Mùa thu năm ấy, Cúc đi lấy chồng. Cưới xin vốn là chuyện hệ trọng của đời người con gái, vậy mà với thị lại nhẹ như không. Không chạm ngõ, không ăn hỏi, cũng chẳng có lễ cưới nào hết. Nhà trai chỉ việc nộp cheo cho làng thị rồi chọn ngày đưa thị về, bởi thị chỉ là phận lẽ.
Với Cúc, làm lẽ chẳng phải chuyện gì ghê gớm lắm, bởi từ nhỏ thị đã nghe đàn bà trong làng kháo nhau rằng sinh ra là phận gái mà lại nghèo rớt mồng tơi, nếu muốn thoát khỏi cảnh khốn khó thì chỉ có hai con đường. Một là hầu hạ trong nhà quyền quý, hai là làm lẽ cho người. Làm lẽ, tuy tủi tuy hèn nhưng bớt phải chịu khổ, chỉ cần sinh được con trai là sẽ có tương lai. Bao người con gái nghèo trong làng cũng ôm mộng đổi đời như thế.
Ngày cuối cùng ở nhà mẹ đẻ cũng lặng lẽ như chính phận hèn mọn của thị. Tối hôm ấy, hai chị em Cúc không trải chiếu dọn mâm ở ngoài sân mà ngồi quây quanh giường mẹ, nghe mẹ dặn trước lúc chia xa. Bà Thi dặn dò con gái đủ điều, tựu trung vẫn là những việc đàn bà phải làm và không được làm từ muôn đời nay. Phải, là phải hết mực chiều chuộng, chăm lo cho chồng, phải phục tùng vợ cả để cùng nhau gánh vác giang sơn nhà chồng, phải sinh cho chồng con trai nối dõi. Không được, là không được làm những chuyện trên bộc trong dâu, không được sinh thói ghen tuông, không được lấn lướt vượt quyền vợ cả, không được chống lại chồng dù chồng đối xử với mình thế nào đi chăng nữa...
Đàn bà, nhất là đàn bà làm lẽ, suy cho cùng cũng chỉ để vậy thôi.
Đêm đã khuya, bốn bề yên ả, chỉ còn hai chị em Hạo thao thức vì những nỗi niềm riêng. Cúc hạ giọng nói khẽ để khỏi đánh thức mẹ đang ngủ say trong màn: "Từ giờ trở đi, mẹ không thể cấm em vào bếp nữa."
Đúng là như vậy. Cúc đi lấy chồng rồi, gian nhà nhỏ này chỉ còn lại bà Thi và cậu con trai. Bà Thi đau ốm liệt giường không thể cáng đáng chuyện bếp núc, vậy nên việc nấu ăn sẽ do cậu đảm nhiệm. Cậu có thể thoải mái ra vào bếp rồi đụng vào nồi niêu mà không cần rón rén qua mặt mẹ như trước nữa.
Song cậu không lấy đó làm mừng, bởi lòng cậu đang ngổn ngang những nỗi niềm không thể gọi tên. Từ mai cậu được thoải mái ra vào xó bếp đấy, nhưng cũng phải chia xa để chị Cúc về nhà chồng. Gian nhà này sẽ chỉ còn lại cậu và mẹ, mâm cơm sẽ không bao giờ đủ đầy như xưa. Dẫu biết đó là chuyện đương nhiên mà bao con người trên cõi đời này đều phải trải qua, lòng cậu trai đôi chín đa sầu đa cảm vẫn không khỏi trĩu nặng.
Cúc nhìn em mình lặng thinh rồi nhìn nền trời tím thẫm như vỗ về cõi lòng thầm kín của con người, lần đầu tiên, thị thử bộc bạch những gì mình nghĩ: "Thật ra... trước đây chị không thích em, còn cho rằng em là đứa dở người."
Từ bao giờ Cúc lại có suy nghĩ ích kỉ nhường ấy? Có lẽ là khi thị lên bảy, phải làm đủ chuyện từ quét sân, trông coi vườn tược đến lặn lội ngoài đồng bắt con tôm con tép, nấu nướng cho cả nhà, trong khi thằng em chẳng kém thị là bao lại được mẹ ngày đêm ẵm bồng, còn được ngồi thúng, ăn bánh đa theo mẹ đi chợ. Cũng có thể là khi thị bị đòn roi vì để em trai vào bếp nấu cơm giúp mình. Rõ ràng là nó muốn giúp, chân nó tự bước vào bếp, tay nó tự chạm vào nồi niêu, vậy mà người chịu đòn lại là thị. Thị ức lắm.
