Phần Truyện Không Đề
LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày
15/10/2007 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng Khoá X; Quy chế công tác
tuyên truyền miệng và hoạt động
Báo cáo viên trong Quân đội nhân
dân Việt Nam, ban hành kèm theo
Quyết định số 1104/QĐ-CT, ngày
26/8/2008 của Tổng cục Chính trị,
nhằm cung cấp thông tin, tư liệu và
định hướng tuyên truyền cho đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam,
được sự đồng ý của Thủ trưởng
Tổng cục Chính trị, Cục Tuyên huấn
biên soạn và phát hành Sổ tay Báo
cáo viên 2012-2015.
Sổ tay Báo cáo viên 2012-2015
bao gồm những thông tin, tư liệu có
chọn lọc về:
- Các văn bản, chỉ thị, hướng
dẫn của Đảng, Nhà nước, Quân đội
về công tác báo cáo viên, hoạt động
tuyên truyền miệng;
- Một số kỹ năng nghiệp vụ
công tác tuyên truyền miệng;
- Một số nội dung tuyên truyền,
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc Lần thứ XI;
- Một số sự kiện và ngày lễ
lớn trong 5 năm ( 2012-2015);
Cục Tuyên huấn đã có nhiều cố gắng
trong công tác biên soạn, biên tập
để hoàn thành cuốn "Sổ tay Báo cáo
viên 2012-2015"; tuy nhiên, sẽ
không tránh khỏi những hạn chế,
sai sót, rất mong nhận được sự góp
ý của các đồng chí.
CỤC
TUYÊN HUẤN
PHẦN THỨ NHẤT
CÁC VĂN BẢN CHỈ ĐẠO HƯỚNG DẪN
VỀ CÔNG TÁC BÁO CÁO VIÊN, HOẠT
ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
CHỈ THỊ SỐ 17-CT/TW NGÀY
15/10/2007, CỦA BAN BÍ THƯ
Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả
công tác tuyên truyền miệng trong
tình hình mới
Qua 30 năm thực hiện Chỉ thị
14/CT-TW, ngày 03/8/1977 của Ban Bí
thư (Khoá IV) "Về việc tổ chức đội ngũ
báo cáo viên và tuyên truyền viên của
Đảng" và 10 năm thực hiện Thông
báo số 71/TB-TW, ngày 07/6/1997 của
Thường vụ Bộ Chính trị (Khoá VIII) "Về
việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới
công tác tuyên truyền miệng", công
tác tuyên truyền miệng và hoạt động
của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên đã có bước phát triển, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tư
tưởng trong từng thời kỳ, góp phần
tăng cường sự gắn bó giữa Đảng với
nhân dân, sự thống nhất tư tưởng
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã
hội.
Công tác tuyên truyền miệng
đã đi vào nền nếp, bám sát cơ sở, có
cố gắng đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động để phù hợp với tình
hình thực tiễn và trình độ nhận thức,
yêu cầu của cán bộ, đảng viên và
nhân dân ở mỗi đơn vị, thực sự là
một trong những kênh quan trọng, có
hiệu quả cao của công tác tư tưởng -
văn hoá. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên được phát triển cả về số
lượng và chất lượng, có nhiều hoạt
động phong phú, tích cực, làm tốt vai
trò là lực lượng nòng cốt, chủ lực thực
hiện công tác tuyên truyền miệng của
Đảng.
Tuy nhiên, việc thực hiện các
chủ trương của Đảng về công tác
tuyên truyền miệng và hoạt động của
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên còn những hạn chế và khuyết
điểm. Một số cấp uỷ và ban tuyên giáo
các cấp chưa nhận thức đầy đủ ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác
tuyên truyền miệng; chưa thực sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác
tuyên truyền miệng và việc xây dựng
lực lượng, đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên. Không ít cán
bộ lãnh đạo các cấp chưa tích cực
tham gia công tác tuyên truyền miệng
với vai trò báo cáo viên, tuyên truyền
viên. Nhiều đảng viên chưa chủ động
tham gia tuyên truyền các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước cho quần chúng.
Chất lượng công tác tuyên
truyền miệng còn hạn chế, chưa đáp
ứng nhu cầu của cán bộ, đảng viên,
nhân dân có trình độ ngày càng cao
và có nhiều nguồn thông tin; tính
thuyết phục, tính hấp dẫn chưa cao,
gần đây có biểu hiện né tránh những
vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm.
Phương thức hoạt động còn nặng về
tuyên truyền một chiều từ trên xuống,
ít chú trọng trao đổi, đối thoại trực
tiếp với cán bộ, đảng viên và nhân
dân.
Lực lượng báo cáo viên, tuyên
truyền viên đông nhưng chưa mạnh,
nhiều vùng, lĩnh vực còn thiếu và yếu;
chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa
đủ sức giải đáp có sức thuyết phục
những vướng mắc do thực tiễn cuộc
sống đặt ra. Các chế độ, chính sách,
điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và
tài chính cho công tác tuyên truyền
miệng và hoạt động của báo cáo viên,
tuyên truyền viên đã lạc hậu nhưng
chậm được khắc phục.
Để đáp ứng những đòi hỏi của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ mới, thực hiện Nghị
quyết Đại hội X và Nghị quyết Trung
ương 5 (Khoá X) "Về công tác tư tưởng
lý luận và báo chí trước yêu cầu mới",
Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức
sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền miệng, phát huy
cao độ các ưu thế của tuyên truyền
miệng, của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên để cùng với các
kênh thông tin, tuyên truyền khác tạo
ra sức mạnh tổng hợp và nâng cao
hiệu quả của công tác tư tưởng; cụ
thể cần tập trung thực hiện tốt các
nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1- Tiếp tục quán triệt ý nghĩa,
vai trò, tầm quan trọng của công tác
tuyên truyền miệng, hoạt động của
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên, xác định đây là một kênh thông
tin quan trọng nhất, trực tiếp truyền
bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, giáo
dục, quán triệt các quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; định hướng tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
trước các vấn đề thời sự quan trọng
trong nước và quốc tế; góp phần tạo
sự thống nhất tư tưởng trong Đảng,
sự đồng thuận trong xã hội, củng cố
niềm tin, cổ vũ phong trào cách
mạng. Đồng thời, đây là một trong
những vũ khí sắc bén, kịp thời đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn "diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù
địch, phê phán các quan điểm sai trái,
lệch lạc, phản động. Tuyên truyền
miệng và đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên là một mắt khâu quan
trọng, trực tiếp nối liền Đảng, Nhà
nước với nhân dân, Trung ương với
địa phương và cơ sở để vừa đưa
đường lối, chủ trương của đảng, luật
pháp, chính sách của Nhà nước đến
với nhân dân, vừa nắm bắt, phản ánh
trung thực, kịp thời tư tưởng, tâm tư,
nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của
nhân dân đối với lãnh đạo Đảng, Nhà
nước; gắn truyền đạt với đối thoại,
trao đổi, truyền tải trực tiếp những
thông tin nội bộ cần thiết phục vụ
công tác tư tưởng đối với tất cả các
đối tượng ở mọi hoàn cảnh, điều kiện
một cách linh hoạt.
2- Công tác tuyên truyền miệng
là nhiệm vụ của toàn Đảng, vì vậy tất
cả cấp uỷ các cấp từ Trung ương đến
cơ sở, các đảng viên hoạt động trên
mọi lĩnh vực đều phải có trách nhiệm
làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng,
trực tiếp tham gia tuyên truyền đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; kịp thời
thông tin và định hướng tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên, nhân dân ở nơi
công tác và cư trú về các vấn đề quan
trọng trong nước và trên thế giới, coi
đó là một tiêu chuẩn để đánh giá
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,
chất lượng công tác của các cấp uỷ,
tính tiên phong, gương mẫu và phẩm
chất chính trị của mỗi đảng viên.
3- Các cấp uỷ đảng, người
đứng đầu các cơ quan, đơn vị có
trách nhiệm lãnh đạo xây dựng, quản
lý và chỉ đạo hoạt động của đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên của
ngành, cấp và đơn vị mình, phát huy
vai trò của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên, ưu thế của công tác
tuyên truyền miệng trên mặt trận tư
tưởng - văn hoá. Tất cả các tổ chức
Đảng từ Trung ương đến cơ sở đều
phải có lực lượng báo cáo viên, tuyên
truyền viên.
4- Ban Tuyên giáo Trung ương
chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức và
hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
từ Trung ương đến các tổ chức cơ sở
đảng, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ chính trị, tư tưởng,
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
báo cáo viên, kết hợp hài hoà giữa đội
ngũ báo cáo viên lâu năm có kinh
nghiệm với đội ngũ cán bộ trẻ, kế cận,
từng bước nâng cao trình độ chuyên
nghiệp của báo cáo viên ở tỉnh, thành
phố và Trung ương; đổi mới mạnh mẽ
phương thức hoạt động tuyên truyền
miệng, hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên theo
hướng đáp ứng kịp thời, nhanh nhạy
nhu cầu và phù hợp với trình độ của
cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng
cao tính định hướng và sức thuyết
phục của hoạt động tuyên truyền
miệng.
5- Văn phòng Trung ương Đảng
chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Ban
Tuyên giáo Trung ương và các cơ
quan liên quan nghiên cứu, xây dựng,
bổ sung chế độ, chính sách và bảo
đảm các phương tiện hoạt động cho
báo cáo viên các cấp phù hợp với tình
hình mới và hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện.
6- Ban Tổ chức Trung ương chủ
trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung
ương chỉ đạo, hướng dẫn việc đổi
mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, chức
năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động
của Trung tâm Thông tin công tác
Tuyên giáo các cấp để nâng cao tính
tích cực, năng động, hướng về cơ sở,
chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Trung tâm này.
7- Ban Tuyên giáo Trung ương
chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện Chỉ thị này và định kỳ
báo cáo Ban Bí thư.
Chỉ thị này phổ biến đến chi
bộ.
THÔNG BÁO KẾT LUẬN
SỐ 225-TB/TW NGÀY 03/3/2009 CỦA
BAN BÍ THƯ
Về cải tiến, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của các loại hình
tuyên truyền
1- Những năm qua, công tác
tuyên truyền đã góp phần nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; nâng cao sự thống
nhất trong Đảng và sự đồng thuận
trong xã hội, củng cố niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Hệ thống báo
cáo viên được xây dựng và quản lý
thống nhất từ Trung ương đến cơ sở,
với lực lượng đông đảo, hoạt động
chủ yếu tại tổ chức cơ sở đảng, các
đoàn thể chính trị - xã hội; các
phương tiện thông tin đại chúng tiếp
tục khẳng định là bộ phận có vai trò
quan trọng trong công tác tư tưởng -
văn hoá của Đảng và Nhà nước, cùng
với hoạt động tuyên truyền cổ động
trực quan đã góp phần cổ vũ, động
viên các tầng lớp nhân dân thi đua
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội; hoạt động văn hoá, văn
nghệ đã có nhiều cố gắng, tìm tòi đổi
mới để thực hiện mục đích, nội dung
tuyên truyền.
Tuy nhiên, công tác tuyên
truyền chủ yếu tập trung vào những
vấn đề thời sự, chưa thực sự chú
trọng những vấn đề cơ bản, chiến
lược, chưa lý giải thấu đáo một số tâm
trạng xã hội cũng như những khuynh
hướng tư tưởng mới nảy sinh; hoạt
động tuyên truyền chưa rộng khắp
trong các tầng lớp nhân dân, một bộ
phận cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân chưa được tiếp nhận
đầy đủ thông tin, định hướng trực tiếp
của công tác tuyên truyền.
Việc đấu tranh, phản bác thông
tin, quan điểm sai trái, thù địch còn
thụ động, chưa đủ sức thuyết phục,
chưa phát huy được sức mạnh tổng
hợp của hệ thống công tác tư tưởng,
lý luận nghiên cứu khoa học. Chất
lượng nội dung tuyên truyền miệng
chưa đáp ứng nhu cầu và trình độ
ngày càng cao của nhân dân; chủ yếu
tuyên truyền một chiều từ trên xuống,
thiếu chủ động lắng nghe, đối thoại;
tính định hướng, thuyết phục chưa
cao, còn có những biểu hiện né tránh
những vấn đề bức xúc mà dư luận
quan tâm. Xu hướng xa rời tôn chỉ,
mục đích, thương mại hoá của một số
cơ quan báo chí đã được cảnh báo và
uốn nắn nhưng chậm xử lý, khắc
phục, thậm chí có lúc, có nơi còn vi
phạm nghiêm trọng hơn. Hoạt động
tuyên truyền chưa có sự kết hợp tốt
với hoạt động văn học, nghệ thuật
nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, sự
hấp dẫn với quần chúng.
Nguyên nhân chủ yếu của
những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do công tác quản lý xã hội, quản lý
kinh tế, công tác xây dựng Đảng còn
yếu kém, khuyết điểm; một bộ phận
cán bộ, đảng viên suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; xử lý
một số vụ việc vi phạm pháp luật
nghiêm trọng còn kéo dài, làm cho
công tác tuyên truyền gặp khó khăn,
tính thuyết phục kém. Một số cấp uỷ,
tổ chức Đảng chưa thực sự quan tâm,
coi trọng công tác tuyên truyền, có
nơi còn xem nhẹ hoặc khoán trắng
cho cơ quan tuyên giáo. Nội dung,
phương pháp công tác tuyên truyền
chậm đổi mới. Sự chống phá của các
thế lực thù địch ngày càng tinh vi, gây
khó khăn cho công tác tuyên truyền.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền, nhất là ở địa phương, cơ sở
vừa thiếu, vừa hạn chế về chuyên
môn, nghiệp vụ; công tác đào tạo, xây
dựng và phát triển đội ngũ ở các cấp
chưa được quan tâm đúng mức; chế
độ chính sách còn nhiều bất cập,
chưa tạo được động lực trong công
tác này.
2- Trong thời gian tới, các cấp
uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể nhân dân cần tập
trung thực hiện tốt một số mục tiêu,
giải pháp sau:
a, Mục tiêu
Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các loại hình tuyên
truyền, thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng
trước yêu cầu mới góp phần nâng
cao hiệu quả cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, tổ chức Đảng trong sạch, vững
mạnh; thực hiện tốt cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh", ngăn chặn và từng
bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, khắc phục tình trạng suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
b, Giải pháp chủ yếu
- Thực hiện thường xuyên,
thành nền nếp phương châm thông
tin hai chiều; hoạt động tuyên truyền
phải làm tốt việc truyền đạt nội dung
đến người nghe, đồng thời chủ động
tiếp nhận thông tin, đối thoại, trao
đổi, giải quyết những vấn đề đặt ra để
tạo sự nhất trí cao. Hoạt động tuyên
truyền phải phù hợp với từng đối
tượng, chú trọng đối tượng có tính
đặc thù; phấn đấu đến năm 2011 xây
dựng được đội ngũ báo cáo viên cho
từng đối tượng.
- Tiếp tục đổi mới việc học tập,
quán triệt nghị quyết của Đảng theo
hướng xác định phương pháp, cách
thức tuyên truyền; học tập, lựa chọn
nội dung cơ bản, thiết thực, sát hợp
với từng đối tượng. Đổi mới công tác
tuyên truyền các sự kiện chính trị, xã
hội, các ngày lễ lớn; tập trung chỉ đạo
các đợt tuyên truyền những sự kiện
lớn, những vấn đề hệ trọng của đất
nước. Tổ chức lại lực lượng tham gia
đấu tranh chống các thông tin, quan
điểm sai trái, thù địch, đa dạng hoá
hình thức đấu tranh.
- Tăng cường công tác thông tin
nội bộ trên cơ sở cải tiến nội dung và
hình thức, bảo đảm tính định hướng,
nhanh nhạy và hiệu quả. Củng cố và
phát triển trung tâm thông tin công
tác tuyên giáo các cấp theo tinh thần
Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 15/10/2007
của Ban Bí thư (Khoá X), từng bước
hình thành chức năng đối thoại của
trung tâm.
- Ban hành quy chế cung cấp
thông tin, người phát ngôn của Đảng;
mở rộng hình thức giao ban trực
tuyến của các cơ quan Trung ương;
thực hiện nghiêm quy định về người
phát ngôn của các bộ, ban, ngành
Trung ương. Quy định chế độ các bộ,
ban, ngành Trung ương cung cấp
thông tin cho Ban Tuyên giáo Trung
ương để phục vụ công tác chỉ đạo,
định hướng thông tin, tuyên truyền;
quy định quyền và trách nhiệm của
báo cáo viên chuyên trách được dự
một số cuộc họp, hội nghị của cấp uỷ,
được tiếp cận một số tài liệu của các
cấp uỷ có liên quan và cần thiết cho
công tác tuyên truyền miệng. Xây
dựng cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên
giáo Trung ương với các bộ, ban,
ngành, đoàn thể chính trị - xã hội
trong việc chỉ đạo hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở
cơ sở.
- Các cấp uỷ rà soát lại đội ngũ
báo cáo viên, xây dựng hệ thống báo
cáo viên chuyên trách và báo cáo viên
kiêm nhiệm; chú trọng chất lượng
chính trị, chuyên môn khi tuyển chọn
và công nhận báo cáo viên; phấn đấu
đến năm 2011, tất cả báo cáo viên do
cấp uỷ quản lý được bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác tuyên truyền
miệng.
- Tiếp tục đổi mới nội dung,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ mọi mặt cho phóng
viên báo chí, chú trọng giáo dục phẩm
chất chính trị gắn chặt với chuyên
môn, nghiệp vụ; quy định chế độ bồi
dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ
hàng năm đối với cán bộ làm công
tác quản lý thuộc các cơ quan báo chí
do hội nhà báo tỉnh, thành phố, chi
hội nhà báo trực thuộc Trung ương tổ
chức thực hiện.
- Phát huy thế mạnh của văn
học, nghệ thuật; vai trò của các văn
nghệ sĩ trong sáng tác tác phẩm văn
học, nghệ thuật phục vụ cho công tác
tuyên truyền của Đảng, Nhà nước. Đổi
mới, hoàn thiện chương trình, nội
dung đào tạo trong các nhà trường
văn hoá, nghệ thuật; kịp thời cung
cấp thông tin, định hướng cho văn
nghệ sĩ để thực hiện tốt nhiệm vụ
này.
- Xây dựng quy định về chức
danh, tiêu chuẩn mã ngạch, phụ cấp
trách nhiệm, chế độ thù lao đối với
báo cáo viên chuyên trách; rà soát,
sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách
đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
phóng viên, văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu
cầu đào tạo đặc thù của lĩnh vực này.
3- Tổ chức thực hiện
- Ban Tuyên giáo Trung ương
chủ trì, phối hợp với Văn phòng Trung
ương Đảng xây dựng quy chế cung
cấp thông tin, người phát ngôn của
Đảng trình Bộ Chính trị trong quý
II-2009; phối hợp với các cơ quan liên
quan xây dựng quy định về về cung
cấp thông tin, cơ chế phối hợp trong
công tác tuyên truyền.
- Ban Tổ chức Trung ương chủ
trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ
Nội vụ xây dựng quy định về chức
danh, tiêu chuẩn, mã ngạch đối với
báo cáo viên chuyên trách; phối hợp
với Ban Tuyên giáo Trung ương và các
cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
làm công tác tuyên truyền.
- Văn phòng Trung ương Đảng
chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức
Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung
ương xây dựng quy trình về phụ cấp
trách nhiệm, chế độ thù lao đôí với
báo cáo viên chuyên trách; hướng
dẫn chỉ đạo đầu tư cơ sở vật chất,
phương tiện, kinh phí hoạt động cho
Trung tâm thông tin công tác tuyên
giáo các cấp.
- Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì,
phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung
ương và các cơ quan liên quan xây
dựng nội dung, chương trình bồi
dưỡng về lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ đối với từng chức
danh cán bộ làm công tác tuyên
truyền.
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban
đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
đảng uỷ trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm thực hiện kết luận này.
QUY CHẾ
Cung cấp thông tin phục vụ công tác
tuyên truyền miệng của Đảng
Ngày 03/12/2010 Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã ra Quyết định số 340
Về việc ban hành Quy chế cung cấp
thông tin phục vụ công tác tuyên
truyền miệng của Đảng. Nội dung quy
chế như sau:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Đối tượng phạm vi điều chỉnh
Quy chế này quy định trách nhiệm
của các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung
ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc
Trung ương (Sau đây gọi là cơ quan,
tổ chức đảng trực thuộc Trung ương)
trong việc cung cấp thông tin; trách
nhiệm của Ban Tuyên giáo Trung
ương và báo cáo viên các cấp của
Đảng trong việc tiếp nhận, quản lý và
sử dụng thông tin phục vụ công tác
tuyên truyền miệng trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
Điều 2. Mục đích cung cấp
thông tin
Bảo đảm nguồn thông tin
chính thống để Ban Tuyên giáo Trung
ương chỉ đạo, hướng dẫn đội ngũ báo
cáo viên các cấp của Đảng thông tin,
định hướng dư luận xã hội về tình
hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại của
đất nước và tình hình thế giới; phản
bác thông tin sai trái, thù địch; giải
thích, làm rõ những vấn đề quan
trọng, phức tạp, nhạy cảm về đối nội,
đối ngoại không thể thông tin công
khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng; góp phần tạo sự thống
nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng
và sự đồng thuận trong xã hội.
Điều 3. Nguyên tắc cung cấp
thông tin
1- Thông tin phải chính xác,
toàn diện, đầy đủ, thống nhất, kịp
thời.
2- Bảo đảm yêu cầu về định
hướng chính trị, tư tưởng trong Đảng
và sự đồng thuận trong xã hội.
3- Đúng với đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Điều 4. Giải thích một số từ
ngữ trong Quy chế
1- "Báo cáo viên các cấp của
Đảng": Những người được cấp uỷ lựa
chọn và quyết định công nhận, được
tổ chức theo hệ thống từ Trung ương
đến đảng bộ cơ sở, thực hiện công tác
tuyên truyền miệng trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ
đảng.
2- "Cung cấp thông tin" : Cung
cấp nội dung những vấn đề cụ thể
(sự kiện, vụ việc, tình tiết...) được thể
hiện bằng văn bản, tư liệu (tiếng nói,
âm thanh, hình ảnh, đồ hoạ...).
