Chương 21. Lương nhân
Từ Lương ngồi xổm cầm quạt nan phe phẩy bên thái dương, có chút cáu kỉnh giương mắt nhìn du khách qua lại trên đường. Cái y quán tí hi này chẳng mướn nổi hai ba đứa giúp việc, cụ thầy vừa nghe có bệnh nhân nguy cấp thì đột nhiên cái thân mình lọm khọm ấy trở nên quyết đoán nhanh nhẹn đến lạ, túm tiểu đồng nhảy phắt lên ngựa của người ta, vứt lại câu nhờ vả canh quán vào mặt vị khách là cậu.
Rảo mắt nhìn quanh, nơi này đơn sơ hết sức, đồ đạc chẳng có mấy món: một cái ghế, một chiếc giường trúc, không có nệm, kê sát đầu giường là tủ thuốc với những dãy ngăn kéo vuông vắn, cạnh đó là hai chồng sách. Tại mé ngoài đây, nơi cậu ngồi là chỗ sắc thuốc, than củi trong bếp cháy lách tách. Sau cánh cửa ra vào dựng hai cuộn chiếu mây, tính cả cái quạt cậu đang cầm thì chắc đấy là toàn bộ tài sản của cụ thầy.
Trộm thấy chắc nó còn thương, Từ Lương nghĩ bụng, trừ phi thằng trộm đó thích uống trà thảo dược. Thình lình cái siêu bên cạnh gõ nắp lạch cạch, cậu bắc ra khỏi bếp, kẻo thuốc sôi lâu sẽ mất hết dược tính, nhanh tay quạt cho nguội bớt, lẩm bẩm: "Tôi đang giúp cụ đấy nhé, lát nữa cụ phải giảm bớt tiền thuốc cho tôi."
"Mạn phép..." Nghe thấy tiếng nói nhẹ nhàng, Lương ngước lên, thấy một thanh niên tuổi chừng hăm mấy, mình bận áo vải, nắng xuân hắt xiên vạch ra những đường nét thanh tú trên gương mặt anh. Tay trái đỡ lấy cánh tay phải rớm máu, anh hỏi: "Công tử, Thiệu gia có nhà chăng?"
'Thiệu gia' là cách người ta gọi cụ thầy, hẳn cụ họ Thiệu, còn tên thì Từ Lương chưa nghe ai nói cho biết. Thấy vết thương trên cánh tay anh còn đang rỉ máu, cậu không dám chậm trễ, giải thích trong hai câu ngắn gọn rồi nói: "Tôi không biết khi nào cụ về, hay là anh đi đến y quán ở đằng sau này để chữa trị cho chóng."
Người thanh niên hơi chần chừ rồi tha thiết đáp lại: "Tôi là khách quen của cụ Thiệu, cậu để tôi vào tự cầm máu rồi chờ cụ trở lại được không?"
Rõ ràng là trong tình huống được nhờ vả trông nhà thì Từ Lương không nên quyết định chuyện này. Nhưng ở đối phương có gì đó lôi cuốn cậu, hoặc là cử chỉ nhã nhặn, hoặc là cặp mắt trong vắt và con ngươi sáng rực không chút vẩn đục của anh. Từ Lương là con cái nhà quan, có thể bình thường cậu hơi lêu lổng nhưng cái lêu lổng của cậu không phải kiểu của những đứa du đãng cắc ké. Cha cậu là người thế nào thì cậu cũng được giáo dục như vậy, vả chăng, chính người cũng thừa nhận cậu có một đôi mắt sắc sảo.
Chính vì vậy, Từ Lương có thể nhận ra từ dáng đứng thẳng tắp không vì thương tích mà nhấp nhổm của anh, hay việc anh chỉ thoáng ngó vào trong để xác nhận cụ thầy vắng mặt rồi luôn lặng lẽ nhìn cậu để chờ sự cho phép. Lương rất có cảm tình nên gật đầu đồng ý. Anh ngậm cười đa tạ rồi tiến vào ngồi xuống mép giường trúc, eo lưng vẫn rất thẳng, rắc thuốc lên vết thương. Song, vì đau nên anh không khỏi run tay làm vãi bột thuốc ra vạt áo, Lương liền tiến lại giúp đỡ. Nhận ra vết thương không nghiêm trọng lắm, cầm được máu rồi cậu tiện thể tìm kiếm bốc lấy vài vị thuốc quen thuộc, giã nát rồi đắp lên cánh tay anh.
