Chương 09. Cung thành
Sau bữa tối, Từ Diễm trở về An Nhàn cư để ba người con từ từ trò chuyện. Lão bộc A Nô bưng chậu nước vào, quỳ gối hầu hạ hắn cởi giày ngâm chân. Lão vừa bấm huyệt gan bàn chân của gia chủ vừa rù rì nói: "Lão gia cho phép Công tử Quán tòng quân thật sao?"
Từ Diễm đang nhẩm niệm Bát Nhã Tâm Kinh, lơ đãng hỏi ngược lại: "Lão theo ta đã nhiều năm, lão cảm thấy ta sống như thế nào suốt mươi năm qua?"
A Nô nghĩ ngợi chốc lát rồi trả lời: "Lão gia ôn hòa khiêm nhượng, tiết độ giữ mình, bao nhiêu năm nay chỉ một lòng dạy dỗ các công tử, chưa bao giờ có ý định tục huyền* hay cưới thiếp, thật là một người hiếm có."
* Đi bước nữa (từ cũ, dùng cho nam).
"Nói trắng ra là an phận thủ thường, không chí tiến thủ." Từ Diễm bật cười: "Có tấm gương của người làm cha như vậy chỉ tổ làm bọn trẻ dần nông cạn đi. Nếu chỉ vì ta bo bo giữ mình mà chúng không dám ra khỏi nhà để mở rộng tầm mắt thì đời này ta làm cha quá thất bại rồi."
A Nô rút chiếc khăn vắt trên vai lau khô bàn chân cho hắn rồi đặt vào giày, bảo: "Lão gia nói quá lời."
"Trong cả ba, A Lương có lẽ là đứa làm ta an tâm nhất. Dù nó hay lêu lổng khắp nơi nhưng mắt nó sáng, biết nhìn đồ vật, lẫn biết nhìn người; lòng nó thiện, không ba hoa chích chòe mà biết tìm tòi suy nghĩ, chịu làm và cũng không sợ làm sai. Cái duy nhất nó thiếu là động lực. Tuyển Nhi nhút nhát nhưng biết rõ mình thích cái gì, muốn cái gì. Còn A Quán thì từ nhỏ đã ra dáng con trưởng, luôn cố gắng san sẻ nỗi lo với ta; vì vậy, nó là đứa dễ bị ta kìm chân nhất.
Từ Diễm với tay lấy cái lược trong hộc tủ chải lại phần đuôi tóc, thở than: "A Quán quá gò bó bản thân, bất cứ lúc nào cũng ráng làm thay cho phần ta quên sót. Ta biết nó có chí. Cha mẹ A Quán sinh thời đều là bậc trí dũng, ta không đành lòng để nó cúi đầu chịu đựng, nhìn sắc mặt người khác mà lãng phí tuổi trẻ trong cung thành. A Quán là người Tây Bắc, người của núi non cũng giống như chim ưng vậy, phải tung cánh bay thật cao thật xa thì mới vui vẻ."
Hắn nhìn về hướng tiền sảnh, dường như có phần xao xuyến không đành lòng, sau đó cởi áo ngoài máng lên giá rồi lên giường nằm. A Nô gỡ hai tấm màn xuống che lại bên trong, thổi tắt nến, thẽ thọt ra ngoài khép cửa lại.
.
Bóng đêm vây tòa thành trong tấm màn trang nghiêm trầm mặc. Tại các cung điện, hễ đến giờ là đèn đuốc không còn phục vụ cho chủ nhân phải được tắt hết. Dù là hoạn quan chưởng sự, song Tiêu Tử Tô cũng chỉ có thể vay mượn ánh trăng rọi vào phòng để xem kinh sử. Bỗng có tiếng gõ vào vách cửa, trên tấm giấy dầu phác ra cái bóng thướt tha của Hành Chi, "Tiêu công công, điện hạ sai tôi gọi anh đến cầm đèn cho người."