3- "Vấn đề quan trọng": Vấn
đề có tác động lớn, ảnh hưởng sâu
rộng đến đời sống chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại của đất nước.
4- "Vấn đề phức tạp, nhạy
cảm": Vấn đề thu hút sự quan tâm
đặc biệt của nhiều đối tượng trong xã
hội, nếu thông tin sai hoặc không
thông tin, giải thích, định hướng kịp
thời có thể tác động bất lợi đến dư
luận trong nước và quốc tế (như: các
vụ bạo loạn chính trị; tranh chấp,
xung đột biên giới, biển đảo với các
nước; vấn đề thuộc về lịch sử đất
nước, lịch sử Đảng, lịch sử lãnh tụ
chưa rõ, chưa được cơ quan có thẩm
quyền kết luận; vấn đề liên quan đến
dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân
quyền; các vụ án lớn và phức tạp
đang trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử; những vấn đề có thể gây tác
hại lớn cho hoạt động ngân hàng, tài
chính, chứng khoán, giá cả; vấn đề
tâm linh, ngoại cảm chưa được cơ
quan có thẩm quyền kết luận chính
thức...)
Chương II
NỘI DUNG, HÌNH THỨC CUNG CẤP
THÔNG TIN; TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ
QUAN, TỔ CHỨC ĐẢNG TRỰC THUỘC
TRUNG ƯƠNG VÀ BÁO CÁO VIÊN CÁC
CẤP CỦA ĐẢNG
Điều 5 . Nội dung cung cấp
thông tin
1- Những vấn đề về công tác
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại; các
chủ trương, kế hoạch, đề án, dự án
lớn; kết quả thực hiện nhiệm vụ chính
trị của các ban, bộ, ngành, địa
phương thuộc phạm vi lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý trực tiếp của cơ quan, tổ
chức đảng trực thuộc Trung ương.
2- Những vấn đề quan trọng,
phức tạp, nhạy cảm thuộc lĩnh vực,
địa bàn do cơ quan, tổ chức đảng trực
thuộc Trung ương trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý, không đưa tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng
nhưng thu hút sự quan tâm đặc biệt
của dư luận cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Cần kịp thời cung cấp
thông tin ban đầu về quan điểm xử lý
của cơ quan chức năng để định
hướng dư luận.
Điều 6 . Hình thức cung cấp
thông tin
1- Văn bản, tư liệu của cơ quan,
tổ chức đảng trực thuộc Trung ương
cung cấp.
2- Thông qua trao đổi, làm việc
trực tiếp giữa Ban Tuyên giáo Trung
ương và cơ quan tổ chức đảng trực
thuộc Trung ương có liên quan.
3- Thông qua hội nghị báo cáo
viên định kỳ hàng tháng hoặc đột xuất
do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ
chức.
4- Thông qua đội ngũ báo cáo
viên tiếp nhận, chọn lọc, xử lý thông
tin từ cán bộ, đảng viên và nhân dân
gửi tới Ban Tuyên giáo Trung ương và
cơ quan, tổ chức đảng trực thuộc
Trung ương.
Điều 7. Trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức đảng trực thuộc Trung
ương trong việc cung cấp thông tin
1- Định kỳ 3 tháng một lần
cung cấp thông tin theo quy định tại
khoản 1, Điều 5 Quy chế này; trường
hợp đột xuất hoặc theo đề nghị của
Ban Tuyên giáo Trung ương cung cấp
thông tin theo quy định tại khoản 2,
Điều 5 Quy chế này.
2- Phân công một đồng chí
lãnh đạo cơ quan, tổ chức đảng trực
thuộc Trung ương trực tiếp chỉ đạo
các cơ quan, đơn vị thuộc quyền,
quản lý, cung cấp thông tin và chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin
theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 Quy
chế này; cử cán bộ có trách nhiệm
tham gia cung cấp thông tin tại hội
nghị báo cáo viên theo đề nghị của
Ban Tuyên giáo Trung ương.
Điều 8. Trách nhiệm của Ban
Tuyên giáo Trung ương trong việc tiếp
nhận, xử lý và quản lý thông tin
1- Ban Tuyên giáo Trung ương
là cơ quan trực tiếp chỉ đạo, hướng
dẫn quản lý công tác tuyên truyền
miệng và hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên của Đảng; là đầu mối tiếp
nhận, xử lý và quản lý thông tin do cơ
quan, tổ chức đảng trực thuộc Trung
ương cung cấp để chỉ đạo, hướng dẫn
báo cáo viên các cấp về nội dung
tuyên truyền, giải thích, định hướng
dư luận trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
2- Khi phát hiện những vấn đề
quan trọng, phức tạp, nhạy cảm thu
hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận
cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban
Tuyên giáo Trung ương gửi văn bản
đề nghị cơ quan, tổ chức đảng trực
thuộc Trung ương có liên quan kịp
thời cung cấp thông tin.
Điều 9 . Trách nhiệm của Báo
cáo viên các cấp của Đảng trong
quản lý và sử dụng thông tin
1- Quản lý và sử dụng thông tin
theo đúng quy định của Quy chế hoạt
động báo cáo viên và những quy định
khác của Đảng và Nhà nước; chấp
hành nghiêm kỷ luật phát ngôn, giữ
gìn bí mật của Đảng và Nhà nước.
2- Khi thực hiện công tác tuyên
truyền miệng theo sự phân công phải
truyền đạt đầy đủ, chính xác, trung
thực nội dung thông tin do Ban Tuyên
giáo Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn
và chịu trách nhiệm về những thông
tin mà báo cáo viên đưa ra.
3- Báo cáo viên các cấp của
Đảng được hưởng một số chế độ
theo quy định.
Chương III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 10. Căn cứ vào Quy chế
này, các cơ quan, tổ chức đảng trực
thuộc Trung ương cụ thể hoá thành
quy định trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức đảng trực thuộc cung
cấp thông tin phục vụ công tác tuyên
truyền miệng do cấp uỷ quản lý.
Điều 11. Ban Tuyên giáo Trung
ương và các cơ quan, tổ chức đảng
trực thuộc Trung ương phối hợp tổ
chức thực hiện tốt việc cung cấp
thông tin phục vụ công tác tuyên
truyền miệng và hoạt động của báo
cáo viên các cấp của Đảng; định kỳ sơ
kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế
này.
Trong quá trình thực hiện Quy
chế, nếu có vướng mắc hoặc phát
sinh vấn đề mới, các cơ quan, tổ chức
đảng trực thuộc Trung ương phản
ánh về Ban Tuyên giáo Trung ương để
báo cáo Ban Bí thư sửa đổi, bổ sung
kịp thời.
QUY CHẾ
Hoạt động báo cáo viên của Đảng
Ngày 10-11-2011 Ban tuyên giáo trung
ương ra Quyết định Số 518-QĐ/
BTGTW Về việc ban hành Quy chế
hoạt động báo cáo viên của Đảng.
Nội dung Quy chế như sau:
I. Quy định chung
Điều 1 : Báo cáo viên
1.1. Báo cáo viên của Đảng là người
do cấp ủy đảng lựa chọn và quyết
định công nhận, thực hiện công tác
tuyên truyền miệng trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng; hướng
dẫn, quản lý và tổ chức hoạt động
của Ban Tuyên giáo cùng cấp và cấp
trên.
1.2.Trong những trường hợp cụ thể,
khi được cấp ủy phân công, báo cáo
viên là người phát ngôn của cấp ủy
đảng.
1.3. Báo cáo viên được tổ chức từ
Trung ương đến tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường,
thị trấn. đảng bộ cơ sở và tương
đương.
Điều 2 : Nhiệm vụ của báo cáo viên
2.1. Trực tiếp tuyên truyền, phổ biến
những quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tình hình thời sự
trong nước và thế giới; những nhân tố
mới, điển hình tiên tiến trong xây
dựng, phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đến cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
2.2. Nắm tình hình tư tưởng cán bộ,
đảng viên và nhân dân; định hướng tư
tưởng và hướng dẫn dư luận xã hội,
góp phần xây dựng, củng cố sự thống
nhất tư tưởng, hành động trong Đảng
và sự đồng thuận trong xã hội.
2.3. Đối thoại với người nghe, kịp thời
giải đáp những băn khoăn, thắc mắc
của cán bộ, đảng viên và nhân dân;
đấu tranh phê phán, bác bỏ những
quan điểm sai trái, thù địch.
2.4. Tuyên truyền các nội dung thông
tin theo sự lãnh đạo, chỉ đạo, định
hướng, sự phân công của cấp ủy
đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ
quan chuyên môn cấp trên.
Điều 3: Quyền lợi và nghĩa vụ của báo
cáo viên
3.1. Quyền lợi:
a. Được cung cấp thông tin về tình
hình trong nước, tình hình thế giới và
các tài liệu cần thiết theo quy định;
được trang bị các phương tiện kỹ
thuật phù hợp phục vụ công tác tuyên
truyền miệng.
b. Được tham dự các hội nghị báo
cáo viên do Ban Tuyên giáo cùng cấp
tổ chức; được bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác tuyên truyền miệng hàng
năm.
c. Được trả thù lao theo quy định của
Nhà nước và hưởng phụ cấp theo quy
định tại hướng dẫn liên ban số 06-
HD/BTCTW-BTGTW ngày 15 tháng 8
năm 2011 của Ban Tổ chức Trung
ương và Ban Tuyên giáo Trung ương
về thực hiện chế độ phụ cấp trách
nhiệm đối với báo cáo viên các cấp.
3.2. Nghĩa vụ.
a. Thực hiện tuyên truyền miệng theo
sự phân công của cấp ủy đảng; thông
tin đầy đủ, chính xác và kịp thời các
vấn đề được giao; chấp hành nghiêm
kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước
và kỷ luật phát ngôn; giữ gìn bí mật
của Đảng và Nhà nước.
b. Tăng cường đối thoại với người
nghe tại các buổi tuyên truyền miệng;
với cán bộ, đảng viên và nhân dân tại
các diễn đàn phù hợp để làm rõ và
bảo vệ các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và nội dung chuyên đề mà
mình trình bày.
c. Thường xuyên nắm dư luận xã hội,
tâm trạng, tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân; kịp thời phản ánh
và đề xuất, kiến nghị với cấp ủy đảng
các biện pháp xử lý.
d. Tham gia đầy đủ các hội nghị báo
cáo viên và các hoạt động báo cáo
viên khi được phân công.
Điều 4 : Tiêu chuẩn báo cáo viên
Báo cáo viên của Đảng phải có đủ tiêu
chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống và trình độ, năng lực
chuyên môn.
4.1. Về phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống
a. Có lập trường quan điểm đúng
đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với mục tiêu lý tưởng và
sự nghiệp cách mạng của Đảng; bản
thân và gia đình chấp hành tốt các
chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
b. Có tính đảng, tinh thần đấu tranh
phê và tự phê bình, ý thức tổ chức kỷ
luật cao, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn.
c. Có tinh thần trách nhiệm, nhiệt
tình, tâm huyết với chuyên môn,
nghiệp vụ; khiêm tốn học hỏi, gương
mẫu về đạo đức và lối sống, có mối
quan hệ gần gũi, sâu sát, gắn bó với
nhân dân.
4.2. Về trình độ, năng lực
a. Có trình độ lý luận chính trị cao cấp
đối với báo cáo viên cấp Trung ương,
báo cáo viên cấp tỉnh; trình độ lý luận
chính trị trung cấp đối báo cáo viên
cấp huyện, báo cáo viên cấp xã và
tương đương, đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ được giao; nắm vững những
nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
b. Có trình độ chuyên môn từ đại học
trở lên đối với báo cáo viên Trung
ương, báo cáo viên cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, các đảng
ủy trực thuộc Trung ương; có hiểu biết
chung về các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, khoa học.
c. Có hiểu biết thực tiễn; có năng lực
tiếp nhận và xử lý thông tin; biết vận
dụng tâm lý học, phương pháp sư
phạm và nghiệp vụ tuyên truyền
miệng vào hoạt động báo cáo viên.
d. Có năng lực tự chủ, khả năng giao
tiếp, luôn chủ động trong quá trình
đối thoại với người nghe, với cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
II. Tổ chức hoạt động của đội ngũ
báo cáo viên
Điều 5 : Cấp ủy đảng các cấp trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của báo
cáo viên; quyết định công nhận báo
cáo viên và tạo điều kiện cho báo cáo
viên hoạt động thường xuyên, hiệu
quả.
Điều 6: Ban Tuyên giáo các cấp giúp
cấp ủy đảng xây dựng, tổ chức quản
lý và trực tiếp điều hành hoạt động
báo cáo viên, chịu trách nhiệm trước
cấp ủy đảng về toàn bộ hoạt động
báo cáo viên, bao gồm:
6.1. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên
a. Cấp ủy đảng các cấp lựa chọn cán
bộ, đảng viên đủ tiêu chuẩn để xây
dựng đội ngũ báo cáo viên của cấp
mình đủ số lượng, đúng thành phần,
đáp ứng yêu cầu công tác.
b. Ban Tuyên giáo Trung ương được
Ban Bí thư Trung ương Đảng ủy
nhiệm quyết định công nhận báo cáo
viên Trung ương, trên cơ sở đề nghị
của các cấp ủy đảng.
c. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc Trung ương và Ban
Tuyên giáo huyện ủy, quận ủy, thị ủy,
thành ủy trực thuộc tỉnh và tương
đương đề xuất danh sách để cấp ủy
đảng cùng cấp quyết định công nhận
báo cáo viên cấp mình.
6.2. Tổ chức hoạt động báo cáo viên
Căn cứ sự chỉ đạo của cấp ủy đảng,
căn cứ vào tình hình nhiệm vụ của địa
phương, cơ sở; sự định hướng thông
tin của cấp trên, Ban Tuyên giáo các
cấp tiến hành các hoạt động sau:
a. Xây dựng nội dung, chương trình,
kế hoạch, hằng năm, hằng quý và
hằng tháng trình cấp ủy đảng phê
duyệt để tổ chức thực hiện công tác
tuyên truyền miệng.
b. Tổ chức hội nghị báo cáo viên định
kỳ hằng tháng và đột xuất để cung
cấp thông tin cho báo cáo viên theo
từng cấp; chú trọng nâng cao chất
lượng thông tin, đa dạng hoá các loại
hình cung cấp thông tin.
c. Tổ chức đối thoại giữa các đồng chí
lãnh đạo cấp ủy đảng, chính quyền,
các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp
với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
d. Biên tập và phát hành các loại tài
liệu phục vụ cho hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên.
III. Quản lý hoạt động báo cáo viên
Điều 7: Quản lý đội ngũ báo cáo viên
7.1. Trung tâm Thông tin công tác
tuyên giáo thuộc Ban Tuyên giáo
Trung ương giúp Ban Tuyên giáo
Trung ương quản lý báo cáo viên
Trung ương; cung cấp thông tin và
hướng dẫn hoạt động cho đội ngũ
báo cáo viên trong toàn Đảng.
7.2. Trung tâm Thông tin công tác
tuyên giáo cấp tỉnh giúp Ban Tuyên
giáo tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc
Trung ương cung cấp thông tin, quản
lý, hướng dẫn chỉ đạo hoạt động của
báo cáo viên cấp tỉnh.
7.3. Ban Tuyên giáo huyện ủy, quận
ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh quản lý
đội ngũ báo cáo viên cấp huyện và cơ
sở; cung cấp thông tin và phối hợp với
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị tổ chức
hội nghị báo cáo viên, hướng dẫn, chỉ
đạo hoạt động báo cáo viên trên địa
bàn.
7.4. Ban Tuyên giáo các đảng ủy trực
thuộc Trung ương, Đảng đoàn các
đoàn thể chính trị - xã hội Trung ương
thực hiện việc xây dựng, kiện toàn,
quản lý, tổ chức hoạt động đội ngũ
báo cáo viên theo sự phân cấp quản
lý.
7.5. Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam giúp
Quân ủy Trung ương; Cục Công tác
chính trị, Tổng cục Xây dựng lực lượng
Công an nhân dân giúp Đảng ủy
Công an Trung ương cung cấp thông
tin, hướng dẫn hoạt động và quản lý
đội ngũ báo cáo viên cấp mình (theo
quy chế riêng).
Điều 8: Quản lý hoạt động báo cáo
viên
Ban Tuyên giáo các cấp có trách
nhiệm:
8.1. Kiến nghị với cấp ủy đảng những
vấn đề về nội dung hoạt động của
đội ngũ báo cáo viên trong từng thời
gian.
8.2. Định hướng tuyên truyền trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
8.3. Tổ chức các lớp tập huấn bồi
dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo
viên.
8.4. Theo dõi, kiểm tra hoạt động của
báo cáo viên, quản lý thông tin trong
toàn bộ hệ thống báo cáo viên.
8.5. Tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng
kết, hội thi báo cáo viên, tuyên truyền
viên; nghiên cứu khoa học về công tác
tuyên truyền miệng, hoạt động của
đội ngũ báo cáo viên.
8.6. Kịp thời đề xuất với cấp ủy đảng
bổ sung và thay thế những báo cáo
viên không hoàn thành nhiệm vụ,
hoặc không đủ điều kiện đảm nhiệm
công tác tuyên truyền miệng.
Điều 9: Thẻ báo cáo viên
9.1. Thẻ báo cáo viên là chứng chỉ
hoạt động tuyên truyền miệng, được
cấp cho báo cáo viên phân theo cấp
quản lý. Thẻ báo cáo viên được cấp
theo nhiệm kỳ đại hội Đảng; được bổ
sung khi có kiện toàn, thay thế báo
cáo viên. Báo cáo viên khi chuyển
công tác khác hoặc không đủ điều
kiện làm báo cáo viên, thẻ báo cáo
viên đó không còn giá trị và được thu
hồi.
9.2. Ban Tuyên giáo Trung ương cấp
thẻ cho đội ngũ báo cáo viên Trung
ương.
9.3.Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành
ủy trực thuộc Trung ương; Ban Tuyên
giáo huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành
ủy trực thuộc tỉnh và các cấp ủy đảng
tương đương cấp thẻ cho báo cáo
viên cùng cấp.
9.4. Cơ quan cấp thẻ báo cáo viên là
cơ quan có quyền thu hồi thẻ báo
cáo viên đối với những trường hợp
không chấp hành đầy đủ các quy
định trong hoạt động báo cáo viên
được quy định tại Điều 10 Quy chế
này.
9.5. Trung tâm Thông tin công tác
tuyên giáo thuộc Ban Tuyên giáo
Trung ương cấp thẻ dự hội nghị báo
cáo viên định kỳ hoặc đột xuất do Ban
Tuyên giáo Trung ương tổ chức cho
cán bộ không phải là báo cáo viên
Trung ương thuộc Ban Tuyên giáo tỉnh
ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Trung ương, các cơ quan, đoàn thể
chính trị - xã hội của Trung ương.
Điều 10: Khen thưởng và kỷ luật
10.1. Hằng năm, căn cứ vào kết quả
công tác tuyên truyền miệng, hoạt
động của báo cáo viên, các cơ quan
quản lý báo cáo viên có trách nhiệm
xem xét, đề nghị cấp ủy đảng, chính
quyền khen thưởng những tập thể, cá
nhân có thành tích xuất sắc trong
công tác tuyên truyền miệng.
10.2. Căn cứ mức độ vi phạm Quy chế
của báo cáo viên, cấp ủy đảng áp
dụng các hình thức kỷ luật về Đảng,
thu hồi thẻ báo cáo viên và xoá tên
khỏi danh sách báo cáo viên.
HƯỚNG DẪNSỐ 31-HD/BTGTW, NGÀY
30-12-2011 CỦA BAN TUYÊN GIAO
TRUNG ƯƠNG
về việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ
báo cáo viên các cấp
I. Nguyên tắc chung
- Báo cáo viên phải bảo đảm các tiêu
chuẩn được nêu trong Quy chế hoạt
động báo cáo viên do Ban Tuyên giáo
Trung ương ban hành ngày 10 tháng
11 năm 2011.
- Báo cáo viên cấp nào do cấp ủy
đảng cấp đó lựa chọn, quyết định
công nhận, cấp thẻ báo cáo viên,
quản lý và tổ chức hoạt động. Báo
cáo viên Trung ương do Ban Tuyên
giáo Trung ương quản lý và cấp thẻ.
- Đội ngũ báo cáo viên được xây
dựng, kiện toàn với số lượng và cơ cấu
hợp lý, chú trọng chất lượng.
- Chế độ, chính sách của báo cáo viên
thực hiện theo quy định hiện hành.
II. Quy định cơ cấu, số lượng báo
cáo viên các cấp
1. Báo cáo viên Trung ương
Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực
thuộc Trung ương, các ban, bộ,
ngành, đoàn thể chính trị - xã hội
Trung ương lựa chọn từ đội ngũ báo
cáo viên của mình những người có đủ
điều kiện tham gia làm báo cáo viên
của Trung ương.
- Mỗi tỉnh ủy, thành ủy: từ 03 - 05
người (riêng Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An mỗi
đơn vị: 05- 07 người).
- Mỗi đảng ủy trực thuộc Trung ương:
05 người (riêng Quân ủy Trung ương
và Đảng ủy Công an Trung ương: 15
người).
- Các ban và cơ quan của Đảng: 03
người, (riêng Văn phòng Trung ương,
Ban Đối ngoại Trung ương. Học viện
CTHCQG Hồ Chí Minh: 05 người. Ban
Tuyên giáo Trung ương: 15 người).
- Mỗi bộ, cơ quan ngang bộ và đoàn
thể chính trị Trung ương: 03 người
(riêng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: 05 người; Bộ
Ngoại giao: 10 người).
2. Báo cáo viên cấp tỉnh và tương
đương
- Mỗi tỉnh, thành phố không quá 50
người (riêng Hà Nội, TP Hồ Chí Minh,
Thanh Hóa, Nghệ An, mỗi đơn vị
không quá 60 người).
- Mỗi đảng ủy trực thuộc Trung ương
không quá 30 người.
