước kia là men-sê-vích, nay

chẳng tham gia sinh hoạt tập thể gì cả, nhìn thanh niên cộng

sản thì nhìn lệch lạc nhưng được cái thạo nghề ra trò và đối

với công việc thì tận tuỵ. Thấy Cốt-sca khoan "khô", nghĩa là

không cho dầu vào mũi khoan, Khô-đô-rốp đùng đùng chạy

lại chỗ máy khoan, giữ tay Cốt-sca lại.

    - Anh mù à? Hay anh mới trên trời rơi xuống? - Khô-đô-

tốp hét váng lên, biết rõ là dùng như thế thì chỉ nháy mắt là

mũi khoan đi đời mất thôi.

    Nhưng Cốt-sca cự lại tay đốc công và cứ cho máy

chạy. Khô-đô-rốp đi mách xưởng trưởng. Cốt-sca hãm

máy, chạy đi lấy vịt dầu lại, để khi xưởng trưởng đến thì đã

cho dầu đâu vào đấy rồi. Khi hắn trở về đến máy thì mũi

khoan gãy tan tành. Xưởng trưởng viết giấy đề nghị đuổi

Cốt-sca. Thường vụ chi đoàn bênh anh ta, lấy cớ là Khô-

đô-rốp hay trù thanh niên. Chính quyền không chịu và việc

ấy lại đem ra bàn trong ban thường vụ thanh niên toàn

xưởng. Câu chuyện bắt đầu như vậy.

   Năm ủy viên thường vụ thì ba chủ trương cảnh cáo Cốt-

sca và đuổi anh đi công tác khác. Svê-tai-ép cũng trong số

ấy. Hai người nữa giữ ý kiến là Cốt- sca không có lỗi gì

hết.

   Thường vụ họp trong buồng giấy Svê-tai-ép. Ở đây có

một chiếc bàn lớn phủ vải đỏ, nhiều chiếc ghế dài và ghế

đẩu do anh em thanh niên ban mộc đóng; trên tường có

ảnh các vị lãnh tụ; sau bàn họp, lá cờ Đoàn thanh niên cộng

sản phủ khắp chiều ngang bức tường. Svê tai-ép, vốn nghề

thợ rèn, thoát ly sản xuất làm cán bộ Đoàn. Nhờ có năng

lực nên chỉ trong vòng bốn tháng vừa qua đã được đề bạt

vào công tác lãnh đạo thanh niên. Hắn có chân trong

thường vụ thanh niên quận và cả cấp ủy thanh niên tỉnh.

Hắn trước làm thợ rèn ở nhà máy cơ khí, mới về đường

sắt ít lâu nay. Ngay từ buổi đầu, hắn đã nắm chặt mọi quyền

hành trong tay mình. Tự phụ và đã định là làm bằng được

hắn đi ngay tới chỗ bóp chết sáng kiến của thanh niên,

muốn thò tay vào mọi việc và vì hắn không thể làm lấy tất cả

một mình, hắn đâm cáu với những người giúp việc, cho họ

là ỳ ra không biết làm gì hết. Cả đến trong phòng làm việc

của hắn, hắn cũng tự đứng trông coi, bắt anh em sắp đặt

theo ý kiến riêng của mình.

   Svê-tai-ép chủ tọa buổi họp, ngả người trong chiếc ghế

bành bọc da độc nhất mượn của góc đỏ (câu lạc bộ nhà

máy) đem kê ở đây. Buổi họp này là một buổi họp kín. Khi

đồng chí Khô-mu-tốp, bí thư chi bộ Đảng, đề nghị nói thì có

tiếng người gõ vào cánh cửa đã cài then. Svê-tai- ép lấy

làm phật ý, nhăn mặt lại. Vẫn tiếng gõ cửa. Nữ đồng chí

Ca-chi-u-sa Dê-lê-nô-va đứng dậy mở cửa. Người gõ cửa

là Pa-ven. Ca-chi-u-sa để anh vào.

    Pa-ven đã đến một chiếc ghế đầu không có người ngồi.

Svê-tai-ép gọi giật anh lại:

    - Đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin, đây là một buổi họp

riêng của thường vụ chúng tôi.

    Má đỏ bừng, Pa-ven từ từ quay lại phía bàn:

    - Tôi biết thường vụ họp kín. Song, quan tâm đến việc

các đồng chí giải quyết vụ Cốt-sca như thế nào, tôi muốn

nhân vụ này đề ra một vấn đề mới. Có phải đồng chí phản

đối không muốn cho tôi dự họp không?

    - Tôi không phản đối, nhưng chắc đồng chí hiểu rằng

những buổi họp kín thế này, chỉ có các ủy viên thường vụ

được họp thôi. Nhiều người quá, khó thảo luận. Thôi, đồng

chí đã đến thì đồng chí cứ ngồi.

    Lần đầu tiên Pa-ven bị nói như tát đốp vào mặt như thế.

Mày anh nhíu lại, trán nhăn sâu.

    Đồng chí Khô-mu-tốp càu nhàu, giọng nói có vẻ không

bằng lòng Svê-tai-ép:

    - Giở nguyên tắc ra với nhau làm quái gì mới được?

    Nhưng Pa-ven giơ tay ra hiệu cho đồng chí Khô- mu-tốp

đừng nói nữa và ngồi xuống ghế.

    Đồng chí Khô-mu-tốp bắt đầu vào vấn đề:

    - Đây là ý kiến tôi. Về phần Khô-đô-rốp, anh ta không

hòa với anh em, có thế. Song, trong đoàn viên của ta, kỷ

luật rất tồi. Nếu tất cả thanh niên cộng sản nhà ta đánh gãy

hết mũi khoan thì ta lấy gì mà làm. Với lại làm như thế thì

chẳng phải là gương tốt cho người ngoài Đảng! Tôi nghĩ

rằng phải cảnh cáo Cốt-sca lần thứ nhất.

    Svê tai-ép không để đồng chí bí thư chi bộ Đảng nói hết

lời, phản đối ngay. Nghe Svê-tai-ép nói suốt mười phút

đồng hồ, Pa-ven hiểu thái độ của thường vụ. Đến khi sắp

sửa biểu quyết thì anh xin phát biểu.

    Svê-tai-ép cố kìm mình lại, để cho anh nói.

    - Thưa các đồng chí, tôi xin trình bày ý kiến của tôi về

Cốt-sca. - Giọng nói Pa-ven tuy anh không muốn gay gắt

mà vẫn cứ gay gắt. - Vụ Cốt-sca này là một dấu hiệu đáng

lo ngại. Nhưng vấn đề chủ yếu không phải chỉ có việc Cốt-

sca. Hôm qua tôi lấy được mấy con số. - Pa-ven móc túi

lấy sổ tay ra. - Những con số này, bộ phận điểm giờ cho tôi

biết. Xin các đồng chí chú ý nghe cho: ngày nào cũng thế,

hai mươi ba phần trăm thanh niên cộng sản vào làm việc

chậm từ năm đến mười lăm phút. Đi làm chậm đã thành

một cái lệ. Mười bảy phần trăm đoàn viên thanh niên nghỉ

việc dứt khoát một hay hai ngày mỗi tháng, trong khi đó

thanh niên ngoài Đoàn chuồn việc như thế có mười bốn

phần trăm. Những con số quất vào đầu óc ta mạnh hơn cả

rồi. Nhân tiện đây, tôi ghi được mấy số liệu nữa: trong các

đảng viên, mỗi tháng có bốn phần trăm trốn việc một ngày

và bốn phần trăm đi chậm. Thợ lớn tuổi ngoài Đảng mỗi

tháng mười một phần trăm trốn việc một ngày và mười ba

phần trăm đi chậm. Về làm hỏng máy móc dụng cụ thì chín

mươi phần trăm do thợ trẻ, trong số đó chỉ có bảy phần

trăm do thợ mới. Do đó, có thể kết luận là thanh niên chúng

ta làm ăn rất là tồi so với đảng viên và thợ lớn tuổi. Nhưng

tình hình không phải ban nào cũng như vậy. Tổ rèn rất tốt,

đáng làm gương cho toàn nhà máy noi theo. Tổ điện cũng

tạm được. Còn các tổ khác thì tình hình đại khái như trên tôi

đã nói. Theo ý tôi, đồng chí Khô-mu-tốp nói rằng thanh niên

kỷ luật rất tồi mới chỉ nói có một phần tư sự thật. Nhiệm vụ

của chúng ta là phải uốn nắn những sự chuệch choạc ấy.

