Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 16. Huân thần

Năm ngoái Yên vương đánh lui quân Chiêu ra khỏi Nhiếp Châu, sau đó tiếp tục thừa thắng xông lên dồn ép giặc phải rút về ranh giới bên kia núi Mã, chiến báo về triều lập tức khiến mặt rồng cả mừng. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Thiên tử quyết định đợi sang năm mới rồi hãy long trọng luận công ban thưởng cho huân thần. Vì vậy, từ sớm ngày Tết Nguyên Tiêu, sau khi tế lễ, bá quan văn võ lũ lượt ra cổng kinh nghênh đón các chiến sĩ về triều.

Đến giờ lành, lễ quan vung phất trần phát lệnh, khèn trống nổi lên đệm bước cho đoàn quân trang nghiêm tiến vào cổng thành. Thân mình huân thần khoác khôi giáp, áo choàng phủ sau lưng, đầu trần hãnh diện ngẩng cao dưới bóng cờ xí đỏ rực như lửa. Yên vương bận giáp giắt kiếm cưỡi ngựa tiến lên đón chào các binh sĩ, cất giọng trầm vang tuyên chiếu chỉ rồi dẫn đoàn tiến về cổng cung. Huân thần đi giữa, văn võ hai ban tiếp bước song song, vệ binh xếp cuối. Dân chúng ven đường vui mừng tung hoa tươi điểm tô cho giáp sắt ngựa đồng.

Văn võ bá quan tiến vào sân điện Kim Loan triều bái Thiên tử. Trống đánh chín hồi, ca công hát nhạc lễ, sau đó lễ quan mở chiếu công bố quyết định luận công ban thưởng cho huân thần, cuối cùng Thiên tử sẽ ban một ấn triện bằng ngọc và bầu rượu ngự cho Yên vương cùng uống với những bề tôi.

Bấy giờ, dưới trướng Yên vương có một nhân vật tương đối gây chú ý. Y là con nuôi của Đổng Trực, tên Húc, tự là Chiêu Nhuận*. Luận về tài cán thì có lẽ Đổng Húc chẳng đáng được điểm mặt gọi tên nhưng y nổi tiếng bởi một điều thực tình chẳng hề liên quan đến quân ngũ, đó là... y rất đẹp. Nghe nói dung nhan chàng Húc tươi sáng rực rỡ, vừa nhìn vào đã bất giác liên tưởng tới một thước gấm hoa lộng lẫy hoặc một khung cảnh lung linh ngời ngời sức sống, do đó người trong kinh mến mộ gọi y là "Chiêu lang".

* Chữ "Húc" diễn tả ánh sáng lúc mặt trời mới mọc, "Chiêu" trong tên chữ của Húc có nghĩa là minh bạch, rõ ràng.

Đổng Húc tòng quân đã nhiều năm mà chẳng làm nên công cán, tuy sau này Thiên tử có ấm ân cho y lên chức Vệ úy nhưng nói trắng ra là 'thằng gác cổng' chứ cũng nào phải chức vụ vẻ vang gì. Trước hôm nay Từ Diễm mới chỉ biết Chiêu lang qua lời đồn, do đó vừa nghe lễ quan đọc đến tên y, hắn liền ngó trân trân. Một người thanh niên tiến lên phía trước, tư thế rất thẳng nhưng không mang đến cảm giác gò bó mà dường như trời sinh y đã có tướng tá nghiêm chỉnh vậy. Từ Diễm không nhìn rõ mặt Đổng Húc nhưng thấy được nước da y sáng màu, dáng vẻ con người đĩnh đạc tựa một cây trúc xanh.

Sau khi vinh danh các binh sĩ, Thiên tử cho truyền Ngạn Quận công Trần Giản.

