Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 28. Tiệc hoa quế

Mắt thấy, Từ Lương không kịp suy nghĩ bổ nhào tới giữ chặt hai tay Tân Trì. Tại khoảnh khắc ánh nhìn giao hội, cậu bắt gặp tia sáng bỡn cợt dợn lên nơi làn nước thu bị vây hãm dưới mí mắt anh. Theo sau tiếng phì cười của Tân Trì, mọi người cũng cười ồ lên, Đinh Mậu bảo: "Thế là cậu tôi không đành lòng mất quạt báu vào tay thầy Tân rồi!"

Từ Lương thẹn đỏ mặt giật lùi lại nói 'thất lễ rồi'. Tân Trì cũng đứng lên xin lỗi cậu và chủ nhà vì trò đùa, lúc ngồi xuống trên môi vẫn ngậm nụ cười ý nhị, thật như câu thơ cổ: Hồn xuân mến tình người, riêng dành một cành thơm*.

* Trích bài "Xuân phong" của Lý Thương Ẩn. (Nói sự dịu dàng của Tân Trì là do xuân ban cho.)

Từ Diễm mượn quạt ngắm nghía, cảm thấy khá thích hỏi: "Sao không đề chữ mặt sau?" Nói đoạn tự trả lời, "Đừng bảo là do không nhớ được câu nào khác."

Thấy thằng bé ngượng ngùng cúi đầu, hắn quay sang bảo Tân Trì: "Để ta nghĩ cho anh mấy chữ đề lên. Mặt trước có 'giai nhân', mặt sau nên có 'quân tử'... lấy câu: 'Khách quân tử viếng nhà, lễ nhạc cùng vui say*' được chứ? Dù đối chưa chỉnh lắm."

* Cũng lấy từ Kinh Thi, bài "Tinh tinh giả nga kỳ 01".

"Nhờ giai nhân trao tặng, vật đẹp này mới báu;
Khách quân tử viếng nhà, lễ nhạc cùng vui say."

Từ Lương nhẩm đọc rồi vỗ tay: "Hay quá! Cặp câu đối này nói lên được ngày hôm nay đấy!"

Tân Trì chắp tay cảm tạ, mỉm cười nói tiếp: "Đã lỡ nhờ Thái bộc nghĩ câu đối thì tôi phải tiếp tục mặt dày xin ngài đề chữ cho mới được."

Từ Diễm nhấp trà, đưa mắt sai thị nữ đi sửa soạn. Một lúc sau, chủ khách cùng sang buồng viết nhỏ bên cạnh, trên án đã bày giá đỡ quạt, nghiên mực mới, các loại bút lông sói, lông cừu, lông dê, lông ngựa... cắm trong ống trúc như một lùm cây. Tân Trì đứng bên phải bàn, Từ Lương đứng bên trái cách xa hơn một chút. Từ Diễm lựa cây bút lông sói đầu nhỏ, sau đó thư thả nhìn mặt quạt một chốc, ngó bình hoa một chốc, rồi nhúng mực thoăn thoắt viết mấy chữ ra. Tân Trì bật cười, Từ Lương hỏi: "Sao anh lại cười?"

Tân Trì kìm lại nụ cười đáp: "Tôi nói thật mong Thái bộc và công tử đừng giận. Uổng công tôi trông mong nãy giờ, vậy mà ngài Cẩn An vẫn giấu tài kỹ quá! Chắc là xem thường tôi không biết nhìn rồi."

Từ Lương nghe vậy ngơ ngác: "Ý anh là vừa rồi cha tôi chỉ làm ra vẻ chứ chẳng tài cán gì hết à?"

Từ Diễm ung dung gác bút: "Kỳ Vũ tiên sinh là bậc thầy thư pháp, ta mà cố nhào nặn múa rìu qua mắt thợ thì chẳng khác nào Đông Thi nhăn mặt*. Bút tích của các vị vương tôn treo ở ngoài sảnh mới đáng để cặp mắt anh ngó qua."

* Tương truyền Tây Thi có chứng đau bụng, mỗi khi phát bệnh thì nhăn mặt, lúc ấy trông càng đẹp thêm. Có người đàn bà hàng xóm thấy vậy bắt chước theo thì lại làm cho muôn người tháo chạy.

