Chương 24. Cùng thuyền
Đúng ngày hăm sáu, Từ Diễm nói sao làm vậy, đích thân lên Công Chính đường xem Tạ Bằng Cử thụ lý vụ án Thôi Sĩ Hiền. Vốn hắn định tới lui kín đáo nhưng có tay lính canh nhận ra hắn, liền chạy vào trong bẩm báo. Tạ Thị lang biết chuyện hắn đối chất với đám nho sinh kích động, bảo vệ danh tiếng của Tam Pháp Ty nên rất hồ hởi mời vào thăm hỏi, còn định dành một ghế trong hàng thơ lại để hắn dự thính. Song, Từ Diễm hết sức từ chối rồi đứng lẫn với đám đông dân chúng đến xem.
Viên Thủ Trung hay tin, xế chiều đón gặp hắn ở đầu ngõ Thạch Khê, cả hai cùng vào nhà họ Từ. Từ Tuyển tự tay đong nước hãm trà bưng lên mời khách, sau đó biết ý cáo lui. Viên Thủ Trung thấy vậy, mỉm cười bảo: "Thằng Hi nhà tôi hễ thấy khách lạ thì kiếm cớ lẻn đi, gặp người quen mới sấn tới vòi quà chứ có ân cần tiếp rước được như cậu Tuyển đâu. Thái bộc phải mát lòng mát dạ lắm."
Qua một tuần trà, y rút từ trong tay áo ra một cuộn sớ trao cho bạn quan. Tờ sớ còn thơm nước mực, là loại mực được phủ Nội Vụ định kỳ cấp phát đến các nơi trong cung, chưa có con dấu của Nội các, hẳn là vừa mới được chấp bút viết tại công thự chiều nay nhưng chưa nộp lên. Nội dung tấu hặc tội hiệu trưởng trường Văn Thiện Vương Thúc Đạt lơ là trách nhiệm, dung túng kẻ gian gây chuyện bê bối trước tòa Văn Miếu; đồng thời cáo buộc Đại Lý Tự khanh Tào Phụng Quân chậm trễ thưa gửi, đối xử thiên tư.
Từ Diễm cuộn tờ sớ trả lại Viên Thủ Trung. Nếu Ngự Sử đài đã soạn sớ, tám chín phần là đã tìm ra bằng chứng hoặc nắm được đằng chuôi vụ việc. Hắn không nói gì, Viên Thủ Trung bảo: "Vụ án Thôi Sĩ Hiền do Tạ Thị lang thụ lý, ngay sau đó đã chuyển sang cho bộ Hình phụ trách, không còn ở dưới danh nghĩa Tam Pháp Ty. Xưa giờ Tạ Bằng Cử và Tào Trung như nước với lửa, ông ấy muốn toàn quyền điều tra vụ này, ắt không buông tha cơ hội để hạ bệ đối thủ."
Đoạn y hạ giọng: "Chúng tôi đều là người náu chung một mái hiên, không thể không cúi đầu nhường nhau. Ngự sử trung thừa Tiết Quảng vừa mới nhậm chức không muốn tranh chấp với bộ Hình để làm nội bộ Tam Pháp Ty phức tạp hơn..."
Từ Diễm ra hiệu cho bạn quan dừng lời, trấn tĩnh đáp: "Những chuyện anh vừa nói, ta đều hiểu."
Họ làm quan đã lâu năm, những mối tơ nhợ ràng buộc lợi ích và danh tiếng của nhiều người trong đó không cần phải nói ra. Mặt khác, đoàn sứ giả nước bạn đang trên đường lên kinh, họ cũng hiểu bệ hạ không muốn sự kiện Thôi Sĩ Hiền chuyện bé xé ra to, đồn đại truyền ra làm ảnh hưởng đến thể diện quốc triều.
Vài ngày sau, có lẽ tự Tào Trung cũng nhận thấy việc tiếp tục chấp chưởng Đại Lý tự là quá mong manh nên đã dâng sớ cáo tội mình vô năng, xin được cách chức điều ra ngoài. Tạ Bằng Cử vừa hay tin thì kịch liệt phản đối, chỉ ra họ Tào không tránh khỏi trách nhiệm liên đới, buộc ông ấy phải ở yên cho đến khi mọi sự được điều tra ra nhẽ. Dụ Đế rất đỗi băn khoăn: một mặt ngài không muốn Tào Trung phải tội, mặt khác lại không tìm ra cớ để biện bác lý lẽ của Tạ Bằng Cử. Rốt cuộc, Ngự sử trung thừa Tiết Quảng mới được bổ vào thay thế vị trí của Trần Củng đành phải đứng ra hòa giải nội bộ, khuyên nhủ hết buổi thì viên Thị lang mới không khăng khăng nữa.