Nhìn gần mới thấy, anh có đôi mắt dịu dàng như làn nước thu, hỏi cậu là học trò mới của cụ Thiệu chăng. Từ Lương xua tay: "Chút việc này có đáng là bao. Tính tôi không ngồi yên được, đôi khi sơ ý làm mình bị thương, cha tôi rầy mãi thì cũng phát cáu bắt tôi học cách tự lo lấy."
"Công tử cư xử có lễ nghĩa nhưng nghe như môn hộ (gia đình) không có truyền thống mực sách, chẳng hay lệnh nghiêm đường* làm nghề gì?"
* Tiếng gọi cha của người khác.
Lương ngẫm nghĩ, không nói rõ: "Cha tôi giữ một chức quan nhỏ trong triều thôi."
"Này, này, ta chỉ nhờ cậu trông quán, không bảo cậu táy máy tay chân lên bệnh nhân!" Tiếng cụ Thiệu sang sảng vọng vào. Hai người quay đầu, thấy tiểu đồng dìu cụ vào trong, khăn vấn đầu của cụ mướt mồ hôi, cặp chân mày rậm rạp chau sát. Cụ xồng xộc xông vào giữa hai người, chộp lấy bát thuốc kiểm tra thành phần bên trong, dần dần dịu xuống, nguýt Từ Lương: "Hừm, may mà không bốc nhầm thứ gì."
Từ Lương bĩu môi nhưng không đáp trả. Tiểu đồng đặt hòm thuốc xuống rồi nhỏ nhẹ chào người thanh niên: "Tân đại nhân."
Cụ Thiệu về lại vẻ tà tà đắp thuốc băng bó cho người bệnh, rầy: "Sao lại bất cẩn bị thương thế hả? Lần trước anh nói Quốc Sử quán đang biên soạn gì đó, tay cẳng ra vầy thì viết lách làm sao? Rồi công việc lại chất đống làm lôi thôi cái thân anh."
Tân đại nhân có vẻ thân thiết với cụ, cười tủm tỉm đáp lại: "Thư thả thôi cụ ạ, giả mà trở trời thì tôi cũng đành trông cậy vào cụ hết."
Xong xuôi anh đưa bạc cho cụ thầy, đứng dậy từ biệt từng người rồi sải bước rời khỏi. Từ Lương hiếu kỳ: "Anh ta nom trẻ thế mà là sử quan à? Tôi tưởng trong Quốc Sử quán toàn là người cao tuổi mặc thâm y nuôi râu dài thôi chứ."
Cụ Thiệu không tiếp lời, mở ngăn kéo bốc thuốc cho cậu, đoạn xua xua tay mong cậu đi cho nhanh. Buổi tối, Từ Lương hỏi cha trong Quốc Sử quán có vị quan trẻ tuổi nào họ Tân không. Từ Diễm ngẫm ngợi chốc lát rồi đáp: "Có một người, họ thì ta không nhớ nhưng tên chữ hình như là Kỳ Vũ. Con hỏi làm gì?" Lương kể lại sự việc ở y quán, Từ Tuyển đang đẽo gọt một con rối gỗ, nghe thấy vậy ngẩng lên nói: "Đệ biết thầy Kỳ Vũ."
Từ Lương tức thì mừng rỡ hỏi han em. Em cậu đáp tường tận: "Hẳn là huynh đã gặp thầy Tân Trì, tên húy và tên tự của thầy đều lấy từ câu 'Si trì kỳ vũ*' trong Kinh Thi. Năm Cảnh Diệu thứ mười ba, thầy đỗ Hoàng giáp* tiến sĩ khi chỉ mới mười bảy tuổi, cũng là người trẻ nhất triều mình từng đỗ Tiến sĩ. Sau khi tại chức biên tu ở Hàn Lâm viện ba năm thì thầy được tiến cử vào Quốc Tử Giám làm trợ giảng. Hai năm trước, học đường từng mời thầy Kỳ Vũ đến giảng cho bọn đệ. Đệ vẫn nhớ rõ ngày hôm đó thầy bận áo dài đai rộng, đầu chít khăn vuông, ngôn hành thân thiện cởi mở với học sinh, khi giảng về Vệ Trang công*, thầy nhận xét rằng: 'Vệ Trang công không giữ ngay đích thứ, vì thế Châu Dụ soán ngôi Cơ Hoàn'."