Tôi nói ở đây không phải là tuyên truyền hay diễn thuyết mít-

tinh, song thật là chúng ta phải đem hết nghị lực đấu tranh

với cái tính làm ẩu và mặc sao hay vậy. Các bác thợ già

thường bảo thẳng vào mặt chúng ta: xưa kia làm cho chủ

còn tốt hơn thế, làm cho thằng tư bản có lương tâm nhà

nghề hơn thế. Bây giờ ta làm chủ, ta không có lý do gì để

tha thứ cho ta cả. Và kẻ có lỗi, không phải chỉ là Cốt- sca

hay ai, mà trước hết là các đồng chí và tôi, bởi vì chúng ta

đã chẳng đấu tranh cho ra trò để chống cái tệ đó mà đôi

khi lại còn viện cớ này cớ khác bênh những tên như Cốt-

sca nữa.

    Vừa rồi, các đồng chí Xa-mô-khin và Bu-ti-li-ắc có nói

rằng Cốt-sca Phi-đin là một người của ta. Nào anh ta là

"trung kiên" như ta vẫn nói, nào là anh ta tích cực, tổ chức

trao cho việc gì cũng làm tròn. Còn việc anh ta đánh gãy

mũi khoan thì chẳng qua là chuyện không may. Ai mà chẳng

có lúc đánh gãy thế! Hơn nữa anh ta lại là người mình, còn

lão đốc công kia thì là người ngoài… Cái lối nói như vậy

đấy. Thử hỏi, cho đến nay, nào có ai là người đi sát Khô-

đô- rốp?... Ông già tủn mủn ấy có ba mươi năm làm nghề !

Hãy để tạm ra một bên, khoan nói đến thái độ chính trị của

ông ta. Trong trường hợp này, ông ta phải, ông ta là người

ngoài, nhưng ông ta đã gìn giữ của công. Còn chúng ta thì

phá hoại dụng cụ mua của nước ngoài. Cái tội ấy là tội gì?

Tôi thấy rằng phải trị ngay cú đầu tiên mới được, phải mở

cuộc tấn công vào mặt ấy.

    Tôi đề nghị như sau: Cốt-sca Phi-đin là kẻ lười nhác,

làm ẩu, phá hoại sản xuất, phải khai trừ khỏi Đoàn. Đưa

toàn bộ việc này lên báo tường và không sợ người ta bàn

tán xôn xao, cứ công bố những con số tôi nói ở trên lên xã

luận của báo tường. Chúng ta đủ mạnh để làm như thế,

chúng ta có chỗ dựa để làm như thể. Đại đa số đoàn viên

thanh niên là những người lao động tốt. Trong số đó, sáu

người đoàn viên đã từng trải qua công tác ở Bai-a-rơ-ca,

và đấy là trường đào luyện đáng tin cậy nhất. Có họ ủng hộ,

có họ tham gia, chúng ta sẽ uốn thẳng được những cái

chuệch choạc. Nhưng chúng ta phải bỏ hẳn cái lối nhìn, lối

giải quyết việc hiện giờ của chúng ta đi.

    Pa-ven thường trầm tĩnh và ít lời, lần này nói rất hăng và

gay gắt. Lần đầu tiên, Svê-tai-ép nhìn ra đúng cái chất của

người thợ điện ấy. Hắn hiểu là Pa- ven nói có lý, song chính

lòng đố kỵ đã khiến hắn không đồng ý với Pa-ven. Hắn hiểu

trệch lời tham luận của Pa-ven là phê bình đả kích toàn bộ

tình hình tổ chức, là một sự xúc phạm đến uy tín cá nhân của

bản thân hắn. Và hắn rắp tâm đánh gãy gục Pa- ven. Hắn

bắt đầu chỉ trích lại bằng cách buộc Pa-ven là biện bạch

cho tên men-sê-vích Khô-đô-rốp.

    Tranh luận sôi nổi ròng rã ba tiếng đồng hồ. Đến khuya,

hội nghị tổng kết các ý kiến. Svê-tai-ép bị cái lý cứng của

những sự việc đánh bại và đa số không ủng hộ hắn nữa

mà ngả về Pa-ven. Hắn đi tới một bước sai - vi phạm dân

chủ nội bộ: trước khi biểu quyết lần cuối, hắn yêu cầu Pa-

ven ra khỏi phòng họp.

    - Được, tôi xin ra, tuy rằng đồng chí đuổi tôi ra thì đồng

chí chẳng vẻ vang gì. Nhưng tôi xin nói trước cho đồng chí

biết: nếu ở đây đồng chí bức được người ta theo ý kiến

đồng chí thì mai họp toàn thể nhà máy, tôi sẽ xin phát biểu

trong cuộc họp toàn thể đó, đồng chí sẽ không có đa số

đâu, tôi tin như thế. Đồng chí sai rồi, đồng chí Svê-tai-ép ạ.

Còn đồng chí Khô-mu- tốp tôi nghĩ đồng chí cần phải nêu

vấn đề này lên trong tổ chức Đảng, trước phiên họp toàn

thể nhà máy ngày mai.

    Svê-tai-ép thét lên, giọng như thách thức:

    - Anh tưởng dọa được tôi à? Không cần đến thứ anh

dạy tôi con đường đấu tranh trong tổ chức đó. Trước tổ

chức, tôi sẽ đem chính vấn đề anh ra để tổ chức xét. Anh

đã không muốn mó tay vào làm gì thì đừng cản trở người

khác làm.

    Cửa phòng đóng lại, Pa-ven đưa tay lên trán nóng bỏng

và đi qua một buồng giấy bỏ không ra phía cửa. Ra đến

ngoài, anh thở căng lồng ngực. Rồi châm một điếu thuốc

hút, đi về phía túp nhà nhỏ trên đồi Ba- ti-ép chỗ ở của cụ

Tô-ca-rếp.

    Pa-ven bước vào nhà Tô-ca-rếp thì người thợ lắp máy

ấy đang ăn tối.

    - Có chuyện gì thế ? Kể đi, chú. - Lão đồng chí Tô- ca-

rếp kéo Pa-ven ngồi vào bàn, nói với vợ - Bà Đa- ri-a nó

ơi, bà mày dọn cả cho chú ấy ăn với.

    Vợ đồng chí, bà Đa-ri-a Phô-mi-nít-sơ-na, to lớn và béo

khỏe trái hẳn chồng, bưng đến cho Pa-ven một đĩa xúp kê,

và lấy khăn ăn trắng chùi môi ướt, bà ân cần mời Pa-ven:

    - Ăn đi, chú.

    Trước kia, khi đồng chí Tô-ca-rếp còn làm ở xưởng,

Pa-ven hay đến chơi khuya với đồng chí, song từ ngày ốm

khỏi ra tỉnh đến nay, lần này là lần đầu tiên anh đến tìm

đồng chí già.

    Người thợ lắp máy chăm chú nghe anh. Không nói gì

thêm, ông cụ đưa thìa xúc mạnh vào đĩa, miệng "hèm, hèm"

ra vẻ nghe thủng câu chuyện.

    Ăn xong đĩa xúp, ông cụ lấy khăn tay lau bộ ria, rồi húng

hắng ho rặn ra cho giọng nói đỡ khàn.

    - Lẽ tất nhiên chú nói có lý. Đáng lẽ chúng ta phải thật

sự đề thẳng vấn đề ấy ra từ sớm. Các xưởng của nhà máy

xe lửa là cơ sở chủ chốt trong quận này. Phải bắt đầu từ

đấy. Nhưng do việc này, chú va chạm mạnh với Svê-tai-ép

phải không? Như thế thì không tốt. Tính cậu ta khó bảo lắm.

Song công tác thanh vận thì chú biết làm cơ mà? Nhân tiện

hỏi chú, giờ chú công tác gì trong tổ chức bên xưởng máy.

    - Cháu công tác ở bộ phận chuyên môn của cháu. Nói

chung thì hoạt động mỗi chỗ một tí. Trong chi đoàn, cháu

lãnh đạo một nhóm nghiên cứu chính trị.