Bọn họ trở ra xem thiếp năm mới của Thiên gia. Tân Trì xá tay rồi nói: "Đức Thái Tổ giáng sinh chốn cơ hàn, hơn bốn mươi mới bắt đầu luyện viết, chuyên tâm miệt mài đến độ đêm ngủ còn nói mê: 'Lấy Lan Đình tự ra cho trẫm xem lại*!', làm nên tấm gương chí nhân chí thiện cho kẻ sĩ trong thiên hạ noi theo. Nhờ vậy, hậu nhân của Thái Tổ không ai là không dày công khổ luyện, rửa bút đen ao*. Trên có Thiên tử, dưới có Trữ quân, Văn Tuyên lẫn Yên vương điện hạ đều là những bậc thầy thư pháp, mỗi người có một vẻ riêng: thế chữ hồn hậu bay bổng như khí độ cao thượng của Văn Tuyên; bút pháp phiêu dật sâu lắng như tham thiền của Thái tử; vẻ hùng hậu khoáng đạt như tập hợp nghìn binh của Yên vương điện hạ trên bức hoành phi ở Thiên Chương các. Tất thảy họp lại, đối ứng lẫn nhau mà phản chiếu tinh hoa của các thư gia cổ kim."

* Để có được kiệt tác Lan Đình tập tự (hay Lan Đình tự), Vương Hi Chi từng nửa đêm vùng dậy đốt đuốc để luyện viết.
Gốc: "Lâm trì học thư, trì thủy tận mặc" (ra ao học viết, mực đầy nước ao), xuất phát từ điển cố của nhà thư pháp Trương Chi thời Đông Hán: Ông bắt đầu luyện viết bên bờ ao, nhúng bút xuống ao để rửa, ngày qua ngày màu nước chuyển thành màu mực.

Từ Lương nghe anh nói, chưa cho là đúng: "Chữ nghĩa đều từ một gốc mà ra, nói như anh thì tôi nghĩ trên trời này ai ai cũng có nét chữ riêng cả. Mỗi người ít nhiều bắt chước được phần nào tinh túy của người xưa."

Tân Trì mỉm cười nhìn cậu: "Ý của công tử không sai. Chỉ là người thường cầm bút đều chỉ nghĩ đến việc viết láu cho xong, nếu họ nhận ra như lời công tử và gạn lọc lấy điều hay của cổ nhân thì thật đáng mừng."

Từ Lương không thích các phép tắc gò bó nên thường có một số lý luận "trái tai" người ta, đã trở nên trơ lì nếu bị phản bác, nhưng nay thấy anh không phủ nhận ý kiến của mình thì vẫn mừng rơn. Cậu chẳng hứng thú với mấy vụ chữ nghĩa, nhưng vì là anh nói nên mới ráng lắng tai nghe và để bụng gẫm.

Khi anh về, cậu tiễn anh ra đầu ngõ. Tân Trì hứa hẹn: "Lần trước cậu khen bánh xốp hoa hồng Xuất Trần làm ngon hơn ở tiệm, dịp khác tôi sẽ đem sang hai hộp."

Từ Lương vui lắm, cảm ơn luôn miệng. Tân Trì hối cậu trở vào, cậu nghe theo, vừa đi vừa ngoái lại nhìn. Như hiểu lòng cậu, anh kiên nhẫn đứng tại chỗ, chờ cậu bước vào cổng thì mới bằng lòng lên ngựa.

Chiều hôm sau, Nghê Toản bất ngờ ghé thăm. Từ Diễm hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ: Ta thì ốm chưa khỏi hẳn, vậy mà khách khứa cứ luân phiên kéo đến như chẳng sợ bị ốm lây. Họ không sợ thì ta cũng mặc, nhưng giở ra thì sẽ phiền phức. Vì vậy, hắn cáo lỗi vì không thể ra bàn ngồi thù tiếp, vốn là người rộng lượng nên Nghê Toản không hề khó chịu.

Từ Diễm quay mặt vào trong bình phong chắn gió ho vài tiếng rồi hỏi lý do anh ta đến thăm. Nghê Toản chắp tay báo tin vui: "Tôi đến để từ biệt. Vừa qua bệ hạ nhớ đến công lao trị thủy của cha ông nên truyền tôi vào bệ kiến, sau đó hạ chỉ sai gia phụ đích thân xuống công trường chỉ huy việc trùng tu dãy đê mới vỡ tại Đông Hải. Tôi cũng được lệnh đi theo hộ tống nên dăm bữa nữa phải về châu Doanh thu xếp công việc, rồi đi ngay. Đáng lý ra được chúa thượng ân điển như vậy thì tôi nên dọn tiệc rượu để từ giã thân hữu nhưng vì thời gian gấp rút nên bèn ghé vài nơi để chuyển lời từ biệt."

Sau vài câu khách sáo, anh ta định đứng dậy cáo từ. Từ Diễm gọi giật lại: "Tôi có lời này đường đột, có phải ông cậu anh là Viên ngoại lang ở bộ Hộ không?"

"Phải, ông cậu đó là anh Ba của mẹ tôi. Thái bộc có việc gì sao?"