* "(Khi chim én bay đi), bộ lông của nó (kỳ vũ) không còn chỉnh tề (si trì) nữa."
Giáp là đơn vị xếp loại bảng của sĩ tử đỗ đạt. Hoàng giáp tiến sĩ, hay đệ nhị giáp tiến sĩ, là học vị được ban cho các sĩ tử đỗ kỳ thi Đình đứng sau Tam khôi (đệ nhất giáp), dưới Hoàng giáp là Thái học sinh (đệ tam giáp).
Vệ Trang công là vua nước Vệ, một nước chư hầu cổ. Nhằm có người nối ngôi, ông để vợ Cả nhận con của thiếp là Cơ Hoàn, lập Hoàn làm Thế tử; nhưng mặt khác ông lại yêu quý con thứ là Châu Dụ. Biết Dụ thích nghề binh, Vệ Trang công bất chấp can gián mà phong Dụ làm tướng. Sau khi cha qua đời, Dụ ngày càng trở nên kiêu ngạo ngông cuồng, cuối cùng đã giết Hoàn để đoạt vị.
Nghe thấy lời này, Từ Diễm lơ đãng đặt chén trà phát ra âm thanh, hai người con quay đầu nhìn, hắn phẩy tay nói: "Kể tiếp đi."
Từ Lương cũng giục em kể tiếp. Tuyển bảo: "Đệ nghe nói Kỳ Vũ tiên sinh chuộng lối sống đạm bạc, quanh năm thầy chỉ bận áo vải, đi giày đan, dù được ban tặng gấm lụa hài ngọc nhưng thầy đều không động vào. Thú vui của thầy là làm nông. Ở trong nhà thầy có hai mẫu ruộng để nghiên cứu lúa mạ, thầy mong ước có thể tìm ra giống lúa đơm nhiều hạt hơn hoặc kháng lại bệnh dịch. Trong tiệc chúc mừng Tiến sĩ tân khoa năm ngoái, có sĩ tử nghe biết danh thầy nên cầm hồ rượu lại bàn muốn kính, Kỳ Vũ liền xua tay, nói rằng: 'Quỳnh tương kính người quân tử, còn Trì thì chỉ xin một chén trà', mọi người nghe thế thán phục, khen thầy khác nào 'quan Trạng về làng khơi giếng bừa ruộng* đâu'."
* Gốc: "Tạc tỉnh canh điền", thành ngữ phát xuất từ một điển tích của vua Nghiêu, ngụ ý: phép vua cai trị hợp với tự nhiên (ý Trời) và gần gũi với đời sống của bách tính là nền thái bình cực thịnh. Về sau, các nhà Nho lấy câu này để chỉ cuộc sống "gần đời nhưng lánh thị phi" của những vị ẩn sĩ. "Quan Trạng" tức là Trạng nguyên.
Từ Lương chăm chú lắng nghe, nghĩ đến em cũng sắp đủ tuổi đi thi nên cười nói: "Đệ sắp mười lăm rồi, năm sau là có thể tham gia khoa cử, hay là đệ thử cố gắng lần này xem, nhỡ đâu triều ta sẽ có hai người trẻ tuổi nhất cùng đỗ Tiến sĩ!"
Trong khoảnh khắc, Từ Tuyển có chút bối rối, sau đó chỉ đành cười gượng. Lương cho là em ngại ngùng, nhiệt tình hứa hẹn nếu lần sau gặp lại Tân Trì thì sẽ hỏi thăm bí quyết ôn luyện của người ta để truyền đạt cho em.
Chỉ một tuần sau, Từ Lương tình cờ trông thấy Tân Trì dắt ngựa đi bộ trên phố. Bấy giờ bóng tà chực ngã về Tây, do quốc triều đang để tang nên Tân Trì bận áo vải gai trắng thuần, đầu chít khăn, ngoài một cây trâm gỗ thì trên xiêm y không còn món phục sức nào khác điểm tô như các nhân sĩ áo lụa đai ngọc thường thấy trong kinh. Lương đoán là anh vừa xuất cung ra về, bèn ghìm cương tiến lại. Nhận ra cậu, Tân Trì thân thiện lên tiếng chào hỏi. Nước da anh hơi ngăm do thường xuyên phơi nắng, song điều đó chẳng thể che lấp nổi vẻ thanh tú đậu trên nét mày dài, chiếc mũi cao và đôi môi ngậm cười hiền hòa ấy.