3. Báo cáo viên cấp huyện và tương
đương
- Mỗi đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy,
thành ủy có 05 báo cáo viên. Mỗi
huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh có số lượng bảo đảm mỗi
xã, phường có 01 báo cáo viên và 05
báo cáo viên cho các cơ quan quận,
huyện, thị xã.
III. Tổ chức thực hiện
Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc Trung ương:
1. Tham mưu và chịu trách nhiệm
trước cấp ủy đảng trong việc lựa
chọn, lập danh sách đề nghị Ban
Tuyên giáo Trung ương công nhận
đội ngũ báo cáo viên Trung ương
thuộc địa phương, đơn vị mình. Danh
sách báo cáo viên Trung ương gửi về
Ban Tuyên giáo Trung ương (qua
Tnmg tâm Thông tin công tác tuyên
giáo) trước ngày 15 tháng 1 năm 2012.
2. Lập danh sách đề nghị Ban Thường
vụ cấp ủy đảng, hoặc thừa ủy quyền
của Ban Thường vụ cấp ủy đảng quyết
định công nhận đội ngũ báo cáo viên
cấp mình và hướng dẫn cấp dưới tổ
chức thực hiện theo thẩm quyền.
3. Tăng cường quản lý, theo dõi hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên định
kỳ báo cáo cấp ủy đảng và Ban Tuyên
giáo Trung ương.
HƯỚNG DẪN LIÊN BAN SỐ 06-HD/
BTCTW, BTGTW, NGÀY 15/8/2011
CỦA BAN TỔ CHỨC TRUNG ƯƠNG,
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
Về việc thực hiện chế độ phụ cấp
trách nhiệm đối với báo cáo viên
các cấp theo Thông báo 13-TB/TW,
ngày 28-3-2011 của Bộ Chính trị
I. Phạm vị đối tượng áp dụng
1. Những người được công
nhận là báo cáo viên được hưởng chế
độ phụ cấp trách nhiệm khi có đầy đủ
các điều kiện sau:
a) Có quyết định công nhận
của cấp uỷ các cấp và được cấp thẻ
báo cáo viên theo Quy chế Số 09-QC/
TTVH, ngày 17/11/2005 của Ban Tư
tưởng - văn hoá Trung ương (nay là
Ban Tuyên giáo Trung ương) về quy
chế hoạt động của báo cáo viên.
b) Thẻ báo cáo viên có giá trị
đến sau ngày 01/01/2011.
2. Về số lượng báo cáo viên của
từng cấp:
a) Ở Trung ương: Ban Tuyên
giáo Trung ương xem xét, quyết định
số lượng báo cáo viên Trung ương.
b) Ở địa phương:
- Số lượng báo cáo viên ở các
tỉnh uỷ, thành uỷ; các đảng uỷ khối
trực thuộc cơ quan Trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh) không quá 50
người. Riêng Đảng bộ thành phố Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Thanh
Hoá, Nghệ An, Quân đội, Công an mỗi
đảng bộ không quá 60 người.
- Số lượng báo cáo viên của các
huyện uỷ, quận uỷ ... (gọi chung là
cấp huyện), trong đó bao gồm cả số
lượng báo cáo viên của cấp uỷ xã
(phường) không quá 30 người. Các
báo cáo viên này làm cả hai cấp
huyện và xã.
II. Mức phụ cấp trách nhiệm
và nguyên tắc chi trả
1. Mức phụ cấp
a) Báo cáo viên cấp Trung ương được
hưởng phụ cấp trách nhiệm hằng
tháng bằng 0,5 mức lương tối thiểu
chung.
b) Báo cáo viên ở cấp tỉnh được
hưởng phụ cấp trách nhiệm hằng
tháng bằng 0,3 mức lương tối thiểu
chung.
c) Báo cáo viên ở cấp huyện và
xã được hưởng phụ cấp trách nhiệm
hằng tháng bằng 0,2 mức lương tối
thiểu chung
2. Nguyên tắc chi trả
a) Người tham gia báo cáo viên
nhiều cấp thì được hưởng phụ cấp
báo cáo viên của cấp cao nhất.
b) Khi thôi làm báo cáo viên
hoặc bị thu hồi thẻ báo cáo viên thì
thôi hưởng phụ cấp báo cáo viên từ
tháng tiếp theo.
c) Phụ cấp báo cáo viên không
dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế.
d) Phụ cấp báo cáo viên các
cấp được chi trả theo quý. Ở cấp
Trung ương và tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương do Ban Tuyên giáo
cùng cấp chi trả; Đảng uỷ khối các cơ
quan Trung ương, Đảng uỷ khối
doanh nghiệp Trung ương, Đảng uỷ
Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Công
an Trung ương do văn phòng cấp uỷ
chi trả; ở cấp huyện và xã do văn
phòng huyện uỷ chi trả.
III. Tổ chức thực hiện
1. Chế độ phụ cấp báo cáo viên
quy định tại Hướng dẫn này được
thực hiện từ ngày 01/01/2011.
2. Nguồn kinh phí chi trả chế
độ phụ cấp đối với báo cáo viên quy
định tại Hướng dẫn này do ngân sách
Nhà nước bảo đảm theo phân cấp
ngân sách Nhà nước hiện hành.
3. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các
ban đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành
Hướng dẫn này.
Hướng dẫn này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký.
Trong quá trình thực hiện nếu
có vướng mắc, đề nghị phản ánh về
Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên
giáo Trung ương để xem xét, giải
quyết.
THÔNG TƯSỐ 28/2009/TT-BQP NGÀY
17/6/2009 CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ
QUỐC PHÒNG
Hướng dẫn thực hiện chế độ đối với
báo cáo viên của Đảng trong Quân
đội
BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG
Căn cứ Nghị định số 104/2008/
NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 của
Chính phủ Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Quốc phòng;
Để thực hiện Thông tư số
51/2008/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm
2008 của Bộ Tài chính Hướng dẫn
quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà
nước;
Xét đề nghị của Cục trưởng Cục
Tài chính - Bộ Quốc phòng.
THÔNG TƯ:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối
tượng áp dụng
1. Thông tư này quy định đối tượng
chi thù lao cho báo cáo viên của Đảng
báo cáo tại hội nghị thông tin chuyên
đề, hội nghị báo cáo viên.
2. Đối tượng áp dụng là các báo cáo
viên của Đảng (Kể cả trong và ngoài
đơn vị).
Điều 2. Mức chi thù lao cho báo cáo
viên
Báo cáo viên (Kể cả trong và ngoài
đơn vị) được mời đến báo cáo tại hội
nghị thông tin chuyên đề, hội nghị
báo cáo viên được hưởng thù lao
(một buổi báo cáo được tính gồm 4
tiết) với mức như sau:
1. Mức 500.000đồng/buổi:
a, Báo cáo viên là Uỷ viên Trung ương
Đảng, bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư,
phó bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch HĐND, chủ
tịch UBND cấp tỉnh và tương đương;
b, Báo cáo viên có hệ số phụ cấp
chức vụ lãnh đạo hiện hưởng từ 1,25
trở lên;
c, Sĩ quan cấp tướng;
d, Báo cáo viên báo cáo tại hội nghị
thông tin chuyên đề, hội nghị báo cáo
viên cấp Bộ.
2. Mức 400.000 đồng/buổi:
a, Báo cáo viên cấp cục, vụ, viện, giáo
sư, phó giáo sư, chuyên viên cao cấp,
tỉnh uỷ viên, trưởng các sở, ban,
ngành cấp tỉnh và tương đương;
b, Báo cáo viên có hệ số phụ cấp
chức vụ lãnh đạo hiện hưởng từ 1,0
đến 1,2;
c, Sĩ quan cấp thượng tá, đại tá và
chuyên gia đầu ngành cấp Bộ;
d, Báo cáo viên báo cáo tại hội nghị
thông tin chuyên đề, hội nghị báo cáo
viên cấp tổng cục, quân khu, quân
chủng, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng,
quân đoàn, binh chủng và tương
đương.
3. Mức 300.000 đồng/buổi:
a, Báo cáo viên là tiến sĩ khoa học,
tiến sĩ, chuyên viên chính; phó các sở,
ban, ngành cấp tỉnh và tương đương.
b, Báo cáo viên có hệ số phụ cấp
chức vụ lãnh đạo hiện hưởng từ 0,7
đến 0,9;
c, Sĩ quan cấp trung tá, thiếu tá và
giảng viên chính;
d, Báo cáo viên báo cáo tại hội nghị
thông tin chuyên đề, hội nghị báo cáo
viên cấp sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự
tỉnh và tương đương.
4. Mức 200.000 đồng/buổi:
a, Báo cáo viên là chuyên viên, giảng
viên; báo cáo viên cấp quận, huyện,
thị xã;
b, Báo cáo viên có hệ số phụ cấp
chức vụ lãnh đạo hiện hưởng từ 0,4
đến 0,6;
c, Sỹ quan cấp thượng uý, đại uý;
d, Báo cáo viên báo cáo tại hội nghị
thông tin chuyên đề, hội nghị báo cáo
viên cấp trung đoàn và tương đương.
5. Mức 100.000 đồng/buổi: Các đối
tượng khác
6. Báo cáo viên là người đã nghỉ
hưu , tuỳ theo chức vụ, học hàm, học
vị (trước khi về nghỉ) và cấp tổ chức
hội nghị để trả thù lao tương ứng với
các mức quy định trên.
Điều 3. Trách nhiệm chi trả
1. Đơn vị đứng ra tổ chức hội nghị
thông tin chuyên đề, hội nghị báo cáo
viên có trách nhiệm trả thù lao cho
báo cáo viên.
2. Đối với báo cáo viên đang hưởng
lương từ ngân sách nhà nước thì đơn
vị của báo cáo viên có trách nhiệm chi
trả tiền công tác phí (nếu có) theo chế
độ hiện hành.
3. Đối với báo cáo viên không hưởng
lương từ ngân sách nhà nước thì đơn
vị đứng ra tổ chức hội nghị có trách
nhiệm chi tiền ăn, tiền thuê chỗ nghỉ,
tiền tàu xe cho báo cáo viên (nếu có)
theo chế độ hội nghị hiện hành.
Điều 4. Nguồn kinh phí
Các khoản chi trả thù lao cho báo cáo
viên quy định tại Thông tư này được
tính trong dự toán ngân sách năm
của đơn vị và được hoạch toán vào
Mục 6650 "Hội nghị" theo tiểu mục,
tiết mục, ngành tương ứng trong hệ
thống mục lục ngân sách nhà nước
áp dụng trong quân đội và quản lý
theo chế độ quản lý tài chính hiện
hành.
Điều 5. Hiệu lực thi hành
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành
sau 45 ngày, kể từ ngày ký và thay thế
Thông tư số 239/1999/TT-BQP ngày
27/01/1999 của Bộ Quốc phòng
"Hướng dẫn thực hiện chế độ đối với
báo cáo viên của Đảng trong Quân
đội".
2. Các chế độ quy định tại Thông tư
này được thực hiện từ ngày
01/6/2009.
Điều 6. Tổ chức thực hiện
Tổng tham mưu trưởng, chủ nhiệm
các tổng cục, chỉ huy các cơ quan,
đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm
thi hành Thông tư này;
Cục trưởng Cục Tài chính Bộ Quốc
phòng chịu trách nhiệm tổ chức triển
khai thực hiện Thông tư này.
QUY CHẾ
Công tác tuyên truyền miệng và
hoạt động báo cáo viên trong Quân
đội nhân dân Việt Nam
Ngày 26/8/2008 Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị đã ra quyết định số 1104/
QĐ-CT về việc ban hành Quy chế công
tác tuyên truyền miệng và hoạt động
báo cáo viên trong Quân đội nhân
dân Việt Nam. Nội dung Quy chế như
sau:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Vị trí, vai trò công tác tuyên
truyền miệng.
Công tác tuyên truyền miệng là
một mặt hoạt động của công tác tư
tưởng - văn hoá trong quân đội, là
hình thức đặc biệt của công tác tuyên
truyền, được tiến hành thông qua sự
giao tiếp giữa người tuyên truyền và
đối tượng tuyên truyền chủ yếu bằng
lời nói. Tuyên truyền miệng là vũ khí
sắc bén, là công cụ hàng đầu trong
tuyên truyền quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
của cách mạng, của quân đội, của
đơn vị ...; góp phần giữ vững trận địa
tư tưởng của Đảng trong quân đội,
xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Điều 2. Lãnh đạo, chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức và quản lý công
tác tuyên truyền miệng.
Công tác tuyên truyền miệng
trong Quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung
ương, trực tiếp và thường xuyên là
Tổng cục Chính trị. Cục Tuyên huấn là
cơ quan tham mưu giúp Tổng cục
Chính trị và trực tiếp chỉ đạo, hướng
dẫn, tổ chức quản lý công tác tuyên
truyền miệng trong toàn quân.
Ở từng cấp, công tác tuyên
truyền miệng đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của cấp uỷ đảng; sự chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức, quản lý và kiểm
tra trực tiếp của chính uỷ, chính trị
viên và cơ quan chính trị, đồng thời
chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra
của cơ quan chính trị cấp trên.
Điều 3. Chức năng, nhiệm vụ
của công tác tuyên truyền miệng.
1- Chức năng:
- Phổ biến thông tin;
- Định hướng tư tưởng;
- Cổ vũ hành động.
2- Nhiệm vụ
- Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
- Tuyên truyền quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
cách mạng, nhiệm vụ quân đội,
nhiệm vụ đơn vị.
- Thông tin có định hướng những vấn
đề thời sự chính trị lớn, các lĩnh vực
của đời sống xã hội, những vấn đề
mới nảy sinh trong cuộc sống.
- Giáo dục truyền thống của dân tộc,
của Đảng, của cách mạng, của quân
đội và của đơn vị, xây dựng phẩm
chất quân nhân cách mạng, bản lĩnh
"Bộ đội Cụ Hồ" và tinh thần xả thân vì
sự nghiệp cách mạng.
- Tiếp thu ý kiến của cán bộ, đảng
viên và quần chúng để phản ánh với
lãnh đạo, chỉ huy.
- Đấu tranh phê phán những tư tưởng
lạc hậu, sai trái, cơ hội, phản động;
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
bảo vệ quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Điều 4. Nguyên tắc, phương châm
của tuyên truyền miệng
- Nguyên tắc:
+ Tính Đảng; + Tính khoa
học; + Tính chiến đấu;
+ Tính quần chúng; + Tính chân
thực.
- Phương châm:
- Chủ động tích cực, nhạy bén kịp
thời, cụ thể thiết thực; thường xuyên,
liên tục và có hệ thống; phối hợp
nhiều hình thức, nhiều biện pháp,
nhiều lực lượng cùng làm công tác
tuyên truyền miệng.
Điều 5. Hình thức, lực lượng tiến
hành tuyên truyền miệng.
- Hình thức tuyên truyền miệng: nói
chuyện thời sự, thông báo chính trị, kể
chuyện, trao đổi, toạ đàm, đối thoại,
diễn đàn, mít tinh ...
- Lực lượng tiến hành tuyên truyền
miệng: mọi cán bộ, đảng viên, trước
hết là cấp uỷ viên, cán bộ chủ trì công
tác đảng, công tác chính trị; đội ngũ
báo cáo viên là lực lượng nòng cốt.
Điều 6. Phân cấp bảo đảm, biên
soạn nội dung tuyên truyền.
1- Cục Tuyên huấn: đảm nhiệm biên
soạn nội dung tuyên truyền từ cấp
trung đoàn và tương đương trở lên.
2- Cơ quan chính trị cấp đầu
mối trực thuộc Bộ: đảm nhiệm biên
soạn nội dung tuyên truyền cho cán
bộ tiểu đoàn, đại đội và tương đương.
3- Cơ quan chính trị cấp sư
đoàn, bộ chỉ huy quân sự tỉnh, bộ
chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và
các lữ đoàn, trung đoàn thuộc các
binh chủng: đảm nhiệm biên soạn
nội dung tuyên truyền cho cán bộ
trung đội và tương đương.
4 - Cơ quan chính trị cấp lữ
đoàn, trung đoàn và tương
đương: đảm nhiệm biên soạn nội
dung tuyên truyền cho công nhân
viên chức quốc phòng và hạ sĩ quan,
binh sĩ. Cấp tiểu đoàn, đại đội độc
lập, đồn biên phòng đảm nhiệm biên
soạn nội dung thông báo chính trị,
thời sự cho quân nhân thuộc quyền.
Điều 7. Chế độ hoạt động
tuyên truyền miệng .
1- Chế độ thông báo chính trị, nói
chuyên thời sự
- Thông báo chính trị cho mọi đối
tượng, mỗi tuần một lần, thời gian 30
phút, sau chào cờ đầu tuần.
- Nói chuyện thời sự cho sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân viên quốc phòng mỗi tháng một
lần, thời gian 120 phút.
2- Chế độ hội nghị bồi dưỡng báo
cáo viên hàng tháng
- Toàn quân, mỗi tháng một lần do
Cục Tuyên huấn tổ chức
- Đầu mối trực thuộc Bộ, mỗi tháng
một lần do cơ quan chính trị tổ chức.
- Trường hợp tổ chức bồi dưỡng báo
cáo viên đột xuất do Cục Tuyên huấn
quyết định.
3- Chế độ tập huấn báo cáo viên.
- Toàn quân, 2 năm một lần do Cục
Tuyên huấn tổ chức.
- Đầu mối trực thuộc Bộ, do thủ
trưởng đơn vị quyết định nhưng ít
nhất 2 năm tổ chức một lần.
4- Chế độ thi báo cáo viên.
- Toàn quân, 5 năm một lần do Tổng
cục Chính trị chủ trì.
- Đơn vị trực thuộc Bộ đến cấp cơ sở
(trung đoàn và tương đương) 5 năm 2
lần, do cơ quan chính trị chủ trì.
5- Chế độ kiểm tra, báo cáo,
sơ kết, tổng kết theo quy định chung
của Tổng cục Chính trị mà trực tiếp là
Cục Tuyên huấn.
Điều 8. Mời báo cáo viên.
- Mời báo cáo viên quân đội
phải được thủ trưởng đơn vị đồng ý.
- Mời báo cáo viên ngoài quân
đội vào tuyên truyền trong quân đội
phải được Tổng cục Chính trị (trực tiếp
là Cục Tuyên huấn) đồng ý; trừ trường
hợp Bí thư Đảng uỷ quân sự các cấp
và lãnh đạo Ban Tuyên giáo ở địa
phương.
Chương II
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO
CÁO VIÊN QUÂN ĐỘI
Điều 9. Hệ thống tổ chức báo
cáo viên quân đội.
Báo cáo viên trong quân đội
được tổ chức theo hệ thống dọc từ
toàn quân đến cơ sở; có báo cáo viên
chuyên trách, bán chuyên trách và
báo cáo viên kiêm nhiệm.
1. Báo cáo viên chuyên trách.
- Cấp toàn quân có Phòng Báo
cáo viên thuộc Cục Tuyên huấn - Tổng
cục Chính trị.
- Cấp quân khu, quân đoàn,
quân chủng, Bộ đội Biên phòng, binh
chủng, học viện, nhà trường, Bộ tổng
Tham mưu và các tổng cục có một
báo cáo viên chuyên trách.
2- Báo cáo viên bán chuyên
trách.
- Các đơn vị trực thuộc Bộ còn
lại, cấp sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự
tỉnh, bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, cấp lữ đoàn, trung đoàn, ban
chỉ huy quân sự quận, huyện, thành
phố trực thuộc tỉnh và các đơn vị
tương đương có một báo cáo viên bán
chuyên trách, do trợ lý tuyên huấn
đảm nhiệm.
3- Báo cáo viên kiêm nhiệm.
- Cấp tiểu đoàn, đại đội và
tương đương, báo cáo viên kiêm
nhiệm là chính trị viên hoặc chính trị
viên phó đơn vị đảm nhiệm.
Điều 10. Chức trách, nhiệm
vụ của báo cáo viên
- Chức trách: Báo cáo viên
trong quân đội là lực lượng tuyên
truyền có tổ chức của Đảng, chịu
trách nhiệm trước cấp uỷ, chính uỷ,
chính trị viên, cơ quan chính trị và
người chỉ huy về nội dung công tác
tuyên truyền miệng; chịu sự chỉ đạo
của cơ quan chuyên ngành cấp trên.
- Nhiệm vụ:
+ Căn cứ vào chỉ thị, nghị quyết
của cấp trên, nhiệm vụ của đơn vị,
tham mưu, đề xuất biện pháp, chủ
trương lãnh đạo, chỉ đạo và đổi mới
nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng và hoạt động của báo
cáo viên;
+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực
hiện kế hoạch công tác tuyên truyền
miệng.
+ Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra,
tổ chức thực hiện các nội dung công
tác tuyên truyền miệng theo chức
trách, nhiệm vụ;
+ Nắm chắc nguyên tắc công
tác, nghiên cứu, tổng hợp, phân tích,
đề xuất nội dung và trực tiếp bồi
dưỡng báo cáo viên; thông tin thời sự
cho các đối tượng theo nội dung đảm
nhiệm và theo dõi việc triển khai thực
hiện công tác tuyên truyền ở đơn vị;
tổng hợp đánh giá kết quả, báo cáo
trên theo quy định;
+ Biên soạn các chuyên đề
nghiên cứu theo kế hoạch được phân
công; tham gia biên soạn tài liệu
nghiệp vụ và đề xuất tổ chức bồi
dưỡng nghiệp vụ;
+ Chủ động phối hợp, hiệp
đồng với các cơ quan chức năng, các
đơn vị trong và ngoài quân đội để
tuyên truyền quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
của quân đội, của đơn vị, những
nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong
phong trào thi đua yêu nước... trong
cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân
dân; định hướng tư tưởng, nắm bắt và
hướng dẫn dư luận, góp phần xây
dựng và củng cố sự thống nhất tư
tưởng trong Đảng, trong quân đội và
sự đồng thuận trong xã hội;
+ Tham gia xây dựng đơn vị
vững mạnh, gắn với xây dựng tổ chức
đảng trong sạch, vững mạnh;
+ Không ngừng học tập, rèn
luyện để nâng cao trình độ, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất
đạo đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Điều 11. Tiêu chuẩn báo cáo
viên
Báo cáo viên phải là đảng viên,
được lựa chọn từ những đồng chí có
đủ tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực.