Trần Giản là bác họ của Thái tử, thường được gọi là Ngạn Công, năm nay ông độ ngũ tuần, điệu bộ quắc thước. Vào đêm Hiếu Linh Hoàng hậu tạ thế, Ngạn Công đã cân đai áo mũ tiến cung mật đàm với Thiên tử, sau đó Thiên tử lệnh cho ông chuyển đến vùng Lĩnh Cúi là chốn rừng thiêng đất độc để khai hoang, lập thêm huyện xã. Nhiều năm qua Ngạn Công dầm sương dãi nắng ở chốn đấy, tóc mai hai bên thái dương đã sớm chuyển bạc, Dụ Đế trông thấy ông thì không khỏi xót xa: "Lĩnh Cúi sỏi đá nhiều hơn nước non, trong thơ Ngạn Công viết mình đêm đêm thường nằm trên đá, gối đầu trên cây, trẫm đã có ý định truyền khanh về kinh sớm hơn, vì sao khanh không thuận lòng?"

Ngạn Công nghiêm cẩn đáp: "Thiên tử sớm chiều vì bá tánh, chiến sĩ hi sinh vì biên thùy, thần cũng phải dốc sức đền đáp ân vua."

Nghe vậy, Dụ Đế bùi ngùi khen ngợi phẩm hạnh của ông. Ngài triệu Ngạn Công về là để phong làm chánh quan chủ trì hôn lễ của Đông cung cử hành vào tháng Ba sắp tới nên bãi triều thì giữ Ngạn Công lại trò chuyện, sau đó sai ông đi gặp Thái tử. Lưu Dung ngự ở chính đường, lệnh đầy tớ kê sập bưng trà cho ông bác lại gần bên. Ngạn Công trình bày đôi điều về chuyện nhà, khuyên nhủ Thái tử đừng bận lòng rồi thăm hỏi tình hình của y, cuối cùng mới bảo: "Mấy năm nay Yên vương lên như diều gặp gió, thần càng không dám lơ là trọng trách. Tuy điện hạ học hỏi Thái Tổ, lấy nhân đức để trị người chính là kế dài lâu nhưng suy cho cùng Trần thị không có ai làm đại thần trong triều vẫn là nhược điểm của điện hạ."

"Quận công có người muốn tiến cử với ta?" Lưu Dung hơi trầm tư.

Tuy Tiên hậu xuất thân từ phủ Quận công nhưng thân phụ Trần Biểu của đức bà sinh thời không phải người tài trí. Sau khi Thiên tử Khải lên ngôi, ngài thuận tình ấm ân nhạc phụ lên chức Thượng thư bộ Hộ nhằm củng cố địa vị của trung cung. Về sau Trần Biểu phạm tội, đáng ra phải trảm, song Dụ Đế niệm tình nghĩa với hoàng hậu nên miễn xá, lưu đày cả nhà Trần Biểu ra biên thùy, nửa năm sau thì ông mất. Bấy giờ, Trần Giản kế thừa tước vị Quận công, trở thành chỗ dựa cho trung cung. Khi trung cung hấp hối, Trần Giản lo ngại có kẻ mưu đồ làm lung lay địa vị của đích tử nên tiến cung khuyên vua, sau đó thỉnh chỉ rời kinh để làm yên lòng Thánh giá.

Bởi vậy, giữa Lưu Dung và ông không cần phải nói nhiều. Trần Giản rút trong tay áo ra một tấm thiếp, dâng cho y xem qua. Thấy Thái tử gật đầu, Ngạn Công mới chắp tay, uống cạn chén trà rồi cáo lui.

Từ trước mười lăm, binh lính đã đến từng nhà để phát phiếu lệnh triệu tập. Từ Diễm để ý thấy từ sau ngày đón các huân thần, Từ Quán trông khấp khởi hẳn, có vẻ nỗi lo sắp xa quê của cậu đã được niềm hi vọng về tương lai tiếp thêm không ít can đảm. Hắn biết cậu hâm mộ các tướng sĩ về triều, bởi lính của Yên vương phong trần và oai vệ vượt xa bọn cai lệ trong kinh. Nghĩ vậy, Từ Diễm dậy khỏi kháng nói: "A Quán, con lấy cung tên ra đây."

Từ Quán liền lấy đến. Cha bảo cậu thử nhắm lên ngọn cây xoan. Cậu nhắm bắn, mũi tên lướt qua tàn lá, ghim vào cành cao nhất của cây. Từ Diễm gật đầu, bình thản hỏi: "Con có chắc là mình không thể bắn tốt hơn chứ?"

Quán thành thật đáp: "Vì cha nói con bắn lên ngọn cây nên con nhằm cành cao nhất để bắn."