Từ Diễm trình bày vắn tắt chuyện bộ Hộ chậm trễ chi tiền, sau đó nhờ Nghê Toản nhắn gửi cho ông cậu anh ta để ý đến việc này. (Bởi, Trời mới biết mấy tay quan viên ở tỉnh có bớt xén công quỹ hay không.) Toản hứa hẹn sẽ nói giúp rồi cáo từ.

Tiễn khách xong, Từ Diễm tựa trên kháng nghĩ thầm: Mặc dù ta biết tính tình anh ta chân thành thật dạ nhưng là con cháu công khanh, hễ mở miệng nói chuyện không tránh khỏi những "vinh hoa phú quý", "ơn vua hậu đãi"... là mấy thứ A Ức ghét nhất trần đời. Vậy mà hai người họ vẫn làm bạn với nhau được mới thật lạ.

.

Thực ra kể từ ngày họ đàm đạo, thân là con nhà công khanh, Nghê Toản không khỏi cảm phục nghị lực của những người thường như Từ Diễm và Lý Ức.

Nghê Toản luôn quan niệm bọn quái gở trên đời thì lắm, song khí độ con người – như Trang Tử từng nói: 'Không buồn thuận theo đường đời gọi là chết đắm trên cạn' – thì làm cho bụng dạ anh ta như có con sâu quằn quại đục rỗng ra cái nỗi tò mò về quá khứ của Lý Ức lẫn Từ Diễm. Nghê Toản đã hỏi thăm mọi người quen trong triều nhưng bọn họ chỉ biết Từ Thái bộc từng tại chức ở những vị trí nào, và chẳng một ai nghe qua cái tên Lý Hoài Hữu.

Trước tình cảnh bế tắc như vậy, Nghê Toản không khỏi nản lòng, lại có phần vừa buồn vừa trách Lý Ức không tin tưởng mình. Trước ngày rời kinh, nhà ngoại bày tiệc tiễn chân anh ta, ngoài thân bằng quyến thuộc tham dự thì chỉ mời một số bạn bè thân mật. Giữa tiệc, ông cậu giới thiệu với Toản một ông người tròn trặn, mày râu nhẵn nhụi, môi đỏ hay cười: "Vị này là Lương công công, Lương Tiễn, phụ trách ghi chép vật xuất nhập tại phủ Nội Vụ. Cháu có chuyện gì thì hỏi ông ấy thử xem."

Nghê Toản vừa nghe liền hiểu ông Lương Tiễn này biết gì đó về Lý Ức. Anh ta liền đứng lên kính rượu làm quen, hỏi ra mới biết Lương Tiễn và Thái bộc là bạn, nhờ vậy hai bên nhanh chóng cởi mở. Hồi trẻ Lương Tiễn từng làm lễ quan ở phủ Tương vương, ông biết đến Lý Ức và Từ Thái bộc từ độ ấy.

Nghê Toản ân cần tiếp chuyện, dầu Lương Tiễn không có sự chuẩn bị trước nhưng trí nhớ lại rất minh mẫn, tuy nhiên trong đây có những điều là ông ấy nghe người khác kể lại chứ không tận mắt chứng kiến; vì vậy, nội dung câu chuyện gốc tương đối dài dòng và có phần kịch tính lạ thường. Sau khi nghe xong, Nghê Toản phải nghiền ngẫm gạn lọc và sắp xếp lại các chi tiết mới ra một bản văn hoàn chỉnh như sau:

Để hiểu về bối cảnh quá khứ, trước tiên phải nói về gia thất của Biện vương Khải. Biện vương là hoàng tử thứ tư của Thượng hoàng, thành hôn với vương phi Trần thị xuất thân từ phủ Ngạn Công, trong các vợ lẽ có hai bà nổi bật là Trương thị, nay là Quý phi; và Đổng thị, nay là Tuyên phi.

Vợ lẽ sinh cho Biện vương trưởng nam, nhưng đứa bé lên hai thì chết non nên không được tính vào thứ tự các con trai. Trương thị sinh ra con trai thứ hai là anh Cả Lưu Đán, thị thiếp sinh anh Hai Lưu Thục, tiếp theo chính là anh Ba Lưu Trang. Sau khi Biện vương lên ngôi, trung cung Trần thị sinh đích tử Lưu Dung. (Sau này, bệ hạ có thêm Ngũ và Lục hoàng tử nhưng họ đều lần lượt bệnh mất, hiện tại Hoàng tử Hân là người bé nhất.)

Riêng Lưu Anh là cháu, được Thiên tử đem vào cung ăn ngủ cùng với các hoàng tử trong vài năm. Sau khi Lưu Anh được ban thái ấp thì Lưu Đán, Lưu Thục và Lưu Trang cũng được sắc phong theo thứ tự là: Mục vương, Tương vương và Yên vương*.