1- Tiêu chuẩn về phẩm chất
- Có lập trường, quan điểm đúng đắn,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành với mục tiêu, lý tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Đảng, chấp
hành tốt đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
- Có tính Đảng, tính chiến đấu và ý
thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ
luật phát ngôn.
- Có phẩm chất đạo đức tốt,
phương pháp, tác phong khoa học, có
tinh thần trách nhiệm cao; nhiệt tình,
tâm huyết với nghề, khiêm tốn học
hỏi, gương mẫu về đạo đức, lối sống,
có uy tín, gần gũi, sâu sát với quần
chúng.
2- Tiêu chuẩn về năng lực.
- Có trình độ lý luận chính trị
đáp ứng tốt yêu cầu công việc được
giao, nắm vững và vận dụng đúng
đắn những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hoá - xã hội của Đảng,
pháp luật Nhà nước; chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên; điều lệnh, điều lệ
của quân đội vào thực tiễn nhiệm vụ
được giao.
- Nắm vững nội dung, nguyên
tắc, chế độ công tác đảng, công tác
chính trị, kiến thức khoa học xã hội -
nhân văn, kiến thức về khoa học quân
sự; có khả năng phân tích, đánh giá
tổng hợp tình hình, khả năng tiếp
nhận và xử lý thông tin.
- Có phương pháp phân tích,
lập luận, trình bày bài nói. Có phương
pháp vận động, thuyết phục quần
chúng và khả năng đối thoại với người
nghe; biết vận dụng tâm lý học,
phương pháp sư phạm vào nghiệp vụ
tuyên truyền.
Điều 12. Quyền lợi và nghĩa
vụ của báo cáo viên
1- Quyền lợi:
- Được thông tin về tình hình quốc tế,
trong nước, trong Đảng và Lực lượng
vũ trang tuỳ theo nhiệm vụ đựợc
phân công.
- Được cung cấp các tài liệu cần thiết
cho nhiệm vụ tuyên truyền.
- Được trang bị các phương tiện
phục vụ cho nhiệm vụ tuyên truyền.
- Được bồi dưỡng nghiệp vụ
tuyên truyền miệng và được trả thù
lao theo chế độ quy định của Nhà
nước, quân đội.
- Báo cáo viên đầu mối trực
thuộc Bộ được cấp thẻ Báo cáo viên
và được dự hội nghị báo cáo viên do
Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức.
2- Nghĩa vụ
- Thực hiện tuyên truyền theo sự phân
công cuả tổ chức; thông tin đúng, đủ,
chính xác và kịp thời các vấn đề được
giao; chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng,
pháp luật của Nhà nước và kỷ luật
phát ngôn; giữ gìn bí mật của Đảng,
Nhà nước, quân đội.
- Nắm bắt tình hình tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và quần chúng, dư luận
xã hội, phản ánh kịp thời và đề xuất
với lãnh đạo, chỉ huy.
Điều 13. Khen thưởng và kỷ
luật
- Căn cứ thành tích hoạt động
của báo cáo viên và kết quả chung
trong công tác tuyên truyền miệng,
hàng năm cơ quan quản lý báo cáo
viên đề nghị cấp uỷ đảng, chính
quyền khen thưởng cho tập thể, cá
nhân có thành tích xuất sắc.
- Căn cứ mức độ vi phạm quy
chế, những thiếu sót, khuyết điểm
của báo cáo viên, cấp uỷ đảng và
chính quyền áp dụng những hình
thức kỷ luật phù hợp. Hình thức cao
nhất là xoá tên khỏi danh sách báo
cáo viên và thu hồi thẻ báo cáo viên.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 14. Quy chế này có hiệu lực sau
30 ngày, kể từ ngày ký. Mọi quy định
hướng dẫn về công tác tuyên truyền
miệng trước đây trái với quy chế này
đều bãi bỏ.
Điều 15. Cấp uỷ, chính uỷ,
chính trị viên, bí thư cấp uỷ, người chỉ
huy và cơ quan chính trị các cấp có
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện Quy chế này.
Điều 16. Tổng cục Chính trị uỷ
nhiệm Cục Tuyên huấn hướng dẫn và
kiểm tra thực hiện Quy chế này.
HƯỚNG DẪNSỐ 165/HD-CT NGÀY
28/01/2011 CỦA TỔNG CỤC CHÍNH
TRỊ
Thực hiện Quyết định của Ban Bí thư
về việc Ban hành Quy chế cung cấp
thông tin phục công tác tuyên
truyền miệng của Đảng trong Quân
đội nhân dân Việt Nam
I, NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1, Đối tượng phạm vi điều chỉnh
Quy định trách nhiệm của cấp uỷ,
chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính
trị và chỉ huy các cơ quan, đơn vị các
cấp trong việc phối hợp cung cấp,
quản lý và sử dụng thông tin; trách
nhiệm, quyền hạn của Cục Tuyên
huấn và báo cáo viên các cấp (báo
cáo viên chuyên trách, bán chuyên
trách, báo cáo viên kiêm nhiệm) trong
toàn quân đối với việc tiếp nhận,
quản lý và sử dụng thông tin phục vụ
công tác tuyên truyền miệng.
2. Mục đích cung cấp thông tin
Bảo đảm nguồn thông tin
chính thống để Cục Tuyên huấn chỉ
đạo, hướng dẫn và đội ngũ báo cáo
viên các cấp thông tin, định hướng dư
luận trong toàn quân và tại đơn vị, địa
phương về tình hình chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại của đơn vị, địa phương,
trong nước và thế giới; đấu tranh với
những thông tin sai trái, thù địch; giải
thích, làm rõ những vấn đề quan
trọng, phức tạp, nhạy cảm về đối nội,
đối ngoại không thể thông tin công
khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng; góp phần tạo sự thống
nhất nhận thức, tư tưởng trong toàn
quân, toàn quốc.
3. Nguyên tắc cung cấp thông
tin
- Thông tin phải bảo đảm chính
xác, toàn diện, đầy đủ, thống nhất,
kịp thời.
- Bảo đảm yêu cầu về định
hướng chính trị, tư tưởng trong quân
đội và sự đồng thuận trong xã hội.
- Đúng với đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và yêu cầu nhiệm
vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng.
4. Giải thích một số từ ngữ
a) "Báo cáo viên các cấp của
Đảng ": trong Quân đội, là đội ngũ
báo cáo viên được tổ chức theo hệ
thống dọc từ toàn quân đến cơ sở; có
báo cáo viên chuyên trách, bán
chuyên trách và báo cáo viên kiêm
nhiệm, thực hiện tuyên truyền miệng
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ,
chính uỷ, chính trị viên và cơ quan
chính trị cùng cấp.
- Báo cáo viên chuyên trách:
cấp toàn quân có Phòng Báo cáo viên
thuộc Cục Tuyên huấn - Tổng cục
Chính trị; cấp quân khu, quân đoàn,
quân chủng, Bộ đội Biên phòng, binh
chủng, học viện, nhà trường, Bộ Tổng
Tham mưu và các tổng cục có một
báo cáo viên chuyên trách.
- Báo cáo viên bán chuyên
trách: các đơn vị trực thuộc Bộ còn lại,
cấp sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự tỉnh,
bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, cấp
lữ đoàn, trung đoàn, ban chỉ huy
quân sự quận, huyện, thành phố trực
thuộc tỉnh và các đơn vị tương đương
có một báo cáo viên bán chuyên
trách, do trợ lý tuyên huấn đảm
nhiệm.
-Báo cáo viên kiêm nhiệm: cấp
tiểu đoàn, đại đội và tương đương;
báo cáo viên kiêm nhiệm là chính trị
viên hoặc chính trị viên phó đơn vị
đảm nhiệm.
b) "Cung cấp thông tin" : cung
cấp nội dung những vấn đề cụ thể
(sự kiện, vụ việc, tình tiết...) được thể
hiện bằng văn bản, tư liệu (băng hình,
đĩa hình, đĩa tiếng và các vật mang tin
khác).
c) "Vấn đề quan trọng": vấn
đề có tác động lớn, ảnh hưởng sâu
rộng đến đời sống chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại của đất nước; những vấn
đề tác động trực tiếp đến tâm tư, tình
cảm của cán bộ, đảng viên, quần
chúng trong lực lượng vũ trang.
d) "Vấn đề phức tạp, nhạy
cảm": vấn đề thu hút sự quan tâm
đặc biệt của nhiều đối tượng trong xã
hội và quân đội, nếu thông tin sai
hoặc không thông tin, giải thích, định
hướng kịp thời có thể tác động bất lợi
đến dư luận, chỉ huy trong đơn vị,
toàn quân, toàn quốc và quốc tế (bạo
loạn chính trị; tranh chấp, xung đột
biên giới, biển đảo với các nước; vấn
đề thuộc về lịch sử đất nước, lịch sử
Đảng, lịch sử lãnh tụ chưa rõ, chưa
được cơ quan có thẩm quyền kết
luận; vấn đề liên quan đến dân tộc,
tôn giáo, dân chủ, nhân quyền; các vụ
án lớn và phức tạp đang trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử; những
vấn đề có thể gây tác hại lớn cho hoạt
động ngân hàng, tài chính, chứng
khoán, giá cả; vấn đề tâm linh, ngoại
cảm chưa được cơ quan có thẩm
quyền kết luận chính thức...)
II, NỘI DUNG, HÌNH THỨC CUNG
CẤP THÔNG TIN; TRÁCH NHIỆM CỦA
CẤP UỶ, CHỈ HUY, CƠ QUAN CÓ LIÊN
QUAN VÀ BÁO CÁO VIÊN CÁC CẤP
TRONG TOÀN QUÂN
1. Nội dung cung cấp thông
tin
- Những vấn đề về công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị; phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại; các chủ
trương, kế hoạch, đề án, dự án lớn;
tình hình quốc tế, trong nước.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị
của các cơ quan, đơn vị và toàn quân
như: xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại; huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu;
công tác đảng, công tác chính trị
trong lực lượng vũ trang nhân dân;
công tác xây dựng lực lượng; công tác
hậu cần, kỹ thuật; đối ngoại quân sự...
- Những vấn đề quan trọng,
phức tạp, nhạy cảm thuộc lĩnh vực,
địa bàn do cấp uỷ, chính uỷ, chính trị
viên và chỉ huy các cơ quan, đơn vị
trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý,
không đưa tin trên các phương tiện
thông tin đại chúng nhưng thu hút sự
quan tâm đặc biệt của cán bộ, chiến
sỹ, đảng viên và nhân dân. Những vấn
đề cần kịp thời cung cấp thông tin
ban đầu về quan điểm xử lý của cơ
quan chức năng để định hướng dư
luận.
2. Hình thức cung cấp thông
tin
- Cung cấp thông tin bằng văn
bản giấy, tư liệu (băng hình, đĩa hình,
đĩa tiếng và các vật mang tin khác);
- Thông qua trao đổi, làm việc
trực tiếp giữa cơ quan cung cấp thông
tin với các cơ quan, đơn vị trong toàn
quân có liên quan.
- Thông qua hội nghị báo cáo
viên định kỳ hoặc đột xuất do Cục
Tuyên huấn và cơ quan chính trị các
cấp tổ chức.
3. Trách nhiệm của Cục
Tuyên huấn - Tổng cục Chính trị
trong việc tiếp nhận, xử lý và quản
lý thông tin
- Cục Tuyên huấn là cơ quan
tham mưu giúp Tổng cục Chính trị
chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn
vị trong việc tiếp nhận, xử lý, quản lý
thông tin; trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn
quản lý công tác tuyên truyền miệng
và hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên trong toàn quân.
Phòng Báo cáo viên, Cục Tuyên huấn
là đầu mối tiếp nhận, xử lý và quản lý
thông tin từ các nguồn cung cấp; trực
tiếp tham mưu cho Thủ trưởng Cục
Tuyên huấn chỉ đạo, hướng dẫn đội
ngũ báo cáo viên các cấp trong toàn
quân về các nội dung tuyên truyền,
giải thích, định hướng dư luận trong
cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân
dân địa phương.
Khi phát hiện những vấn đề
quan trọng, phức tạp, nhạy cảm thu
hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận
cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân
dân địa phương, Cục Tuyên huấn sẽ
có văn bản đề nghị các cơ quan, đơn
vị có liên quan kịp thời cung cấp
thông tin.
4. Trách nhiệm của Báo cáo
viên các cấp trong toàn quân đối với
việc quản lý và sử dụng thông tin
- Báo cáo viên các cấp trong
toàn quân quản lý và sử dụng thông
tin theo đúng Quy chế công tác tuyên
truyền miệng và hoạt động báo cáo
viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam (Ban hành ngày 26 tháng 8 năm
2008); chấp hành nghiêm kỷ luật phát
ngôn, giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà
nước và Quân đội.
- Khi thực hiện công tác tuyên
truyền miệng theo sự phân công, báo
cáo viên phải truyền đạt đầy đủ, chính
xác, trung thực và chịu trách nhiệm về
nội dung thông tin với cấp uỷ, chỉ huy,
cơ quan chính trị cùng cấp và hướng
dẫn, chỉ đạo của cơ quan tuyên huấn
cấp trên.
- Báo cáo viên các cấp trong
toàn quân được hưởng quyền lợi và
nghĩa vụ theo quy định tại Điều 12 của
Quy chế công tác tuyên truyền miệng
và hoạt động báo cáo viên trong
Quân đội nhân dân Việt Nam.
5. Trách nhiệm của các cơ
quan, đơn vị trong việc cung cấp
thông tin
- Cục Tuyên huấn phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị toàn
quân trong việc cung cấp, tiếp nhận
và chịu trách nhiệm về nội dung
thông tin theo chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan, đơn vị mình.
Định kỳ mỗi tháng một lần Cục
Tuyên huấn tổ chức hội nghị báo cáo
viên toàn quân theo các khu vực (Phía
Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và phía
Nam) cung cấp thông tin về công tác
xây dựng Đảng; phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại;
tình hình trong nước và thế giới; các
chủ trương, kế hoạch, đề án, dự án
lớn; kết quả thực hiện nhiệm vụ chính
trị của các cơ quan, đơn vị trong toàn
quân ... cho đội ngũ báo cáo viên các
cơ quan, đơn vị đầu mối trực thuộc
Bộ Quốc phòng. Những nội dung
thông tin cần cung cấp đột xuất do
Cục Tuyên huấn quyết định.
- Định kỳ 3 tháng một lần cấp
uỷ, chính uỷ, chính trị viên, cơ quan
chính trị, chỉ huy các cấp và các cơ
quan chức năng có liên quan cung
cấp thông tin về công tác xây dựng
Đảng, xây dựng đơn vị, kết quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan,
đơn vị mình cho đội ngũ báo cáo viên
cùng cấp.
- Cơ quan Chính trị các đầu mối
trực thuộc Bộ Quốc phòng phân công
một thủ trưởng cơ quan Chính trị trực
tiếp chỉ đạo, quản lý, cung cấp thông
tin và chịu trách nhiệm về nội dung
thông tin; cử cán bộ có đủ phẩm chất,
năng lực tham gia cung cấp và tiếp
nhận thông tin tại hội nghị báo cáo
viên hằng tháng do Cục Tuyên huấn
và cơ quan chính trị các cấp tổ chức.
III, TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Căn cứ Hướng dẫn này, các
cơ quan, đơn vị đầu mối trực thuộc
Bộ Quốc phòng quán triệt, hướng
dẫn và quy định trách nhiệm của các
cơ quan, đơn vị và đội ngũ báo cáo
viên cấp dưới trong việc cung cấp
thông tin phục vụ công tác tuyên
truyền miệng.
2. Cục Tuyên huấn và các đơn
vị đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng
phối hợp tổ chức thực hiện tốt việc
cung cấp thông tin phục vụ công tác
tuyên truyền miệng và hoạt động của
đội ngũ báo cáo viên các cấp; định kỳ
sơ kết, tổng kết việc thực hiện và báo
cáo lên cấp trên theo quy định.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có vướng mắc hoặc phát sinh vấn đề
mới, cơ quan chính trị các đơn vị đầu
mối trực thuộc Bộ Quốc phòng phản
ánh về Tổng cục Chính trị (qua Cục
Tuyên huấn) để kịp thời sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp.
PHẦN THỨ HAI
MỘT SỐ KỸ NĂNG NGHIỆP VỤ
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG
TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
I. Vị trí, vai trò của công tác tuyên
truyền miệng
1. Vài nét về công tác tuyên truyền
Tuyên truyền là một trong những
hình thái chủ yếu của công tác tư
tưởng. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền
là hoạt động truyền bá những kiến
thức, những giá trị tinh thần, tác động
vào các đối tượng trong xã hội nhằm
làm chuyển biến và nâng cao nhận
thức, hình thành niềm tin, bồi dưỡng
và xây dựng tình cảm, ý chí, cổ vũ và
thôi thúc mọi người hành động một
cách tự giác theo những yêu cầu,
nhiệm vụ tuyên truyền đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tuyên
truyền là đem một việc gì nói cho dân
hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm.
Nếu không đạt được mục tiêu đó thì
tuyên truyền thất bại".
Công tác tuyên truyền là một hoạt
động được tiến hành với nhiều hình
thức, tuyên truyền thông qua các ph
ương tiện thông tin đại chúng: báo
chí, phát thanh, truyền hình...; tuyên
truyền thông qua các hình thức sinh
hoạt chính trị; tuyên truyền bằng các
phương tiện trực quan: khẩu hiệu,
truyền đơn, biểu ngữ, áp phích, tranh
ảnh, triển lãm; tuyên truyền thông qua
các hoạt động văn hóa - nghệ thuật,
các đội thông tin lưu động, tham
quan các bảo tàng, thư viện; tuyên
truyền thông qua các hoạt động giao
tiếp xã hội, các lễ hội quần chúng, các
câu lạc bộ... và hình thức tuyên truyền
miệng.
2. Khái niệm về tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là một hình thức
tuyên truyền được tiến hành thông
qua sự giao tiếp bằng lời nói trực tiếp
giữa người nói (người tuyên truyền)
với người nghe (đối tượng tuyên
truyền).
Trong Quân đội NDVN: Công tác
tuyên truyền miệng là toàn bộ hoạt
động và tổ chức để chuyển tải, lĩnh
hội thông tin, trực tiếp thông qua lời
nói và cử chỉ giao tiếp giữa báo cáo
viên, tuyên truyền viên với bộ đội và
nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức quản lý và kiểm
tra trực tiếp của chính uỷ, chính trị
viên, của cơ quan chính trị cấp mình
và cấp trên nhằm nâng cao nhận
thức, xây dựng bản lĩnh chính trị và
nhân cách, củng cố niềm tin và động
viên, cổ vũ hành động cách mạng cho
cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị và nhân
dân, hướng vào thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao, góp phần
xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức; xây dựng
môi trường văn hoá quân sự, xây
dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt.
3. Vị trí, vai trò và những ưu thế đặc
trưng của tuyên truyền miệng
a. Vị trí, vai trò của tuyên truyền
miệng
Tuyên truyền miệng là hình thức đặc
biệt của công tác tuyên truyền, được
tiến hành bằng lời nói trực tiếp thông
qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên. Tuyên truyền miệng là vũ
khí sắc bén, là công cụ hàng đầu
trong tuyên truyền quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
của cách mạng, của quân đội, của
đơn vị...; góp phần giữ vững trận địa
tư tưởng của Đảng trong quân đội,
xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
b. Ưu thế của của tuyên truyền
miệng
- Ưu thế của ngôn ngữ nói trong
tuyên truyền miệng.
Ngôn ngữ nói trong tuyên truyền
miệng có ưu thế là sử dụng linh hoạt,
phù hợp với mọi đối tượng tuyên
truyền; hiệu quả thông tin cao, có thể
sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều
kiện giao tiếp, không phụ thuộc nhiều
vào không gian, thời gian, khí hậu,
thời tiết, phương tiện kỹ thuật.
- Ưu thế trong việc sử dụng các yếu
tố phi ngôn ngữ trong tuyên truyền
miệng.
Cử chỉ, điệu bộ có tác động bổ
sung cho lời nói, làm cho đối tượng
hiểu rõ hơn sắc thái của lời nói. Cử
chỉ, điệu bộ có thể tạo được ấn tượng
mạnh ở đối tượng, có vai trò lớn
trong việc biểu đạt, truyền đạt thông
tin. Chúng hỗ trợ lời nói, làm tăng ý
nghĩa của lời nói, biểu hiện cảm xúc,
sắc thái tình cảm của người nói đối
với nội dung, do đó chúng góp phần
nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng, nhất là trong những
nhiệm vụ đặc biệt của hoạt động
quân sự.
- Ưu thế của giao tiếp trực tiếp
trong tuyên truyền miệng.
Giao tiếp trực tiếp cho phép tạo lập
không khí cởi mở, xây dựng mối quan
hệ thân mật, sinh động với đối tượng.
Nhờ đó, người nói có thể mang đến
cho người nghe không chỉ nội dung
của lời nói mà còn mang lại cho họ
tình cảm, niềm tin. Giao tiếp trực tiếp
cho phép chuyển nhanh từ hình thức
độc thoại sang đối thoại. Giao tiếp
trực tiếp, có thể định hướng dư luận
xã hội vào những nội dung, những
vấn đề nhạy cảm tốt hơn các hình
thức khác, đảm bảo được bí mật của
thông tin.
- Tuyên truyền miệng có khả năng
chuyển tải những thông tin nội bộ
mà vì lý do nào đó không thể thông
báo trên các phương tiện thông tin
đại chúng.
II. Chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc
và phương châm của công tác tuyên
truyền miệng
Là một hình thức tuyên truyền, công
tác tuyên truyền miệng có chức năng,
nhiệm vụ, nguyên tắc và phương
châm tiến hành chung của công tác t
ư tưởng, công tác tuyên truyền, nhưng
có sự vận dụng, cụ thể hóa cho phù
hợp với đặc điểm hoạt động của công
tác tuyên truyền miệng.
1. Chức năng, nhiệm vụ :
a. Chức năng: Phổ biến thông
tin;Định hướng tư tưởng ;Cổ vũ hành
động.
b. Nhiệm vụ:
- Truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tuyên truyền quan điểm đư
ờng lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, luật pháp của Nhà nước, nhiệm
vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội,
nhiệm vụ đơn vị.