Rồi thị lại thấy khó hiểu. Sinh ra là con trai thì sướng thế đấy. Được ăn ngon ngồi trước, không phải đụng tay vào đủ thứ chuyện trong nhà, lại còn được mẹ dành cho những điều tốt nhất. Không như thị. Thị ghét xó bếp chật chội, ghét củi lửa làm cay đôi mắt, ghét nồi niêu bát đũa bẩn chất đầy ngoài sân. Ấy vậy mà cậu em thị lại nhìn thị bằng ánh mắt đau đáu, thỉnh thoảng lại trốn mẹ theo thị vào bếp, ra sân, giúp thị nấu món này, rửa chỗ bát đũa kia. Cậu bảo: "Việc nhà là việc chung, để em làm cùng chị, nhưng đừng mách mẹ nhé."
Rồi dần dà, thị cũng thấy được nỗi khổ của cậu em. Hạo thích bếp như thị thích sách, cậu thích nấu như thị thích đọc. Những lần cậu lẻn vào xó bếp nấu nướng, bà Thi lại lôi cậu ra giảng giải rằng đó là chuyện vặt của đàn bà, còn đàn ông thì phải nhìn xa, nuôi chí lớn. Những lúc như thế, cậu trai nhỏ ỉu xìu như cọng bún thiu, giống hệt thị khi bị bắt quả tang đọc trộm sách của thằng cu nhà hàng xóm.
Hoá ra thị và em thị đều chẳng giống ai. Sinh ra là đàn ông mà lại thích nấu nướng, thân là đàn bà mà lại ham sách vở. Hoá ra thị và em thị đều khổ, nỗi khổ của những kẻ dở người.
Trong đêm khuya yên ắng, giọng cậu trai đôi chín khe khẽ vang lên, pha giữa thanh âm trong vắt của tuổi mới lớn và đôi chút trầm khàn của người trưởng thành: "Em biết chứ. Em không trách chị."
Trời không ban cho Hạo dáng vẻ cao lớn có thể gánh vác cả bầu trời, không ban cho cậu tài trí hơn người để tiến xa trên con đường thi cử vào triều làm quan. Cậu chỉ có đôi mắt lẳng lặng quan sát nhân tình thế thái, ghi lòng tạc dạ những điều chẳng mấy ai hay. Ngay từ bé, cậu đã cảm nhận được sự khác biệt rõ ràng giữa đàn ông và đàn bà, đã thắc mắc rằng sao lại có sự chênh lệch nhường ấy. Ngay từ bé, cậu đã thấy được nỗi khổ của mẹ và chị, cũng biết rằng mình không phải đứa con trai mà mẹ mong muốn. Ngay từ bé, cậu đã cảm thấy nỗi cô đơn quanh quẩn bên mình, cõi lòng dần dần lắng lớp cặn chẳng thể nào giãi bày cùng ai.
Cậu không trách mình khác người, không hờn vì chị coi mình là kẻ dở hơi, càng không thể oán mẹ vì bắt mình làm theo những điều mẹ muốn. Cậu hiểu ai cũng có nỗi khổ riêng, và xét đến cùng, những gì họ làm đều đúng với đức tin của mình.
Lời ít mà ý nhiều, hai chị em ít nhiều đều hiểu được cõi lòng của nhau. Cúc thủ thỉ bên tai em, giọng chưa bao giờ dịu dàng đến thế: "Chị đi lấy chồng rồi, gánh nặng của cái nhà này sẽ đè hết lên vai em. Chẳng bằng em tìm người nào đó về sống chung, nên vợ nên chồng, đỡ đần nhau lúc khốn khó", ngừng một lát, thị lại nhìn em mà hỏi: "Bây giờ mẹ gả chị cho người ta rồi, bao giờ đến lượt em lấy vợ đây?"
Bao giờ thì đến lượt em lấy vợ?
Cậu lặng thinh. Chẳng hiểu sao lớp cặn dưới đáy lòng lại dày thêm một ít, lồng ngực bỗng chốc đau âm ỉ.
***
Trong làng có việc, ngoài đình bày sẵn cỗ bàn với đủ thịt cá, bánh trái, xôi oản. Chỉ các cụ cao tuổi hoặc các vị có chức sắc, tiếng tăm trong làng mới được mời đến đình dự tiệc, trong đó có thầy Thanh. Hôm ấy y không dạy học, vẫn một thân áo mũ chỉnh tề chuẩn bị đi ăn cỗ làng. Lúc đi ngang qua nhà cậu trai tên Hạo, y thấy cậu đang cầm chút phần mà làng chia cho, hình như là một đĩa xôi và một miếng thịt cả mỡ cả nạc.