* "Mục" tức cung kính, "Tương" tức giúp đỡ (lẫn nhau), "Yên" tức (giữ mình) an tĩnh. Từ đây, có thể thấy lòng Dụ Đế có chiều hướng nghiêng về con trai đích; mặt khác, là một vị vua ghét tranh đấu, ông nuôi hi vọng các con sẽ chung sống hòa hợp.

Thuở bé, Lưu Thục và Lưu Trang đều mồ côi mẹ ruột. Vương phi hiếm muộn, trông thấy Thục kháu khỉnh nên có ý nhận nuôi. Lưu Thục ở cùng Trần thị (nhưng không làm lễ nhận con như Đổng thị nhận nuôi Lưu Trang) cho đến khi đích tử ra đời. Sau khi có con đẻ, trung cung lấy cớ Lưu Thục đã lớn mà bắt hắn dọn khỏi cung Khôn Ninh. Đức bà lo liệu cho Thục cưới vợ và nhận sắc phong xong xuôi thì không ngó ngàng nữa.

Mặc dù bị đối xử thờ ơ nhưng Tương vương không hề oán hận trung cung, trái lại còn rất cưng em, hễ về kinh là không bao giờ quên chất đầy một rương đồ chơi sưu tầm ở dân gian đem cho đích tử. Có lần Lưu Thục tậu được một cây đèn pha lê của người Tây Dương. Đích tử thấy cây đèn lấp lánh đủ màu nên rất thích, ngờ đâu Trần Hoàng hậu nhìn sang thì hoảng hồn. Bởi vì... cây đèn đó được tạo hình một cái thủ cấp trơ xương.

Đó chỉ là một trong vô khối những chuyện khôi hài xung quanh Tương vương, ví như có lần hai tì thiếp may hai cái áo ấm, cùng lúc đem tặng cho chồng, sau đó tị nạnh nhau ở ngay ngoài sân. Tương vương vội vã chạy ra can, do không dám bên trọng bên khinh nên đành bảo để mình mặc luôn hai cái áo ra đường. Khốn nỗi tròng hai cái áo thì dày quá, làm thân mình Tương vương phồng lên như cái vại biết đi, ai xem thấy cũng cười ngất ngưởng.

Lương Tiễn nhận xét: "Văn Tuyên điện hạ cũng nhân hậu, cũng lấy vợ sang, vậy mà chẳng bao giờ có chuyện thê thiếp dám trèo lên đầu lên cổ ngài ấy. Chỉ có mỗi Tương vương lành như cục đất mới sẵn lòng làm trò cười cho cả vùng như thế."

Sau đây là câu chuyện chính: Độ mười mấy năm về trước, trên đường lên kinh, Tương vương chê bai công quán không đủ tiện nghi, đòi ra ở nhà khách cho thoải mái. Ngủ dậy một đêm, Thục bực mình nói: "Phòng bên kia có ai đang ốm, ho sù sụ suốt làm ta không ngủ được. Bắt họ chuyển phòng ngay đi."

Tùy tùng lĩnh mệnh. Tương vương đang ngồi thì bất chợt cách vách có một tiếng vang, sau đó là một loạt tiếng động như ai ném đồ rồi dừng hẳn. Lúc sau, tùy tùng sượng mặt trở về bẩm: "Cách vách là một vị công tử họ Lý, không biết đã ốm bao lâu rồi nên tính khí rất cáu kỉnh. Lúc nãy... nếu điện hạ có nghe, là tiếng Lý công tử ném đồ phản đối đó ạ."

"Thế còn chẳng phải gã đó đang ném vào mặt ta sao!" Tương vương giận dữ, vùng dậy dẫn người đi sang thị uy. Lưu Thục hầm hầm xông vào phòng, chưa kịp "tỏ oai phong" thì bắt gặp một vị công tử trẻ tuổi ôm cầm ngồi dựa trên giường, vóc dáng thư nhàn, khuôn mặt đỏ ửng, có vẻ khêu gợi tình tứ như Tư Mã Tương Như gảy đàn dụ Trác Văn Quân*. Bất chợt cơn giận như trôi đi đâu mất, bệnh Tề Tuyên* nổi lên đùng đùng.

* Tư Mã Tương Như gảy khúc "Phượng cầu hoàng" để quyến rũ Trác Văn Quân, hai người bỏ trốn rồi nên duyên vợ chồng.
Khi đàm đạo với Mạnh Tử về chuyện trị quốc, Tề Tuyên vương từng nói: "Quả nhân có bệnh, quả nhân hiếu sắc". Vì thế, "bệnh Tề Tuyên" tức là thói hiếu sắc của vua chúa.