    - Thế chú làm gì ở thường vụ Đoàn.

    Pa-ven bối rối.

    - Cháu mới về, người còn yếu, lại muốn để thời giờ học

tập một chút, cháu không chính thức tham gia lãnh đạo.

    - Ấy, ấy thế đấy! - Cụ Tô-ca-rếp cao giọng nói, không

tán thành ý kiến Pa-ven. - Chú hiểu rằng chú chỉ viện được

cái cớ sức yếu nên tôi không chỉnh chú mà thôi. Nhưng bây

giờ sức khỏe khá hơn rồi chứ?

    - Vâng.

    - Nếu thế thì phải nhận lấy công tác đi, mà nhận thật sự.

Không nên giữ kẽ làm gì. Chú xem có ở đâu đứng ở ngoài

rìa mà làm được việc nên hồn? Ai cũng có thể bảo chú là

trốn tránh trách nhiệm và chú không nói lại thế nào được.

Ngay từ mai phải sửa chỗ sai đó đi. Còn cậu Ô-cu-nhếp,

tôi phải khép cậu ta vào khuôn phép mới được.

    Cụ Tô-ca-rếp kết luận như thế, giọng lộ ra vẻ phật ý.

    - Xin bố đừng phê bình Ô-cu-nhếp. Chính cháu nằn nì

cậu ấy đừng giao công tác gì cho cháu bây giờ.

    Cụ Tô-ca-rếp xì một tiếng chế nhạo:

    - Chú nằn nì và nó chịu chú? Các chú thanh niên cộng

sản mà như thế? Thôi, lần này bỏ qua cho các chú. Chú

cầm báo đọc cho lão nghe như trước kia đi . Mắt lão kém

lắm rồi.

    Thường vụ Đảng ủy đồng ý với ý kiến của đa số trong

thường vụ Đoàn. Một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn đề

ra với tổ chức của Đảng và của Đoàn, đảng viên và đoàn

viên phải lấy việc làm của mình nêu gương chấp hành kỷ

luật lao động. Trong buổi họp của thường vụ. Svê-tai-ép bị

phê bình kịch liệt. Mới đầu hắn nổi tự ái cãi lại, song bị lời

phát biểu của đồng chí bí thư Lô-pa-khin, một người đứng

tuổi, mặt tái vì lao, dồn vào chỗ bí, hắn đành phải nhượng

bộ và nhận một phần sai lầm của mình.

    Ngày hôm sau, báo tường các nhà máy đăng những

bài làm cho công nhân hết sức chú ý. Người ta đọc to các

bài báo đó lên và thảo luận sôi nổi. Buổi tối, họp Đoàn,

đông khác hẳn mọi khi, người ta chỉ nói toàn về những bài

báo đó thôi.

    Cốt-sca bị khai trừ, và Pa-ven được cử vào thường vụ

Đoàn, phụ trách công tác chính trị.

    Mọi người nghe Nhê-giơ-đa-nốp nói, yên lặng và chăm

chú một cách khác thường. Diễn giả nói về những nhiệm vụ

mới, về giai đoạn phấn đấu mới mà các xưởng nhà máy xe

lửa phải vượt qua.

    Họp xong, Pa-ven ra ngoài đứng đợi Svê-tai-ép.

    Anh đón gặp người bí thư Đoàn:

    - Chúng ta cùng đi về đi, hai chúng mình có chuyện phải

nói với nhau.

    Svê-tai-ép hỏi lại, giọng khản đi.

    - Chuyện gì mới được?

    Pa-ven khoác tay Svê-tai-ép, đi vài bước, rồi dừng lại

trước một tấm ghế dài.

    - Chúng mình ngồi đây một chốc.

    Và anh ngồi xuống trước.

    Lửa ở đầu điếu thuốc trong tay Svê-tai-ép khi sáng đỏ

khi tắt dụi.

    - Svê-tai-ép này, tại sao cậu cứ mâu thuẫn với mình?

    Mấy phút im lặng.

    - Chuyện có thế thôi ư? Thế mà mình cứ tưởng cậu có

chuyện công tác muốn nói với mình.

    Giọng Svê-tai-ép không bình thường. Hắn làm bộ ngạc

nhiên.

    Pa-ven quả quyết đặt tay lên đầu gối Svê-tai-ép, gọi

hắn bằng tên thân:

    - Đim-ca, cậu đừng đánh trống lảng. Cái lối ấy chỉ tốt

với những nhà ngoại giao thôi. Cậu bảo thẳng cho tớ biết:

vì sao cậu không ưa tớ?

    Svê tai-ép cử động có vẻ bực tức:

    - Cậu có gì mà lôi thôi với tớ thế? Mâu thuẫn gì? Chính

tớ đã đề nghị cậu tham gia lãnh đạo. Cậu từ chối và bây

giờ lại làm như là tớ cho cậu ra rìa.

   Giọng nói của hắn không thật. Pa-ven, tay không rời

đầu gối bạn, run run nói:

   - Cậu không muốn nói thật thì tớ nói toạc ra vậy. Cậu

tưởng mình muốn ngáng đường cậu. Cậu tưởng mình mơ

ước cái chức bí thư của cậu. Nếu không phải thế thì chẳng

đến nỗi nào có chuyện to tiếng vì cái vụ Cốt-sca. Cách đối

xử với nhau như vậy hại đến mọi công việc. Nếu chỉ là hai

thằng khó chịu với nhau thì chẳng quan hệ gì lắm. Cậu

muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Nhưng từ mai, hai chúng mình

sẽ làm việc với nhau rồi. Nếu cứ hục hặc như thế thì công

việc sẽ ra sao? Cậu hãy nghe tớ nói, không có gì chia rẽ

chúng ta hết. Cậu cũng như tớ là con nhà công nhân. Nếu

cậu cho sự nghiệp chung là quý báu hơn cả thì cậu bắt tay

tớ và ngày mai chúng mình sẽ bắt đầu thân thiết làm việc

với nhau. Song nếu cậu không bỏ những tính khí ấy đi, nếu

cậu cứ luẩn quẩn với những chuyện đôi co bần tiện, thì mỗi

va chạm xảy ra trong công tác chỉ tổ làm cho hai chúng

mình chống nhau kịch liệt. Tay tớ đây, nếu cậu cho tay tớ

còn là tay đồng chí thì cậu bắt tay tớ.

   Lòng vui sướng, Pa-ven cảm thấy những ngón tay gân

guốc của Svê-tai-ép nằm trong lòng bàn tay của mình.

   Một tuần qua. Ở trụ sở Đảng ủy quận, đã hết giờ làm

việc. Trong phòng của các ban đã im lặng, không một tiếng

động. Nhưng đồng chí Tô-ca-rếp vẫn chưa rời cơ quan.

Ngồi trong ghế bành đồng chí mải miết đọc tài liệu mới gửi

đến. Có tiếng gõ cửa.

   - Cứ vào

   Pa-ven vào đặt trước mặt đồng chí bí thư hai bản khai

đã ghi đầy đủ.

    - Cái gì thế chú?

    - Bố ơi, cháu nộp giấy tờ này để xin nhận trách nhiệm

với Đảng. Cháu nghĩ là đã đến lúc. Nếu bố đồng ý, đề nghị

bố đảm bảo cho đơn xin gia nhập Đảng của cháu.

    Cụ Tô-ca-rếp đọc qua, rồi nhìn người thanh niên trong

mấy giây và không nói gì, cầm lấy bút. Trên cột ghi tuổi

đảng của những đảng viên giới thiệu đồng chí Ca-rơ-sa-

ghin Pa-ven An-đơ-rê-ê-vích được làm đảng viên dự bị

Đảng cộng sản (bôn-sê-vích) Nga, đồng chí Tô-ca-rếp đưa

tay vũng chắc viết lên: "Vào Đảng từ 1903” và bên cạnh hạ

một chữ ký chân phương.

    - Ký rồi đây, chú mày. Tôi biết chú không bao giờ làm

nhơ mái tóc bạc của lão.

    *

    Trong phòng, không khí ngột ngạt. Ai cũng chỉ có một ý

nghĩ: làm sao mau đến phía đằng ấy, đến những con

đường hai bên trồng cây hạt dẻ ở khu phố Xô- lô-men-ca,

gần nhà ga.