Viên Thủ Trung hỏi Tiết Quảng thuyết phục Tạ Bằng Cử bằng cách nào. Quảng híp mắt ngó quanh rồi cười nụ kể ra: "Tầm tầm giữa tháng để tang tiên vương, ta có sai một đứa đầy tớ ra chợ mua hàng, về nhà nó kể với ta là thấy ai như Tạ Thị lang hớt hải đi vào một tiệm kim hoàn. Ta thấy lạ, bèn điều tra xem, phát hiện ra khoảng thời gian trước khi tiên vương băng hà, Tạ Bằng Cử đang sửa soạn nạp thêm một phòng vợ lẽ, nhưng chưa kịp rước nàng về dinh thì phải chịu tang. Cô nàng kia cũng không phải dạng vừa, bất chấp tang chế vẫn đỏng đảnh mè nheo khiến cho họ Tạ phải lén lút gửi quà dỗ dành. Hôm ấy ta nói nhỏ nhẹ không được, bèn bóng gió mấy câu lật tẩy chuyện này, Tạ Bằng Cử lập tức xấu hổ. Ta mới thuận nước đẩy thuyền nói mình không tấu hặc vụ trường Văn Thiện nữa, nhường công lao tất cho ông, vừa nghe vậy, ông ấy bằng lòng ngay."
Tiết Quảng là một trong số quan viên được điều về kinh độ cuối năm ngoái, cùng đợt thuyên chuyển với tay 'võ biền' Tần Hợp Phương từng bị Tằng Kính Viêm hặc tấu, bởi vậy, Từ Diễm không biết gì về người này. Nghe Viên Thủ Trung thuật lại, hắn lưu tâm: "Tiết Ngự sử có quan hệ thân sơ nào trong kinh chăng? Hay anh ta được ai tiến cử, anh có biết không?"
Viên Thủ Trung đáp: "Tiết đại nhân nói gia quyến vẫn đang ngụ ở nơi tại chức trước đây, đợi khi nào thu xếp đâu vào đấy thì y mới đưa người nhà lên kinh. Thêm nữa, tôi từng thấy y yến ẩm với vài nhân vật từng là môn sinh của Ngạn Công Trần Giản."
Từ Diễm thấu tỏ: người của Ngạn Công, nói cách khác, là người của Đông cung.
Tạ Bằng Cử bằng lòng chịu im, Dụ Đế liền phê duyệt tấu sớ tự phê bình của Tào Trung, mệnh ông đi tỉnh lỵ nhậm chức, phòng ngừa bộ Hình tra ra điều có thể gây bất lợi cho ông, đức ngài còn giục ông đi cho chóng. Tào Trung lĩnh chiếu, lúc bước ra khỏi điện vẫn còn rưng rưng ngoảnh lại bái tạ. Hôm ấy tâm trạng của bệ hạ hơi không ổn định, tiễn biệt Tào Trung xong thì đức ngài quay đầu gạt lệ, nói với nội thần Chung Thế Toàn: "Phụng Quân, Bang Chi và Quý Khê đều theo hầu từ khi trẫm mới kế vị, về sau Bang Chi và Quý Khê lần lượt rời kinh, từ nay cũng không còn Phụng Quân nữa rồi!"
'Bang Chi' và 'Quý Khê' lần lượt là tên tự của Đổng Tướng quân Đổng Trực và Ngạn Công Trần Giản. Sau khi Dụ Đế kết thành minh ước với chúa Ngụy, đã mệnh Đổng Trực cầm binh Tây Châu – là vùng giáp ranh với Ngụy, quanh năm luyện binh canh phòng không một phút ngơi nghỉ, tuyệt không để cho giặc Ngụy nảy sinh lòng lật lọng, lần nữa giậm gót sắt lên đất Tấn. Sứ giả nước Ngụy nhiều lần đề cập đến chuyện này, lúc dụ khị, lúc thương lượng, muốn Thiên tử vơi bớt phòng bị truyền Đổng về kinh, nói ngọt là "để biên giới hai nước thôi căng thẳng, chư hầu xung quanh lấy làm yên ổn"; nhưng triều đình không chấp thuận ra điều kiện ngược lại: muốn Đổng rút về thì trả đất cho chúng tôi.
Hai nước cứ giằng co như vậy suốt bảy tám năm nay, hầu như lần nào sứ giả hai bên gặp nhau là sẽ đưa việc này ra tranh luận. Song, đến nay chúa Ngụy vẫn không trả Đạp Châu, Dụ Đế thì trù trừ không muốn khai chiến. Từ khi lên ngôi, đức ngài đã chủ trương thực hiện các chính sách ôn hòa, cần kiệm để vun vén đất nước, chuyện chiến tranh hao tài tốn của chỉ được bàn đến khi ngài cảm thấy chiến thắng nằm chắc trong tay, trái lại sẽ tuyệt nhiên không muốn nghe tới. Do đó, ngài rất không thích quan viên gợi nhắc việc giành lại Đạp Châu bằng vũ lực.