Tương vương trời sinh đa tình, rất âu yếm cái đẹp, vì vậy chẳng những không hỏi tội mà còn mừng rỡ lao vào làm quen; hỏi ra mới biết đối phương là đội mua hàng cho Hoàng Sơn Lý thị, giữa đường do công tử Lý Ức ốm quá nên đành phải dừng chân. Lưu Thục biết họ sợ đến trễ không nhận được hàng nên gợi ý nhóm mãi biện cứ đi trước, còn nhóm của Lý công tử sẽ đi cùng với mình lên kinh sau. Bọn họ hỏi ý kiến Lý Ức, y ưng thuận. Vì vậy, hôm sau nhóm mãi biện tiếp tục công việc, còn Lý Ức và một số hộ vệ thì ghép đoàn với Tương vương.

Trong những ngày đi đường, vì Lý công tử ốm suốt nên Tương vương luôn lấy cớ "hỏi thăm" để gặp gỡ. Cả hai trò chuyện tâm đầu ý hợp nên nhanh chóng mở lòng. Lưu Thục hỏi Lý Ức vì sao lên kinh, y đáp: "Tôi đi thăm một người bạn. Anh ta cưới vợ mà chẳng báo với tôi một tiếng. Mãi tháng trước tôi mới giật mình nghe đâu anh ta đã có đến tận ba đứa con nên vội vàng gói ghém lên kinh xem mặt các cháu tròn méo thế nào."

Hai người đều là khách nhã, rỗi rãi sẽ cùng ngâm thơ xướng họa, gảy đàn thổi tiêu. Lý Ức như Trường Khanh tái thế, Lưu Thục lại tựa Tiêu Sử* giáng trần, bọn họ cầm tiêu hợp tấu, quả thực trên đời không ai sánh bằng. Thấy đối phương có tài, Tương vương càng thêm nâng niu quý trọng.

* Trường Khanh là tên tự của Tương Như (chú thích ở Chương 26). Tương truyền Tiêu Sử là thần tiên được Ngọc Hoàng phái xuống để kết duyên với công chúa Lộng Ngọc con vua Tần Mục công. Khi Tiêu Sử thổi tiêu thì chim phượng cũng bay múa theo điệu nhạc.

Vào kinh, Lý Ức từ biệt để về nhà họ hàng, Tương vương cũng không cố giữ. Ban đầu, đôi khi Thục nhớ mong sẽ cảm khái vài câu, tìm nghe "Phượng cầu hoàng". Vậy mà ngờ đâu được ngày qua ngày, tháng qua tháng, Lưu Thục hễ nhìn đàn cầm là nhớ Trường Khanh, hễ nhìn ống tiêu thì than thở "không ai hợp tấu với ta", tinh thần bất giác trở nên nóng giận, sầu bi thất thường.

Một lần Lương Tiễn đứng trực, tận mắt chứng kiến Lưu Thục vùng dậy, thẫn thờ đi đến bàn trải giấy nhúng mực, viết láu bốn câu thơ:

"Nằm mộng hồn chẳng đến (bên người ta yêu),
Còn một đường chết thôi.
Sa vào bước tương tư,
Mới hay tương tư khổ*!"

* Trích "Trường tương tư" của Lương Ý Nương.

Ngâm xong, Tương vương đột nhiên ngã xuống, từ đó như lâm bệnh nặng, ngày càng hao gầy. Bẵng qua thêm một năm, Lưu Thục lên kinh. Văn Tuyên xưa nay thân thiết với Thục, gạn mãi hắn mới chịu giãi bày tâm tư.

Lưu Anh nghe mà giật mình, lấy tình lý can ngăn: "Bệnh Long Dương* là thứ ngược đời vô lý, làm hư hỏng nết người, đệ nên hết sức chê trách, lánh xa cái thói xấu xa đấy chứ sao lại còn dây vào? Ta khuyên đệ bỏ ngay ý nghĩ bậy bạ, từ nay chú tâm tu thân tề gia, vào triều giúp quân vương, ra ngoài làm rạng danh nước, sinh con dạy cái nên người, chớ nên ngựa quen đường cũ sa xuống chỗ bùn lầy không thể rửa sạch. Huống hồ nếu Lý công tử là bậc tài hoa thì sau này có thể sẽ làm khanh làm tướng, tiền đồ vẻ vang, đệ càng không nên giở thói đa tình mà mạo phạm đến người trong sạch."

* Thời Chiến quốc, có Long Dương Quân là bề tôi rất được vua nước Ngụy yêu mến. Từ đó, người xưa dùng "bệnh Long Dương" để chỉ "bệnh" thích nam hơn nữ.

Tương vương cúi đầu nín thinh, hai má đỏ rực vì xấu hổ. Văn Tuyên vốn là người hiền hậu, không tiếc ngày ngày thăm hỏi khuyên lơn hắn. Nhờ vậy, Thục có vẻ nguôi ngoai.