    Svê tai-ép mồ hôi nhễ nhại, nói như van nài:

    - Đề nghị cho nghỉ thôi, Páp-ca ạ. Mình nóng quá không

chịu được nữa.

    Ca-chi-u-sa và sau chị, nhiều người khác cũng đều

đồng thanh tán thành ý kiến Svê-tai-ép.

    Pa-ven gấp sách lại. Buổi học của nhóm nghiên cứu

hôm đó đến đây là xong.

    Toàn nhóm đứng dậy nói cười huyên náo. Giữa lúc ấy

chuông dây nói reo lên hối hả. Svê-tai-ép cầm ống nghe và

trả lời, cố nói to át mọi giọng ồn ào trong phòng.

    Nói xong, buông máy, Svê-tai-ép quay về phía Pa-ven:

    - Pa-ven ơi, ngoài ga có hai toa ngoại giao của lãnh sự

quán Ba Lan đang đỗ. Họ bị hỏng điện mà một giờ nữa tàu

chạy. Phải chữa dây điện. Cậu cầm hòm đồ đi ngay đi.

Việc cần lắm.

    Hai toa xe lộng lẫy của công ty toa xe giường ngủ quốc

tế đậu ở ke thứ nhất ngoài ga. Toa phòng khách thì đèn

sáng trưng, còn toa bên cạnh thì tối om. Pa-ven lại gần toa

xe, nắm lấy thành sắt của bậc toa, định trèo lên.

    Từ tường nhà ga, một người đàn ông chạy vội đến,

nắm lấy vai anh.

    - Anh này đi đâu?

    Giọng nói quen quen, Pa-ven quay lại. Người ấy mặc

áo khoác da, đội mũ cát-két vành rộng, mũi lõ mỏng dính,

mắt nhìn trừng trừng ra ý dò xét.

    Đến lúc ấy, Ác-chu-khin mới nhận ra Pa-ven. Anh buông

vai người trẻ tuổi, nét mặt tươi dần, song cặp mắt lại nhìn

hòm đồ như dò hỏi:

    - Cậu đi đâu thế ?

    Pa-ven trả lời vắn tắt. Một bóng người nữa từ sau toa

hiện ra:

    - Để tớ đi gọi người liên lạc của họ.

    Pa-ven theo chân người liên lạc bước vào. Trong toa

phòng khách, có mấy người ngồi, ăn mặc cầu kỳ, quần áo

du lịch sang trọng. Ở bàn khách phủ khăn thêu hoa hồng,

một người đàn bà ngồi quay lưng ra cửa. Lúc Pa-ven

bước vào, người đàn bà ấy đang nói chuyện với một viên

sĩ quan cao lớn đứng trước mặt. Người thợ điện vừa bước

vào thì họ im ngay không nói chuyện nữa.

    Pa-ven xem xét rất nhanh những dây điện từ bóng đèn

cuối cùng của toa này đi sang toa sau. Thấy không việc gì,

Pa-ven ra khỏi phòng khách, cố tìm ra chỗ hỏng. Người liên

lạc bụng phệ, cổ như cổ trâu, mặc đồng phục có đốm khuy

đồng mang hình diều hâu một đầu. Hắn ta theo sát anh

không rời một bước.

    - Ta sang toa bên, ở đây không có gì hỏng, pin đèn vẫn

chạy. Chắc là hỏng ở bên kia.

    Người liên lạc khóa trái cửa lại, rồi đi vào lối đi tối mò

của toa sau. Pa-ven bấm đèn soi những đường dây; anh

tìm ra ngay chỗ chập dây. Chỉ mấy phút, bóng đèn đầu tiên

bật lên trong lối đi, tỏa ánh sáng đục mờ. Pa-ven bảo

người liên lạc đi theo anh:

    - Phải mở buồng này ra để thay bóng. Bóng trong

buồng cháy hết rồi.

    - Thế thì phải gọi bà ấy sang. Bà ta giữ chìa khóa.

    Người bảo vệ không dám để Pa-ven đứng đấy một

mình, kéo anh đi theo. Người đàn bà bước vào trong

buồng trước. Pa-ven đi theo ngay sau. Người liên lạc đứng

ở ngưỡng cửa, thân hình phì nộn chật cả lối ra vào. Pa-ven

nhìn qua gian phòng: hai hòm da xinh treo trên lưới, một áo

khoác lụa quàng trên giường, một lọ nước hoa và một hộp

phấn bé xíu bằng ngọc thạch để trên bàn con gần cửa sổ.

Người đàn bà ngồi vào góc giường, rồi vừa quấn lại mớ

tóc màu gai, vừa trông người thợ làm.

    Tên liên lạc cúi cổ trâu xuống, trịnh trọng thưa:

    - Xin phép bà cho con đi một phút. Quan "pan" thiếu tá

gọi con lấy rượu bia ướp lạnh để ngài xơi.

    ( Pan : Tiếng Ba Lan nghĩa là "ông, ngài")

    Người đàn bà trả lời, giọng uốn éo, đỏng đảnh:

    - Cho người đi.

    Hai người nói với nhau bằng tiếng Ba Lan.

    Vệt sáng của ngọn đèn ngoài hành lang rọi vào, đổ

ngang vai người đàn bà. Tấm áo dài bằng lụa nõn Ly-ông,

do nhà hàng thợ may giỏi nhất Pa-ri cắt, để lộ hai cánh tay

và đôi vai. Một viên kim cương óng ánh như một giọt nước

chấm sáng ở vành tai nhỏ nhắn. Pa-ven chỉ nhìn thấy cánh

tay và vai người đàn bà, nõn nà như tạc bằng ngà voi. Mặt

người ấy lẩn trong tối. Pa-ven lấy tuốc-nơ-vít xoay xoay mấy

cái thay bóng đèn trần và chỉ một phút sau, cả gian phòng

lại sáng. Chỉ còn phải xem lại cái bóng đèn thứ hai mắc ở

mé trên chiếc giường người đàn bà đang ngồi. Pa-ven

dừng lại trước mặt người đàn bà ấy.

    - Tôi cần thử cái bóng này.

    - À phải, tôi cản trở việc anh làm.

    Người đàn bà trả lời bằng tiếng Nga rất đúng giọng, rồi

nhẹ nhàng ngồi dậy và đứng gần Pa-ven. Giờ thì anh nhìn

rõ cả người. Đôi mày gãy góc, đôi môi mím chặt kiêu kỳ.

Không còn nghi ngờ gì nữa: nó là con Nen-ly Lê-sinh-ski.

Đứa con gái lão thầy kiện cũng vừa nhận ra cái nhìn sửng

sốt của Pa-ven. Nhưng nếu Pa-ven nhận ra nó, thì nó lại

không nhận ra được người thợ điện này là thằng bé láng

giềng ngỗ ngược, mới có bốn năm qua mà đã lớn hẳn lên.

    Để trả lời vẻ ngạc nhiên của Pa-ven, nó cau mày khinh

khỉnh đi ra cửa phòng; đứng ở đấy nó gõ mũi giày nhỏ tí

bóng nhoáng vào tường gỗ, tỏ ý sốt ruột. Pa-ven tháo bóng

thứ hai, soi lên ánh sáng xem và chính anh không ngờ tới,

cả con Nen-ly Lê-sinh-ski lại càng không ngờ tới nữa, anh

buột mồm hỏi nó bằng tiếng Ba Lan:

    - Vích-to cũng có ở đây chứ?

    Pa-ven hỏi thế, song không quay mặt lại. Anh không

trông thấy mặt con Nen-ly, nhưng thấy lâu nó không đáp, đủ

hiểu nó nghe hỏi thì ngơ ngác đến thế nào.

    - Thế anh biết Vích-to à?

    - Sao lại không biết! Ta trước ở cạnh nhà nhau mà. -

Pa-ven quay lại nhìn nó.

    - Anh là Pa-ven, con mụ.. - Nen-ly nói nửa chừng.

    Pa-ven nhắc tiếp:

    - Con mụ nấu bếp đấy.

    - Ô anh lớn nhanh thật. Tôi nhớ ra anh trước kia là một

thằng bé con rất gấu.

    Nen-ly nhìn anh từ đầu đến chân một cách sống sượng:

    - Anh hỏi Vích-to làm gì? Nếu tôi không nhớ lầm thì anh

với Vích-to có ưa nhau đâu.