Hồi xưa, có thời Đổng Trực dâng sớ xin được xuất chinh, lần nào Dụ Đế cũng vỗ về xoa dịu bảo ông ấy đợi thêm một thời gian. Mấy năm liên tiếp Trực đều dâng sớ như vậy, Dụ Đế thấy nhiều thì đâm bực nói ông ấy đừng dâng nữa. Trực ngừng dâng thật thì đức ngài lại bắt đầu nghĩ ngợi ông ấy có ý đồ riêng. Trần Giản quan sát thấy vậy, cũng do lo ngại cái "nghĩ ngợi" của Thiên tử nên về sau đã tự chọn lấy vùng đất heo hút mà dời gia tộc đến ngụ, phần vì củng cố địa vị cho Thái tử Dung, phần vì không muốn bị xem là "có ý đồ riêng".
Bởi thế, câu nói hôm nay của đức ngài vừa truyền đến tai Từ Diễm, tức thì làm ngụm trà thơm trong miệng hắn đâm ra nhạt toẹt. Nếu thật sự quý mến Tào Trung thì sao bệ hạ không bảo vệ ông ấy ngay từ đầu mà phải đợi ông ấy tự cách chức mới tỏ vẻ luyến lưu?
Đại khái là do nhớ lại chuyện cũ, chiều đó Dụ Đế truyền Ngạn Công tiến cung, hay biết hôm nay Đổng Chiêu Nhuận đi thăm Thái hậu, bệ hạ cũng gọi y tới hầu chuyện. Trần Giản ngồi gần bức màn sa che mặt Thiên tử, hiền hòa hỏi Húc: "Nhiều năm ta không gặp Bang Chi, ông cụ anh vẫn khỏe chứ?"
Đổng Húc nghiêm túc chắp tay: "Xin thưa thật với Quận công, tại hạ tuổi cũng sắp nhi lập (ba mươi) mà mỗi khi gặp nghĩa phụ lại cứ tưởng người còn tráng niên hơn mình. Hễ dậy là người phải bắn chục mũi tên mới chịu ăn sáng, đến tối múa tiếp mấy đường kiếm mới chịu đi ngủ, tinh thần sức vóc phải gọi là sung mãn hết sức ạ."
Dụ Đế và Ngạn Công bật cười, chẳng trách chi cách nói năng thoải mái của y. Trong khi hai bề trên đàm đạo, Đổng Húc một mực ngồi yên phía dưới, duy trì nét mặt quy củ lắng nghe, chỉ khi được hỏi đến thì mới mở miệng trả lời. Sau đó Thiên tử thấy mệt, cho hai người lui. Húc hành lễ cáo biệt Ngạn Công, lững thững đi trên lối đường thông ra Đông Hoa Môn. Đến gần cửa cung, Húc chạm trán nghi trượng của Đông cung tiến vào, sực nhớ sắp sửa đến lễ giỗ của Hiếu Linh Hoàng hậu, hẳn là Thái tử vừa mới ngự giá chùa Tướng Quốc dâng hương trở về.
Lưu Dung cũng nhìn thấy gã, dừng chân ban bình thân rồi quan hoài hỏi: "Hôm nay Đổng Vệ úy xuất cung muộn nhỉ?"
Đổng Húc thưa trình lý do, bỗng phát hiện trên tay áo đối phương có một vệt đen sem sém, hiếu kỳ hỏi thăm. Thái tử đáp: "Chẳng là có tiểu sa di lần đầu tiếp rước nghi trượng của Đông cung, trong lúc dâng hương thì bất cẩn làm tàn hương rơi vào đấy thôi."
"Thân thể điện hạ đáng giá ngàn vàng, tuy nói là chút tàn hương nhưng nhỡ bén trúng thứ gì bắt lửa thì thật là tai vạ mất." Húc nghiêm nghị bảo: "Ngôn quan mà hay chuyện sẽ lại làm ầm lên cho xem."
"Vậy bổn cung đành nhờ Vệ úy giữ bí mật." Lưu Dung hé nụ cười hờ: "Chùa Tướng Quốc là biểu tượng của tăng ni Phật tử quốc triều, chút ít sai sót đâu đáng để làm ầm ĩ lên."
Lời này rõ ràng chứa thâm ý khác: Quốc Tử Giám là biểu tượng của sĩ tử quốc triều, một cái mạng của họ Thôi đâu đáng để làm lớn chuyện lên.
Đổng Húc cười cho là phải, sau đó cũng một lời hai nghĩa đáp lại: "Chỉ là ở nơi người khác nhìn không thấy, nhỡ có 'kẻ bụng dạ bất lương' vẫn còn lẩn khuất thì quả là đáng lo."