Vài tháng trôi qua, mùa thu năm đó vườn quế trong điện Thiệu Phương nở rất đẹp, ngồi trên lầu Dạ Tước ngắm nhìn, bốn phía nối dài một dải lá hoa chen chúc như gấm như mây, hoa vây cụm như thoi vàng thoi bạc ai giắt lên cành. Tương vương tức cảnh sinh tình, bàn với Văn Tuyên để hội họp huynh đệ uống rượu ngắm hoa cho khuây khỏa.

Mấy ngày sau, các hoàng thân quây quần trên lầu Dạ Tước, Yên vương dẫn theo Đổng công tử cho thêm đông vui. Trời sinh Đổng Húc mặt xuân dáng trúc, như cây ngọc đón gió, như hoa rọi mặt hồ. Lưu Thục không khỏi nhìn ngắm chằm chằm. Húc thấy, đẩy Yên vương: "Điện hạ, có kẻ hiếu sắc làm thần sợ hãi. Điện hạ mau bảo lính canh bắt hắn dìm lồng heo đi."

Lưu Trang vùng dậy tránh sang một bên, cười phủi tay: "Mấy người muốn 'bệnh' với nhau thì 'bệnh', đừng có lôi ta vào!"

Cung nhân đứng hầu bốn góc không nén được tiếng cười. Tương vương xấu hổ không nhìn nữa. Một lúc sau, Văn Tuyên và Mục vương lần lượt lên lầu, đích tử Dung chậm rãi đến cuối, tay ôm lồng ấp bằng vàng chạm đầu lân ngậm ngọc.

Lưu Anh chọc: "Cái lồng ấp này là của Ngụy tiến cống, năm ngoái ta từng thấy trung cung cầm. Tội nghiệp đệ ấy cầm cái lồng ấp nặng như núi nên mới không nhấc nổi chân để đến sớm!"

Mọi người bật cười. Lưu Dung thở dài: "Đệ có muốn cầm đâu, trời còn chưa lạnh nữa là. Tại mẫu hậu cứ dúi vào trong tay đệ." Nói rồi cởi áo choàng ngồi vào bàn.

Hương hoa ngào ngạt, cảnh đẹp như tiên. Để cho bữa tiệc thêm vui, Văn Tuyên đứng ra tổ chức tửu lệnh*, nội thị bưng lên một ống trúc đựng những thẻ dẹt bằng ngọc trắng có khắc lời trong Kinh Thi. Chủ sự tung xúc xắc, lượt đầu đếm tới Lưu Trang bắt thăm, trên thẻ viết: 'Trẻ con đeo thiếp* học đòi, không tài ba được như ta', lệnh là: Ai nhỏ tuổi hơn phải uống một chén.

* Lối chơi "phạt rượu" tao nhã của người xưa, rất đa dạng hình thức tổ chức. Về cơ bản là sẽ có một người điều khiển trò chơi, tung xúc xắc (hoặc chuyền cành hoa trong tiếng trống...) để chọn trúng người "bị phạt".
"Thiếp" là cái bao da đeo vào ngón cái khi bắn cung.

Đổng Húc cười bảo: "Mới lượt đầu tiên mà đã khó thế rồi! Ở đây chỉ có tôi với Tứ điện hạ là nhỏ hơn ngài, tôi uống thì không sao, nhưng Tứ điện hạ thì uống thế nào được?"

"Đừng có lắm lời." Lưu Trang rót đầy hai chén rượu: "Ta cứ bắt các người phải uống!" Nói rồi đưa chén tới tận miệng đút Đổng Húc uống hết. Thấy sắp đến lượt mình, Lưu Dung đứng dậy vòng ra sau lưng Lưu Thục, cười nói: "Ca ca, cứu đệ với!"

Thục liền bảo: "Đưa đây, ta uống thay!"

Thấy vậy, Lưu Đán lắc đầu bảo: "Thế này là không được. Ai chơi tửu lệnh cũng phải chịu phạt, có mình A Dung không uống thì không công bằng với chúng ta. Mời chủ sự đưa ra hình phạt khác cho đệ ấy."

Lưu Anh: "Đại ca nói đúng lắm. Ta có ý này, Tứ đệ chưa biết uống rượu thì phạt đệ ấy hát một bài."

Lưu Dung cười phản đối: "Đệ có biết ca hát gì đâu. Hôm nay đệ có mang đàn theo, để đệ gảy theo yêu cầu của các huynh."

Lưu Thục nửa đùa nửa thật dí trán Tứ đệ nói: "Mọi người nghe thấy cái miệng láu cá này chưa? Chẳng trách phụ hoàng thương yêu đệ ấy! Hôm nay chẳng ai biết Văn Tuyên sẽ làm tửu lệnh, vậy mà Tứ đệ đã liệu trước để đem đàn theo. Thế là chúng ta chẳng ai có thể làm bẽ mặt đệ ấy mà chỉ có đệ ấy tự phạt mình bằng sở trường thôi!"