- Thông tin có định hướng
những vấn đề thời sự chính trị lớn,
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
những vấn đề mới nảy sinh trong
cuộc sống.
- Giáo dục truyền thống của dân
tộc, của Đảng, của cách mạng, của
quân đội và đơn vị, xây dựng phẩm
chất quân nhân cách mạng, bản lĩnh
"Bộ đội Cụ Hồ" và tinh thần xả thân
vì sự nghiệp cách mạng.
- Tiếp thu ý kiến của cán bộ,
đảng viên và quần chúng để phản
ánh với lãnh đạo chỉ huy.
- Đấu tranh phê phán các quan điểm
tư tưởng lạc hậu, sai trái, cơ hội, phản
động; bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, luật
pháp của Nhà nước, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghiã.
2. Nguyên tắc
- Tính Đảng: đòi hỏi những người
làm công tác tuyên truyền miệng
trước hết phải tuyệt đối trung thành
với quan điểm, đường lối của Đảng,
phải đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân, trên lợi ích của
Đảng, của giai cấp và dân tộc để xem
xét, đánh giá, phân tích mọi sự vật và
hiện tượng. Nói đúng lập trường,
quan điểm chính thống của Đảng, giữ
nghiêm kỷ luật phát ngôn ở mọi nơi,
mọi lúc là nguyên tắc cơ bản hàng
đầu đối với những người làm công tác
tuyên truyền miệng.
- Tính khoa học: Sức thuyết phục của
hoạt động tuyên truyền phụ thuộc rất
lớn vào cả nội dung và phương pháp
tuyên truyền. Tuyên truyền miệng,
phải dựa trên những nội dung có cơ
sở lý luận khoa học gắn với thực tiễn
sâu sắc, đem đến cho người nghe
những thông tin có căn cứ xác đáng
mới cảm hóa được đối tượng, mới
củng cố và xây dựng được niềm tin
trên cơ sở khoa học một cách bền
vững, khác với niềm tin tôn giáo.
- Tính chiến đấu: Tuyên truyền là
vũ khí đấu tranh sắc bén của Đảng.
Tính chiến đấu là bản chất của công
tác tuyên truyền vận động cách mạng.
+ Tính chiến đấu thể hiện trước
tiên ở người cán bộ tuyên truyền là
bản lĩnh chính trị vững vàng và sự
nhạy bén cảnh giác về chính trị để
sớm nhận thức rõ đúng sai, phải trái,
khẳng định mạnh mẽ cái đúng, cái tốt
để bảo vệ và xây dựng, chỉ rõ cái sai,
cái xấu để kịp thời đấu tranh phê
phán, khắc phục.
+ Tính chiến đấu trong công tác tuyên
truyền miệng còn thể hiện ở tinh thần
cách mạng tiến công, đấu tranh kiên
quyết, kịp thời, chống lại mọi âm mưu
thủ đoạn, các luận điệu phản tuyên
truyền của các thế lực thù địch chống
phá cách mạng nước ta trên các lĩnh
vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, chống
lại các quan điểm, khuynh hướng sai
lầm của các phần tử cơ hội về chính
trị, thoái hóa biến chất, kiên quyết bảo
vệ quan điểm, đường lối đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta ở mọi nơi,
mọi lúc.
- Tính quần chúng: đòi hỏi người
làm công tác tuyên truyền miệng phải
có phong cách tiếp cận và tác phong
gần gũi quần chúng. Đặc biệt là biết
lựa chọn những nội dung, hình thức
và phương pháp thích hợp với những
loại đối tượng; sử dụng những loại
hình mà quần chúng ưa thích, những
hình tượng và ngôn ngữ dễ hiểu,
những ví dụ cụ thể; thực hiện tốt
thông tin hai chiều, biết lắng nghe và
đối thoại trực tiếp với quần chúng.
- Tính chân thực: đòi hỏi người
làm công tác tuyên truyền miệng phải
trình bày một cách khách quan, cả
thành tựu và thiếu sót, cả thắng lợi và
sai lầm, khuyết điểm; không được chủ
quan, duy ý chí. Tính chân thật còn
đòi hỏi công tác tuyên truyền miệng
phải phản ánh đúng đắn tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng trong
quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối,
chính sách; từ đó kiến nghị những
biện pháp bổ sung để sửa đổi, hoàn
chỉnh các chủ trương chính sách.
3. Phương châm tiến hành công tác
tuyên truyền miệng :
Chủ động tích cực, nhạy bén kịp thời,
cụ thể thiết thực; thường xuyên liên
tục và có hệ thống; phối hợp nhiều
hình thức, nhiều bịên pháp, nhiều lực
lượng cùng làm công tác tuyên truyền
miệng. Trong những điều kiện và
hoàn cảnh hiện nay, phương châm
công tác tuyên truyền miệng là:
- Toàn Đảng phải trực tiếp làm công
tác tuyên truyền miệng
- Chủ động và tích cực phục vụ nhiệm
vụ chính trị
- Phải thường xuyên, liên tục; nhạy
bén, kịp thời, bám sát thời cuộc, bám
sát tình hình thực tiễn.
- Tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực.
- Phải đa dạng thông tin, nhất là
thông tin định hướng theo hệ thống
tuyên truyền miệng từ Trung ương
nhanh chóng và kịp thời xuống tới cơ
sở phục vụ tốt cơ sở.
- Phải kết hợp nhiều hình thức, ph
ương pháp, sử dụng nhiều lực lượng
để tiến hành công tác tuyên truyền
miệng nhất là ở cơ sở.
III. Tổ chức, nội dung và các hình
thức công tác tuyên truyền miệng ở
cơ sở trong quân đội .
1. Tổ chức và hoạt động của báo
cáo viên trong quân đôi.
a. Hệ thống tổ chức báo cáo
viên trong quân đội ( Điều 9 quy chế
công tác tuyên truyền miệng và hoạt
động báo cáo viên quy định)
Báo cáo viên trong Quân đội
được tổ chức theo hệ thống dọc từ
toàn quân đến cơ sở; có báo cáo viên
chuyên trách, báo cáo viên bán
chuyên trách và báo cáo viên kiêm
nhiệm.
- Báo cáo viên chuyên trách:
+ Cấp toàn quân có Phòng Báo
cáo viên thuộc Cục Tuyên huấn, Tổng
cục Chính trị.
+ Cấp quân khu, quân đoàn,
quân chủng, Bộ đội Biên phòng, binh
chủng, học viện, nhà trường, Bộ Tổng
Tham mưu và các Tổng cục có một
báo cáo viên chuyên trách .
- Báo cáo viên bán chuyên
trách: Các đơn vị trực thuộc Bộ còn lại,
cấp sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự tỉnh,
bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, cấp
lữ đoàn, trung đoàn, ban chỉ huy
quân sự quận, huyện, thành phố
trựcthuộc tỉnh và các đơn vị tương đ
ương có một báo cáo viên bán
chuyên trách do trợ lý tuyên huấn
đảm nhiệm.
- Báo cáo viên kiêm nhiệm: Cấp
tiểu đoàn, đại đội và tương đương,
báo cáo viên kiêm nhiệm là chính trị
viên, hoặc chính trị viên phó đơn vị
đảm nhiệm.
b. Chế độ hoạt động tuyên
truyền miệng trong Quân đội nhân
dân Việt Nam (Điều 7 Quy chế quy
định ).
- Chế độ thông báo chính trị, nói
chuyện thời sự.
+ Thông báo chính trị cho mọi
đối tượng, mỗi tuần một lần, thời gian
30 phút, sau chào cờ đầu tuần.
+ Nói chuyện thời sự cho sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân viên quốc phòng mỗi
tháng một lần, thời gian 120 phút.
- Chế độ hội nghị bồi dưỡng
báo cáo viên hàng tháng.
+ Toàn quân mỗi tháng một lần
do Cục Tuyên huấn tổ chức.
+ Đầu mối trực thuộc Bộ mỗi
tháng một lần do cơ quan chính trị tổ
chức.
+ Trường hợp tổ chức bỗi d
ưỡng báo cáo viên đột xuất do Cục
Tuyên huấn quyết định.
- Chế độ tập huấn báo cáo viên
+ Toàn quân 2 năm một lần do
Cục Tuyên huấn tổ chức.
+ Đầu mối trực thuộc Bộ, do thủ
trưởng đơn vị quyết định, nhưng ít
nhất 2 năm tổ chức một lần.
- Chế độ thi báo cáo viên
+ Toàn quân 5 năm một lần do
Tổng cục Chính trị chủ trì.
+ Đơn vị trực thuộc Bộ đến cấp
cơ sở (trung đoàn và tương đương) 5
năm 2 lần, do cơ quan chính trị chủ
trì.
- Chế độ kiểm tra, báo cáo, sơ
kết, tổng kết theo quy định chung
của Tổng cục Chính trị mà trực tiếp là
Cục Tuyên huấn.
c. Quyền lợi và nghĩa vụ của
báo cáo viên (Điều 12 quy chế công
tác tuyên truyền miệng và hoạt động
báo cáo viên quy định).
- Quyền lợi:
+ Được thông tin về tình hình
quốc tế, trong nước, trong Đảng và
lực lượng vũ trang tuỳ theo nhiệm vụ
được phân công.
+ Được cung cấp các tài liệu cần
thiết cho nhiệm vụ tuyên truyền.
+ Được trang bị các phương tiện
phục vụ cho hoạt động tuyên tuyền.
+ Được bồi dưỡng nghiệp vụ
tuyên truyền miệng và được trả thù
lao theo chế độ quy định của Nhà n
ước, quân đội.
+ Báo cáo viên đầu mối trực thuộc
Bộ được cấp thẻ báo cáo viên và được
dự Hội nghị báo cáo viên do Ban
Tuyên giáo Trung ương tổ chức.
- Nghĩa vụ:
+ Thực hiện tuyên truyền theo sự
phân công của tổ chức; thông tin
đúng, đủ, chính xác và kịp thời các
vấn đề được giao; chấp hành nghiêm
kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước
và kỷ luật phát ngôn; giữ gìn bí mật
của Đảng, Nhà nước, Quân đội.
+ Nắm bắt tình hình tư tưởng của
cán bộ, đảng viên và quần chúng, dư
luận xã hội, phản ánh kịp thời và đề
xuất kiến nghị với lãnh đạo chỉ huy.
2. Nội dung, hình thức tuyên truyền
miệng ở cơ sở trong quân đội :
a. Nội dung tuyên truyền miệng ở
đơn vị cơ sở trong quân đội
- Nội dung tuyên truyền miệng rất
rộng lớn, liên quan đến sự nghiệp
cách mạng của giai cấp vô sản, của
Đảng Cộng sản, liên quan đến các
lĩnh vực của đời sống xã hội cả về
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội,
quốc phòng, an ninh, các vấn đề liên
quan đến nhiệm vụ của cách mạng,
nhiệm vụ của các đoàn thể tổ chức xã
hội, của quân đội.
- Nội dung tuyên truyền được quy
định bởi mục đích, đối tượng, điều
kiện tiến hành tuyên truyền. Vì vậy, tuỳ
thuộc vào phạm vi tuyên truyền, đối
tượng tuyên truyền, không gian và thời
gian mà xác định nội dung tuyên
truyền miệng.
- ở đơn vị cơ sở trong quân đội, nội
dung tuyên truyền tập chủ yếu trung
vào những vấn đề sau:
+ Quán triệt, phổ biến các nghị
quyết, chỉ thị của các cấp bộ Đảng,
trực tiếp là nghị quyết đảng bộ, chi
bộ; nhiệm quân đội, đơn vị...
+ Tuyên truyền, phổ biến tình
hình thời sự cập nhật trong nước và
quốc tế, tình hình LLVT, tình hình vi
phạm kỷ luật quân đội; vạch trần âm
mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù
đối với cách mạng Việt Nam.
+ Phổ biến tri thức về những vấn
đề khoa học kỹ thuật, nghệ thuật
quân sự; giáo dục ý thức tôn trọng
pháp chế xã hội chủ nghĩa và điều
lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của
quân đội.
+ Phối hợp với các đoàn thể chính
quyền địa phương nơi đóng quân,
tuyên truyền vận động nhân dân
chấp hành đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp lụât của
Nhà nước, các chính sách hậu phương
quân đội và tích cực tham gia xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Đấu tranh phê phán những biểu
hiện suy thoái về đạo đức, lối sống,
những hành vi lệch chuẩn, biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực
dụng làm ảnh hưởng tới bản chất
truyền thống quân đội.
b. Hình thức tuyên truyền miệng ở
đơn vị cơ sở
Hình thức tuyên truyền miệng ở đơn
vị cơ sở rất phong phú và đa dạng,
bao gồm các hình thức cơ bản:
- Học tập, sinh hoạt chính trị theo nội
dung, chương trình, kế hoạch chính
khoá, ngoại khoá trong các hoạt động
phục vụ cho nâng cao đời sống văn
hoá, tinh thần trong giờ nghỉ, ngày
nghỉ....
- Học tập, sinh hoạt của các tổ chức
quần chúng, Hội đồng quân nhân.
- Nghe nói chuyện thời sự, thông báo
chính trị hàng tuần, mít tinh, diễn đàn,
kể chuyện truyền thống, truyền thụ
kinh nghiệm chiến đấu, thông qua
sinh hoạt tập thể nhóm, tổ với cán bộ
với chiến sĩ.
- Thông qua hoạt động văn hoá, văn
nghệ, hội thi báo cáo viên, thông tin
viên, trao đổi, giao lưu, học tập điển
hình tiên tiến, tuyên truyền cá biệt,
thông qua các tổ đội công tác... .
3. Tổ chức chỉ đạo và thực hiện công
tác tuyên truyền miệng ở cơ sở.
a. Nắm bắt tình hình tư tưởng và
tâm trạng xã hội:
Để có căn cứ tiến hành công tác tuyên
truyền miệng với nội dung và phương
pháp thích hợp, nắm bắt tình hình tư
tưởng và tâm trạng xã hội là yêu cầu
quan trọng, được tiến hành qua các
kênh sau:
- Nghe phản ánh tình hình tư tưởng th
ường xuyên, hàng tuần, hàng tháng;
tổng hợp các báo cáo định kỳ, đột
xuất, nghiên cứu các bản thu hoạch,
tổng kết sau các đợt học tập nghị
quyết.
- Căn cứ vào nhận định, đánh giá của
cấp uỷ, tổ chức chính quyền, đoàn thể
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
các chủ trương chính sách của Đảng,
nhiệm vụ của quân đội, đơn vị.
- Tổng hợp tình hình qua tin tức trên
các phương tiện thông tin đại chúng
và qua phản ánh của đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên.
- Tổ chức điều tra dư luận xã hội kết
hợp với việc tổng hợp thư từ khiếu nại
của cán bộ, chiến sĩ và kết quả các
cuộc tiếp xúc với quân nhân.
- Tổ chức các đợt nghiên cứu thực tế
với các chủ đề, với các đối tượng khác
nhau để phân loại đánh giá về nhận
thức tư tưởng.
Nắm bắt tình hình qua phân tích và
xử lý thông tin, loại trừ những thông
tin sai lệch, dự báo các chiều hướng t
ư tưởng để xác định những vấn đề cơ
bản và bức xúc nhất, từ đó xây dựng
nội dung của công tác tuyên truyền
miệng.
b. Xây dựng chương trình kế hoạch
đề tài và tổ chức các hội nghị thông
tin:
- Chương trình kế hoạch đề tài giúp
cho công tác tuyên truyền miệng ở cơ
sở đảm bảo được những nội dung
tuyên truyền cơ bản và thường xuyên,
kết hợp được các sự kiện quan trọng
mang tính thời sự gắn với các mốc lịch
sử, các ngày lễ lớn, với các sinh hoạt
chính trị ở đơn vị.
- Đề tài trước hết phải căn cứ vào
những định hướng nội dung thông tin
của cấp trên, tình hình và nhiệm vụ,
các nghị quyết, chủ trương, chính
sách của Đảng, nhiệm vụ của Quân
đội, đơn vị cơ sở để xác định tên, chủ
đề, nội dung và yêu cầu của các bài
nói. Hình thức, có thể là các báo cáo
tổng hợp, báo cáo chuyên đề theo
các chủ đề và nội dung tuyên truyền.
- Tổ chức các hội nghị thông tin báo
cáo viên theo định kỳ, khi cần thiết có
thể tổ chức các cuộc đột xuất để
thông báo kịp thời cho đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên, hoặc cho
Đảng bộ, chi bộ cơ sở.
- Tiến hành cuộc đấu tranh trực diện
trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị và văn
hoá ở cơ sở thông qua các hình thức
nói chuyện thời sự, chuyên đề, tổ
chức diễn đàn, hội thảo thông qua
tuyên truyền miệng từ người này sang
người khác, tham gia giải quyết các
"điểm nóng" ở địa phương, cơ sở.
c. Sử dụng lực lượng và tổ chức điều
hành công tác tuyên truyền miệng:
+ Trong quân đội, được sự ủy nhiệm
của TCCT, Cục Tuyên huấn, chính ủy,
chính trị viên, cơ quan chính trị các
cấp trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, chỉ
đạo và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ
về toàn bộ công tác tuyên truyền
miệng ở đơn vị cơ sở.
+ Quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán
bộ tuyên truyền miệng, mạng lưới báo
cáo viên, tuyên truyền viên kết hợp với
các phương tiện thông tin đại chúng:
báo chí, phát thanh, truyền hình. Huy
động đông đảo số cán bộ có phẩm
chất, có nhiệt tình và khả năng vào lực
lượng tuyên truyền miệng, nhất là ở
đơn vị cơ sở. Mặt khác phải quản lý
chặt chẽ thông tin, các cuộc nói
chuyện trên địa bàn, không để các
phần tử xấu, các luồng thông tin sai
lệch làm ảnh hưởng và gây hoang
mang trong cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân.
- Căn cứ vào nội dung chương trình,
kế hoạch đề tài để lập dự trù kinh phí,
trang bị cơ sở vật chất, hội trường, các
phương tiện hoạt động, chế độ trả
thù lao, công tác phí, khen thưởng,
mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, tổ chức
các hội nghị thông tin sơ kết, tổng kết
hàng năm cho công tác tuyên truyền
miệng.
IV. Một số giải pháp nâng cao chất l
ượng, hiệu quả công tác tuyên
truyền miệng ở đơn vị cơ sở trong
quân đội .
1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, ng
ười chỉ huy và cơ quan chính trị.
- Công tác báo cáo viên, tuyên truyền
miệng thuộc trách nhiệm lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện của cấp
ủy, chính ủy, chính trị viên và người
chỉ huy, cơ quan chính trị đơn vị.
- Công tác tuyên truyền miệng là một
mặt công tác của cơ quan chính trị
các cấp. Do đó, hoạt động báo cáo
viên, tuyên truyền miệng phải đưa vào
kế hoạch công tác thường xuyên và
thực hiện một cách nghiêm túc ở mỗi
cấp.
Thực tế những năm qua cho thấy ở
đâu lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chính
trị, người chỉ huy và cơ quan chính trị
nhận thức đầy đủ trách nhiệm trên thì
công tác tuyên truyền miệng hoạt
động có nền nếp, chất lượng, hiệu
quả và ngược lại.
- Cơ quan Tuyên huấn và cán bộ
tuyên huấn các cấp phải luôn nêu cao
trách nhiệm, vừa làm tốt chức năng
tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy, vừa
làm tròn chức trách là người thực hiện
nghiệp vụ công tác báo cáo viên,
tuyên truyền miệng ở đơn vị mình.
Đây là nhân tố trực tiếp quyết định
đến kết quả công tác báo viên, tuyên
truyền miệng.
2. Đổi mới nội dung, hình thức, ph
ương pháp tuyên truyền miệng ở
đơn vị cơ sở trong quân đội.
a. Đổi mới nội dung tuyên truyền
miệng theo hướng:
- Toàn diện, đa dạng, phong phú, kịp
thời, có cơ cấu thông tin hợp lý, khắc
phục tình trạng trùng lặp hoặc lượng
thông tin ít, nghèo nàn.
- Tăng tính thời sự, tính tư tưởng, tính
khoa học và định hướng tư tưởng cao
trong các chuyên đề; không để lộ bí
mật quân sự, bí mật quốc gia.
- Cần coi trọng thông tin những vấn
đề về đường lối, chiến lược, sách lược
mới của Đảng trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế - xã hội, đối ngoại, an ninh
- quốc phòng... trong đó đặt lên hàng
đầu việc định hướng đúng đắn và kịp
thời những thông tin quan trọng,
thông tin nội bộ để tạo ra sự nhất trí
về chính trị tư tưởng của cán bộ chiến
sĩ trong đơn vị và nhân dân.
b. Đổi mới hình thức, phương
pháp tuyên truyền miệng
Hình thức, phương pháp tuyên
truyền miệng rất đa dạng, phong phú,
linh hoạt. Sự phong phú về các hình
thức và phương pháp, tính nhiều mặt
của công tác tuyên truyền miệng là
một trong những đặc trưng của công
tác tuyên truyền miệng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: " Phải
nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp
cho thực hành mới, lại đem thực
hành mới để phát triển kinh nghiệm
cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào
thêm".
Vì vậy, đổi mới hình thức, phương
pháp công tác tuyên truyền miệng ở
đơn vị cơ sở trong quân đội cần thực
hiện tốt các biện pháp sau:
- Củng cố, duy trì thường xuyên chế
độ thông tin thời sự hàng tháng theo
quy định.
- Chú trọng đổi mới phương thức
hoạt động theo hướng phát huy dân
chủ, kết hợp tốt giữa hình thức độc
thoại và đối thoại giữa người nói và
người nghe, khắc phục tình trạng
thông tin một chiều.
- Kết hợp chặt chẽ giữa các loại hình,
các phương tiện, các lực lượng trong
"binh chủng" tuyên truyền để nâng
cao hiệu quả tuyên truyền miệng.
3. Nâng cao chất lượng đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên ở đơn vị
cơ sở trong quân đội
Lực lượng trực tiếp tiến hành công tác
công tác tuyên truyền miệng ở đơn vị
cơ sở trong quân đội là đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên. Đây là lực
lượng giữ vai trò quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến chất lượng và
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng.