Lưu Dung không tán thành cũng chẳng phản đối, duy trì biểu cảm ôn hòa đối mắt với gã. Húc thản nhiên nhướn mày: "Nhưng điện hạ đừng lo, nếu thật sự có kẻ bất lương, thần sẽ thay mặt Đổng thị tóm gọn kẻ đó, không để vạt áo điện hạ dính một vết nhơ."
.
Ngày Tào Trung xuất hành, Từ Diễm không ra cửa kinh tiễn nhưng khi xe ngựa nhà ông đã đi hơn chục dặm, bỗng đâu đầy tớ ngoái vào bảo chủ ra xem. Tào Trung trông rõ bóng dáng người đuổi đến, hết sức mừng rỡ xen xúc động bước xuống đất bằng đón tiếp bạn quan. Từ Diễm hoàn lễ, lại mời ông trở lên xe, cưỡi ngựa tiễn ông đến dịch trạm gần nhất.
Nhiều năm qua Tào Trung chẳng lấy làm thâm giao với Thái bộc nhưng bằng việc Từ Diễm giải vây cho ông trước muôn bách tính và đích thân tiễn ông đến chặng này, ông đã như kết cỏ ngậm vành bảo: "Thái bộc đưa tôi đến tận đây, phải chăng là có việc cần nhờ tôi giúp? Xin chớ ngại nói ra, tôi sẽ tận lực trong khả năng của mình."
Từ Diễm mỉm cười chìa ra một phong thư: "Không giấu gì ngài, tôi có một anh bạn cũ hiện ngụ bên ngoài Doanh Châu, anh ấy họ Lý, biệt hiệu Phong Động cư sĩ, mười năm trước đắc tội tiểu nhân nên bị trục xuất khỏi kinh. Tôi có lá thư này muốn nhờ ngài khi đi ngang qua Doanh Châu thì gửi hộ đến anh ấy."
Tào Trung chưa từng nghe biệt hiệu 'Phong Động cư sĩ' này, ông cất lá thư, hứa hẹn sẽ gửi đến tận tay người nhận rồi cáo biệt.
Từ Diễm nhìn ông đi xa, sau đó xoay ngựa trở về kinh sư, trong tầm mắt, vài cánh quạ đêm kéo mây đen tràn lên bầu trời.
Xẩm tối, mưa như đánh úp, lùa gót lữ khách con buôn hối hả tìm chỗ náu thân. Tấm màn trắng xóa buông xuống Nam Kinh nện vang như muốn cọ rửa hết thảy bụi trần đắp trên ngói đỏ tường xanh lẫn bánh son guốc ngựa in vết đường lộ. Tảng sáng hôm sau, sư sãi trong chùa Tướng Quốc lục tục thức giấc, đương khoác áo buộc đai chuẩn bị tụ họp tụng kinh thì bất đồ một toán binh lính của Hoàng Thành ty* ập vào mang lệnh lùng bắt một sa di.
* Bộ phận giữ an ninh trật tự và điều tra xét xử án (ở quy mô nhỏ) tại kinh đô.
Thời gian này Thái tử đang làm lễ cầu khấn ở Tướng Quốc Tự nên nơi đây vốn được canh phòng cẩn mật, sư sãi xuất nhập đều được ghi chép rõ ràng; vì vậy, lính lệ nhanh chóng tìm ra đứa sa di trong tờ lệnh. Nó mặt cắt không còn một giọt máu, rúm ró phục xuống chân quan sai. Hoàng Thành ty giao nó cho bộ Hình, Tạ Bằng Cử đích thân đi thẩm vấn, chẳng tới hai canh giờ đã trình lên lời khai: Xiêm y Đông cung có tẩm dầu hương, gặp lửa dễ cháy.
Ngự Sử đài nhận được tin, âm thầm rà soát trong hàng quan lại, sau đó truy ra cung phụng quan Trần Chính Thông chưởng quản việc xuất nhập vải vóc và ty may mặc tại phủ Nội Vụ có vấn đề; nhưng khi biết tin thì lão đã tráo đổi công phục trốn ra khỏi cung. Cấm quân và Hoàng Thành ty lần theo dấu vết lùng sục mọi ngõ ngách trong kinh. Trần Chính Thông chống trả binh lính quyết liệt, chừng như nhận thấy không còn đường sống, lão thét lên: "Máu của Phương thị, Lưu Tấn* không thể rửa sạch tội!", dứt lời liền dùng kiếm tự vẫn.
* Nói tắt: "Triều Tấn họ Lưu cai trị."