Từ Diễm khoan thai cầm lấy cung, bắn ra một mũi tên vượt qua cả ngọn cây rồi lại hỏi: "Con nghĩ ta vừa nhắm bắn cái gì?"

"Mũi tên lên cao hơn ngọn cây một chút, có lẽ đã rơi xuống sau hàng rào, con không chắc ạ..." Cậu băn khoăn.

"Sở dĩ ta thắng Nguyên Thất lang chính là vì cái ta nhìn không phải là cái mà ta thấy." Từ Diễm rút thêm một mũi tên, "Xạ nghệ không chỉ là bắn trúng mục tiêu nhưng là khi giương cung, con đã vượt ra khỏi mục tiêu trước mắt, nhìn thấy cái không thấy, nhắm trúng cái chưa đến, ấy mới gọi là tinh thông." Hắn thả tay, mũi tên lại vượt qua ngọn cây, rơi xuống sau hàng rào, bảo: "Con ra ngoài xem thử, hai mũi tên có rơi cùng một chỗ không?"

Từ Quán sải bước chạy ra xem, thấy quả thật hai mũi tên vắt chéo trên cùng một chỗ, hết sức bái phục nhặt lấy mà trở vào: "Tài nghệ như cha, con sợ là có luyện mười năm cũng không thể đạt đến."

"Bắn hay, bắn giỏi suy cho cùng là điều con có thể trau dồi qua thời gian. Trước đây thầy của ta từng dạy: 'Khi cần ra quyết định quan trọng thì trước tiên lấy cung bắn hai mũi tên, nếu chúng rơi cùng một vị trí thì cứ thế mà làm; còn nếu không thì phải xem lại còn vướng bận ở đâu'. Kỳ thực, trước khi nhận nuôi con ta cũng từng bắn hai mũi tên như vậy, mẹ con thấy chúng không rơi cùng một chỗ nên lừa ta không chú ý rồi lén đặt hai mũi tên nằm cạnh nhau. Mẹ con đã nhìn xa hơn ta, vì vậy bây giờ con mới đứng ở đây."

Từ Quán nhìn hắn trong kinh ngạc, đây là lần đầu tiên cậu biết đến việc này, thì ra cha đã quyết định nhận nuôi cậu như thế.

"Do đó," Từ Diễm gảy nhẹ dây cung, ôn tồn nói tiếp, "xạ nghệ ta dạy cho con không chỉ là bắn lên cành cây cao nhất mà là dù mắt nhìn đi đâu nhưng con vẫn luôn thấy được mũi tên sẽ bắn trúng cái gì. Những ngày còn lại con không cần phải vào cung thì hãy dành ra để luyện bắn."

Từ Quán xá tay vâng lời, từ lúc đó sớm chiều không rời cung tên. Trước ngày cậu vào doanh, Viên phu nhân thương cảm anh em cậu không có mẹ nên may hai đôi ủng giữ ấm, sai các con là Viên Phủ và Viên Hi đem đến tặng. Từ Diễm đáp lễ bằng hai thước lụa đào, nói rằng "màu sắc sặc sỡ quá, nhà tôi khó lòng bận lên". Viên phu nhân nhận được thì cười bảo chồng truyền lời với Từ Diễm: "Chừng nào Thái bộc muốn có con dâu thì đánh tiếng với mình tôi, lụa này tôi tạm cất làm tin nhé."

Lúc nói, trong mắt Viên Thủ Trung cũng hàm ý cười, y có hai cô con gái vừa mới cập kê, trong đó cô lớn thường trộm nhìn mỗi khi Từ Quán sang thăm nhà. Từ Diễm đã hỏi cậu về việc này nhưng Quán đỏ mặt nói mình vẫn chưa có gì trong tay, chưa dám nghĩ đến chuyện lập gia đình. Lương từ ngoài ngõ bước vào nghe thấy, liền sớn sác đi chòng ghẹo huynh trưởng, suýt thì bị đánh cho.

Cuối tháng Giêng, Từ Quán áo mũ hành trang từ biệt gia đình, cùng với những binh sĩ thăm quê trở lại biên thùy kiến công lập nghiệp.