Toàn bộ hoạt động đổi mới về nội
dung, hình thức, phương pháp tuyên
truyền miệng ở đơn vị cơ sở chỉ có thể
mang lại hiệu quả thực tế thông qua
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên cần làm tốt
một số vấn đề sau:
- Tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện
nâng cao phẩm chất và năng lực của
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên.
Phẩm chất và năng lực là hai mặt chủ
yếu hợp thành nhân cách của báo
cáo viên, tuyên truyền viên. Không
ngừng bồi dưỡng nâng cao phẩm
chất và năng lực sẽ góp phần trực tiếp
nâng cao hiệu quả của công tác tuyên
truyền miệng.
- Tích cực bồi dưỡng, học tập nâng
cao trình độ khai thác, sử dụng các
trang thiết bị phục vụ cho công tác
tuyên truyền miệng.
- Kiện toàn đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên có đủ số lượng,
đảm bảo chất lượng.
- Quan tâmthực hiện tốt chế độ
chính sách đối với đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên.
4. Tăng cường cơ sở vật chất,
đổi mới phương tiện công tác tuyên
truyền miệng ở đơn vị cơ sở.
Để đảm bảo tốt hơn các trang thiết
bị, kỹ thuật cho công tác tuyên truyền
miệng ở đơn vị cơ sở cần tập trung
thực hiện tốt một số vấn đề sau:
- Đổi mới cơ chế quản lý và phương
thức bảo đảm cơ sở vật chất, trang
thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho công
tác tuyên truyền miệng.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp, huy
động mọi nguồn lực ngân sách để
bảo đảm cơ sở vật chất, mua sắm
trang thiết bị, phương tiện cho hoạt
động tuyên truyền miệng ở đơn vị cơ
sở.
Trên đây là một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng ở đơn vị cơ sở trong
quân đội hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ
theo thực tế ở mỗi đơn vị cơ sở mà
nội dung của từng vấn đề đó được
xác định cụ thể và thực hiện nghiêm
túc, mang lại hiệu quả thiết thực.
Kết luận
Công tác tuyên truyền miệng là một
bộ phận công tác tư tưởng của Đảng,
có vai trò to lớn góp phần phổ biến tri
thức, định hướng tư tưởng, giáo dục
nâng cao trình độ nhận thức, giác ngộ
chính trị cho cán bộ đảng viên và
nhân dân; xây dựng phẩm chất nhân
cách của người quân nhân cách
mạng, động viên cổ vũ mọi cán bộ,
chiến sĩ phấn đấu thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao.
Với ưu thế sử dụng ngôn ngữ nói, có
sự giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên
truyền và đối tượng tuyên truyền nên
tuyên truyền miệng có thể tiến hành
trong mọi hoàn cảnh, không phụ
thuộc nhiều vào không gian, thời gian,
phương tiện kỹ thuật, thời tiết, ngày và
đêm mà các hình thức khác của công
tác tư tưởng không có được.
Trong quân đội, công tác tuyên truyền
miệng được tiến hành chủ yếu ở đơn
vị cơ sở, là nơi diễn ra mọi hoạt động
sôi động nhất, nơi quyết định và kiểm
nghiệm kết quả cụ thể của công tác tư
tưởng. Đơn vị cơ sở cũng là nơi đấu
tranh chống các luận điệu phản tuyên
truyền, chiến tranh tâm lý, biểu hiện
của tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, mê tín
dị đoan, tệ nạn xã hội... xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh, ổn định
và phát triển. Vì vậy, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng ở đơn vị cơ sở trong quân đội
là yêu cầu khách quan của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn mới của cách mạng, phải được
tiến hành chặt chẽ, thực hiện nghiêm
những nguyên tắc của công tác tư
tưởng.
CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NẮM BẮT DƯ LUẬN
XÃ HỘI
I. CÁC KIẾN THỨC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
DƯ LUẬN XÃ HỘI
1. Khái niệm dư luận xã hội:
- Dư luận xã hội (hay công luận) là
một hiện tượng đời sống xã hội quen
thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao
gồm cả quốc gia), trong cuộc sống
hàng ngày thường phải quan tâm và
tính toán đến. Trong quá trình nghiên
cứu có nhiều quan điểm khác nhau về
dư luận xã hội song đều thống nhất
và cho rằng:
"Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý
kiến cá nhân trước các vấn đề, sự
kiện, hiện tượng có tính thời sự, có
liên quan đến lợi ích, các mối quan
tâm của công chúng".
Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến các nội
hàm sau đây của định nghĩa này:
1) Mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các
ý kiến cá nhân giống nhau;
2) Dư luận xã hội có thể bao gồm
nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm
chí đối lập nhau;
3) Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại
đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp
(một ý kiến);
4) Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến
cá nhân, tự phát, chứ không phải là ý
kiến của một tổ chức, được hình
thành theo con đường tổ chức (hội
nghị, hội thảo...);
5) Dư luận xã hội không phải là một
phép cộng các ý kiến cá nhân, tự phát
mà là một chỉnh thể tinh thần xã hội,
thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí
của các lực lượng xã hội nhất định;
6) Chỉ có những sự kiện, hiện tượng,
vấn đề xã hội có tính thời sự, liên
quan đến lợi ích, các mối quan tâm
hiện có của nhiều người mới có khả
năng tạo dư luận xã hội.
2. Các thuộc tính của dư luận xã hội:
- Khuynh hướng: Thái độ của dư luận
xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng,
quá trình xã hội có thể khái quát theo
các khuynh hướng nhất định: tán
thành, phản đối hay băn khoăn,
lưỡng lự, chưa rõ thái độ. Cũng có thể
phân chia dư luận theo các khuynh
hướng như tích cực, tiêu cực, tiến bộ,
lạc hậu, "cấp tiến", "bảo thủ ".
- Cường độ: Thể hiện "sức căng " của
mỗi khuynh hướng. Ví dụ, khuynh
hướng phản đối có thể biểu hiện ở
các sức căng khác nhau: phản đối gay
gắt; phản đối, nhưng không gay gắt ...
Cường độ của dư luận xã hội quan hệ
chặt chẽ với hành vi xã hội của công
chúng.
Trong nắm bắt và phản ánh dư luận
xã hội nhất thiết phải nắm bắt và
phản ánh được cường độ của các
khuynh hướng đánh giá.
- Sự thống nhất và xung đột của dư
luận xã hội: Theo các nhà xã hội học,
đồ thị phân bố dư luận xã hội hình
chữ U biểu thị sự xung đột (có hai
luồng ý kiến chính, trái ngược nhau, tỷ
lệ ủng hộ mỗi luồng ý kiến này ngang
bằng hoặc xấp xỉ nhau), hình chữ L
biểu thị sự thống nhất cao (trong số
các luồng ý kiến, nổi lên một luồng ý
kiến được đa số ủng hộ).
Trong xã hội, nếu thái độ của dư luận
xã hội đối với phần lớn các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội đều có dạng
phân bố hình chữ U thì đều có nghĩa
xã hội ở trạng thái xung đột ý kiến
gay gắt. Trong phân bố hình chữ L,
chỉ một loại quan điểm có tỷ lệ người
ủng hộ cao mà thôi.
- Tính bền vững: Một số tác giả
thường khẳng định dư luận xã hội có
tính dễ biến đổi. Tuy nhiên khẳng
định này mới chỉ đúng một phần. Có
những dư luận xã hội chỉ qua một
đêm là thay đổi, nhưng cũng có
những dư luận hàng chục năm không
thay đổi.
Tính bền vững của dư luận xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với các
bậc vĩ nhân, các giá trị lịch sử của dân
tộc..., đánh giá của dư luận xã hội
thường rất bền vững, ví dụ sự đánh
giá của dư luận xã hội về cuộc đời và
sự nghiệp của Bác Hồ, về tầm quan
trọng của sự nghiệp đổi mới ... Đối
với những vấn đề mới nảy sinh, dư
luận xã hội thường dễ thay đổi. Cái
mới lúc đầu thường chỉ được số ít
nhận thấy và do đó dễ bị thay đổi và
dễ bị đa số phản đối. Tuy nhiên, ý
kiến của đa số sẽ nhanh chóng, dễ
dàng thay đổi khi cái mới vươn lên,
khẳng định mình trong cuộc sống.
Cần đặc biệt quan tâm đến sự thay
đổi thái độ của dư luận xã hội với các
sự kiện, hiện tượng, quá trình, đối
tượng ... quen thuộc vì nó phản ánh
sự chuyển hướng trong cách suy nghĩ
của xã hội.
- Sự tiềm ẩn: Dư luận xã hội về
những vấn đề của cuộc sống xã hội
có thể ở trạng thái tiềm ẩn, không bộc
lộ bằng lời. Có người dùng tục ngữ
" Dư luận của sự im lặng " để nói về
trạng thái này. Trong những xã hội
thiếu dân chủ, dư luận xã hội đích
thực thường tồn tại dưới dạng tiềm
ẩn.
Phương pháp thăm dò dư luận xã hội
có thể làm bật ra nội dung của các
luồng dư luận xã hội tiềm ẩn. Đối với
những nơi chưa coi trọng quyền dân
chủ của nhân dân, để nắm bắt dư
luận xã hội chúng ta nên dùng
phương pháp phỏng vấn giấu tên
(không ghi tên, nơi làm việc, cư trú
của người trả lời), nếu không, người
trả lời có thể sẽ không dám nói ra sự
thật.
3. Các chức năng đích thực của dư
luận xã hội:
1. Chức năng đánh giá : Dư luận xã
hội thể hiện thái độ phán xét đánh
giá của công chúng đối với các sự
kiện, hiện tượng, sự vật, vấn đề cuộc
sống. Dư luận xã hội có vai trò quan
trọng trong việc hình thành thang giá
trị xã hội.
Trên thực tế, người ta thường chạy
theo các giá trị mà dư luận xã hội đề
cao chứ không phải các giá trị do các
nhà tư tưởng, lý luận đề ra. Thang giá
trị do các nhà tư tưởng, lý luận đề ra,
cho dù có đúng đến đâu cũng khó có
thể đi vào thực tế nếu không được dư
luận xã hội tán thành, ủng hộ. Thang
giá trị của dư luận xã hội mỗi thời một
khác. Ví dụ, đầu những năm 60, các
giá trị vật chất được dư luận xã hội đề
cao là "Một yêu anh có pô - giô, hai
yêu anh có đồng hồ đeo tay..." những
năm 80 và hiện nay thang giá trị đã có
sự phát triển vượt bậc...
2. Chức năng điều tiết các mối quan
hệ xã hội: Dư luận xã hội rất nhạy
cảm với các hành vi xâm phạm lợi ích
chung, lợi ích của toàn xã hội, khi
xuất hiện dư luận này cần phải lên
án, định hướng kịp thời; dư luận xã
hội cũng rất quan tâm đến các hành
vi có lợi cho toàn xã hội, kịp thời cổ vũ
các cá nhân, nhóm xã hội thực hiện
hành vi này.
Nhờ sự can thiệp kịp thời, dư luận xã
hội góp phần duy trì trật tự xã hội,
mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và
xã hội cũng như giữa các nhóm xã
hội.
3. Chức năng giáo dục của dư luận
xã hội: Nhờ có uy tín lớn, sự khen
chê, khuyên bảo của dư luận xã hội
có tác động rất mạnh đến ý thức và
hành vi của con người, nhất là đối với
các thế hệ trẻ.
Bằng sự khen, chê, khuyên can kịp
thời đối với các hành vi phù hợp hoặc
không phù hợp với lợi ích, các giá trị
xã hội, nhất là các giá trị đạo đức, lý
luận, dư luận xã hội có vai trò rất lớn
trong việc giáo dục cho các thế hệ ý
thức về sự phải - trái, đúng - sai, thiện
- ác, đẹp - xấu.
4. Chức năng giám sát: Dư luận xã
hội có vai trò giám sát hoạt động của
nhà nước và các tổ chức xã hội, gây
sức ép lớn đối với tệ tham nhũng,
quan liêu, tắc trách. Trong các xã hội
dân chủ, công luận (kể cả báo chí)
thường được coi là cơ quan quyền lực
thứ tư (sau các cơ quan: lập pháp,
hành pháp, tư pháp). Vì vậy, khi dân
chủ, công luận bị lợi dụng thì rất phức
tạp cho xã hội.
Các quan chức tham nhũng, quan
liêu, mất dân chủ rất "ghét " báo chí,
dư luận xã hội vì báo chí, dư luận xã
hội luôn "nhòm ngó" vào các công
việc mờ ám của họ, sẵn sàng lên án,
tố cáo họ.
5. Chức năng tư vấn, phản
biện: Trước những vấn đề nan giải
của đất nước, quân đội dư luận xã
hội có thể đưa ra những khuyến nghị
sáng suốt mà các cơ quan tham mưu
có thể chưa nghĩ ra được. Dư luận xã
hội cũng là người phản biện có uy tín
đối với các quyết định của các cơ
quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội và của quân đội.
6. Chức năng giải tỏa tâm lý xã
hội: Theo các nhà tâm lý học, sự bất
bình, các nỗi niềm oan ức của con
người, nếu không được giãi bày, nói
ra, sẽ không mất đi mà lắng chìm
xuống tầng vô thức trong tâm thức
của con người và có thể trở thành
những mầm mống bệnh hoạn
nghiêm trọng về tinh thần đến một
lúc nào đó sẽ bộc phát thành những
hành vi, phản ứng bất thường không
kiểm soát được.
Sự giãi bày, bày tỏ thành lời có thể
giải tỏa nỗi bất bình, uất ức của con
người. Bị oan ức mà nói ra được người
sẽ cảm thấy nhẹ nhõm.
4. Cơ sở nhận thức và cơ sở xã hội
của dư luận xã hội
a) Cơ sở nhận thức của dư luận xã
hội
Nội dung và sắc thái của dư luận xã
hội được quy định trước hết bởi trình
độ hiểu biết của công chúng, nhóm
xã hội. Sự hiểu biết nhiều hay ít, sâu
sắc hay không sâu sắc của công
chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề,
hiện tượng, sự kiện quyết định sự
đánh giá đúng hay sai của công
chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề,
sự kiện, hiện tượng đó. Một trong
những yếu tố nhận thức có ảnh
hưởng khá phổ biến đến sự phán xét
của dư luận xã hội, đó là khuôn mẫu
tư duy xã hội.
Khuôn mẫu tư duy xã hội là những
quan niệm, suy lý, phán xét khái quát,
giản đơn, hữu hạn nhưng có tính phổ
biến và tương đối bền vững trong một
cộng đồng xã hội. Khuôn mẫu tư duy
tồn tại trong tất cả các lĩnh vực cuộc
sống của con người: Trong tôn giáo,
đạo đức, chính trị ... ở đâu chúng ta
cũng có thể lấy các ví dụ về khuân
mẫu tư duy.
- Trong lĩnh vực đạo đức, một thời đã
tồn tại các khuôn mẫu tư duy như:
"Tiểu thương, tiểu chủ, những người
làm ăn cá thể là kẻ xấu"; "Phụ nữ
không có chồng mà có con là thiếu
đức hạnh"... Trong lĩnh vực tri giác,
cũng tồn tại rất nhiều khuôn mẫu tư
duy, ví dụ: "Nhất lé, nhì lùn"; "Đàn
ông miệng rộng thì tài, đàn bà miệng
rộng điếc tai láng giếng"...
Mọi định nghĩa ngắn gọn, phổ cập về
sự sống đều có thể được coi là khuôn
mẫu tư duy. Khuôn mẫu tư duy theo
sự vận động của thực tế cuộc sống sẽ
trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn hợp
thời (thời điểm chân lý mà nó phản
ánh còn tồn tại) và thời điểm lỗi thời
(thời điểm chân lý mà nó phản ánh
đã qua đi).
Sự tồn tại của các khuôn mẫu tư duy
cực kỳ cần thiết, không có nó sẽ
không có hành động xã hội. Cái sai
chỉ xuất hiện khi con người tuyệt đối
hóa các định nghĩa, các khuôn mẫu tư
duy, vẫn bám lấy chúng khi chúng đã
lỗi thời.
Chỉ có các khái quát, phán xét, suy lý
phổ biến trong xã hội (hoặc trong
một cộng đồng, nhóm xã hội) mới có
thể trở thành khuôn mẫu tư duy xã
hội. Dư luận xã hội là phương thức
tồn tại của khuôn mẫu tư duy xã hội.
Để hình thành dư luận xã hội trước
hết phải hình thành các khuôn mẫu
tư duy xã hội. Khi đã có khuôn mẫu tư
duy xã hội mà chúng ta muốn có sẽ
tự khắc bật ra khi gặp bối cảnh tương
ứng.
b) Cơ sở xã hội của dư luận xã hội
Các yếu tố xã hội trước hết là lợi ích
nhóm, tầng lớp, giai cấp, quốc gia,
dân tộc có mối liên hệ chặt chẽ với
nội dung và sắc thái của dư luận xã
hội. Trong một nhà nước mạnh, chính
quyền và nhân dân gắn bó với nhau,
lợi ích quốc gia, dân tộc thường được
coi trọng hơn các lợi ích khác (cá
nhân, nhóm, tầng lớp, giai cấp); trước
các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội,
người ta thường lấy lợi ích quốc gia,
dân tộc, lợi ích cộng đồng làm cơ sở
để đưa ra sự nhận xét, đánh giá, bày
tỏ thái độ của mình.
Trong một nhà nước yếu, dân chủ
không được coi trọng, pháp luật, kỷ
cương bị buông lỏng, chủ nghĩa cá
nhân phát triển, người ta thường
nhân danh lợi ích quốc gia, dân tộc,
cộng đồng để đưa ra ý kiến này, ý kiến
kia, nhưng nếu phân tích kỹ thì không
phải như vậy, lợi ích cá nhân, cục bộ
mới chính là động cơ của họ.
Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều lợi
ích khác nhau. Về bản chất, các lợi ích
này thống nhất với nhau. Tuy nhiên,
ngoài các lợi ích cá nhân, đặc thù hợp
lý của các cá nhân, tầng lớp, giai cấp,
nhóm xã hội (các lợi ích gắn liền với
lợi ích quốc gia, dân tộc), các cá nhân,
tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội, có
thể chạy theo các lợi ích cá nhân, đặc
thù cực đoan, có lợi cho mình nhưng
đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân
tộc nói chung, của các cá nhân, tầng
lớp, giai cấp, nhóm xã hội khác nói
riêng.
Trong thời bao cấp, luồng dư luận
không tán thành quan điểm cho rằng
CNXH cũng có kinh tế thị trường, phê
phán quan điểm này là " chệch
hướng XHCN" không phải bao gồm
toàn những người thiếu hiểu biết về
vấn đề kinh tế thị trường mà còn có cả
những người có hiểu biết tốt, hiểu biết
được rằng CNXH cũng có kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, khi phát biểu ý kiến
thì họ lại nói khác, "Nghĩ một đằng,
nói một nẻo". Tiếng nói của họ, sự
phản đối của họ không phải do yếu
tố nhận thức quyết định mà là do các
lợi ích đặc thù cực đoan quyết định:
Họ lo ngại sự đổi mới sẽ làm mất đi
các đặc quyền, đặc lợi gắn liền với cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp mà
họ đang có.
5. Cơ chế hình thành của dư luận xã
hội:
a. Các giai đoạn trong quá trình hình
thành của dư luận xã hội:
- Giai đoạn tiếp nhận thông tin.
- Giai đoạn hình thành các ý kiến cá
nhân.
- Giai đoạn trao đổi ý kiến giữa các cá
nhân.
- Giai đoạn hình thành các luồng ý
kiến chung (dư luận xã hội).
Trong giai đoạn đầu, thông tin về sự
kiện, theo nhiều con đường khác
nhau được truyền đạt đến các cá
nhân. Trong giai đoạn thứ 2, trên cơ
sở nhận thức của mình, các cá nhân
bắt đầu đưa ra các ý kiến phán xét,
đánh giá có thể rất khác nhau, thậm
chí đối lập nhau về sự kiện. Sự trao
đổi, cọ sát ý kiến giữa các cá nhân
trong giai đoạn 3 sẽ dẫn tới sự hình
thành các luồng ý kiến chung, hay nói
cách khác, đó lá dư luận xã hội.
Tuy nhiên, cơ chế hình thành dư luận
xã hội không đơn giản như vậy. Trong
thực tế, sự hình thành dư luận xã hội
thường diễn ra rất nhanh. Khi có các
thông tin về sự kiện, các phán xét
giống nhau ở mọi người được "bật
ra" hầu như cùng một lúc, giống như
phản ứng dây chuyền, không cần giai
đoạn tranh luận, trao đổi thông tin.
Nền tảng của các phản ứng này là các
khuôn mẫu tư duy xã hội đã được
hình thành, tồn tại trong tiềm thức và
gắn kết với tâm thế xã hội.
b. Các yếu tố tác động đến quá trình
hình thành dư luận xã hội:
Tất cả các yếu tố có ảnh hưởng đến
nhận thức, có liên quan đến lợi ích
của công chúng trước các sự kiện,
hiện tượng, vấn đề xã hội, như chúng
ta đã phân tích ở mục 4 (Cơ sở nhận
thức và cơ sở xã hội của dư luận xã
hội), ít nhiều đều có tác động đến quá
trình hình thành dư luận xã hội. Một
trong những yếu tố có tác động mạnh
nhất đến quá trình hình thành dư
luận xã hội là tác động của truyền
thông, thông tin trên báo chí.
Hiệu quả của truyền thông đến quá
trình hình thành dư luận xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín của
nguồn thông tin; thời điểm phát tin
(nhiều nghiên cứu cho thấy, nguồn
thông tin sớm nhất có tác động lớn
nhất đến việc hình thành dư luận xã
hội, ai đưa ra thông tin sớm nhất,
người đó dễ có khả năng làm chủ
được dư luận xã hội); liều lượng
thông tin, cách thức thông tin...
Các yếu tố xã hội thường có ảnh
hưởng đến quá trình hình thành dư
luận xã hội, đó là: gia đình, nhóm xã
hội, tầng lớp, giai cấp, đảng tịch ...