    Nen-ly nói giọng lanh lảnh như chim, những mong cuộc

gặp gỡ bất ngờ này làm nó đỡ sốt ruột chờ tàu. Đồ nghề

của người thợ điện bắt rất nhanh vào tường gỗ một chiếc

đinh ốc mới.

    - Vích-to còn nợ tôi. Nếu cô gặp hắn thì cô bảo hắn là tôi

vẫn đợi có dịp hắn trả nợ đấy.

    - Anh cho biết Vích-to nợ anh bao nhiêu để tôi trả hộ.

    Nó rất hiểu cái "nợ” Pa-ven đòi là cái nợ gì. Nó biết

chuyện xảy ra với tên lính nguy Pết-lu-ra ngày trước, nhưng

nó thích trêu "thằng nhãi này” nên giở giọng chọc tức chơi.

    Pa-ven im không nói. Nen-ly buồn rầu hỏi thăm:

    - Anh này, có phải biệt thự nhà tôi đã bị cướp phá tan

tành và giờ đổ nát rồi, phải không anh? Giàn cây và những

bồn hoa cũng bị phá trụi sạch rồi phải không?

    - Nhà ấy nay thuộc về chúng tôi rồi, không phải của các

người nữa. Việc gì chúng tôi lại phá.

    Nen-ly cười mỉa:

    - Ô ô! Tôi xem ra cả anh nữa cũng bị người ta lên lớp

cho rồi. Nhưng toa này là toa của phái đoàn Ba Lan. Trong

toa này, tôi là chủ và anh vẫn là thằng hầu của tôi như ngày

trước. Giờ anh đang chữa điện cho tôi có đèn dùng, để tôi

nằm đọc sách thoải mái trên chiếc giường này. Trước kia

thì mẹ anh giặt quần áo cho nhà tôi, còn anh thì xách nước.

Bây giờ ta lại gặp nhau nhưng phận người nào vẫn phận

người ấy, không có gì khác trước.

    Nó nói với vẻ đắc thắng, lấy làm thú vị một cách tinh ác.

Pa-ven vừa lấy dao con cạo đầu dây điện vừa nhìn con bé

Ba Lan, chẳng giấu vẻ chế nhạo.

    - Nếu chỉ vì nhà chị thì chỉ một chiếc đinh gỉ tôi cũng

chẳng thèm chịu đóng cho chị nhờ. Nhưng vì bọn tư sản đã

sinh ra cái giống ngoại giao thì chúng ta đây, chúng ta cũng

muốn tỏ ra cho chúng nó biết ta đã có chính quyền trong

tay, chúng ta không thèm lấy đầu các người, chúng ta lại

còn tỏ ra lễ độ nữa. Chứ chẳng có ăn nói xách mé như nhà

chị.

    Nen-ly đỏ chín má.

    - Giá các anh chiếm được Vác-sa-va thì chẳng biết các

anh sẽ định làm gì tôi? Bắt tôi làm nàng hầu hay băm thịt tôi

ra làm ba-tê?

    Nó đứng ưỡn ở cửa, điệu bộ đỏm dáng; hai lỗ mũi rất

dâm quen mùi thuốc phiện trắng, phập phồng, mấp máy.

Đèn bật sáng trên đầu giường, Pa ven đứng nhổm dậy:

    - Ai người ta thiết gì nhà chị? Ngữ ấy thì chết non sớm

vì thuốc phiện trắng, chứ chẳng phải đợi đến gươm đây

chém cổ. Cái con người chị như thế, cho đây ngủ đây cũng

chẳng thèm.

    Pa-ven nhặt hòm đồ, đi hai bước ra cửa. Nen-ly nép về

bên. Ra đến đầu lối đi, anh mới nghe thấy. tiếng nó chửi

thầm:

    - Thằng bôn-sê-vích chết tiệt!

    *

    Tối hôm sau, Pa-ven đang đi ra thư viện thì gặp Ca-chi-

u-sa. Chị đưa bàn tay nhỏ xíu nắm lấy áo Pa- ven, vừa

cười vừa chặn đường.

    - Chạy đi đâu thế hở ông Chính trị và Huấn luyện?

    Pa-ven cũng đùa, đáp lại:

    - Thưa mẹ ranh, con ra thư viện. Xê ra cho người ta đi.

    Anh khẽ nắm lấy vai Ca-chi-u-sa, đẩy nhẹ cô xuống

đường. Ca-chi-u-sa gỡ tay anh ra và quay lại đi theo anh.

    - Pa-vơ-lu-sa này, người ta không thể lúc nào cũng học

tập. Hôm nay, anh có biết không, anh phải đến dự tối vui

của chúng tôi. Bà con hôm nay tụ tập ở nhà Di-na Gơ-la-

đúc. Bọn con gái bảo tôi phải kéo anh đến. Nhưng anh thì

anh chỉ biết độc có cắm đầu vào chính trị thôi. Có thể nào

anh chẳng nghĩ gì đến vui chơi, giải trí cả. - Ca-chi-u-sa cố

nài ép. - Thôi, hôm nay anh nghỉ đọc sách một tối thì ngày

mai đầu óc anh lại càng nhẹ nhõm !

    - Tối vui gì mới được? Ở đấy người ta làm gì nào?

    Ca-chi-u-sa nhại lại anh, giọng chế nhạo:

    - Người ta làm gì ấy à? Người ta không cầu kinh là

được rồi. Đến đấy vui một lúc, thế thôi. Anh chơi được đàn

gió phải không? Tôi chưa được nghe anh chơi bao giờ.

Nào, anh chiều lòng tôi một chút. Chú con Di-na có cái đàn

gió, nhưng ông ta chơi tồi lắm. Bọn con gái chú ý đến anh

lắm, mà anh cứ gầy khô đi trên đống sách. Có luật nào

cấm thanh niên cộng sản vui chơi giải trí đâu? Tôi còn khẩn

khoản mời thì anh đến đi. Nếu không tôi giấn đấy, giận rõ

một tháng cho mà xem.

     Người con gái có đôi mắt to làm nghề thợ sơn ấy là

một đồng chí tốt và một đoàn viên khá. Pa-ven không muốn

mếch lòng cô, tuy nghĩ đến tối vui ấy, anh thấy có một cái gì

không quen và ngớ ngẩn nữa.

     Nhà người thợ chữa đầu máy xe lửa Gơ-la-đúc tối nay

đông người và rất ồn ào. Để cho bọn trẻ tha hồ vui chơi,

người lớn rút cả vào phòng trong. Ở buồng lớn phía trước

và ở hàng hiên trông ra vườn nhỏ, có chừng mười lăm

thanh niên nam nữ quây quần. Lúc Pa-ven tới thì ở đấy họ

đang chơi trò gọi là "mớm cho chim bồ câu ăn". Giữa hiên

ngoài, hai ghế dựa áp lưng vào nhau, cô chủ nhà làm

trưởng trò ra lệnh: một anh con trai và một chị con gái ngồi

vào ghế. Trưởng trò hô lên: "Mớm chim bồ câu !" Thế là gã

trai và ả gái đang ngồi áp lưng vào nhau, quay ngay đầu lại

hai miệng gặp nhau và hôn môi nhau giữa công chúng. Rồi

người ta gọi chơi trò "cái nhẫn", trò "người đưa thư", trò

nào cũng có ôm nhau hôn. Khi chơi đến trò "người đưa

thư" thì vì ngoài hiên sáng, người ta đưa nhau vào trong

buồng tắt đèn hôn nhau để không ai trông thấy. Ai không

thú những trò ấy thì ở một góc, trên mặt bàn tròn, có cỗ bài

để chơi trò "lơn hoa". Cô bé ngồi cạnh Pa-ven, mới mười

sáu tuổi, tên gọi Mua-ra, đưa đôi mắt xanh liếc anh và chìa

ra cho anh một lá bài, thủ thỉ:

    - Hoa tím này.

    Mấy năm trước đây, Pa-ven cũng đã dự những buổi tối

như thế này. Tuy bấy giờ anh chẳng trực tiếp chơi mấy, anh

còn cho cái cách chơi ấy hết sức tự nhiên. Song bây giờ

anh đã thoát ly hẳn cuộc đời tủn mủn tiểu tư sản của thị trấn

nhỏ, buổi vui tối nay đối với anh có một cái gì kỳ quái và hơi

lố bịch nữa.