Chư thần lần nữa dậy tiếng xôn xao, không ai có thể làm ngơ hai tiếng 'Phương thị' trong miệng gian tặc, liên tiếp hỏi han nhau dò la tin tức. Trong tấu sớ, Ngự Sử đài trình bày tuần tự cội nguồn: "Sự việc phải xét từ tháng Sáu năm ngoái, trong thời gian chúa thượng mệnh phủ Nội Vụ sơn quét tường quây Đông cung, Trần Chính Thông sai người tráo đổi một cây đèn vỡ, nói xằng là 'nằm trong lễ vật của Yên vương', mưu đồ chia rẽ huynh đệ Thiên gia; thực chất là đánh lạc hướng để lấy cắp lễ phục của Đông cung, sau đó phá hủy hình thêu, buộc Thái tử đưa lễ phục cũ đến phủ Nội Vụ sửa sang. Trần Chính Thông tẩm lên kim chỉ sửa áo một loại dầu được trộn từ mủ huỳnh liên*, xiêm y luôn được xông hương nên không phát hiện mùi lạ. Huỳnh liên là thứ cây độc, tác dụng ngoài da tuy không lớn nhưng dần dần sẽ tích tụ vào sâu. Thời gian trước Thái tử thường xuyên mất ngủ nhạt miệng, e là bởi duyên cớ này. Chúng thần còn cả gan suy đoán: trong lễ tiệc sinh thần, bệ hạ đột nhiên cảm thấy tức ngực, có thể do đã vô tình ngửi trúng mùi độc tố..."
* Một loài cây thuộc họ Trúc đào, toàn thân chứa độc tố, nhiễm liều nặng có thể gây suy tim.
Thiên tử xem đến đây đã giận dữ khó kìm, lệnh hình quan thẩm tra toàn bộ cung tì nội thị của Đông cung, truy ra bốn tên hoạn quan tẩm dầu hương lên xiêm áo, lập tức lôi đi chém đầu.
Bởi vì đám gian tặc đã bỏ mình, ngự sử không còn đầu mối để tra ra chủ mưu. Lục tục có ngôn quan dâng sớ xin tra xét lời trối của Trần Chính Thông, song lần này Dụ Đế lộ rõ việc ngài kiêng kỵ vấn đề Phương thị nên phán rằng: 'Trung Nghĩa Đại tướng quân là bậc hiền thần, sao có thể như lời bọn thiến hoạn bẻ cong?'; sau đó gạt bỏ ý kiến của ngôn quan, giữ nguyên kết luận tội là của Trần Chính Thông và các hoạn quan chưởng quản nội vụ, nghiêm cấm mọi tiếng đồn trong cung.
Ngày tuyên cáo kết quả vụ việc, Tiết Quảng bất bình kháng nghị, Thiên tử bỏ ngoài tai. Bãi triều y tiếp tục dẫn ba ngôn quan khác đến điện Cần Chính khuyên giải. Tiết Quảng quyết liệt tâu rằng: "Cốt lõi trị dân là thưởng phạt công bằng, từ đó làm sáng tỏ công đạo, không để ai hồ nghi luận xằng. Nay Trần Chính Thông mưu đồ gian trá, lại không biết ăn năn hối cải, lấy việc tự vẫn để trốn tránh hình phạt nghiêm minh; mà bệ hạ lại phán quyết chóng vánh, không điều tra tường tận tất sẽ khiến kẻ khác tự cho là luật pháp dễ dãi, triều đình dung gian. Thiên gia không làm rõ uy đức, sao kìm được miệng tiếng thiên hạ sôi trào? Như vậy còn đâu là răn đe thị chúng, uy chấn tứ phương? Pháp lệnh không được thực thi thì sao có thể giữ vững kỷ cương cho quốc triều?"
Dụ Đế ôn tồn xoa dịu Tiết Quảng, nói y về trước để ngài từ từ nghĩ lại. Y tiếp tục khấu đầu thưa: "Chính vì các sứ sang thăm, triều đình mới càng phải quan hoài thiên hạ, hiển lộ uy nghi. Thánh đức của Thái Tổ là nhờ thi hành Quốc pháp, thưởng phạt công minh, từ đó soi chiếu trên dưới, thu phục chư dân. Bệ hạ nhân hiếu hiền hòa, ấy là phúc của trăm họ, nhưng không thể vì dung túng bọn gian tà mà miệt thị tổ tông. Thần khẩn xin bệ hạ điều tra đến cùng, rửa sạch hiềm nghi cho trung thần nghĩa sĩ!"
Bên kia bình phong vang lên một tiếng vỗ mạnh, Thiên tử quát đuổi: "Ra ngoài!"
Tiết Quảng ngẩng đầu, nét mặt dịu xuống nhưng vẫn nói: "Bệ hạ, thần biết mình sức mọn tài hèn, may mắn thụ hưởng hoàng ân mà về hầu dưới ngai báu, thật lòng cảm kích không mong gì hơn. Thần cam nguyện xả thân miễn là công đạo được sáng tỏ."