Bất giác Lương trộm hân hoan trong lòng, xuống ngựa hỏi thăm: "Vết thương của anh đã đỡ hơn chưa?"
"Ừm." Tân Trì đáp: "Thuốc đắng dã tật, đã sắp lành rồi."
Hàn huyên đôi câu, thấy tính anh dễ chịu, Lương đánh bạo hỏi ra điều cậu lấy làm thắc mắc: "Tôi nghe nói trước đây anh là Hàn Lâm học sĩ kiêm giảng quan trong Quốc Tử Giám, vì sao bây giờ anh lại đến Quốc Sử quán?"
Anh đáp: "Học trò trong Quốc Tử Giám đều là con cháu thế gia thấm nhuần thi thư mực sách, tôi còn trẻ tuổi, nghĩ mình chưa thể làm học trò khâm phục nên tự xin ra ngoài."
"Chứ không phải họ bắt nạt anh à?" Cậu bóc trần tia ngại ngần trong giọng anh: "Trước đây em tôi cũng thi vào học phủ nhưng sau đó bị bọn con cháu quấn tấm gấm ngang đầu đó dè bỉu khinh chê, cha tôi biết chuyện thì dứt khoát cho thằng bé rút khỏi Quốc Tử Giám, chuyển sang trường nhánh của học phủ mà theo học. Cha tôi nói rằng: nếu thầy giỏi thì phải răn được trò, bằng không thì mình ở cùng với bọn họ sẽ dễ sinh tật xấu."
"Lệnh nghiêm đường thật là một người đáng kính." Tân Trì chắp tay cảm khái, sau đó mỉm cười ẩn ý: "Nếu em cậu từng thi vào học phủ thì hẳn chức quan của ngài ấy không dưới tứ phẩm?"
Từ Lương không chút bối rối đáp: "Cha tôi hiền lành khiêm tốn lắm, dù có lên đến đại thần thì vẫn sẽ tự xưng là quan nhỏ."
Tân Trì 'à' nhẹ một tiếng: "Thì ra là công tử nhà Thái bộc."
"Sao anh biết?" Cậu ngạc nhiên.
"Thân là quan viên, tất phải biết các vị đại thần, lệnh nghiêm đường giữ chức không dưới tứ phẩm, có ít nhất hai con trai, môn hộ tương đối khiêm tốn, tính tình thì ung dung độ lượng, không màng danh lợi, người trùng khớp với tất cả những điểm này thì tôi chỉ biết mỗi Từ Thái bộc."
Lương bảo: "Ý anh là trong triều có mỗi cha tôi làm quan tam phẩm mà nghèo thế này à?"
Tân Trì bị cậu chọc cười, sự hàm dưỡng sâu sắc của anh được thể hiện qua nét cười giữ kẽ trên môi và vẻ đoan chính trong ánh mắt. Lương nghĩ đến em, hỏi dò anh có thể tiết lộ kinh nghiệm thi cử chăng. Nghe vậy, anh chẳng những không ngần ngại mà còn rất vui lòng nói cho cậu nghe dọc đường đi. Lương tập trung nghiền ngẫm ghi nhớ, sau đó cảm kích chắp tay: "Đa tạ Tân đại nhân, ngày sau tôi tất sẽ báo đáp anh."
Tân Trì cũng xá cậu, hiền hòa đáp: "Đã có duyên đắp thuốc, từ nay cứ gọi thẳng tên chữ Kỳ Vũ của tôi."
"Kỳ Vũ tiên sinh, tôi tên Lương. Cha tôi nói lúc suy nghĩ tìm tên thì tình cờ nghe thấy trẻ con trong học đường ngâm câu 'nhớ người quân tử thanh tĩnh, nói năng đĩnh đạc*' nên người rút chữ 'Lương' này ra đặt cho tôi, cơ mà thú thật thì tôi chẳng giống cái người trong câu thơ đó lắm đâu." Cậu dí dỏm đáp, chọc anh cười lần nữa.