II. VAI TRÒ, QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC,
NHIỆM VỤ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU,
NẮM BẮT DƯ LUẬN XÃ HỘI:
1. Vai trò của công tác nghiên cứu,
nắm bắt dư luận xã hội:
a, Tham mưu cho các cơ quan lãnh
đạo, quản lý trong việc soạn thảo,
ban hành, tổ chức thực hiện quyết
định; thông tin, tuyên truyền định
hướng dư luận xã hội.
b, Góp phần củng cố và mở rộng nền
dân chủ trong Đảng, trong xã hội.
c, Công tác nghiên cứu, nắm bắt dư
luận xã hội góp phần đổi mới công
tác tư tưởng của Đảng.
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về
công tác nghiên cứu, nắm bắt dư
luận xã hội:
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi
mới thành lập đã coi việc nắm bắt
lòng dân (tâm tư, nguyện vọng, ý chí
của dân) là một trong những công
việc quan trọng hàng đầu nhằm đề ra
các chủ trương, đường lối cách mạng
phù hợp lòng dân. Đúng như Chủ tich
Hồ Chí Minh đã viết:
"Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng
làm được. Dân chúng không ủng hộ,
việc gì làm cũng không nên". Nhiều
văn bản, quyết định của các cơ quan
lãnh đạo Đảng đã khẳng định điều
này.
Ngay từ năm 1982, Ban Bí thư đã
quyết định thành lập Viện nghiên cứu
dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo
Trung ương Đảng.
Những năm đầu đổi mới và đặc biệt là
thời gian gần đây, Đảng ta tiếp tục có
những chỉ đạo nhằm tăng cường công
tác điều tra xã hội học, nắm bắt dư
luận xã hội. Ví dụ, trong văn kiện Hội
nghị Lần thứ 3 Ban chấp hành Trung
ương (khóa VII) đã nêu ra nhiệm vụ
đối với công tác tư tưởng sau đây:
"Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ
và công tác tuyên truyền, coi trọng
biện pháp điều tra dư luận xã hội".
Hội nghị Lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VII) tiếp tục yêu
cầu: "Tổ chức điều tra dư luận xã hội
về những vấn đề cần thiết cho công
tác lãnh đạo, quản lý nhà nước. Xây
dựng luật về trưng cầu ý dân".
Gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương
5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới,
tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng công
tác nghiên cứu, điều tra xã hội học,
nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công
tác tư tưởng".
3. Nguyên tắc cơ bản của công tác
nghiên cứu dư luận xã hội
a, Tính cách mạng và khoa học.
- Quán triệt và chấp hành nghiêm túc
các nguyên tắc cơ bản trong công tác
tư tưởng của Đảng.
- Nghiên cứu nắm vững đường lối
quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước và tinh thần chỉ
thị của cấp trên với tình hình cụ thể
của các cơ quan, đơn vị trong quân
đội.
- Có thái độ đúng đắn, chính xác,
phân tích cụ thể những vấn đề phức
tạp trong xã hội, trong quân đội để
tham mưu, đề xuất, kiến nghị những
chủ trương giải pháp trúng, đúng.
b, Giữ vững tính chân thực.
Công tác nghiên cứu dư luận xã hội
phải phản ánh đúng bộ mặt vốn có
của sự vật, hiện tượng.
c, Giữ vững phép biện chứng duy
vật.
- Công tác điều tra nghiên cứu dư
luận xã hội phải theo quan điểm toàn
diện, liên hệ phổ biến và phát triển,
tổng hợp và phân tích toàn diện các
tài liệu điều tra, bỏ cái thô lấy cái tinh,
bỏ cái giả lấy cái thật...
- Đối với những tình hình mới, vấn đề
mới phải nghiên cứu những trọng
điểm; nghiên cứu cả mặt phải, mặt
trái của sự vật, tránh khuynh hướng
nghiên cứu phân tích, đánh giá chủ
quan, phiến diện; giữ vững sự tỉnh táo
và kiên định về chính trị.
d, Chuẩn xác, kịp thời.
- Tăng cường kiểm tra đối với những
thông tin, dư luận quan trọng, chấp
hành nghiêm túc thủ tục, thẩm định,
phê duyệt những thông tin giử đi, gửi
đến, bảo đảm tính chân thực, độ tin
cậy của thông tin.
- Kịp thời phản ánh, báo cáo những
kết quả điều tra nghiên cứu dư luận
xã hội; hình thành cơ chế làm việc có
hiệu quả và chế độ trách nhiệm tương
ứng, đặc biệt là phải phát hiện sớm,
thu thập sớm, báo cáo sớm tình hình
mới, vấn đề mới để lãnh đạo, chỉ huy
kịp thời hiểu rõ tình hình, có căn cứ
quyết sách chính xác.
4 . Các nhiệm vụ của công tác nghiên
cứu, nắm bắt dư luận xã hội:
a, Nắm bắt, phân tích, tổng hợp và
phản ánh nhanh dư luận của các tầng
lớp cán bộ, Đảng viên và nhân dân
trước những vấn đề, sự kiện quan
trọng trong nước và trên thế giới, đặc
biệt là trước các chủ trương, chính
sách của Đảng và Pháp luật của Nhà
nước.
b, Tiến hành các cuộc điều tra xã hội
học về dư luận xã hội phục vụ quá
trình hình thành, hoàn thiện và thực
hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng đối với xã hội và quân
đội; tham gia đấu tranh chống thông
tin và quan điểm sai trái thù địch.
c, Phối hợp với các cơ quan chức
năng giám sát an ninh tư tưởng, chính
sách của các cuộc thăm dò dư luận
của xã hội do các tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài tiến hành.
III. CÁC LOẠI HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐIỀU TRA, NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG
THÔNG TIN DƯ LUẬN XÃ HỘI
1. Một số loại hình cơ bản điều tra,
nghiên cứu thông tin dư luận xã hội
a, Điều tra tình hình cơ bản: là điều
tra tương đối toàn diện tình hình, đặc
trưng cơ bản của một sự kiện hoặc
vấn đề nào đó thuộc các cấp các
ngành của cơ quan, đơn vị trong
quân đội.
b, Điều tra quyết sách quan trọng: là
điều tra xoay vào quá trình hoạch
định chính sách. Trên thực tế, trước
khi đưa ra một quyết sách quan trọng,
lãnh đạo các cấp đều giao cho cơ
quan điều tra, nghiên cứu thông tin,
dư luận độc lập hoặc phối hợp các
ngành hữu quan tiến hành điều tra
nghiên cứu chuyên đề...để lựa chọn
phương án tốt nhất trong các phương
án dự định.
c, Điều tra tổng hợp: là phân tích và
đánh giá một cách khoa học về một
công việc, một chính sách nào đó của
các cơ quan, đơn vị trong quân đội
để hiểu rõ tình hình, phát huy thành
tích, tổng kết kinh nghiệm, tìm ra
khiếm khuyết, cải tiến công tác...
d, Điều tra chỉ đạo chuyên đề: là
điều tra nhằm mục đích chỉ đạo cụ
thể, chuyên vào một nội dung nào
đó, có trọng điểm rõ rệt, bao gồm
điều tra, nghiên cứu phục vụ triển
khai, chuẩn bị các văn kiện Đại hội
Đảng các cấp, hoặc chuẩn bị bài nói,
bài viết, diễn văn cho lãnh đạo; điều
tra các ý kiến về sự kiện đột xuất, kiểm
tra đốc thúc một công việc nào đó...
Điều tra chỉ đạo chuyên đề đòi
hỏi người điều tra phải hiểu sâu sắc ý
tưởng của lãnh đạo, chú ý nắm các
điểm mấu chốt, kết hợp giữa yêu cầu
phổ biến với tình huống đặc thù của
một vấn đề cụ thể, nêu ra ý kiến và
kiến nghị chính xác.
đ, Điều tra thông tin phản hồi :
là phản ánh thu thập những thông tin
liên quan về chủ trương, chính sách
và tình hình phát triển công tác trên
mặt trận tư tưởng lý luận của Đảng.
Bao gồm phản ánh những tâm tư,
tình cảm, thái độ của cán bộ, đảng
viên, quần chúng trong cơ quan, đơn
vị đối với chính sách lớn, sự kiện lớn;
tình hình thực thi thực tế với bố trí
công tác của cấp trên; tình hình mới,
vấn đề mới xuất hiện trong thực tiễn
công tác; các biện pháp và kiến nghị
áp dụng đối với các khâu yếu kém và
các mặt không thích hợp trong công
tác.
Chú ý phản ánh những thông tin
quan trọng, có tính chất khuynh
hướng, tính chất đại diện và thu hút
sự chú ý.
e, Làm tốt công tác thông tin
về dư luận quần chúng: Thông tin về
dư luận, thái độ của quần chúng chủ
yếu là thông tin về tình hình tư tưởng,
ý kiến của cán bộ, chiến sĩ trong các
cơ quan, đơn vị.
Nội dung chủ yếu bao gồm:
phản ánh thái độ của cán bộ, chiến sĩ
và quần chúng nhân dân trước những
chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, các hội nghị quan trọng
của Trung ương, các hoạt động lớn,
các sự kiện đối nội, đối ngoại quan
trọng, các điểm nóng, điểm khó khăn
mà cán bộ, chiến sĩ và nhân dân
quan tâm, những băn khoăn, khúc
mắc về tư tưởng của mọi người; sự
kiên định niềm tin vào lý tưởng; việc
xây dựng quan niệm giá trị đúng đắn,
trào lưu tư tưởng sai lầm gây mất ổn
định xã hội, vấn đề nhận thức sai lầm
và vấn đề có tính khuynh hướng ảnh
hưởng đến mọi người; những nhân tố
có khả năng gây ra mất ổn định xã
hội và những sự kiện bất hợp pháp có
tính tập thể; những ý kiến đánh giá,
kiến nghị đối với công tác tư tưởng.
Làm tốt vấn đề này, phải báo cáo
toàn diện, chuẩn xác, kịp thời những
thông tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân. Những vấn đề lớn liên quan tới
chỉ đạo, tới định hướng, nguyên tắc
chính trị nhất thiết không được báo
cáo sót, báo cáo muộn, giấu diếm,
tránh tình trạng chỉ báo tin vui, không
báo tin buồn.
2. Phương pháp nghiên cứu
thông tin, dư luận xã hội
a, Hội nghị toạ đàm và hội
thảo: Đây là phương pháp đơn giản,
dễ thực hiện nhất lại tương đối tin cậy.
b, Phỏng vấn cá biệt : là phương
pháp tiến hành trao đổi riêng với
người lãnh đạo, với đương sự hoặc
người hiểu biết tình hình để nắm bắt
thông tin.
c, Dự thính hội nghị hoặc tham
gia các hoạt động : Với phương pháp
này, người điều tra dự thính hội nghị
hoặc hoạt động do đối tượng điều tra
tổ chức để điều tra, nghiên cứu tình
hình.
d, Điều tra cố định: Là cơ quan
cấp trên cử người tới các cơ quan đơn
vị trong một thời gian để đi sâu điều
tra nghiên cứu.
đ, Đọc tư liệu: Người điều tra
đọc các văn kiện, bản tin, sách, báo,...
để phát hiện tình hình, thu nhận kiến
thức, chắt lọc thông tin, quan điểm.
e, Chuyên gia luận giải: Mời
chuyên gia, học giả có liên quan tư
vấn, luận giải chính sách, kiến nghị kết
quả điều tra.
g, Điều tra bằng văn bản: Gồm
2 phương pháp (thư và phiếu điều
tra).
- Điều tra bằng thư thường gửi
xuống cơ quan, đơn vị cấp dưới, tiện
lợi và đỡ tốn công, thường dùng để
điều tra tình hình cụ thể, cần đi sâu
tìm hiểu.
- Điều tra bằng phiếu điều tra,
nghĩa là gửi hoặc trực tiếp phát phiếu
điều tra tới đối tượng điều tra để họ
điền vào chỗ trả lời đã có sẵn.
h, Điều tra thống kê: Tức là áp
dụng phương pháp thống kê và chế
độ báo cáo để thu thập một cách có
tổ chức các số liệu quan trọng phản
ánh đặc trưng và quy luật của sự việc
để nghiên cứu. Đây là phương pháp
quan trọng để nắm toàn diện tình
hình, tiến hành phân tích định lượng.
i, Trắc nghiệm: Dùng phương
thức điền vào phiếu điều tra, trao đổi
trực diện và gửi thư để đối tượng điều
tra tự do phát biểu ý kiến của họ
trong điều kiện không bị bất ngờ sức
ép hoặc sự can thiệp nào, nhằm tìm
hiểu thái độ và ý kiến của cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân đối với những
vấn đề nào đó.
k, Điều tra uỷ quyền: Tức là uỷ
nhiệm cơ quan, đơn vị nào đó điều
tra, nghiên cứu đề tài hoặc một phần
đề tài nào đó, rồi phân tích để chấp
nhận hay không chấp nhận kết quả
điều tra, nghiên cứu. Đối với những
đề tài có tính chất chính trị cao hoặc
độ nhạy cảm cao, nói chung không
áp dụng phương pháp này.
Ngoài ra, nắm bắt dư luận xã hội
thông qua mạng lưới cộng tác viên,
đây là hình thức thu thập thông tin dư
luận chủ yếu của cơ quan Tuyên giáo
các cấp trong điều kiện hiện nay.
Để nắm bắt dư luận xã hội
thông qua mạng lưới cộng tác viên,
cần tiến hành các bước: (1) Tổ chức
mạng lưới cộng tác viên; (2) Xây dựng
quy chế hoạt động của mạng lưới
cộng tác viên; (3) Duy trì hoạt động
của mạng lưới cộng tác viên; (4) Tổng
hợp thông tin viết báo cáo nhanh tình
hình dư luận phản ánh từ mạng lưới
cộng tác viên.
3. Sử dụng kết quả nghiên cứu
thông tin dư luận xã hội
- Phục vụ quá trình ra quyết định
của các cơ quan lãnh đạo, quản lý.
- Nâng cao hiệu quả công tác
thông tin tuyên truyền, định hướng dư
luận xã hội.
- Giải quyết các mâu thuẫn, xung
đột, các điểm nóng trong xã hội.
- Nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống tham nhũng và các tệ
nạn xã hội.
- Nâng cao hiệu quả giáo dục
luân thường, đạo lý trong xã hội.
IV. NẮM BẮT TÌNH HÌNH TƯ
TƯỞNG VÀ TÂM TRẠNG XÃ HỘI
TRONG QUÂN ĐỘI
Để có căn cứ tiến hành công
tác tư tưởng trong quân đội với nội
dung và phương pháp thích hợp, nắm
bắt tình hình tư tưởng của cán bộ,
chiến sỹ và tâm trạng dư luận xã hội
trên địa bàn đóng quân là một yêu
cầu quan trọng, được tiến hành qua
các kênh sau:
1. Nghe phản ánh tình hình tư
tưởng thường xuyên, hàng tuần, hàng
tháng; tổng hợp các báo cáo định kỳ,
đột xuất của cơ quan, đơn vị; nghiên
cứu các bản thu hoạch, tổng kết sau
các đợt học tập sinh hoạt chính trị,
quán triệt nghị quyết của các cấp
trong Quân đội.
2. Căn cứ vào nhận định, đánh
giá của cấp uỷ, chỉ huy, các tổ chức
quần chúng... trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, nhiệm vụ của quân
đội, đơn vị.
3. Tổng hợp tình hình tin tức
trên các phương tiện thông tin đại
chúng và qua phản ánh của đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên.
4. Tổ chức điều tra dư luận xã
hội kết hợp với việc tổng hợp thư từ
khiếu nại của cán bộ, chiến sỹ và kết
quả các cuộc tiếp xúc với quân nhân.
5. Tổ chức các đợt nghiên cứu
thực tế với các chủ đề, với các đối
tượng khác nhau để phân loại đánh
giá về nhận thức tư tưởng.
Nắm bắt tình hình qua phân
tích và xử lý thông tin, loại trừ những
thông tin sai lệch, dự báo các chiều
hướng tư tưởng để xác định những
vấn đề cơ bản và bức xúc nhất, từ đó
đề xuất xây dựng nội dung tiến hành
công tác tư tưởng trong quân đội.
KẾT LUẬN
Công tác điều tra, nghiên cứu thông
tin dư luận xã hội là yêu cầu tất yếu
của lý luận nhận thức duy vật biện
chứng và đường lối tư tưởng cầu thị
của Đảng, là kinh nghiệm trong quá
trình lãnh đạo cách mạng của Đảng
trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Có vị trí, vai trò quan trọng; là phương
thức để tiến hành khảo sát tìm hiểu
toàn diện các hiện tượng xã hội và các
vấn đề thực tế, thu thập những thông
tin khách quan, trên cơ sở đó phân
tích, chỉnh lý, rút ra nhận thức có tính
quy luật làm căn cứ khoa học giúp cho
Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đơn vị
đưa ra những hoạch định chủ trương,
chính sách đúng đắn để lãnh đạo,
quản lý xã hội và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, nghị quyết, nhiệm
vụ cách mạng.
Việc tổ chức điều tra, nghiên cứu
thông tin dư luận xã hội phải được
tiến hành thường xuyên, chặt chẽ,
quán triệt và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc công tác tư tưởng của
Đảng. Làm tốt công tác điều tra,
nghiên cứu thông tin dư luận xã hội
có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi
mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng giai đoạn hiện nay;
đồng thời là trách nhiệm của lãnh
đạo, chỉ huy, của các cơ quan chức
năng và đội ngũ cán bộ làm công tác
tư tưởng trong quân đội.
PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG ĐỀ
CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
MIỆNG
1- Xác định mục đích, chủ đề
bài nói
a) Xác định mục đích của bài
nói
Hồ Chí Minh nói: "Tuyên truyền là
đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân
nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không
đạt được mục đích đó, là tuyên truyền
thất bại".
Từ mục đích của công tác tuyên
truyền miệng người báo cáo viên cần
xác định rõ mục đích cụ thể của bài
nói. Mục đích của từng buổi, từng nội
dung tuyên truyền được xác định trên
cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ được giao; sự
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp
uỷ, chỉ huy đơn vị và hướng dẫn của
cơ quan nghiệp vụ cấp trên. Đối với
bài nói ngắn, chủ đề hẹp, không nên
đặt mục đích quá cao.
b) Xác định chủ đề của bài
nói.
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính
trị, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ,
chỉ huy đơn vị và hướng dẫn của cơ
quan nghiệp vụ cấp trên, báo cáo
viên xác định chủ đề và nội dung bài
nói đáp ứng yêu cầu ở cơ sở, ở đối
tượng người nghe. Thông thường, báo
cáo viên căn cứ vào hướng dẫn tuyên
truyền của cấp trên về các sự kiện
trọng đại của đất nước; những quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách mới của Đảng và Nhà nước;
những vấn đề có tính thời sự trong
nước và quốc tế đang được dư luận
xã hội quan tâm v.v... để xác định chủ
đề bài nói.
Chủ đề bài nói phải đạt được các
yêu cầu sau đây:
+ Phải đúng, trúng vấn đề người nghe
quan tâm;
+ Có thông tin mới.
+ Thông tin mang tính cấp
thiết.
+ Mang tính định hướng tư
tưởng cao.
2. Tìm hiểu đặc điểm đối
tượng
Trước khi chuẩn bị bài nói, BCV
phải đặt câu hỏi "nói cho ai nghe?".
Phải nhiên cứu nắm chắc đặc điểm
đối tượng người nghe, như: nghề
nghiệp, học vấn, tín ngưỡng, dân tộc,
địa phương, độ tuổi, nhu cầu thông
tin.... Đồng thời phải nghiên cứu cả về
tư tưởng và tâm lý - xã hội của đối
tượng người nghe, như: quan điểm,
chính kiến, động cơ, tâm trạng, trạng
thái thể chất của họ...
Qua thực tế có thể rút ra đặc
điểm chung nhất của đối tượng tuyên
truyền miệng thường là:
- Tính không đồng nhất về tuổi
tác, nghề nghiệp, trình độ...
- Nhu cầu thông tin thường
xuyên đổi mới và có xu hướng nâng
cao.
- Một bộ phận công chúng có
xu hướng muốn nghe mặt trái, những
chuyện "giật gân", những vấn đề "hậu
trường"...
Từ đặc điểm chung nhất của
đối tượng, BCV cần xác định nội
dung, phương pháp, cách thức tiến
hành tuyên truyền cho phù hợp; bám
sát mục đích, yêu cầu của vấn đề
tuyên truyền; thực hiện đúng nguyên
tắc tuyên truyền; không đáp ứng sở
thích, yêu cầu cá nhântầm thường
của người nghe.
3. Thu thập và nghiên cứu xử
lý thông tin
a) Thu thập thông tin : Thông
thường, để chuẩn bị xây dựng một đề
cương tuyên truyền báo cáo viên cần
thu thập, tập hợp các nguồn thông tin
sau:
- Kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị
quyết, chỉ thị, đường lối chủ trương
chính sách của Đảng và luật pháp của
Nhà nước;
- Sách, báo, tạp chí, tài liệu giấy và các
vật mang tin khác;
- Thông tin giao ban;
- Thông tin qua hệ thống báo cáo
viên;
- Nghiên cứu thực tế;
- Tích lũy của bản thân báo cáo viên;
- Các nguồn khác...
Báo cáo viên cần sử dụng tài liệu
chính thống. Có thể nghiên cứu tài
liệu của nước ngoài, của các thế lực
thù địch để hiểu quan điểm và lập
luận của họ để thể hiện rõ quan
điểm, thái độ, phê phán, phản bác lại.
Báo cáo viên phải chịu trách nhiệm về
việc thu thập xử lý thông tin và phát
ngôn của mình.
b) Nghiên cứu xử lý thông tin:
- Đọc kỹ những nội dung có liên quan
đến bài nói. Phân tích, phê phán nội
dung. Nếu có thể, đọc tài liệu phản
diện để hiểu và phê phán những
quan điểm sai trái, nâng cao tính
chiến đấu của bài nói.
- Ghi chép tóm tắt những nội dung
phù hợp với bài nói theo cách hiểu
của bản thân.