"Cô đợi một chút, tôi sửa soạn." Tử Tô gấp sách lại, nhanh chóng chải đầu thắt lưng rồi đi theo Lê Hành Chi.
Bên kia bức bình phong, gian trong của thư phòng Đông cung nổi lên một quầng sáng lợt lạt như áng mây chiều. Giữa những gác sách và cuộn thẻ tre, Thái tử đang ngồi ngay ngắn trên cái sập ghép từ gỗ hoàng lê; trên mình khoác tấm áo bằng lụa mà vạt trái dở trên, vạt phải dở dưới vì không được vén cho đàng hoàng. Trước mặt y là một tờ giấy trắng trải trên chiếc bàn được đóng cùng một bộ gỗ hoàng lê chạm trổ quý phái.
Lưu Dung vẫy Hành Chi đến hầu hạ mực bút, Tử Tô cũng biết ý cầm đèn đến soi. Y nói với gã: "Thời gian này ta bận rộn chính sự, suýt thì quên hai đứa Lưu Cơ, Lưu Lăng sắp tới đây. Ngươi là người tinh ý, tả xem mùa này nên vẽ cảnh nào cho hai đứa nó?"
Tử Tô nghĩ ngợi rồi ngâm một đoạn thơ cổ: "Lác đác rừng phong hạt móc sa; ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm; mặt đất mây đùn cửa ải xa*. Hai vị hoàng tôn (cháu vua) đi thuyền từ Duyên Hà về kinh đô, ngắm được vẻ đẹp núi rừng ven bờ thay lá, vẽ cảnh này là hợp nhất."
* Trích "Thu hứng kỳ 01" của Đỗ Phủ, bản dịch trên thuộc về Nguyễn Công Trứ.
"Hay." Lưu Dung gật đầu khen ngợi, trầm ngâm hồi lâu rồi vén tay áo đặt bút vẽ nên một bức tranh thuyền rẽ sông dài sóng gợn, lá phong điểm sắc ven bờ, men thân thuyền khói suốt lượn lờ; đường nét có cứng có mềm, màu sắc có đỏ có xanh, bút tích sinh động tài tình. Y vẽ ngót hai canh giờ, sau đó đưa bút cho Hành Chi đi rửa, nâng chén trà nói: "Lần cuối ta gặp Lưu Cơ là tất niên hai năm trước, không biết bây giờ nó thế nào rồi, có còn thích bình thơ tranh với ta nữa không?"
Tử Tô không đáp lại, khuyên nhủ: "Điện hạ có lòng suy nghĩ cho hoàng tôn thì cũng nên thương lấy mình. Tranh này cứ giao cho nô tài bảo quản, đêm đã khuya lắm, hãy để Hành Chi hầu hạ người nghỉ ngơi đôi chút."
Đúng lúc đó, tiếng mõ báo canh năm văng vẳng vọng vào. Lưu Dung xoa mí mắt, gật đầu nói Hành Chi sửa soạn kháng giường ở bên hông thư phòng để y ra đó nằm nghỉ. Tử Tô hầu y tháo tóc, cởi đai lưng; rồi Hành Chi đưa y về kháng giường đã trải đệm chăn.
Sau khi chủ nhân vào giấc, bọn họ ra gian trước thư phòng ngồi nghỉ trên hai tấm đệm bọc nhung. Tiêu Tử Tô nói: "Cô cũng về phòng nằm đi, để tôi trực nốt đêm nay rồi đánh thức điện hạ."
Hành Chi lắc đầu, hỏi: "Buổi chiều tôi nghe bảo bên bộ Hình có lục đục gì đó mà chưa kịp hỏi anh, chẳng lẽ vụ việc thích khách xuất hiện bất trắc gì?"
Tử Tô trấn an cô, trả lời: "Không có gì đáng ngại. Chỉ là trong lúc dụng hình thẩm vấn phạm nhân, tên đó dám nguyền rủa Hiếu Linh Hoàng hậu, bị điện hạ giết rồi."