    Dù sao, tay anh cũng đã cầm lá bài "chim chuột" rồi.

Trên lá bài, cạnh chữ "hoa tím", có dòng chữ "Em ưa anh

lắm".

    Pa-ven nhìn cô bé. Cô bé nhìn lại, chẳng bối rối chút

nào.

    - Thế nào?

    Câu hỏi của Pa-ven hơi nặng nề. Mua-ra đã nghĩ sẵn

câu trả lời.

    Cô bé chìa một lá bài nữa cho Pa-ven.

    - Hoa hồng nữa này.

    Cạnh chữ "hoa hồng", có dòng chữ: "Anh là người

trong.mộng của em". Pa-ven quay sang cô bé, dịu giọng

hỏi:

    - Tại sao em cứ nghịch trò vớ vẩn này?

    Mua-ra bối rối, xấu hổ.

    - Em bộc lộ tình cảm của em làm cho anh bực mình hay

sao?

    Rồi bĩu môi đỏng đảnh.

    Pa-ven không trả lời. Nhưng lại muốn hiểu xem cô bé là

con nhà ai. Anh hỏi lại mấy câu, cô bé vui vẻ trả lời. Mấy

phút sau, anh được biết cô bé đang học trường bảy năm,

cha là công nhân đường sắt, đã gặp Pa-ven từ lâu và muốn

làm thân với Pa-ven.

    - Tên em là gì?

    - Mua-ra Vô-lưn-xép.

    - Có phải anh trai em là bí thư chi đoàn sở đầu máy

không?

    - Vâng.

    Giờ thì Pa-ven hiểu cô bé là ai rồi. Rõ ràng là Vô- lưn-

xép, một trong những đoàn viên thanh niên tích cực nhất

quận này, đã không chú ý đến giáo dục em gái mình, và cô

bé cứ là một cô ả tiểu tư sản tầm thường mãi. Từ một năm

nay, cô bé năng lui tới những tối vui tổ chức ở nhà bạn,

đem đến đấy những chiếc hôn làm chóng mặt được. Cô bé

đã gặp Pa-ven nhiều lần đến chơi với anh mình.

    Mua-ra nhận ra người con trai ngồi bên không tán thành

thái độ của mình; khi người ta gọi cô vào chơi "mớm cho

chim bồ câu ăn", cô thấy Pa-ven cau mày, liền từ chối

thẳng. Hai người ngồi với nhau mấy phút nữa, Mua-ra kể

chuyện đời mình. Ca-chi-u-sa đến tìm họ.

    - Mình mang đàn gió lại nhớ, Pa-ven chơi hộ vài bài!

    Rồi nheo mắt nhìn Mua-ra một cách láu lỉnh, Ca- chi-u-

sa hỏi:

    - Thế nào, quen nhau rồi chứ?

    Pa-ven kéo Ca-chi-u-sa ngồi cạnh anh, và nhân lúc

chung quanh đang cười đùa, la hét ầm ĩ, anh bảo bạn:

    - Mình không chơi đâu. Mình đi dạo với Mua-ra một lúc.

    - A, a, có người cắn câu. - Ca-chi-u-sa hỏi, ra dáng hiểu

cả rồi.

    - Phải. Cắn câu rồi đấy. Tôi hỏi Ca-chi-u-sa, ở đây

ngoài hai chúng ta, có ai là đoàn viên nữa không? Hay chỉ

có hai chúng ta rơi vào một "ổ chim bồ câu"?

    Ca-chi-u-sa làm lành, nói cho Pa-ven biết:

    - Họ thôi không làm trò điên nữa đâu. Sắp nhảy rồi.

    Pa-ven đứng dậy:

    - Thế thì tốt. Mời mụ cứ nhảy. Còn tôi với Mua- ra đi

đây.

    Một buổi tối, An-na Bô-khác đến nhà Ô-cu-nhếp. Chỉ

gặp có Pa-ven ở đấy.

    - Anh bận lắm phải không? Đi dự phiên họp toàn thể

của Xô-viết đi nào. Để lúc về, đi có bạn cho vui, chứ họp về

khuya lắm.

    Một lát, Pa-ven mặc xong quần áo. Đầu giường anh

treo khẩu Mô-de: khẩu súng này nặng quá. Anh mở ngăn

kéo Ô-cu-nhếp, lấy khẩu Bơ-rao-ninh cho vào túi. Rồi viết

lại mẩu giấy cho Ô-cu-nhếp và giấu chìa khóa vào chỗ đã

hẹn với nhau.

    Ở rạp hát, hai người gặp Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga. Mấy

người cùng ngồi gần nhau. Những lúc phiên họp tạm nghỉ,

họ đi dạo chơi với nhau ngoài sân. Như An-na đã đoán

trước, buổi họp kéo dài đến một giờ khuya. Ôn-ga đề nghị:

    - Hay các cậu về cả nhà mình ngủ. Khuya lắm rồi mà

các cậu lại ở xa.

    An-na từ chối:

    - Thôi, mình đã hẹn với Pa-ven đi về rồi.

    Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga cứ dọc đường cái đi xuôi, còn

bọn về khu phố Xô-lô-men-ca thì đi ngược lên.

    Đêm ngột ngạt, tối mịt như bưng lấy mắt. Cả thành phố

đã ngủ kỹ. Các đại biểu ra về, mỗi người mỗi ngả, đi theo

các phố im phăng phắc. Tiếng nói và tiếng chân họ cứ chìm

dần trong đêm. Pa-ven và An- na đã đi khỏi các phố lớn

một quãng xa. Đến phố chợ, vào giờ này vắng tanh, vắng

ngắt thì gặp đội tuần tra họ giữ lại hỏi giấy rồi cho đi. Qua

con đường lớn, vào một phố vắng không có đèn. Phố này

chạy ngang một bãi đất bỏ hoang. Hai người rẽ sang trái,

rồi men theo con đường chạy dọc những kho chính của nhà

máy xe lửa. Những nếp nhà dài bằng bê-tông, trông tối đen

và ghê sợ. An-na đột nhiên đâm lo. Chị len lét nhìn vào đêm

tối, trả lời Pa-ven nhát gừng chẳng ra đâu vào đâu. Đến khi

cái bóng đen làm chị hoảng hóa ra là cái cột dây thép thì

chị cười phá lên, cắt nghĩa cho Pa-ven hiểu điều làm mình

sợ. An-na khép cánh tay mình dưới cánh tay Pa-ven, sát

vai mình vào vai bạn và thấy vững lòng hơn.

    - Mình năm nay mới có hai mươi hai tuổi đầu nhưng

thần kinh bị rão như một bà lão rồi, Pa-ven có thể cho mình

là nhát gan. Mình không phải nhát gan đâu. Nhưng hôm nay

không hiểu tại sao mình thấy não cân bị kích thích lạ. Giờ có

Pa-ven đi bên cạnh, mình không lo nữa và thấy xấu hổ là đã

hốt hoảng.

    Vẻ trấn tĩnh của Pa-ven, đầu lửa đỏ của điếu thuốc lá

anh cầm chốc chốc lại soi lên một bên mặt anh, đôi mày

của anh cong một cách cứng cỏi, tất cả những điều đó làm

An-na tiêu tan hết nỗi hoảng sợ vì đêm hôm tối mịt, vì cảnh

hoang vắng của bãi đất bỏ không, cả vì câu chuyện giết

người khủng khiếp xảy ra hôm qua ở khu phố Pa- dôn, vừa

được nghe kể chuyện xong lúc ở rạp hát.

    Hai người đã vượt qua dãy nhà kho, đi qua cái cầu nhỏ

bắc ngang con lạch và đi vào con đường phố ga; con

đường này đưa tới khúc đường hầm dưới gầm đường xe

lửa chạy, khúc đường hầm nối thông mé bên thành phố với

cả khu phố đường sắt.

    Hai người đã bỏ xa nhà ga ở mé bên tay phải. Một

đoàn xe chạy vào đường đỗ xe, ở cuối dãy nhà kho. Đây

đã là giang sơn mà họ quen thuộc rồi. Trên kia, đường tàu

chạy, ánh sáng màu óng ánh ở những đèn kho và đèn hiệu;

gần kho đầu máy, một chiếc đầu máy chạy đi chạy lại, thở

dốc ra như một con vật mệt lử sắp được nghỉ đêm.