Y dừng lại, rất tự nhiên mà hỏi: "Cậu không đi ra đình dự cỗ làng ư?"
Nghe thấy tiếng y gọi, cậu trai đôi chín mới ngẩng đầu, nhìn y như thể nhìn đứa trẻ kém trí đang nói nhăng nói cuội: "Thầy cứ đùa, phận tôi làm gì có phúc được chung mâm với các cụ trong làng. Được nhiêu đây phần đã là may lắm rồi."
Lời này của cậu không phải là khách sáo. Từ khi Cúc đi lấy chồng, gánh nặng mưu sinh đè hết lên đôi vai cậu. Đã gần nửa tháng trời nhà cậu chưa có một mâm cơm ra hồn, may mà nay làng có việc, có người chia phần cho. Nếu biết liệu độ, ắt hẳn miếng thịt này cũng đủ để mẹ cậu ăn vài bữa.
Thầy Thanh gật đầu theo thói quen. Dẫu bị cậu nói thế, y vẫn chẳng hề xấu hổ, cứ thản nhiên hỏi han thêm đôi câu rồi mới thong thả đi về phía đình làng.
Đêm, sương rơi đầy. Trên nền trời ngả màu tím thẫm, trăng thu vén mây trông xuống hạ giới, trong cái vẻ viên mãn tròn đầy đã có mầm mống của sự lụi tàn. Đã lâu rồi thầy Thanh không sang nhà Hạo ăn ké, phần vì cậu không mời, phần vì y lười không mò sang. Dù sao thì với chuyện ăn uống, y cũng chẳng ham thích như mọi người. Nhưng y không sang, cậu lại chủ động tìm gặp.
Cổng nhà bằng gỗ vang lên ba tiếng gõ khe khẽ. Thầy Thanh cứ thế ra mở cửa, chẳng hề phân vân hay nề hà. Đúng như y nghĩ, người gõ cửa là cậu trai trẻ nhà bên. Trong đêm tối, chỗ da không bị lớp áo nâu non che khuất càng trắng đến chói loà, đôi mắt sáng rực như ánh sao lấp lánh trên nền trời tím than.
"Vào nhà ngồi đi." Y nói.
Nhưng cậu lắc đầu. "Thôi khỏi. Ngồi ngoài này là được rồi."
Thế là cả hai cứ ngồi lặng thinh trên sập gỗ dưới hiên nhà. Hạo là người mở lời trước: "Đêm hôm khuya khoắt, làm phiền thầy rồi."
Y đáp: "Không phiền, nhưng cậu sang đây là để..."
"Để tìm người tâm sự." Cậu tiếp lời. "Vì tôi... cô đơn."
Thanh giật mình. Đêm nay yên ả quá, không gió, không mưa nên giọng cậu trai trẻ vang lên rõ mồn một, rành mạch như tiếng ai khua mái chèo khuấy động cả lớp cặn nơi đáy nước.
Hạo đã quen với cô đơn từ rất lâu rồi. Thầy thấy lạ đúng không, cậu hỏi người đàn ông ngồi bên như thế rồi tự trả lời. Cậu không phải đàn bà chờ chồng ra trận trở về trong vô vọng, cũng không phải người vợ cả buồn tủi vì đêm nay chồng chung chăn chung gối với kẻ khác. Cậu chỉ là một đứa trẻ chưa nếm đủ vị đời, biết gì mà cô đơn? Vậy mà cô đơn lại hiện hữu trong cõi lòng cậu từ tấm bé. Bởi cậu là đứa dở người, toàn nhìn những điều không ai thấy, thắc mắc những gì không ai để tâm, trăn trở những nỗi niềm không tiện giãi bày với ai khác, kể cả mẹ, cả chị. Mẹ không hiểu cậu, chị Cúc cũng thế. Họ không cần quan tâm cậu nghĩ gì, bởi đàn ông thì không được phép tỏ ra yếu đuối hay thể hiện cảm xúc của mình. Không được phép thích nấu nướng, không được phép ủy mị, không được ngồi lê đôi mách, tỉ tê tâm tình như đàn bà. Không được thế này, không được thế kia. Xét về khía cạnh nào đó, đàn ông cũng có nỗi khổ riêng như đàn bà, cậu bảo thế.