Các hoạn quan ngự tiền chứng kiến cảnh này, đều thầm lấy làm bội phục. Tiết Ngự sử trẻ hơn Tằng Ngự sử vài tuổi, so với Tằng Kính Viêm kiên tâm bền chí tựa đá tảng không thể chuyển lay thì Tiết Tử Luân lại như ngọn lửa hừng hực dấy lên, từng câu từng chữ cháy sáng cảm tình thiết tha, khẩn nài mà chẳng hề lộ vẻ hèn mọn.
Nhưng mặc cho Tiết Quảng dùng cạn lý lẽ bình sinh, Thiên tử vẫn không tiếp nhận lời can gián. Y cũng không bỏ cuộc, kiên nhẫn quỳ trước điện tỏ ý khuyên lơn. Không rõ đã qua bao lâu, Tiết Quảng bỗng trông thấy vạt gấm màu đồng phủ trên mũi giày tơ lọt vào tầm mắt, cất tiếng bái lạy Đông cung. Thái tử sai nội thị dìu đối phương dậy, nhẹ nhàng nói: "Ngự sử cần chi phải vậy? Đường đi còn dài, lúc này chẳng bằng tuân theo."
Tiết Quảng lặng thinh, sau đó bái tạ rời đi.
Lưu Dung nghiêm trang đứng dưới bậc thềm chính điện, tầm mắt vượt ra khỏi tường vây cung cấm, nơi én xuân liệng cánh bay xa.
Dưới nền trời đỏ quạch như sôi trào, Ngô Cư bắt gặp một vẻ cô đơn não nùng vương trên đầu mày Thái tử. Người chẳng che giấu cảm xúc ấy, hoặc giả có giấu, nhưng tự nó tràn ra khỏi lòng, hòa cùng bóng tà dát lên dáng hình tôn nghiêm quý phái của người một màu bạc bẽo thê lương. Trong sát na, Ngô Cư tưởng Thái tử sẽ tiến thẳng vào điện để giãi bày tất thảy điều đang ươm mầm trong tâm trí người ngay lúc này với ngôi cửu ngũ, với thân phụ người. Nhưng ngay nháy mắt tiếp theo, Thái tử đã khôi phục trạng thái không biểu lộ hỉ nộ thường nhật, cung kính quỳ xuống bái lạy trước cửa điện.
Dụ Đế biết Lưu Dung đến nhưng không tuyên gọi, sai Chung Thế Toàn ra xem; lão thần trở vào, ngài mới hỏi. Chung Thế Toàn cẩn thận đáp từng chữ: "Thái tử triều bái khoảng một lúc thì ra về ạ."
Thiên tử lâm vào trầm mặc, cách một bức bình phong, không ai biết sắc diện ngôi cao thế nào. Một lúc sau, đức ngài hạ chỉ dụ: "Lễ giỗ hoàng hậu trong cung làm pháp sự ba ngày, truyền các hoàng thân quốc thích tiến cung hành lễ tế bái, bày tỏ tưởng niệm với Tiên hậu."
Lễ giỗ hoàng hậu hằng năm chỉ cần dâng hương cúng tế, lần này cử hành pháp sự liên tiếp ba ngày là rất long trọng. Sau khi chứng kiến cha con đức ngài truyền lời đến nhau bằng sự câm lặng khắc khoải, Chung Thế Toàn không dám suy đoán thêm, khom lưng ứng lời rồi đi truyền dụ.
Sau ba ngày giỗ, Dụ Đế tiếp tục hạ chỉ: Ngự sử trung thừa Tiết Tử Luân lĩnh quyền trưởng quan Ngự Sử đài.
Phạm Anh Hoa hỏi dò ý vua, Thiên tử đáp: "Trước đây Trần Củng lĩnh quyền trưởng quan nhưng ông ấy làm người quá mức thận trọng, bởi vậy kẻ gian mới ngấm ngầm họp mưu hùa kế, gây ra nhiều chuyện không mong muốn. Ngự Sử đài giám sát bách quan, muốn triều đình trong sạch thì nên quyết liệt mạnh tay như Tiết Tử Luân vậy."
"Bệ hạ thánh minh." Phạm Anh Hoa nói rồi hàm ý nhắc khéo: "Tuy nhiên, giám sát gắt gao dễ dẫn đến quyền ngự sử bành trướng, nhỡ có oan sai thì sẽ làm hiền thần lạnh lòng nản chí." Bởi vậy, Dụ Đế phục chức Ngự sử trung thừa cho Trần Củng, để ông ngang vị với Tiết Tử Luân, chỉ hơn kém nhau ở quyền trưởng quan Ngự Sử đài.