"Chuyện này mà không đáng ngại?" Cô kinh hãi thì thào: "Bệ hạ phản ứng thế nào?"
"Bệ hạ chỉ quở trách và phạt bổng lộc (tiền lương) của quản ngục và những người có ở đó vì đã không khuyên can điện hạ."
Lê Hành Chi chắp tay lẩm bẩm 'tạ ơn trời đất' rồi không dám nói thêm gì nữa. Tử Tô lại khuyên cô đi nghỉ nhưng cô bảo: "Chẳng bao lâu nữa là phải dậy rồi, giờ tôi về phòng cũng chẳng thể ngủ nổi. Thà ngồi đây ghé vào sập mà nhắm mắt còn hơn."
Nói rồi cô chỉnh lại tấm đệm, nghiêng mình dựa vào cái sập gần bên để nghỉ. Đêm thu se lạnh, ánh trăng bợt bạt rơi xuống như một lớp bụi phủ đầy đất, Tiêu Tử Tô hơi co ro. Mấy lần gã có ý muốn đứng lên đi nhìn qua chủ tử một cái nhưng đều kìm lại được.
Tiêu Tử Tô vốn tên Tiêu Băng, từ nhỏ đã bị cha mẹ bán vào cung làm hoạn quan. Sau khi làm quen với các quy tắc và lễ nghi, gã được phân đến ngự uyển làm công việc chăm sóc cây cỏ và quét dọn đài gác. Theo quy tắc thì tất cả nội thị bắt buộc phải lui xuống ngay khi biết có chủ tử đến thăm vườn ngự, song hôm đó có lẽ do quá mê mẩn một gốc Ngu mỹ nhân* nên Tiêu Băng không nghe thấy tiếng thông báo. Nó cứ ngồi ngắm gốc cây cho tới khi bị một tiếng quát làm giật nảy, bấy giờ mới thấy một hoạn quan áo gấm đai ngọc đứng trước mặt.
* Anh túc đỏ, còn gọi là Ngu mỹ nhân, thuộc họ Anh túc, có hình dáng và tập tính giống hoa anh túc nhưng Ngu mỹ nhân không có chất gây nghiện; toàn bộ thân cây có thể làm thuốc. Loài hoa này mang ý nghĩa tưởng niệm những binh sĩ ngã xuống trên chiến trường.
Ở phía sau lão vài bước là một thiếu niên quý phái đẹp đẽ. Y bình thản nói lão lui xuống rồi chỉ vào gốc Ngu mỹ nhân mà bảo: "Nếu ngươi kể lại được câu chuyện của đóa hoa kia thì ta sẽ tha tội cho ngươi."
Đấy là một câu hỏi khó, bởi vì trong bọn làm vườn chẳng có mấy đứa là biết chữ nghĩa chứ đừng nói là biết điển cố của một loài hoa đặc biệt như vậy. Nhưng Tiêu Băng chỉ rối loạn lúc đầu, sau đó thì mừng thầm trong bụng, mới dõng dạc cất tiếng rằng:
"Ngọn cờ rạp đổ khắp ba quân,
Trướng ngọc giai nhân lặng vẻ buồn.
Đêm tối hương hồn loe ánh kiếm,
Máu loang, cỏ mọc khắp gò xanh*."
* Trích "Ngu mỹ nhân thảo hành" của Tăng Củng, bản dịch trên thuộc về Trương Việt Linh. Bài thơ miêu tả lại trận Cai Hạ: Hạng Vũ thất thế ở Ô Giang, Ngu Cơ múa kiếm tự sát vì chồng.
Nó ngâm xong, thiếu niên tức thì lộ ra vẻ mặt ngạc nhiên; lão hoạn quan nọ thì xanh mét, xồng xộc tiến lên giáng cho nó một cái tát mạnh đến ong hết cả đầu. Lão bảo: "Điện hạ, nô tài sẽ báo lên Nội Quan giám để lễ quan dạy dỗ lại đứa mồm mép tép nhảy này. Xin điện hạ đừng chấp nhặt với nó làm mất thân phận."