Sau lễ tịch điền*, có gián quan hạch tội Giả Túc "bịa chuyện kinh thi", Thiên tử liền cắt chức Giả Túc, sau đó nâng Cần Chính điện Đại học sĩ Phạm Anh Hoa lên làm Tham tri Chính sự.

* Lễ cày ruộng: vào dịp đầu năm, đích thân vua và vương công đại thần sẽ xuống ruộng cày vài luống tượng trưng để khuyết khích nhân dân sản xuất nông nghiệp.

Phạm Anh Hoa là thành viên của Nội các, vốn không nên kiêm chức đại thần Tham tri, lẽ hiển nhiên là hành động này của bệ hạ đã khiến các ngôn quan có lời. Để xoa dịu Ngự Sử đài, ngay sau đó Thiên tử hạ chỉ bãi Phạm Anh Hoa ra khỏi Nội các, lại còn thay đổi một số nhân sự trong văn phòng. Nhưng cách giải quyết lập lờ này vẫn làm một số ngôn quan, trong đó có Viên Thủ Trung chưa yên lòng. Y nói thẳng với Từ Diễm: "Phạm Anh Hoa ở trong Nội các nhiều năm, nắm giữ các mối quan hệ không tầm thường, bây giờ ông ta thay thế vị trí của Giả Túc, tuy bề ngoài là rời khỏi Nội các nhưng các thuộc cấp vẫn còn đó cả, như thế chẳng phải quyền lực của Nội các sẽ ít nhiều bị lệ thuộc vào Phạm Tham tri sao?"

"Nếu Tằng Kính Viêm biết chuyện này, anh ấy sẽ hận không thể đâm đầu vào cột rồng mất." Viên Thủ Trung than thở.

Tuy nói vậy nhưng hai người họ đều hiểu: sở dĩ lời can của Tằng Kính Viêm có sức nặng phần nào là do anh có nhạc phụ là đại thần Tham tri, nhưng bây giờ Giả Túc đã bị biếm chức, dầu anh có còn trong kinh thì chỉ e chẳng những đã lực bất tòng tâm mà còn phải dè chừng kẻ mưu đồ bất chính.

Tiền triều thành lập Tam tỉnh Lục bộ để điều hành bách quan, qua thời gian thì quyền lực của Tam tỉnh ngày càng bành trướng, dẫn đến việc Tể tướng chỉ còn là chức suông. Thái Tổ xuất thân tướng môn, từng có giai đoạn không hòa hợp với Tể tướng Dương Lãi gây nên tình trạng văn võ hai ban chia rẽ, triều chính đình trệ. Về sau Thái Tổ bỏ chức Tể tướng, thành lập hội đồng Nội các. Ban đầu, hội đồng chỉ gồm các quan dưới tam phẩm để đảm bảo quyền hành không bị tập trung vào tay một cá nhân, có trách nhiệm giúp việc vua phê duyệt tấu sớ, từ đó thay thế Tể tướng quản lý quan lại, đồng thời kiềm chế quyền lực của Tam tỉnh. Chính vì vậy, chỉ cần Nội các có biến động thì phe cánh trong triều cũng tất yếu chuyển mình.

Từ Diễm thấy bạn ưu phiền, bèn đốc thúc y đi nghỉ ngơi. Sáng lại cả hai vào cung thì hay tin Thiên tử đột nhiên hoa mắt chóng mặt, ngồi dậy không nổi, hôm nay không thiết triều. Văn võ bá quan rộ tiếng xôn xao, có kẻ lỡ lời hỏi: "Thái tử đã đến cung Càn Thành chưa?"

Phạm Anh Hoa vừa nghe thấy, lập tức đánh một cái liếc sắc lẻm về phía người nọ rồi nghiêm trang nói với triều thần: "Thánh giá bất an, hiển nhiên Đông cung phải kề bên hầu hạ làm tròn đạo hiếu. Chư vị cũng thế, nên đến công thự làm việc để san sẻ với bệ hạ đi thôi."