"Vậy tại sao cậu lại nói với tôi những điều này?" Y hỏi.
Vì thầy là thầy Thanh. Ngay từ lần đầu nhìn thấy y, cậu đã biết y cũng như mình, cũng khác với mọi người xung quanh. Thoạt nhìn như y quan tâm đến tất cả, chịu lắng nghe mọi thứ người khác nói nhưng thực chất lại thờ ơ, chẳng để thứ gì trong lòng. Cậu thích cũng được, mà ghét cũng thế, vui thì tốt, mà buồn thì cũng chẳng liên quan gì tới y. Y là người như vậy, tưởng gần mà hoá xa, tưởng như đang sánh bước bên cậu mà hoá ra chỉ là người dưng nước lã, đứng ngoài mà trông vào xem kịch.
Người như thế sẽ sẵn lòng lắng nghe mọi câu chuyện cậu nói, và sẽ không bao giờ phản bội cậu.
Nghe cậu nói vậy, y bần thần một hồi. Quen nhau chưa lâu, vậy mà cậu trai mới đôi chín này đã nhìn thấu được một góc của con người y, xuyên qua màn sương mờ mà nhìn những gì người thường không thể thấy.
Trong lúc cả hai thinh lặng với những ý nghĩ riêng, bụng dạ cậu trai ngồi trên sập gỗ cũng góp đôi lời. Mặt Hạo đỏ au, còn thầy Thanh thì ung dung hơn, bảo: "Cậu ngồi chờ tôi một lát", rồi vào nhà lục lọi. Y không nấu ăn, đương nhiên sẽ không còn cơm thừa canh cặn, chỉ có nải chuối chín đặt trên bàn thờ là có thể bỏ bụng. Tay cầm nải chuối, tiện thể lấy thêm áo khoác cho cậu trai ngoài hiên. Y không phải kẻ cục mịch, vẫn để ý rằng thỉnh thoảng đôi vai cậu lại run lên khẽ khàng vì đêm thu đẫm hơi sương.
Tai đã nghe thấy tiếng bước chân ai đó bên thềm nhưng vẫn giật mình vì tấm áo thơm mùi trầm đột ngột phủ lên vai, cậu vội đáp: "Tôi không sao, thầy cứ mặc đi."
"Tôi không lạnh." Y vừa nói vừa để nải chuối chín vàng lên sập gỗ. "Nhà tôi chỉ còn thứ này là ăn được. Cậu dùng tạm."
Cậu bật cười, thử đoán: "Đừng nói với tôi là nải chuối này cũng do người nhà học trò thầy biếu nhé."
Ấy vậy mà y lại gật đầu. "Phải đấy. Mọi người trong làng biếu tôi rất nhiều đồ, mà tôi lại ăn không hết." Ngừng một lát, y lại hỏi: "Cậu ăn cơm tối chưa?"
Ráng hồng trên má cậu trai đôi chín đã biến mất từ bao giờ. Quen với người láng giềng này một thời gian, cậu không còn ngại ngùng như trước, bèn bảo: "Tôi ăn rồi, nhưng không đủ no." Từ khi chị Cúc đi lấy chồng, gánh nặng của cả cái nhà này đè lên vai cậu. Cậu phải chi tiêu dè sẻn hơn, để thêm vài xu lẻ mua thuốc cho mẹ, cậu phải bấm bụng nhịn ăn. Với cậu, thà trằn trọc đêm hôm vì đói còn hơn là phải nghe tiếng ho xé gan xé phổi của mẹ.
Lòng hiếu thảo của Hạo dành cho mẹ cậu, không phải thầy Thanh không biết. Đó là một nét đẹp nơi cậu và cũng là điều y không tài nào hiểu nổi: "Con người ta có thể hi sinh nhường ấy chỉ vì là máu mủ ruột rà ư? Đó chính là tình mẫu tử mà người ta thường hay nói?"
Nghe thấy thế, cậu không khỏi giật mình. Lời y nói quá mức lạ lùng, cứ như thể y không phải là con người, không phải phận con cái, không có cha mẹ vậy. Nhưng rồi nhìn mấy gian nhà trống không, nhớ đến tháng ngày lẻ loi của y tại làng này, cậu trộm đoán rằng gia đình y không hạnh phúc. Có lẽ là thầy u không còn, đành một thân một mình tha hương kiếm sống, hoặc giả là từ bé sống với cha dượng mẹ ghẻ, không được yêu thương chiều chuộng như bao đứa trẻ khác trên cõi đời này. Nghĩ thế, cậu mủi lòng, trả lời một cách chân thành nhất: "Vì mẹ là mẹ của con, và con là con của mẹ. Mẹ hi sinh tất thảy vì con, con cũng có thể làm mọi điều vì mẹ. Đơn giản vậy thôi. Tôi nghĩ, đó là bản năng của con người."