Một chiều, đang khi Từ Diễm chuẩn bị xuất cung thì đích thân Tiết Quảng đến vời hắn đi nhận diện phạm nhân. Dầu mặt mũi gã lấm lem, một bên má sưng tấy, xiêm y xốc xếch bẩn thỉu dưới nhục hình nhưng Từ Diễm vẫn nhận ra ngay đứa học trò từng cãi lời mình trên phố Tây. Tiết Quảng hỏi hắn: "Thái bộc có biết gã là ai không?"
Từ Diễm thành thật lắc đầu, Quảng kể ra: "Sáu năm trước gã dụ dỗ cháu gái tư thông, bị bắt điệu ra trước mặt Tào Trung, ông ấy xử gã cung hình. Gã che giấu việc bị thiến, cải danh trà trộn vào đám nho sinh, về sau kết giao với Thôi Sĩ Hiền. Khi Hiền phát hiện chuyện gian lận điểm số, gã biết hiệu trưởng trường Văn Thiện và Tào Trung là bạn cũ nên xúi Hiền lên Tam Pháp Ty tố cáo. Thôi Sĩ Hiền không may mất mạng, gã liền lợi dụng việc này kích động các nho sinh để trả thù Tào Trung. Kẻ này tội ác như núi, không biết hối cải, lúc Thái bộc trông thấy, có nghĩ gã là kẻ như vậy không?"
Từ Diễm dĩ nhiên không biết. Tiết Quảng phiền não thở dài: "Phải, nếu kẻ ác tự viết lên mặt mình chữ 'Ác' thì đúng là không còn gì để bàn nữa."
Cái chết của Thôi Sĩ Hiền được minh xét như vậy. Sau đó Tạ Bằng Cử nộp lên kết quả tra án tại trường Văn Thiện, Vương Thúc Đạt và chín quan viên khác bị trục xuất khỏi học phủ, về sau vĩnh viễn không thể phục chức. Công lao xem chừng đều về tay Tạ Bằng Cử nhưng Từ Diễm nghe ngóng được trong thời gian điều tra, Tạ Bằng Cử và Tiết Quảng có gặp nhau vài lần.
Một dịp khác, Từ Diễm tình cờ có cơ hội cùng thuyền với Tiết Quảng, đợt ấy Tạ Bằng Cử mừng chuyện tấn chức nên hào phóng bao hẳn một chiếc thuyền lầu đãi tiệc đồng liêu. Từ Diễm vì nể nang nên cũng đi đưa lễ. Giữa bữa tiệc, dường như nhận ra những người đồng bàn có hơi câu nệ đối với mình nên Tiết Quảng lễ độ cáo say, ra ngoài khoang thuyền hóng gió. Từ Diễm uống thêm hai chén rồi cũng ra theo, nghe tiếng động, người ở đầu thuyền ngoái lại thấy hắn, liền mỉm cười mời lại đứng cùng. Dung mạo cử chỉ của y trang nhã nhưng trong đôi mắt luôn có màu sắc u uẩn, hẳn là kiểu người đa cảm sầu lo.
Mũi thuyền xô vỡ sóng xanh, trong khoang yến ẩm vui vầy. Họ sóng vai ngắm nhìn muôn ánh đèn rực rỡ neo đậu ven bờ sông, đưa mặt hứng gió chiều mát rượi, một chiếc thuyền lan bập bềnh rẽ nước đằng xa, ả đào ôm tỳ bà cất tiếng hát: "Nước phá tan, núi sông còn đó. Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu. Cảm thời hoa rỏ dòng châu. Biệt ly tủi hận, chim đau nỗi lòng*..."
Tiết Quảng dâng niềm xúc động, đăm đắm ngoái nhìn chiếc thuyền con lững thững trôi xa. Từ Diễm sai đầy tớ đem đến một chiếc đàn hồ, ngồi xuống đầu thuyền đệm nhạc hát rằng: "Mây vàng trải miết, bóng tà giăng; gió bấc lùa nhạn, tuyết lợp trời. Chớ ngậm ngùi tìm đâu tri kỷ, chẳng nơi nào không biết danh anh*?"
* Bài "Xuân vọng" của Đỗ Phủ, Trần Trọng Kim dịch. Bốn câu đầu tả cảnh nước mất nhà tan, bốn câu sau nói lên nỗi niềm yêu nước nhớ nhà.
Bài "Từ biệt Đổng Đại kỳ 02" của Cao Thích. Đổng Đại và Cao Thích là bạn thân, khi Đổng Đại phải ra đi biểu diễn vì sinh kế, Cao Thích làm bài này đưa tiễn và an ủi bạn vơi bớt nỗi buồn xa xứ.
Tiết Quảng ngạc nhiên nhìn hắn, có phần bối rối ngẩn ngơ. Từ Diễm đặt đàn sang bên, chắp tay: "Chẳng là cảm được nỗi lòng của Tử Luân nên tôi đánh bạo giải ý, nếu mạo phạm thì mong Tử Luân khoan thứ tôi đường đột vậy."