* Trích Kinh Thi: "Yêm yêm lương nhân, trật trật đức âm", chữ "Lương" ở đây có nghĩa là "(phẩm chất) tốt đẹp bền bỉ" (trung lương, lương thiện). Từ "lương nhân" chỉ những người hiền lành tốt bụng, mặt khác cũng là một cách gọi người quân tử.
Về nhà, Từ Lương khấp khởi kể lại chuyện này cho cha và em nghe. Tuyển đỡ trán, trách anh hấp tấp quá thể. Từ Diễm vỗ vai con út, bảo: "Dầu sao cũng lỡ rồi, bữa nào rảnh rỗi thì hỏi thăm nhà của Tân Trì, mang trà đến biếu cho cậu ta." Đoạn nói với con thứ, "Con cứ siêng năng kết giao với những người như Tân Trì thì có muốn tròng thử quan phục của ta, ta cũng cho phép."
Bẵng qua nửa tháng, lệnh cấm được dỡ bỏ, quán xá kinh đô bắt đầu nhộn nhịp trở lại. Hôm đó Từ Lương dẫn em đi biếu quà cho Tân Trì rồi xuống phố, lên bao lơn tầng hai ngắm đèn kéo quân được thắp lên. Dãy đèn nối dài như sông Ngân, rợp ánh rạng ngời trên du khách lai vãng. Trong ánh sáng ngũ sắc đan xen chiếu rọi câu chuyện xoay tròn trên giấy dầu, Từ Lương trông thấy Thế tử Minh ở dãy gác bên cạnh. Từ khi Yên vương hồi kinh, Thế tử bị cha chỉnh đốn quá chừng nghiêm khắc, Lương nghe kể là chẳng những Lưu Minh không được gặp bạn bè mà còn bị giới hạn địa điểm có thể đặt chân đến khi ra ngoài. Cố nhiên là khoảng thời gian bị quản thúc đã làm Thế tử rất buồn bực, đi ngắm đèn mà vẻ mặt nó vẫn ủ ê phiền muộn hết sức.
Mặc dù sự xuất hiện của Thế tử rất đáng chú ý, song người thực sự lôi cuốn Từ Lương phải là Chiêu lang đi bên cạnh đó. Thấy anh mình cứ rướn cổ nhìn người ta chằm chằm, Từ Tuyển cả thẹn nhắc nhở: "Đừng nhìn nữa mà, thất lễ lắm."
Giọng cậu không lớn, song dường như Đổng Húc cảm ứng được, y lơ đãng lướt mắt qua bọn cậu, bờ môi hé cười không biết là với ai, nhưng trong lòng người xem thấy nụ cười ấy thì họ tưởng như vừa đắm mình trong cơn mưa hoa lê mát rượi ven bờ đê biếc.
Từ Tuyển như bị phỏng vậy, giật mình quay phắt đi. Lương lấy đó trêu chọc: "Kìa, đệ còn phản ứng mạnh hơn ta."
"Ngài ấy cười giễu chúng ta đấy." Tuyển hơi gườm anh: "Huynh còn tưởng là hay."
"Cười giễu cũng được, rảo khắp kinh kỳ không biết có bao nhiêu trai gái muốn được ngài ấy cười giễu đâu." Anh cười ha ha, Tuyển hận mình không thể bắt chước Đại ca gõ cho anh mấy cái. Hai người đang nói thì đứa hầu bàn đem lên một đĩa điểm tâm tinh xảo như ngọc tạc, Từ Tuyển giải thích là bọn họ không gọi món này, đứa hầu thưa: "Món này do vị quý nhân ở gác bên cạnh dành tặng cho các vị."
"Thế tử sao?" Từ Lương hỏi, nhưng đứa hầu chỉ cười mỉm xá tay rồi lui xuống. Hai anh em nhìn nhau, tự hỏi đây là món quà của ai, nếu là của Lưu Minh thì Từ Lương hiểu được vì Thế tử luôn đối đãi hào phóng với bạn bè. Nhưng nếu là quà của Đổng Húc thì hai người có hơi bối rối. Sau cùng, Từ Tuyển chủ động gọi hầu bàn, sai nó dâng trà đáp lễ cho phía bên kia. Cậu nói với anh: "Nếu đã là quà thì chúng ta cứ kính cẩn nhận lấy."