Có ai dạy bậc cha mẹ phải thương con, phận con phải yêu kính cha mẹ như người ta dạy con trẻ đôi chữ? Không. Đó là bản năng của con người. Cậu cũng thế. Từ ngày còn thơ bé, hình ảnh người mẹ tảo tần đã in sâu trong kí ức của cậu. Đó là người mẹ thấp bé mà gánh gồng cả hai đứa con thơ đi qua cuộc đời chòng chành, đó là người mẹ gầy gò chịu thương chịu khó, chắt chiu nhịn nhục để đàn con có miếng ăn bỏ bụng. Sớm, mẹ gánh thóc gánh gạo lên chợ huyện. Chiều, mẹ gánh nước gánh củi về nhà. Những dịp ăn cỗ làng xa, mẹ thủ sẵn lá chuối gói mấy miếng thịt làm phần cho con. Mẹ là người như thế.
Bởi vậy, cậu có thể quay lưng với tất cả mọi người, nhưng không tài nào bỏ ngoài tai lời mẹ nói. Cậu không sợ mình khác người, chỉ tự trách bản thân vì không trở thành đứa con trai mà mẹ mong ước. Bao ước vọng mẹ gửi gắm nơi cậu đổ sông đổ bể hết cả.
Cậu nhắm mắt lại, thôi không nghĩ nữa. Người ngồi bên vẫn lặng im như thế, kiên nhẫn đợi cậu bình tĩnh trở lại. Sự thinh lặng ấy như màn đêm mùa thu, dịu dàng vỗ về cõi lòng gợn sóng của cậu. Để rồi khi mở mắt ra, ao thu lại trở về vẻ bình lặng vốn có.
Nói ra một phần ý nghĩ trong lòng, cậu cũng thấy thoải mái hơn. Trước đây cậu nghĩ mình đã quen với cô đơn, rằng giấu kín mọi tâm tư dưới đáy hồ yên ả cũng không sao cả, nhưng cậu biết mình lầm rồi. Hoá ra cậu vẫn luôn khao khát được giãi bày, được tỏ lòng, vẫn luôn kiếm tìm một người sẵn sàng lắng nghe những điều mình nói.
Và người ấy, có lẽ chính là thầy Thanh.
Trở về thực tại, cậu nhìn mấy gian nhà trống không của y, lựa lời góp ý: "Thầy cũng nên thuê vài người ở trong nhà đi. Cần có người cáng đáng chuyện nhà cửa, với lại..." Cậu nhìn y. "Thầy không thấy cô đơn ư?"
Mặt trăng tròn vành vạnh bị mây trời che khuất. Giữa màn đêm sâu thẳm, dưới ánh trăng khi tỏ khi mờ, gương mặt đẹp như tượng tạc của người đàn ông trước mặt cứ như bị bao phủ bởi một làn sương, thành thử cậu không nhìn ra cảm xúc của kẻ ấy. Cậu chỉ nghe giọng y truyền đến như vọng lại từ cõi mộng xa xăm nào đó, hững hờ như thể đang nói một điều chẳng liên quan gì đến mình: "Tôi quen rồi."
Cậu có tin vào định mệnh không? Không rõ nữa. Chỉ là trong khoảnh khắc ấy, cậu bỗng nghĩ rằng tất cả là do ông trời sắp đặt, rằng nỗi cô đơn trong mười mấy năm qua của cậu gom góp lại, chỉ chờ để đổi lấy lần gặp gỡ này thôi. Cậu gặp y, như linh hồn lẻ loi tìm thấy một nửa còn lại, như kẻ đơn côi gặp được tri kỉ của đời mình.
"Từ giờ thầy đừng ăn cơm một mình nữa, sang nhà dùng bữa cùng tôi đi. Chỉ là thêm bát thêm đũa thôi, thầy đừng ngại."
"Cậu yên tâm, tôi không ngại."
"Thỉnh thoảng tôi lại muốn tìm ai đó để trò chuyện những khi thanh vắng, thầy không phiền chứ?"
"Đương nhiên là không." Y mỉm cười. "Rất sẵn lòng."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com