Nhiều ngày tiếp theo Thiên tử vẫn ốm triền miên không lên triều. Bệnh của ngài đến quá dữ dội, không khỏi khiến bá quan sốt ruột bất an, tin tức chính thức trình bày rằng trong hội du xuân, Dụ Đế theo phong tục đi thuyền ngắm cảnh thì chẳng may bị trúng phong*, thời gian này ngài tạm thời giao phó chính sự cho Phạm Tham tri và Thái tử cùng nhau giải quyết.

* (Tham khảo) Theo Đông y, trúng phong bao hàm các nhóm triệu chứng từ nặng đến nhẹ của cảm phong hàn và đột quỵ. Vì thế bệnh rất đột ngột, chuyển nặng nhanh, được cho là do tà khí xâm nhập gây ra nên gọi là trúng phong.

Phạm Anh Hoa ngồi chưa ấm ghế thì đã lâm vào hoàn cảnh dễ sinh sự, có không ít thù địch muốn nhân lúc này để làm ông ngã ngựa. Hôm đó Từ Diễm trực đêm, trong lúc mang công văn từ kho lưu trữ đến Ngự Thư phòng thì vô tình nghe có kẻ lẻo mép so sánh Phạm Tham tri với Tể tướng Dương Lãi, hắn lập tức lạnh mặt bảo thị vệ bắt giữ bọn nó, điệu đi hỏi tội. Ngự Thư phòng nằm sau cung Càn Thành, theo nguyên tắc, quan lại không được phép bước vào chính đường nếu Thiên tử chưa tuyên gọi. Vì vậy, nửa tháng nay Phạm Tham tri xử lý sự vụ ở trắc điện (trắc: bên), nếu có việc cần xin ý kiến Thiên tử thì nhờ quan viên của Nội các đem đến tiền điện để hỏi.

Phạm Anh Hoa hỏi Từ Diễm cho kỹ đầu đuôi, biết mình bị ví như quyền thần Dương Lãi, ông giận đến biến sắc, nhưng không vội định đoạt mà sai người đi mời Thái tử đến quyết định. Lưu Dung nghe biết, nghi dong cũng lạnh tanh: "Hạng điêu toa làm loạn chốn cung nghiêm, đáng ban trượng hình."

Thị vệ ứng lệnh, lôi hai kẻ mặt cắt không còn giọt máu ra ngoài hành hình. Dù Phạm Anh Hoa đồng ý với cách xử lý của Thái tử nhưng vẫn hỏi dò: "Điện hạ không báo cho Thiên tử biết trước sao?"

"Phụ hoàng đang tịnh dưỡng, không nên bị lời của kẻ tiểu nhân quấy rầy." Lưu Dung nghiêm túc đáp.

Phạm Anh Hoa gật đầu rồi quay sang Từ Diễm, ôn hòa nói: "Việc hôm nay đa tạ Thái bộc, trong triều đương lúc bất an, kỵ nhất là kẻ gièm pha."

"Hạ quan nghe thấy lời xằng bậy dường ấy, làm sao có thể bỏ qua ạ." Từ Diễm định cáo lui nhưng Lưu Dung chợt nhìn thẳng vào hắn, nói: "Sẵn Thái bộc ở đây thì hãy đem công văn sang phía bên ta."

Nói đoạn y liền dời bước, Từ Diễm thoáng bất ngờ rồi theo y đến hậu điện. Lưu Dung bước lên bục kê án thư, nói hắn đặt công văn xuống để mình lựa lấy. Từ Diễm an tĩnh đứng bên cạnh, đang ngẫm nghĩ ý định của đối phương thì bỗng nghe nói, "Ta biết Thái bộc xuất thân là kẻ sĩ*, không thích nói chuyện vòng vo, vậy ta có điều đã muốn hỏi Thái bộc từ lâu: vì sao lúc Tằng Ngự sử tiến gián, Thái bộc lại so sánh ta với phò mã Lý Đông Đình?"

* Nguyên gốc của chữ "sĩ" là chỉ người làm quân sự (binh sĩ, tướng sĩ), về sau do thời thế ngày càng xem trọng việc học văn hơn võ nên ý nghĩa của chữ "sĩ" cũng bị biến đổi, trở thành từ chỉ tầng lớp trí thức (sĩ phu). Trong truyện, tác giả sẽ thường xuyên dùng chữ "sĩ" để chỉ người binh tướng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com