Tiêu Băng nào biết mình nói sai cái gì, trước khi bị bán vào cung, nó cũng là một đứa hiếu học. Song, nó không dám cãi lại.
Vị quý nhân kia trả lời lão: "Ta đã nói thì ắt sẽ không rút lời, hôm nay không ai được phạt nó. Còn ngươi nghe mà như không nghe lời ta, quỳ đó tự tát mặt hai mươi cái. Ta ở xa không hay thì không tính."
Đoạn y chẳng buồn đếm xỉa đến lão mà dẫn cung nhân bỏ đi. Tiêu Băng quỳ dưới đất nghe tiếng tát chan chát mà kinh hồn bạt vía. Nó từng hâm mộ các hoạn quan hầu hạ tại nội cung rủng rỉnh tiền tài nhưng lúc này nó chỉ ước gì ban nãy mình ngậm họng luôn cho rồi.
Vậy mà tạo hóa đưa đẩy, Tiêu Băng bị chuyển vào viện của Hoàng tử Dung. Ban đầu nó chỉ biết khép nép hầu hạ, sợ bóng sợ gió; về sau mới từ từ hiểu ra vị chủ nhân cao quý tột bậc này dù là đứa con cưng của Thiên tử nhưng từng ngày trôi qua cũng phải cẩn thận dè dặt như đi trên băng mỏng...
Đúng giờ, Tử Tô gọi Hành Chi dậy rồi chia nhau sửa soạn để hầu hạ Đông cung. Từ nhỏ Lưu Dung đã rất thính, chỉ cần hơi gây động tĩnh là y sẽ tỉnh ngay. Lê Hành Chi chỉ huy các hoạn quan và cung nữ bậc thấp bưng chậu rửa mặt, ống nhổ, khăn; lấy áo ngoài, lược, thắt lưng xếp ngay ngắn trên khay... rồi quây quần, kính cẩn hầu hạ Thái tử rửa mặt chải đầu, tấn lại xiêm y.
Trở về tẩm cung, đang khi Lưu Dung mặc vào triều phục thì Tiêu Tử Tô tiến vào thưa rằng: "Điện hạ, Chung công công vừa dẫn người mang đến một bộ bút nghiên, một chân nến vàng, hai lạng bạc than, chuyển lời rằng: bệ hạ biết tối qua Đông cung tưởng niệm mẫu hậu, đâm ra đau buồn bất an; nên sáng nay miễn cho Thái tử lên triều, lệnh điện hạ đến điện Phụng Tiên hành lễ bái với Tiên hậu."
Nghe vậy, mọi kẻ hầu người hạ đều ngừng tay. Thái tử yên lặng chốc lát rồi bình thản bảo: "Vậy thì không cần thay triều phục nữa, lấy một bộ áo đơn giản ra đây."
Sửa soạn xong, Lưu Dung không dùng bữa sáng, liền dẫn cung nhân đi tới điện Phụng Tiên. Thiên tử đã có lời vàng ngọc: Đông cung đau buồn thì dĩ nhiên nào có tâm trạng để ăn uống bổ sức? Giám quan và lễ quan của điện Phụng Tiên đã nhận lệnh từ sớm, đang chờ trước sân để hầu Thái tử cử hành lễ bái; các cung nhân đi theo chỉ được phép chờ đợi ở ngoài điện.
Trong điện, Lưu Dung thấy trước linh đường không trải đệm quỳ, hơi liếc qua lễ quan cúi đầu bên cạnh. Y không nói gì, vén vạt áo đặt hai đầu gối xuống thềm gạch lạnh lẽo, dựa theo hiệu lệnh của lễ quan để hành ba quỳ bốn lạy, thắp nhang dâng hương rồi lại tiếp tục quỳ nghe hòa thượng phúng tụng.