Lương gật đầu cho là phải rồi tiếp tục ngắm đèn lồng.
.
Bữa giờ Yên vương nhận thấy con trai bức bối không vui, nghĩ thời gian vừa qua mình đã nghiêm khắc quá nên bảo Đổng Húc dẫn Lưu Minh ra ngoài giải khuây. Đổng Húc nhiệt tình đồng ý, đưa cậu Minh lên gác ngắm đèn xem tạp kỹ, sai xử người dưới bày đủ trò để làm Thế tử phải cười bò ra bàn, xua xua tay nói dừng mới thôi. Dù vậy, lúc Lưu Minh về nhà, gặp phụ vương thì lại mím môi, chào bằng giọng dè dặt. Vương phi Trương thị thấy mà rầu rĩ, định nhắc nhở con nhưng Lưu Trang khoát tay.
"Hôm nay nó đang vui thì cứ để nó vui." Sau khi con trai cáo lui, Lưu Trang bảo vợ.
Ba người lớn ngồi ở sảnh, Trương thị quan tâm hỏi han Đổng Húc đã đưa Thế tử đến những đâu, làm những gì, Thế tử cư xử thế nào. Húc nhất nhất trả lời. Vương phi đang nghe chăm chú thì thình lình cơn hen dấy lên, thị cầm khăn lụa che miệng ho đến run cả người, sau đó vịn tì nữ xin phép chồng để trở về buồng khuê.
Đổng Húc và Yên vương im lặng nhìn bóng dáng gầy yếu của Trương thị xa dần. Cả hai đều hiểu bệnh tình của thị đã không còn cách nào chữa dứt. Tự thân vương phi cũng tường điều ấy nên gần đây thường khéo léo cất nhắc vài nương tử hiền lành đến hầu chồng, song Yên vương chỉ thu nhận mỗi một người. "Từ khi A Minh sinh ra, ta đã không thể ở bên mẹ con nó, bây giờ vương phi bệnh đến dường này rồi, nếu ta vội vàng nạp thêm lẽ thì con trai ta sẽ nhìn ta như thế nào?" Lưu Trang từng nói với Húc. Húc bảo: "Điện hạ làm vậy là phải, Thế tử và điện hạ xa cách nhiều năm, không có cơ hội vun đắp tình cảm phụ tử, bây giờ muốn khiến Thế tử khâm phục thì điện hạ phải lấy chính mình nêu gương."
Lúc này, Đổng Húc kể lại việc tình cờ gặp gỡ hai vị công tử nhà Thái bộc. Yên vương hỏi y nghĩ sao? Húc cười đáp: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Thường nói muốn biết rõ một người thì hãy nhìn vào cha và bạn bè của người đó để xem xét. Hôm nay trông thấy hai vị công tử, tôi càng tin tưởng là điện hạ không nhìn lầm người."
"Vậy chừng nào cậu mới làm xong việc ta giao?"
Đổng Húc ủ ê: "Điện hạ ơi, nào phải tôi chây lười mà là có ai đó chẳng để tôi tìm được cơ hội chiêu mộ người hiền về cho điện hạ đấy chứ."
Lưu Trang cười. Húc than thở: "Ngài còn cười tôi? Cả tháng nay hễ đi ra ngoài cửa ba bước là tôi đã cảm thấy sau lưng có sát khí đằng đằng. Nếu chẳng nhờ điện hạ dang tay che chở thì hôm nay tôi nào dám lên gác uống rượu ngắm đèn như người ta."
Yên vương nhấc chén trà đưa sang để bịt miệng y, bảo: "Nhân sĩ trong triều phần lớn đều ngoài sáng trong tối ủng hộ Đông cung, cho là phải giữ lấy đích thứ làm trọng. Trong việc lôi kéo quan lại, từ đầu ta đã biết mình không thể bì kịp. Dù vậy," Lưu Trang cầm hai quân cờ khác phe trong tay, "đó giờ người em này của ta hiền với người hiền, ác với người ác, tựa như hai màu đen trắng trên bàn cờ vây. Cũng như một người đánh cờ bị vây hãm trong chính thế cục của mình..."
Hắn vung tay ném hai quân cờ văng khỏi bàn cờ: "Thái tử đương triều, suy cho cùng, vẫn chưa đạt đến mức chính nhân quân tử an hòa độ lượng đâu."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com