- Trong thời đại bùng nổ thông tin
hiện nay trong cùng một thời điểm, về
một vấn đề có rất nhiều thông tin
khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau;
song, lựa chọn thông tin nào, lấy ở
đâu, lấy như thế nào là tuỳ thuộc vào
sự nhạy cảm và khả năng, trình độ
của từng báo cáo viên. Nghiên cứu xử
lý thông tin là quá trình "chuyển hoá"
tri thức của nhân loại thành kiến thức
của báo cáo viên.
c) Một số chú ý khi nghiên cứu, xử
lý thông tin:
- Đọc, đánh dấu, ghi chép, định hình
việc sử dụng những thông tin phù
hợp nhất, "đắt nhất" cho bài nói.
- Chọn lựa và sắp xếp tư liệu theo một
trình tự lôgíc, để hình thành đề cương.
- Tuyệt đối không sử dụng những tư
liệu không rõ nguồn gốc và những tư
liệu, tài liệu không chính thống.
- Bất kỳ tư liệu nào cũng phải được
cân nhắc kỹ lưỡng khi sử dụng và phải
phù hợp với nội dung và đối tượng
tuyên truyền.
- Các thông tin tuyên truyền tuyệt đối
không làm lộ bí mật quân sự, bí mật
đơn vị, bí mật quốc gia.
- Khi sử dụng những tài liệu mật,
những tài liệu lưu hành nội bộ, phải
chấp hành nghiêm quy chế bảo mật.
4. Xây dựng đề cương bài nói
Đề cương bài nói chính là dàn bài chi
tiết thể hiện mục đích, yêu cầu và
những nội dung cơ bản của bài nói;
là quá trình sắp xếp trên văn bản để
người báo cáo viên căn cứ vào đó
trình bày những vấn đề mình định
nói một cách đầy đủ, theo một trình
tự hợp lý. Đề cương không nên quá sơ
sài, cũng không cần viết đầy đủ các
nội dung lý lẽ cần trình bày, cũng
không được biến đề cương thành một
bài viết sẵn để đọc. Tuỳ theo khả
năng, phương pháp, thói quen của
báo cáo viên để xây dựng đề cương.
a) Yêu cầu của đề cương:
- Thể hiện được mục đích, yêu cầu,
nội dung cơ bản của bài nói.
- Bố cục, cách sắp xếp trên văn bản
hợp lý, phù hợp với cách riêng của
từng báo cáo viên.
- Đề cương phải có tính chất "mở", để
khi ta nói cho các đối tượng khác
nhau, có thể "gia giảm", "nâng lên"
hay "hạ xuống" cho phù hợp.
- Tùy từng chủ đề mà liên hệ với tình
hình đơn vị, địa phương địa bàn đóng
quân.
b) Cấu trúc đề cương:
- Mở đầu: giới thiệu làm quen; thông
báo nội dung trình bày; thông báo
thời gian và phương thức tiến hành.
Cần tự nhiên, ngắn gọn, hấp dẫn, lôi
cuốn người nghe.
- Thân bài: Là phần chính của đề
cương, là nội dung quan trọng nhất,
quyết định chất lượng bài nói. Cần đạt
được các yêu cầu:
+ Bố cục rõ ràng, kết cấu cân đối, chặt
chẽ.
+ Nêu bật được những luận điểm
quan trọng nhất, những luận cứ xác
đáng nhất và những luận chứng rõ
ràng nhất theo cách tư duy lôgic.
+ Liên hệ nội dung tuyên truyền sát
với đơn vị, địa phương địa bàn đóng
quân (nếu có).
- Kết luận: kết luận cần
ngắn gọn, gây được ấn tượng và có
sức cổ vũ.
5. Không gian, thời gian diễn ra buổi
nói chuyện
a) Không gian diễn ra buổi nói
chuyện
Không gian buổi nói chuyện có
thể diễn ra trong những trường hợp
sau đây:
- Trong phòng họp với vài chục
người nghe;
- Trong hội trường vài trăm
người nghe;
- Nói ở ngoài trời, dưới gốc
cây...
b) Thời gian diễn ra buổi nói
chuyện
- Nói chuyện vào sáng, trưa,
chiều, tối cũng tạo nên những thuận
lợi hoặc khó khăn cho việc truyền đạt
hoặc tiếp nhận thông tin. Người báo
cáo viên phải nghiên cứu kỹ thời gian
diễn ra bài nói để chuẩn bị phương
pháp nói chuyện cho phù hợp.
- Thời lượng của một buổi nói
chuyện cần phải được thống nhất
trước giữa báo cáo viên với cơ quan,
đơn vị tổ chức. Không nên nói quá dài
hoặc quá ngắn mà thực hiện đúng
thời gian theo kế hoạch đã đặt ra. Tuỳ
theo sự "đặt hàng" về nội dung và
thời gian để báo cáo viên xác định
thời lượng của một buổi nói chuyện.
PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY BÀI NÓI
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
Phương pháp tuyên truyền miệng là
khoa học về sự giao tiếp trực tiếp giữa
người nói với người nghe. Do vậy, kỹ
năng trình bày bài nói có ý nghĩa
quyết định đến kết quả nội dung
tuyên truyền miệng của người báo
cáo viên.
I. Một số cơ sở khoa học của bài nói
tuyên truyền miệng
1. Những vấn đề cần nắm vững khi
trình bày bài tuyên truyền miệng
a. Ngôn ngữ, văn phong bài nói
- Ngôn ngữ là phương tiện chủ yếu
của báo cáo viên, là yếu tố cực kỳ
quan trọng để thực hiện và nâng cao
chất lượng bài nói. Người báo cáo viên
phải có ngôn ngữ phong phú, trong
sáng để trình bày chính xác những
khái niệm, sự vật, hiện tượng và
những quan điểm, quan niệm, sự
kiện...
Trong tuyên truyền miệng, tiêu chuẩn
cơ bản của lời nói tốt bao gồm: tính
chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm
mỹ.
+ Tính chính xác: là sự thống nhất,
chuẩn xác trong những nội dung
thông tin, những tư liệu, sự kiện đã
được khẳng định. Tính chính xác còn
đòi hỏi báo cáo viên phải sử dụng từ
ngữ chính xác, diễn tả trung thành,
làm nổi bật vấn đề mà báo cáo viên
trình bày.
- Tính đúng đắn: ngôn ngữ của báo
cáo viên sử dụng phải được mọi
người thừa nhận và được coi là mẫu
mực bởi phù hợp bởi chuẩn mực
ngôn ngữ.
- Tính thẩm mỹ: đó là vẻ đẹp và sự
hấp dẫn của lời nói, làm tăng sự thích
thú của người nghe trên cơ sở những
ngôn từ có chọn lọc được sử dụng
chính xác, đúng đắn, phù hợp, văn
hoá... mà không hoa mỹ một cách
cầu kỳ, quá mức cần thiết, không phù
hợp với đối tượng.
Có được tiêu chuẩn lời nói đẹp, báo
cáo viên mới diễn tả ý tưởng của mình
một cách chân thành, sáng sủa, chính
xác và có sức thuyết phục người nghe.
b. Sử dụng tư liệu thực tế
- Sử dụng tư liệu thực tế trong bài nói
thể hiện tính thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, làm tăng tính cụ thể
trong nội dung tuyên truyền, làm cho
bài nói thêm sinh động, hấp dẫn và
thuyết phục người nghe. Tư liệu thực
tế được dùng để chứng minh, làm rõ
một luận điểm nào đó trong bài nói.
- Tư liệu thực tế phải bảo đảm chính
xác, chân thực, khách quan, phù hợp
với đề tài, đặc điểm, trình độ người
nghe và đặc biệt báo cáo viên phải sử
dụng một cách nhuần nhuyễn, đúng
lúc, đúng chỗ.
Tài liệu thực tế nó chỉ có sức thuyết
phục khi nó gần gũi, dễ hiểu, chính
xác, rõ ràng, đã được kiểm nghiệm
hoặc thực hiện trong thực tế cuộc
sống, phù hợp với nhận thức, những
chuẩn mực và thang bậc giá trị chung
của toàn xã hội.
Khi sử dụng tư liệu, dẫn chứng thực tế
để minh hoạ trong bài nói, báo cáo
viên cần bám sát đề cương, đồng thời
linh hoạt, tránh vận dụng cứng nhắc,
gượng ép. Điều cần chú ý là không sử
dụng tư liệu lặp đi, lặp lại trong một
bài nói, hoặc ở những đơn vị, đối
tượng mà mình thường báo cáo.
c. Sử dụng kênh phi ngôn ngữ
- Ưu thế đặc trưng của tuyên truyền
miệng là người tuyên truyền có thể sử
dụng kênh phi ngôn ngữ trong hoạt
động tuyên truyền. Nêú biết sử dụng
tốt, kênh phi ngôn ngữ không chỉ là
sự bổ sung mà còn làm nhân lên hiệu
quả của việc tuyên truyền.
- Kênh phi ngôn ngữ là các hoạt động
không dùng ngôn ngữ lời nói, mà đó
là tư thế, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, thái
độ, hành vi khi tiến hành tuyên
truyền.
- Yêu cầu của kênh phi ngôn ngữ là
phải tự nhiên, hợp lý, gắn với nội
dung và hợp với từng đối tượng, bối
cảnh tuyên truyền. Báo cáo viên cần
tránh "biểu diễn", "diễn kịch" khi
tuyên truyền làm cho tác dụng tuyên
truyền hạn chế, thậm chí phản cảm.
Việc kể chuyện vui gây hưng phấn,
làm cho buổi nói chuyện đỡ căng
thẳng là cần thiết, nhưng tránh "cù"
một cách gượng gạo, tếu táo, thô
thiển.
2. Những bước đi cụ thể của quá
trình trình bày bài tuyên truyền
miệng
Xây dựng đề cương bài nói là quá
trình chuẩn bị rất cần thiết được thực
hiện bằng ngôn ngữ viết. Trình bày
bài nói là quá trình tái hiện, phát triển
đề cương bài nói, được biểu đạt bằng
ngôn ngữ nói; là tiếp tục quy trình
tuyên truyền miệng, đồng thời nó là
giai đoạn "thu hoạch sản phẩm" của
một quá trình lao động nghiên cứu
khoa học mang tính nghệ thuật, thẩm
mỹ cao.
Quá trình trình bày bài nói, có thể
chia thành các giai đoạn: trước khi
nói, bắt đầu nói, trong khi nói và kết
thúc bài nói.
a) Trước khi nói:
- Xác định một lần nữa về nội dung.
Cần hình dung toàn bộ cấu trúc bài
nói, suy nghĩ về cách trình bày, có thể
tập nói nhỏ, nói thầm những nội
dung xác định là quan trọng. Đây là
vấn đề cần thiết, nhất là đối với
những báo cáo viên mới.
- Chuẩn bị kỹ về cá nhân, như trang
phục, đầu tóc...tư thế, tác phong và
chuẩn bị tâm thế, tinh thần.
- Chủ động sắp xếp thời gian, nên đến
sớm từ 10 - 20 phút để tiếp xúc với
cấp uỷ, chỉ huy đơn vị hoặc đối tượng
người nghe và tiếp cận hội trường. Có
thể điều chỉnh ánh sáng, âm thanh...
cho phù hợp, tạo thuận lợi khi thuyết
trình.
b) Bắt đầu nói:
Sự xuất hiện ban đầu của BCV phải
tạo được sự chú ý, gây thiện cảm đối
với người nghe, thông qua phong thái,
cử chỉ, nét mặt và lời nói phút ban
đầu của BCV. Lời mở đầu chớ nên
cường điệu; ngắn gọn, không dài
dòng; nói sao cho phù hợp hoàn
cảnh, đối tượng; bình tĩnh, tự tin
nhưng không chủ quan; không hấp
tấp, vội vàng khi bắt đầu nói chuyện.
Trong giai đoạn bắt đầu nói thường
diễn ra tình huống:
+ Người nói hồi hộp, xúc động, tim
đập mạnh, tay chân run... Hồi hộp là
một trạng thái xúc cảm tiêu cực, dẫn
đến hành động lúng túng, bị động,
không tự chủ của báo cáo viên.
Nguyên nhân của hồi hộp có nhiều,
cả chủ quan và khách quan và bất kỳ
báo cáo viên nào cũng có thể bị rơi
vào trạng thái này.
Cách khắc phục:
+ Hít thật sâu và thở ra từ từ vài ba lần
+ Làm một việc gì đó để thay đổi trạng
thái, như sửa lọ hoa, sửa micro, lau
kính...
+ Nhìn cả hội trường một lượt để tìm
kiếm những nét mặt quen thuộc để
gây thiện cảm, tìm sự thông cảm với
mình.
+ Nói thẳng với người nghe là mình
đang hồi hộp để tìm sự ủng hộ.
+ Cách khắc phục tích cực nhất là
chuẩn bị thật tốt nội dung bài nói, rèn
luyện khả năng tự tin, lòng dũng cảm
trước công chúng.
- Người nghe ồn ào, không chú ý, tập
trung. Trường hợp này xảy ra khá phổ
biến, báo cáo viên cần bình tĩnh, có
thể tạo ra sự bất thường gì đó để thu
hút mọi người tập trung. Ví dụ như:
nói thật to khi bắt đầu phát biểu hoặc
im hẳn để mọi người chú ý, hoặc chào
và chúc sức khoẻ để mọi người đồng
thanh vỗ tay... có nhiều cách để tập
trung sự chú ý của người nghe nhưng
sao cho hợp lý, cố gắng không phản
cảm.
- Người nghe ồn ào, tỏ thái độ phản
ứng, không đồng tình với người nói:
báo cáo viên cần bình tĩnh, tỏ thái độ
nhân nhượng bước đầu, rồi tìm cách
làm chủ diễn đàn, trình bày nội dung
nhẹ nhàng, thuyết phục. Tuyệt đối
không tranh luận tay đôi với số đông.
- Khi được chất vấn. Báo cáo viên phải
điềm tĩnh, không tỏ ra chủ quan, bối
rối, hấp tấp, vội vàng; nghe và nghiên
cứu thật kỹ nội dung chất vấn, nếu
chưa rõ hỏi lại; thái độ trân trọng, cởi
mở, cầu thị; trả lời rõ ràng, mạch lạc,
cụ thể; nội dung phải có căn cứ; có sự
thuyết phục cao; nếu không trả lời
được, hoặc người chất vấn chưa thoả
mãn nội dung trả lời của mình thì xin
phép được báo cáo lên cấp trên hẹn
được trả lời sau.
Để xử lý các tình huống trên tốt nhất,
báo cáo viên phải chuẩn bị thật tốt bài
nói, nắm chắc nội dung, có kiến thức
sâu rộng về lý luận và thực tiễn, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, chủ
động, xử lý linh hoạt.
c) Trong khi nói:
Khi trình bày bài nói, báo cáo viên
thực hiện sự truyền tải nội dung, tác
động đến người nghe thông qua hai
kênh thông tin, ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ. Kênh ngôn ngữ, là sử dụng tiếng
nói với ngữ âm, ngữ điệu, nhịp độ và
ngừng giọng của lời nói để truyền tải
nội dung.
- Ngữ âm là cường độ của âm thanh,
nói to, nhỏ phải phù hợp với hội
trường và đối tượng người nghe.
- Ngữ điệu thể hiện sự lên giọng,
xuống giọng cần thiết cho một câu,
không nói nhanh quá để "nuốt âm" ở
cuối câu.
- Nhịp độ thể hiện nói nhanh hay
chậm. Nói chung nên nói với tốc độ
vừa phải, không nên nói nhanh quá,
người nghe không kịp hoặc bị nuốt từ,
người nghe không kịp nhận biết nội
dung của câu nói.
- Ngừng giọng hoặc lặp lại những cụm
từ chủ yếu để tạo ấn tượng, tập trung
sự chú ý.
Kênh phi ngôn ngữ, là sự giao tiếp với
người nghe qua cử chỉ, ánh mắt, nụ
cười, nét mặt, đưa tay... để làm tăng
chất lượng của lời nói. Những hoạt
động này cần hết sức linh hoạt, được
diễn tả phù hợp và ăn khớp với nội
dung, không nên thái quá.
- Khi trình bày bài nói, báo cáo viên
phải chú ý đến bố cục của bài nói cho
cân xứng, tránh sa đà vào một nội
dung để "đầu voi, đuôi chuột", "cháy
giáo án". Khi phân tích, chẻ nhỏ vấn
đề cần chú ý đến "sự quay về" điểm
xuất phát, tránh "quên đường về",
không biết mình đang trình bày phần
nào của bài nói.
- Trên cơ sở nắm chắc, nhuần nhuyễn
đề cương; khi nói, BCV không quá
chăm chú nhìn vào đề cương để đọc,
nhưng cũng không được xa rời đề
cương, mà phải bám sát đề cương.
- Vừa nói vừa bao quát hội trường,
giao lưu với người nghe để gây ấn
tượng, tạo sự thân thiện với người
nghe, đồng thời qua đó BCV nắm bắt
sự phản ứng của người nghe để chủ
động điều chỉnh nội dung, phương
pháp trình bày cho phù hợp.
- Khi trình bày bài nói, có thể sử dụng
phương pháp diễn dịch hoặc quy nạp,
hay là sự kết hợp của cả hai phương
pháp đó. Song, phải đạt được yêu
cầu:
+ Nội dung phải rõ ràng, mạch lạc;
+ Nói đơn giản, tự nhiên, dễ nghe, dễ
hiểu, dễ nhớ;
+ Có thể dùng cử chỉ, điệu bộ để góp
phần miêu tả nội dung;
+ Tránh cách nói chữ, nói lấp lửng;
nói dài; nói bóng bẩy, cầu kỳ; nói lên
"gân"; nói theo kiểu đóng kịch;
nghiêm trọng hoá vấn đề...
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Tục
ngữ có câu: học ăn, học nói, học gói,
học mở. Nói cũng phải học, mà phải
chịu khó học mới được vì cách nói của
quần chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát,
rất thiết thực, mà lại rất giản đơn. Anh
em đi tuyên truyền chưa học được
cách nói đó, cho nên khi viết, khi nói
khô khan, cứng nhắc, không hoạt bát,
không thiết thực".
- Tiếng nói là "nhạc cụ" chính của báo
cáo viên, ta phải học cách sử dụng
"nhạc cụ" này đến mức thành thục để
khi "trình diễn" đạt hiệu quả cao
nhất.
Tiếng nói của người thường được chia
thành ba giọng: trung, cao, trầm.
- Giọng trung, thường dùng ở đầu bài,
khi giải thích, khi ta nói những quá
trình, sự kiện tương đối ít sôi nổi.
- Giọng cao, thể hiện những tình cảm
mạnh mẽ, lòng ham muốn, nhiệt tình,
sôi nổi, lôi cuốn.
- Giọng trầm, diễn tả cung bậc của
tình cảm khi buồn, hay những suy
nghĩ sâu xa, khi ta gợi ý cho đối tượng
tuyên truyền nhìn lại chính mình...
BCV cần khai thác, sử dụng hiệu quả
sự phong phú, đa dạng của giọng nói
góp phần làm nên sức sống, sự quyến
rũ của lời nói để truyền tải nội dung.
Ngôn ngữ nói rất giàu hình ảnh, màu
sắc, âm thanh, nhạc điệu, nếu BCV
khai thác triệt để đặc điểm đó sẽ tạo
nên sức mạnh truyền cảm của bài
nói.
Trong quá trình trình bày một bài nói,
BCV không nên nói một giọng đều
đều dễ làm người nghe buồn ngủ. Có
lúc nói nhanh, có lúc nói chậm, lúc
trầm, lúc bổng; có lúc êm như tiếng
suối, có lúc hùng dũng như thác đổ
để cuốn hút người nghe, mới tạo nên
hiệu quả cao trong tuyên truyền. Đó
là một vấn đề mang tính nghệ thuật,
phải qua rèn luyện thường xuyên mà
thành.
Khi trình bày bài nói, báo cáo viên
phải sử dụng từ ngữ chính xác, đòi
hỏi BCV phải có nhiều vốn từ trong
"kho" của mình. Không nói ngọng,
nói lắp, nói nhịu. Trong quá trình
trình bày có thể sử dụng các câu kinh
điển, văn, thơ...nhưng phải trúng,
đúng, sát vấn đề sẽ góp phần làm
tăng sự hấp dẫn, lôi cuốn, thuyết
phục người nghe, nhất là với đối
tượng hạ sĩ quan, binh sĩ, lứa tuổi
thanh niên.
- BCV phải thể hiện sự tin tưởng tuyệt
đối của chính bản thân mình vào vấn
đề BCV đang trình bày. Người nói
không có niềm tin thì không thể
truyền thụ để xây dựng niềm tin cho
người nghe được. Sao cho, sau buổi
nói chuyện, người nghe "niềm tin
tăng thêm, nỗi lo vơi đi"
d) Kết thúc bài nói:
Nên kết thúc đúng giờ. Tránh kéo dài
thời gian so với dự kiến hoặc kết thúc
quá sớm; nên kết thúc sớm hơn từ 5
đến 7 phút, như vậy đáp ứng tốt hơn
tâm lý người nghe. Trước khi ngừng
nói, báo cáo viên cần khái quát lại
toàn bộ nội dung chính của bài nói
một cách ngắn gọn, trên cơ sở đó rút
ra kết luận, định hướng tư tưởng,
hướng dẫn hành động cho người
nghe.
Trước khi rời diễn đàn, báo cáo viên
cần cảm ơn người nghe đã theo dõi,
cổ vũ, xin lỗi những sơ suất (nếu có),
chúc sức khoẻ, tạm biệt và hẹn gặp lại
người nghe trong các nội dung tuyên
truyền mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà
tuyên truyền vĩ đại và là tấm gương
mẫu mực về công tác tuyên truyền
miệng. Người yêu cầu" tất cả cán bộ,
đảng viên, hễ những người tiếp xúc
với quần chúng đều là người tuyên
truyền của Đảng. Vì vậy, ai cũng phải
học nói, nhất là học nói cho quần
chúng hiểu".
Để trở thành một báo cáo viên
tốt cần ra sức rèn luyện, tu dưỡng
phẩm chất đạo đức cách mạng,
thường xuyên học tập trau dồi kiến
thức, tích luỹ kinh nghiệm thực tế,
nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ
năng viết và nói để hoàn thành xuấ
sắc nhiệm vụ tuyên truyền.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com