Tiết Quảng hoàn lễ, khóe môi he hé nụ cười: "Người thấu hiểu tôi thì chính là bạn hữu tôi." Rồi sai bồi bàn dâng quỳnh tương chén vàng, lấy lễ quân tử hồi đáp người bạn mới kết giao. Từ Diễm cũng khoan khoái đối ẩm với y, đương có nhã hứng, vừa đệm đàn vừa thong dong xướng rằng: "Mi xanh răng trắng dạo thuyền lầu, sáo ngân tiêu vắn tiếng buồn hiu. Gió xuân lay động cột buồm ngà, bóng tà nhàn ngắm dây bện hoa*..." Những người ở trong khoang nghe thấy, đều cười rộn rã.
Tiết Quảng chú mục lắng nghe Từ Diễm xướng ca, như cảm được tâm tư trong đó, ý cười dần chân thật hơn. Sau đó, y cũng hỏi mượn một cây sáo khương, thổi một khúc da diết rồi ngâm "Lương Châu từ": "Hoàng Hà nhập dòng vào mây trắng, muôn núi vây quanh một lũy thành; sáo khương mong dứt tiếng bẻ liễu, gió xuân đâu sang đến Ngọc Môn*." Từ Diễm uyển chuyển thay đổi điệu khúc, đệm cho tiếng xướng của bạn quan. Bọn họ nhìn nhau rộ cười, lại cùng nâng chén tìm say, uống cho tẫn đêm trăng ngà, tinh tú ngả nghiêng.
Tạ Bằng Cử mặt mày đỏ lựng từ trong khoang ngoái ra, trông thấy cảnh đó, bật thốt: "Có bạn từ xa đến, quả là vui lắm thay*!"
* Bài "Thành Tây bi phiếm chu" (Chơi thuyền ở bến Tây Thành) của Đỗ Phủ. Cụm "mi xanh răng trắng" miêu tả người con gái đẹp (vì vậy người nghe mới cười).
Bài "Lương Châu từ" của Vương Chi Hoán, lời thơ thể hiện nỗi nhớ nhà của các binh sĩ canh phòng nơi biên thùy.
Nguyên văn: "Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?", trích Luận Ngữ, chương Học Nhi. Đoạn này có ba câu: "Vừa học vừa ôn luyện, chẳng vui lắm sao? Bạn hữu từ xa đến, chẳng mừng quá ư? Bị người hiểu lầm mà ta không giận, chẳng phải đạo quân tử à?", có thể hiểu là Khổng Tử ví tình bạn sánh ngang với việc học hành và đạo đức người quân tử.
Kết thúc hồi 01.
Lời bình: Tựa của Hồi 01 có từ khóa là "gặp gỡ", tại đây, bạn đọc gặp gỡ một bối cảnh, một triều đại, một vị vua chi phối thời cuộc ban đầu và những người sống ở giữa thời cuộc ấy. Dụ Đế hiện lên có hiền, có hiếu, có kiên nhẫn nghe khuyên giải nhưng đồng thời cũng như mọi ông vua – sĩ diện và đa nghi. Có lẽ quá khứ cha và anh trai bất hòa đã khiến ông trở nên ghét bạo lực và chiến tranh, bởi đó, ông tạo ra một thời đại mà văn nhân khách nhã tràn lan, còn những kẻ sĩ có tài thao lược bị "xếp xó".
Rõ ràng, Từ Diễm lẫn Lý Đông Đình đều là những kẻ bị "xếp xó". Nhưng không chỉ bọn họ, đến những quan viên nhiệt tâm như Tằng Kính Viêm, Tân Trì, Tiết Quảng đều vấp phải các giới hạn của triều đại Dụ Đế: Sự cai trị bảo thủ, luôn cố gắng gìn giữ tình thế ôn hòa giữa các phe phái, thậm chí là với ngoại xâm; do đó, ông duy trì một triều đình "hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh", các nhân tài không có điều kiện phát huy.
Khi Tiết Quảng nghe câu hát của cô đào mà đâm ra xúc động, bởi lời ca diễn tả tâm tình của người ái quốc trung quân, Từ Diễm nhìn thấu điều đó nên mượn bài "Biệt Đổng Đại" an ủi rằng: "Muôn người đã biết đến sự trung nghĩa của anh, chớ buồn bã vì thời cuộc như thế". Do đó, cụm "chẳng đành trông theo" ở Hồi 01 hàm ý: Người hiền gặp nhau nhưng cầm lòng lại, vì biết chẳng gặp thời, nhìn nhau sẽ chỉ càng buồn thêm.
Về Lưu Dung, Lưu Trang và Đổng Húc, những cơ sự bủa vây bọn họ sẽ được từ từ vén mở ở quyển kế.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com