Đổng Húc cầm lấy đàn từ tay nội thị, tấm tắc khen đẹp rồi cố ý nói vào tai Yên vương: "Nghe bảo Tứ điện hạ đàn hay lắm. Hôm nay chúng ta phải phạt ngài ấy gảy đàn đến gãy tay mới được!"

"Lúc nãy ai mới bảo không 'bệnh' đấy? Thế mà bây giờ đã rầm rầm rì rì 'bọn mình' với nhau rồi!" Tương vương trỏ vào hai người: "Bổn vương sẽ dìm lồng heo chúng bay!"

Nghe thế, Lưu Đán phụt cười văng cả trái nho vừa bỏ vào miệng. Lưu Anh đỏ bừng mặt quát khẽ: "Im đi ba cái tên thô lỗ này! Ở đây còn có A Dung đấy!"

Mục vương Đán uống miếng trà nhuận họng, lừ mắt cảnh cáo: "Bây giờ có ngồi đàng hoàng không? Ta còn nghe đứa nào nói bậy bạ thì sẽ mách phụ hoàng cấm túc đứa đó!"

Năm người còn lại vâng dạ. Văn Tuyên tằng hắng tiếp tục điều khiển tửu lệnh, lượt của Lưu Trang chưa hết, hắn nói Lưu Dung gảy một đoạn "Ỷ lan*" là xong. Lượt tiếp theo cũng chơi như vậy, đếm tới ai thì bắt thăm rồi hành lệnh, riêng phạt Lưu Dung bằng một khúc đàn. Chơi qua mấy lượt, Lưu Dung rút được thẻ có câu: 'Thiếp nhớ nhung quân tử, chàng mỹ mạo như ngọc', lệnh là: Ai có tật hiếu sắc uống một chén.

* Khúc nhạc Khổng Tử viết khi nhìn thấy hoa lan trong núi.

Mọi người đều cười nhìn Lưu Thục. Đổng Húc rót đầy chén rượu, cố ý đi qua đưa lên môi Tương vương: "Rượu này phải do chính tay tôi đút ngài uống mới là đúng lệnh."

Lưu Thục vừa tức vừa xấu hổ, vừa lúng túng, bèn nhắm mắt uống một hơi cạn sạch rồi đẩy Chiêu lang về chỗ.

Văn Tuyên tung xúc xắc, đếm đến Đổng Húc. Y xoa xoa hai bàn tay, rút được thẻ ghi: 'Xem chàng quân tử đắc chí, tay trái cầm sáo ngông nghênh', lệnh là: Kính người ngồi bên trái một chén.

Yên vương chợt đứng dậy tránh khỏi chỗ. Húc ngẩng mặt cười: "Điện hạ đi đâu vậy? Chờ tôi kính rượu ngài đã chứ."

Yên vương cười như không cười: "Chẳng ra thể thống gì cả."

Lưu Thục vỗ tay: "Nó vừa mới chế giễu ta, giờ quả báo đến trước mắt!"

Lưu Trang vẫn đứng im: "Ta cứ nhất định không uống đấy."

Mục vương Đán tằng hắng bảo: "Mọi người biết vì sao Tam đệ không chịu uống chén này không? Bởi vì lúc nãy nó cao hứng quá, lỡ tay đút rượu cho Đổng công tử, bây giờ nếu để Húc đút rượu ngược lại nó thì thành ra bọn chúng vừa làm lễ hợp cẩn* rồi!"

* Lễ tân lang, tân nương chuốc rượu nhau trong đêm động phòng.

Cả chủ lẫn tớ cười ầm ĩ. Đổng Húc bưng rượu định chụp lấy tay áo Yên vương, Lưu Trang tránh ra: "Nói chuyện đàng hoàng, chớ có lôi lôi kéo kéo."

Húc than thở: "Điện hạ phải thông cảm cho tôi với. Các vị điện hạ ở đây ai cũng đang như hùm chực vồ lấy tôi đây này!"

Văn Tuyên cười lớn: "Các huynh đệ xem kìa! Lúc Đổng công tử đâm hông chúng ta thì Lưu Trang cứ ngồi cười chẳng nhắc nhở tiếng nào, vậy mà đến lượt nó bị trêu ghẹo thì liền giở cái thói nhỏ nhen đấy ra! Như thế là đáng bị phạt lắm!" Nói đoạn kéo Tương vương đứng dậy, "Lưu Thục! Chúng ta đi giữ Tam đệ lại!"