Theo quy chế, lễ bái tổ tiên ít là một canh giờ, nhiều là hai, ba canh. Vâng lời chỉ dụ, Lưu Dung hành lễ gần ba canh giờ. Lễ quan nhìn y quỳ suốt khoảng thời gian đó, bèn lặng lẽ ra ngoài gọi hoạn quan vào dìu. Tử Tô thấy dưới sàn không trải đệm quỳ, tức thì thất kinh, hết sức cẩn thận đỡ Thái tử đứng dậy: "Điện hạ, vì sao lại..."
"Lôi đình mưa móc đều là quân ân*." Lưu Dung nắm chặt cánh tay gã, bình tĩnh nói.
* Lôi đình: tức giận, trừng phạt; mưa móc: ban thưởng. Dù thưởng hay phạt thì đều là ân vua ban.
Tử Tô âm thầm hít sâu. Thái tử làm chết thích khách, tuy Thiên tử ban thưởng trấn an nhưng còn có ngụ ý răn đe.
Điện Phụng Tiên nằm ở cửa Tây, cách cả nửa vòng thành để đến Đông cung. Lúc tới, Thái tử đi bộ để tỏ lòng thành kính, hiện tại thì y không thể nào mà không ngồi kiệu trở về.
Lê Hành Chi đứng chờ sẵn, vừa thấy kiệu là hành lễ từ xa rồi cùng với Tử Tô hầu hạ Lưu Dung vào tẩm điện nghỉ ngơi.
Y tựa vào kháng, nâng chén trà lên hỏi: "Trên đường về ta thấy Thượng thư bộ Binh cùng với một số quan lại có vẻ vội vàng đi về hướng điện Cần Chính, có nghe ngóng được gì chưa?"
Bấy giờ Hành Chi đang xoa bóp chân cho y liền khấp khởi đáp: "Điện hạ thật thính. Tin tức vừa mới truyền ra thôi ạ. Có chiến báo từ Bắc Cương, mười ngày trước Tiết độ sứ Lý Lân dẫn tám ngàn quân tấn công kho lương thảo của người Nữ Chân, chém đầu hai ngàn tên giặc, bắt sống một ngàn! Bệ hạ hay tin hết sức vui mừng, lập tức ban thưởng hậu hĩnh cho Uy Ninh hầu phủ, còn ở trước mặt các trọng thần khen ngợi Uy Ninh hầu Lý Bằng biết cách dạy con!"
Lưu Dung đang mệt mỏi cũng phải mỉm cười: "Chiến báo này truyền về thật đúng lúc. Lý Lân chắc hẳn vì không muốn muội muội sắp làm Thái tử phi bị người khác đánh giá nên mới nỗ lực lập công. Vì thế, ta cũng phải thưởng. Tử Tô, chiếu theo quy chế mang tặng lễ đến phủ Uy Ninh hầu, đừng quên lựa ra vài món trang sức đẹp ban cho Lý tiểu thư."
Tiêu Tử Tô liền vâng mệnh đi làm.
Hành Chi chu đáo nhắc: "Điện hạ, sáng nay người chưa dùng điểm tâm đã đi, bây giờ dọn bữa lên được chưa ạ?"
Y nói 'được'. Hành Chi gọi một đứa nữ tì biết y lý vào xoa bóp chân cho Thái tử rồi đi chuẩn bị.
Lưu Dung tựa cằm trầm tư. Hôm nay y quỳ một buổi cũng không uổng phí, ít nhất đã dò được dù bề ngoài tỏ ra không bận tâm nhưng trong lòng Thiên tử đích xác có để ý đến việc thích khách là người của Phương thị.
Chuyện Phương thị có sót lại hậu duệ hay là có ai vay mượn danh nghĩa của Phương thị làm rối loạn lòng người thì y không biết. Nhưng điều y nắm được là hai chữ Phương thị này có thể lung lạc được nhiều tấm lòng; vậy, thay vì chăm chăm cạy miệng một kẻ không sợ chết thì sao không thử chặt đứt manh mối để xem ai sẽ lòi mặt chuột đầu tiên?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com