    Cửa vào đường hầm, có cái đèn treo trên móc sắt gỉ.

Gió hiu hiu khẽ đưa đẩy ngọn đèn, ánh sáng mờ vàng ệch

đong đưa, hắt lên tường bên này rồi lại hắt lên tường bên

kia của đường hầm.

    Khỏi đường hầm mười bước, ngay bên đường có nếp

nhà nhỏ trơ trụi, chính giữa căn nhà ấy có vết thủng lớn há

hốc. Hai năm trước đây, một quả trái phá hạng nặng tương

trúng ngôi nhà, làm trong nhà bể tung từng mảng và mặt

nhà đổ vỡ tan nát. Trông nếp nhà ấy chẳng khác một ông

lão ăn mày ngồi bên vệ đường chìa vết thương của mình ra

cho người qua lại trông thấy. Trên mặt đường cao, một

chuyến tàu chạy qua.

    An-na thở phào.

    - Ta gần đến nhà rồi.

    Pa-ven gỡ tay An-na ra. Song An-na không chịu bỏ. Hai

người qua một căn nhà đổ nát.

    Bỗng có tiếng động sau lưng. Tiếng chân chạy gấp,

tiếng thở hồng hộc. Có người đuổi theo họ.

    Pa-ven giật tay ra định đối phó, nhưng An-na thất kinh

cứ ôm ghì lấy anh. Đến khi Pa-ven gỡ tay ra được thì muộn

quá rồi: những ngón tay cứng như sắt đã nắm lấy cổ anh;

anh quẫy mạnh nhưng kẻ hành hung đã sấn đến trước mặt.

Nó lấy tay sờ cổ họng anh, nắm lấy cổ áo vặn mạnh, rồi

ngẩng đầu anh lên trước nòng một khẩu súng ngắn, khẩu

súng từ từ giơ lên vẽ thành một vòng cung.

   Mắt người thợ điện như bị thôi miên, nhìn theo khẩu

súng giơ lên theo đường vòng cung, óc anh căng thẳng

quá sức người chịu đựng. Cái chết từ nòng súng đen

ngòm nhìn thẳng vào mắt anh, và Pa-ven không đủ sức nhìn

đi chỗ khác, dù chỉ là một phần trăm giây đồng hồ. Anh đợi

phát súng, nhưng không thấy nổ. Mắt anh tròn xoe nhìn thấy

mặt thằng cướp. Sọ nó to, cằm nó bạnh, râu ria đen sì tua

tủa; mắt nó nấp dưới bóng đen vành rộng mũ cát-két.

   Pa-ven liếc nhìn An-na mặt trắng bệch như vôi.

   Một đứa trong ba thằng cướp kéo An-na vào xó thủng

của căn nhà đổ. Nó vặn tay người con gái, đè ra đất. Một

bóng đen nữa đi kèm Pa-ven, anh chỉ thấy bóng nó in trên

tường hầm. Đằng sau, trong gian nhà đổ nát, có tiếng vật

lộn. An-na cố giãy không chịu; tiếng kêu cứu bỗng im bặt:

An-na bị nó lấy mũ cát-két nhét vào mồm. Tên cướp to đầu

đang ôm ghì Pa-ven không chịu để đứa khác hiếp mà nó

chỉ đứng xem: như con thú dữ, nó muốn sán ngáy đến mồi

ngon. Hình như nó là chủ tướng và nó không ưa làm cho

đứa khác ăn. Anh con trai nó nắm trong tay này mặt non

choẹt ấy mà. Trông cách ăn mặc, dáng chừng là "một

thằng mọi" làm ở sở đầu máy thì phải. Thằng nhãi con này

chẳng có gì nguy hiểm cả.

   "Ta gõ hai ba lần cái củ tỏi này vào hoa cái nó, rồi ta chỉ

cho nó con đường chạy qua bãi hoang thì nó sẽ chạy biến

về phố, không dám ngoái cổ lại". Và thằng cướp nới nắm

tay đang siết chặt của nó ra.

    - Xéo! Chạy đi khỏi đây ngay lập tức. Hễ mở mồm kêu,

ông cho kẹo vào mồm ngay. - Và nó lấy nòng súng cốc vào

trán Pa-ven. - Cút đi ngay! Nó rống lên, rồi hạ súng xuống

cho nạn nhân của nó chạy đi, khỏi sợ nó cho ăn đạn vào

lưng.

    Pa-ven lùi lại phía sau, đi chếch hai bước, mắt không

rời thằng cướp. Thằng cướp lại tưởng gã thanh niên non

choẹt ấy vẫn còn sợ nó bắn vào đầu và không để ý cứ đi về

phía căn nhà.

    Tay Pa-ven thò ngay vào túi. "Chỉ cốt là đừng chậm

quá!” , Anh quay phắt lại, giơ thẳng tay trái, nhằm đúng

thằng cướp. Nó nhận ra nó đã tính lầm thì chậm quá mất

rồi. Viên đạn chọc thủng mạng mỡ.

    Nó không kịp giơ tay lên trời, loạng choạng ngã khuỵu

vào tường hầm, rồi kêu lên không ra tiếng, ngón tay bíu

chặt lấy tường, xác nó từ từ rơi phịch xuống đất. Từ chỗ

thủng của căn nhà đổ, một bóng đen vụt ra, nhảy phắt

xuống rãnh sân. Pa-ven bắn phát thứ hai theo nó. Một bóng

nữa lom khom, ba chân bốn cẳng chạy vụt vào hầm tối.

Súng lại nổ. Đạn bật vào tường bê-tông, bụi trắng rắc theo

lên bóng đen. Nó nhảy né sang bên, rồi biến mất vào đêm

tối. Khẩu Bơ-rao-ninh còn bắn theo ba phát inh tai nữa.

Dưới chân tường hầm, thằng cướp to đầu hấp hối, quằn

quại như con giun.

    Pa-ven đỡ An-na dậy. Chị chưa hết kinh hoàng, nhìn tên

cướp già giãy giụa, còn chưa tin hẳn là thoát nạn.

    Pa-ven dìu An-na đi trong đêm tối, về phía phố, xa dần

chỗ có ánh đèn. Hai người cùng chạy về phía nhà ga. Trên

bờ cao của đường sắt, gần đường hầm, có ánh đèn đi

tuần soi rối rít. Một tiếng súng báo động nổ ầm trên đường

sắt.

    Khi hai người về đến nhà An-na thì gà nhà ai đã gáy

sáng trên đồi Ba-ti-sep. An-na nằm dài trên giường. Pa-

ven ngồi bên bàn. Anh hút thuốc, nhìn những vòng khói tỏa

đang bay lên trần nhà... Thằng cướp vừa bị bắn chết là

người thứ tư anh đã giết trong đời.

    Nói chung, trên đời này, có thể nào có một đức can

đảm tuyệt đối, bao giờ cũng biểu hiện một cách toàn vẹn

không nhỉ? Nhớ lại những cảm nghĩ của mình trong việc xảy

ra vừa qua, Pa-ven thú thật với mình là những phút đầu tiên,

con mắt đen ngòm của nòng súng đã làm anh sợ hết hồn.

Và anh đã bắn trượt hai bóng đen chạy trốn, có phải chỉ vì

anh hỏng một bên mắt, phải dùng tay trái bắn không?

Không. Cách có vài bước mà thôi, anh có thể bắn tin hơn

nhiều. Thế mà lại bắn không trúng, tại anh đã cuống, đã

hấp tấp, điều đó chứng tỏ tâm thần anh có phần nào hốt

hoảng.

    Đèn để bàn chiếu lên đầu anh. An-na nhìn bạn, theo dõi

từng nét cử động trên mặt. Thoạt trông, Pa- ven có vẻ bình

tĩnh. Chỉ có nếp nhăn trên trán tỏ ra anh đang nghĩ lung.

    - Nghĩ gì thế Pa-ven?

    Những ý nghĩ của anh bị câu hỏi đột ngột đánh bạt, bay

đi đâu mất như làn khói thuốc đang tỏa ra khỏi ánh đèn.