Lưu Thục và Lưu Anh mỗi người lao lên ôm chặt một cánh tay Lưu Trang. Lưu Trang không dám hất bọn họ ra, đành lườm mắt uống hết chén rượu Đổng Húc đút cho. Cười đùa đã xong, ai nấy về chỗ ngồi. Có lẽ vì sợ làm Lưu Trang giận thêm nên mấy lượt chơi tiếp theo, Đổng Húc chỉ ngồi cười mà không nói gì.

Tương vương vẫn chưa muốn tha cho Húc, lại nói cạnh: "Đúng là nó chỉ sợ Tam đệ chứ gặp chúng ta thì nó liền tìm cách 'đâm hông móc họng'. Bây giờ tự nhiên nó im miệng rồi thì không biết đang chửi thầm thế nào đây."

Đổng Húc mỉm cười, cố ý gác một chân lên ghế, tỏ vẻ khinh bạc nghiêng đầu, lừ mắt nhìn sang: "Được, được, được. Ngay tối nay tôi dọn khỏi phủ Yên vương đến ở với Tương điện hạ, để xem sau này là tôi sợ ngài, hay là ngài sợ tôi!"

Lưu Thục đỏ mặt không đáp lại được. Lưu Anh xoa lưng hắn: "Đệ đi kiếm chuyện với nó làm gì, nó mặt dày hơn tất cả chúng ta, câu nào câu nấy nói ra đều không biết xấu hổ!"

Văn Tuyên lại tung xúc xắc, đếm đến Lưu Dung, y rút được thẻ ghi: 'Lòng thiếp nào phải đá, chớ tùy chàng chuyển lay', lệnh là: Ai giữ mình xa chữ sắc uống một chén.

Lưu Anh cười đẩy Lưu Thục: "Sao mấy cái lệnh A Dung rút trúng cứ nói cạnh khóe đệ thế!"

Thục lại trỏ về phía Đổng Húc: "Đâu phải có mỗi ta, Lưu Trang cũng phạm vào lệnh này mà!"

Lưu Trang cười đứng dậy: "Thì ra hôm nay các huynh tụ tập để chọc ghẹo ta! Còn ở lại làm gì nữa, ta đi về cho lành!"

Nói rồi chực đi ngay. Lưu Dung phân giải: "Lệnh này không rõ ràng. Cái gọi là 'sắc' bao hàm hết mọi thứ trên đời, phải tùy người mà phán xét, đối với Nhị ca thì sắc là người có gương mặt đẹp. Nhưng với Văn Tuyên huynh thì hẳn là thi từ ca phú của tiền nhân, đối với Tam ca thì có thể là võ nghệ binh khí, đối với Đại ca lại là thứ khác nữa. Đã vậy, tất cả chúng ta đều có cái 'sắc' của riêng mình."

Nghe vậy, Lưu Trang đi vòng lại trỏ lên bục: "Ta nói thật, lời của Tứ đệ lúc nào cũng vừa lòng người ta. Đang nóng ruột nghe xong mà tưởng như được sương trên cành dương liễu của Bồ Tát tưới mát. Hay là đệ lên đây* ngồi đi, để chúng ta vái mấy cái!"

* Bục đặt tượng thần.

Bọn họ cười một trận ngặt nghẽo, Mục vương và Tương vương ôm lấy bụng nằm nhoài ra bàn. Văn Tuyên suýt ngã ngửa, may là Đổng Húc đỡ kịp. Lưu Anh dựa vào Húc, vừa thở vừa nói: "Thôi, thôi. Chơi nữa thì không khéo cả đám đoạn khí* thành tiên hết đấy! Ta mệt rồi, không làm nữa đâu. Hoa nở như gấm thế này mà người nào người nấy cứ nói toàn chuyện gió trăng, không sợ phụ lòng cảnh đẹp à? Ngồi yên uống rượu ngắm hoa đi!"

* (Cười đến) tắt thở.

Sở dĩ Lương Tiễn có thể nhớ rõ chi tiết của cuộc chơi tửu lệnh này như thế, đầu tiên, là một lễ quan, giám sát mọi lời ăn tiếng nói và cử chỉ của các ngài là trách nhiệm của ông. Mặc dù ông tự giác không xía miệng vào khi các ngài đang vui, nhưng sau đó ông vẫn sẽ nhắc nhở Tương vương về những ngôn hành không hợp phép tắc. Lý do thứ hai là sau khi Thiên tử nghe kể về bữa tiệc này cũng rất mừng rỡ, lệnh cho những cung nhân có mặt tại đó miêu tả cho họa sĩ vẽ một bức tranh, đặt tên là "Tửu lệnh trong tiệc hoa quế mùa thu", từng được treo tại chính sảnh của điện Thiệu Phương.

"Sau khi Mục vương Đán về cõi tiên, bởi vì Thiên tử sợ nhìn vật nhớ người nên đã sai tháo tranh xuống cất đi, về sau không thấy ai nhắc nhỏm nữa." Lương Tiễn nói.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com