Anh trả lời theo ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong óc:

    - Tôi phải tìm đến đồng chí chỉ huy đơn vị bảo vệ thành

phố. Tôi phải báo cáo với đồng chí ấy mới được.

    Anh cố nén mệt mỏi, miễn cưỡng đứng dậy.

    An-na không chịu buông tay anh ngay; chị không muốn

phải ở lại nhà một mình. An-na tiễn Pa-ven ra cửa, đứng

nhìn theo mãi con người đối với mình từ nay thân quý và

gần gũi quá. Chờ cho đến khi Pa- ven đã đi khuất vào bóng

tối, chị mới trở vào đóng cửa lại.

    Có Pa-ven đến gặp cho biết, cơ quan bảo vệ của

đường sắt mới hiểu .ra vụ giết người khó hiểu này. Người

ta nhận ngay ra mặt tên bị giết là Phim-ca Sê-rếp, một tên

cướp đường và giết người đã tái phạm nhiều lần mà các

bộ phận điều tra hình sự đã nhẵn mặt.

    Ngày hôm sau, ai cũng biết chuyện xảy ra ở đường

hầm.

    Nhân đó mà có chuyện va chạm bất ngờ xảy ra giữa

Pa-ven và Svê-tai-ép.

    Giữa lúc cả xưởng đang mải miết làm việc thì Svê- tai-

ép bước vào, gọi Pa-ven ra ngoài hành lang, kéo đến một

chỗ xa, có vẻ cảm động lắm, lúc đó không biết bắt đầu câu

chuyện thế nào, cuối cùng hỏi Pa-ven:

    - Cậu cho mình biết chuyện xảy ra đêm qua thế nào?

    - Cậu biết cả rồi còn gì?

    Svê-tai-ép nhún vai một cách cáu kỉnh. Người thợ điện

hiểu đâu là câu chuyện ở đường hầm động đến lòng Svê-

tai-ép hơn người khác. Pa-ven không biết anh chàng thợ

rèn bề ngoài phớt lạnh này trong bụng rất cảm An-na. Đối

với An-na, chẳng phải mình anh chàng có thiện cảm, song

cảm tình ở hắn ta phức tạp hơn người khác. Được Ta-li-a

vừa cho biết chuyện xảy ra đêm qua ở đường hầm, Svê-

tai-ép nghe xong, một câu hỏi làm hắn ta nhức óc. Hắn biết

không thể nào đem hỏi trực tiếp Pa-ven được; song hắn

muốn biết rõ sự thật thế nào. Hắn cũng cảm thấy lờ mờ

những điều mình lo ngại đây có phần ích kỷ bần tiện; song

lần này, trong cuộc đấu tranh của những tình cảm mâu

thuẫn ở lòng hắn; bản năng thô bạo, bản năng thú vật đã

thắng mất rồi. Hắn bắt đầu nói với Pa-ven bằng giọng khàn

khàn:

    - Pa-ven này, câu chuyện mình hỏi, cậu đừng kế với ai.

Cậu hiểu mình muốn cậu đừng nói với An-na, làm An-na

nghĩ ngợi. Mà cậu cũng có thể tin là mình cũng không nói

với ai hết. Mình đề nghị cậu cho mình biết, khi thằng cướp

giữ chịt lấy cậu thì mấy thằng kia có hiếp được An-na

không?

    Nói đến đoạn cuối của câu, Svê-tai-ép sượng mặt quá

quay đi nhìn chỗ khác.

    Pa-ven bắt đầu lờ mờ hiểu Svê-tai-lo np: "Nếu cậu ta

đối với An-na không có gì thì cậu ta cũng. chẳng lo cuống

cuồng như thế. Nhưng nếu cậu ta yêu An-na thì...". Pa-ven

thấy có điều gì tổn thương đến An-na.

    - Cậu hỏi thế làm gì?

    Svê-tai-ép nói lí nhí, chẳng hiểu nói gì cả, rồi thấy người

ta đã đoán được bụng mình, hắn đâm cáu:

    - Tại sao cậu lại nói lảng đi như thế? Tôi hỏi cậu để cậu

trả lời tôi. Cậu lại đi hỏi vặn lại tôi.

    - Cậu yêu An-na phải không?

    Im lặng. Rồi Svê-tai-ép khó nhọc dằn ra tiếng:

    - Phải.

    Pa-ven không nén được phẫn nộ, quay gót đi ra hiên,

không thèm ngoái lại nhìn.

    *

     …Ô-cu-nhếp đứng quanh quẩn ở gần giường bạn, lúng

ta lúng túng hồi lâu rồi mới đến ngồi sát xuống mép

giường, để tay lên cuốn sách Pa-ven đang đọc.

     - Pa-vơ-lu-sa ơi, cậu có biết không, mình phải kể cậu

nghe chuyện này, cậu biết chưa nhỉ? Câu chuyện có vẻ vớ

vẩn mà lại chẳng vớ vẩn tí nào. Chuyện là... giữa Ta-li-a La-

gu-chi-na với mình. Cậu hiểu, mình ưa cô ấy. - Ô-cu-nhếp,

vẻ ngượng ngùng, đưa tay gãi đầu nhưng không thấy bạn

chế, đánh bạo nói nốt.

     - Và Ta-li-a cũng thế. .. Chắc cậu hiểu rồi. Mình chẳng

phải kể nữa. Câu chuyện rõ ràng chẳng phải soi đèn mới

hiểu. Hôm qua, hai chúng mình bàn nhau, tính xem duyên

phận thế nào, định lập gia đình với nhau. Mình hai mươi hai

tuổi, hai đứa cùng có quyền bầu cử cả rồi. Mình định xây

dựng với Ta-li-a trên nguyên tắc bình đẳng. Cậu nghĩ thế

nào?

     Pa-len suy nghĩ một lát.

     - Cậu bảo mình còn nghĩ thế nào nữa? Cậu cũng như

Ta-li-a là bạn thân của mình. Bọn chúng ta như người ta nói

là cùng một dòng máu mủ. Các mặt lợi ích khác, ta cũng

đều giống nhau cả. Với lại Ta-li-a là một nữ thanh niên rất

tốt... Rõ ràng là nên lắm rồi.

     Hôm sau, Pa-ven mang hòm xiểng sang với anh em ở

tập thể gần sở đầu máy. Vài ngày sau ở nhà An-na có tổ

chức một tối vui, chẳng có rượu chè nhậu nhẹt gì, thật là

một buổi tối vui cộng sản, để mừng cặp vợ chồng mới Ta-

li-a La-gu-chi-na và Nhi-ca-lai Ố-cu-nhếp. Một buổi tối gợi

lại những kỷ niệm xưa và đọc những quyển sách say mê

nhất. Người ta hát đồng ca với nhau, hát nhiều bài và hát

rất hay nữa. Những bài ca chiến đấu vang bay đi xa. Đến

khuya, Ca-chi-u-sa và Mua-ra mang đàn gió lại. Tiếng đàn

trầm mượt và tiếng láy đệm thánh thót như nhịp chuông

bạc, vang âm khắp gian phòng. Tối hôm ấy, Pa-ven lại cầm

lấy đàn chơi như ngày nào. Và đến khi chàng gấu Pan-cơ-

ra-tốp lại xông ra nhảy nữa là điều mà mọi người lạ nhất thì

Pa-ven bốc hẳn; đàn gió của anh lại như xưa, dốc hết nhiệt

tình:

Này kìa, đường phố, đường phố với bao ánh sáng!

Thằng chó đểu Đê-ni-kin đang giận điên người!

Ở Xi-bê-ri Ủy ban đặc biệt chống phản cách mạng!

Đã đập chết tan tành bọn Côn-sắc, Ha! Ha !...

    Đàn gió ca ngợi dĩ vãng, những năm rực ánh lửa và tình

bạn ngày nay, ca ngợi đấu tranh và lòng yêu đời. Nhưng khi

Vô-lưn-xép đỡ lấy đàn chơi bài "Ô này! Quả táo !"... hết

sức vui nhộn của những người thủy thủ thì chỉ có Pa-ven

nhảy, làm điệu vũ say sưa đến điên cuồng ấy ! Bị điệu nhạc

hầm hập sôi nổi lôi cuốn Pa-ven đã nhảy cuộc nhảy thứ ba

và cũng là cuộc nhảy cuối cùng trong đời anh. ( còn nữa)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: