Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

tlbthoi1012

Hồi 10(a)

HOÁN SÀO LOAN PHƯỢNG

Tưởng đâu khói phất phơ bay,

Ai ngờ kiếm khí tràn đầy không gian.

*

* *

Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói Mộc Uyển Thanh đêm hôm qua đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi mất rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi hai người thì cũng đã lên đường đi về hướng bắc từ sớm.

Đoàn Chính Thuần dẫn theo Tam Công, Tứ Hộ Vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu. Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.

Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng tụng kinh thì một tên thái giám tiến vào bẩm:

- Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma làm, đã thỉnh Thái y đến chẩn bệnh.

Bảo Định Đế lo quá, từ khi Đoàn Dự bị trúng phải chất độc của thái tử Diên Khánh rồi chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng như thế, lập tức sai hai tên Thái y đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo:

- Hoàng thái đệ thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.

Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài ngọa thất của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi toàn là các loại khí mãnh bị đổ vỡ. Thị bộc ở bên ngoài thấy nhà vua liền quì xuống tiếp giá, ai nấy vẻ mặt kinh hoàng.

Bảo Định Đế đẩy cửa bước vào thấy Đoàn Dự đứng giữa phòng hoa chân múa tay, bao nhiêu bàn ghế cùng các loại trần thiết, đồ dùng văn phòng bị chàng vứt tung tóe. Hai tên thái y chạy đông né tây cực kỳ gấp rút. Bảo Định Đế gọi lớn:

- Dự nhi! Cháu sao thế?

Thần trí Đoàn Dự vẫn tỉnh táo như thường có điều chân khí trong người quá thịnh tưởng như muốn vỡ toang lồng ngực thành thử múa may quay cuồng đập phá đồ đạc một hồi thấy dần dần đỡ hơn. Chàng thấy Bảo Định Đế đi vào kêu lên:

- Bá phụ ơi! Cháu chết mất.

Hai tay chàng vung lên vòng vòng trên không. Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói:

- Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên.

Bảo Định Đế an ủi:

- Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.

Ông quay sang hỏi Đoàn Dự:

- Cháu thấy trong người thế nào?

Đoàn Dự liên tiếp dậm chân kêu lên:

- Điệt nhi toàn thân căng phồng lên thật là khó chịu.

Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.

Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được đạo dẫn nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, sử dụng Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.

Một tên thái y nói:

- Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vi thần trích huyết cho ra bớt đi không biết có được hay không?

Bảo Định Đế nghĩ thầm phương pháp này may ra có thể áp dụng bèn gật đầu nói:

- Được, ngươi rút bớt máu ra cho y đi.

Tên thái y tuân lệnh, mở hộp thuốc ra lấy từ trong hộp gốm ra một con đỉa thật to. Đỉa dùng để hút máu ứ trong người bệnh nhân thật là tiện lợi, lại không đau. Y cầm tay Đoàn Dự để con đỉa đúng vào ngay chỗ huyết quản. Con đỉa đụng phải tay Đoàn Dự rồi liên tiếp ngọ ngoạy, dù ép cách nào cũng không chịu cắn vào tay Đoàn Dự. Gã thái y lạ lùng dùng sức đè nó xuống, một lát sau con đỉa dãy một cái chết mất rồi. Gã thái y thấy bị bẽ mặt trước mặt hoàng đế, mồ hôi trán tong tỏng nhỏ xuống vội vàng lấy một con đỉa khác nhưng rồi cũng chết.

Một tên thái y lo lắng tâu lên:

- Khải bẩm hoàng thượng, trong mình thế tử có chất kịch độc, đến ngay cả đỉa cũng phải chết.

Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, dẫu loại rắn rết gì ngửi thấy mùi cũng phải chạy cho xa, dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi chỉ là một con đỉa nhỏ nhoi?

Bảo Định Đế trong bụng bồn chồn hỏi lại:

- Thế là loại độc dược gì, lợi hại cỡ nào?

Một tên thái y nói:

- Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải một độc vật cực nhiệt, còn tên ư? Đó là ... đó là ... vi thần ngu dốt ...

Tên thái y kia cãi lại:

- Không phải, mạch của thế tử âm hư, độc tính cực hàn, phải dùng nhiệt độc để trung hòa.

Trong cơ thể Đoàn Dự có các luồng nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu lại cũng có các luồng âm nhu của Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc hai tên thái y mỗi bên một cách không ai nói được thực sự nó là cái gì.

Bảo Định Đế thấy hai người tranh luận, cả hai đều là danh y giỏi nhất nước Đại Lý, bây giờ quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.

Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ một người tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói:

- Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử ba vị đều có phản quan mạch.

Tên thái y kia liền cãi:

- Ba vị đại phú đại quí nào có phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên đâu.

Người kia nói:

- Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.

Thế nhưng gã kia đâu có tin là thế nghĩ thầm: "Người đại phú đại quí tưởng không chết non à?". Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.

Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.

Đoàn Dự rùng mình kêu lên:

- Chao ôi!

Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy. Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi:

- Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu của Tinh Tú Hải chăng?

Đoàn Dự lắp bắp:

- Đinh ... Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.

Bảo Định Đế nói:

- Nghe nói y là một ông già trông rất tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.

Đoàn Dự đáp:

- Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.

Bảo Định Đế nói:

- Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công đại pháp, có thể phế trừ được võ công tu luyện cả đời của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao ... sao lại học được tà môn đó?

Đoàn Dự vội đáp:

- Điệt nhi chưa ... chưa từng học bao giờ. Hóa Công đại pháp của Đinh Xuân Thu kia, đây là lần đầu tiên cháu được nghe bá phụ nói tới.

Bảo Định Đế xem chừng chàng không dám nói láo nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: "Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học mông công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó ngẫu nhiên làm hại ta và Thuần đệ. Hà hà, người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền".

Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy những vết máu, cố hết sức gắng gượng mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con:

- Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.

Bảo Định Đế nghĩ thầm: "Cái nạn đề này chỉ còn cách lên chùa Thiên Long cầu giáo thôi". Ông bèn nói:

- Dự nhi, ta đưa cháu đi bái kiến vài vị trưởng bối mong rằng họ có cách để trị tà độc cho cháu.

Đoàn Dự đáp lời:

- Vâng!

Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.

Chùa Thiên Long nằm ở ngọn trung nhạc phía bắc dãy núi Điểm Thương ở bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng người trong nước quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ_, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường_, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước_ gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: "Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo"_. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo_.

Họ Đoàn từ xưa tới nay các triều vua thường rời ngôi báu thì xuất gia làm sư, ai nấy đều tu tại chùa Thiên Long thành ra chùa Thiên Long cũng là gia miếu của hoàng thất được tôn vinh hơn cả trong các chùa chiền trong nước. Các vị hoàng đế sau khi xuất gia rồi, con cháu đến ngày sinh nhật thường lên chùa lễ bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn_, cấu trúc tinh kỳ so với danh sơn thắng địa ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi_ là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở sâu tại nam cương nên tên tuổi không mấy vang dội.

Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến tận chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.

Nếu tính vai vế trong họ ở ngoài đời thì Bản Nhân đại sư là chú của Bảo Định Đế, người xuất gia không giữ lễ quân thần, cũng không theo bối phận trong gia tộc nên hai bên dùng lễ phép ngang hàng mà xưng hô. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.

Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói:

- Xin mời theo ta đến Mâu Ni Đường để gặp ba vị sư huynh sư đệ.

Bảo Định Đế đáp:

- Làm phiền đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng quả thực tội lỗi quá lắm.

Bản Nhân phương trượng đáp:

- Trấn Nam thế tử mai sau là tự quân của nước Đại Lý ta, trên vai gánh vác họa phúc của trăm họ. Kiến thức nội lực của bệ hạ còn hơn cả ta nữa nhưng đã phải tới đây hỏi thì chuyện ắt là khó khăn trăm phần. Một mình ta không thể quyết định phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.

Hai chút tiểu đi trước dẫn đường đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.

Bản Nhân phương trượng chắp hai tay nói:

- A Di Đà Phật, Bản Nhân có một việc nghi nan bất quyết đến làm phiền công quả của ba vị sư huynh đệ.

Trong nhà có tiếng người vọng ra:

- Mời phương trượng vào.

Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa kẹt kẹt đủ biết bình thời ít ai dùng đến. Đoàn Dự đi theo phương trượng và bá phụ tiến vào, chàng nghe phương trượng nói đến "ba vị sư huynh sư đệ" nhưng trong nhà có đến bốn nhà sư mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba nhà sư ngồi hướng ra ngoài, trong đó hai người mặt khô héo còn một người cao to hồng hào. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.

Bảo Định Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của phương trượng Bản Nhân, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, các nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu nên không thể phân tâm, trước sau không để ý gì tới. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni vốn nghĩa là tĩnh mịch, trầm mặc, nơi đây được đặt tên Mâu Ni Đường nên càng nói ít chừng nào tốt chừng nấy, nên vắn tắt kể lại chuyện Đoàn Dự bị trúng tà độc, sau cùng kết luận:

- Thỉnh cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho một con đường sáng.

Bản Quan trầm ngâm một hồi, quay sang Đoàn Dự ngắm nghía thật lâu rồi mới nói:

- Hai vị sư đệ ý kiến ra sao?

Bản Tham nói:

- Nếu bị tổn thất nội lực e rằng không luyện xong được Lục Mạch Thần Kiếm.

Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm trong lòng chấn động nghĩ thầm: "Khi còn bé ta từng nghe cha ta nói đến họ Đoàn chúng ta tổ tiên có một môn võ công gọi là Lục Mạch Thần Kiếm, uy lực vô cùng ghê gớm. Thế nhưng cha ta cũng nói rằng cái đó cũng chỉ truyền lại vậy thôi chưa nghe nói vị tổ tiên nào luyện được, ngay cả công phu đó thần kỳ bậc nào cũng không ai hay biết. Bản Tham đại sư nói như vậy hóa ra có môn kỳ công này thật". Ông chợt nghĩ: "Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không nhờ vào sức của năm người thì làm sao mà trị được?". Trong lòng ông tuy thấy băn khoăn nhưng cũng không lên tiếng từ chối.

Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu đôi lông mày rủ xuống lim dim đứng vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí. Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói:

- Thiện tai! Thiện tai!

. Bảo Định Đế nói:

- Dự nhi, bốn vị tổ công trưởng lão không ngại tổn hao công lực, giúp con khu trị tà độc, mau khấu đầu bái tạ.

Đoàn Dự nhìn thần sắc của bá phụ và cử chỉ của tứ tăng biết việc này không phải tầm thường, lập tức quì về phía bốn nhà sư khấu đầu từng người. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Đế nói:

- Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không sử dụng chút lực khí nào, nếu như đau nhói, ngứa ngáy, chỉ là hiện tượng bình thường chớ có kinh hãi, khiếp sợ.

Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.

Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng khí một chút rồi ấn vào sau huyệt Phong Phủ sau ót Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phủ nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch. Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.

Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực ngang ngửa nhau, chỉ nghe tiếng vèo vèo, năm nguồn thuần dương nội lực cùng tống vào cơ thể Đoàn Dự. Đoàn Dự thân thể rung động, lập tức thấy người thật là thư thái ấm áp chẳng khác gì đang lúc mùa đông ra sưởi nắng ngoài trời. Năm người vừa vận kình thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào người chàng không còn cách nào khác mỗi khi truyền tới biển khí nơi huyệt Đãn Trung thì lập tức chứa vào đó. Năm đại cao thủ họ Đoàn người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hoảng đầy nghi vấn, không hiểu ra sao.

Bỗng nghe một gầm thật lớn, tai người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một luồng nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng nhiếp phục kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào tường lên tiếng:

- Cường địch nội trong hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long hàng trăm năm nay lung lay muốn đổ, đứa trẻ miệng còn măng sữa này trúng độc cũng vậy, trúng tà cũng vậy, lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?

Mấy câu nói nó đầy vẻ uy nghiêm. Bản Nhân phương trượng đáp:

- Lời dạy của sư thúc phải lắm.

Tay trái ông vẫy một cái, cả năm người cùng lui trở ra. Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sư thúc vội nói:

- Không biết có Khô Vinh trưởng lão nơi đây, vãn bối chưa kịp lễ kính quả thực có lỗi.

Thì ra Khô Vinh trưởng lão là người vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, chư tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tiếng chứ trước nay chưa hề bái kiến, chỉ nghe nói ông ta tu khô thiền_ một mình trong Song Thụ Viện, hơn chục năm qua chẳng nghe ai nhắc đến lại tưởng ông ta đã viên tịch rồi.

Khô Vinh trưởng lão nói:

- Việc có khinh trọng hoãn cấp, ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là tới rồi. Chính Minh, ngươi cũng nên biết việc này.

Bảo Định Đế đáp:

- Vâng!

Ông nghĩ thầm: "Đại Tuyết Sơn Đại Luân Minh Vương Phật pháp uyên thâm nhưng có liên quan gì đến chúng ta đâu?".

Bản Nhân phương trượng lấy trong túi ra một phong thư sáng choang để vào tay Bảo Định Đế. Bảo Định Đế cầm lấy thấy nặng chình chịch, lá thư đó quả thật kỳ dị, dùng vàng ròng dát thật mỏng làm phong bì trên khảm bạch kim thành chữ Phạn. Bảo Định Đế đọc được thấy viết là: "Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì". Ông mở ra lấy phong thư cũng là vàng lá dát thật mỏng đại ý viết:

"Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, đính giao kết bạn để đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung Bác tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm thèm khát. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, thật là đau lòng, muốn báo đền tấm lòng tri kỷ nên cầu xin quí tự cuốn kinh này để phàn hóa trước mộ của Mộ Dung tiên sinh, ngày một ngày hai sẽ đến lấy xin đừng từ chối. Bần tăng sẽ đem vật quí báu đến đáp đền chứ không dám đến tay không".

Dưới phong thư thự danh là "Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy". Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế đủ biết do thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là hai món bảo vật trân quí đủ biết người gọi là Đại Luân Minh Vương kia tiêu xài rộng rãi biết chừng nào.

Bảo Định Đế biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp, cứ năm năm một lần lại khai đàn giảng kinh thuyết pháp, các cao tăng đại đức ở Tây Trúc, Thiên Trúc kéo đến chùa Đại Luân chất vấn kinh kệ, nghiên thảo nội điển khi trở về ai nấy đều đẹp lòng tấm tắc khen ngợi. Bảo Định Đế Cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư này nói là y cùng Mộ Dung Bác đàm luận võ công hai bên kết thành tri kỷ vậy thì y cũng là một đại cao thủ trong võ học. Một người đại trí đại tuệ như thế không học võ thì thôi chứ nếu đã đi vào con đường này thì cũng giỏi không kể đâu cho hết.

Bản Nhân phương trượng nói:

- Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là bảo vật trấn tự, là đỉnh cao của võ học họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh, võ học tối cao của họ Đoàn ta là ở chùa Thiên Long, ngươi là người thế tục, tuy cũng là con cháu chúng ta, nhưng nhiều bí áo trong võ học cũng không tiết lộ cho ngươi được.

Bảo Định Đế đáp:

- Chính thế, việc đó vãn bối đã biết rồi.

Bản Quan nói:

- Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?

Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng nơi Lang Hoàn Phúc Địa trên những giá sách trống rỗng kia nơi thẻ "Đại Lý Đoàn thị" có đề "Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu", "Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu" bèn nghĩ thầm: "Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được". Chàng trong bụng có vẻ đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ sẽ rất đau lòng".

Chỉ nghe Bản Tham hậm hực nói:

- Gã Đại Luân Minh Vương kia nghe nói là một cao tăng nổi tiếng trên đời sao lại không thông đạo lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó? Chinh Minh, phương trượng sư huynh biết rằng kẻ tốt lành thì chẳng tới, có tới cũng chẳng hay ho gì, hậu quả việc này ra sao không phải là nhỏ nên tự mình không thể chủ trương được nên đã mới Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.

Bản Nhân nói:

- Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra thật là hổ thẹn, không một ai trong chúng ta luyện thành thân công ghi trong kinh, ngay cả có gì kỳ diệu ẩn dấu trong đó cũng không ai biết. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ kiết hạ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?

Khô Vinh lạnh lùng đáp:

- Xem ra không phải y dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Trong thư rõ ràng y rất khâm phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh lại thèm muốn bộ kinh này. Có điều y cho rằng bản tự không có cao nhân nào xuất quần bạt tụy, bảo kinh tuy quí báu thật nhưng không một ai luyện thành thật là uổng phí.

Bản Tham lớn tiếng nói:

- Nếu y ngưỡng mộ như thế xin hỏi mượn xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì cũng không lấy gì quá đáng. Tức nhất là chỗ y muốn đem đi đốt để cúng người chết, có phải coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?

Bản Tướng thở dài nói:

- Sư đệ chớ nên vì việc này mà giận dữ phiền não, ta xem gã Đại Luân Minh Vương kia chẳng phải là kẻ cuồng vọng đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát_ nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa dủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh. Ôi, bạn hiền đã chết, không còn thấy lại được người xưa ...

Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế nói:

- Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh này là ai không?

Bản Tướng đáp:

- Ta không biết. Thế nhưng thử nghĩ Đại Luân Minh Vương là hạng người như vậy mà còn khâm bội như thế thì Mộ Dung tiên sinh hẳn là người thật phi thường.

Nói xong ông lặng người đi. Bản Nhân phương trượng nói:

- Sư thúc xét tình thế bên địch, thấy rằng chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng bảo kinh không chừng bị người ta đoạt mất, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói. Có điều môn thần kiếm này toàn là do nội lực làm chủ không thể gấp rút một ngày một buổi mà xong. Chính Minh, không phải bọn ta thấy cháu Dự bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ sợ tất cả hao tổn nội lực quá nhiều, cường địch đột nhiên tới nơi thật khó mà chống đỡ. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng, cứ để cho y tĩnh dưỡng ở đây mấy hôm, thương thế nếu như có gì đột biến, chúng ta sẽ tùy thời tìm cách cứu chữa, đợi khi đẩy lui được đại địch rồi, tất cả sẽ giốc toàn lực khu trừ tà độc cho y, được chăng?

Bảo Định Đế tuy lo lắng cho bệnh trạng của Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, biết rằng chùa Thiên Long là gốc rễ của họ Đoàn nước Đại Lý. Mỗi khi hoàng thất gặp chuyện khó khăn, chùa Thiên Long đều hết sức cứu viện để chuyển nguy thành an. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi tất cả đều nhờ vào chùa Thiên Long hợp với trung thần Cao Trí Thăng dẹp loạn. Họ Đoàn Đại Lý được nước từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trải qua biết bao sóng to gió cả nhưng xã tắc cũng không bị sụp đổ đều là nhờ chùa Thiên Long ổn trấn kinh kỳ mấy lần, hôm nay chùa có việc khẩn cấp thật không khác gì xã tắc lâm nguy, bèn nói:

- Phương trượng nhân đức, Chính Minh cảm kích không để đâu cho hết, không biết để đối phó với Đại Luân Minh Vương, Chính Minh có đem chút lực nhỏ giúp đỡ gì được hay chăng?

Bản Nhân trầm ngâm đáp:

- Ngươi là cao thủ đệ nhất trong số tục gia của họ Đoàn ta, nếu như có thể liên thủ cùng ngăn chặn cường địch thì tiếng tăm càng tăng gia. Thế nhưng ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn, không khỏi khiến cho Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long này không có người.

Khô Vinh bỗng nói:

- Nếu chúng ta mỗi người luyện Lục Mạch Thần Kiếm riêng, thì dù là ai chăng nữa cũng không đủ nội lực, chẳng thể nào luyện thành. Ta đã từng nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ nhưng chúng ta đâu có phải chủ trương cùng y đơn độc tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều tính tới tính lui, trong chùa Thiên Long không tìm đâu ra sáu người chỉ lực tương đương cho nên vẫn trù trừ không quyết định được. Chính Minh, ngươi đến thật vừa đủ số. Có điều ngươi phải cạo đầu, mặc tăng y mới được.

Ông ta càng nói càng nhanh dường như có chiều hưng phấn, nhưng giọng nói vẫn lạnh như băng. Bảo Định Đế đáp:

- Qui y đầu Phật vốn là chí nguyện của Chính Minh này, có điều thần kiếm bí áo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng ...

Bản Tham nói:

- Công phu cơ bản của lộ kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.

Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại:

- Thỉnh phương trượng chỉ điểm.

Bản Nhân phương trượng đáp:

- Ngươi ngồi xuống đây.

Bảo Định Đế liền ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn. Bản Nhân nói:

- Lục Mạch Thần Kiếm không phải là kiếm thực mà là chỉ lực của Nhất Dương Chỉ dùng làm kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình khí kiếm. Sở dĩ gọi là lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.

Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục. Bản Tướng cầm lấy treo lên trên tường, quyển trục mở ra mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân, thân thể ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch màu đỏ và màu đen vận chuyển thế nào. Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ làm cơ bản nên ông vừa trông đã hiểu ngay.

Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên cẩm trục vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: "Kinh mạch huyệt đạo trên con người, nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ thành hình đàn bà, mà những người khỏa thân kia lại vẽ tướng mạo của mình là sao?". Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên ý nghĩ chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.

Bản Nhân nói:

- Chính Minh, ngươi là chủ của nước Đại Lý, cải trang mặc quần áo khác, tuy chỉ là kế quyền nghi nhất thời, nhưng nếu để đối phương nhìn ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Lợi hại hai bên thế nào, nhà ngươi tự quyết định lấy.

Bảo Định Đế chắp hai tay nói:

- Hộ pháp hộ tự là việc nghĩa lẽ nào còn tính toán gì nữa.

Bản Nhân nói:

- Hay lắm, chỉ vì Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này không truyền cho đệ tử tục gia, ngươi phải thế độ thì ta mới truyền cho ngươi được. Đợi khi nào đẩy lui được cường địch rồi lúc ấy ngươi hãy hoàn tục.

Bảo Định Đế đứng lên, quì hai gối xuống nói:

- Xin đại sư mở lòng từ bi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Ngươi lại đây, để ta thế độ cho ngươi.

Bảo Định Đế tiến lên quì xuống ở sau lưng ông ta. Đoàn Dự thấy bá phụ định cắt tóc đi tu, trong lòng hơi bàng hoàng. Khô Vinh đại sư đưa tay phải ra, vòng lại sau để lên đầu Bảo Định Đế, bàn tay trông như không còn chút thịt nào, da sát vào chẳng khác gì một bộ xương khô. Khô Vinh đại sư vẫn ngồi đó không quay lại đọc một bài kệ:

Đã mang nghiệp xuống cõi trần,

Khác chi hạt bụi xoay vần hư không.

Lang thang nơi cõi mênh mông,

Nếu chưa kiến tính còn trong luân hồi.

Nhất vi trần trung nhập tam muội,

Thành tựu nhất thiết vi trần định.

Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng,

Ư nhất phổ hiện nan tư sát.

Bàn tay ông đưa lên bao nhiêu tóc trên đầu Bảo Định Đế lả tả rơi xuống, đầu trọc lốc không còn một sợi nào, tưởng như có dùng dao cạo cũng không nhẵn được đến thế. Đoàn Dự cố nhiên hết sức kinh ngạc mà cả Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Nhân mọi người đều vô cùng bội phục: "Khô Vinh đại sư tham tu khô thiền công lực đạt đến mức cao thâm thật".

Lại nghe Khô Vinh đại sư nói tiếp:

- Ngươi vào cửa Phật lấy pháp danh là Bản Trần.

Bảo Định Đế chắp tay đáp:

- Tạ sư phụ ban cho tên này.

Trong Phật môn không còn câu nệ vai vế ngoài đời, Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị hữu đạo cao tăng.

Khô Vinh đại sư nói:

- Gã Đại Luân Minh Vương kia hôm nay sẽ đến không chừng. Bản Nhân, ngươi đem những bí áo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.

Bản Nhân đáp:

- Vâng!

Ông chỉ vào kinh mạch đồ trên tường nói:

- Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khoeo tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.

Bảo Định Đế y theo đó vận chân khí, ra đến đầu ngón tay vô danh nghe tiếng vèo vèo theo huyệt Quan Xung vọt ra. Khô Vinh đại sư vui mừng nói:

- Nhà ngươi nội lực tu luyện không phải tầm thường. Pho kiếm pháp này tuy biến hóa phức tạp thật nhưng nếu kiếm khí đã thành rồi thì có thể tùy ý mà vận dụng.

Bản Nhân nói:

- Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sử dụng cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón tay phải, ta chuyên luyện Thương Dương Kiếm ở ngón tay trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón tay giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón tay vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón tay út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể chậm trễ, chúng ta nên bắt đầu ngay là vừa.

Ông ta lấy ra sáu bức đồ hình, treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Mỗi bức vẽ đầy những đường ngang dọc giao thoa, hình tròn cũng như hình cánh cung. Sáu người ai nấy chăm chú luyện kiếm khí đồ của mình, giơ ngón tay ra điểm hờ, vẽ hờ lên trên không.

Đoàn Dự len lén ngồi lên thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn khó chịu hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế, cùng sư huynh đệ của phương trượng Bản Nhân đã đem một số lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Đoàn Dự thấy bá phụ và những người khác tập trung tinh thần vận công nên không dám lên tiếng quấy nhiễu, ngồi ngơ ngẩn một lúc thấy thật rảnh rỗi, vô ý đưa mắt nhìn vào bức hình kinh mạch huyệt đạo treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.

Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân nhưng đường đi thì hoàn toàn khác hẳn. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên rồi nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, bao nhiêu nhộn nhạo khó chịu trong người liền tiêu giảm, chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đãn Trung.

Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như theo người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đãn Trung. Một hồi sau chàng liền phải suýt soa kêu lên mấy tiếng, Bảo Định Đế vội quay lại hỏi:

- Cháu thấy trong người ra sao?

Đoàn Dự đáp:

- Trong người cháu có vô số khí chạy nhảy lung tung, khó chịu quá. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sư bá để đưa khí về huyệt Đãn Trung, nhưng chao ôi! huyệt Đãn Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu ... cháu ... huyệt Đãn Trung của cháu muốn nổ tung ra.

Cái cảm giác đó chỉ có người trong cuộc mới biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi còn người ngoài không thấy gì khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những huyễn tượng, nhưng nếu huyệt Đãn Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm, nội lực hồn hậu vô cùng mới có cảm giác đó được, còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, huyễn tượng đó hẳn là vì bị trúng tà độc mà thành.

Bảo Định Đế thầm kinh hoảng biết rằng nếu như chàng không thể đạo khí qui hư_ thân thể sẽ bị tê liệt, thế nhưng nếu đem luồng tà độc ấy đưa vào tạng phủ thì sau này trục được ra còn khó khăn vạn lần. Bình thời mỗi khi gặp chuyện nguy nan đại sự ông luôn luôn sáng suốt quả cảm, chỉ một lời là quyết định xong nhưng trước mặt việc quan hệ đến cả đời Đoàn Dự, chỉ sai sẩy một chút lập tức có thể nguy đến tính mạng. Oâng thấy Đoàn Dự hai mắt thần quang tán loạn xem ra có vẻ điên cuồng, không còn chần chờ gì nữa lập tức quyết định: "Thôi thì chỉ còn có nước "ẩm chậm chỉ khát"_ đành vậy biết làm sao hơn". Ông bèn nói:

- Dự nhi, để ta dạy cháu pháp môn đạo khí qui hư.

Ông liền đem phương pháp chỉ dẫn cho Đoàn Dự. Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Pháp yếu về nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả thực tinh diệu tuyệt luân, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền thu vào trong tạng phủ. Y thư Trung Quốc gọi các bộ phận trong con người là tạng phủ, tạng đồng nghĩa với tàng trữ còn phủ chính là kho lẫm nên đã hàm ý tụ tập tích súc. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói là trên đời không ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, toàn thân càng lúc càng khoan khoái, thấy người nhẹ nhàng tưởng chừng có thể bay lên không.

Bảo Định Đế thấy chàng mặt tươi như hoa cực kỳ vui sướng lại tưởng chàng bị rơi vào ma chướng đã sâu, e rằng tà độc từ này sẽ đeo đuổi không thôi càng khó trừ hơn nữa, không khỏi di lụy suốt đời, trong bụng thầm chua chát.

Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo:

- Bản Trần, duyên nghiệp của con người ai làm nấy chịu, họa phúc đúng sai đều do tâm mà sinh ra. Con cũng chẳng nên quá lo lắng cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.

Bảo Định Đế đáp:

- Vâng!

Ông cố gắng thu nhiếp tâm thần, tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp. Chân khí trong người Đoàn Dự cực kỳ sung mãn, một buổi một lúc không thể nào đưa hết về tàng trữ trong tạng phủ được, nhưng có điều pháp môn này càng thực hành càng thuần thục, về sau cùng thu càng nhanh. Trong tăng xá bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã hưng hửng sáng.

Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong khắp người mình không còn chút chân khí nào ở ngoài nữa nên đứng lên vận động cho dãn gân cốt, thấy bá phụ và năm vị cao tăng vẫn chuyên tâm nghiên luyện kiếm pháp. Chàng không dám mở cửa bước ra ngoài tản bộ, cũng không dám lên tiếng làm rộn sáu người đang hành công, không có việc gì làm, tiện thể nhìn lên hình vẽ kinh mạch của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn kiếm pháp đồ hình Thiếu Dương Kiếm, tuy đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này chàng làm sao học nổi có xem cũng chỉ xem chơi cho biết.

Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông lên đến cánh tay thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu nghĩ thầm: "Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được". Chàng nghĩ vậy lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.

Đoàn Dự có biết đâu mình vô ý học được một phương pháp nội công thượng thừa, chỉ cảm thấy luồng chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường chàng thấy hòa thượng Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh Mạch Đồ của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới cùi chỏ, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ tự nhiên thấy một luồng chân khí đi theo lộ tuyến kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp thì chưa được như ý, có khi thì được, có lúc lại không đi, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.

Chỉ trong nửa ngày Đoàn Dự đã thông qua tất cả các huyệt đạo trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch sáu đường kiếm pháp. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa đầu mối thật khó mà dò nghĩ thầm: "Các kiếm chiêu phiền toái thế này, việc gì phải nhớ làm chi? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà".

Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói nghĩ bụng: "Sao mấy chú tiểu không ai mang cơm chay hay mì gì cả? Thôi mình len lén chui ra ngoài kiếm gì ăn mới được". Ngay lúc đó chàng ngửi thấy một mùi đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng Phạn tụng niệm văng vẳng tiếng được tiếng mất từ xa truyền tới.

Khô Vinh đại sư nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã đến rồi đây. Các ngươi luyện được đến đâu rồi?

Bản Tham đáp:

- Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch rồi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Hay lắm! Bản Nhân, ta không muốn đi ra vậy ngươi ra mời Minh Vương vào trong Mâu Ni Đường để gặp nhau.

Bản Nhân phương trượng đáp lời:

- Vâng!

Rồi đi ra ngoài. Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác. Ông ta ngồi vào chiếc đệm thứ nhất, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm còn Đoàn Dự không có chỗ ngồi nên đứng sau lưng Bảo Định Đế.

Cả Khô Vinh lẫn những người khác ôn lại đồ hình một lần cuối rồi mới cuộn các hình vẽ đó lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư. Bảo Định Đế nói:

- Dự nhi, tới khi kịch chiến trong phòng kiếm khí tung hoành rất là hung hiểm, báp hụ không thể nào phân tâm bảo hộ cho cháu được. Cháu đi ra ngoài chơi thì hơn.

Đoàn Dự trong lòng đau đớn: "Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, Quan Xung kiếm pháp bá phụ mới luyện đây, không biết có địch lại y không, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?". Chàng bèn nói:

- Bá bá, cháu ... cháu ở đây với bác, bác đấu kiếm với người ta cháu không yên tâm ...

Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế trong lòng rung động: "Thằng bé này quả là có hiếu".

Khô Vinh đại sư nói:

- Dự nhi, cháu ngồi trước mặt ta đây, Đại Luân Minh Vương kia dẫu có lợi hại đến đâu cũng không động đến một sợi lông của cháu được.

Giọng nói của ông ta tuy lạnh như băng nhưng ngữ khí có vẻ như ngạo nghễ. Đoàn Dự đáp:

- Vâng!

Chàng khom lưng đi vào trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng không dám ngẩng lên nhìn mặt ông ta, chỉ xếp bằng ngồi xuống. Thân hình Khô Vinh đại sư cao hơn Đoàn Dự nhiều nên che hết người chàng. Bảo Định Đế trong lòng cảm kích lại cũng yên tâm, mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.

Sau đó Mâu Ni Đường thật lặng thinh hoàn toàn không một tiếng động. Một lúc sau có tiếng Bản Nhân phương trượng:

- Minh Vương pháp giá xin mới quá bộ lại Mâu Ni Đường.

Kế đó có tiếng người nói:

- Cảm phiền phương trượng dẫn đường cho.

Đoàn Dự nghe giọng nói thật là thân thiết hòa hoãn rất là lễ độ không phải là kẻ hung ác áp bức người khác. Nghe tiếng chân có đến mươi người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói:

- Xin mời Minh Vương.

Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường nói:

- Xin phép.

Ông ta hướng về phía Khô Vinh đại sư chắp tay hành lễ nói:

- Vãn bối Cưu Ma Trí của nước Thổ Phồn tham kiếm tiền bối đại sư.

Một tươi một héo hai cây,

Hữu thường bên nọ bên đây vô thường.

Đông Tây Nam Bắc bốn phương,

Thật không, không thật đều không là gì.

Hữu thường vô thường,

Song thụ khô vinh.

Nam Bắc Tây Đông,

Phi giả phi không.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Bốn câu kệ này có nghĩa là gì?" Thế nhưng Khô Vinh đại sư giật mình: "Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả thật danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta".

Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn nơi giữa hai cây bà la_ tại thành Câu Thi Na_ thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là "tứ khô tứ vinh". Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Cây cối xanh tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; còn khô héo điêu tàn là thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhật diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô phi vinh, phi giả phi không.

Khô Vinh đại sư mấy chục năm qua tu khô thiền cũng chỉ mới cảnh giới "bán khô bán vinh", không sao lên thêm một tầng nữa để được tới cảnh giới "phi khô phi vinh, diệc khô diệc vinh" nên không khỏi thảng thốt nói:

- Minh Vương từ xa tới đây, lão nạp không đi ra đón được, xin Minh Vương mở lòng từ bi mà tha lỗi cho.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp:

- Uy danh của chùa Thiên Long tiểu tăng đã hâm mộ từ lâu, hôm nay được thấy bảo tướng trang nghiêm thực là hân hạnh.

Bản Nhân phương trượng nói:

- Xin mời Minh Vương ngồi.

Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?". Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy trên một nhà sư mặc tăng bào màu vàng ngồi chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như có ánh sáng lẩn khuất chẳng khác gì minh châu bảo ngọc tự mang vẻ sáng. Đoàn Dự chỉ mới nhìn qua ông ta đôi lần trong lòng đã nảy sinh một vẻ ngưỡng mộ thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày bặm trợn dễ sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những tùy tòng Đại Luân Minh Vương mang từ Thổ Phồn qua.

Cỡ chữ 16 Cỡ chữ 18 Cỡ chữ 20 Cỡ chữ 22 Cỡ chữ 24

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 10(b)

HOÁN SÀO LOAN PHƯỢNG

Tưởng đâu khói phất phơ bay,

Ai ngờ kiếm khí tràn đầy không gian.

*

* *

Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:

- Đức Phật có dạy rằng: Phải vào được cảnh giới không sinh không diệt, không nhơ bẩn cũng không thanh sạch. Thế nhưng tiểu tăng căn khí ngu độn không sao hiểu được lý lẽ yêu ghét tử sinh. Bình sinh tiểu tăng có một người tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không gì không am tường, chỗ nào cũng tinh thông, tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ còn hồ nghi đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khẳng khái tặng cho bí cập thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Ngờ đâu bậc đại anh hùng trời lại không cho ở lâu, Mộ Dung tiên sinh tây qui cực lạc mất rồi. Tiểu tăng có một việc cầu xin thật là không thuận tình xin quí vị trưởng lão mở lòng từ bi.

Bản Nhân phương trượng nói:

- Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên mà thôi, duyên phận hết rồi việc gì phải cưỡng cầu làm gì? Mộ Dung tiên sinh vãng sinh cực lạc đi lễ phật ở chốn liên trì thì còn để tâm gì đến chuyện võ học ở chốn nhân gian? Việc của Minh Vương đang cố công kia phải chăng thêm chân cho rắn?

Cưu Ma Trí đáp:

- Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao dứt được mối tình bè bạn. Năm xưa khi Mộ Dung tiên sinh luận về kiếm pháp trong thiên hạ quả quyết rằng Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long nước Đại Lý là kiếm pháp đệ nhất trong thiên hạ, nhưng tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.

Bản Nhân nói:

- Tệ tự ở nơi hẻo lánh phương nam được Mộ Dung tiên sinh yêu mến quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không đích thân tới mượn kiếm kinh xem qua cho biết?

Cưu Ma Trí thở dài một tiếng, sắc mặt sầu thảm, yên lặng một hồi rồi mới đáp:

- Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo của quí tự nếu đến đòi xem ắt là không được. Ông ta bảo là họ Đoàn Đại Lý tuy ở chỗ phú quí đến cực điểm nhưng không quên nghĩa khí giang hồ thuở xưa, yêu thương trăm họ, nhân đức thấm nhuần khắp lê dân nên không tiện ra tay cưỡng đoạt trộm cắp.

Bản Nhân cảm tạ nói:

- Xin cám ơn Mộ Dung tiên sinh đã khen ngợi. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã coi trọng họ Đoàn nước Đại Lý như thế, Minh Vương là bằng hữu của ông ta thì cũng nên thể niệm di chí của người đã khuất.

Cưu Ma Trí đáp:

- Có điều năm xưa tiểu tăng từng huênh hoang nói rằng: Tiểu tăng là Quốc Sư nước Thổ Phồn đối với họ Đoàn Đại Lý vô thân vô cố, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao mật thiết. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện tự mình đến lấy thì tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh như thế rồi thì không thể nào nuốt lời được.

Nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương tiến vào để dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp thùng không có gió mà tự mở ra, thấy bên trong là một hộp nhỏ khác màu vàng chói lọi. Cưu Ma Trí cúi xuống cầm cái hộp bưng lên tay.

Bản Nhân nghĩ thầm: "Bọn ta đã là người xa lánh cuộc đời, không lẽ còn tham lam những loại kỳ trân dị bảo? Hơn nữa, họ Đoàn là chủ nước Đại Lý, tích súc trong một trăm năm mươi năm qua, có thiếu gì bạc vàng châu báu?".

Cưu Ma Trí mở chiếc hộp ra, lấy ra ba tập sách mỏng. Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách, đột nhiên nước mắt đầm đìa rơi xuống ướt đẫm cả bâu áo, thần tình thật là đau khổ không sao kể xiết. Cả bọn Bản Nhân ai ai cũng thấy ngạc nhiên.

Khô Vinh đại sư nói:

- Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn xưa chưa quên, lòng trần chưa thanh tịnh há chẳng thẹn cho hai tiếng "cao tăng" hay sao?

Đại Luân Minh Vương ủ rũ đáp:

- Đại sư đầy đủ trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng làm sao theo kịp. Ba quyển võ công yếu quyết này, chính là từ tay Mộ Dung tiên sinh viết thành, xiển thuật yếu chỉ về tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.

Mọi người nghe nói thế ai nấy đều sửng sốt, nghĩ thầm: "Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống luyện được hai mươi ba môn, ngoài ra không một ai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ cả. Vị Mộ Dung tiên sinh này thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào ngờ nổi".

Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba quyển kỳ thư này, tiểu tăng giở ra xem quả thật ích lợi rất nhiều. Vậy nay xin đem ba quyển kỳ thư để xin đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm bảo kinh của quí tự. Xin quí vị đại sư bằng lòng cho để tiểu tăng được hoàn thành lời hứa năm xưa, quả thực cảm kích không đâu cho hết.

Bản Nhân phương trượng lặng thinh không trả lời, nghĩ thầm: "Ba cuốn sách này nếu quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm thì bản tự có được rồi, võ học không phải chỉ cùng phái Thiếu Lâm đứng ngang hàng mà còn có phần trội hơn là khác. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long".

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Trước khi quí tự tặng cho bảo kinh vẫn có thể để lại phó bản, chúng vị đại sư gia ơn cho tiểu tăng, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ, tự thân không mất mát gì là một điều. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh lập tức gói kín, quyết không ghé mắt coi trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, cao nghệ của quí tự không thể nào lọt được ra ngoài, đó là hai điều. Các vị đại sư trong quí tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cầu đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó, trong đó Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quí phái có thể đem ra ấn chứng lẫn nhau, đó là ba điều.

Bọn Bản Nhân lúc đầu khi nhận được lá thư viết bằng vàng lá của y nghĩ rằng Cưu Ma Trí mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, dường như chùa Thiên Long chỉ có lợi mà không tổn hại gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính tham lam, trong bụng đã có ý bằng lòng, thế nhưng đứng về mặt tôn ti thì còn sư thúc ở trên, còn nói về mặt địa vị thì còn phương trượng nên không tiện nói ra thành lời.

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Tiểu tăng tuổi còn trẻ, kiến thức còn nông, chỉ nói không chưa chắc các vị đại sư đã tin. Chi bằng tiểu tăng đem phô cái xấu ra trước các vị ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.

Y nói xong đứng lên:

- Năm xưa tiểu tăng chẳng qua chỉ vì quá cao hứng nên vụng về tập qua, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.

Y giơ ngón tay cái và ngón tay trỏ bên phải làm như đang cầm một đóa hoa tươi, miệng hơi mỉm cười, năm ngón tay trái búng nhẹ qua bên phải. Trong Mâu Ni Đường ngoài Đoàn Dự ra, ai ai cũng là những đại hành gia suốt đời nghiên cứu chỉ pháp, thấy y ra tay thật là nhẹ nhàng, mỗi lần tay trái búng ra tưởng như đang rũ cho những hạt sương còn đọng trên đóa hoa tươi nhưng lại e ngại sẽ làm rụng những cánh hoa, mặt lúc nào cũng mỉm cười hết sức từ hòa quả là trong lòng sảng khoái. Cứ như lịch sử Thiền tông truyền lại, khi đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên đỉnh Linh Sơn, ngài cầm trên tay một bông hoa ba la vàng giơ lên cho mọi người coi, ai nấy lặng thinh không trả lời, chỉ có Ca Diếp tôn giả mặt rạng rỡ nở một nụ cười. Thích Ca Mâu Ni biết Ca Diếp đã lãnh ngộ được tâm pháp liền nói:

- Ta có chính pháp nhãn tàng, niết bàn pháp môn, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền nay trao cho Ma Ha Ca Diếp.

Thiền tông coi việc tâm truyền, đốn ngộ là điều quan trọng nhất, phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, lại càng tinh cứu môn Niêm Hoa Chỉ này.

Thế nhưng Cưu Ma Trí búng ngón tay không thấy gì là thần thông, liên tiếp mấy chục cái rồi giơ tay áo bên phải lên, há mồm thổi phù một cái, lập tức tay áo bay lả tả những mảnh vải tròn như đồng tiền, trên tay áo hiện ra mấy chục cái lỗ nhỏ. Thì ra mấy chục lần sử dụng Niêm Hoa Chỉ của Cưu Ma Trí đều xuyên qua không khí đâm vào tay áo mình, nhu lực làm rách áo nhưng thoạt nhìn không ai biết, chỉ hơi có gió lúc ấy công lực mới lộ ra.

Bản Nhân cùng với Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham và Bảo Định Đế người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hãi thầm: "Với công lực của mình nếu dùng Nhất Dương Chỉ hư điểm vào cho rách áo thành lỗ thì không có gì khó, nhưng ra tay nhẹ nhàng như thế, vẻ mặt ôn hòa mỉm cười mà vận được thần công thì mình không thể nào làm nổi. Môn Niêm Hoa Chỉ này khác hẳn Nhất Dương Chỉ, nội lực âm nhu, quả thực có điểm độc đáo đáng phải học hỏi".

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Quả đáng xấu hổ, công phu Niêm Hoa Chỉ của tiểu tăng còn kém xa Huyền Độ đại sư của chùa Thiếu Lâm. Môn Đa La Diệp Chỉ này chắc còn sai sót nhiều.

Tiếp theo thân hình chuyển động rảo bước đi vòng quanh cái hòm gỗ dưới đất, mười ngón tay liên tiếp điểm ra, nắp hòm bay tung tóe, nhảy nhót liên tiếp, chỉ trong giây lát đã vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.

Bọn Bảo Định Đế thấy chỉ lực của y phá tan chiếc rương gỗ thực không có gì làm lạ, có điều ngay cả xích sắt, bản đồng, dây đai, bản lề các loại kim thuộc cũng bị chỉ lực của y cắt nát vụn khiến cho ai nấy không khỏi kinh hoàng.

Cưu Ma Trí cười nói:

- Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu quả thực là nông cạn vụng về.

Nói xong đưa hai bàn tay thu vào bên trong tay áo. Đột nhiên một mảnh gỗ vỡ bỗng dưng nhảy tưng tưng, tưởng như có một người vô hình nào đó dùng gậy khuấy lên. Nhìn lại Cưu Ma Trí thấy mặt y vẫn ôn hòa rạng rỡ, tay áo không hề rung động, thì ra chỉ lực dấu trong tay áo lén bắn ra, không có một chút hình tích nào. Bản Tướng nhịn không nổi buột miệng khen:

- Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!

Cưu Ma Trí khom lưng đáp:

- Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu như muốn cho danh thực ăn khớp với nhau, luyện đến mức vô hình vô tướng, phải mất cả một đời người chưa chắc dã thành.

Bản Tướng đại sư nói:

- Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?

Cưu Ma Trí đáp:

- Có chứ! Cách phá giải cũng giống như pháp danh của đại sư vậy thôi.

Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Ồ, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.

Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Trí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai loại tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có đem phó bản đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ nên ai nấy đều trù trừ.

Bản Nhân nói:

- Sư thúc, Minh Vương từ xa đến đây, quả là có lòng thành, chúng ta ứng tiếp ra sao, xin sư thúc chỉ thị.

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì thế?

Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, hơi ngạc nhiên rồi trả lời:

- Cốt là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ bờ cõi.

Khô Vinh đại sư hỏi thêm:

- Nếu như ngoại ma đến mà chúng ta đạo hạnh thô thiển không đủ sức dùng Phật pháp điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng công phu gì?

Bản Nhân đáp:

- Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.

Khô Vinh đại sư hỏi tiếp:

- Thế công phu tu tập Nhất Dương Chỉ của nhà ngươi đến được cảnh giới nào rồi?

Bản Nhân trán toát mồ hôi, trả lời:

- Đệ tử căn cơ dốt nát, chẳng tiến bộ được bao nhiêu nên chỉ mới đến được phẩm thứ tư.

Khô Vinh đại sư hỏi thêm:

- Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm đằng nào hơn, đằng nào kém?

Bản Nhân đáp:

- Chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công lực là cao thấp thôi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Đúng lắm. Nếu như Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện đến đệ nhất phẩm thì sẽ thế nào?

Bản Nhân đáp:

- Đến mức đó thì uyên thâm khôn biết đâu mà lường, đệ tử không dám nói liều.

Khô Vinh đại sư nói:

- Ví như ngươi sống thêm một trăm năm nữa thì liệu luyện đến được phẩm thứ mấy?

Mồ hôi trán Bản Nhân rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp:

- Đệ tử không biết.

Khô Vinh đại sư hỏi thêm:

- Liệu có đến được phẩm thứ nhất chăng?

Bản Nhân đáp:

- Chắc là không được.

Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa. Bản Nhân nói:

- Sư thúc chỉ điểm rất đúng, đến như Nhất Dương Chỉ của chúng ta tu tập còn chưa xong, còn mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương từ xa khổ nhọc đến đây, để tệ tự dọn đồ chay khoản đãi.

Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt lời yêu cầu của Đại Luân Minh Vương. Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:

- Cũng chỉ vì tiểu tăng năm xưa nói một câu không ra gì, nếu không thì Mộ Dung tiên sinh dẫu sao cũng chết rồi, được hay không được cuốn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này cũng thế thôi, có gì khác đâu? Hôm nay tiểu tăng cuồng vọng, nói một câu không biết trời cao đất dày là gì, kiếm pháp trong bộ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này, nếu quả thực tinh áo như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quí tự tuy có đồ phổ thật thì cũng không ai có năng lực luyện cho thành. Mà dẫu có người luyện thành chăng nữa thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã thần diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nghĩ.

Khô Vinh đại sư nói:

- Lão nạp có một điều không rõ muốn thỉnh cầu Minh Vương chỉ điểm.

Cưu Ma Trí đáp:

- Không dám.

Khô Vinh đại sư nói:

- Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết, Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?

Cưu Ma Trí đáp:

- Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn bản phái cũng không biết mà Mộ Dung tiên sinh cũng rõ như bàn tay. Cái thuật: "Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.

Khô Vinh đại sư "Hừ" một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: "Nếu như y biết được những bí áo trong Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn".

Bản Nhân phương trượng nói:

- Sư thúc chúng tôi hơn chục năm qua không gặp người ngoài, Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.

Nói xong đứng lên ý muốn tiễn khách ra về. Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói:

- Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không thực dụng, quí tự hà tất phải coi trọng nó như thế làm gì? Để phải tổn thương hòa khí giữa chùa Thiên Long và chùa Đại Luân, tổn thương đến bang giao hai nước Thổ Phồn và Đại Lý?

Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại:

- Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?

Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh trú đóng nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế vội hết sức lắng tai nghe. Cưu Ma Trí đáp:

- Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh, dân tình bên Đại Lý từ lâu, sớm có ý muốn cùng quốc chủ quí quốc đi săn chung một chuyến_, có điều tiểu tăng thấy rằng như thế ắt không ít người sẽ phải bỏ mạng, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.

Bọn Bản Nhân ai cũng biết lời nói y có ý uy hiếp. Y là quốc sư nước Thổ Phồn, trong nước từ vua trở xuống ai nấy đều sùng tín Phật pháp chẳng khác gì nước Đại Lý. Cưu Ma Trí lại được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn do một lời của y, nếu như chỉ vì một bộ kinh mà để sinh linh phải đồ thán thì thật không nên chút nào. Thổ Phồn mạnh mà Đại Lý yếu, nếu như chiến sự xảy ra quả thật rất đáng lo. Thế nhưng Cưu Ma Trí chỉ mới dọa một lời mà chùa Thiên Long đã hai tay dâng bộ bảo kinh trấn tự kia lên thì còn gì là thể thống nữa?

Khô Vinh đại sư nói:

- Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bọn lão nạp lẽ nào dám từ chối? Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám bái lãnh. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại thêm cả võ công chùa Đại Luân Đại Tuyết Sơn thì hẳn là đương thế không ai có thể địch nổi.

Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:

- Ý của đại sư phải chăng muốn tiểu tăng phải ra tay phô cái xấu của mình?

Khô Vinh đại sư đáp:

- Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh, không thực dụng, vậy thì chúng tôi sẽ dùng Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, lộ kiếm pháp này chỉ rỗng tuếch không dùng được vào đâu thì có gì là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.

Cưu Ma Trí trong lòng kinh hãi thầm, năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, dù kiếm pháp thần kỳ cao minh bậc nào chăng nữa, dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi, bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì dường như ông ta biết sử dụng mà tất cả chư tăng cũng đều biết môn kiếm pháp này. Chùa Thiên Long danh tiếng lừng lẫy hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái của y vốn dĩ cung kính, bây giờ liền hơi khom lưng nói:

- Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở mắt thật là may mắn xiết bao.

Bản Nhân phương trượng nói:

- Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin cứ việc đem ra.

Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao to từ bên ngoài bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên người kia liền gật đầu vâng lệnh, đi ra ngoài lấy trong rương ra một bó nhang đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.

Mọi người ai nấy lạ lùng, nghĩ thầm những cây hương này đụng vào là gẫy ngay không lẽ lại dùng làm binh khí được? Chỉ thấy tay trái cầm lên một cây nhang, tay phải vun gỗ vụn dưới đất nắn thành một cái gò cắm cây nhang lên. Cứ như thế y cắm sáu cây hương thành một dãy, mỗi cây cách nhau chừng một thước.

Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương lóe lên cùng cháy một lượt. Mọi người ai nấy kinh hãi thấy người này nội lực quả thật hùng mạnh, quả đã đến mức không ai dám nghĩ tới. Thế nhưng lập tức ai nấy ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hỏa dược, Cưu Ma Trí không phải chỉ dùng nội lực mà đốt những cây nhang này, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược đầu hương để đốt. Việc đó tuy cũng khó khăn thật nhưng bọn Bảo Định Đế miễn cưỡng cũng thể làm được.

Sáu làn khói xanh biếc của sáu cây hương bốc lên thẳng tắp. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thủ chưởng của y gọi là Hỏa Diễm Đao, tuy chỉ nhẹ nhàng hư vô không thể bắt nắm nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn lấy được bộ kinh không cố ý giết người cho nên mới thắp sáu cây nhang để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra y cậy tài nên chẳng có gì sợ hãi, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.

Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Cả bọn Bản Nhân ai nấy kinh hãi nghĩ thầm dùng nội lực đẩy khói đi thì không phải là khó khăn gì, nhưng nếu có thể hãm luồng khí đang tỏa ra kia giữa không gian thì phải nói là khó khăn gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một luồng khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói biếc trước mặt. Luồng khói đó bị nội lực đẩy vào, bay vụt trở lại hướng Cưu Ma Trí, đến còn cách y chừng hai thước, Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí tăng lên nên làn khói không thể nào tiến xa hơn được nữa.

Cưu Ma Trí gật gù nói:

- Thật là danh bất hư truyền, Lục Mạch Thần Kiếm quả có lộ kiếm pháp Thiếu Trạch Kiếm.

Hai người thúc đẩy nội lực thêm mấy lần, Bản Tham đại sư biết rằng nếu mình chỉ ngồi yên không động đậy thì khó lòng mà phát huy được uy lực của kiếm pháp nên đứng lên, đi xéo qua bên trái ba bước, nội lực theo ngón tay út bên trái từ trái phóng lệch qua phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.

Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên:

- Giỏi thật! Đây là Trung Xung kiếm pháp.

Y lấy một địch hai nhưng không thấy khiếp sợ chút nào. Đoàn Dự ngồi đằng trước Khô Vinh đại sư, nghiêng người ngó ra, chăm chú xem cuộc đấu kiếm nghìn năm một thuở này. Tuy chàng không biết võ công nhưng cũng biết mấy vị cao tăng kia đang dùng nội lực để đấu kiếm còn hung hiểm và ghê gớm gấp mấy việc dùng binh khí đánh với nhau. Cũng may Cưu Ma Trí đốt sáu nén hương nên chàng có thể nhìn theo làn khói xanh di động mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người.

Chàng coi được độ mươi chiêu trong bụng chợt nghĩ: "À, đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sư giống hệt như hình vẽ không khác chút nào". Chàng len lén mở đồ phổ Trung Xung kiếm pháp ra coi, theo luồng khói xanh đang di động, đối chiếu với kiếm chiêu vẽ trên đó, coi kỹ càng rồi không còn chỗ nào khó khăn nan giải nữa. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng như thế, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm mở ra thu vào bao trùm một khoảng lớn, khí thế thật hùng hậu còn Thiếu Trạch Kiếm thì chợt đến chợt đi biến hóa thật là tinh vi.

Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ cũng không thắng thế chút nào nghĩ thầm bên mình luyện kiếm chưa thành thục, kiếm chiêu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết, cả sáu người ra tay càng sớm càng tốt, gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt trần, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa dùng toàn lực để tấn công phòng ngự, nên ông bèn nói:

- Bản Tướng, Bản Trần hai vị sư đệ, tất cả chúng mình cùng ra tay đi thôi.

Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động, kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.

Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu, quay qua tây xem một chiêu đối chiếu với đồ phổ tuy đã rõ nhưng dẫu sao cũng hỗn loạn chẳng thành đầu đuôi gì. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay khô gầy để lên bức hình viết xuống: "Chỉ học một đồ hình, học xong hãy đổi qua bức khác". Đoàn Dự nghĩ ra, biết ngay Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười có ý cảm tạ.

Chàng vừa nhìn ông, nụ cười trên môi tắt ngóm, thấy khuôn mặt ông ta hết sức lạ kỳ, một nửa bên trái hồng hào tươi tắn, da dẻ trơn tru chẳng khác gì một đứa trẻ, còn nửa bên phải lại là xương khô, ngoài làn da vàng ệch ra không còn một chút thịt nào, các đầu xương lòi ra chẳng khác gì một nửa cái đầu lâu.

Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khô Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, chàng không thể nào định tâm được.

Chàng thấy ngón tay Khô Vinh đại sư viết tiếp trên tấm lụa:

"Dịp may chớ bỏ lỡ, hãy chăm chú xem kiếm pháp. Tự mình xem, tự mình học, để khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên"

Đoàn Dự hiểu rõ ngay: "Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, đợi đến khi bác ta cắt tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Ông ấy viết là "tự quan tự học, bất vi tổ huấn" ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn vô sư tự học. Thái sư bá bảo ta "lương cơ mạc thất, ngưng thần quan kiếm", ắt là bảo ta tự mình xem, tự mình học rồi.

Chàng gật đầu, quan sát kỹ càng Quan Xung kiếm pháp của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới cứ như thế mà xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Phàm năm ngón tay của con người, ngón tay vô danh là ngón vụng về nhất, còn ngón tay trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm lấy vụng về chậm chạp để thủ thắng, còn Thương Dương Kiếm thì lấy xảo diệu hoạt bát để địch thủ không mò ra được. Thiếu Xung kiếm phá với Thiếu Trạch kiếm pháp đều dùng ngón tay út để vận kình sử dụng, nhưng một đằng là bên tay phải, một đằng là bên tay trái, kiếm pháp phân biệt ra khéo léo, vụng về, nhanh nhẹn, chậm rãi. Thế nhưng "vụng" không phải không hay, còn "chậm" cũng không vì thế mà giảm uy lực, chỉ phân biệt một bên là kỳ, một bên là chính_ mà thôi.

Đoàn Dự vốn chỉ vì lòng hiếu kỳ, theo dõi những làn khói xanh qua lại, đem đối chiếu với những sợi chỉ trên đồ hình, chẳng khác gì xem vẽ chữ bằng đèn_ để đoán chơi nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò rồi chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi ba lộ kiếm pháp đó đã xem rõ cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan hai người đã sử dụng hết một lượt bây giờ quay lại lần thứ hai. Đoàn Dự không còn phải tham chiếu đồ phổ nữa, chỉ chăm chăm nhìn vào làn khói biếc đem ấn chứng với những lộ kiếm pháp đã thuộc nằm lòng, mới thấy là những đường chỉ trên đồ hình là đường dây chết, còn luồng khói biếc kia biến hóa vô cùng phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.

Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng, và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại ư búng ngón tay út, sử dụng chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu. Cưu Ma Trí mỉm cười gật gù, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng những kiếm chiêu biến hóa ra từ các chiêu cũ. Ngay lúc đó bỗng nghe thấy Cưu Ma Trí phát xuất những tiếng vù vù, uy lực của Hỏa Diễm Đao đột nhiên cực mạnh, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.

Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm, nay bắt đầu phản kích chuyển từ thủ sang công, năm làn khói biếc xoay chuyển quay quần thật là linh động. Riêng làn khói thứ sáu vẫn đứng sững cách Khô Vinh đại sư chừng ba thước, ổn định không động đậy. Khô Vinh đại sư có ý muốn biết xem y toan tính những gì cốt để xem y giữ thế năm luồng lực đạo tấn công, một luồng giữ nguyên kia kéo dài được bao lâu, thành ra trước sau vẫn không ra tay công kích. Quả nhiên Cưu Ma Trí muốn giữ cho luồng lực đạo thứ sáu kia đứng yên như vậy hồi lâu hao tổn nội lực khá nhiều, nên làn khói biếc cừ từ từ từng tấc một tiến vào sau ót Khô Vinh đại sư.

Đoàn Dự kinh hãi nói:

- Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.

Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy bản vẽ Thiếu Thương Kiếm này thật chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc vẽ theo lối "vẩy mực"_, nét tung hoành mạnh mẽ chỉ vài đường đã tỏ ra kiếm lộ hùng hồn xem ra chẳng khác gì thế gió bão mưa giông, long trời lở đất. Đoàn Dự xem kiếm phổ nhưng trong bụng vẫn lo lắng làn khói đang tấn công vào đằng sau Khô Vinh đại sư vừa quay đầu lại thấy làn khói chỉ còn cách đầu ông chừng vài ba tấc hoảng hốt kêu lên:

- Coi chừng!

Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, hai tiếng vụt vụt chia ra tấn công vào ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không thèm đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ. Ông cho rằng lực đạo Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí dùng nội lực chầm chậm tiến vào có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, thành ra nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là khiến y giở tay không kịp.

Cưu Ma Trí tính toán chu đáo, đã giữ sẵn một luồng chưởng lực tại trước ngực, nhưng y chỉ mới tính tới một luồng Thiếu Thương Kiếm tấn công tới, không ngờ Khô Vinh đại sư lại dùng cả hai luồng kiếm tấn công một lượt, chia ra tấn công hai nơi khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên gạt chỉ chặn được đường kiếm tấn công vào trên ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Tuy y nhảy đã nhanh nhưng vẫn không thể nhanh bằng kiếm khí tới chẳng khác gì ánh chớp, nghe soẹt một tiếng vai trái đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh đại sư lập tức quay ngoắt lại, kiếm khí rút ngược về, sáu nén hương đều gãy ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế cũng thu kiếm lại. Những người đó chiến đấu đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thở phào một cái.

Cưu Ma Trí rảo bước đi vào mỉm cười nói:

- Thần công của Khô Vinh đại sư quả là không phải bình thường, tiểu tăng hết sức bội phục. Pho Lục Mạch Thần Kiếm kia quả thật chỉ có hư danh.

Bản Nhân phương trượng hỏi lại:

- Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.

Cưu Ma Trí đáp:

- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh hâm mộ kính ngưỡng là kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm chứ không phải là kiếm trận Lục Mạch Thần Kiếm. Pho kiếm trận này của chùa Thiên Long quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là kiếm pháp thiên hạ vô song được.

Y chỉ nói là "kiếm trận" mà không phải là "kiếm pháp" là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm như y đã dùng Hỏa Diễm Đao.

Bản Nhân phương trượng nhận thấy lời nói của y quả có lý không sao trả lời được. Thế nhưng Bản Tham đại sư đã cười khẩy:

- Kiếm pháp cũng vậy mà kiếm trận thì cũng thế thôi. Trong cuộc tỉ đao luận kiếm này, Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?

Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt ngẫm nghĩ, độ thời gian uống một chén trà, mở mắt ra nói:

- Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng xem ra có bề thắng thế.

Bản Nhân kinh hãi hỏi lại:

- Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?

Cưu Ma Trí đáp:

- Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã đáp lời Mộ Dung tiên sinh không lẽ thấy khó thì chùn bước?

Bản Nhân nói:

- Thế nào mà Minh Vương bảo là có cơ thắng thế?

Cưu Ma Trí song chưởng từ từ tung ra, mỉm cười nói:

- Các vị võ học uyên thâm không lẽ không đoán ra? Xin tiếp chiêu đây.

Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ, ai nấy song chưởng tống ra, đỡ hai luồng chưởng lực kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn hai ngón tay cái búng ra, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.

Cưu Ma Trí đẩy hai luồng lực đạo ra rồi lập tức thu chiêu nói:

- Xin lỗi nhé!

Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hội ý: "Một chưởng của y cùng một lượt sinh ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diễm Đao của y".

Ngay lúc đó, bỗng thấy trước mặt Khô Vinh đại sư mù mịt bốc lên, một luồng khói đen chia ra thành bốn nhánh tấn công Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vốn cũng khiếp sợ nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này, bây giờ thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương định làm gì, chỉ đành sử dụng Hỏa Diễm Đao chia ra bốn phía chống đỡ. Y không dám phản kích, một mặt phòng bị bọn Bản Nhân xông lên tấn công, một mặt lặng yên thủ thế xem động tĩnh để xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.

Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí trong bụng lạ lùng: "Ông ta dùng toàn lực tấn công như thế nhưng gió mạnh không qua buổi sáng, mưa lớn không đổ trọn đêm, làm sao có thể chịu đựng lâu được? Khô Vinh đại sư là cao tăng đời nay, sao lại dùng phương thức gấp rút cương mãnh như thế để đối địch?".

Xem chừng ông ta không phải là người kém cỏi như thế, ắt bên trong có ngụy kế gì, y bèn thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tiện tùy cơ ứng biến. Chỉ trong chốc lát, bốn luồng khói đen một chia thành hai, hai chia thành bốn, bốn luồng khói đen chia thành mười sáu đường, bốn phương tám hướng tấn công thẳng vào Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí nghĩ thầm: "Cung đã giương hết sức rồi có đáng gì đâu?". Y thi triển Hỏa Diễm đao pháp chặng tất cả các luồng khói lại. Hai bên còn đang ra sức mười sáu luồng khói đen bỗng tan ra, trong căn phòng chỉ giây lát khói bay mù mịt. Cưu Ma Trí không hề sợ hãi vận dụng chân lực hộ vệ toàn thân.

Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung chỉ thấy năm nhà sư cùng quì cả xuống, thần tình trang nghiêm, trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: "Hỏng rồi! Nhà sư già Khô Vinh kia biết rằng không địch nổi ta nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi".

Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư dùng nội lực Nhất Dương Chỉ dồn ra đốt cháy Lục Mạch Thần Kiếm phổ, sợ Cưu Ma Trí ra tay sang đoạt hay ngăn trở nên thúc đẩy khói ra tấn công y để cho y phải hết sức chống đỡ đến khi khói tan hết rồi thì đồ phổ cũng đã cháy tiêu hết cả.

Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã biết ngay nguyên do, nghĩ thầm sư thúc thà làm ngọc vỡ chứ không chịu để ngói lành, cam tâm hủy bỏ món trấn tự chi bảo không để rơi vào tay địch thủ. Thế nhưng sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều những đồ phổ tổ truyền đó đành phải hủy mất.

Thế nhưng từ nay chùa Thiên Long và Đại Luân Minh Vương hai bên kết oán thật sâu không dễ gì mà bỏ qua cho được.

Cưu Ma Trí vừa kinh hãi vừa tức tối, y xưa nay vẫn tự phụ mưu trí hơn người, hôm nay hai lần liên tiếp thua dưới ta Khô Vinh đại sư, Lục Mạch Thần Kiếm Kinh cũng đã bị hủy mất rồi, chuyến đi này gây thêm một mối thù lớn mà lại xôi hỏng bỏng không. Y đứng lên chắp tay nói:

- Khô Vinh đại sư sao lại cương cường đến thế? Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Bảo kinh của quí tự vì tiểu tăng mà phải hủy, trong lòng quả thật áy náy không an, có điều kinh này một người không ai có thể luyện thành, hủy hay không hủy cũng không có gì khác biệt lắm. Vậy xin cáo từ.

Y hơi chuyển mình, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói:

- Quốc chủ tệ quốc ngưỡng mộ phong phạm Bảo Định Đế đã lâu, vẫn thường mong mỏi gặp được một lần, vậy xin mời bệ hạ rời gót sang chơi nước Thổ Phồn một phen.

Biến cố đó xảy ra thật bất ngờ, mọi người ai nấy giật mình kinh hãi. Gã phiên tăng kia đột nhiên tấn công, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay. Bảo Định Đế vội vận nội lực giẫy ra nhưng sáu bảy lần vẫn không thoát được. Bọn Bản Nhân thấy Cưu Ma Trí ra tay như thế thật là hèn hạ, mất đi thân phận của một cao thủ tuyệt đính nhưng chỉ đành phẫn nộ mà không còn biết tính sao, Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi lúc nào cũng có thể bị y giết chết.

Khô Vinh đại sư cười ha hả nói:

- Trước kia y là Bảo Định Đế, bây giờ đã bỏ ngôi xuất gia, pháp danh Bản Trần. Bản Trần, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.

Bảo Định Đế không biết cách nào hơn chỉ đành đáp lời:

- Vâng!

Ông biết được dụng ý của Khô Vinh đại sư, Cưu Ma Trí tưởng mình là vua của một nước, bắt được mới là một món hàng có giá, còn như nếu đã thoái vị đi tu, chẳng qua chỉ là bắt được một nhà sư của chùa Thiên Long mà thôi, thật chẳng đáng gì có thể y sẽ thả ra không chừng.

Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ, nhưng nếu muốn sử dụng pho Lục Mạch Thần Kiếm, mặc dù chỉ là một trong sáu mạch kiếm khí, cũng phải là cao thủ võ học đệ nhất có công phu tu tập cực kỳ cao minh. Những cao thủ bậc nhất đó trong võ lâm ai nấy đều biết cả. Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính nết tập quán, võ công bậc nào mười phần y cũng biết được đến tám chín.

Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ, bây giờ tự nhiên thêm vào một người là Bản Trần, tên đó y chưa từng nghe tới nhưng nội lực hùng mạnh không kém các nhà sư thuộc hàng chữ Bản chút nào. Y thấy ông thần thài ung dung uy nghiêm, khí tượng đầy vẻ phú quí tôn vinh nên đoán ngay là Bảo Định Đế.

Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: "Ta từng nghe họ Đoàn Đại Lý các đời vua thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long thật cũng không có gì là lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ thật lớn trên toàn quốc, cúng dường chư tăng lễ Phật, trùng tu tháp miếu, ồn ào lên một thời gian chứ lẽ đâu không ai hay biết như thế. Nước Thổ Phồn ta nghe được tin này thể nào chả sai sứ sang chúc mừng tân quân đăng vị. Việc này hẳn là có gì man trá".

Y bèn nói:

- Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, cũng xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.

Nói xong y nắm tay Bảo Định Đế lập tức rảo bước đi ra khỏi cửa. Bản Nhân quát lớn:

- Khoan đã!

Ông chuyển mình một cái, cùng Bản Quan hai người chặn ngay trước cửa. Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia, thế nhưng nếu các vị bức bách thì đành phải vậy thôi.

Tay phải y đưa hờ ra để ngay giữa lưng Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diễm Đao của y dẫu kiên cố đến đâu cũng phá vỡ được, Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không thể nào kháng cự được. Nếu chúng tăng chùa Thiên Long hợp lực tấn công y, một là ném chuột sợ vỡ đồ, hai là chưa chắc đã thắng nhưng cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua của nước Đại Lý làm sao có thể để cho kẻ địch hiếp chế như thế được?

Cưu Ma Trí lớn tiếng nói:

- Đã từng nghe đại danh của chư cao tăng chùa Thiên Long, ngờ đâu chỉ mới một chuyện nhỏ nhặt, mà đã dùng dằng dúng dắng như đàn bà con trẻ là sao? Xin nhường đường thôi!

Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường, đâu có sợ gì y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại lúc gặp thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, lời ăn tiếng nói cùng vẻ mặt Cưu Ma Trí càng lúc càng thêm ngạo nghễ còn bọn Bản Quan, Bản Nhân mặt mày lo lắng phẫn nộ đành chịu không làm gì được. Đến khi Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế, từng bước từng bước đi ra cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không còn suy nghĩ gì thêm lớn tiếng quát:

- Này, ngươi có mau thả bá phụ ta ra không?

Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra. Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi đó nhưng không đoán ra được là người nào, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm gì bây giờ thấy chàng xông ra liền quay lại hỏi:

- Tôn giá là ai?

Đoàn Dự đáp:

- Đừng hỏi ta là ai, mau thả bá phụ ta ra rồi hãy tính.

Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nói:

- Dự nhi, cháu đừng lo cho ta làm gì, mau mau bảo cha cháu đăng cơ, tiếp thừa ngôi báu. Còn ta nay chỉ là một lão tăng hạc nội mây ngàn, có là gì nữa đâu?

Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên:

- Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào?

Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, mới sử lực Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra. Ngay lúc đó, Cưu Ma Trí cũng thấy nội lực của mình bị hút ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: "Họ Đoàn Đại Lý sao lại học được Hóa Công đại pháp thế này?". Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.

Bảo Định Đế cũng cảm thấy hai cánh tay có một luồng nội lực tuôn ra ngoài, lập tức sử dụng phương pháp "mượn sức đánh sức" đưa hai luồng đó cùng đi vào một nơi. Nơi hai luồng nội lực đó gặp nhau chính là bản thân ông còn hai tay không hề chịu nên chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: "Thật là hổ thẹn, hôm nay ta phải nhờ Dự nhi cứu cho!".

Còn Cưu Ma Trí kinh hãi không đâu kể xiết, nghĩ thầm: "Trong giới võ lâm Trung Thổ sao lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn trẻ, chỉ chừng trên dưới hai mươi sao lại có công lực mạnh đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là vai vế dưới một mức trong họ Đoàn Đại Lý?".

Y chậm rãi gật đầu nói:

- Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn Đại Lý chỉ chuyên tập luyện nghệ thuật tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, nào có biết đâu hậu bối anh hiền lại kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên tập kỳ môn võ học Hóa Công đại pháp , thật là kỳ lạ, thật là kỳ lạ.

Y tuy uyên bác khôn ngoan nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công đại pháp, có điều tự trọng thân phận mình nên không đưa lời thương tổn người khác thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành "lão nhân". Người trong võ lâm đều coi Hóa Công đại pháp là một công phu yêu quái tà thuật, y lại đổi thành "kỳ môn võ học". Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được thành thử mới dùng hai chữ "kết giao".

Bảo Định Đế cười khẩy đáp:

- Chúng tôi từ lâu ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương túc trí viên thông, hiểu biết phi phàm sao lại buông lời nói năng nhăng cuội như thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn chúng ta làm gì có liên quan đến y?

Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ "chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa" chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi. Đoàn Dự nói:

- Đại Luân Minh Vương từ xa đến đây là khách, chùa Thiên Long lấy lễ đãi đằng sao ông lại dám phạm vào bá phụ của ta? Chẳng qua chúng tôi xem hai bên đều là đệ tử cửa Phật, cho nên mới xử sự khách khí, ông lại giở trò ngang ngược. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như Minh Vương?

Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng chỉ sợ Cưu Ma Trí xấu hổ mà nổi giận đột nhiên ra tay gia hại Đoàn Dự.

Ngờ đâu Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên như không, ôn tồn nói:

- Hôm nay được biết tới bậc cao hiền, thật may mắn biết mấy. Vậy xin dạy cho vài chiêu để cho tiểu tăng được phần ích lợi.

Đoàn Dự đáp:

- Ta không biết võ công, trước nay chưa từng học bao giờ.

Cưu Ma Trí cười nói:

- Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cáo từ.

Y hơi nghiêng người một chút, tay áo tung ra, bàn tay từ bên trong đánh ra, bốn chiêu Hỏa Diễm Đao cùng chém vào Đoàn Dự . Chiêu số tối lợi hại của địch đánh ra nhưng Đoàn Dự nào có hay biết gì. Bảo Định Đế và Bản Tướng song chỉ cùng tung ra, đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diễm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng "Oa" lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.

Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết bấy giờ mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi:

- Ngươi là đồ phiên tăng không biết phải quấy là gì!

Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp. Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc nãy ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đao kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa chỉ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe soẹt một tiếng, một luồng nội kình cực kỳ hồn hậu bắn vọt vào người Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí kinh hãi, vội giơ chưởng lên dùng Hỏa Diễm Đao chặn lại. Đoàn Dự vừa ra tay không những Cưu Ma Trí hết sức kinh hãi mà cả Khô Vinh đại sư cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu, trong đó Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự ngạc nhiên hơn cả. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Việc này quả thực quái đản, ta tiện tay chỉ ra sao lão hòa thượng kia phải hết sức chăm chú chống đỡ là sao? Đúng rồi! Chắc là ta ra tay rất giống nên gã phiên tăng này lại tưởng mình biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha, nếu đã thế, ta phải dọa y một phen mới được".

Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Công phu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu! Để ta ra mấy chiêu Trung Xung Kiếm cho ngươi biết tay.

Chàng vừa nói vừa chỉ ngón tay ra. Thế nhưng tuy thủ pháp có đúng thật nhưng lần này không có nội lực đi theo, chỉ điểm hờ ra thôi không hiệu quả chút nào. Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế chặn lại, ngờ đâu chỉ của đối phương không có một chút kình lực nào, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiêu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chỉ nữa không thấy tăm hơi gì cả, trong bụng mừng thầm: "Ta đã nghe trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người làm mình sợ hết hồn".

Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì Đại Luân Minh Vương sẽ thật là bẽ mặt, liền giơ tả chưởng chém trái phải luôn mấy cái, để ngăn chặng Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự.

Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật_ là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diễm đao pháp, một đao đã dường như chặt đứt vai của Đoàn Dự. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt giơ chỉ điểm vào Cưu Ma Trí đồng thời hoảng hốt kêu lên:

- Coi chừng!

Ba người xuất chiêu đều dùng võ công thượng thừa để kẻ địch không thể không quay về tự cứu, ngờ đâu Cưu Ma Trí đã dùng nội kình bao quanh những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe Bảo Định Đế và những nhà sư lên tiếng cảnh cáo biết là không ổn, song chưởng cùng hết sức tung ra, trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên vọt ra, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng hất chiêu Hỏa Diễm Đao, dư thế chưa dứt, soẹt soẹt hai tiếng, phản kích ngược lại Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí không dám nghĩ ngợi gì thêm, tay trái vận kình đánh ra.

Đoàn Dự đâm ra hai kiếm rồi, hiểu được bí quyết muốn ra chiêu phải có ý nghĩ trước sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, nội kình chân khí mới có thể vọt ra, làm được như thế quả là tuyệt diệu. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, ngón này rụt về ngón kia tung ra liên miên bất tận.

Cưu Ma Trí kinh hãi hết sức thúc đẩy nội kình chống đỡ, trong gian phòng kiếm khí dọc ngang, xen với đao kình bay lượn, chẳng khác nào vô số lằn sét bay gió giật cùng nổi lên. Hai bên đấu một hồi, Cưu Ma Trí thấy đối phương nội kình càng lúc càng mạnh, kiếm pháp biến hóa càng thêm kỳ diệu, có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu khiến cho không sao có thể suy đoán được.

Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không kỹ những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiếm pháp, trong cơn nguy cấp tùy ý đâm loạn lên chứ nào có phải là tự sáng tạo ra chiêu mới? Y trong bụng vừa kinh hãi vừa hối hận: "Trong chùa Thiên Long có ẩn một cao thủ thanh niên như thế này, hôm nay mình đúng là mua lấy cái nhục". Đột nhiên soẹt soẹt soẹt y chém luôn ba đao kêu lên:

- Ngừng tay đã!

Chân khí của Đoàn Dự không thể tùy ý thu phát, nghe đối phương kêu lên "Ngừng tay đã" không biết thu hồi nội kình cách nào, chỉ đành hất ngón tay lên chỉ thẳng vào nóc nhà, nghĩ thầm: "Ta không nên phát kình thêm nữa chờ xem y nói gì đã nào".

Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống hoàn toàn không biết phép tắc gì, trong lòng chợt động lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.

Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn võ họ tối cao thâm là Lục Mạch Thần Kiếm nhưng công phu quyền cước tầm thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí có ẩn bảy tám chiêu biến hóa tiếp theo là một môn quyền pháp cực kỳ cao minh nhưng so với Hỏa Diễm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bên nông sâu khó dễ không thể nào bì kịp.

Trên đời này dù kỹ thuật học vấn không ai lại biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng trong võ học thì Đoàn Dự là một biệt lệ. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới lật đật quờ quạng đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí tay phải liền vươn ra, chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Đoàn Dự lập tức toàn thân tê dại không còn cử động gì được nữa.

Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa hề luyện qua.

Cưu Ma Trí tuy nhìn thấy Đoàn Dự có rất nhiều sơ hở, nhất thời không sao địch lại Lục Mạch Thần Kiếm vẫn tưởng phải tìm một loại võ học cao thâm nào khác để đánh bại địch thủ, thật không thể ngờ rằng lại có thể bắt được chàng một cách dễ dàng đến như vậy. Y còn sợ Đoàn Dự cố ý giả vờ để thi hành ngụy kế nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Những kinh mạch có các huyệt đạo đó Đoàn Dự chưa hề luyện qua.

Cưu Ma Trí lùi lại ba bước nói:

- Vị tiểu thí chủ này nhớ hết các đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh thì cũng thế thôi.

Y giơ tả chưởng ra chém luôn về trước liền năm đao rồi nắm Đoàn Dự xách ra khỏi Mâu Ni Đường. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định xông lên cướp Đoàn Dự về đều bị ngũ đao liên hoàn của y chặn lại không cách nào cứu người được.

Cưu Ma Trí nắm Đoàn Dự tung ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn:

- Mau đi thôi!

Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường cũ mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh Mâu Ni Đường. Cưu Ma Trí liên tiếp dùng Hỏa Diễm Đao chém vào phía cửa Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế và đồng bọn phóng Nhất Dương Chỉ ra nhưng nhất thời không phá nổi lưới đao vô hình của Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp, biết rằng chín tên bộ thuộc đã đem Đoàn Dự chạy về hướng bắc, cười dài một hồi nói:

- Đốt đồ phổ chết sao bằng đồ phổ sống, Mộ Dung tiên sinh dưới suối vàng có người bạn bè, cũng đỡ tịch mịch.

Y chém xéo chưởng phải ra, nghe lách cách mấy tiếng, chặt gãy luôn hai cái cột của tòa Mâu Ni Đường, thân hình hơi lắc một cái, đã như một làn khói bay thẳng vào rừng trong nháy mắt không biết đi đằng nào.

Bảo Định Đế và Bản Tham hai người cùng chạy ra, thấy Cưu Ma Trí đã đi mất dạng. Bảo Định Đế nói:

- Đuổi theo mau!

Gió thổi vào tăng bào phần phật ông đã bay ra ngoài mấy trượng, cùng Bản Tham đại sư hai người đuổi theo về hướng bắc.

Hồi 11(a)

HƯớNG LAI SI

Lâu nay dạ luống mơ mòng,

Giang Nam cảnh vật một vòng ghé thăm.

Hồ xanh, liễu rủ, hương lăng,

Thuyền con một chiếc, xinh xinh hai nàng.

*

* *

Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm huyệt, không thể động đậy gì được bị mấy gã tùy tòng để nằm ngang trên yên, mặt quay xuống dưới thấy đất chạy giật lùi, vó ngựa tung bay khiến cho mũi miệng chàng dính đầy bụi bặm, tai nghe bọn chúng la hét om xòm toàn bằng tiếng Phiên nên không hiểu gì cả. Chàng đếm chân ngựa tổng cộng có đến mười con.

Chạy được hơn chục dặm đi đến một ngã ba đường nghe thấy Cưu Ma Trí xí xố mấy câu, năm con ngựa liền chạy qua ngả bên trái, còn Cưu Ma Trí đem theo Đoàn Dự cùng ba người khác cưỡi ngựa chạy về bên hữu. Đi thêm mấy dặm nữa lại gặp một ngã ba khác, trong năm người lại có hai người chạy theo ngả kia. Đoàn Dự biết rằng Cưu Ma Trí muốn cho truy binh bối rối không biết phải đuổi theo đường nào cho phải.

Lại chạy thêm một quãng nữa, Cưu Ma Trí nhảy xuống ngựa, lấy ra một cái dây lưng bằng da buộc vào Đoàn Dự, tay trái xách chàng lên, chạy theo triền núi bên ngoài hai gã còn lại giục ngựa chạy về hướng tây. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ nghĩ thầm: "Bá phụ có sai thiết giáp kỵ binh liên tiếp đuổi đến đây, cùng lắm là bắt được cả chín tên tùy tòng của gã phiên tăng này nhưng cũng không cứu nổi ta".

Tuy Cưu Ma Trí tay cầm thêm một người nhưng chân vẫn nhanh thoăn thoắt. Y càng lúc càng lên cao, suốt ba giờ liền chỉ chạy trong những hoang sơn dã lãnh. Đoàn Dự thấy vầng thái dương đã ngả về tây nhưng lúc nào cũng chiếu từ bên trái tới, biết rằng Cưu Ma Trí mang mình đi về hướng bắc.

Đến lúc chiều tối, Cưu Ma Trí để chàng lên trên cành một cây to, lẳng lặng lấy dây trói chặt chàng vào đó, đến mắt cũng không thèm nhìn đến Đoàn Dự, sau đó xoay lưng lại lấy ra mấy miếng bánh khô đưa cho chàng, chỉ giải huyệt một cánh tay trái để chàng tự ăn lấy. Đoàn Dự ngầm giơ tay trái ra, định vận khí dùng Thiếu Trạch Kiếm đả thương y, ngờ đâu các yếu huyệt trên người bị điểm, chân khí toàn thân bị chặn lại, ngón tay điểm ra trống không chẳng có chút nội kình nào.

Cứ như thế mấy ngày liền, Cưu Ma Trí xách chàng tiếp tục chạy về hướng bắc. Nhiều lần Đoàn Dự gợi chuyện với y, hỏi y tại sao lại bắt mình, đưa mình về phương bắc để làm gì, Cưu Ma Trí trước sau không trả lời. Đoàn Dự trong bụng tức tối lắm, nghĩ đến hôm trước bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt giữ, tuy bị hành hạ khổ sở hơn nhiều nhưng không đến nỗi chán ngấy như thế này. Huống chi bị một cô gái xinh đẹp bắt giữ, hương thơm thoang thoảng, lâu lâu bị đánh mắng còn hơn ở trong tay một gã phiên tăng giả câm giả điếc, sướng khổ gì cũng mình mình chịu không nói cho ai hay được.

Cứ như thế đi hơn mười ngày, áng chừng đã ra khỏi biên giới Đại Lý, Đoàn Dự thấy y đổi qua đi về hướng đông, nhưng vẫn tránh đường lớn, vẫn chỉ đi ngoằn ngoèo trong núi non hoang dã. Tuy nhiên mặt đất càng lúc càng bằng phẳng, núi đồi càng lúc càng ít dần mà sông nước càng nhiều hơn, trong một ngày phải qua đò đến mấy bận. Sau cùng Cưu Ma Trí mua hai con ngựa mỗi người cưỡi một con nhưng y vẫn không giải những huyệt đạo trên người chàng.

Có lần Đoàn Dự đi cầu đã tính: "Nếu như ta sử dụng Lăng Ba Vi Bộ, gã phiên tăng này chưa chắc gì đã đuổi kịp được?" Thế nhưng chàng chỉ đi được hai bước, chân khí bị chặn lại ngay tại những huyệt bị đóng, lập tức ngã lăn ra. Chàng thở dài một tiếng lồm cồm ngồi dậy biết rằng cách này không thể làm được.

Tối hôm đó hai người nghỉ lại tại một khách điếm trong một thị trấn nhỏ. Cưu Ma Trí bảo người hầu phòng mang nghiên bút giấy mực để lên trên bàn, khêu to ngọn đèn, đợi tên đó ra khỏi mới nói:

- Đoàn công tử, tiểu tăng mời đại giá lên miền bắc, quả thực đắc tội, trong lòng thật áy náy không yên.

Đoàn Dự đáp:

- Không dám, đại sư quá lời.

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Công tử có biết tiểu tăng làm thế này là có ý gì không?

Đoàn Dự trên suốt con đường, trong bụng chỉ nghĩ đến một việc này thấy trên bàn để bút nghiên giấy mực, mười phần cũng đoán được tám chín bèn nói:

- Không được đâu.

Cưu Ma Trí hỏi lại:

- Cái gì mà không được?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi ái mộ kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn ta định ép ta viết ra cho ngươi chứ gì? Cái đó không thể được.

Cưu Ma Trí lắc đầu:

- Đoàn công tử hiểu sai ý của ta rồi. Năm xưa tiểu tăng có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh, định mượn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí môn cho ông ta xem một lần. Lời hẹn đó chưa hoàn thành, trong lòng lúc nào cũng canh cánh. Cũng may Đoàn công tử thuộc lòng kinh đó, không biết cách nào hơn đành phải đem công tử đến trước mộ ông ta thiêu sống, để tiểu tăng khỏi bị thất tín với người xưa. Thế nhưng công tử là rồng phượng trong loài người, hai bên không có oán thù gì nhau, lẽ nào tiểu tăng lại làm hại đến công tử? Thành ra có một kế vẹn toàn cho cả đôi bên, công tử chỉ cần đem kinh văn đồ phổ chép lại, đừng dấu diếm chút nào, tiểu tăng nhất quyết không ghé mắt xem tới, lập tức gói chặt đem tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh hỏa hóa để hoàn thành tâm nguyện, sau đó sẽ cung kính tiễn công tử trở về Đại Lý ngay.

Câu này khi Cưu Ma Trí vừa mới bước chân vào chùa Thiên Long đã nhắc đến, lúc đó bọn Bản Nhân cũng đã toan bằng lòng, ngay cả Đoàn Dự cũng thấy cách đó có thể thực hiện được. Thế nhưng về sau Cưu Ma Trí tấn công lén Bảo Định Đế, rồi lại bắt giữ mình, ra tay chẳng có gì quang minh chính đại, khi trốn tránh truy binh thì có đủ các ngụy kế, đối với sinh tử an nguy của chín tên bộ thuộc hoàn toàn không coi vào đâu, bao nhiêu tàn ác gian trá đã lộ cả ra rồi, Đoàn Dự đời nào còn tin y cho nổi?

Chàng trong bụng đã tỏ tường bọn Nam Hải Ngạc Thần kia xưng là Tứ Đại ác Nhân xem ra phẩm cách còn hơn xa gã hòa thượng Thổ Phồn ngụy trang dưới danh vị "thánh tăng" này. Chàng tuy chưa từng trải việc đời nhưng trong hơn hai chục ngày qua, việc này đã suy nghĩ chín chắn, biết rõ đầu dây mối nhợ nên đáp:

- Cưu Ma Trí đại sư, lời nói của ông không đánh lừa được tôi đâu.

Cưu Ma Trí chắp tay nói:

- A Di Đà Phật, tiểu tăng một lời đã hứa với Mộ Dung năm xưa mà còn thủ tín đến thế, không lẽ giữ lời hứa này lại bỏ lời hứa kia hay sao?

Đoàn Dự lắc đầu nói:

- Ông bảo năm xưa hứa với Mộ Dung tiên sinh, thật hay giả nào ai biết được? Ông được đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm rồi thể nào chả đọc kỹ một lần, có đem đến đốt trước mồ Mộ Dung tiên sinh không nào ai biết được? Dẫu có phàn hóa thật chăng nữa, người thông minh tài trí như đại sư, đọc đi đọc lại vài lần không lẽ không nhớ được hay sao? Có khi còn sợ nhớ sai, đem sao lại một bản rồi sau mới đốt không chừng.

Cưu Ma Trí hai mắt lóe lên hầm hầm nhìn Đoàn Dự, chỉ trong giây lát, sắc mặt đổi lại từ hòa chậm rãi nói:

- Ngươi với ta đều là đệ tử cửa Phật, lẽ nào lại nói dối nói trá như thế bao giờ, tội quá, tội quá! Nếu như bất đắc dĩ, tiểu tăng đành phải ép buộc, âu cũng chỉ vì muốn cứu mạng công tử, xin đừng trách.

Nói xong đưa tay trái ra, nhẹ nhàng để lên ngực Đoàn Dự nói:

- Khi nào công tử không còn chịu nổi bằng lòng chép lại kinh này, chỉ cần gật đầu một cái, tiểu tăng sẽ buông tay ngay.

Đoàn Dự gượng cười đáp:

- Ta không chép kinh này, ngươi sẽ không chịu thua nên không đành lòng giết ta. Còn như nếu ta chép kinh cho ngươi, lúc đó đời nào ngươi để cho ta sống nữa? Ta chép kinh có khác gì tự sát, Cưu Ma Trí đại sư, cái chỗ đó mười ba ngày trước ta đã nghĩ đến rồi.

Cưu Ma Trí thở dài một tiếng niệm:

- Lạy Phật từ bi!

Chưởng tâm liền vận kình, nghĩ thầm luồng lực đạo này truyền vào huyệt Đãn Trung thì toàn thân chàng như có kiến cắn, khổ sở khó mà chịu nổi, gã công tử vốn được nuông chiều quen rồi, miệng thì nói cứng nhưng nếu bị hành hạ chết đi sống lại sẽ không thể nào không chịu ép một bề. Ngờ đâu kình lực vừa nhả ra, lập tức thấy biến đi đâu mất không thấy tăm hơi gì nữa. Y kinh hãi lập tức thúc đẩy mạnh thêm, lần này nội lực mất mát còn nhanh hơn nữa, tiếp theo chân khí trong người cuồn cuộn đổ ra. Cưu Ma Trí hết hồn, tay phải đẩy mạnh lên vai Đoàn Dự. Đoàn Dự "A" lên một tiếng, ngã lăn ra giường, ót đụng mạnh vào tường.

Cưu Ma Trí vốn đã biết Đoàn Dự học Hóa Công đại pháp của Tinh Tú lão quái nhưng yếu huyệt đang bị phong, dù chính dù ta thì võ công nào cũng không thể thi triển được, ngờ đâu y vừa phát kình, thì nội lực của mình liền tuôn vào huyệt Đãn Trung của đối phương, chẳng khác nào hôm trước toàn thân chàng không cử động gì được, mồm há hốc để cho con mãng cổ chu cáp chui tọt vào trong bụng, trên thân thể huyệt đạo bị đóng và Bắc Minh thần công không liên can gì đến nhau.

Đoàn Dự rên rỉ ngồi dậy hậm hực nói:

- Uổng cho ngươi tự xưng mình là cao tăng, cao tăng gì mà vừa ra tay đã đánh người là sao?

Cưu Ma Trí gằn giọng:

- Môn Hóa Công đại pháp của ngươi do ai dạy cho thế?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Hóa Công đại pháp, tàn bạo đối với cả trời lẫn vật khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì chẳng nực cười ru? Ha ha!

Mấy câu này vô hình chung chàng đem câu viết trong quyển trục lấy được trong thạch động ra dẫn. Cưu Ma Trí không hiểu ý tứ ra sao nhưng không dám đụng tới người chàng nữa, trước đây y điểm các huyệt Thần Phong, Đại Chuy, Huyền Khu, Kinh Môn của chàng nào có thấy gì đâu, người này võ công thật là quái dị, không thể nào hiểu nổi, chắc môn công phu này ắt là từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa ra, có điều chàng chỉ mới học được chút vỏ ngoài nên không biết sử dụng. Nếu thực như thế thì võ học họ Đoàn Đại Lý càng thèm thuồng hơn, thành thử y đột nhiên giơ chưởng lên, lăng không sử dụng một chiêu Hỏa Diễm Đao, chém đứt một mảnh chiếc khăn thư sinh trên đầu Đoàn Dự, quát lớn:

- Ngươi không viết thật chăng? Ngón đao này ta chỉ cần chém thấp xuống nửa thước thì đầu ngươi có còn không?

Đoàn Dự sợ lắm, nghĩ bụng nếu như y bực mình thật lại hủy một con mắt mình, hay chặt một cánh tay thì biết làm sao đây? Trên đường đi chàng đã suy nghĩ rất nhiều nên mấy câu hờm sẵn lập tức bật ra:

- Nếu như ta bị bức bách quá đỗi thì sẽ viết bậy viết bạ, không đúng hẳn. Nếu như ngươi làm hại đến chi thể ta, ta sẽ hận ngươi thấu xương, khi viết kiếm phổ sẽ thêm thắt đủ thứ. Nếu đã thế kiếm phổ ta chép kia nếu như ngươi đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, ngươi bảo là sẽ lập tức niêm phong ngay quyết không hé mắt nhìn đến, dù đúng dù sai thì cũng không liên quan gì đến ngươi. Ta viết lăng viết nhăng thì cũng là ta đánh lừa âm hồn Mộ Dung tiên sinh thôi, y ở cõi âm nếu như luyện rồi bị tẩn hỏa nhập ma, làm tuyệt quỉ mạch thì cũng đâu có trách gì nhà ngươi được.

Nói xong chàng làm như đi đến trước bàn, lấy giấy bút ra giả vờ định viết. Cưu Ma Trí giận lắm, mấy câu của Đoàn Dự làm lộ hết ý đồ định đánh lừa để lấy kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm của y, đồng thời cũng nói rõ ràng nếu y bức bách quá, kiếm phổ viết ra sẽ không đầu đủ, thiếu đầu thiếu đuôi, nhiều đoạn láo lếu, thì phỏng có ích gì, đọc vào chỉ thêm có hại. Y ở chùa Thiên Long đấu kiếm hai lần, Lục Mạch Thần Kiếm giả thật thế nào y nhìn là biết ngay thế nhưng yếu chỉ của lộ kiếm pháp đó đều do nội lực vận dụng sai sử mà thành thì không thể nào phân biệt được. Y thẹn quá hóa giận, nổi cơn điên vung tay chém ra một đòn Hỏa Diễm Đao, nghe soẹt một tiếng nhỏ, quản bút Đoàn Dự cầm trong tay bị chặt đứt ra làm hai.

Đoàn Dự còn đang cười sằng sặc, Cưu Ma Trí bèn quát lớn:

- Tặc tiểu tử, Phật gia có lòng tốt định tha mạng cho ngươi, ngươi vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Để ta xách ngươi tơi trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống, kiếm phổ ngươi nhớ trong bụng thì còn giả được hay chăng?

Đoàn Dự cười đáp:

- Ta khi sắp chết sẽ cố ý nhớ sai mấy chiêu kiếm pháp. Đúng đó, ta cứ thế mà làm, từ giờ trở đi ta hết sức nhớ sai, càng nhớ càng sai, đến sau cùng, đến chính ta cũng chẳng còn biết mình là ai.

Cưu Ma Trí hầm hầm trừng mắt nhìn chàng, ánh mắt dường tóe lửa, hận không thể dùng môn vô hình khí kình Hỏa Diễm Đao chém đứt cổ tên tiểu tử này cho xong.

Từ đó đường đi chỉ về hướng đông, đến hơn hai chục ngày, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói trên đường đi bắt đầu thánh thót dịu dàng, trong các món ăn cũng ít cay hơn. Hôm đó đến ngoài thành Tô Châu, Đoàn Dự nghĩ thầm: "Chắc sắp đến mộ của Mộ Dung Bác rồi. Phiên tăng không ép ta chép kiếm phổ được, chắc thể nào cũng giết mình đi nhưng biết đâu trước mồ của Mộ Dung Bác, y lại chẳng đốt một chốc, đánh một chập, khiến cho ta sống dở chết dở, y làm gì mà chẳng được".

Chàng thấy chạnh lòng không dám nghĩ thêm, đưa mắt nhìn phong cảnh. Lúc đó đang vào tháng ba, hoa hạnh đang nở, liễu xanh rủ bên hồ, gió xuân ấm áp thổi tới khiến lòng lâng lâng như say. Đoàn Dự thấy lòng khoan khoái, cất tiếng ngâm:

Liễu rủ lơ thơ sóng dập dềnh,

Cỏ thơm xóm nhỏ luống mông mênh.

Chiều hôm bóng ngả bên đường cũ,

Gió nhẹ vờn hoa cánh chập chờn.

Ba miểu miểu,

Liễu y y.

Cô thôn phương thảo viễn,

Tà nhật hạnh hoa phi.

Cưu Ma Trí cười khẩy:

- Chết đến nơi mà còn nhàn nhã tiêu sái để ngâm thơ vịnh phú nữa.

Đoàn Dự cười đáp:

- Sắc thân vốn là vô thường, đã còn là vô thường tức là còn khổ. Thiên hạ có ai mà không chết. Ngươi có sống cũng được thêm vài năm, phỏng được bao lâu mà chẳng hưởng cho sung sướng?

Cưu Ma Trí không thèm để ý đến chàng nữa, hỏi người đi trên đường Tham Hợp Trang ở chỗ nào? Thế nhưng y hỏi liên tiếp bảy tám người chẳng một ai biết cả. Hai bên ngôn ngữ bất đồng nên lại càng thêm rắc rối. Mãi sau mới có một ông già nói:

- Trong thành ngoài thành Tô Châu, chẳng có trang viện nào tên là Tham Hợp Trang cả. Chắc là đại hòa thượng nghe nhầm chăng?

Cưu Ma Trí nói:

- Có một đại trang chủ họ Mộ Dung, chẳng hay ông ta ở nơi nào?

Ông già đáp:

- Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Thẩm, họ Trương, họ Chu, họ Văn ... đều là những đại trang chủ, làm gì có ai họ Mộ Dung? Chưa từng nghe thấy bao giờ?

Cưu Ma Trí chưa biết tính sao, bỗng nghe từ một con đường nhỏ phía tây có người nói:

- Nghe nói họ Mộ Dung ở tại Yến Tử ổ_ ở phía tây cách thành ba mươi dặm, chúng mình tới đó xem sao.

Lại nghe một người khác nói:

- Này, mình đến nơi rồi, phải hết sức cẩn thận mới được.

Giọng nói vùng trung châu Hà Nam. Hai người đó nói rất khẽ nhưng nội công Cưu Ma Trí rất cao nên nghe rõ mồn một nên trong bụng tính thầm: "Không lẽ hai gã này cố ý nói cho mình nghe chăng? Nếu không thì sao lại vừa khéo đến thế?". Y liếc mắt ngó qua, thấy một người hùng dũng hiên ngang, mặc đồ tang, còn một người nhỏ bé gầy gò chẳng khác gì người bị lao.

Cưu Ma Trí vừa liếc qua biết ngay hai người này có võ công, chưa biết có nên mở lời hỏi thăm không, Đoàn Dự đã kêu lên:

- Hoắc tiên sinh, Hoắc tiên sinh, ông cũng ở đây à?

Thì ra người hình dung ti tiện kia chính là Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền còn người kia thì là sư điệt của ông ta Truy Hồn Thủ Quá Ngạn Chi.

Hai người đó ra khỏi Đại Lý, nhất định báo thù cho Kha Bách Tuế biết rằng họ Mộ Dung võ công hết sức cao cường, mối thù này khó lòng mà trả được những cũng nhất quyết tìm đến Tô Châu. Họ dò hỏi biết được họ Mộ Dung ở tại Yến Tử ổ nhưng Mộ Dung Bác tạ thế đã lâu, làm sao có thể sát hại Kha Bách Tuế được, hẳn là một người nào khác trong nhà Mộ Dung. Hai người thấy việc báo cừu xem ra có đôi phần hi vọng, đi đến bờ hồ lại gặp phải Cưu Ma Trí và Đoàn Dự.

Thôi Bách Tuyền đột nhiên nghe thấy Đoàn Dự gọi tên mình, còn đang ngạc nhiên vội vàng đi tới, thấy một nhà sư ngồi trên lưng ngựa, tay trái nắm giây cương con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi còn Đoàn Dự thì hai tay thẳng đơ xuôi theo bên mình, hiển nhiên đã bị điểm trúng huyệt đạo, lạ lùng hỏi:

- Tiểu vương gia đấy ư? Này, đại hòa thượng, tại sao ông lại gây khó cho vị công tử này? Ông có biết đây là ai không?

Cưu Ma Trí có coi hai người này vào đâu nhưng nghĩ mình chưa từng tới trung nguyên, nhà của Mộ Dung tiên sinh ở nơi nào không dễ gì tìm cho ra, được hai người này dẫn đường thật tốt biết chừng nào bèn nói:

- Ta muốn đến phủ đệ nhà Mộ Dung, phiền hai vị dẫn đường cho.

Thôi Bách Tuyền nói:

- Xin hỏi pháp danh của đại hòa thượng là gì? Sao dám đắc tội với tiểu vương gia họ Đoàn? Đến phủ Mộ Dung có chuyện chi?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tới đó tự khắc sẽ biết.

Thôi Bách Tuyền hỏi:

- Đại sư là bằng hữu với nhà Mộ Dung chăng?

Cưu Ma Trí đáp:

- Đúng thế, Tham Hợp Trang nơi ở của Mộ Dung tiên sinh ở nơi nào, Hoắc tiên sinh nếu biết, xin chỉ giùm cho.

Cưu Ma Trí thấy Đoàn Dự gọi y là "Hoắc tiên sinh" lại tưởng y họ Hoắc thật. Thôi Bách Tuyền gãi đầu, quay sang Đoàn Dự hỏi:

- Tiểu vương gia, để tôi giải khai huyệt đạo trên tay tiểu vương gia rồi tính sau.

Y tiến lên mấy bước, đưa tay định giải huyệt cho Đoàn Dự.

Đoàn Dự nghĩ thầm Cưu Ma Trí võ công cao siêu không đâu kể xiết, trên đời e rằng khó có ai bì kịp, Thôi Quá hai người không thể nào địch lại y, nếu lơ ngơ đến cứu mình thì chỉ uổng mạng thôi nên tốt hơn hết bảo họ chạy trốn bèn nói:

- Khoan đã, vị đại sư đây một thân một mình đánh bại bá phụ ta và năm cao thủ khác của nước Đại Lý, bắt ta đem tới đây. Ông ta là bạn bè tri kỷ của Mộ Dung tiên sinh, muốn đem ta đến đốt sống trước mộ để tế, hai vị không liên quan gì đến Mộ Dung Cô Tô, mau mau tránh ra nơi khác.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nghe thấy hòa thượng này đánh bại Bảo Định Đế và các cao thủ khác, trong bụng kinh hãi, lại nghe nói y là bạn chí cốt của nhà Mộ Dung lại thêm hoảng hồn. Thôi Bách Tuyền nghĩ mình ẩn náu trong phủ Trấn Nam Vương hơn một chục năm, hôm nay tiểu vương gia bị nạn, lẽ nào làm lơ không ngó ngàng gì đến? Vả lại đã đến Cô Tô rồi, cái mạng mình vốn đã coi như xong, dẫu chết dưới những quân bàn toán như họ vẫn làm hay chết trong tay người khác thì có khác gì nhau. Nghĩ thế y bèn thò tay vào bọc lấy ra chiếc bàn toán đúc bằng vàng sáng chói, giơ lên lắc lắc nghe tiếng leng keng rộn rã nói:

- Đại hòa thượng, nếu Mộ Dung tiên sinh là bạn của ông thì tiểu vương gia đây cũng là bạn của ta, ta khuyên ông nên thả y ra đi.

Quá Ngạn Chi cũng lấy nhuyễn tiên quấn ở quanh bụng ra cầm trên tay, hai người cùng xông vào đầu ngựa của Cưu Ma Trí. Đoàn Dự kêu lên:

- Hai vị chạy mau lên, đánh không lại y đâu.

Cưu Ma Trí cười nhạt nói:

- Muốn động thủ thực chăng?

Thôi Bách Tuyền đáp:

- Đánh thế này ta biết là vuốt râu hùm, đánh không lại thực nhưng cũng thử một phen, sống chết ... ối ối ....

Chẳng biết y định nói "sống chết" cái gì, Cưu Ma Trí đã giơ tay đoạt nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi, kế đó nghe bạch một tiếng, hất ngược nhuyễn tiên lại cuốn lấy chiếc bàn toán trong tay Thôi Bách Tuyền, vung tay một cái, cả hai món binh khí cùng rơi xuống mé hồ bên phải, tưởng đâu sẽ chìm xuống đáy nước không ngờ Cưu Ma Trí sử kình rất chính xác, cán của nhuyễn tiên vòng một vòng, quấn luôn vào một cành liễu rủ trên mặt nước, cả cành cây lẫn nhuyễn tiên rún rẩy không ngừng. Chiếc bàn toán nhấp nhô chạm lên mặt nước thành những vòng tròn lan mỗi lúc một rộng.

Cưu Ma Trí chắp tay nói:

- Phiền đại giá của hai vị dẫn đường dùm.

Thôi Quá hai người mặt mày bàng hoàng, không biết làm sao cho phải. Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Nếu hai vị không muốn dẫn đường thì xin chỉ đường tới Tham Hợp Trang ở Yến Tử ổ vậy, tiểu tăng tự mình tìm tới cũng không sao.

Thôi Quá thấy võ công y cao cường như thế, thần thái lại hết sức khiêm hòa, quả thực có muốn nổi giận cũng không xong mà không nổi giận thì lại càng không được.

Ngay lúc đó, bỗng nghe có tiếng nước khua, trên mặt hồ một chiếc thuyền con theo làn sóng xanh đi tới. Trên thuyền là một cô gái mặc áo dài màu lục, hai tay cầm hai mái giầm chậm rãi chèo, miệng hát véo von một bài ca rằng:

Trên ao thơm ngát hương sen,

Cô kia tham hái khiến quên cả về.

Đầu thuyền khuấy nước say mê,

Cười anh vịt nhỏ chạy te khỏi quần.

Hạm đạm hương liên thất khoảnh bi,

Tiểu cô tham hí thái liên trì.

Vãn lai lộng thủy thuyền đầu thản,

Tiếu thoát hồng quần lý áp nhi.

Tiếng hát thánh thót dịu dàng khiến người nghe phải vui lây. Đoàn Dự khi còn ở Đại Lý thường ngâm đọc thơ phú người xưa, đã ghi sâu phong vật Giang Nam, bây giờ được nghe khúc hát khiến hồn không khỏi lâng lâng. Chỉ thấy cô gái kia hai cánh tay trắng muốt như ngọc, phản chiếu làn sóng xanh, tưởng chừng như sáng lóe lên. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi tuy đại địch ngay trước mặt nhưng cũng không khỏi quay đầu liếc nhìn cô gái mấy bận.

Chỉ có Cưu Ma Trí nhìn mà như không thấy, nghe mà như không lọt tai nói tiếp:

- Nếu hai vị không chịu nói cho biết Tham Hợp Trang ở đâu, tiểu tăng đành phải cáo từ.

Khi đó cô gái chèo chiếc thuyền nhỏ đã đến bờ hồ nghe Cưu Ma Trí nói như thế bèn xen vào:

- Vị đại sư phụ kia muốn đến Tham Hợp Trang chẳng hay có chuyện chi rứa?

Giọng nói thật trong trẻo dịu dàng khiến người nghe thấy lòng thật thoải mái. Cô gái đó tuổi chừng mười sáu mười bảy, mặt đầy vẻ ôn nhu, thân hình hết sức thanh tú.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Không ngờ con gái Giang Nam lại xinh đẹp nho nhã đến thế". Thực ra cô gái này không đẹp lắm đâu, so với Mộc Uyển Thanh còn kém một chút, thế nhưng mặt mũi chỉ tám phần còn vẻ ôn nhu thêm hai phần nữa nên không sút chút nào với những mỹ nữ mười phân vẹn mười.

Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp Trang, liệu tiểu nương tử có thể chỉ đường cho được chăng?

Cô gái mỉm cười đáp:

- Cái tên Tham Hợp Trang người bên ngoài làm răng mà biết được, đại sư phụ nghe ở mô vậy chừ?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng là người phương xa kết giao rất thân với Mộ Dung tiên sinh, đặc biệt đến trước mộ người bạn cũ tế một tuần để hoàn thành lời ước năm xưa lại cũng mong được thấy thanh phạm của Mộ Dung công tử một lần.

Cô gái ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Thế thì quả là phí công, Mộ Dung công tử vừa mới đi khỏi, giá như đại sư phụ tới sớm ba bữa thì đã gặp được công tử rồi.

Cưu Ma Trí nói:

- Giá như được gặp công tử một lần thì thật thỏa nguyện. Thế nhưng tiểu tăng từ nước Thổ Phồn xa xôi diệu vợi tới Trung Thổ, chỉ mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy để hoàn thành tâm nguyện năm xưa mà thôi.

Thiếu nữ đáp:

- Nếu đại sư phụ là bạn thân của Mộ Dung tiên sinh thì xin ghé uống một chén trà lạt đã, tiểu nữ sẽ vào báo tin, liệu có nên chăng?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Nên xưng hô làm sao cho phải?

Cô gái cười khúc khích nói:

- Ôi chao! Tiểu nữ chỉ là người gẩy đàn thổi sáo hầu hạ công tử, tên gọi A Bích. Đại sư phụ chẳng nên đại nương tử, tiểu nương tử làm gì cho khách sáo ra, cứ gọi A Bích là được rồi.

Nàng nói giọng Tô Châu vốn thật khó nghe, thế nhưng là thị tì trong một đại thế gia võ lâm chắc bình thời nghe tiếng quan thoại cũng nhiều nên ăn nói thêm nhiều tiếng phổ thông Cưu Ma Trí và Đoàn Dự cố gắng cũng hiểu được. Cưu Ma Trí cung kính đáp:

- Không dám._

A Bích nói:

- Từ đây vào Cầm Vận tiểu trúc trong Yến Tử ổ đều là đường thủy, nếu tất cả các vị đều muốn đến thì tiểu nữ chở thuyền vào, liệu có nên chăng?

Mỗi câu nói cô gái lại thêm vào "liệu có nên chăng?", vừa có vẻ ân cần hỏi han, lại như bàn thảo khiến cho người nghe khó mà từ chối. Cưu Ma Trí đáp:

- Thế thì xin phiền cô nương.

Y nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền chỉ hơi chìm xuống một chút mà không chòng chành chút nào. A Bích quay sang mỉm cười với Cưu Ma Trí và Đoàn Dự, dường như muốn khen: "Công phu giỏi thật!".

Quá Ngạn Chi hỏi nhỏ:

- Sư thúc, mình tính sao đây?

Hai người đến kiếm nhà Mộ Dung báo thù nhưng gặp phải cảnh khó xử này thực là sượng sùng. A Bích mỉm cười:

- Hai vị đại gia đến Tô Châu, nếu không có gì gấp gáp, xin mời đến tệ xứ uống chén trà lạt, ăn chút điểm tâm. Đừng sợ chiếc thuyền này nhỏ không đủ sức, có thêm vài người nữa cũng không chìm đâu mà sợ.

Nàng nhẹ nhàng chèo thuyền đến dưới cây liễu nhặt lấy nhuyễn tiên cùng chiếc bàn toán, tiện tay khẩy mấy hạt toán châu, nghe lách cách leng keng. Đoàn Dự nghe vài tiếng, vui vẻ hỏi:

- Cô nương đàn khúc "Hái Dâu" đấy ư?

Thì ra cô gái thuận tay gẩy mấy viên bàn toán, nặng nhẹ nhanh chậm cũng thành tiết tấu, nghe ra hai câu rất linh động trong trẻo của bài "Hái Dâu". A Bích mỉm cười nói:

- Công tử tinh thông âm luật, vậy đàn thử một khúc xem sao?

Đoàn Dự thấy nàng ngây thơ hồn nhiên, vui vẻ dễ thân cận cũng cười đáp:

- Tôi đâu có biết gẩy bàn toán.

Chàng quay lại nói với Thôi Bách Tuyền:

- Hoắc tiên sinh, cô này gẩy cái bàn toán của ông nghe hay quá.

Thôi Bách Tuyền cũng bật cười:

- Quả đúng thế! Cô nương thật là thanh nhã, cái món đồ nghề đầy tục khí của ta vào tay cô nương lại cũng thành một món nhạc khí.

A Bích đáp:

- Chao ôi! Quả là không phải chút nào. Cái này của Thôi đại gia đấy sao? Chiếc bàn toán này thật là quí giá, nhà ông chắc phải có của ăn của để nên cả cái bàn toán cũng đúc bằng vàng. Hoắc đại gia, xin trả lại ông đây.

Cô gái cầm chiếc bàn toán vươn tay đưa ra. Thôi Bách Tuyền đang ở trên bờ không thể nào vói tới, y cũng không thể nào bỏ món vật bất ly thân kia được, đành nhẹ nhàng nhảy lên đầu thuyền, giơ tay đón lấy chiếc bàn toán, quay sang trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vẻ mặt vẫn đầy vẻ từ hòa, mỉm cười không tỏ vẻ gì khó chịu.

A Bích tay trái cầm cán cây nhuyễn tiên giơ lên cao, năm ngón tay phải vuốt xuôi xuống, móng tay chạm vào những đốt nổi gồ lên phát ra những tiếng leng keng, tình tang khi cao khi thấp. Năm ngón tay nàng vuốt chẳng khác gì người gảy đàn tì bà, món binh khí đã từng chiến đấu khắp hai miền nam bắc Trường giang với biết bao anh hùng hắc bạch, nay vào bàn tay trắng trẻo mềm mại của nàng lại biến thành một món nhạc khí.

Đoàn Dự kêu lên:

- Hay quá! Hay quá! Cô nương thử đàn một bản xem nào.

A Bích quang sang Quá Ngạn Chi nói:

- Nhuyễn tiên này có phải của vị đại gia kia không? Tôi chẳng biết trời trăng gì lấy ra nghịch thực là vô lễ. Đại gia cũng xuống thuyền đi thôi, một lát nữa tôi sẽ bóc hồng lăng_ tươi cho ông ăn.

Quá Ngạn Chi nghĩ đến mối thù của sư phụ, hận nhà họ Mộ Dung đất Cô Tô thấu xương, nhưng thấy tiểu cô nương này nói năng nhí nhảnh, ngây thơ hồn nhiên ên trong bụng tuy đầy thù hằn nhưng cũng không thể nổi sùng với cô ta được, bụng nghĩ thầm: "Cô ta đưa mình đến trang viện thật hay biết mấy, thể nào mình cũng giết được vài đứa báo thù cho ân sư". Nghĩ thế bèn gật đầu nhảy xuống thuyền.

A Bích cuộn gọn gàng cây nhuyễn tiên giao lại cho Quá Ngạn Chi, vừa chèo một cái, chiếc thuyền đã lướt về hướng tây. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt ra hiệu cho nhau, cùng nghĩ: "Hôm nay mình chui vào hang cọp, không biết sống chết thế nào. Nhà Mộ Dung ra tay thật là độc ác, tiểu cô nương này nhỏ nhẹ dễ thương, xem ra không phải là giả dối, nhưng biết đâu chẳng phải là kế của họ dụ cho địch sinh ra kiêu căng để mình không đề phòng rồi thừa cơ hạ thủ?".

Thuyền đi trên mặt hồ, quẹo qua quẹo lại mấy lần, rồi đi vào một chiếc đầm lớn, nhìn ra đằng xa thấy khói lung linh bốc lên, mặt nước xa tít tận chân trời. Quá Ngạn Chi trong bụng hãi thầm: "Chiếc hồ này chắc là Thái Hồ_ đây. Ta và Thôi sư thúc đều không biết bơi, con bé này chỉ cần lật thuyền là cả hai người mình sẽ vào bụng cá ngay, còn nói gì đến việc báo thù cho thầy nữa?".

Thôi Bách Tuyền cũng đã nghĩ đến chuyện đó, nghĩ bụng nếu mình cầm được mái chèo trong tay, nếu cô gái này muốn lật thuyền thì cũng không phải là dễ bèn nói:

- Cô nương, để ta giúp cô chèo thuyền, cô chỉ cần chỉ đường là đủ.

A Bích cười nói:

- Ôi chao, tiểu nữ không dám. Nếu công tử biết được thể nào cũng mắng là coi thường khách.

Thôi Bách Tuyền thấy nàng từ chối lại càng nghi hơn, cười nói:

- Chẳng dấu gì cô, chúng tôi chỉ muốn cô trổ tài dùng nhuyễn tiên đàn một khúc. Chúng tôi là người thô lỗ không phải như Đoàn công tử đây, cầm kỳ thư họa môn nào cũng tinh thông.

A Bích nhìn Đoàn Dự cười nói:

- Tiểu nữ đàn có ra gì đâu, sao dám gọi là tuyệt kỹ? Đoàn công tử phong nhã như thế, nghe sẽ cười bằng thích, tôi chẳng đàn đâu.

Thôi Bách Tuyền cầm cây nhuyễn tiên trên tay Quá Ngạn Chi đặt vào tay cô gái tay kia cầm lấy mái chèo nói:

- Này cô! Cứ đàn đi nào!

A Bích cười nói:

- Thôi được, cho tôi mượn cái bàn toán của ông để đánh nhịp vậy.

Thôi Bách Tuyền trong bụng hơi e dè: "Cô ta muốn lấy luôn cả hai món binh khí của mình, không lẽ không có âm mưu gì sao?". Thế nhưng đã đến nước này không tiện từ khước đành đưa cho cô ta chiếc kim toán bàn. A Bích để chiếc bàn toán lên sàn thuyền trước mặt, tay trái cầm cán nhuyễn tiên, chân trái đạp lên đầu roi, kéo thẳng ra, năm ngón tay phải vừa vuốt vừa búng, nhuyễn tiên liền phát ra âm thanh tính tang, tuy không réo rắt thánh thoát như tì bà những nghe cũng thật êm dịu.

Năm ngón tay của A Bích đàn nhuyễn tiên thỉnh thoảng lại nghỉ đưa ngón tay khẩy chiếc bàn toán, những hạt toán châu leng keng hòa với tiếng tình tang của nhuyễn tiên, lại càng vui tai. Ngay khi đó, bỗng thấy hai con chim ém sà ngang đầu thuyền, bay vụt về hướng tay. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Nơi nhà Mộ Dung ở có tên là Yến Tử ổ, chắc hẳn chim én nhiều lắm".

Lại nghe A Bích cất tiếng hát rằng:

Sớm mai nơi trước hiên nhà,

Hai con chim én bay sà xuống sân.

Phượng hoàng làm tổ cũng gần,

Khói Tiêu Tương cũng ân cần làm quen.

Lầu hồng cũng lại trèo lên,

Bờ sông biếc cũng chập chờn dừng chân.

Thuận đưa nét vẽ tay thần,

Tiếng oanh dìu dặt thả hồn mê ly.

Vì ai đến vì ai đi?

Rèm châu cuốn bức ơn kia nghìn trùng.

Nhị xã lương thần,

Thiên gia đình viện.

Phiên phiên hựu đổ song phi yến,

Phượng hoàng sào ổn hứa vi lân,

Tiêu Tương yên minh lai hà vãn?

Loạn nhập hồng lâu,

Để phi lục ngạn,

Họa lương khinh phất ca trần chuyển,

Vi thùy qui khứ vi thùy lai?

Chủ nhân ân trọng châu liêm quyển.

Đoàn Dự nghe nàng hát thật là ôn nhu tình tứ không khỏi lòng thấy mênh mang, nghĩ thầm: "Nếu như ta cứ suốt đời chui rúc ở nam cương, làm sao có được những giờ phút thần tiên như thế này?".

Vì ai đến vì ai đi?

Rèm châu cuốn bức ơn kia nghìn trùng.

Mộ Dung công tử có người nữ tì như thế này hẳn phải là nhân vật phi thường. A Bích hát xong khúc hát đó rồi đưa bàn toán và nhuyễn tiên trả lại cho Thôi Quá hai người, cười nói:

- Hát chẳng ra gì, quí khách đừng cười nhé! Hoắc đại gia, xin chèo vào con lạch nhỏ phía bên trái, đó đó! Đúng rồi!

Thôi Bách Tuyền thấy nàng trả lại binh khí cho mình mới thấy yên bụng, bèn theo đúng lời nàng đi vào một con lạch nhỏ, có điều mặt hồ mọc đầy những lá sen, nếu không được cô ta chỉ điểm thì không ai có thể biết được giữa đám lá sen lại có một con đường. Thôi Bách Tuyền chèo một hồi, A Bích lại chỉ một con đường khác:

- Bơi qua phía kia kìa.

Phía đó mặt nước đầy những cây và trái hồng lăng, trong làn sóng xanh chập chờn, lăng đỏ lá xanh quả thật đẹp không thể tả. A Bích thuận tay hái hồng lăng chia cho mọi người.

Hai tay Đoàn Dự tuy vẫn cử động được nhưng sau khi huyệt đạo bị điểm rồi không có chút hơi sức nào, đến cái vỏ hồng lăng cũng không bóc được. A Bích cười nói:

- Công tử gia không phải người Giang Nam nên không biết bóc lăng, để tiểu nữ bóc dùm cho.

Cô ta bóc luôn mấy trái để vào tay chàng. Đoàn Dự thấy quả ấu đó trơn nhẵn bỏ vào mồm thơm phức, ăn ngon lạ thường cười nói:

- Hồng lăng này ăn bùi mà không ngấy, thật chẳng khác gì nghe cô nương hát vậy.

A Bích mặt ửng hồng cười nói:

- Đem bài hát của tôi so với trái hồng lăng, hôm nay mới là lần đầu nghe đến, xin đa tạ công tử.

Thuyền chưa qua khỏi hồ lăng, A Bích lại chỉ đường chèo thuyền vào một vùng lau lách và giao bạch_ khiến cho cả đến Cưu Ma Trí cũng nổi lòng e dè, trong bụng cố ghi nhớ đường đi của con thuyền để phòng khi đi ra không bị lạc lối. Mọi người đưa mắt nhìn quanh thấy mặt hồ toàn là lá sen, lá ấu, lau niễng nổi phất phơ trên mặt nước chỗ nào cũng giống chỗ nào, mỗi khi gió thổi lại biến đổi đủ chiều, dẫu lúc này có nhớ kỹ đến mấy thì chỉ chốc lát cục diện đã hoàn toàn khác hẳn.

Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi ba người chăm chăm nhìn vào mắt A Bích, cố gắng xem cô ta bằng cách nào tìm ra đường và dấu vết, nhưng cô gái chẳng để ý gì chỉ lo hái lăng, vọc nước, tiện đâu chỉ đó, dường như biết bao nhiêu thủy đạo ngang dọc như bàn cờ kia cô rõ như lòng bàn tay, sinh ra đã biết chẳng cần biện nhận làm gì.

Cứ như thế quay qua quẹo lại đến hai giờ, đến khoảng giời Mùi, nhìn thấy xa xa trong đám cây dương liễu xanh rì thấy lộ ra một góc rèm cửa. A Bích nói:

- Đến rồi đây! Hoắc đại gia, phiền ông phải chèo đến cả nửa ngày trời chắc là mệt lắm.

Thôi Bách Tuyền cười gượng:

- Chỉ cần có hồng lăng ăn, nghe tiếng hát, dẫu có phải chèo thuyền mười năm tám năm cũng không mệt.

A Bích vỗ tay reo:

- Nếu như ông muốn nghe hát, muốn ăn lăng thì có gì là khó? Cứ ở luôn trong đây không ra nữa là xong.

Thôi Bách Tuyền nghe cô ta bảo "Cứ ở luôn trong đây không ra nữa là xong" không khỏi kinh hãi, giương đôi mắt ti hí nhìn cô ta một hồi, chỉ thấy cô gái cười khúc khích xem ra không có bụng dạ nào nhưng cũng không vì thế mà yên tâm.

A Bích cầm lấy mái chèo, chèo thẳng vào dưới tàn cây liễu, đến gần hơn, thấy một cành thông làm thành chiếc thang, rủ xuống mặt nước. A Bích buộc chiếc thuyền vào cành cây, bỗng nghe trên cành liễu một con chim nhỏ hót ríu ra ríu rít nghe thật trong trẻo. A Bích cũng bắt chước tiếng chim ríu rít mấy tiếng, quay đầu lại mỉm cười:

- Xin quí khách lên bờ.

Mọi người lần lượt trèo lên, thấy lơ thơ mấy gian nhà dựng trên một khu đất chẳng hiểu là một hòn đảo hay một bán đảo. Những mái nhà đó trông be bé xinh xinh có vẻ tinh nhã, trên biển ngạch đề hai chữ "Cầm Vận", nét bút tiêu sái. Cưu Ma Trí nói:

- Có phải đây là Tham Hợp Trang ở Yến Tử ổ chăng?

A Bích lắc đầu:

- Không phải. Chỗ này là công tử dựng lên cho tôi ở, nhỏ bé thế này đâu đáng để tiếp quí khách. Hiềm vì đại sư phụ nói là muốn đến tế mộ Mộ Dung lão gia nên tôi không quyết định được, đành phải để các vị chờ ở đây để tôi đi hỏi A Châu tỉ tỉ.

Cưu Ma Trí nghe nói thế, trong bụng hơi bực, mặt sầm xuống. Y là Hộ Quốc Pháp Vương nước Thổ Phồn, thân phận cao quí biết là nhường nào? Không những y ở Thổ Phồn được nhà vua kính trọng, dẫu có đến triều đình các nước Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Tây Hạ, các vị đế vương cũng phải lấy lễ quí tân mà tiếp đãi, huống chi y lại là kẻ tri giao cựu hữu của Mộ Dung tiên sinh, lần này thân hành đến tế mộ, Mộ Dung công tử vì không biết trước nên đi khỏi thì đã đành, vậy mà bọn kẻ ăn người ở lại không mời y vào khách sảnh tiếp đãi cho long trọng, lại đưa đến biệt viện của đứa tiểu tì chẳng là coi thường nhau lắm hay sao? Thế nhưng y thấy A Bích ăn nói líu lo chẳng có vẻ gì khinh mạn nên nghĩ thầm: "Con tiểu a đầu này chẳng biết gì mình để ý đến nó làm chi?". Nghĩ như thế y thấy lòng bình thản trở lại.

Thôi Bách Tuyền hỏi:

- A Châu tỉ tỉ của cô là ai thế?

A Bích cười đáp:

- A Châu là A Châu, chị ấy lớn hơn tôi một tháng nên phải gọi bằng chị đấy thôi. Tôi phải gọi bằng chị chứ biết làm sao hơn, ai bảo chị ta hơn một tháng làm chi? Còn ông đâu cần gọi bằng chị, nhưng nếu như gọi bằng chị là chị ấy thích lắm đó!

Cô ta vừa dẫn mọi người vào nhà vừa nói líu lo, âm thanh trầm bổng như tiếng đàn tiếng sáo. Vào đến trong sảnh, A Bích mời mọi người ngồi, sau đó có người đầy tớ bưng trà lên. Đoàn Dự cầm chén trà thấy mùi thơm ngát bốc lên mũi, mở nắp ra, thấy trà màu xanh lợt có những lá trà biếc mọc đầy lông tơ, trông như những hạt châu cuộn nổi trên mặt nước. Đoàn Dự chưa từng thấy bao giờ, đưa lên miệng nhắp thử một ngụm, thấy ngon ngọt lạ thường, nước dãi chảy đầy lưỡi. Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người thấy lá trà kỳ lạ không ai dám uống. Loại trà tròn như hạt châu này là đặc sản trồng trên núi cao ở vùng kề bên Thái Hồ, người sau gọi là Bích Loa Xuân_, đời Bắc Tống chưa có cái tên thanh tao đó, dân vùng này chỉ gọi là loại trà "thơm phức" để ca tụng mùi hương đặc biệt. Cưu Ma Trí xưa nay chỉ ở Thổ Phồn và Tây Vực, quen uống loại trà đen đắng chát, bây giờ thấy loại trà xanh lông lá thế này, sợ có độc không dám đụng tới.

Bốn món điểm tâm gồm có kẹo Mai Côi, bánh dẻo Phục Linh, bánh ngọt Phí Thúy, bánh bao bột sen hình dáng tinh nhã, cái nào cái nấy trông tưởng như chỉ để chưng chứ không phải để ăn. Đoàn Dự tấm tắc:

- Mấy món điểm tâm trông đẹp thế này, ăn chắc là ngon lắn đó, nhưng thật chẳng nỡ lòng nào mà bỏ vào mồm.

A Bích mỉm cười nói:

- Công tử cứ việc ăn đi, chúng tôi vẫn còn nhiều.

Đoàn Dự cứ ăn một miếng lại nắc nỏm khen, thật là sướng miệng. Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người không ai dám ăn, Đoàn Dự trong lòng khởi nghi: "Gã Cưu Ma Trí này tự xưng là bạn thân của Mộ Dung Bác, sao lại cái gì cũng dè dặt đến thế? Còn người trong trang viện nhà Mộ Dung đối đãi với y cũng không có gì đặc biệt".

Lòng kiên nhẫn của Cưu Ma Trí quả không vừa, y đợi đến khi Đoàn Dự uống trà, ăn bánh khen vuốt đuôi thêm vài câu xong rồi mới nói:

- Như vậy thì nhờ cô nương thông tri cho A Châu tỉ tỉ của cô đi.

A Bích cười nói:

- Chỗ A Châu tỉ tỉ ở cách đây bốn con chín đường thủy, hôm nay không kịp nữa rồi, bốn vị ở đây qua một đêm, sáng sớm ngày mai, tiểu nữ sẽ đưa các vị đến Thính Hương Thủy Tạ.

Thôi Bách Tuyền hỏi lại:

- Bốn con chín đường thủy là gì thế?

A Bích đáp:

- Một con chín là chín dặm, hai con chín là mười tám dặm, bốn con chín là ba mươi sáu dặm. Ông lấy bàn toán ra tính là xong ngay.

Thì ra một giải Giang Nam, nói đến khoảng cách lộ trình tính theo một chín, hai chín. Cưu Ma Trí nói:

- Nếu biết sớm sao cô không đưa chúng tôi đến ngay Thính Hương Thủy Tạ có phải hay hơn không?

A Bích cười nói:

- Nơi đây chẳng có ai bầu bạn chuyện trò, buồn đến chết được. Dễ gì có được vài người khách đến chơi? Tiểu nữ vì thế muốn lưu quí vị lại một ngày.

Quá Ngạn Chi từ trước đến nay vẫn ngồi yên không nói một câu, bây giờ bỗng đứng bật dậy, quát lớn:

- Thân nhân nhà Mộ Dung ở nơi nào? Quá Ngạn Chi này đến Tham Hợp Trang không phải để uống trà ăn bánh, cũng chẳng phải đển kể chuyện vui cho ngươi nghe, mà là đến giết người báo thù, máu chảy đầu rơi. Họ Quá này đã đến được nơi đây, không mong gì sống được mà ra về. Cô nương, nhờ cô đi nói cho họ hay, ta là đệ tử của Kha Bách Tuế phái Phục Ngưu, hôm nay đến đây báo thù cho sư phụ.

Nói xong y vung nhuyễn tiên một cái, nghe lách cách một tiếng đã đánh vỡ tan một chiếc bàn trà bằng gỗ tử đàn và một chiếc ghế tre bằng trúc Tương Phi. A Bích không có vẻ gì kinh hoàng, cũng không nổi giận chỉ nói:

- Anh hùng hào kiệt trên giang hồ đến gặp công tử tháng nào cũng có vài người, cũng có người bặm trợn, hầm hè như Quá đại gia, phận con đòi như tiểu nữ đâu có sợ ...

Nàng chưa nói dứt câu, từ hậu đường một ông già râu tóc trắng xóa chống gậy bước ra nói:

- A Bích, ai ở ngoài này la lối om sòm như thế?

Người đó nói tiếng quan thoại, ngữ âm thật là đúng giọng. Thôi Bách Tuyền đứng phắt lên đứng bên cạnh Quá Ngạn Chi, quát hỏi:

- Sư huynh ta Kha Bách Tuế chết vì tay ai?

Đoàn Dự thấy ông già kia thân hình lọm khọm, mặt mũi nhăn nheo, không chín mươi thì cũng phải tám chục tuổi, nghe ông ta lầm bầm:

- Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế, Hừ, nếu đã sống đến một trăm, có chết cũng vừa.

Quá Ngạn Chi đến Tô Châu chỉ nghĩ đến chuyện tới nhà Mộ Dung chém giết một phen cho phỉ chí để báo thù cho ân sư thế nhưng sau khi bị Cưu Ma Trí đoạt mất binh khí y cảm thấy mất tinh thần, kế đến gặp một cô gái nhỏ dễ thương như A Bích, bao nhiêu oán hận trong lòng không có chỗ nào phát tiết, nay nghe lão già này ăn nói vô lễ liền vung nhuyễn tiên lên, đầu cây tiên phóng ra điểm luôn vào lưng lão ta. Y thấy Cưu Ma Trí ngồi bên cánh tây, đề phòng nhà sư ra tay ngăn trở nên ngọn roi từ phía đông đánh tới.

Ngờ đâu Cưu Ma Trí vươn tay ra, lòng bàn tay như có sức hút, nhuyễn tiên ở tận đằng xa cũng chộp ngay được, nói:

- Quá đại hiệp, chúng ta là khách từ xa đến, có gì để nói chuyện đầu đuôi, chưa việc gì phải động võ.

Y cuộn nhuyễn tiên lại trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi mặt đỏ gay, cầm cũng dở mà không cầm thì cũng không được, chợt nghĩ ngay: "Hôm nay chuyện báo thù mới là chuyện lớn, phải nén cái nhục nhất thời để có binh khí cầm trong tay". Y nghĩ thế bèn đưa tay cầm lấy.

Cưu Ma Trí nói với ông lão:

- Chẳng hay thí chủ tôn tính đại danh là gì? Là thân thích của Mộ Dung tiên sinh, hay là bạn bè?

Ông già nhếch mép cười đáp:

- Lão đây là đầy tớ của công tử, làm gì có tôn tính đại danh? Nghe nói đại sư phụ là bằng hữu của lão gia khi còn tại thế, không biết muốn sai bảo chuyện gì?

Cưu Ma Trí đáp:

- Việc của ta khi gặp mặt công tử rồi sẽ phụng cáo.

Ông già đáp:

- Thế thì thật lỡ làng, hôm qua công tử gia đã ra khỏi nhà, không chừng phải một hai ngày mới về.

Cưu Ma Trí hỏi lại:

- Thế công tử đi đâu thế?

Ông lão nghiêng đầu ngẫm nghĩ, giơ tay gõ gõ lên trán nói:

- Cái đó ư! Ta cũng quên khuấy đi mất, hình như là qua Tây Hạ, cũng có thể là nước Liêu, không chừng lại qua Thổ Phồn, hoặc giả là Đại Lý.

Cưu Ma Trí hừ một tiếng, trong bụng không vui. Thời đó năm nước chia năm góc thiên hạ, trừ đương địa là Đại Tống không kể, lão già này nói cả bốn nước còn lại. Y biết ông lão giả vờ lú lẫn bèn nói:

- Nếu đã thế, ta không thể đợi công tử về được, xin quản gia dẫn ta lại mộ phần tiên sinh lạy một lạy để cho trọn tình cố nhân.

Ông già kia xua tay rối rít nói:

- Chuyện đó ta không quyết định được, ta nào có phải quản gia đâu.

Cưu Ma Trí nói:

- Thế thì ai là quản gia trong tôn phủ? Xin mời ra cho ta gặp.

Ông lão gật gù nói:

- Được chứ, được chứ! Để ta đi mời quản gia.

Y quay người lẩy bẩy đi ra ngoài, lẩm bẩm nói một mình: "Ta bằng từng này tuổi đầu, trên đời này chuyện ma mãnh gì ta chẳng biết? Biết ngay giả làm sư mô đạo sĩ bịp bợm xin cúng dường. Việc gì lão cũng thấy cả rồi, đừng có mà tính chuyện qua mặt".

Đoàn Dự nghe nói thế cười rộ lên. A Bích vội nói với Cưu Ma Trí:

- Đại sư phụ đừng giận, Hoàng bá bá lẩn thẩn rồi, lúc nào cũng ra vẻ sành sỏi, nói năng hay làm mích lòng người khác.

Thôi Bách Tuyền giật giật tay áo Quá Ngạn Chi lôi qua một bên nói nhỏ:

- Thằng trọc này tự xưng là bằng hữu của nhà Mộ Dung, nhưng bọn này rõ ràng đâu có coi y là khách quí. Mình chớ có nóng nảy, để xem thế nào rồi hãy tính.

Quá Ngạn Chi đáp:

- Vâng!

Hai người trở lại chỗ cũ nhưng chiếc ghế tre Quá Ngạn Chi ngồi đã bị y đánh vỡ nát rồi thành thử không còn chỗ nào. A Bích nhắc chiếc ghế của nàng lại, mỉm cười nói:

- Quá đại gia, mời ông ngồi đây.

Quá Ngạn Chi gật đầu nghĩ thầm: "Nếu ta có phải giết sạch cả nhà Mộ Dung thì cũng tha cho con tiểu a đầu này". Đoàn Dự thấy ông lão bộc đi vào, trong bụng cảm thấy có điều gì khang khác, xem ra không ổn nhưng đó là việc gì thì chàng không thể nói được. Chàng quan sát kỹ càng những đồ đạc trong gian nhà nhỏ này, cây cối ngoài sân, tranh vẽ trên vách, rồi lại nhìn kỹ A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người, chỗ nào lạ lùng chàng không thể tìm ra, nhưng trong bụng càng lúc càng ngờ vực.

Một lát sau có tiếng chân người, từ nội đường một gã gầy gò tuổi độ ngũ tuần bước ra. Y mặt mũi vàng vọt, dưới cằm để một túm râu dê, trông ra vẻ nhanh nhảu lanh lợi, quần áo mặc trông cũng khá tươm tất, ngón tay út bên trái đeo một chiếc nhẫn ngọc, xem chừng là quản gia trong nhà Mộ Dung. Gã đó quay sang Cưu Ma Trí và cả bọn hành lễ nói:

- Tiểu nhân Tôn Tam bái kiến các vị. Đại sư phụ, lão nhân gia muốn đến một lão gia chúng tôi tế một tuần, chúng tôi thật là cảm kích. Có điều công tử đã đi khỏi, không ai hoàn lễ, thật không cung kính chút nào. Đợi công tử về rồi, tiểu nhân đem tấm lòng của đại sư phụ trình lên vậy ...

Y nói đến đây, Đoàn Dự bỗng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, trong bụng chợt động: "Lạ thật! Lạ thật!". Hồi nãy khi lão bộc bước vào tiểu sảnh, Đoàn Dự cũng ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng. Mùi hương đó tương tự như mùi thơm trên người Mộc Uyển Thanh, tuy cũng có khác nhưng đều là hương của đàn bà con gái. Lúc đầu Đoàn Dự còn tưởng là ở người A Bích tỏa ra nên không để ý, nhưng khi lão bộc kia ra khỏi phòng rồi, mùi thơm kia liền không còn nữa, đến lúc gã tự xưng là Tôn Tam kia bước vào, Đoàn Dự lại ngửi thấy mùi hương kia. Chàng liền hiểu ra, việc mình thấy có gì khác lạ chính là vì tại sao từ một lão già tám, chín mươi lại có mùi con gái mười bảy, mười tám, nghĩ thầm: "Không lẽ sau nhà có trồng kỳ hoa dị thảo gì, nên ai từ đó bước ra thân thể cũng có mùi hương thoang thoảng? Nếu không thì cả lão bộc lẫn gã gầy gò này đều là con gái cải trang".

Mùi hương đó tuy làm Đoàn Dự khởi nghi nhưng thực ra rất là nhẹ, Cưu Ma Trí và hai người kia không ai nhận ra được. Đoàn Dự sở dĩ ngửi thấy được vì chàng và Mộc Uyển Thanh hai người đã trải qua một thời gian thực là nguy hiểm nơi thạch thất, mùi hương đàn bà kia, người khác không nhận ra nhưng chàng đã ghi lòng tạc dạ, so với sạ hương, đàn hương, hoa hương còn đậm đà hơn nhiều. Cưu Ma Trí tuy nội công thâm hậu nhưng cả đời nghiêm thủ sắc giới, dẫu má hồng tóc xanh dưới mắt y cũng chẳng khác gì khô lâu bạch cốt, phấn dịu son thơm cũng không khác gì mùi máu mủ tanh hôi, không phân biệt mùi con trai với con gái.

Đoàn Dự đã nghi Tôn Tam là con gái cải trang, nhưng nhìn qua nhìn lại không thấy chút sơ hở nào, người này thần tình cử chỉ hoàn toàn đàn ông, đến cả hình mạo thanh âm cũng không có chút nào đàn bà con gái. Chàng đột nhiên nghĩ ra: "Đàn bà nếu giả làm đàn ông thì hầu hết cũng không thể nào giả được". Chàng chăm chú nhìn vào cổ Tôn Tam, thấy chòm râu dê của y phủ xuống không nhìn thấy được cổ họng.

Đoàn Dự đứng lên, giả vờ thưởng ngoạn các bức thiếp và tranh vẽ treo trên tường, đi đến ngang bên Tôn Tam liến qua nhìn lén một cái, thấy cổ họng y quả không có gồ lên, lại nhìn xuống thấy ngực y đầy đặn, tuy không dám chắc đây là đàn bà nhưng một gã đàn ông ốm o như thế, ngực không thể nào tròn trịa như vậy được. Đoàn Dự tìm ra được cái bí mật này thật là thú vị nghĩ thầm: "Bọn họ thật là lắm trò để xem họ định làm gì nữa đây?".

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 11(b)

HƯớNG LAI SI

Lâu nay dạ luống mơ mòng,

Giang Nam cảnh vật một vòng ghé thăm.

Hồ xanh, liễu rủ, hương lăng,

Thuyền con một chiếc, xinh xinh hai nàng.

*

* *

Cưu Ma Trí thở dài:

- Ta và lão gia các ngươi năm xưa gặp nhau ở Tứ Xuyên, đàm luận võ công, ai bên đều phục tài lẫn nhau nên kết bạn. Ngờ đâu con tạo ghen kẻ kỳ tài, cái kẻ tầm thường như ta đây thì trời còn cho sống thừa đến hôm nay, còn lão gia các ngươi lại sớm về tây phương cực lạc. Ta từ nước Thổ Phồn đến Trung Thổ, chỉ vì mối thâm tình với người bạn cũ nên muốn đến vái trước mộ, có người hoàn lễ hay không nào có gì là quan trọng? Phiền quản gia dẫn đường cho.

Tôn Tam nhíu mày, xem ra thật là khó xử lắp bắp nói:

- Cái đó ... cái đó ...

Cưu Ma Trí nói:

- Không biết bên trong còn việc gì không ổn xin chỉ giáo cho.

Tôn Tam nói:

- Nếu đại sư phụ quả là bạn chí thân của lão gia chúng tôi thuở sinh tiền, hẳn đã biết tính khí lão gia chúng tôi. Lão gia ngại nhất là có người đến thăm, người thường bảo rằng phàm kẻ đến nhà, nếu không tầm cừu sinh sự thì cũng đến bái sư học nghề, hay kém hơn một mức là đến xin xỏ tiền bạc, không chừng lại thò tay mặt, đặt tay trái, toan bề đục nước béo cò, thuận tay trộm cắp món gì rồi lỉnh mất. Lão gia nói bọn sư mô lại càng đáng đề phòng, ấy chết, ... xin lỗi ...

Y nói đến đó biết mình lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma Trí, vội vàng đưa tay bịt miệng. Lối đó đúng là kiểu một cô gái hay làm, giương đôi mắt đen láy như hai hạt châu ranh mãnh nhìn, tuy lập tức khép ngay mi lại nhưng Đoàn Dự vốn đã lưu tâm, tự nhiên trong lòng thấy thích thú: "Gã Tôn Tam này không những là đàn bà mà lại là một cô gái trẻ tuổi nữa là khác". Chàng liếc qua A Bích thấy nàng ta trên môi nở một nụ cười tinh quái, trong bụng không còn hoài nghi gì nữa, nghĩ thầm: "Gã Tôn Tam và lão Hoàng kia hai người là một, không chừng là A Châu tỉ tỉ chứ không phải ai khác".

Cưu Ma Trí thở dài:

- Trên đời này người gian thì nhiều người ngay thì ít, Mộ Dung tiên sinh không muốn kết giao cùng bọn phàm phu quả là đúng lắm.

Tôn Tam nói tiếp:

- Đúng vậy đó. Lão gia chúng tôi có di ngôn rằng, nếu như có ai đòi đến tế phần tảo mộ thì phải hết sức ngăn cản. Người còn bảo: "Mấy tên trọc thường chẳng có bụng dạ tốt lành gì đâu, hẳn là toan đào mả ta đấy thôi". ấy chết, đại sư phụ đừng để bụng, lão gia chúng tôi chửi bọn trọc đầu chắc không phải nói ngài đâu.

Đoàn Dự cười thầm trong bụng: "Ai đời đâu gặp người gù lại chửi kẻ lưng cong. Gã sư hổ mang này vẫn bình tĩnh như không, càng đại gian đại ác càng không nổi nóng, gã đúng là một tay bản lãnh phi thường".

Cưu Ma Trí đáp:

- Mấy câu trăn trối của lão gia ngươi thật là hữu lý. Ông ta khi còn sinh tiền uy chấn thiên hạ, thành thử có rất nhiều kẻ thù. Có người không báo được cừu khi tiên sinh còn tại thế, cũng nên đề phòng họ đụng chạm đến di thể khi ông ta đã qua đời.

Tôn Tam đáp:

- Muốn đụng đến di thể của lão gia chúng tôi, ha ha, thật chỉ tổ Dã Tràng se cát.

Cưu Ma Trí ngạc nhiên hỏi lại:

- Cái gì mà lại Dã Tràng se cát?

Tôn Tam đáp:

- Cái đó nghĩa là "Dã Tràng se cát biển đông, Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì". Chuyện dụng chạm đến di thể lão gia thì đừng mơ tưởng mà mất cả chì lẫn chài.

Cưu Ma Trí nói:

- ồ, thì ra là thế. Ta và Mộ Dung tiên sinh tri kỷ giao hảo, chỉ muốn đến trước mộ cố nhân lạy một lạy, không có ý gì khác, quản gia chẳng nên đa nghi.

Tôn Tam đáp:

- Nói gần nói xa chẳng qua nói thực, tiểu nhân quả là không dám quyết định ngược lại với di chí của lão gia. Nếu như công tử trở về tra hỏi biết được, há chẳng đánh đến gãy đùi tiểu nhân ư? Thôi thì để tôi mời lão thái thái xem định đoạt ra sao, rồi quay lại bẩm có được chăng?

Cưu Ma Trí hỏi lại:

- Lão thái thái ư? Còn vị lão thái thái nào nữa?

Tôn Tam đáp:

- Mộ Dung lão thái thái là thím của lão gia. Mỗi khi có bằng hữu của lão gia đến chơi đều phải khấu đầu hành lễ với thái thái. Công tử không có nhà, việc gì cũng phải hỏi ý lão thái thái.

Cưu Ma Trí đáp:

- Thế thì hay lắm, nhờ ngươi bẩm với lão thái thái là Cưu Ma Trí nước Thổ Phồn hỏi thăm sức khỏe lão phu nhân.

Tôn Tam nói:

- Đại sư phụ khách sáo quá, chúng tôi không dám nhận.

Nói xong liền quay vào nội đường. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Vị cô nương này tinh quái láu lỉnh, trêu ghẹo lão trọc Cưu Ma Trí, không biết để làm gì đây?".

Qua một lúc nghe có tiếng vòng đeo leng keng, một bà già từ nội đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương thoang thoảng kia đã ngửi thấy rồi. Đoàn Dự khôi khỏi mỉm cười, nghĩ thầm: "Lần này lại biến thành một lão phu nhân".

Chỉ thấy bà lão mặc áo quần bằng đoạn màu xanh cổ đồng, tay đeo vòng ngọc, đầu đầy châu thúy, ăn mặc thật là sang trọng, mặt thật nhiều vết nhăn, đôi mắt hấp him dường như nhìn không rõ. Đoàn Dự tấm tắc thầm trong bụng: "Cô ả này quả là tài, ăn mặc đâu ra đấy, thật khéo lắm thay, chỉ chốc lát đã cải trang xong, tay chân linh lợi như thế thật không phải dễ".

Mụ già kia tay chống gậy, lẩy bẩy đi vào sảnh đường nói:

- A Bích, có bạn của lão gia ngươi đến chơi đấy ư? Sao chưa khấu đầu chào ta?

Mụ vừa nói vừa quay qua quay lại tìm kiếm, dường như mắt đã kèm nhèm nhìn không rõ ai với ai. A Bích giơ tay liên tiếp ra hiệu cho Cưu Ma Trí, nói nhỏ:

- Mau khấu đầu đi, ông rập đầu chào thái thái hả dạ thì chuyện gì cũng xong.

Bà lão nghiêng đầu qua, giơ bàn tay khum khum che tai như muốn nghe cho rõ, lớn tiếng hỏi lại:

- Này con ranh con, ngươi nói gì thế? Người ta đã khấu đầu chưa?

Cưu Ma Trí đáp:

- Lão phu nhân mạnh khỏe chứ? Tiểu tăng xin chào lão nhân gia.

Ông ta vái một cái thật sâu, hai tay phát kình, trên mặt đá nghe tiếng cốp cốp tưởng như người khấu đầu làm lễ. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi hai người đưa mắt cho nhau ai nấy kinh hãi: "Nhà sư này nội kình quả là ghê gớm, mình e rằng chưa chịu nổi một chiêu của y". Bà lão gật gù nói:

- Tốt lắm, tốt lắm! Thời nay kẻ gian thì nhiều, người ngay thì ít, đến như khấu đầu cũng lắm đứa giở trò ma mãnh, không rập đầu mà cũng nghe kêu côm cốp dưới đất, tưởng lão thái thái này thong manh không thấy. Thằng bé này ngoan lắm, rập đầu nghe rõ kêu.

Đoàn Dự nhịn không nổi cười rộ lên một tiếng. Lão phu nhân chậm rãi quay qua hỏi:

- A Bích, hình như có ai đánh rắm phải không?

Nói rồi giơ tay phẩy phẩy trên mũi, A Bích cố nhịn cười đáp:

- Lão thái thái, không phải đâu. Đó là vị Đoàn công tử này cười đó.

Bà lão hỏi lại:

- Đoạn à? Cái gì mà đứt đoạn?

A Bích đáp:

- Không phải đoạn, người ta họ Đoàn, công tử họ Đoàn.

Bà lão gật đầu:

- Gớm, công tử nọ với chẳng công tử kia, từ sáng tới tối lúc nào ngươi cũng chỉ nhớ tới công tử nhà ngươi thôi.

A Bích thẹn thùng nói:

- Lão thái thái nghễnh ngãng, nói năng chuyện nọ xọ chuyện kia chẳng ra mô ra tê chi hết.

Bà lão quay sang nói với Đoàn Dự:

- Thằng bé kia, sao thấy thái thái chưa khấu đầu?

Đoàn Dự đáp:

- Lão thái thái, tiểu sinh có câu chuyện muốn kể cho thái thái nghe.

Bà lão hỏi lại:

- Ngươi muốn kể chuyện gì?

Đoàn Dự đáp:

- Tiểu sinh có một đứa cháu gái thật là thông minh lanh lợi nhưng cũng nghịch tinh nghịch ranh. Con bé đó thích mặc giả người này người khác, hôm thì giả làm ông, hôm lại giả làm bà để trêu chọc người khác. Lão thái thái gặp nó chắc là thích lắm. Tiếc rằng lần này không đem nó đến khấu đầu trước lão nhân gia.

Lão phu nhân đó chính là cô tì nữ A Châu trong phủ Mộ Dung giả trang. Thuật hóa trang của cô ta quả là khéo léo, không những hình dáng đã giống mà lời ăn tiếng nói cũng y hệt, có thể nói là không có một chút sơ sót nào. Thành thử dù cho thông minh cơ trí như Cưu Ma Trí, giang hồ lão luyện như Thôi Bách Tuyền đều không ai nghi ngờ gì. Chẳng dè Đoàn Dự nhờ có mùi hương thoang thoảng trên mình cô ta mà nhận ra.

A Châu nghe nói thế hoảng hồn nhưng vẫn tỉnh bơ như không, giả vờ làm như người già cả lẩm cẩm, mắt mờ tai điếc nói:

- Cháu ngoan lắm, cháu ngoan lắm, lại thật thông minh, ta chưa bao giờ thấy đứa nào nhanh nhảu đến thế. Cháu ngoan không nên lắm lời, lão thái thái sẽ thưởng cho nghe chưa?

Đoàn Dự nghĩ thầm: "ý cô ta muốn mình đừng lật chân tướng cô ta ra. Cô ta ra tay đối phó với gã trọc Cưu Ma Trí, là bạn chứ nào phải là kẻ địch đâu". Nghĩ thế bèn đáp:

- Lão phu nhân cứ yên tâm, tại hạ đến tôn phủ rồi, mọi việc đều do lão phu nhân sai bảo.

A Châu nói:

- Ngươi nghe lời ta, có thế mới là đứa ngoan. Giỏi lắm, mau khấu đầu với lão bà bà ba cái đã, ta thể nào cũng tử tế với ngươi.

Đoàn Dự ngạc nhiên, nghị bụng: "Ta đường đường là thế tử của hoàng thái đệ nước Đại Lý, lẽ nào lại khấu đầu với con tiểu tì này?". A Châu thấy chàng có vẻ ngượng ngùng, cười khẩy mấy tiếng nói:

- Này cháu ngoan, nghe bà nói đây, khấu đầu chào bà vài cái xem nào.

Đoàn Dự quay sang nhìn thấy A Bích đang dẩu môi liếc mắt cười mủm mỉm, da trắng như lăng tươi vừa mới bóc, bên mép lại có một nốt ruồi nho nhỏ càng thêm vẻ xinh tươi, trong lòng không khỏi khích động bèn hỏi:

- A Bích tỉ tỉ, nghe nói trong tôn phủ còn một vị A Châu tỉ tỉ, cô ta ... cô ta có xinh đẹp tuấn nhã được như cô chăng?

A Bích mỉm cười:

- ối chao! Tiểu nữ xấu xí thế này bì sao được? Nếu như A Châu tỉ tỉ nghe công tử hỏi như thế sẽ buồn lòng lắm đó. Tiểu nữ có đáng vào đâu, A Châu tỉ tỉ đẹp gấp mười.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thật vậy sao?

A Bích cười đáp:

- Tiểu nữ nói dối công tử làm chi.

Đoàn Dự nói:

- Làm gì có ở trên đời này làm gì có người đẹp gấp mười lần cô được, trừ phi là ... trừ phi là nàng tiên trong động ngọc. Chỉ cần đẹp ngang ngửa với cô là cũng đã ít người sánh bằng rồi.

A Bích mặt đỏ bừng, thẹn thùng nói:

- Lão phu nhân bảo công tử khấu đầu chứ có bảo công tử mồm năm miệng mười khen nịnh tôi đâu.

Đoàn Dự đáp:

- Lão phu nhân vốn cũng là một bậc quốc sắc thiên hương. Nói thật với cô dẫu có cho tôi cái gì tôi cũng không màng, tôi đã từng lạy người đẹp trong ngọc động hàng nghìn cái, còn lạy một mỹ nhân đất Giang Nam vài ba cái thì có đáng gì đâu?

Nói xong chàng liền rập đầu bình bình bình ba cái thật kêu. A Châu vô cùng hoan hỉ nghĩ thầm: "Vị công tử này biết mình chỉ là một con thị tì vậy mà vẫn chịu khấu đầu quả thực khó biết bao". Nàng bèn nói:

- Con ngoan lắm, thật giỏi, thật giỏi. Tiếc rằng ta không mang theo tiền thưởng...

A Bích vội xen vào:

- Lão thái thái không quên là được rồi, lần sau cho thêm cũng không sao.

A Châu trừng mắt nhìn cô ta, quay sang Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nói:

- Hai vị khách này sao không khấu đầu ra mắt lão bà?

Quá Ngạn Chi hừ một tiếng, sẵng giọng hỏi:

- Mụ có biết võ công chăng?

A Châu đáp:

- Ngươi nói gì thế?

Quá Ngạn Chi lập lại:

- Ta hỏi mụ có biết võ công không. Nếu như võ công cao cường, họ Quá này đành chịu chết dưới tay Mộ Dung lão phu nhân. Còn như nếu không phải người trong võ lâm thì ta không thèm nói với mụ làm gì.

A Châu lắc đầu:

- Cái gì mà lại "ngô công bách cước"? Ngô công dĩ nhiên là có chân, nó cắn đau lắm đấy.

Nàng quay sang nói với Cưu Ma Trí:

- Đại hòa thượng, nghe nói hòa thượng muốn đến viếng mộ cháu ta, lại định ăn trộm cái gì đấy?

Cưu Ma Trí tuy không biết nàng là một thiếu nữ giả trang, nhưng cũng đoán chừng nàng giả vờ nghễnh ngãng chứ không phải là người già lẩn thẩn, trong bụng càng thêm đề phòng, nghĩ bụng: "Mộ Dung tiên sinh đã ghê gớm như thế thì người trưởng bối trong nhà chắc cũng chẳng vừa gì đâu". Thành thử y giả như không nghe thấy nàng đề cập đến chuyện "ăn trộm" trả lời:

- Tiểu tăng với Mộ Dung tiên sinh vốn là bạn tri giao, nghe thấy âm hao tiên sinh tạ thế nên từ nước Thổ Phồn qua đây, muốn đến trước mộ lạy một lạy. Tiểu tăng trước đây đã ước định với Mộ Dung tiên sinh, sẽ đem kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm nước Đại Lý qua cho tiên sinh xem nhưng hiềm chưa thành, tiểu tăng trong lòng thật là hổ thẹn.

A Châu và A Bích hai người nhìn nhau cùng nghĩ thầm: "Gã hòa thượng này bây giờ mới nói đến chuyện chính đây". A Châu đáp:

- Lục Mạch Thần Kiếm kiếm phổ lấy được thì sao? Mà không lấy được thì sao?

Cưu Ma Trí đáp:

- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có ước định với tiểu tăng, nếu tiểu tăng lấy được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm cho xem vài hôm thì sẽ cho tiểu tăng vào Hoàn Thi Thủy Các trong tôn phủ đọc sách vài ngày.

A Châu giật mình: "Nếu nhà sư này biết được bốn chữ Hoàn Thi Thủy Các thì xem ra lời y không phải là giả". Nàng bèn giả như lú lẫn hỏi lại:

- Cái gì mà hi phạn thủy giảo? Ngươi muốn ăn cháo gà với lại bánh trôi ư? Cái đó dễ lắm, nhưng ngươi là người xuất gia ăn đồ mặn có được không?

Cưu Ma Trí quay sang nói với A Bích:

- Không biết vị lão thái thái này lú lẫn thật hay chỉ giả vờ nhưng cự tuyệt người từ nghìn dặm xa xôi đến đây chẳng khiến người ta nản lòng lắm hay sao?

A Châu đáp:

- Sao, ngươi lạnh bụng à? A Bích, ngươi mau đi múc một chén cháo tiết gà để cho đại sư đây ăn cho ấm bụng.

A Bích cố nén cười:

- Đại sư phụ đâu có ăn mặn được.

A Châu gật gù:

- Thế thì đừng nấu cháo gà cháo vịt thật mà dùng gà vịt chay thế vào.

A Bích nói:

- Lão thái thái lẫn rồi, gà vịt chay làm gì có huyết.

A Châu lẩm bẩm:

- Thế thì biết làm sao bây giờ?

Hai cô gái một tung một hứng nghe thật ăn nhịp với nhau. Người đất Tô Châu phần đông lanh mồm lanh miệng, về sau là nơi nổi tiếng về bình luận cũng ở đó mà ra. Hai cô thị tì này bình thời vẫn hay tinh nghịch đùa cợt với nhau bây giờ đem ra quấy phá khiến Cưu Ma Trí không biết đường nào mà mò.

Lần này y tới Cô Tô vốn định khi gặp Mộ Dung công tử sẽ bàn một chuyện quan trọng ngờ đâu chủ không gặp, gặp những người chẳng đâu ra đâu, ỡm à ỡm ờ hư hư thực thực khiến không biết phải làm sao cho phải. Y ngẫm nghĩ một chút đã biết ngay Mộ Dung lão phu nhân, Tôn Tam, Hoàng lão bộc, A Bích ai nấy đều có ý thoái thác không cho mình viếng mộ, dĩ nhiên không cho mình vào Hoàn Thi Thủy Các xem các bí tịch võ học rồi nên dù họ nói gì thì nói, cứ đem chuyện ra trình bày minh bạch rồi sau đó nếu được thì dùng lễ đối đãi, không thì phải cậy mạnh mà ép uổng, đằng nào mình cũng ở tay trên. Nghĩ thế y từ tốn nói:

- Kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã có đem theo đây vì thế mới nhắc lại lời hẹn năm xưa được vào Hoàn Thi Thủy Các trong quí phủ xem sách vở.

A Bích nói:

- Mộ Dung lão gia đã qua đời rồi, một là khẩu thuyết vô bằng, hai là bản kiếm phổ đại sư phụ mang theo, chúng tôi ở đây xem có ai hiểu được đâu, dẫu như ngày trước có ước định như thế thì cũng không còn có thể thi hành được.

A Châu nói:

- Kiếm phổ gì thế? ở đâu vậy? Đưa ra cho ta xem giả hay thực nào?

Cưu Ma Trí chỉ vào Đoàn Dự:

- Đoàn công tử đây trong bụng nhớ đầy đủ kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, ta đem y đến đây cũng có khác gì mang kiếm phổ đến.

A Bích mỉm cười:

- Tôi lại tưởng có kiếm phổ thật, thì ra đại sư phụ nói đùa.

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng lẽ nào lại dám nói đùa? Nguyên bản kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm đã bị Khô Vinh đại sư ở chùa Thiên Long nước Đại Lý hủy đi mất rồi, cũng may Đoàn công tử nhớ được hết.

A Bích nói:

- Đoàn công tử nhớ được là chuyện của Đoàn công tử, nếu có được vào Hoàn Thi Thủy Các coi sách thì cũng chỉ mời Đoàn công tử thôi chứ có liên quan gì đến đại sư phụ đâu?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng muốn hoàn thành ước nguyện năm xưa nên sẽ đem Đoàn công tử tới trước mộ của Mộ Dung tiên sinh thiêu sống.

Lời của y nói ra mọi người ai nấy kinh hãi nhưng thấy y thần sắc trấn tĩnh xem ra nói thực chứ không phải thuận miệng nói đùa khiến càng ghê rợn hơn. A Bích nói:

- Đại sư phụ có nói đùa không đấy? Người đang sống hẳn hòi ai lại để ông đem ra thiêu sống?

Cưu Ma Trí thản nhiên nói:

- Tiểu tăng muốn đốt y thì y làm sao kháng cự được.

A Bích mỉm cười:

- Đại sư phụ bảo là Đoàn công tử nhớ được toàn bộ kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, cũng chỉ là nói suông thôi. Nếu như Lục Mạch Thần Kiếm là một công phu lợi hại, quả như Đoàn công tử biết sử dụng kiếm pháp đó thì lẽ đâu lại chịu để cho ông khuất phục?

Cưu Ma Trí gật gù:

- Cô nương biết một mà không biết hai. Đoàn công tử bị ta điểm huyệt rồi, không thể nào sử dụng nội kình được.

A Châu liên tiếp lắc đầu nói:

- Ta nhất định không thể nào tin được. Ngươi giải huyệt cho Đoàn công tử để y thi triển Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem. Ta xem ra mười phần là ngươi nói láo rồi.

Cưu Ma Trí gật đầu nói:

- Được lắm, thế thì cứ thử xem.

Đoàn Dự ca ngợi A Bích xinh đẹp, mê mẩn tiếng hát tiếng đàn của nàng khiến cho nàng thật đẹp ý; chàng tuy biết được A Châu cải trang vậy mà vẫn rập đầu lạy ba cái khiến cho nàng cũng vui lòng, bây giờ hai cô thị tì nghe nói Đoàn Dự bị điểm huyệt nên toan lừa cho Cưu Ma Trí giải huyệt cho chàng. Ngờ đâu vừa nói ra là Cưu Ma Trí bằng lòng ngay.

Chỉ thấy y giơ tay vỗ nhẹ vào lưng, ngực và đùi Đoàn Dự mấy cái. Đoàn Dự được y vỗ mấy cái rồi, lập tức các huyệt đạo bị đóng liền thông ngay, chỉ hơi vận khí nội tức liền chuyển động bình thường. Chàng theo phương pháp vận khí của Trung Xung kiếm pháp đưa chân khí vào huyệt Trung Xung nơi ngón tay giữa tay phải liền thấy ngón tay nóng lên, biết rằng chỉ cần búng tay kiếm khí liền bắn ra ngay.

Cưu Ma Trí nói:

- Đoàn công tử, Mộ Dung lão phu nhân không tin công tử đã luyện được Lục Mạch Thần Kiếm, xin công tử ra tay thử xem. Làm như ta đây chặt đứt một cành hoa quế xem nào.

Y vừa nói vừa chém xéo ra, bàn tay súc tích chân lực, sử dụng một chiêu Hỏa Diễm Đao nghe cách một tiếng nhỏ một càng hoa quế trong sân không gió mà gãy ngay xuống đất chẳng khác gì dùng dao chặt ngang.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng thất thanh kêu lên một tiếng, hai người tuy biết gã phiên tăng này võ công hết sức quái dị nhưng vẫn chỉ nghĩ là một loại tà thuật của bàng môn tả đạo, bây giờ nhìn thấy y dùng chưởng lực chặt đứt cành cây mới hay nội lực y thâm hậu quả là ít thấy trên đời.

Đoàn Dự lắc đầu:

- Ta có biết võ công gì đâu, lại càng chẳng biết Thất Mạch Thần Kiếm, Bát Mạch Thần Đao gì cả. Cái cây hoa đẹp như thế của người ta, vì cớ gì ngươi lại chặt gãy?

Cưu Ma Trí nói:

- Đoàn công tử chẳng nên quá khiêm nhường, trong các cao thủ họ Đoàn nước Đại Lý thì công tử võ công số một. Trên đời này ngoài Mộ Dung công tử và tại hạ ra, thắng được công tử e rằng ít có ai khác. Phủ Cô Tô Mộ Dung là kho sách võ công trong thiên hạ, công tử ra tay thử vài chiêu nhờ lão thái thái chỉ điểm thì quả là một chuyện hết sức tốt đẹp.

Đoàn Dự đáp:

- Đại hòa thượng trên đường đi đối với ta cực kỳ coi thường, xách lên vứt xuống, lếch thếch kéo đến Giang Nam. Ta vốn dĩ chẳng thèm nói với ngươi thêm một câu nào nữa nhưng đến đất Cô Tô thấy cảnh vật xinh tươi, dân tình nhã nhặn, gặp mấy cô nương đẹp như tiên trên trần nên bụng dạ thù hằn không còn nữa. Ta và ngươi từ nay một đao cắt đứt, đường ai nấy đi.

A Châu và A Bích nghe chàng nói năng như gã đồ gàn, không khỏi tức cười nhưng trong ngôn ngữ chàng ca tụng mình hết lời nên trong bụng không khỏi thầm sung sướng. Cưu Ma Trí đáp:

- Nếu công tử không chịu biểu diễn Lục Mạch Thần Kiếm thì có khác gì bảo ta ăn nói đặt điều hay sao?

Đoàn Dự đáp:

- Nhà ngươi vốn dĩ nói năng vô căn cứ. Ngươi bảo có hẹn với Mộ Dung tiên sinh sao không đến Đoàn Dự lấy kiếm kinh sớm đi? Đợi đến khi Mộ Dung tiên sinh quá vãng rồi, tử vô đối chứng lúc đó mới đến phủ Mộ Dung ăn nói huyên thuyên. Ta xem chừng ngươi hâm mộ Cô Tô Mộ Dung võ công cao cường nên đặt ra câu chuyện bá láp này để đánh lừa lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các, lén coi quyền kinh kiếm phổ của nhà Mộ Dung, học lấy thuật "dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân". Ngươi tưởng người ta danh tiếng vang dội trong võ lâm như thế mà không biết được cái trò trẻ con của ngươi hay sao? Nếu chỉ đem cái mồm trơn như mỡ đến nói vài câu là ăn trộm được võ công bí quyết của nhà Mộ Dung thì trên đời này vô khối những tên bịp bợm, đứa nào chẳng đến đây lẻo mép, nói lếu nói láo?

Cưu Ma Trí lắc đầu nói:

- Đoàn công tử đoán sai rồi. Tiểu tăng tuy đính ước đã lâu với Mộ Dung tiên sinh nhưng vì phải bế quan tu luyện công phu Hỏa Diễm Đao, chín năm nay chưa ra khỏi cửa nên không thể tới Đại Lý sớm hơn được. Nếu Hỏa Diễm Đao tiểu tăng luyện chưa thành thì lần này đâu có thể ra khỏi chùa Thiên Long một cách an toàn được.

Đoàn Dự đáp:

- Đại hòa thượng ơi, ông tiếng tăm đã có rồi, quyền thế chức tước cũng có rồi, võ công lại cao cường như thế, sao không yên thân ở nước Thổ Phồn làm Hộ Quốc Pháp Vương có phải hay không? Việc gì còn phải đến tận Giang Nam bịp người khác? Ta khuyên ông nên sớm quay về là hơn.

Cưu Ma Trí đáp:

- Nếu công tử không chịu thi triển Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.

Đoàn Dự nói:

- Ngươi vốn dĩ đã vô lễ rồi, có còn gì nữa đâu mà nói nữa. Cùng lắm ngươi một đao giết ta thôi chứ còn gì hơn được.

Cưu Ma Trí nói:

- Được lắm, coi đao đây.

Y dựng bàn tay trái lên, một luồng kình phong liền ùa tới mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự vốn đã có chủ định trước, võ công mình kém y xa, có đấu với y hay không thì cũng thế, y chỉ muốn chứng minh cho người khác là mình biết Lục Mạch Thần Kiếm nên quyết không để cho y toại ý. Thành ra khi Cưu Ma Trí dùng nội kình biến thành mũi đao đâm tới, Đoàn Dự liền ưỡn ngực ra, không tránh né, không đỡ gạt. Cưu Ma Trí kinh hãi, kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm chưa vào tay y thì bộ sách sống này không thể giết được, tay liền nghiêng qua, một luồng gió lạnh vụt qua khiến đầu tóc Đoàn Dự bị cắt một mảng lớn.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi sợ toát mồ hôi đã đành mà A Châu vùng A Bích hai cô cũng mặt tái nhợt. Cưu Ma Trí lầm lì hỏi lại:

- Đoàn công tử thà chết chứ không ra tay hay sao?

Đoàn Dự vốn đã không coi chết sống vào đâu, cất tiếng cười ha hả nói:

- Tham, sân, ái, dục, si, đại hòa thượng xem chừng có đủ cả, vậy mà dám khoe mình là cao tăng cửa Phật, quả là chỉ có cái tiếng hão.

Cưu Ma Trí đột nhiên vung tay chém xéo qua A Bích, miệng nói:

- Ta không thèm nói làm gì, để giết một con tiểu a đầu trong phủ Mộ Dung lập uy trước đã.

Chiêu đó y đánh ra thật đột ngột, A Bích kinh hãi vội nghiêng người tránh qua, nghe chát một tiếng, chiếc ghế dựa sau lưng cô ta bị chém đứt đôi. Bàn tay phải Cưu Ma Trí liền tiếp theo một đao nữa khiến A Bích phải lăn tròn dưới đất, thân pháp tuy nhanh thật nhưng thật là luống cuống. Cưu Ma Trí hầm hè quát lên một tiếng đánh luôn chiêu thứ ba ra.

A Bích sợ đến mặt tái mét, không biết phải đối phó với những chiêu số vô hình vô ảnh này thế nào. A Châu không còn kịp suy nghĩ gì khác liều vung gậy điểm vào sau lưng Cưu Ma Trí. Nàng đứng nói chuyện khi đi thì lụm cụm quả đúng là một bà lão bảy, tám mươi tuổi nhưng nay lúc gấp rút thân pháp thật là nhẹ nhàng nhanh nhẹn.

Cưu Ma Trí lập tức nhìn ra chỗ giả trá, cười nói:

- Trên đời này làm gì có bà già nào mới mười bảy mười tám, ngươi định đánh lừa bản hòa thượng tới bao giờ đây?

Y quay lại đánh một chưởng nghe cách một tiếng, chấn gãy cây gập nàng cầm trong tay thành ba khúc, kế đó lại vung tay đánh vào A Bích. A Bích kinh hoàng vội chộp chiếc bàn, đưa mặt bàn ra đỡ, bốp bốp hai tiếng, chiếc bàn bằng gỗ tử đàn lập tức nát vụn, trong tay nàng chỉ còn hai chiếc chân bàn.

Đoàn Dự thấy A Bích lưng dựa vào tường, không còn đường nào lui nữa, Cưu Ma Trí lại vung tay đánh thêm một chưởng, chàng không còn kịp suy nghĩ chỉ thấy cứu người là quan trọng, quên rằng mình không phải là địch thủ của gã phiên tăng, liền búng ngón tay giữa, nội kình theo huyệt Trung Xung bắn vọt ra, soẹt soẹt mấy tiếng chính là Trung Xung kiếm pháp.

Cưu Ma Trí đâu phải thực bụng muốn giết A Bích, chỉ cốt ép cho Đoàn Dự phải ra tay, nếu không chiêu số thần diệu của Hỏa Diễm Đao chém ra, A Bích làm sao có thể tránh được? Y thấy Đoàn Dự cuối cùng phải ra tay, lập tức thu chưởng chém vào A Châu, gió vút qua, A Châu còn đang lảo đảo, áo trên đầu vai đã bị nội kình xé rách, hét lên một tiếng kinh hoàng. Thiếu Trạch kiếm từ tay trái Đoàn Dự liền đâm ra, chặn ngay Hỏa Diễm Đao của y lại.

Chỉ trong khoảnh khắc, A Châu, A Bích hai người cùng thoát hiểm, song đao của Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự chặn lại. Cưu Ma Trí giở trò chỉ cốt cho mọi người thấy Đoàn Dự biết Lục Mạch Thần Kiếm thật, cố ý để nội kình hai người chạm vào nhau, nghe kêu bụp bụp. Đoàn Dự nhờ có công lực của mấy cao thủ trong người, lúc đó đúng ra còn mạnh hơn cả Cưu Ma Trí, có điều không biết chút võ công nào, tuy ở chùa Thiên Long nhớ hết các lộ kiếm pháp nhưng hoàn toàn không biết cách sử dụng.

Cưu Ma Trí dẫn luồng nội lực hồn hậu của chàng chạy đông chạy tây khiến cửa sổ và trên tường bị chàng đâm thủng lỗ chỗ khắp nơi, miệng liên tiếp hò hét:

- Lục Mạch Thần Kiếm quả thực lợi hại, thảo nào năm xưa Mộ Dung tiên sinh thầm ngưỡng mộ.

Thôi Bách Tuyền hết sức kinh ngạc: "Ta vẫn tưởng Đoàn công tử chẳng biết chút võ công nào biết đâu được rằng thần công của y tinh diệu đến thế. Họ Đoàn Đại Lý quả nhiên danh bất hư truyền. Cũng may ta ở trong phủ Trấn Nam Vương không làm chuyện gì sằng bậy, nếu không thì cái mạng già này đâu còn được đến hôm nay?". Y càng nghĩ càng rùng mình, trên trán sau lưng toát mồ hôi lạnh.

Cưu Ma Trí đấu với Đoàn Dự một hồi, mặc dầu chiêu nào y cũng có thể giết chàng được nhưng chỉ cố ý đùa rỡn, ngờ đâu càng lâu thì càng không dám coi thường, xem ra chàng nội kình cực kỳ hồn hậu không kém gì mình, nhưng không hiểu vì sao lại sử dụng không đâu vào đâu, chẳng khác gì đứa trẻ lên ba trong tay có hàng vạn quan tiền mà không biết sử dụng.

Cưu Ma Trí sách giải thêm mấy chiêu nữa bỗng dưng tâm động: "Nếu như tương lai y phúc chí tâm linh, một buổi nào đó quán thông mọi việc, lãnh ngộ được võ công yếu quyết, với nội công đó và kiếm pháp đó, e rằng sẽ là một kình địch cực kỳ lợi hại".

Đoàn Dự cũng biết sống chết đều nằm trong tay Cưu Ma Trí, kêu lên:

- A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ mau mau đào tẩu, để lâu e không kịp.

A Châu đáp:

- Đoàn công tử, sao công tử lại cứu chúng tôi?

Đoàn Dự đáp:

- Gã hòa thượng này ỷ mình võ công cao cường, hoành hành bá đạo hiếp đáp người khác. Tiếc rằng tôi không biết võ công, khó mà đối địch được với y, các cô hãy chạy cho mau.

Cưu Ma Trí cười nói:

- Không kịp nữa rồi.

Y tiến lên một bước ngón tay trái đâm ra, điểm vào huyệt đạo Đoàn Dự, Đoàn Dự kêu lên: "ối chà!" một tiếng toan né tránh nhưng làm sao được? Trên người chàng ba nơi huyệt đạo đã bị y điểm trúng, hai đùi tê dại, ngã lăn ra mồm vẫn kêu:

- A Châu, A Bích, chạy cho mau! Chạy cho mau!

Cưu Ma Trí cười đáp:

- Chết đầu nước rồi, mạng mình chưa xong lại còn thương hương tiếc ngọc.

Nói xong y quay lại ghế ngồi, nói với A Châu:

- Cô này đừng có giở trò ma mãnh nữa, việc trong phủ do ai quyết định? Đoàn công tử trong bụng thuộc lòng kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, có điều y không biết võ công nên không biết sử dụng. Sáng mai ta đem y đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, Mộ Dung tiên sinh ở dưới đất biết được sẽ rõ người bạn cũ không lỗi lời hẹn ước năm xưa.

A Châu biết rằng trong những người ở Cầm Vận tiểu trúc hôm nay, không ai có thể địch lại gã hòa thượng này, nàng nhíu mày cười nói:

- Tôi được! Đại hòa thượng nói thế chúng tôi tin là thế. Mộ phần lão gia ở cách đây một ngày đường thủy, hôm nay trời đã tối rồi, sáng sớm mai chị em tôi sẽ đưa đại hòa thượng và Đoàn công tử đến tảo mộ. Các vị nghi ngơi chốc lát để chờ chúng tôi làm cơm chiều.

Nàng nói xong cầm tay A Bích lui vào nội đường.

Độ nửa giờ sau, một tên nam bộc đi ra nói:

- A Bích cô nương mời bốn vị đến Thính Vũ Cư dùng cơm tối.

Cưu Ma Trí đáp:

- Đa tạ!

Y đưa tay nắm Đoàn Dự, dẫn đi theo tên đầy tớ. Đường đi trải đá trứng ngỗng ngoằn ngoèo độ mấy chục trượng vòng qua mấy tòa giả sơn, mấy khu vườn đến bên bờ nước tới một con thuyền nhỏ buộc dưới gốc liễu. Gã đầy tớ chỉ vào một tòa nhà gỗ nhỏ trên mặt nước, bốn bề đều có cửa sổ nói:

- ở bên kia.

Cưu Ma Trí, Đoàn Dự, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người xuống thuyền để cho người đầy tớ chèo qua, chỉ giây lát đã tới. Đoàn Dự theo cầu thang đóng trên cây tùng trèo lên Thính Vũ Cư, thấy A Bích đã đứng sẵn chờ khách, toàn thân mặc áo dài màu xanh nhạt, bên cạnh là một nữ lang mặc áo lụa mỏng, xinh tươi mơn mởn tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhìn Đoàn Dự mủm mỉm cười, thần tình ra vẻ lanh lợi bướng bỉnh. Mặt A Bích bầu bĩnh, thanh nhã tú lệ còn người con gái kia mặt trái soan, đôi mắt linh động dễ làm người ta quyến luyến.

Đoàn Dự đi đến gần liền ngửi thấy mùi hương thoang thoảng bèn cười nói:

- A Châu tỉ tỉ, nàng là một tiểu mỹ nhân như thế này sao cải trang thành một bà lão lại giống đến thế?

Người con gái đó chính là A Châu, nàng lườm Đoàn Dự một cái, cười nói:

- Công tử khấu đầu lạy tôi ba cái, trong bụng tức lắm, có phải không nào?

Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói:

- Lạy ba cái đó là đúng quá rồi, chỉ có điều tôi đoán sai bét thôi.

A Châu hỏi lại:

- Sai bét là sao?

Đoàn Dự đáp:

- Thoạt tiên tôi tưởng tỉ tỉ cũng na ná như A Bích tỉ tỉ, là một người đẹp hiếm có trong thiên hạ không khác A Bích tỉ tỉ bao nhiêu, ngờ đâu khi thấy mặt rồi, mới hay ... mới hay ...

A Châu cướp lời:

- Thì ra kém xa A Bích, có đúng thế không?

A Bích cũng chen vào:

- Thì mới tá hỏa tam tinh vì đẹp gấp mười tôi, có đúng thế không?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Cả hai đều trật lất. Tôi bấy giờ mới hay trời xanh kia quả thật tài ba, những tưởng đã đem hết tâm tư, bao nhiêu tú khí Giang Nam đã dùng hết sạch mới nặn ra được một người đẹp như A Bích tỉ tỉ. Vậy mà chao ôi, không ngờ hóa công còn tạo được một người như A Châu tỉ tỉ nữa. Hai người tướng mạo khác hẳn nhau, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười đến nỗi tôi muốn mở mồm khen mấy câu mà miệng ấp úng không sao nói được.

A Châu cười khúc khích:

- Gớm, mồm anh trơn như bôi mỡ khen đến thế thì thôi, vậy mà còn bảo là ấp úng nói chẳng thành lời.

A Bích mỉm cười quay sang nói với Cưu Ma Trí và hai người Thôi, Quá:

- Bốn vị giá lâm tệ xứ, chúng tôi đơn bạc chẳng có gì, chỉ mời được một chén rượu nhạt, ăn mấy món Giang Nam tươi có sẵn trong nhà thôi.

Nói rồi mời bốn người vào bàn còn nàng và A Châu ngồi bên dưới tiếp khách. Đoàn Dự thấy Thính Vũ Cư bốn mặt đều là nước, từ cửa sổ nhìn ra, chung quanh mặt hồ khói sóng xa tít tới tận chân trời, quay đầu nhìn lại thấy chén bát đồ đựng trên bàn đều là đồ sứ tinh xảo, trong bụng tấm tắc khen thầm.

Một lát sau nam bộc đem lên mấy món điểm tâm, riêng Cưu Ma Trí có bốn đĩa đồ chay, kế đó mấy món nóng sốt như lăng xào tôm, lá sen nấu măng, thịt quay nấu anh đào, thịt gà hấp trà Long Tỉnh ... món nào cũng thật là đặc biệt. Các món cá tôm đều nhồi cánh hoa, trái cây càng thêm màu mè nhưng vẫn đượm mùi hương thiên nhiên. Món nào Đoàn Dự cũng gắp thử vài đũa, món nào cũng tươi ngon hợp khẩu, khen luôn miệng:

- Linh khí núi sông thế này thì phải có nhân tài thế ấy, không những thông minh lanh lợi mà còn thanh nhã khôn cùng.

A Châu đáp:

- Thế công tử thử đoán xem những món này do tiểu nữ làm hay do A Bích làm?

Đoàn Dự đáp:

- Món thịt quay anh đào, vịt ướp hoa mai, bánh dẻo bảy màu hẳn là do tỉ tỉ làm. Còn món canh măng nấu ngó sen, cá viên phỉ thúy thanh tân mượt mà kia chắc phải do tay A Bích tỉ tỉ?

A Châu vỗ tay cười nói:

- Công tử đoán giỏi thật, A Bích ngươi xem mình phải thưởng cái gì đây cho phải?

A Bích mỉm cười:

- Đoàn công tử sai bảo gì chúng mình sẽ hết sức mà làm, chứ bọn kẻ ăn người ở như mình có gì để mà thưởng?

A Châu đáp:

- Chao ôi, ngươi quả là lanh mồm lanh miệng nói khéo cho vừa lòng người, thảo nào ai cũng bảo ngươi tốt còn ta thì xấu.

Đoàn Dự cười:

- Một đằng ôn nhu tư văn, một đằng hoạt bát lanh lợi cả hai mỗi người một vẻ. A Bích tỉ tỉ, tôi mới rồi nghe cô dùng nhuyễn tiên đánh đàn, trong lòng lâng lâng, thật là thoải mái. Nay muốn cô dùng nhạc khí thật diễn tấu một khúc, dẫu ngày mai có bị vị hòa thượng này trước mộ đốt cháy thành tro thì cũng không uổng một đời.

A Bích trịnh trọng đứng lên nói:

- Nếu như công tử chẳng hiềm khó nghe, tiểu nữ xin phô chút tài mọn để đón chào quí khách.

Nói xong nàng đi vào đằng sau bức bình phong mang ra một chiếc dao cầm. A Bích ngồi ngay ngắm trên chiếc cẩm đôn, để cây đàn lên chiếc bàn nhỏ trước mặt, giơ tay vẫy Đoàn Dự cười nói:

- Đoàn công tử thử lại đây xem cây đàn của tôi là loại đàn gì?

Đoàn Dự đi đến trước mặt nàng, thấy chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường thì ngắn hơn chừng một thước nhưng lại có đến chín dây, mỗi dây một màu, liền ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Cửu huyền cầm này đây là lần đầu nhìn thấy.

A Châu đi đến giơ ngón tay bật vào một sợi dây, nghe tưng một tiếng thật to, thì ra dây này làm bằng kim loại. Đoàn Dự ấp úng:

- Tỉ tỉ, đàn này ...

Mới nói đến đó, bỗng dưng thấy dưới chân hụt hẫng, nhịn không nổi kêu "ối" một tiếng, thân hình rơi tọt ngay xuống, rớt vào vật gì mềm nhũn như bông, đồng thời tai nghe tiếng kêu "ối chết!", "Hỏng rồi!" liên tiếp, tiếng rơi xuống nước lõm bõm, rồi thấy thân hình dao động, bị ai đó kéo ra ngoài. Biến cố đó thật là kỳ quái, lại thật đột ngột, chàng gượng ngồi lên thấy mình ở trong một con thuyền nhỏ, A Châu, A Bích ngồi hai đầu, tay cầm mái giầm đang hết sức chèo.

Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi ba người đang chới với cố ngoi lên khỏi mặt nước. A Châu, A Bích chỉ chèo mấy cái chiếc thuyền đã cách Thính Vũ Cư mấy trượng. Bỗng từ dưới nước một người ướt sũng vọt lên, chính là Cưu Ma Trí. Y vừa lên được Thính Vũ Cư, lập tức giơ tay chặt đứt một cây cột gỗ, nghe vù một tiếng đã cầm ném thẳng vào A Bích ngồi tại đằng sau con thuyền. A Bích kêu lên:

- Đoàn công tử, hụp xuống mau.

Đoàn Dự cùng hai cô gái cùng nằm mọp xuống, nửa cây cột gỗ lao vụt qua đầu, gió mạnh đến nỗi nghe ngâm ngẩm đau rát cả cổ. A Châu khom người, chèo mạnh mấy cái chiếc thuyền lại vọt lên thêm cả trượng. Bỗng dưng nghe tiếng ầm ầm, bùng bình vang dội, con thuyển chao đảo nhấp nhô, nước tạt vào làm cho cả ba người đều ướt sũng. Đoàn Dự quay đầu lại thấy Cưu Ma Trí đã đánh vỡ một bên vách Thính Vũ Cư, tay cầm đôn đá, đỉnh hương những vật nặng ném ra. A Bích nhắm chừng thế tới của những vật đó, lách thuyền tránh kịp, còn A Châu vẫn cắm cúi chèo tới trước, mỗi lần vung tay, chiếc thuyền con lại vọt xa thêm mấy thước, tuy Cưu Ma Trí vẫn liên tiếp ném theo nhưng mỗi lúc một xa, xem ra y kình lực mạnh mẽ thật nhưng không thể nào tới được.

Hai cô gái liên tiếp chèo chống, Đoàn Dự quay đầu lại nhìn quanh, thấy Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cũng đã bám được thang trèo trở lại lên Thính Vũ Cư. Chàng trong bụng mừng thầm nhưng lại kêu ngay: "Chao ôi!" một tiếng, thấy Cưu Ma Trí vừa nhảy xuống một chiếc thuyền khác. A Châu kêu lên:

- ác hòa thượng đuổi theo kìa!

Nàng gắng sức chèo luôn mấy cái, quay đầu nhìn bỗng dưng bật cười ha hả khiến Đoàn Dự cũng quay lại theo, thấy chiếc thuyền của Cưu Ma Trí chạy vòng vòng trên mặt nước. Thì ra tuy y võ công cao cường nhưng lại không biết lái thuyền. Ba người thở phào một cái nhưng chẳng bao lâu thấy Cưu Ma Trí đã biết cách điều khiển cố gắng chèo thuyền đuổi theo. A Bích thở dài:

- Nhà sư này quả là thông minh, việc gì cũng học một lần là làm được ngay.

A Châu nói:

- Mình phải để y không mò ra được lối đi.

Nàng chèo mấy cái đưa con thuyền vào trong đám lá lăng um tùm. Trong Thái Hồ có hàng ngàn hàng vạn lối mòn, chiếc thuyền nhỏ chỉ cần vòng qua mấy khúc là đã chui tọt vào trong một con lạch nhỏ, Cưu Ma Trí không thể nào đuổi theo được.

Đoàn Dự nói:

- Tiếc rằng huyệt đạo trên thân thể tôi chưa được giải thành thử không thể chèo thuyền giúp hai vị tỉ tỉ được.

A Bích an ủi:

- Đoàn công tử chớ có lo, nhà sư kia không đuổi kịp đâu.

Đoàn Dự nói:

- Cơ quan trong Thính Vũ Cư kể cũng hay thật. Có ai ngờ được chiếc thuyền lại nằm ngay dưới cái ghế tỉ tỉ đánh đàn, phải không nhỉ?

A Bích mỉm cười:

- Đúng vậy, khi tôi mời công tử lại coi đàn, A Châu tỉ tỉ búng vào sợi dây một cái làm hiệu, người ở bên ngoài nghe thấy, mở cửa hầm ra, tất cả đều rơi xuống hết.

Ba người cùng cười ha hả, A Bích vội bịt miệng lại nói:

- Đừng để nhà sư đó nghe thấy được.

Bỗng nghe từ xa văng vẳng có tiếng truyền tới:

- A Châu cô nương, A Bích cô nương, mau mau chèo thuyền quay lại. Mau quay lại, hòa thượng này là bạn của công tử nhà cô, không làm khó các cô đâu.

Chính là tiếng của Cưu Ma Trí, mấy câu đó dịu dàng thân thiết khiến người ta không còn tự chủ được muốn làm theo. A Châu bần thần nói:

- Đại hòa thượng gọi chúng ta về, nói là không làm hại chúng ta đâu.

Nói rồi ngừng lại không chèo nữa, dường như đã xiêu lòng. A Bích cũng nói:

- Thế thì mình quay về thôi.

Đoàn Dự nội công vô cùng hùng mạnh nên không bị thanh âm của Cưu Ma Trí dẫn dụ chút nào, vội nói:

- Y đánh lừa các cô đó, lời nói y làm sao tin được?

Lại nghe giọng ôn hòa trìu mến của Cưu Ma Trí chậm rãi lọt vào tai:

- Hai vị tiểu cô nương ơi, công tử của các cô về rồi, muốn gặp các cô, mau mau chèo thuyền quay về, mau lên, quay về ngay đi.

A Châu đáp:

- Vâng!

Nàng cầm mái chèo lên lái cho thuyền quay đầu lại. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Mộ Dung công tử nếu trở về thật thì đã tự mình lên tiếng gọi A Châu, A Bích chứ lẽ đâu lại phải nhờ y gọi giùm? Cái này là tà thuật thu nhiếp tâm hồn người ta đây". Chàng chợt nghĩ ra, giơ tay ra ngoài thuyền, hái mấy lá lăng trên mặt nước, vo lại thành một cục nhét vào tai A Bích, sau đó tiếp tục bịt vào tai A Châu.

A Châu vừa định thần, thất thanh kêu lên:

- Chao ôi! Nguy hiểm thực!

A Bích cũng kinh hoàng nói:

- Gã hòa thượng đó biết sử dụng phép câu hồn, mình suýt nữa thì bị y đánh lừa.

A Châu quay đầu thuyền lại hết sức chèo tới kêu lên:

- A Bích, chèo mau lên, mau lên!

Hai người ra sức chèo chiếc thuyền con đi sâu vào bãi lăng. Một hồi sau, tiếng gọi của Cưu Ma Trí nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa. Đoàn Dự ra hiệu cho hai cô gái bỏ lá lăng đang bịt lỗ tai ra. A Bích vỗ ngực, thở hắt ra nói:

- Sợ quá mất thôi, A Châu tỉ tỉ, mình phải làm sao bây giờ?

A Châu đáp:

- Mình cứ ở trên hồ này đi một vòng thật lớn để y không tìm thấy được. Khi nào đói thì mình hái lăng, đào củ sen mà ăn, nhà sư đó có đuổi theo mười bữa nửa tháng cũng không sao cả.

A Bích mỉm cười nói:

- Phương cách đó kể cũng hay, không biết Đoàn công tử có buồn không?

Đoàn Dự vỗ tay cười đáp:

- Phong cảnh trên hồ coi cũng chưa đủ, huống chi có hai cô làm bạn, ngao du mười ngày, thật sung sướng không khác gì thần tiên.

A Bích nhếch mép cười dẩu môi:

- Nếu mình đi về hướng đông nam thì dưới đó sông lạch thật nhiều, trừ dân chài ở đây, người khác đâu có biết đường nào mà mò. Nếu như mình vào Bách Khúc Hồ, gã hòa thượng kia không thể nào đuổi kịp được.

Hai cô gái thư thả chèo thuyền, Đoàn Dự nằm dưới sàn nhìn lên những vì sao lấp lánh trên bầu trời cao, ngoài tiếng mái chèo khuấy nước và tiếng là lăng chạm vào thành thuyền kêu loạt soạt, bốn bề tĩnh mịch không một tiếng động, gió mát trên mặt hồ, thêm mùi hoa thơm dìu dịu, nghĩ thầm: "Nếu cứ được thế này mãi thì thật sướng biết bao". Chàng lại nghĩ: "A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ tốt bụng như thế, xem ra Mộ Dung công tử cũng không phải là hạng người cùng hung cực ác, Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm và sư huynh của Hoắc tiên sinh không biết đã bị ai giết? Ôi, trong nhà ta tì nữ phục thị nhiều biết bao nhưng có ai sánh được với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ?".

Một lúc lâu sau, chàng đang thiu thiu toan nhắm mắt ngủ bỗng nghe A Bích cười khúc khích nói:

- A Châu tỉ tỉ, chị lại đây.

A Châu cũng hạ giọng hỏi nhỏ:

- Cái gì thế?

A Bích giục:

- Chị cứ lại đây rồi em nói cho nghe.

A Châu bỏ chiếc giầm, đi đến cuối thuyền ngồi xuống. A Bích ôm lấy vai nàng, ghé tai mỉm cười nói nhỏ:

- Hai chị em mình làm cách nào cho khỏi mắc cỡ đây.

A Châu cười hỏi:

- Chuyện gì vậy?

A Bích nói:

- Nói nhỏ thôi. Đoàn công tử đã ngủ chưa?

A Châu đáp:

- Không biết nữa, ngươi sao không hỏi thử xem.

A Bích nói:

- Hỏi không được. A Châu tỉ tỉ, em ... em ... em muốn đi giải.

Hai người nói nhỏ như muỗi kêu nhưng Đoàn Dự nội công cực kỳ hùng hồn nên nghe rõ mồn một, nghe A Bích nói thế không dám động đậy, giả vờ ngáy nhè nhẹ để nàng khỏi thẹn. Chỉ nghe A Châu hạ giọng cười nói:

- Đoàn công tử ngủ rồi. Ngươi cứ việc đi cầu đi.

A Bích ngượng nghịu đáp:

- Em không dám đâu, lỡ đang đi nửa chừng Đoàn công tử tỉnh dậy thì biết làm thế nào?

A Châu nhịn không nổi cười rúc rích, vội vàng đưa tay bịt miệng nói nhỏ:

- Có gì mà ngượng? Ai chẳng phải đi ngoài, có gì lạ đâu.

A Bích cầm tay A Châu lắc lắc, năn nỉ:

- Chị ơi, nghĩ giùm em xem làm cách nào đây?

A Châu đáp:

- Để ta che cho ngươi đi cầu, nếu như Đoàn công tử tỉnh dậy cũng không nhìn thấy được.

A Bích nói:

- Thế nhưng có tiếng động, nghe rơi xuống nước, em ... em ...

A Châu cười đáp:

- Thế thì làm cách nào được bây giờ? Ngươi cứ đi cầu đi, Đoàn công tử không nghe thấy đâu.

A Bích nói:

- Không được đâu, có người ở bên cạnh, em đi không được.

A Châu đáp:

- Không đi được thì càng tốt.

A Bích bí quá dường như muốn khóc, chỉ rền rĩ:

- Làm răng bây chừ? Làm răng bây chừ?

A Châu lại cười khúc khích nói:

- Cũng tại ngươi hết, ngươi không nói ra, ta cũng quên khuấy đi, bây giờ ngươi nói tới nói lui, làm ta cũng mắc đi cầu nữa. Thôi đành tới phủ nhà mợ Vương chỉ cách chừng nửa con chín, mình chèo tới đó đi ngoài luôn cũng được.

A Bích nói:

- Mợ Vương không cho chúng mình héo lánh đến, bà ấy dữ như chằng, không chừng vừa gặp đã cho mỗi đứa mấy cái tát tai.

A Châu đáp:

- Có gì đâu mà sợ. Mợ Vương với lão thái thái đều hay ngầy nhưng bà lão nay mất rồi. Ta với ngươi bất quá chỉ là kẻ ăn người ở, mình có làm chi mô mà bạt tai mình? Mình len lén lên bờ, đi xong lại xuống thuyền về nhà, mợ ấy làm sao biết được?

A Bích đáp:

- Vậy cũng được.

Nàng hơi trầm ngâm bỗng nói:

- Hay mình kêu Đoàn công tử lên bờ đi ngoài luôn, nếu không ... nếu không anh ta tỉnh dậy cười mình thì thẹn chết.

A Châu cười khẩy nói:

- Sao ngươi chăm sóc anh chàng ta quá vậy? Không sợ công tử biết công tử ghen hay sao?

A Bích thở dài nói:

- Những chuyện nhỏ nhặt công tử đâu có để tâm đến làm chi. Mình chỉ là hai con tiểu a đầu, công tử có bao giờ nghĩ tới.

A Châu nói:

- Nhưng ta cứ nghĩ đến thì sao? A Bích muội tử, ngươi tối ngày sáng đêm nghĩ đến công tử, việc gì phải dấu.

A Bích thở hắt ra, không trả lời. A Châu vỗ nhẹ lên vai nàng, nói nhỏ:

- Ngươi vừa mắc đi ngoài lại vừa nhớ đến công tử, hai chuyện nẹo lại làm một, thật tức cười quá hỉ?

A Bích cũng cười khúc khích nói:

- Chị chỉ nói rỡn, chẳng đâu vào với đâu.

A Châu quay trở lại đầu thuyền cầm mái chèo bơi tiếp. Hai cô gái bơi một hồi thì trời bắt đầu hửng sáng. Đoàn Dự nội công thâm hậu, huyệt đạo không bị đóng lâu. Trước đây cứ độ vài giờ Cưu Ma Trí lại điểm thêm mấy cái cho nên đến lúc này chàng cảm thấy nội tức bắt đầu thông các huyệt bị điểm từ từ mở ra. Chàng vươn vai ngồi dậy nói:

- Ngủ được một giấc dài còn hai vị tỉ tỉ thật là mệt nhọc. Có một việc không tiện nói, xin hai vị đừng trách, ta ... ta muốn đi ngoài.

Chàng nghĩ thầm mình tự ý nói ra cho hai cô gái khỏi ngượng ngập. A Châu, A Bích hai người cùng bật cười. A Châu nói:

- Cũng chẳng còn xa, chúng ta sẽ đến một người nhà họ Vương, lúc đó công tử lên bờ đi giải.

Đoàn Dự đáp:

- Thế thì tiện quá.

A Châu bỗng dưng nghiêm mặt nói:

- Có điều Vương thái thái tính tình rất là khó chịu, không cho đàn ông lạ lên nhà. Công tử lên bờ rồi lập tức quay trở lại thuyền ngay, chúng tôi ở lại đây cho khỏi phiền phức.

Đoàn Dự đáp:

- Được rồi, tôi đã hiểu.

Cỡ chữ 16 Cỡ chữ 18 Cỡ chữ 20 Cỡ chữ 22 Cỡ chữ 24

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 12(a)

TÒNG THỬ TÚY

Từng khi khắc khoải mơ người ngọc,

Nay càng say đắm mộng giai nhân.

*

* *

Chiếc thuyền đi tới dưới một hàng liễu rủ, xa xa thấy một hàng cây hoa chiếu ánh nước rực rỡ như ráng mây ban chiều. Đoàn Dự thảng thốt kinh ngạc kêu lên một tiếng. A Châu nói:

- Cái gì thế?

Đoàn Dự chỉ vào bụi hoa nói:

- Hoa đó là sơn trà của Đại Lý chúng tôi, sao trong giữa Thái Hồ lại có trồng những loại Điền Trà đó nhỉ?

Sơn trà Vân Nam rất nổi danh thành thử người đời gọi là Điền Trà_. A Châu nói:

- Đúng thế! Gia trang này có tên là Mạn Đà Sơn Trang, trồng toàn những hoa sơn trà.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Sơn trà còn có tên là Ngọc Mính, lại cũng còn gọi là hoa Mạn Đà La_. Trang viện này lấy tên là Mạn Đà, để xem có những loại danh chủng nào".

A Châu khua mái chèo đưa con thuyền tới bên bờ nước dưới mấy cây sơn trà. Chàng đưa mắt nhìn qua chỉ thấy toàn hoa trà đỏ có, trắng có chen chúc nhau nhưng không thấy nhà cửa. Đoàn Dự sinh trưởng ở Đại Lý, hoa trà chàng coi đã quen không lấy gì làm lạ, nghĩ thầm: "Nơi đây sơn trà tuy nhiều nhưng xem chừng chẳng có giai phẩm, có lẽ những loại quí trồng bên trong trang viện".

A Châu ghé thuyền vào sát bờ, mỉm cười nói:

- Đoàn công tử, mình cùng đi lên xong rồi xuống ngay.

Nàng nắm tay A Bích toan nhảy lên bờ, bỗng nghe từ trong rừng hoa có tiếng chân người, một người tiểu hoàn mặc áo xanh đi ra. Cô gái đó tay cầm một bó hoa, nhìn thấy A Châu, A Bích vội rảo bước đi tới, tươi cười nói:

- A Châu, A Bích các ngươi thật là lớn mật, dám len lén tới đây. Phu nhân bảo: "Lấy dao rạch ngang dọc mặt hai đứa a đầu cho chúng nó hết còn như hoa tựa ngọc nữa".

A Châu cười đáp:

- U Thảo a tỉ nè, thái thái đi vắng phải không?

Đứa tiểu hoàn liếc nhìn Đoàn Dự rồi quay sang nhìn A Châu, A Bích cười nói:

- Phu nhân còn bảo: "Hai con nhãi đó còn đem cả người lạ đến Mạn Đà Sơn Trang, cũng chặt luôn hai chân người đó nữa".

Nói chưa dứt câu thị đã cười khúc khích. A Bích vỗ ngực nói:

- U Thảo a tỉ đừng có dọa, mi nói vậy là nói thật hay nói chơi đó?

A Châu cũng cười:

- A Bích, ngươi đừng có sợ, nếu như thái thái có nhà, con nhãi ni đời nào dám hi ha hi hô như rứa bao giờ? U Thảo muội tử, hỏi thật chứ thái thái đi mô?

U Thảo cười nói:

- Nè, nhà ngươi mấy tuổi mà dám đòi làm chị ta? Sao ngươi đoán được là phu nhân không có nhà?

Nàng thở dài một tiếng nói tiếp:

- A Châu, A Bích hai cô em ơi, chẳng mấy khi các ngươi sang đây chơi, ta muốn hai đứa ở chơi vài ngày, có điều ...

Nói rồi nàng ta lắc đầu. A Bích nói:

- Bộ ta không muốn ở lại đây chơi với mi ít lâu hay sao? U Thảo a tỉ nè, chừng nào mi sang chơi bên tê, ta sẽ ở với ngươi ba ngày ba đêm, chịu không?

Hai cô gái vừa nói vừa nhảy lên bờ. A Bích ghé tai U Thảo nói mấy câu, U Thảo cười rộ lên, liếc nhìn Đoàn Dự. A Bích mặt bỗng đỏ bừng. U Thảo một tay nắm A Châu, một tay nắm A Bích nói:

- Thôi mình vào nhà chứ!

A Bích quay lại nói:

- Đoàn công tử, xin công tử ở nơi đây chờ một lát, chúng tôi vào rồi ra ngay.

Đoàn Dự đáp:

- Không sao.

Chàng nhìn theo ba cô a hoàn tay nắm tay thân mật đi vào trong rừng hoa. Đoàn Dự lên bờ, nhìn quanh quất không thấy ai liền đi ra sau một cây to tiểu tiện. Chàng xuống thuyền ngồi một hồi, thấy không có việc gì làm lại đứng lên nghĩ thầm: "Mình thử xem nơi đây hoa Mạn Đà La có những loại gì đặc biệt không?". Thuận chân vừa đi vừa xem hoa, thấy trong rừng hoa ngoài sơn trà ra không còn một giống gì khác, ngay cả những loại thông thường như Khiên Ngưu_, Nguyệt Nguyệt Hồng_, Tường Vi_ cũng không thấy. Những loại sơn trà thì cũng không có gì đặc biệt, chỉ được cái nhiều mà thôi.

Chàng đi được độ mươi trượng mới thấy nhiều loại khá hơn, thỉnh thoảng cũng có một vài bụi xem ra không phải thứ xoàng, có điều vun trồng không đúng cách nên nghĩ bụng: "Trang viện này không đáng gọi là Mạn Đà Sơn Trang, bao nhiêu giai chủng trồng hỏng kiểu cả". Đến đây chàng chợt nghĩ: "Thôi mình quay lại đi thôi, A Châu và A Bích trở về không thấy mình e rằng lại đâm lo".

Chàng trở lại mới mấy bước bỗng thấy chột dạ kêu lên một tiếng:

- Chết rồi!

Thì ra chàng cứ lầm lũi trong rừng, chỉ nghĩ đến xem hoa trà mà quên để ý đến đường đi nước bước, bây giờ mới giật mình thấy đông một lối, tây một lối không biết đâu là đường về, quay trở lại được chỗ buộc thuyền không phải dễ đành nghĩ thầm: "Thôi mình cứ lần ra được bờ nước rồi tính sau".

Thế nhưng chàng càng đi càng lạc lối, chung quanh toàn những cảnh chưa từng qua, trong bụng hoảng thầm, bỗng nghe phía bên trái văng vẳng tiếng người nói chuyện, đúng là giọng A Châu. Đoàn Dự mừng quá nghĩ thầm: "Thôi mình ở đây chờ nàng ta, đợi nói chuyện xong rồi cùng về một lượt". Chàng nghe A Châu nói:

- Công tử vẫn khỏe khoắn, ăn uống cũng bình thường. Hai tháng qua, công tử chuyên luyện Đả Cẩu Bổng Pháp chắc là định so tài với nhân vật nào đó của của Cái Bang.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "A Châu đang nói về Mộ Dung công tử mình chẳng nên nghe lỏm chuyện của người khác, nên đi xa xa một chút là hơn. Thế nhưng cũng chẳng nên đi xa quá, nếu không họ nói chuyện xong mình cũng không biết được".

Ngay khi đó, bỗng có tiếng một người con gái khác thở dài một tiếng. Đoàn Dự toàn thân rung động, tim đập thình thình nghĩ thầm: "Sao có ai chỉ thở dài mà nghe hay quá, trên đời này không lẽ có giọng nói nghe ngọt đến thế hay sao?". Liền đó có tiếng người hỏi nhỏ:

- Lần ni anh ấy đi mô?

Đoàn Dự mới nghe tiếng thở dài đã thấy choáng váng, đến khi nghe được nàng ta nói một câu, trong người bao nhiêu máu nóng dường như dồn cả lên, trong lòng vừa đau đớn vừa xót xa, nảy ra một nổi khâm phục xen với đố kỵ: "Nàng ta rõ ràng là hỏi Mộ Dung công tử, đối với y thiết tha như thế, hẳn là mang nỗi khắc khoải trong lòng. Mộ Dung công tử ơi, nhà ngươi sao mà may mắn đến vậy?".

Lại nghe A Châu đáp:

- Khi công tử ra khỏi nhà có nói là sẽ đi Lạc Dương để gặp những hảo thủ trong Cái Bang, có cả Đặng đại ca đi theo. Cô nương cứ an tâm.

Người con gái kia chậm rãi nói:

- Hai đại thần kỹ Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang là bí mật của họ không truyền ra ngoài. Tàng phổ của bổng pháp và chưởng pháp có trong Hoàn Thi Thủy Các bên nớ và Lang Hoàn Ngọc Động bên ni đều khiếm khuyết không đầy đủ. Phương pháp vận công hoàn toàn không có, công tử nhà mi làm sao mà luyện được?

A Châu đáp:

- Công tử bảo rằng: "Tâm pháp của Đả Cẩu Bổng Pháp kia cũng do con người sáng tạo nên, tại sao công tử lại không nghĩ ra được? Có được bổng pháp rồi, mình suy nghĩ để thêm tâm pháp vào hẳn là không phải khó".

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Lời của Mộ Dung công tử quả là hữu lý, xem ra y không những đã thông minh lại còn có chí khí lắm". Thế nhưng lại nghe người con gái kia thở dài một tiếng rồi nói:

- Dẫu có sáng tác được đi chăng nữa, cũng phải mười năm tám năm, ngày một ngày hai làm sao xong? Các ngươi có xem công tử luyện bổng pháp không? Có chỗ nào ngắc ngứ không thông chăng?

A Châu đáp:

- Lộ bổng pháp đó công tử múa rất nhanh, từ đầu đến cuối chẳng khác gì nước chảy mây trôi ...

Cô gái kia thất thanh kêu lên một tiếng nói:

- Hỏng rồi! Chàng ... chàng có thực múa nhanh như thế hay chăng?

A Châu đáp:

- Đúng vậy, có gì sai quấy chăng?

Người con gái kia nói:

- Dĩ nhiên là sai rồi. Tuy ta không biết tâm pháp của Đả Cẩu Bổng Pháp thực nhưng từ bổng pháp mà suy, có một số đường phải càng chậm càng hay, có đường thì phải khi nhanh khi chậm, trong chậm có nhanh, trong nhanh có chậm, không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng ... chàng chỉ cố cho nhanh, đến khi động thủ với người của Cái Bang, e rằng ... e rằng ... các ngươi ... có cách gì báo tin cho công tử hay được chăng?

A Châu "Ồ" lên một tiếng nói:

- Công tử lúc ni đang ở mô, tiểu tì làm sao biết được, cũng không biết đã gặp các trưởng lão của Cái Bang chưa? Khi ra đi công tử có nói là, Cái Bang đổ oan cho chúng ta giết Mã phó bang chủ của họ, công tử đến Lạc Dương sẽ phân trần một phen, chưa hẳn đã phải động thủ với người của Cái Bang, nếu không chỉ có công tử với Đặng đại ca hai người làm sao địch được số đông. Chỉ ngại rằng nói năng chưa rõ ràng, hai bên ngôn ngữ bất hòa ...

A Bích hỏi lại:

- Cô nương, môn Đả Cẩu Bổng Pháp nếu đánh nhanh thì có thực là không ổn hay sao?

Người con gái kia nói:

- Dĩ nhiên là không ổn, còn nói năng gì nữa? Chàng ... chàng khi ra đi, sao không đến gặp ta một chuyến?

Nàng ta nói xong dậm chân nhè nhẹ, tỏ ra bực bội, lại có vẻ lo lắng, âm điệu quả là dịu dàng dễ nghe làm sao. Đoàn Dự nghe rồi thực là lạ lùng, nghĩ thầm: "Ta ở Đại Lý nghe người ta nói đến Cô Tô Mộ Dung là vừa sợ hãi vừa kính trọng. Thế nhưng nghe cô nương này nói, dường như võ nghệ của Mộ Dung công tử đều do nàng ta chỉ điểm. Không lẽ một cô gái trẻ tuổi như thế này, lại có bản lãnh ghê gớm đến thế hay sao?".

Chàng còn đang nghĩ ngợi xuất thần, đầu đụng ngay vào một cành cây chắn ngang, buột miệng rú lên một tiếng, vội giơ tay bịt miệng nhưng không kịp nữa rồi. Cô gái kia hỏi:

- Ai rứa?

Đoàn Dự biết không còn trốn tránh được nữa, liền tằng hắng một tiếng, từ đằng sau bụi cây nói:

- Tại hạ Đoàn Dự, mải mê thưởng ngoạn kỳ hoa dị thảo trong quí trang vô tình lỡ bước tới đây, xin được thứ tội.

Cô gái kia hỏi nhỏ:

- A Châu, có phải vị tướng công cùng tới đây với các ngươi đó chăng?

A Châu vội đáp:

- Dạ phải đó, xin cô nương đừng để tâm, chúng tôi đi ngay bây giờ.

Thiếu nữ kia đáp:

- Khoan đã! Ta muốn viết một phong thư nói rõ cho chàng hay, dặn là nếu như bất đắc dĩ phải động thủ với người của Cái Bang thì nhất quyết chớ có dùng Đả Cẩu Bổng Pháp, chỉ nên dùng võ công của mình thôi. Không thể nào "Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" được đâu! Các người cầm thư đó làm cách nào chuyển tới cho chàng.

A Châu do dự đáp:

- Cái đó ... thái thái từng dặn là ...

Người con gái kia nói:

- Nói chi? Bọn mi chỉ nghe lời phu nhân, không nghe lời ta chăng?

Trong giọng nàng dường như có vẻ hơi giận. A Châu hấp tấp đáp:

- Chỉ cần cô nương không để cho thái thái hay, tì tử dĩ nhiên là tuân lệnh, huống chi đây là vì công tử.

Cô gái nói:

- Hai đứa mi theo ta đến thư phòng để lấy thư.

A Châu dường như hơi miễn cưỡng, một hồi sau mới đáp:

- Dạ!

Đoàn Dự từ khi nghe cô gái thở dài, càng về sau càng thấy mê man, nay nghe nàng ta định bỏ đi, một khi đi khỏi rồi từ rày về sau chắc gì còn gặp lại được, thật đúng là ôm hận cả đời nên không còn ngại ngừng bị người trách cứ về tội mạo phạm, nhất định nhìn thấy mặt nàng một lần, thu hết can đảm nói:

- A Bích tỉ tỉ, cô ở lại đây với tôi có được chăng?

Nói xong từ sau bụi cây bước ra. Cô gái kia nghe thấy chàng đi tới hoảng hốt kêu lên, lập tức xoay người quay lưng lại. Đoàn Dự vừa đi ra khỏi lùm cây thấy một nữ lang mặc áo dài bằng sa màu cánh sen, mặt quay về phía cây hoa, thân hình mảnh dẻ, tóc để dài xõa xuống lưng, chỉ buộc hờ bằng một dải lụa màu bạc. Đoàn Dự nhìn sau lưng nàng, thấy như mờ mờ có khói vương tỏa chung quanh, dường như không phải người trần nên vội vái một cái thật sâu nói:

- Tại hạ Đoàn Dự, bái kiến cô nương.

Cô gái nhè nhẹ dậm chân một một cái, phụng phịu nói:

- A Châu, A Bích, cũng chỉ tại hai đứa mi chộn rộn, ta đâu có muốn gặp đàn ông con trai ở bên ngoài mô.

Nói xong nàng cắm cúi bước đi, qua lại mấy khúc quẹo đã khuất hẳn trong những bụi sơn trà. A Bích mỉm cười, quay sang nói với Đoàn Dự:

- Đoàn công tử, vị cô nương đây khó tính lắm, thôi mình mau mau đi ra.

A Châu cũng cười nói với Đoàn Dự:

- Cũng may có Đoàn công tử đến giải vây, chứ không Vương cô nương thể nào cũng bắt chúng tôi đưa tin, hai cái mạng nhỏ của chị em chúng tôi e rằng nguy mất.

Đoàn Dự hấp tấp xông ra bị cô gái kia nói lẫy mấy câu, trong bụng cũng hơi bẽ bàng, đang lo A Châu, A Bích hai nàng đổ tội lên đầu mình, ngờ đâu nhị nữ lại mừng rỡ cảm ơn, thật là ngoài dự tính, nhìn người con gái tuy đã đi xa nhưng hình bóng vẫn còn vấn vương trước mắt, cảm thấy bâng khuâng đứng ngẩn ngơ nhìn theo bóng nàng lẫn sau những tùm hoa.

A Bích giựt nhẹ tay áo chàng, Đoàn Dự cũng không hay biết. A Châu cười nói:

- Đoàn công tử, thôi mình đi.

Đoàn Dự chân như đóng đinh xuống đất, phải mất một chốc mới như choàng tỉnh hỏi lại:

- Ừ hử ! Chúng mình phải đi ngay hay sao?

Chàng thấy A Châu, A Bích đã cất bước đi trước nên đành lẽo đẽo theo sau, đi một bước lại ngoái đầu, quyến luyến mãi không thôi. Ba người về đến chiếc thuyền, A Châu và A Bích liền cầm mái giầm chèo ngay. Đoàn Dự vẫn ngẩn ngơ nhìn những đóa hoa trà trên bờ, nghĩ bụng:

- Đoàn Dự ta quả là vô phúc, sao lại nghe được cô nương đó thở dài mấy tiếng, thỏ thẻ mấy câu? Rồi lại được thấy thể thái như thần tiên kia làm gì? Nếu như có phúc, sao đến mặt nàng cũng chưa được ngó qua?

Chàng thấy những bụi hoa trà xa dần, trong lòng dâng lên một nỗi u hoài man mác. Bỗng ngay lúc đó, A Châu kêu lên một tiếng kinh hoàng, lắp bắp:

- Thái thái ... thái thái về kìa.

Đoàn Dự quay đầu nhìn thấy trên mặt hồ một chiếc thuyền đang lướt tới như bay, trong chớp mắt đã đến gần. Trên đầu thuyền vẽ đầy các loại hoa sắc sỡ, đến gần mới thấy toàn là hoa trà. A Châu, A Bích hai nàng vội đứng lên, cúi gầm mặt xuống, thần thái cực kỳ cung kính. A Bích luôn tay ra hiệu cho Đoàn Dự, bảo chàng cũng đứng lên. Đoàn Dự mỉm cười lắc đầu nói:

- Đợi khi nào chủ nhân ra khỏi khoang thuyền nói chuyện, lúc đó ta hãy đứng lên. Nam tử hán đại trượng phu không nên quá hạ mình như thế được.

Bỗng từ trong khoái thuyền có tiếng đàn bà quát lên:

- Sao có người đàn ông nào dám to gan héo lánh đến Mạn Đà Sơn Trang đó? Có biết là nam tử không mời mà đến sẽ bị ta chặt hai chân hay không?

Giọng nói cực kỳ oai nghiêm, nhưng rất trong trẻo dễ nghe. Đoàn Dự cao giọng đáp:

- Tại hạ Đoàn Dự trên đường đi lánh nạn ngang qua quí trang chứ không cố ý mạo phạm, nay gặp đây xin tạ tội.

Người đàn bà kia nói:

- Ngươi họ Đoàn ư?

Trong âm thanh có chiều ngạc nhiên, Đoàn Dự đáp:

- Chính thị.

Người kia lại nói tiếp:

- Hừ, A Châu, A Bích có phải hai đứa bay đi quàng đi xiên hay chăng? Tên tiểu tử Mộ Dung Phục điều hay không học, chỉ lấp la lấp ló học chuyện tầm phào.

A Châu đáp:

- Bẩm thái thái, tiểu tì bị địch nhân đuổi gắt quá nên phải chạy tới Mạn Đà Sơn Trang. Công tử chúng tôi đã đi khỏi rồi, chuyện ni không có liên quan chi đến công tử hết.

Người đàn bà trên thuyền cười khẩy:

- Hứ, các ngươi chỉ được cái giả lả là hay. Không có đi đâu hết, mau theo ta.

A Châu, A Bích cùng đáp:

- Dạ.

Hai nàng liền chèo chiếc thuyền con đi theo đằng sau, lúc này cách Mạn Đà Sơn Trang chưa xa mấy nên chỉ chốc lát đã nhìn thấy bờ. Chỉ nghe tiếng vòng chạm nhau leng keng, từ trong khoang thuyền đi ra vô số con gái mặc áo xanh ăn mặc theo lối tì nữ, tay đều cầm trường kiếm nên chỉ giây lát đã thấp thoáng lưỡi kiếm trắng xóa, tổng cộng chín đôi. Mười tám người xếp thành hai hàng, kiếm giữ ngang hông, lưỡi hếch lên trời. Sau khi họ đã an vị, từ trong khoang một người đàn bà bước ra.

Đoàn Dự vừa thấy mặt người đàn bà đó, nhịn không nổi kêu lên một tiếng thất thanh, mồm há hốc tưởng như đang nằm mộng. Thì ra người đàn bà đó mặc áo dài màu vàng nhạt, y phục trang sức giống hệt như pho tượng ngọc trong động nước Đại Lý. Có điều đây là một giai nhân tuổi đã trung niên, khoảng chừng gần bốn mươi còn pho tượng ngọc trong hang thì là một thiếu nữ chừng mười tám mười chín tuổi.

Đoàn Dự sau cơn kinh hoàng nhìn kỹ lại tướng mạo người đàn bà kia mới nhận ra là so với pho tượng ngọc thì mắt mũi mồm cũng không bằng mà tuổi cũng có khác, trên khuôn mặt nhuốm vẻ dày dạn phong sương nhưng cũng còn giống đến năm sáu phần mười.

A Châu, A Bích thấy chàng trố mắt đứng đờ ra nhìn Vương phu nhân, thực là vô lễ, trong bụng kêu khổ liên hồi, vội vàng ra hiệu bảo chàng quay đi nơi khác nhưng đôi mắt Đoàn Dự vẫn dán chặt vào mặt bà ta.

Người đàn bà liếc mắt nhìn Đoàn Dự nói:

- Gã ni thật là vô lễ, đã vậy chặt hai chân y trước, sau đó móc hai con mắt, cắt lưỡi coi ra thế nào.

Một con tì nữ khom lưng đáp lời:

- Dạ!

Đoàn Dự thót cả ruột, nghĩ thầm: "Giá như họ giết mình đi thì đã đành. Đằng này họ lại chặt chân, khoét mắt, cắt lưỡi khiến mình sống dở chết dở, tội gì đâu mà to thế?". Đến lúc này, chàng mới thấy thực là sợ hãi, quay sang nhìn A Châu, A Bích thấy hai người mặt tái xanh, đứng chết sững.

Vương phu nhân lên bờ rồi, trên thuyền lại đi ra thêm hai thanh y tì nữ khác, kéo theo sau hai người đàn ông mặt mày ủ rũ tay bị xích sắt khóa chặt. Một người mặt mày thanh tú, trông ra dáng con nhà giàu có, còn một người Đoàn Dự nhận ra được là một đệ tử phái Vô Lượng tên là Đường Quang Hùng. Đoàn Dự lạ quá: "Người này ở tận Đại Lý sao lại bị Vương phu nhân bắt đem tới Giang Nam là sao?".

Chỉ thấy Vương phu nhân nói với Đường Quang Hùng:

- Rõ ràng mi là người Đại Lý, sao lại còn chối là sao?

Đường Quang Hùng đáp:

- Tại hạ người đất Vân Nam, quê thuộc về Đại Tống, không thuộc về Đại Lý.

Vương phu nhân hỏi thêm:

- Thế quê mi cách Đại Lý bao xa?

Đường Quang Hùng đáp:

- Bốn trăm dặm.

Vương phu nhân nói:

- Chưa tới năm trăm dặm thì cũng coi như người Đại Lý rồi. Đem nó ra chôn sống dưới gốc hoa Mạn Đà làm phân bón.

Đường Quang Hùng hoảng hốt kêu lên:

- Thế tôi có tội tình gì, nói cho tôi nghe kẻo tôi có chết cũng không nhắm mắt.

Vương phu nhân cười khẩy:

- Chỉ cần là người Đại Lý hoặc người họ Đoàn vào tay ta là bị chôn sống. Mi đến Tô Châu làm chi rứa? Đã dám đến Tô Châu lại dám mở mồm nói giọng Đại Lý, nơi quán rượu ba la bô lô là sao? Mi không phải người Đại Lý nhưng ở gần Đại Lý thì cũng không khác gì.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Ối trời, phải chăng mụ ta tính nói xỏ mình? Ta chẳng cần mụ phải hỏi, cứ thẳng thắn nhận đi cho xong". Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Ta là người nước Đại Lý, lại họ Đoàn đây, bà muốn chôn sống thì mau ra tay.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Mi đã sớm báo danh rồi, tự xưng là tên Đoàn Dự. Hừ, người họ Đoàn nước Đại Lý thì đâu có chết dễ dàng như thế được.

Bà ta vẫy tay một cái, một đứa nữ tì liền lôi ngay Đường Quang Hùng đi. Đường Quang Hùng không biết đã bị điểm huyệt, hay đã bị trọng thương nên không thấy kháng cự chút nào, chỉ kêu ầm lên:

- Trên đời này làm gì có cái qui củ gì như thế, nước Đại Lý hàng trăm vạn người, mụ có giết hết được chăng?

Thế như y bị kéo vào trong rừng hoa mỗi lúc một xa, tiếng kêu càng lúc càng nhỏ dần. Vương phu nhân quay sang người đàn ông mặt mũi thanh tú kia hỏi:

- Còn mi thì sao?

Người đàn ông đột nhiên chân nhũn ra, quì phục xuống van lơn:

- Gia phụ làm quan tại kinh đô, cả nhà chỉ có một đứa con trai, cầu xin phu nhân tha mạng. Phu nhân sai bảo gì, gia phụ nhất định sẽ bằng lòng.

Vương phu nhân thản nhiên nói:

- Cha mi làm quan lớn trong triều, tưởng ta không biết hay sao? Tha mạng cho mi cũng chẳng khó gì, nội ngày hôm nay mi về nhà giết ngay con vợ se tơ kết tóc của mi đi, ngày mai lấy ngay cô gái họ Miêu mi đang giăng dện, cheo cưới cho đủ, có thế là xong. Vậy được không?

Gã công tử ấp úng:

- Cái việc ... cái việc giết vợ tôi, thực không đành lòng. Còn như minh môi chính thú Miêu cô nương thì cha mẹ tôi chắc không chấp nhận. Chẳng phải là tôi ...

Vương phu nhân nói:

- Đem y đi chôn sống!

Người tì nữ đang dắt y liền đáp:

- Dạ!

Rồi lôi y đi. Gã công tử sợ mất cả hồn vía, người run lẩy bẩy vội nói:

- Tôi ... tôi bằng lòng!

Vương phu nhân nói:

- Tiểu Thúy, mi áp tống y trở lại thành Tô Châu, chính mắt thấy y giết vợ, bái đường thành thân với Miêu cô nương, sau đó hãy trở lại.

Tiểu Thúy đáp lời:

- Dạ!

Nàng ta lôi gã công tử kia lên bờ đi về phía bến đò xuống một con thuyền nhỏ. Gã kia vẫn còn rên rỉ:

- Xin phu nhân mở lòng, chuyết kinh với tôi không thù không oán, bà cũng không biết Miêu cô nương là ai, sao lại bênh cô ấy, ép tôi giết vợ lấy người khác làm chi? Tôi ... tôi xưa nay cũng chẳng biết bà, từ rày ... từ rày cũng không dám đắc tội nữa.

Vương phu nhân nói:

- Ngươi đã có vợ rồi, sao lại còn lân la ngon ngọt tán tỉnh con gái nhà người ta. Đã chim chuột thì không thể không lấy, tuy ta không nghe không thấy nhưng chỉ cần ta biết được là ta bắt ngươi phải làm. Việc này cũng có phải lần đầu đâu, còn oán trách nỗi gì? Tiểu Thúy, y trăng hoa bao nhiêu vụ rồi?

Tiểu Thúy đáp:

- Tì tử ở Thường Thục, Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng các nơi, nghe cả thảy là bảy vụ, còn Tiểu Lan, Tiểu Thi hai đứa kia thì không biết thêm bao nhiêu.

Gã công tử kia nghe cô ta liệt kê ra như thế, chỉ biết kêu khổ thầm trong bụng. Tiểu Thúy quạt chiếc giầm, chèo chiếc thuyền đi.

Đoàn Dự thấy Vương phu nhân hành sự chẳng kể tình lý, ngang ngược quá đỗi không khỏi há hốc mồm, đứng chết trân, trong bụng chỉ nghĩ được bốn chữ: "Lẽ nào lại thế?", vô hình chung buột miệng:

- Lẽ nào lại thế? Lẽ nào lại thế?

Vương phu nhân hừ một tiếng nói:

- Trên đời ni có việc chi mà phải ra lẽ mới làm.

Đoàn Dự vừa thấy thất vọng, vừa khó xử, hôm trước trong thạch động núi Vô Lượng được thấy pho tượng thần tiên tỉ tỉ trong lòng bao nhiêu kính ngưỡng, con người trước mắt tuy hình dáng tương tự nhưng lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành vi lại chẳng khác gì yêu ma quỉ quái.

Chàng cúi đầu ngơ ngẩn, thấy bốn đứa nữ tì quay vào khoang thuyền bưng ra bốn chậu hoa. Đoàn Dự vừa nhìn thấy liền cảm thấy cao hứng ngay. Bốn chậu hoa đó đều là sơn trà, cũng là những danh chủng khó kiếm. Trong thiên hạ nói về sơn trà thì Đại Lý đứng đầu, mà trong phủ Trấn Nam Vương thì phải nói là số một trong cả nước. Đoàn Dự từ bé nhìn đã quen, mỗi khi nhàn rỗi vẫn thường ngồi cùng bọn trồng hoa bàn bạc phê bình, nên dở hay xấu tốt chàng thuộc nằm lòng, chẳng cần học cũng biết, khác gì con nhà nông biết về gạo tẻ, gạo nếp, con nhà thuyền chài biết về con cá, con tôm.

Chàng đi lang thang trong Mạn Đà Sơn Trang, chưa thấy gốc hoa nào được gọi là giai phẩm, không khỏi thấy bốn chữ Mạn Đà Sơn Trang danh quá kỳ thực, bây giờ nhìn thấy bốn chậu hoa này, ngầm tấm tắc: "Quả nhiên cũng có được ít nhiều".

Lại nghe Vương phu nhân nói:

- Tiểu Trà, bốn chậu sơn trà Mãn Nguyệt này kiếm được không phải dễ, mi phải chăm chút cho kỹ nghe chưa?

Đứa tớ gái tên Tiểu Trà kia liền đáp lời:

- Dạ!

Đoàn Dự nghe bà ta nói trật lất liền bật ra một tiếng cười khẩy. Vương phu nhân lại tiếp:

- Trên hồ gió to, bốn chậu hoa ni để luôn trong khoang mấy ngày, thiếu nắng, mi mau đem ra phơi, bón thêm phân cho nó.

Tiểu Trà lại đáp lời:

- Dạ!

Đoàn Dự không còn nhịn thêm được nữa, bật cười ha hả. Vương phu nhân nghe chàng cười có điều khác lạ, bèn hỏi:

- Nhà ngươi cười chi?

Đoàn Dự đáp:

- Ta cười bà không biết gì về sơn trà, vậy mà học đòi trồng hoa. Những loại giai phẩm như thế này vào tay bà thật có khác gì hồng ngâm cho chuột vọc, ngọc cho ngâu vầy, đem đàn chụm lửa, bắt hạc nấu canh, thật là uổng phí. Tiếc thay, tiếc thay! Thật là đau lòng.

Vương phu nhân giận dữ nói:

- Ta không biết sơn trà, dễ thường mi biết chắc?

Đột nhiên bà ta chợt nghĩ: "Xem nào, y là người họ Đoàn nước Đại Lý, không chừng biết về sơn trà thật". Tuy nghĩ thế nhưng miệng vẫn khinh khỉnh nói:

- Bản trang đặt tên là Mạn Đà Sơn Trang, trong nhà ngoài ngõ chỗ nào cũng toàn là hoa Mạn Đà La, cây nào cây nấy xanh um, sao lại bảo là ta không biết trồng sơn trà?

Đoàn Dự mỉm cười:

- Gái nhà quê chỉ ăn khoai cũng béo tốt. Cái thứ hoa hạng bét kia vứt đâu mà chẳng mọc. Còn bốn bồn bạch trà này là bậc quốc sắc thiên hương, kẻ không sành mà trồng được thì mỗ đây không phải là họ Đoàn.

Vương phu nhân rất thích hoa trà, tốn không biết bao nhiêu tiền của đi các nơi lùng tìm giai phẩm, thế nhưng giống lạ đem về Mạn Đà Sơn Trang thì không loại sơn trà danh quí nào tốt tươi, chỉ được sáu tháng một năm là khô héo, chẳng đụng chạm gì cũng chết. Bà ta cũng vì thế mà buồn phiền, nghe Đoàn Dự nói thế không giận mà lại vui, tiến tới hai bước hỏi thêm:

- Bốn chậu hoa trắng của ta có gì khác thường? Phải trồng thế nào mới đúng cách?

Đoàn Dự nói:

- Nếu như bà muốn học hỏi với tôi, thì phải có cái lễ phép của người muốn học. Còn như bức bách tra hỏi thì cứ việc chặt hai chân tôi trước rồi hỏi sau cũng không muộn.

Vương phu nhân giận dữ nói:

- Chặt hai chân ngươi thì có chi là khó? Tiểu Thi, chặt chân trái y trước cho ta.

Đứa tì nữ tên Tiểu Thi liền đáp ứng, xách kiếm tiến lên. A Bích vội nói:

- Bẩm thái thái, xin hãy thư thả, gã ni gan liền tướng quân, nếu như thương tổn đến y, y có chết cũng không nói đâu.

Vương phu nhân vốn cũng chỉ muốn dọa Đoàn Dự nên giơ tay lên, Tiểu Thi lập tức đứng lại. Đoàn Dự cười nói:

- Ngươi cứ chặt hai chân ta đem chôn dưới gốc mấy cây bạch trà này làm phân tốt lắm, hoa sẽ nở thật to, có khi to bằng cái tô không chừng, ha ha, đẹp lắm! Hay thật! Hay thật!

Vương phu nhân cũng vốn có ý đó, nay nghe chàng nói có vẻ như mỉa mai, không biết nói sao, bần thần một hồi mới nói:

- Ngươi nói lăng nhăng cái gì? Bốn bồn hoa trắng của ta có cái gì đặc biệt danh quí, nói ta nghe thử. Nếu như ngươi nói nghe được, ta lúc ấy dùng lễ đãi ngươi cũng chưa muộn mà.

Đoàn Dự đáp:

- Vương phu nhân, bà bảo bốn chậu hoa trà này tên là Mãn Nguyệt, ngay cái đó đã sai rồi. Đến như tên hoa bà còn chưa rành, làm sao dám gọi là kẻ biết chơi hoa? Trong số này một chậu tên là Hồng Trang Tố Lý, một chậu tên là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm.

Vương phu nhân lạ lùng:

- Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm? Sao cái tên lại quái đản đến thế? Đó là cây nào?

Đoàn Dự nói:

- Bà muốn thỉnh giáo tại hạ thì phải nói cho lễ phép.

Vương phu nhân bị chàng ép cho không biết phải làm sao nhưng nghe nói bốn chậu trà này mỗi cây có một cái tên đặc biệt nên rất sung sướng, mỉm cười:

- Được rồi! Tiểu Thi, mi mau bảo nhà bếp thiết yến nơi Vân Cẩm Lâu để ta thết đãi Đoàn công tử.

Tiểu Thi lập tức đáp lời ra đi. A Bích và A Châu người nọ nhìn người kia, thấy Đoàn Dự không những chết đi sống lại, Vương phu nhân lại còn tiếp đãi như hàng thượng khách, thật hoan hỉ không đâu cho hết. Đứa tì nữ áp giải Đường Quang Hùng bây giờ đã quay lại bẩm báo:

- Gã họ Đường người Đại Lý kia đã đem chôn nơi gốc hoa màu đỏ nơi Hồng Hà Lâu rồi.

Đoàn Dự trong bụng xót xa, thấy Vương phu nhân dường như không coi vào đâu, chỉ gật gù nói:

- Xin mời Đoàn công tử.

Đoàn Dự đáp:

- Mạo muội đến đây làm phiền, mong hiền chủ nhân thứ lỗi cho đừng trách.

Vương phu nhân đáp:

- Có bậc đại hiền giáng lâm, Mạn Đà Sơn Trang đến cỏ cây cũng thêm phần rạng rỡ.

Hai người vừa khách sáo nói mấy câu vừa đi tới, có ai ngờ đâu chỉ giây phút trước tính mạng Đoàn Dự như chỉ mành treo chuông. Vương phu nhân đưa Đoàn Dự đi qua rừng hoa, qua một chiếc cầu đá, đi theo một con đường mòn đến trước một tòa tiểu lâu. Đoàn Dự nhìn thấy dưới mái hiên có một tấm biển viết ba chữ Vân Cẩm Lâu theo lối chữ triện màu xanh, dưới lầu trước sau trái phải chỗ nào cũng toàn hoa trà cả. Có điều những giống này ở Đại Lý chỉ vào hạng ba hạng tư, nếu so với tòa tiểu lâu tinh mỹ này có phần không xứng.

Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:

- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.

Đoàn Dự gật đầu:

- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.

Vương phu nhân cười khanh khách:

- Thật ư?

Đoàn Dự nói:

- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.

Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:

- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa .... khinh người quá lắm.

Đoàn Dự nói:

- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.

Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:

- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.

Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.

Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:

- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?

Vương phu nhân hậm hực đáp:

- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.

Đoàn Dự mỉm cười:

- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài.

Vương phu nhân hừ một tiếng:

- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?

- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.

Vương phu nhân nói:

- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến mười lăm, mười sáu màu khác nhau.

Đoàn Dự nói:

- Cả thảy đúng ra là mười bảy màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ mười tám đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả mười tám đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?

Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:

- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.

Đoàn Dự nói:

- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là mười ba đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là tám đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Nữ là bảy đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.

Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:

- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?

Đoàn Dự nói tiếp:

- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.

Vương phu nhân nói:

- Nguyên lai như thế.

Đoàn Dự lại tiếp:

- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.

Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:

- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm !

Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:

- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong, có khác gì rượu xoàng uống chua như giấm. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.

Vương phu nhân không nhịn được bật cười nói:

- Cái tên ấy sao vừa chanh chua, vừa khắc bạc, hẳn là do đám nho sinh đặt ra.

Đến lúc này, Vương phu nhân đã mười phần tin tưởng vào sự thành thục về các loại trà hoa của Đoàn Dự bèn dẫn chàng lên trên Vân Cẩm Lâu. Đoàn Dự thấy trên lầu trần thiết sang trọng đẹp đẽ, giữa là một bức trung đường vẽ cảnh khổng tước khai bình, hai bên là hai câu đối trên viết:

Lá rậm xem chừng mây khó kịp

Hoa tươi quả thực tuyết ghen thầm

Tất diệp vân sai mật

Trà hoa tuyết đố nghiên

Chẳng bao lâu tiệc rượu bắt đầu, Vương phu nhân mời Đoàn Dự ngồi bên trên, còn mình ngồi bên dưới để bồi tiếp. Những món ăn trong tiệc hôm nay thật khác xa bữa tiệc A Châu, A Bích khoản đãi. Những món ăn hai cô a hoàn thanh nhã làm chính trong những món thật tầm thường có ẩn những nét tinh xảo công phu. Bữa tiệc ở Vân Cẩm Lâu hôm nay thì lại chủ về hào hoa trân quí, nào là bàn tay gấu, vây cá đều toàn những món cực kỳ sang trọng. Thế nhưng Đoàn Dự sinh trưởng nơi chốn đế vương, những món quí báu đến mấy cũng đã nếm qua nên lại thấy bữa tiệc ở Mạn Đà Sơn Trang so ra kém xa ở nơi Cầm Vận Tiểu Trúc.

Rượu được ba tuần, Vương phu nhân hỏi:

- Họ Đoàn Đại Lý là thế gia trong võ lâm, cớ sao công tử không tập võ?

Đoàn Dự đáp:

- Người họ Đoàn ở Đại Lý đông lắm, con cháu hoàng tộc tông thất thì đều có tập, còn như vãn sinh là dân dã tầm thường thì làm gì biết võ công.

Chàng nghĩ mình sống chết ở trong tay người, bệ rạc như thế, thật chẳng nên thổ lộ chân tướng gia thế làm gì để khỏi làm giảm uy danh của bá phụ và gia gia. Vương phu nhân hỏi tiếp:

- Công tử con nhà bách tính tầm thường hay sao?

Đoàn Dự đáp:

- Vâng!

Vương phu nhân hỏi tiếp:

- Thế công tử có biết được người nào họ Đoàn trong hoàng thất hay không?

Đoàn Dự một mực chối phăng:

- Tuyệt nhiên không biết.

Vương phu nhân đờ đẫn hồi lâu rồi xoay qua đề tài khác, nói:

- Mới đây được công tử đàm luận về các phẩm chủng hoa trà, khiến cho ta như được vén đám mây mù, nhìn thấy trời cao. Bốn chậu bạch trà lần này kiếm được, kẻ trồng hoa trong thành Tô Châu bảo là Mãn Nguyệt, công tử lại bảo một chậu là Hồng Trang Tố Lý, còn một chậu là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, làm thế nào phân biệt, xin nói cho rõ, được chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Cây hoa trắng lớn nhưng lấm tấm có chấm đen kia thì gọi là Mãn Nguyệt. Những vệt đen đó là cành quế nơi cung trăng. Cây hoa cánh trắng có hai đốm hình quả trám màu đen kia tên gọi là Nhãn Nhi Mị.

Vương phu nhân mừng quá nói:

- Cái tên đó nghe thật hay.

Đoàn Dự nói tiếp:

- Cánh hoa trắng nhưng có lẩn sắc đỏ tên gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng nhưng có quầng mầu xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Thế nhưng nếu những vạch đỏ đó có nhiều thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều. Phu nhân thử nghĩ xem, đã là mỹ nhân thì phải ôn tĩnh nhàn nhã, trên mặt thỉnh thoảng bị sước một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình cào phải mặt, hoặc giả không phải do mình thì cũng chỉ chơi đùa với con anh vũ, bị chim quẹt trúng âu cũng là chuyện thường. Thành thử vết chàm trên cánh hoa kia không thể không có, đó là lông chim vương phải. Còn như nếu đầy mặt chỗ nào cũng tươm máu thì nàng con gái đẹp kia hẳn đã đánh nhau với ai, như thế còn gọi là đẹp nỗi gì?

Vương phu nhân từ trước đến sau nghe chàng nói luôn luôn gật đầu, thật là vui sướng, đột nhiên mặt sầm xuống, quát lên:

- Lớn mật nhỉ, ngươi định nhạo báng ta đấy chăng?

Đoàn Dự hết sức kinh hãi, vội nói:

- Không dám! Không biết chỗ nào tiểu sinh đã mạo phạm đến phu nhân?

Vương phu nhân hầm hầm nói:

- Ngươi nghe đứa nào xúi bẩy mà đến gặp ta ăn nói những lời nhăng cuội như thế? Ai bảo đàn bà con gái học võ công thì không còn đẹp nữa? Nhàn nhã ôn tĩnh thì có gì là hay?

Đoàn Dự chưng hửng vội nói:

- Lời của vãn sinh chỉ là suy đoán cái lý thông thường, trong những người đàn bà học võ thiếu gì người vừa xinh đẹp lại vừa đoan trang?

Ngờ đâu câu đó nói ra Vương phu nhân lại tưởng Đoàn Dự muốn nói kháy mình, bà ta liền gằn giọng:

- Thế ngươi bảo ta không đoan trang hay sao?

Đoàn Dự đáp:

- Đoan trang hay không đoan trang, phu nhân tự biết rồi, vãn sinh nào có dám vọng ngôn. Có điều ép người ta giết vợ cả, lấy vợ lẽ, thái độ như thế thì không phải là người ngay chính.

Chàng nói những câu đó, trong bụng đã bực lắm rồi nên không còn nể nang gì nữa. Vương phu nhân giơ tay vẫy một cái, bốn con tì nữ hầu hạ bên cạnh lập tức tiến lên khom lưng nói:

- Dạ!

Vương phu nhân nói:

- Giải tên ni xuống, bắt y đi tưới hoa.

Bốn đứa tớ gái cùng đáp ứng:

- Dạ!

Vương phu nhân nói:

- Đoàn Dự, ngươi là người Đại Lý, lại họ Đoàn đáng chết lắm rồi. Bây giờ cái tội chết ta tạm để đó, cho ngươi săn sóc cho hoa trà trong trang, nhất là bốn chậu bạch trà ta mới có hôm nay càng phải chăm chút cho kỹ. Ta bảo cho ngươi hay, bốn chậu đó chết một cây ta chặt một cánh tay, chết hai cây, ta chặt hai cánh tay, chết cả bốn cây thì tay chân ngươi cụt hết.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế cả bốn cây đều sống thì sao?

Vương phu nhân đáp:

- Bốn cây đó sống thì ta đưa ngươi đi chăm sóc các loại danh chủng khác. Những loại như Thập Bát Học Sĩ, Thập Tam Thái Bảo, Bát Tiên Quá Hải, Thất Tiên Nữ, Phong Trần Tam Hiệp, Nhị Kiều mỗi loại trồng cho ta vài cây. Làm không xong thì ta móc mắt ngươi ra.

Đoàn Dự lớn tiếng cãi:

- Những danh chủng đó, ngay ở Đại Lý đã khó kiếm rồi, ở Giang Nam dễ gì có được? Nếu mỗi loại trồng vài ba cây thì còn gì là danh quí? Thôi bà giết tôi trước còn hơn. Nay chặt chân, mai khoét mắt, tôi làm sao chịu nổi.

Vương phu nhân nạt liền:

- Bộ ngươi không muốn sống nữa hay sao? Trước mặt ta ai cho ngươi muốn nói gì thì nói? Đem nó xuống.

Bốn con tì nữ liền xông tới, hai đứa nắm hai tay, một đứa kéo đằng trước, một đứa đẩy đằng sau, năm người giằng co xuống lầu. Bốn đứa tớ gái đó đều biết võ công, Đoàn Dự bị chúng hiếp chế không thể nào kháng cự được, trong bụng chỉ biết kêu thầm: "Ngược ngạo thật! Ngược ngạo thật!"

Bốn đứa tì nữ vừa kéo vừa đẩy đưa chàng đến một vườn hoa, một đứa cầm một chiếc xẻng dúi vào tay Đoàn Dự, một đứa đưa cho một chiếc thùng tưới nói:

- Ngươi hãy nghe lời phu nhân sai bảo, ngoan ngoãn chăm lo trồng hoa thì mới toàn mạng. Bằng như ngang bướng cãi lại lệnh phu nhân, bọn ta lập tức đem đi chôn sống, xem ngươi làm được trò gì?

Lại một đứa tì nữ nói:

- Ngoài việc trồng hoa tưới hoa ra, không được đi lung tung trong trang viện, nếu ngươi vào chỗ cấm địa thì là tự mình tìm cái chết đó, chẳng ai cứu được đâu.

Bốn đứa tớ gái dặn dò kỹ lưỡng một hồi rồi mới đi. Đoàn Dự đứng bần thần, thật là giở khóc giở cười. Ở Đại Lý, thân phận chàng chỉ đứng sau bá phụ Bảo Định Đế và phụ thân Trấn Nam Vương, trong tương lai cha lên ngôi báu, chàng sẽ thành tự quân hoàng thái tử, ai ngờ bị người ta bắt đến Giang Nam, muốn đốt muốn giết, muốn chặt chân chặt tay, khoét mắt gì cũng được, bây giờ lại bị ép làm một gã làm vườn trồng hoa. Tuy nhiên tính tình chàng vốn hiền hòa, ở Đại Lý nơi hoàng cung, vương phủ vẫn thường hay ra xem các phu trồng hoa cắt lá tỉa cành, cuốc đất bón phân, truyện trò với họ mặc dầu trong bụng một kẻ con vua cháu chúa, vẫn chỉ coi họ như kẻ ăn người ở, vị trí thấp kém.

Cũng may trời sinh chàng sảng khoái vui vẻ, gặp phải nghịch cảnh trớ trêu, cũng chỉ buồn bã một chốc, chẳng bao lâu lại cao hứng như thường, trong bụng nhủ thầm: "Ta nơi ngọc động núi Vô Lượng đã từng bái thần tiên tỉ tỉ làm thầy. Vị Vương phu nhân này với thần tiên tỉ tỉ tướng mạo y hệt nhau, chỉ lớn tuổi hơn thôi, ta coi bà ấy cũng như sư bá thì có gì mà không được? Sư trưởng ra lệnh, đệ tử tuân hành ra sức mà làm thì cũng hợp đạo lý. Huống chi chăm bón hoa cỏ vốn là cái thú của kẻ văn nhân, so với bọn học võ múa đao động kiếm cao nhã hơn nhiều. Còn như so sánh với việc bị Cưu Ma Trí đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống thì thế này sướng gấp nghìn gấp vạn. Đáng tiếc là những cây hoa trà này phẩm chủng quá xoàng, để cho vương tử nước Đại Lý tự tay săn sóc không khỏi đại tài tiểu dụng, giết gà dùng dao mổ trâu. Ha ha! Ngươi là dao mổ trâu ư? Ngươi có đại tài trồng hoa ư?".

Chàng nghĩ tiếp: "Mình ở lại Mạn Đà Sơn Trang thêm một thời gian, biết đâu chẳng có cơ duyên gặp lại thiếu nữ mặc áo màu cánh sen kia một lần, cái đó gọi là:

Vương tử trồng hoa ai bảo họa,

Biết đâu có phúc gặp giai nhân".

Nghĩ đến họa phúc, chàng bèn nhổ một nắm cỏ trong bụng khấn thầm: "Để xem ta chừng nào mới gặp được vị cô nương kia". Chàng cầm nắm cỏ tay phải trao qua tay trái, tay trái trao qua tay phải để bói, được quẻ Cấn thượng Cấn hạ tức là quẻ thuần Cấn nghĩ thầm: "Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu". Quẻ này thật linh quá, tuy không thấy đó nhưng cũng không có tội lỗi gì".

Chàng lại bói thêm một quẻ nữa, được quẻ Đoài trên Khảm dưới, tức là quẻ Khốn, trong bụng kêu thầm: "Khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất địch". Ba năm mà không gặp được ai thì đúng là khốn nạn rồi." Chàng chợt nghĩ lại: "Ba năm không gặp thì năm thứ tư ắt sẽ gặp. Ngày rộng tháng dài thì có gì gọi là khốn đâu?".

Chàng xủ quẻ thấy không hay nên không dám bói thêm quẻ khác, miệng ư ử hát, vác xẻng lên đi lang thang nghĩ thầm: "Vương phu nhân bảo ta trồng sao cho sống được bốn chậu hoa trắng. Bốn chậu này quả là danh chủng, phải tìm cho ra chỗ nào cực kỳ u nhã mà trồng, nếu không thì hỏng bét". Chàng vừa đi vừa nhìn quanh quất chung quanh để tìm nơi thích hợp, đột nhiên bật lên cười sằng sặc, nghĩ thầm: "Vương phu nhân chẳng biết gì về hoa trà, vậy mà trồng khắp nơi, lại dám đặt tên trang viện này là Mạn Đà Sơn Trang. Có biết đâu hoa trà thích bóng râm mà kỵ ánh nắng, trồng nơi dương quang nếu không chết thì cũng đâu có ra hoa, lại thêm bón phân rõ nhiều, thành ra bao nhiêu danh chủng đều chết sạch, tiếc quá, tiếc quá! Nực cười thay, nực cười thay!".

Chàng tránh nơi có ánh mặt trời, đi sâu vào trong những nơi bóng cây, vòng qua một ngọn núi nhỏ, nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, bên trái là một hàng trúc xanh rì, bốn bề thật là u tĩnh. Nơi đây là bóng núi, ánh mặt trời không rọi đến, Vương phu nhân cho rằng không nên trồng hoa thành thử không thấy một bụi hoa trà nào. Đoàn Dự mừng lắm nói:

- Chỗ này thật không còn gì hơn.

Chàng quay lại chỗ cũ, khuân bốn chậu hoa trà đến nơi hàng trúc, đập vỡ bồn, để cả đất đem trồng xuống đất. Tuy chàng chưa từng làm vườn bao giờ nhưng xem đã nhiều, thành thử cứ người ta làm sao mình làm vậy.

Chưa tới nửa giờ, chàng đã trồng xong bốn cây bạch trà cạnh nơi bụi trúc, bên trái là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, bên phải là Hồng Trang Tố Lý và Mãn Nguyệt, còn Nhãn Nhi Mị chàng trồng sau một tảng đá bên cạnh giòng suối, tự nói một mình:

- Cái này quả là:

Gọi hoài mới thấy nàng ra,

Đàn che nửa mặt xót xa giọt sầu.

Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai,

Do bão tì bà bán già diện._

Phải chỗ lấp ló thế này thì mới đúng điệu.

Người Trung Hoa vẫn thường ví hoa với mỹ nhân, phép trồng hoa cũng chẳng khác gì săn sóc người đẹp. Đoàn Dự con cháu hoàng gia đọc thi thư từ nhỏ nên công phu của chàng hơn hẳn mọi người.

Chàng vọc tay xuống suối rửa sạch hai tay, gác chân ngồi trên tảng đá, ngắm nghía bụi hoa Nhãn Nhi Mị, nhìn thẳng, nhìn nghiêng trong bụng đắc ý thầm, bỗng nghe tiếng chân loạt soạt, có hai thiếu nữ đi tới. Một cô nói:

- Chỗ này thật vắng vẻ, không ai lui tới ...

Giọng nói đó vào tai, Đoàn Dự tim nhảy thót lên một cái, rõ ràng là giọng của cô gái mặc áo lụa màu cánh sen chàng gặp lúc ban ngày. Chàng vội nín thở không dám để phát ra chút âm thanh nào, nghĩ thầm: "Nàng ta bảo không muốn gặp những người đàn ông không liên can gì đến nàng, ta nào có liên hệ gì đâu, chỉ được nghe vài lời tiếng du dương như nhạc trên trời thì đã vô cùng phúc phận rồi, nhất quyết đừng để nàng hay biết".

Đầu chàng vốn dĩ nghiêng nghiêng ngó ra, lúc này không dám quay lại, dường như sợ mình chuyển động thì cổ sẽ có thể phát xuất âm thanh kinh động đến mỹ nhân.

Lại nghe thiếu nữ nói tiếp:

- Tiểu Mính, ngươi nghe thấy chuyện gì ... chuyện gì liên quan đến chàng thế?

Đoàn Dự nghe vậy trong lòng chua xót, cô gái nói đến "chàng" nhất định không phải là nói về mình, mà là nói về Mộ Dung công tử. Nghe lời Vương phu nhân nói, gã Mộ Dung công tử kia có đơn danh là Phục. Giọng thiếu nữ vặn hỏi nghe thật quan tâm đầy vẻ tha thiết, Đoàn Dự không khỏi không cảm phục lại cũng đau lòng. Chỉ thấy Tiểu Mính ấp úng một hồi, xem chừng như không tiện nói ra.

Thiếu nữ tiếp:

- Ngươi cứ nói cho ta nghe! Ta không quên lòng tốt của ngươi đâu.

Tiểu Mính đáp:

- Tiểu tì sợ ... sợ phu nhân trách phạt.

Cô gái nói:

- Ngươi đúng là một con bé ngốc nghếch, ngươi nói với ta ta có nói lại với phu nhân đâu mà lo?

Tiểu Mính nói:

- Nếu như phu nhân hỏi tiểu thư thì sao?

Thiếu nữ đáp:

- Dĩ nhiên là ta sẽ không nói.

Tiểu Mính lại ngập ngừng một hồi mới nói:

- Biểu thiếu gia đi lên chùa Thiếu Lâm.

Cô gái ngạc nhiên:

- Lên chùa Thiếu Lâm ư? Thế sao A Châu, A Bích hai đứa kia lại bảo là chàng đi Lạc Dương để gặp bọn Cái Bang?

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Sao lại biểu thiếu gia nhỉ? Ồ, thì ra Mộ Dung công tử là anh con cô cậu của nàng ta, hai người trong nhà thân thiết, có tình thanh mai trúc mã_, thành thử ... thành thử...".

Tiểu Mính nói:

- Phu nhân kỳ này ra ngoài, trên đường gặp Công Dã nhị gia, hỏi ra mới biết các đầu não Cái Bang đều đến Hà Nam cả, định gặp biểu thiếu gia để đại hưng vấn cái gì chi sư đó. Công Dã nhị gia lại nói là nhận được thư của biểu thiếu gia, khi đến Lạc Dương kiếm không ra tên thủ lãnh ăn mày nào, nên đã lên Tung Sơn Thiếu Lâm Tự rồi.

Thiếu nữ nói:

- Chàng lên chùa Thiếu Lâm để làm chi?

Tiểu Mính đáp:

- Công Dã nhị gia nói là trong thư biểu thiếu gia có viết khi ở Lạc Dương nghe tin một lão hòa thượng chùa Thiếu Lâm chết ở Đại Lý, họ lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung giết. Biểu thiếu gia giận lắm, chùa Thiếu Lâm lại không xa Lạc Dương bao nhiêu nên tiện đường đi lên trình bày với các hòa thượng trong chùa cho tỏ tường mọi việc.

Cô gái lại nói:

- Nếu như nói không tỏ tường thì không lẽ động thủ hay sao? Phu nhân nghe được tin đó cớ sao lại quay về, không đi lên giúp biểu thiếu gia một tay?

Tiểu Mính nói:

- Cái đó ... cái đó tì tử không biết. Có lẽ là phu nhân không ưa biểu thiếu gia chăng?

Thiếu nữ hậm hực nói:

- Hừ, dẫu có không ưa nhưng cũng là người nhà. Cô Tô Mộ Dung ở bên ngoài bị người ta làm cho mất mặt, chẳng lẽ nhà họ Vương này lại vẻ vang lắm hay sao?

Tiểu Mính không dám tiếp lời. Thiếu nữ đi qua đi lại trước bụi trúc, bỗng thấy ba khóm bạch trà Đoàn Dự mới trồng, gần bên là những mảnh chậu vỡ, thất thanh kêu lên một tiếng hỏi:

- Ai tại nơi đây trồng hoa trà đó?

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 12(b)

TÒNG THỬ TÚY

Từng khi khắc khoải mơ người ngọc,

Nay càng say đắm mộng giai nhân.

*

* *

Đoàn Dự không còn cách nào tránh mặt, từ sau tảng đá bước ra vái một cái thật sâu nói:

- Tiểu sinh phụng mệnh phu nhân tại nơi đây trồng hoa trà không ngờ lại chạm mặt tiểu thư.

Chàng tuy vái dài nhưng mắt vẫn nhìn lên, sợ rằng tiểu thư sẽ buông một câu: "Ta không thích gặp đàn ông lạ" rồi quay mình đi mất, lỡ mất cơ hội thấy mặt cô ta.

Chàng vừa nhìn mặt cô gái, tai bỗng ù đi, mắt hoa lên, hai chân mềm nhũn, không tự chủ nổi khuỵu ngay xuống, nếu không cố gượng e đã rập đầu rồi, nhưng miệng vẫn buột ra:

- Thần tiên tỉ tỉ! Ta ... ta nhớ tỉ tỉ kể đâu cho xiết! Đệ tử Đoàn Dự bái kiến sư phụ.

Tướng mạo cô gái trước mặt giống hệt như pho tượng ngọc nơi động núi Vô Lượng không khác chút nào. Vương phu nhân trông đã giống pho tượng nhưng tuổi tác có khác lại cũng không đẹp bằng, còn thiếu nữ này ngoài quần áo phục sức ra, khuôn mặt, đôi mắt, chiếc mũi, đôi môi, trái tai, màu da, thân thể, chân tay không chỗ nào không giống, tưởng như ngọc tượng sống lại không bằng. Chàng trong những khi mơ mộng nghĩ đến pho tượng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ thấy ngay trước mắt, không còn biết mình đang ở đâu, ở nhân gian hay đang ở trên trời?

Còn cô gái thì lại tưởng chàng bị điên, kêu lên một tiếng, lùi lại hai bước, sợ hãi nói:

- Ngươi ... ngươi ...

Đoàn Dự đứng thẳng lên, mắt nhìn trừng trừng vào cô gái, lúc này nhìn càng rõ hơn, bấy giờ mới biết, thiếu nữ so với pho tượng ngọc cũng có đôi phần khác biệt: pho tượng diễm lệ linh động trong thần tình có vẻ như thu hồn nhiếp phách người ta, còn cô gái trước mặt đây có vẻ đoan trang xen lẫn nét thơ ngây, ngoài hình dáng ra, pho tượng so với thiếu nữ này cũng linh hoạt hơn. Chàng bèn nói:

- Từ ngày được bái kiến tiên phạm thần tiên tỉ tỉ trong thạch động, tiểu sinh mừng thầm phúc lộc của mình không ít, ngờ đâu hôm nay lại còn được tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan. Thế gian quả có tiên thật, không phải là chuyện hoang đường.

Thiếu nữ quay sang nói với Tiểu Mính:

- Y nói chi rứa? Y ... là ai?

Tiểu Mính đáp:

- Y là gã đồ gàn A Châu, A Bích đưa tới. Y nói y biết trồng hoa trà, phu nhân cũng tin y nói nhăng nói cuội.

Cô gái hỏi Đoàn Dự:

- Anh đồ gàn, hồi nãy bọn ta nói chuyện với nhau, ngươi có nghe thấy không?

Đoàn Dự cười đáp:

- Tiểu sinh họ Đoàn, tên Dự, người Đại Lý, đâu có phải là anh đồ gàn. Thần tiên tỉ tỉ và Tiểu Mính tỉ tỉ đây nói chuyện, tôi vô ý nghe thấy cả. Thế nhưng hai vị cứ yên tâm, tiểu sinh nhất định không tiết lộ một câu nửa chữ, bảo đảm Tiểu Mính tỉ tỉ sẽ không bị phu nhân trách phạt.

Thiếu nữ mặt hơi sầm xuống nói:

- Ai cho ngươi tỉ tỉ muội muội gọi càn? Nếu ngươi không nhận mình là anh đồ gàn thì ngươi đã gặp ta bao giờ?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Nếu như tiểu sinh không gọi là thần tiên tỉ tỉ thì gọi là gì bây giờ?

Thiếu nữ đáp:

- Ta họ Vương, ngươi gọi ta là Vương cô nương được rồi.

Đoàn Dự lắc đầu:

- Không được! Không được! Trên đời này con gái họ Vương có hàng nghìn hàng vạn, người đẹp như tiên thế kia không lẽ chỉ gọi xuông ba chữ Vương cô nương? Thế thì phải gọi cô là gì nhỉ? Thật khó quá. Gọi cô là Vương tiên tử chăng? Xem ra có vẻ quê mùa quá. Hay là Mạn Đà công chúa? Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Thổ Phồn, Tây Hạ nước nào chẳng có công chúa? Làm sao có người nào sánh được với cô đâu?

Thiếu nữ kia nghe chàng nói lảm nhảm, càng nghe càng thấy quả thực gàn dở, nhưng có điều nghe người ta hồn vía điên đảo ca tụng sắc đẹp mình, nên ít nhiều cũng cảm thấy sung sướng, mỉm cười nói:

- Cũng may cho anh, không bị mạ tôi chặt hai chân.

Đoàn Dự đáp:

- Lệnh đường phu nhân dung mạo cũng không khác gì thần tiên tỉ tỉ, có điều tính tình khác thường, hơi một tí là giết người, xem ra không xứng với dáng dấp thần tiên ...

Cô gái hơi nhướng mày nói:

- Thôi anh đi trồng hoa đi, đừng ở đây lải nhải nữa, bọn ta cũng có chuyện cần phải bàn.

Lối nói của nàng quả xem chàng như mọi người phu trồng hoa tầm thường khác. Đoàn Dự vẫn chẳng chịu thôi, chỉ muốn được nói chuyện với nàng thêm vài câu, được nhìn nàng thêm một vài lần nghĩ bụng: "Muốn cho nàng bằng lòng nói chuyện với ta thì chỉ có cách nói về Mộ Dung công tử, ngoài cách đó ra, chẳng có chuyện gì khiến nàng phải quan tâm". Chàng bèn nói:

- Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, trong chùa cao tăng hảo thủ không một nghìn thì cũng tám trăm, phần lớn đều tinh thông bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Lần này Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị người ta hạ độc thủ giết chết ở chùa Thân Giới, châu Lục Lương, nước Đại Lý, các hòa thượng cho rằng do tay Cô Tô Mộ Dung. Mộ Dung công tử một thân một mình mạo hiểm thật là bất ổn.

Cô gái quả nhiên giật mình, Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, trong bụng nghĩ thầm: "Nàng lo lắng cho gã tiểu tử Mộ Dung Phục kia như thế, nếu như nhìn vào mặt nàng, không chừng ta ghen tức đến chảy nước mắt mất". Chàng thấy tà áo màu cánh sen của nàng hơi rung rung, rồi tiếng nói thánh thót như tiếng tiêu của nàng hỏi:

- Tại sao các hòa thượng chùa Thiếu Lâm lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung? Anh có biết không? Anh ... anh cho tôi biết.

Đoàn Dự nghe lời nàng thiết tha năn nỉ, cũng thấy mềm lòng, đang định cho nàng hay những gì mình biết nhưng chợt nghĩ lại: "Những gì mình biết chẳng là bao nhiêu, chỉ biết Huyền Bi đại sư bị trúng phải Vi Đà Chử mà chết, ai ai cũng bảo đó là thuật "Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" trong thiên hạ chỉ có họ Mộ Dung ở Cô Tô có mà thôi. Bao nhiêu tình tiết đó chỉ vài câu là hết, mình nói xong là nàng lại giục mình đi trồng hoa, kiếm được đề tài khác nói chuyện với nàng thật không phải dễ. Thành ra mình phải nói dông nói dài, mỗi ngày chỉ nói một tí, huyên thuyên đông tây, không ra đầu đuôi gì, muốn dài là dài để nàng ngày nào cũng phải đến tìm ta, tìm không thấy là bồn chồn khó chịu".

Chàng đằng hắng một tiếng nói:

- Bản thân tôi vốn không biết võ công, ngay cả những chiêu thế thật dễ dàng như Kim Kê Độc Lập, Hắc Hổ Thâu Tâm cũng chẳng biết, thế nhưng trong nhà có một người bạn, họ Chu tên là Chu Đan Thần, ngoại hiệu là Bút Nghiễn Sinh, trông người cũng văn nhược nho nhã như tôi, ai cũng bảo là một con mọt sách, vậy mà võ công ông ta thực là ghê gớm. Một hôm nọ tôi thấy ông ta gấp cái quạt, đổi ngược chiều, dùng cán quạt điểm vào đầu vai đại hán nọ nghe bịch một cái, anh chàng kia lập tức rúm người lại, sụm xuống như một cục đất nát, không còn động đậy gì được nữa.

Thiếu nữ nói:

- Ồ, đó là chiêu thứ ba mươi tám trong phép đả huyệt Thanh Lương Phiến, tên là Thấu Cốt Phiến, đảo ngược cán quạt đánh xéo vào huyệt Kiên Trinh. Vị Chu tiên sinh đó thuộc bàng chi của phái Côn Lôn, đệ tử Tam Nhân Quan, phái đó dùng phán quan bút còn ghê gớm hơn dùng cán quạt nhiều. Thôi anh đi thẳng vào chuyện chính đi, đừng nói chuyện võ công nữa.

Câu nói đó nếu như vào tai Chu Đan Thần, y thể nào cũng bội phục lạy phục xuống, thiếu nữ không những nói được tên thủ pháp y dùng, lại cả sư thừa lai lịch, võ học gia số cũng nói đâu ra đấy. Nếu như một võ học danh gia chẳng hạn như bá phụ Đoàn Dự là Đoàn Chính Minh hay phụ thân Đoàn Chính Thuần nghe thấy thể nào cũng hết sức kinh ngạc: "Làm sao một cô gái trẻ tuổi như thế, sao kiến thức võ học lại uyên bác rành mạch thế này?". Thế nhưng Đoàn Dự hoàn toàn không biết võ công, cô gái kia thuận mồm nói ra, chàng cũng không để vào tai. Chàng cũng không biết cô gái nói đúng hay sai, chỉ chăm chăm nhìn vào đôi hàng mi hơi nhướng lên, đôi môi đỏ thắm mấp máy, đúng cũng được mà sai cũng chẳng sao, không để tâm.

Thiếu nữ hỏi lại:

- Thế vị Chu tiên sinh đó rồi ra sao?

Đoàn Dự chỉ vào một tảng đá bên cạnh hàng trúc nói:

- Câu chuyện này nói ra cũng dài, xin tiểu thư dời gót ngọc, đến ngồi trên tảng đá kia, để cho tiểu sinh được bẩm báo rõ ràng.

Thiếu nữ đáp:

- Sao anh cứ ba hoa chích chòe, không nói phứt ra cho xong? Tôi chẳng có hơi đâu mà ngồi nghe anh mãi.

Đoàn Dự đáp:

- Nếu như hôm nay tiểu thư bận thì ngày mai đi tìm tôi cũng được. Còn như ngày mai cũng bận, để vài ngày nữa cũng không sao. Miễn là phu nhân không cắt lưỡi tôi, tiểu thư có gì cần hỏi, nếu biết là tôi không dấu chút nào, nói cho kỳ hết.

Cô gái dậm chân một cái nhè nhẹ, quay đầu đi không nhìn đến chàng nữa hỏi Tiểu Mính:

- Phu nhân còn nói chi nữa không?

Tiểu Mính đáp:

- Phu nhân nói: "Hừ, tên ngỗ nghịch kia càng lúc càng loạn, đã gây thù chuốc oán với Cái Bang, lại đối đầu với cả chùa Thiếu Lâm, chỉ sợ rồi đây Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi chết ... chết không có đất mà chôn".

Cô gái vội nói:

- Mẹ ta biết rõ biểu thiếu gia đang rơi vào cảnh ngộ hung hiểm, sao lại làm lơ không hỏi tới là sao?

Tiểu Mính đáp:

- Dạ phải. Tiểu thư, chỉ sợ phu nhân cho kiếm, tiểu tì xin kiếu thôi. Chuyện mới rồi, tiểu thư tuyệt đối đừng nói ra để cho tì tử còn được hầu hạ tiểu thư vài ba năm.

Cô gái nói:

- Ngươi cứ yên tâm không phải lo chi cả, lẽ nào ta lại hại ngươi hay sao?

Tiểu Mính cáo biệt ra đi, trên mặt lộ vẻ khiếp sợ, Đoàn Dự nghĩ thầm: "Vương phu nhân giết người như ngóe làm cho ai cũng sợ mất vía".

Cô gái khoan thai đi đến tảng đá xanh nhẹ nhàng ngồi xuống nhưng không gọi Đoàn Dự bảo cùng ngồi. Đoàn Dự cũng không dám tự tiện ngồi bên cạnh nàng, thấy khóm bạch trà ngay kề bên cô gái, còn hai cây kia thì hơi xa hơn, mỹ nhân sánh với danh hoa, quả thực xứng hợp nên thở dài một tiếng:

Người thì nghiêng nước nghiêng thành,

Bên hoa nổi tiếng một cành sánh đôi_.

Không được, không được! Năm xưa Lý Thái Bạch lấy hoa thược dược để so sánh với sắc đẹp của nàng Dương Quí Phi, nếu như ông ta có phúc được gặp tiểu thư thì mới biết rằng hoa kia tuy có rực rỡ nhưng làm sao biết giận hờn, biết nũng nịu, biết cười đùa, biết ưu tư, thực không thể nào bì kịp.

Thiếu nữ buồn bã nói:

- Anh cứ luôn mồm tấm tắc khen tôi đẹp, tôi chẳng biết anh nói thật hay không?

Đoàn Dự hết sức ngạc nhiên, nói:

- Ai không biết Tử Đô là đẹp thì đúng là không có mắt._ Đến đàn ông còn như thế, huống chi một người diễm lệ tuyệt trần như cô nương? Chắc là trong đời cô nghe nhiều người ca tụng quá rồi nên chán ngấy phải không?

Cô gái chậm rãi lắc đầu, trong ánh mắt dường như đầy nỗi u hoài, nói:

- Từ trước tới giờ chẳng ai bảo tôi đẹp hay không đẹp. Trong Mạn Đà Sơn Trang này, ngoài mạ tôi ra, toàn là tì nữ bộc phụ, họ chỉ biết tôi là tiểu thư, có ai để ý tôi đẹp hay xấu làm gì?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế còn người ngoài thì sao?

Thiếu nữ ngạc nhiên:

- Người ngoài là ai?

Đoàn Dự đáp:

- Thế khi cô đi ra ngoài, người ta thấy cô đẹp như tiên trên trời, chẳng lẽ không tấm tắc khen ngợi, cúi đầu chào hay sao?

Cô gái nói:

- Tôi trước nay đã đi ra ngoài bao giờ đâu, ra để làm chi? Mẹ tôi không cho tôi ra ngoài. Tôi chỉ sang Hoàn Thi Thủy Các bên nhà cô tôi đọc sách thôi, chẳng gặp ai là người ngoài cả, bất quá chỉ có vài người bạn của anh ấy như Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Bao tam ca, Phong tứ ca, nhưng họ ... nhưng họ đâu có gàn gàn dở dở như anh.

Nàng nói tới đó bất giác mỉm cười. Đoàn Dự hỏi:

- Không lẽ Mộ Dung công tử ... y cũng chẳng nói cô đẹp bao giờ ư?

Cô gái chầm chậm cúi đầu, nghe một tiếc tích thật nhỏ, kế đến một tiếng tích nữa, mấy giọt nước mắt rơi xuống cỏ, trong trẻo lấp lánh, chẳng khác gì những giọt sương buổi sớm.

Đoàn Dự không dám hỏi thêm, cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng. Một lát sau, thiếu nữ nhè nhẹ thở dài nói:

- Anh ấy ... anh ấy bận lắm, suốt cả năm, ngày nào cũng từ sáng tới tối có lúc nào ở không mô? Mỗi khi anh ấy gặp tôi, nếu không bàn luận võ công thì cũng nói chuyện quốc gia đại sự. Tôi ... tôi chán ghét võ công.

Đoàn Dự vỗ đùi, kêu lên:

- Đúng đó, đúng đó! Tôi cũng ghét học võ. Bá phụ và gia gia tôi bắt tôi học võ, tôi nhất định không học, đành phải len lén bỏ nhà ra đi.

Cô gái thở dài một tiếng, nói:

- Tôi vì muốn thỉnh thoảng được gặp anh ấy nên dù chán ghét võ công, cũng phải xem quyền kinh đao phổ, cố gắng nhớ trong lòng, để anh ấy chỗ nào không hiểu rõ tôi nói cho anh ấy nghe. Thế nhưng chính tôi thì lại không học, làm thân con gái mà múa đao đánh gậy, xem ra bất nhã ...

Đoàn Dự tự đáy lòng nức nở khen một câu:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Người đẹp thiên hạ vô song như cô, lẽ nào lại cùng người ta động thủ động cước, thật chẳng còn ra đâu vào đâu. Ối chà ...

Chàng đột nhiên nghĩ ra, câu nói đó xúc phạm tới mẹ ruột mình. Thiếu nữ không để ý đến chàng nói gì, nói tiếp:

- Từ nghìn xưa đến nay bao nhiêu triều đại vua chúa hôm nay ngươi giết ta, ngày mai ta giết ngươi, tôi thật không muốn biết đến làm gì. Thế nhưng đó là chuyện anh ấy thích nói đến nhất, thành ra tôi phải đọc sách để nói cho anh ta nghe.

Đoàn Dự lạ lùng:

- Vì sao cô lại phải đọc để nói lại cho anh ta nghe? Anh ta không đọc lấy được ư?

Cô gái lườm chàng, giận dỗi nói:

- Thế anh bảo anh ấy mù hay sao? Hay là anh ấy không biết chữ?

Đoàn Dự vội đáp:

- Không, không đâu! Tôi bảo anh ta là người tốt nhất trên đời, thế có được không nào?

Thiếu nữ bật cười nói:

- Anh ấy là anh họ tôi. Trong trang viện ngoài cô, dượng và anh ấy ra, rất ít khi có người ngoài. Thế nhưng từ khi dượng tôi qua đời, mạ tôi với cô tôi cãi nhau, thành thử ngay cả biểu ca mạ tôi cũng không cho qua nữa. Tôi cũng chẳng biết anh ấy có phải là người tốt nhất trên đời hay không. Người tốt hay người xấu tôi chẳng gặp ai bao giờ.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế sao cô không hỏi cha cô?

Cô gái đáp:

- Cha tôi mất sớm, từ lúc tôi chưa ra đời, tôi ... tôi chưa từng gặp cha tôi bao giờ.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng:

- Thế bà cô là chị của cha cô, còn ông dượng là chồng của bà ấy chứ gì? Anh ta ... anh ta ... là con của hai người đó phải không?

Thiếu nữ cười khúc khích:

- Nghe anh ăn nói lẩn thẩn làm sao ấy! Tôi là con của mẹ tôi, anh ta là biểu ca của tôi.

Đoàn Dự thấy câu chuyện khiến nàng bật cười, rất là cao hứng bèn nói:

- À, tôi hiểu rồi, chắc là biểu ca cô bận quá không có thì giờ đọc sách nên cô phải đọc giùm chứ gì?

Cô gái nói:

- Nói thế cũng đúng nhưng ngoài ra còn có nguyên nhân. Tôi hỏi anh, những hòa thượng chùa Thiếu Lâm vì cớ gì lại đổ oan cho biểu ca tôi giết người của họ?

Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của nàng còn lưu một giọt nước mắt, nghĩ thầm: "Người xưa có nói: Lê hoa nhất chi xuân đái vũ để ví với người đẹp đang khóc. Hoa lê tuy đẹp thật nhưng cây lê lại xù xì, sau trận mưa rồi, đóa hoa nào cũng đẫm nước, có phải quá đau lòng không? Chỉ có thể như Vương cô nương giống như đóa hoa trà điểm thêm giọt sương buổi sáng, thế mới thật là đẹp".

Cô gái đợi một hồi thấy chàng không trả lời, bèn lay bàn tay chàng một cái nói:

- Anh sao rứa?

Đoàn Dự giật mình, nhảy dựng lên, kêu:

- Ối trời!

Thiếu nữ thấy chàng hoảng hốt vội hỏi:

- Chi rứa?

Đoàn Dự mặt đỏ bừng nói:

- Cô lấy ngón tay đâm vào lưng bàn tay, tôi lại tưởng là bị cô điểm huyệt.

Cô gái không biết là Đoàn Dự nói đùa, giương tròn đôi mắt nhìn chàng nói:

- Trên lưng bàn tay làm gì có huyệt đạo. Dịch Môn, Trung Chử, Dương Trì ba huyệt ở bên cạnh bàn tay, hai huyệt Tiền Khoát, Dưỡng Lão thì gần cổ tay, còn cách xa lắm.

Nàng vừa nói vừa đưa tay mình ra để chỉ cho Chàng. Đoàn Dự thấy ngón tay trỏ của nàng trông như búp măng, để lên lưng bàn tay phải trắng muốt, cảm thấy cổ khô, đầu óc quay cuồng, ấp úng hỏi:

- Cô ... cô nương, tên cô là gì?

Cô gái mỉm cười nói:

- Anh ni quả là lạ lùng. Được rồi, cho anh biết cũng được không sao. Nếu tôi không nói, A Châu, A Bích hai đứa a đầu kia cũng nói.

Nàng giơ ngón tay làm bút viết lên lưng bàn tay mình ba chữ: Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kêu lên:

- Hay thật! Hay thật! Ngữ tiếu yên nhiên, hòa ái khả thân.

Chàng nghĩ thầm: "Mình phải nói chặn trước chứ nếu như nàng giống tính mẹ, đang nói cười vui vẻ, tự nhiên nổi cơn tam bành, bắt mình đi trồng hoa thì tên với người chẳng ăn khớp nhau tí nào". Vương Ngữ Yên mỉm cười:

- Tên đặt thì ai mà chẳng hay. Trong sử sách có biết bao nhiêu người đại gian đại ác, tên lại nghe thật đẹp. Tào Tháo có tiết tháo gì đâu, Chu Toàn Trung thì lại đại bất trung. Tên anh là Đoàn Dự, tên tuổi anh có thật là vang lừng không? Hay lại chỉ là kẻ cô danh ...

Đoàn Dự liền chặn lời:

- ... điếu dự!

Hai người cùng cười khanh khách. Khuôn mặt xinh đẹp của Vương Ngữ Yên vốn dĩ nhuốm chút u sầu, bây giờ trông thật rạng rỡ càng tăng thêm vẻ kiều diễm. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Nếu như ta ngày ngày được làm cho nàng vui thì trên đời này còn cầu gì hơn nữa?".

Ngờ đâu cô gái chỉ vui được chốc lát rồi ánh mắt lại thoáng hiện một nỗi buồn u uẩn, nhỏ nhẹ nói:

- Anh ấy ... anh ấy lúc nào cũng nghiêm trang, chưa từng bao giờ nói chuyện chơi với tôi cả. Ôi! Nước Yên, nước Yên, không lẽ quan trọng đến thế hay sao?

Hai tiếng "nước Yên, nước Yên" lọt vào tai trong đầu Đoàn Dự chợt lóe lên, bao nhiêu những mảnh vụn chợt liền lại thành một chuỗi: nào là họ Mộ Dung, Yến Tử Ổ, Tham Hợp Trang, Yên quốc ... chàng liền buột miệng:

- Phải chăng Mộ Dung công tử là hậu đại của giòng Mộ Dung Tiên Ti thời loạn Ngũ Hồ? Y là người Hồ, không phải người Trung Quốc?

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Đúng vậy, anh ta là vương tôn nước Yên họ Mộ Dung nhưng đã mấy trăm năm rồi, cớ chi phải khắc khoải chuyện xưa của ông cha làm chi nữa? Không phải là người Trung Quốc, đến chữ Trung Quốc cũng không thèm học, sách Trung Quốc cũng không thèm đọc. Tôi không biết nữa, sách Tàu có gì không hay đâu? Có lần tôi hỏi anh ấy: "Biểu ca, anh bảo sách Tàu không hay, thế có sách Tiên Ti nào cho tiểu muội đọc chăng?". Anh ấy nghe vậy nổi giận đùng đùng, hóa ra không có sách gì của người Tiên Ti cả.

Nàng chậm rãi ngước đầu lên, nhìn những đám mây trắng trôi lững lờ, nhỏ nhẹ nói:

- Anh ấy ... anh ấy hơn tôi mười tuổi, trước nay chỉ coi tôi như một cô em gái nhỏ, nên tôi nghĩ ngoài việc đọc sách, nhớ những võ công ra không còn biết gì khác. Anh ta có biết đâu, tôi đọc sách cũng chỉ vì anh ta, nhớ võ công cũng chỉ vì anh ta. Nếu không thà rằng tôi nuôi mấy con gà, đánh đàn, viết chữ còn vui hơn.

Đoàn Dự run run hỏi:

- Thế ra anh ta hoàn toàn không biết ... không biết cô có lòng như vậy sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tôi có lòng với anh ấy, đương nhiên anh ta phải biết chứ! Anh ấy cũng thương tôi lắm, có điều ... có điều ... chúng tôi đối với nhau chỉ như anh em ruột, ngoài những chuyện nghiêm trang ra không bao giờ nói chuyện gì khác. Anh ấy chẳng bao giờ thổ lộ tâm tư, cũng chẳng bao giờ hỏi tôi bụng dạ ra sao.

Nói tới đây, đôi má Vương Ngữ Yên thoáng hiện sắc hồng, trong ánh mắt dường như có vẻ thẹn thùng. Đoàn Dự vốn cũng muốn nói chuyện vui với nàng đôi câu toan gặng hỏi: "Thế cô có tâm sự gì?" nhưng thấy nàng nhu mì e ấp nên không dám đường đột trêu ghẹo giai nhân, bèn nói:

- Chẳng lẽ cô chỉ nói chuyện về võ học với anh ta, không nói tới những khúc Tí Dạ Ca, Hội Chân Thi trong thi từ hay sao?

Chàng buột miệng nói ra chợt thấy hối hận: "Cứ để nàng thầm yêu trộm nhớ, tới đâu hay đó chẳng hơn sao? Lẽ nào ta lại vẽ đường cho hươu chạy như thế? Mình đúng là một thằng ngốc". Vương Ngữ Yên lại càng ngượng ngập, vội nói:

- Ai ... ai lại thế? Tôi là khuê nữ con nhà gia giáo, lẽ nào nói tới những chuyện ... thơ văn đó để biểu ca coi thường mình sao?

Đoàn Dự thở phào nói:

- Phải, cô nói đúng lắm.

Trong bụng tự trách thầm mình: "Đoàn Dự ơi, ngươi thật chẳng phải là kẻ chính nhân quân tử chút nào". Nỗi niềm đó của Vương Ngữ Yên trước nay nàng chưa từng nói với ai, chỉ giấu kín trong lòng một mình nghĩ, một mình mình hay, biết bao lần trăn trở, hôm nay gặp Đoàn Dự một người dễ tính đến đâu hay đó chẳng hiểu vì sao nàng lại mười phần tin tưởng, đem hết uẩn khúc trong lòng thổ lộ cho chàng hay. Thực ra, tấm lòng thầm yêu trộm nhớ biểu ca của nàng, A Châu, A Bích và cả đến Tiểu Trà, Tiểu Mính, U Thảo những đứa đầy tớ trong nhà ai cũng biết cả, có điều không dám nói ra thôi.

Nàng nói ra hết rồi, những nỗi sầu chất chứa trong tim vơi đi bèn nói:

- Tôi nói cho anh nghe nhiều chuyện không liên can gì mà chưa vào chuyện chính. Chùa Thiếu Lâm vì cớ gì làm khó biểu ca tôi?

Đoàn Dự thấy không còn có thể nói năng cù nhầy thêm được nữa đành kể:

- Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một người sư đệ tên là Huyền Bi. Môn võ công tinh diệu nhất của Huyền Bi đại sư là Vi Đà Chử.

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Đó là tuyệt nghệ thứ bốn mươi tám trong bảy mươi hai môn của chùa Thiếu Lâm, tất cả có mười chín chiêu chử pháp, khi thi triển cực kỳ uy mãnh.

Đoàn Dự nói tiếp:

- Huyền Bi đại sư đi đến Đại Lý chúng tôi, tại chùa Thân Giới ở Lục Lương Châu không biết vì sao bị người ta giết chết, thủ pháp đả thương chính là môn Vi Đà Chử sở trường của ông ta. Thành thử họ mới nói rằng, cái lối giết người đó chỉ có họ Cô Tô Mộ Dung mới có thôi, gọi là cái gì "dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân".

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Nói thế nghe cũng có lý.

Đoàn Dự nói tiếp:

- Ngoài phái Thiếu Lâm ra cũng còn nhiều người khác muốn tìm họ Mộ Dung báo thù.

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Còn những ai nữa?

Đoàn Dự đáp:

- Phái Phục Ngưu có một người tên là Kha Bách Tuế, môn võ công tuyệt nghệ của ông ta là Thiên Linh Thiên Liệt.

Vương Ngữ Yên nói:

- Ồ, đó là biến chiêu thứ tư trong hai mươi chín chiêu Bách Thắng Nhuyễn Tiên của phái Phục Ngưu, tuy chiêu pháp có kỳ lạ thực nhưng không phải là võ công thượng thừa, chỉ được cái lực đạo cực kỳ cương mãnh thôi.

Đoàn Dự nói:

- Ông ta chết vì một chiêu Thiên Linh Thiên Liệt, thành ra sư đệ vào học trò ông ta đang kiếm nhà Mộ Dung để trả thù.

Vương Ngữ Yên trầm ngâm rồi đáp:

- Kha Bách Tuế rất có thể do biểu ca tôi giết, còn Huyền Bi đại sư thì không phải đâu. Biểu ca tôi không biết sử dụng Vi Đà Chử, môn võ công đó luyện rất khó. Thế nhưng nếu anh có gặp biểu ca tôi thì đừng có nói là anh ấy không biết môn này, cũng chớ có nói là tôi bảo thế, anh ấy mà nghe được thì giận lắm đó...

Hai người vừa nói đến đây bỗng thấy hai người hấp tấp chạy đến, chính là Tiểu Mính và U Thảo. Gương mặt U Thảo cực kỳ kinh hoàng, thở không ra hơi lắp bắp:

- Tiểu thư, không ... không xong rồi! Phu nhân ra lệnh đem A Châu, A Bích hai người ...

Cô gái nói tới đây cổ họng nghẹn lại không ra hơi. Tiểu Mính vội tiếp:

- Đem hai người ra chặt hai tay phải vì tội dám tự tiện vào Mạn Đà Sơn Trang. Phu nhân lại bảo rằng nếu bà gặp hai con a đầu kia lần nữa thì sẽ chặt đầu. Bây chừ ... biết mần răng?

Đoàn Dự vội nói:

- Vương cô nương, cô ...cô mau tìm cách cứu họ đi!

Vương Ngữ Yên cũng thật là bối rối, nhíu mày nói:

- A Châu, A Bích là hai thị tì tâm phúc của biểu ca, nếu làm thương tổn đến thân thể họ, ta còn mặt mũi nào nhìn anh ta? U Thảo, bọn nớ ở mô?

U Thảo chơi rất thân với A Châu, A Bích nghe thấy tiểu thư có ý muốn cứu cũng cảm thấy có chút hi vọng vội nói:

- Phu nhân sai đem hai đứa xuống Hoa Phì Phòng_, tiểu tì đã xin Nghiêm bà bà hoãn lại một chút đừng ra tay vội, bây chừ đến xin phu nhân tha cho may ra còn kịp.

Vương Ngữ Yên nghĩ bụng: "Xin với mẹ ta tha cho thật khó mà được. Thế nhưng ngoài cách đó không còn cách nào khác". Nàng bèn gật đầu cùng U Thảo, Tiểu Mính hai tì nữ đi ngay. Đoàn Dự nhìn theo tấm lưng uyển chuyển của nàng, tính chạy theo nói mấy câu nhưng vừa dợm bước thấy mình chẳng còn gì để nói, đứng ngẩn ngơ, nghĩ lại câu chuyện mình cùng nàng vừa trao đổi bỗng dưng đờ đẫn.

Vương Ngữ Yên hấp tấp đi lên phòng trên thấy mẹ đang ngồi nghiêng nghiêng dựa lưng trên giường, ngắm một bức tranh hoa sơn trà trên tường đến xuất thần, vội gọi khẽ một tiếng:

- Mạ!

Vương phu nhân chậm rãi quay đầu, gương mặt đanh lại nói:

- Con muốn nói chuyện chi? Nếu liên quan đến nhà Mộ Dung thì ta không nghe đâu nhé.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thưa mạ, A Châu và A Bích lần này có phải cố ý đến đâu, xin mạ tha cho bọn chúng một chuyến.

Vương phu nhân hỏi lại:

- Mần răng con biết chúng không phải cố ý đến? Ta chặt tay hai đứa nớ, con sợ biểu ca con không nhìn con nữa chớ gì?

Vương Ngữ Yên nước mắt rưng rưng nói:

- Biểu ca là cháu của cha con, mạ ... mạ ... sao ghét anh ấy quá vậy?_ Nếu như cô có đắc tội với mạ, mạ cũng đừng vì thế mà giận lây đến biểu ca.

Nàng thu hết can đảm nói được mấy câu đó, trống ngực đánh thình thình, thấy mình sao quả là liều mạng đám mở lời chống báng lại mẫu thân. Đôi mắt Vương phu nhân như một luồng điện lạnh lẽo quét qua mặt con mấy lần lặng thinh không nói gì cả rồi nhắm lại. Vương Ngữ Yên sợ quá không dám thở mạnh, không biết trong bụng mẹ mình định thế nào. Một lúc sau, Vương phu nhân mở mắt ra nói:

- Mi làm sao biết được cô ngươi đắc tội với ta? Mụ ta đắc tội thế nào?

Vương Ngữ Yên thấy giọng mẹ lạnh như tiền, sợ đến mất mật không sao trả lời được. Vương phu nhân nói:

- Mi giỏi lắm! Bây giờ mi lớn rồi không còn nghe ta nữa phải không?

Vương Ngữ Yên vừa tức tối vừa hoảng hốt, nước mắt ròng ròng chảy xuống, nghẹn ngào nói:

- Thưa mạ, mạ ... mạ giận cô như thế thì hẳn là cô có điều gì không phải với mạ. Thế nhưng không phải thế nào, mạ có bao giờ nói cho con nghe đâu. Bây giờ cô qua đời rồi, mạ ... mạ đừng nhớ chuyện cũ làm gì nữa.

Vương phu nhân gắt:

- Con nghe ai nói vậy?

Vương Ngữ Yên lắc đầu:

- Mạ chưa hề nói với con, cũng chẳng cho ai vào đây, con nghe ai nói bây giờ?

Vương phu nhân thở dài một tiếng, khuôn mặt đang gay gắt bỗng chùng lại, giọng cũng dịu xuống:

- Mạ làm thế cũng chỉ vì con thôi. Trên đời ngày người xấu thật nhiều, giết sao cho hết được, con còn nhỏ chỉ là một đứa trẻ ngây thơ tốt hơn hết không gặp kẻ xấu.

Nói đến đây bà chợ nhớ ra một chuyện, bèn nói:

- Gã trồng hoa họ Đoàn mới đến đây, mồm miệng lanh lợi, không phải là kẻ tốt. Nếu nó lân la nói với con một câu, lập tức sai thị tì giết ngay, không cho nói câu thứ hai, con nghe chưa?

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: "Nói gì một câu với lại hai câu, y nói chuyện với mình có đến cả trăm câu, hai trăm câu rồi". Vương phu nhân nói:

- Sao? Coi bộ mặt hiền lành, bụng dạ nhân hậu như con không biết rồi đây sẽ phải chịu bao nhiêu khổ sở.

Bà vỗ tay hai tiếng, Tiểu Mính liền chạy vào. Vương phu nhân nói:

- Ngươi truyền lệnh ta, ai nói chuyện với tên trồng hoa họ Đoàn một câu thì cả hai đều bị cắt lưỡi.

Tiểu Mính thần sắc ngỡ ngàng, tưởng chừng như Vương phu nhân nói đây là chuyện giết con gà, con chó gì đó chứ không phải con người, dạ một tiếng rồi lập tức lui ra. Vương phu nhân quay sang con vẫy tay:

- Con cũng đi ra.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Dạ!

Nàng đi đến cửa, ngừng lại một chút, quay lại nói:

- Thưa mạ, xin mạ tha cho A Châu, A Bích bảo chúng nó từ nay không bao giờ được bén mảng tới.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Ta có bao giờ nói ra rồi lại không tính đâu? Con có nói thêm cũng vô ích.

Vương Ngữ Yên cắn răng, nói khẽ:

- Con biết vì sao mạ giận cô, vì sao mạ ghét biểu ca rồi.

Nàng nhè nhẹ dậm chân một cái định ra khỏi phòng. Vương phu nhân gọi giật lại:

- Quay lại!

Hai tiếng đó không có gì lớn nhưng đầy vẻ uy nghiêm. Vương Ngữ Yên quay trở vào, cúi đầu lặng thinh. Vương phu nhân chăm chăm nhìn làn khói xanh biếc trong chiếc lò hương lững lờ bay lên, hỏi nhỏ:

- Yên nhi, con biết những gì? Không được dấu mẹ, nói hết tất cả cho ta nghe.

Vương Ngữ Yên cắn môi nói:

- Cô trách mạ giết người bừa bãi, đắc tội với quan nha lại kết oán gây thù với võ lâm.

Vương phu nhân đáp:

- Đúng đó! Chuyện này là chuyện riêng của nhà họ Vương, có liên can gì đến nhà Mộ Dung đâu? Bà ấy bất quá chỉ là chị của cha con, có quyền hành gì mà ước thúc ta? Hứ, họ Mộ Dung mấy trăm năm nay, lúc nào cũng mơ chuyện "hưng phục Yên quốc", tính chuyện liên lạc anh hùng hào kiệt để họ sai sử. Liên lạc chưa xong lại gây gỗ với người ta, đến cả Cái Bang và phái Thiếu Lâm cũng đắc tội với họ nữa.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thưa mạ, Huyền Bi hòa thượng của phái Thiếu Lâm nhất định không phải do biểu ca giết, anh ấy đâu có biết ...

Nàng vừa toan đề cập đến ba tiếng Vi Đà Chử vội vàng nín bặt, nếu như mẫu thân tra hỏi ở đâu ra thì Đoàn Dự khó mà thoát khỏi cái họa sát thân nên nói trớ ra:

- ... võ công chưa tới được mức đó.

Vương phu nhân nói:

- Phải đó! Lần này y lên chùa Thiếu Lâm. Chắc là mấy con a đầu lắm chuyện đó kể cho con nghe chứ gì? Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong, gớm, tên tuổi lẫy lừng quá hỉ? Thế nhưng một Mộ Dung Phục, thêm gã Đặng Bách Xuyên lên chùa Thiếu Lâm thì làm được chuyện gì? Thật là không biết lượng sức mình.

Vương Ngữ Yên tiến lên mấy bước, khẩn khoản nói:

- Mạ ơi, sao mạ không nghĩ cách nào cứu anh ấy một phen, sai người tới tiếp ứng được không mạ? Anh ấy ... anh ấy là con trai duy nhất của dòng Mộ Dung, nếu như có gì bất trắc, Cô Tô Mộ Dung ắt sẽ không còn ai nối dõi.

Vương phu nhân cười khẩy:

- Cô Tô Mộ Dung, hừ, nhà Mộ Dung có liên can gì đến ta đâu? Bà cô mi nói Hoàn Thi Thủy Các tàng trữ sách vở còn nhiều hơn Lang Hoàn Ngọc Động của nhà này nữa cơ mà, thì để thằng con cưng Mộ Dung Phục của bà ấy đến chùa Thiếu Lâm đại hiển uy phong càng tốt chứ sao.

Vương Ngữ Yên mắt rưng rưng, cúi đầu đi ra, lòng ngổn ngang như mối tơ vò không biết phải tính sao, đi đến hành lang mé tây hiên, bỗng nghe tiếng người hỏi nhỏ:

- Cô nương, chuyện ra sao?

Vương Ngữ Yên ngẩng đầu nhìn lên, hóa ra Đoàn Dự, hoảng hốt nói:

- Anh ... anh chớ có nói chuyện với tôi.

Thì ra Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên đi rồi, tính gàn bướng nổi lên, mê mê mẩn mẩn đi theo cô gái. Chàng ở xa xa đứng chờ, đợi khi nàng từ phòng Vương phu nhân đi ra, lại lẽo đẽo đi theo. Chàng thấy Vương Ngữ Yên mặt mày ủ rũ, biết ngay Vương phu nhân không bằng lòng, liền nói:

- Nếu như phu nhân không đáp ứng, mình phải tìm cách khác.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mẹ tôi không chịu thì còn cách nào nữa mà hỏi? Bà ấy ... bà ấy ... nhất định thõng tay đứng ngoài mặc cho biểu ca gặp nguy nan.

Nàng càng nghĩ càng thêm xót xa, nhịn không nổi nước mắt lại ứa ra. Đoàn Dự nói:

- Ồ, nếu như Mộ Dung công tử đang gặp nguy nan ...

Đột nhiên chàng nghĩ ra một việc bèn hỏi ngay:

- Cô biết võ công nhiều như thế, sao không đích thân đi giúp cho anh ta?

Vương Ngữ Yên giương mắt chăm chăm nhìn chàng, dường như câu nói của Đoàn Dự là một chuyện kỳ quái nhất trên đời, một hồi sau mới nói:

- Tôi ... tôi chỉ biết võ công nhưng chính mình lại không biết sử dụng. Hơn nữa, tôi làm sao mà đi được? Mẹ tôi nhất định không bằng lòng đâu.

Đoàn Dự mỉm cười nói:

- Mẹ cô nhất định là không cho đi rồi, thế nhưng cô không len lén đi được hay sao? Tôi đã từng bỏ nhà ra đi, về sau quay về, cha mẹ tôi cũng không la rầy chi cả.

Vương Ngữ Yên nghe thấy chàng nói thế, xem ra có chút hi vọng thoát được bế tắc, đôi mắt sáng lên, nghĩ thầm: "Đúng đó! Ta len lén đi ra giúp biểu ca". Nàng nghĩ đến mình sẽ vì biểu ca mà phải chịu khổ đau hoạn nạn, trong lòng vừa chua chát, vừa ngọt ngào, lại nghĩ: "Người này nói rằng anh ta đã từng lén bỏ nhà ra đi, ồ, sao trước nay mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này nhỉ?".

Đoàn Dự liếc nhìn thần sắc nàng biết cô gái đã xiêu lòng nên càng hết sức thúc giục, khuyên:

- Thế cô quả chỉ sống trong Mạn Đà Sơn Trang, chưa từng ra ngoài nhìn thấy cuộc đời đầy hoa lệ kia hay sao?

Vương Ngữ Yên lắc đầu:

- Có gì phải đáng xem đâu? Tôi chỉ lo cho biểu ca. Có điều trước nay tôi chưa từng luyện võ, nếu như anh ta gặp nguy hiểm, tôi cũng không giúp được gì.

Đoàn Dự nói:

- Sao cô lại bảo là không giúp được gì? Giúp được nhiều lắm chứ. Khi biểu ca cô động thủ với người ngoài, cô chỉ cần đứng ngoài nói vài câu thì giúp cho anh ta nhiều lắm, cái đó gọi là "đứng ngoài sáng nước". Mới đây chưa lâu tôi xem đánh cờ, người ta trông tưởng thua, tôi đứng ngoài chỉ cho vài nước liền lật ngược tình thế.

Vương Ngữ Yên nghe thấy thật có lý nhưng vẫn chưa đủ can đảm, ngần ngừ đáp:

- Tôi trước nay chưa từng ra khỏi cửa, đâu có biết chùa Thiếu Lâm ở nơi mô?

Đoàn Dự lập tức vớ ngay cơ hội nói:

- Để tôi đưa cô đi, trên đường có chuyện gì, một mình tôi đối phó cho.

Chàng vốn dĩ chẳng có bao nhiêu kinh lịch giang hồ nhưng lúc này đâu có dại gì mà nói ra. Đôi lông mày xinh xắn của Vương Ngữ Yên nhíu lại, nghiêng đầu trầm ngâm không biết tính thế nào cho phải. Đoàn Dự hỏi lại:

- A Châu, A Bích hai người ra sao rồi?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mạ tôi không chịu tha cho họ.

Đoàn Dự tiếp lời:

- Thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu như A Châu, A Bích bị chặt đứt một cánh tay, biểu ca cô thể nào cũng trách cô, chi bằng mình cứu hai người đó ra, cả bốn người cùng đi một lượt.

Vương Ngữ Yên le lưỡi nói:

- Nếu làm chuyện đại nghịch bất đạo như thế lẽ nào mạ tôi để yên? Anh ni thế mà to gan thật!

Đoàn Dự biết rằng ngoài biểu ca nàng ra không chuyện gì có thể lay chuyển được lòng nàng nên giả đò lấy thoái làm tiến nói:

- Nếu đã vậy thì mình phải đi ngay mới được, cứ để cho mẹ cô chặt tay A Châu, A Bích. Sau này nếu như biểu ca cô hỏi đến, cô cứ nói là không biết, tôi nhất quyết không tiết lộ chuyện này đâu.

Vương Ngữ Yên vội nói:

- Sao lại thế được? Như thế có phải là nói láo biểu ca sao?

Nàng trong lòng ngần ngừ nói:

- Ôi, Chu Bích nhị tì nữ là người tâm phúc, phục thị anh ta từ bé, nếu chuyện này xảy ra thì họ Mộ Dung với họ Vương nhà tôi thù oán ngày càng thêm sâu.

Nàng dậm chân một cái nói:

- Thôi anh đi theo tôi vậy.

Đoàn Dự nghe thấy nói "Thôi anh đi theo tôi vậy" thật mừng không để đâu cho hết, trong đời chàng chưa bao giờ nghe câu nào ngọt ngào đến thế, thấy nàng đi về hướng tây bắc liền lẽo đẽo theo sau. Chỉ trong giây lát, Vương Ngữ Yên đã đưa chàng đến một căn nhà đá lớn gọi:

- Nghiêm má má, bà ra đây ta có chuyện cần nói với mụ.

Chỉ nghe thấy từ trong nhà tiếng cười khịt khịt nghe thật quái đản, một giọng nói khàn khàn vọng ra:

- Hảo cô nương, cô đến xem Nghiêm má má làm phân bón đấy hỉ?

Đoàn Dự lúc nãy nghe U Thảo và Tiểu Mính nói A Châu, A Bích bị đưa xuống Hoa Phì Phòng, lúc đó chẳng để ý đến, lúc này nghe giọng nói lạnh lẽo đầy âm khí nhắc tới "phân bón" mới thấy giật mình: "Cái gì mà phân bón? Phải chăng phân để trồng hoa? Chao ôi! Vương phu nhân cực kỳ tàn nhẫn, giết người như ngóe lấy thịt người làm phân bón hoa trà. Không biết mình tới có trễ mất không, hai nàng Châu Bích bị chặt tay rồi thì biết làm thế nào đây?". Tim chàng đập thình thình, mặt mày tái mét không còn một giọt máu.

Vương Ngữ Yên nói:

- Nghiêm má má, mạ tôi có chuyện muốn nói với má má, mụ đi lên ngay.

Người đàn bà trong thạch thất nói:

- Ta đang bận. Phu nhân có chuyện chi gấp gáp mà phải sai tiểu thư đến tận đây?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mạ ta hỏi ... ồ ... bọn nớ đến chưa?

Nàng vừa nói vừa đi vào trong phòng, thấy A Châu và A Bích hai người bị trói vào hai cái cột sắt, trong miệng bị nhét vật gì đó, đôi mắt rưng rưng nhưng không sao nói được. Đoàn Dự thò đầu vào thấy hai nàng chưa sao cả cũng an tâm phần nào, nhìn qua bên kia thì tim lại đập rộn lên. Chỉ thấy một mụ già lụm cụm tay cầm một con dao dài sáng loáng, bên cạnh là một vạc nước đang đun, hơi nước bốc lên ngùn ngụt.

Vương Ngữ Yên nói:

- Nghiêm má má, mạ tôi nói thả hai đứa đó ra có việc cần phải tra hỏi chúng cho rõ ràng đã.

Nghiêm má má quay đầu lại, Đoàn Dự thấy mụ mặt mày gớm ghiếc, ánh mắt đầy sát khí, hai chiếc răng nanh thò ra ngoài tưởng chừng như muốn cắn người ta, đủ biết bụng dạ tàn nhẫn đến chừng nào. Mụ ta gật đầu:

- Được, hỏi xong rồi lại đem xuống đây để chặt tay.

Mụ lẩm bẩm nói một mình: "Nghiêm má má ghét nhất là mấy đứa con gái xinh đẹp. Hai đứa ni có chặt tay rồi vẫn còn đẹp, ta phải nói với phu nhân phải chặt cả hai tay làm phân, lâu nay hoa không được tốt". Đoàn Dự giận quá, nghĩ bụng mụ già này tác ác đa đoan, không biết đã giết bao nhiêu người, tiếc rằng mình trói gà không chặt, nếu không sẽ vả cho mụ ta mấy cái, đánh gãy răng mụ cứu hai nàng Châu Bích ra.

Nghiêm má má tuy già nhưng tai còn thính lắm, Đoàn Dự đứng bên ngoài thở mạnh liền bị mụ ta phát giác ngay, hỏi liền:

- Ai ở ngoài nớ?

Mụ thò đầu ra xem thấy ngay Đoàn Dự liền hầm hầm hỏi:

- Mi là ai?

Đoàn Dự cười nói:

- Ta là người trồng hoa của phu nhân, xuống hỏi Nghiêm má má, đã có phân mới chưa?

Nghiêm má má đáp:

- Mi chờ một chút sẽ có ngay.

Mụ ta quay sang nói với Vương Ngữ Yên:

- Tiểu thư, biểu thiếu gia thương hai đứa ni lắm phải không hè?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Phải đó, mụ không nên làm hại đến hai đứa đó.

Nghiêm má má gật đầu:

- Tiểu thư, phu nhân có dặn là, đem chặt tay phải của hai đứa a đầu này tống ra khỏi trang. Phu nhân còn nói thêm: "Từ nay nếu hai đứa mi còn để cho ta thấy mặt là ta chém đầu liền một khi", có phải không nào?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Đúng đó.

Hai tiếng đó vừa ra khỏi miệng nàng biết ngay mình bị hố vội đưa tay che miệng. Đoàn Dự trong bụng kêu thầm: "Chao ôi! Cô tiểu thư này không biết nói láo rồi".

Cũng may Nghiêm má má dường như già cả nên lú lẫn, không để ý chút nào đến sơ hở trên nói tiếp:

- Tiểu thư, giây trói ni chặt lắm, cô giúp mụ một tay cởi nó ra.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Được rồi!

Nàng tiến đến bên cạnh A Châu, đưa tay cởi giây trói trên cổ tay cô thị tì, bỗng nghe cách một tiếng, từ nơi cột sắt nảy ra một chiếc ngàm kẹp ngay chiếc lưng thon của nàng lại. Vương Ngữ Yên kêu lên một tiếng thất thanh, chiếc ngàm đó choàng vào lưng nàng tuy vẫn còn hở ra mấy tấc nhưng không thể nào thoát thân được.

Đoàn Dự kinh hãi vội vàng chạy vào quát lên:

- Mụ làm gì đó? Có thả tiểu thư ra không nào?

Nghiêm má má cười sằng sặc một cách quái đản nói:

- Phu nhân đã bảo còn gặp hai đứa a đầu này sẽ chặt đầu chúng nó ngay, sao lại còn gọi chúng lên tra hỏi? Phu nhân có biết bao nhiêu là kẻ ăn người làm, cớ chi phải sai tiểu thư đến? Việc này có nhiều điều gì khác lạ. Tiểu thư đợi ở đây một chút để ta đích thân đi lên hỏi lại phu nhân rồi tính sau.

Vương Ngữ Yên giận dữ nói:

- Sao mụ dám hỗn láo thế? Có mau thả ta ra không nào?

Nghiêm má má đáp:

- Tiểu thư, ta đối với phu nhân một dạ trung thành không bao giờ dám làm điều chi sai trái. Cô thái thái nhà Mộ Dung đối với phu nhân chẳng phải chút nào, nói xấu phu nhân nhiều điều, phỉ báng tiếng tăm thanh bạch của phu nhân, phu nhân lộn ruột đã đành mà bọn người dưới chúng ta cũng hận tận xương tủy. Ngày đó nếu như phu nhân chỉ gật đầu một cái, bọn ta lập tức quật mồ cô thái thái lên, lấy xương đem vào Hoa Phì Phòng để bón hoa. Tiểu thư, ta nói cho cô nghe, họ Mộ Dung chẳng có tốt lành chi đâu, hai con a đầu này phu nhân không thể nào tha chúng được. Thế nhưng tiểu thư đã nói vậy thì ta cũng cứ lên hỏi lại phu nhân rồi tính sau, nếu quả đúng là như thế lúc đó mụ sẽ khấu đầu tạ tội, cô đem gia pháp đập vào lưng trừng trị mụ cũng được.

Vương Ngữ Yên hoảng hốt nói:

- Này, này, mụ đừng lên hỏi phu nhân, mạ ta sẽ giận lắm đó.

Nghiêm má má không còn hoài nghi gì nữa, tiểu thư toan tính đánh lận phu nhân giả truyền hiệu lệnh để bảo vệ thị tì biểu ca. Mụ muốn thừa cơ lập công bèn nói:

- Hay lắm, hay lắm, tiểu thư chờ giây lát, ta lên rồi xuống ngay.

Vương Ngữ Yên gọi giật lại:

- Mụ chớ đi, thả ta ra đã rồi tính.

Nghiêm má má nào có để ý gì đến nàng, vội vã đi ra khỏi phòng. Đoàn Dự thấy tình thế cấp bách vội giang tay ra chặn đường mụ ta lại, cười nói:

- Ngươi mau thả tiểu thư ra rồi hãy đi hỏi phu nhân có được không? Mụ là người dưới, không nên đắc tội với tiểu thư.

Nghiêm má má hấp him đôi mắt ti hí, nghiêng đầu qua nói:

- Tên tiểu tử này xem ra cũng có điều gì quấy quá đây.

Mụ vươn tay chộp một cái bắt đúng ngay cổ tay Đoàn Dự lôi chàng xềnh xệch tới cái cột sắt, điều động cơ quan nghe cách một tiếng chiếc ngàm từ trong cột quặp ngay lấy lưng chàng. Đoàn Dự hoảng quá vội vàng lật tay nắm chặt cổ tay mụ nhất định không buông.

Nghiêm má má vừa bị chàng nắm được lập tức thấy nội lực của mình cuồn cuộn tuôn ra, quả thực khó chịu vô cùng, giận dữ quát lên:

- Bỏ tay ra!

Mụ ta vừa lên tiếng nội lực tuôn ra lại càng nhanh hơn, vội hết sức giằng ra nhưng không sao thoát được tay Đoàn Dự, trong bụng kinh hãi kêu lên:

- Xú tiểu tử ... mi làm gì thế? Có bỏ ta ra không nào?

Đoàn Dự đối diện với khuôn mặt xấu xí của mụ già hai bên chỉ cách nhau vài tấc. Lưng chàng đã bị trói chặt vào cây cột sắt, không cách gì có thể ngửng đầu lên, mắt thấy những sợi răng vàng khè nhọn hoắt của mụ tưởng như muốn ngoặp vào cổ họng mình, trong bụng vừa kinh hãi, vừa ghê tởm, nhưng biết rằng tình hình như nghìn cân treo trên sợi tóc, chỉ buông mụ ra thì Vương Ngữ Yên bị trách phạt đã đành mà chính mình cùng Châu Bích hai nàng cũng khó mà sống sót. Chàng đành nhắm mắt không dám nhìn mụ ta nữa. Nghiêm má má yếu ớt kêu:

- Mi ... mi có bỏ ta ra không nào?

Đoàn Dự lúc trước hút nội lực của bảy tên đệ tử phái Vô Lượng mất một thời gian lâu, về sau lại được thêm nhiều cao thủ cho thêm mỗi người một ít nên nội lực chàng càng lúc càng mạnh, sức hút của Bắc Minh thần công càng lúc càng lớn, nên bây giờ hút nội lực của Nghiêm má má chỉ một loáng là xong. Nghiêm má má tuy hung tợn thật nhưng nội lực chẳng được bao nhiêu, chưa đầy thời gian uống một chén trà thì đã thấy uể oải thở không ra hơi rền rĩ:

- Bỏ ... bỏ ta ra, bỏ ... bỏ ... tay ...

Đoàn Dự nói:

- Ngươi mau bấm cơ quan thả ta ra trước.

Nghiêm má má đáp:

- Được! Được!

Mụ ngồi thụp xuống giơ tay vận động cơ quan ở dưới bàn, nghe cách một tiếng chiếc ngàm đang câu quanh người Đoàn Dự thụt về. Đoàn Dự chỉ vào Vương Ngữ Yên và Châu Bích hai người ra lệnh cho mụ ta thả ra.

Nghiêm má má giơ tay bấm cơ quan để mở cho Vương Ngữ Yên, loay hoay một hồi nhưng vẫn không nhúc nhích gì cả. Đoàn Dự giận dữ nói:

- Mụ còn chưa chịu thả tiểu thư ra ư?

Nghiêm má má mếu máo nói:

- Ta ... ta không còn chút hơi sức nào nữa.

Đoàn Dự giơ tay luồn xuống bàn mò vào cơ quan ấn một cái nghe cách một tiếng chiếc vòng đang quặp vào lưng Vương Ngữ Yên từ từ tụt vào trong cột sắt. Đoàn Dự mừng lắm nhưng tay vẫn còn phải nắm chặt Nghiêm má má, cúi xuống nhặt chiếc dao dài cắt đứt dây thừng trói tay A Bích. A Bích cầm lấy con dao cắt dây thừng cho A Châu. Hai người móc hột đào nhét trong miệng ra, vừng mừng vừa sợ không nói được nên lời.

Vương Ngữ Yên giương mắt nhìn Đoàn Dự, thần sắc cực kỳ lạ lùng lại có vẻ khinh thị nói:

- Cớ sao anh lại biết sử dụng Hóa Công đại pháp? Môn công phu dơ bẩn đó học làm chi?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Đó không phải là Hóa Công đại pháp.

Chàng đang toan thuật lại chuyện mình nhưng một phần vì câu chuyện quá dài, hai nữa chưa chắc cô nàng đã tin chi bằng thuận miệng đặt cho một cái tên thì hơn, bèn nói:

- Đây là một công phu gia truyền của họ Đoàn nước Đại Lý chúng tôi tên là Lục Dương Dung Tuyết Công, rút ra từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa mà thành, so với Hóa Công đại pháp thì một bên chính một bên tà, một bên thiện, một bên ác hai bên hoàn toàn không giống nhau.

Vương Ngữ Yên bấy giờ mới tin nở một nụ cười nói:

- Tôi xin lỗi, hóa ra tôi kiến thức hẹp hòi. Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý tôi đã ngưỡng mộ từ lâu, Lục Dương Dung Tuyết Công hôm nay lần đầu mới nghe nói tới, ngày sau thể nào cũng có lúc xin được dạy bảo.

Đoàn Dự thấy mỹ nhân mở mồm xin mình chỉ giáo, quả thật muốn còn chưa xong vội đáp:

- Tiểu thư có chuyện gì cần hỏi, tôi nguyện nói hết cho nghe không dám dấu diếm gì.

A Châu và A Bích có ngờ đâu khi đang nguy ngập lại có Đoàn Dự tới cứu, lại thấy chàng cùng Vương Ngữ Yên hai người nói năng có vẻ hợp nhau quả thật ngạc nhiên. A Châu nói:

- Cô nương, Đoàn công tử, đa tạ hai vị đã đến cứu. Mình nên bắt Nghiêm má má dẫn theo để mụ ta khỏi tiết lộ bí mật.

Nghiêm má má hoảng hốt nghĩ thầm nếu bị hai đứa a đầu này bắt đi, mười phần chết chín kêu lên:

- Tiểu thư, tiểu thư, cô thái thái nhà Mộ Dung nói là phu nhân đi cướp chồng người, còn nói cô ...

A Châu liền đưa tay bóp mồm mụ, tay kia cầm ngay hột đào mình vừa nhả ra nhét luôn vào mồm. Đoàn Dự cười nói:

- Hay lắm, cái đó đúng là môn phong nhà Mộ Dung, gọi là "gậy ông đem đập lưng ông".

Vương Ngữ Yên nói:

- Bọn ta và các ngươi cùng đi xem ...

Nàng nói tới đây vẻ mặt thẹn thùng nói nhỏ:

- ... xem coi anh ấy ... anh ấy mần răng?

Nàng vốn dĩ do dự nhưng sau biến cố này cảm thấy quyết tâm hơn. A Châu mừng rỡ đáp:

- Nếu có cô nương đến tiếp viện, quả thật hay lắm. Vậy thì Nghiêm má má mình chẳng cần đưa theo làm gì.

Hai cô gái xách Nghiêm má má lên, kéo đến chiếc cột sắt, vận động cơ quan dùng ngàm sắt kẹp mụ ta lại. Bốn người lẳng lặng đi ra khỏi cửa, rảo bước đi về phía bờ hồ.

Cũng may trên đường không gặp người tì bộc nào, lên thuyền rồi A Châu, A Bích chèo ngay thuyền về phía mặt hồ. A Châu, A Bích và cả Đoàn Dự cả ba đều cố sức chèo cho nhanh, đến lúc quay lại không còn thấy chút hình ảnh cây cối nào của Mạn Đà Sơn Trang nữa bấy giờ mới thấy yên tâm. Tuy nhiên họ vẫn sợ Vương phu nhân cho khoái thuyền ra đuổi theo nên vẫn không dám ngừng tay.

Chèo một hồi lâu thấy trời đã sâm sẩm tối, khói tỏa trên mặt hồ mỗi lúc một dày, A Châu nói:

- Cô nương, nơi đây cách chỗ tì tử ở không xa, xin cô ghé nghỉ tạm một đêm, bàn lại với nhau xem cách nào đi tìm công tử, thế có được không?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ồ, thế cũng được.

Nàng càng xa Mạn Đà Sơn Trang thì càng thêm trầm mặc. Đoàn Dự thấy gió trên hồ thổi vào tà áo nàng phất phơ, khi hoàng hôn xuống hơi lành lạnh, trong đầu bỗng nhiên cảm thấy thê lương, nỗi vui mừng khi vừa mới ra đi càng lúc càng vơi dần.

Lại chèo thêm một hồi, nhìn vào mặt những bạn đồng hành đã thấy đã mông lung, nơi chân trời phía đông thấy có ánh lửa thấp thoáng. A Bích nói:

- Bên chỗ đèn lửa kia chính là Thính Hương Thủy Tạ nơi ở của chị A Châu.

Chiếc thuyền nhỏ liền chèo thẳng về hướng đó. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Cả cuộc đời này e rằng chẳng còn bao giờ được sống trong tình cảnh buổi hôm nay. Nếu cứ được trên con thuyền du ngoạn lang thang trên mặt hồ như thế này, không bao giờ đến được nơi có đèn lửa kia có phải sung sướng hay không?". Ngay lúc đó trước mắt lóe lên, một ánh sao băng từ dưới chân trời bay xẹt ngang, vạch thành một cái đuôi dài.

Vương Ngữ Yên cúi đầu lẩm nhẩm gì đó, Đoàn Dự nghe không rõ. Trong bóng tối chàng nghe thấy nàng buồn bã thở dài. A Bích dịu dàng nói:

- Cô nương đừng lo, công tử trước nay gặp rủi hóa lành, chưa từng bao giờ gặp chuyện chi nguy hiểm.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Chùa Thiếu Lâm nổi tiếng đã mấy trăm năm qua ắt tài nghệ ghê gớm không thể nào lường được. Chỉ mong các vị cao tăng thông hiểu lý tình, chịu nghe biểu ca giãi bày mọi chuyện. Ta chỉ ngại rằng ... ngại rằng biểu ca tính khí cao ngạo, lời qua tiếng lại xung đột với các hòa thượng, ôi ...

Nàng ngừng lại một chút, nhỏ nhẹ tiếp:

- Mỗi khi ta thấy lưu tinh bay ngang trên trời, ta đều ước nguyện nhưng chưa bao giờ thành.

Người đất Giang Nam trước nay vẫn tin rằng, mỗi khi nhìn thấy sao băng bay ngang bầu trời, nếu như có ước muốn gì trước khi ánh sao tắt đi thì dù khó khăn đến đâu cũng được toại nguyện. Thế nhưng ánh sao chỉ xẹt ngang rồi tắt ngay, chỉ nói được mấy chữ thì sao đã qua rồi, thành thử muôn ngàn năm nay, trẻ em Giang Nam không biết bao nhiêu đứa ôm mộng trong lòng đã từng thất vọng. Vương Ngữ Yên tuy thông hiểu võ học thật nhiều nhưng phần tính tình nhi nữ thì một cô gái quê với một cô nương đất Thái Hồ có khác gì nhau?

Đoàn Dự nghe nàng nói mấy câu đó, trong lòng thấy thật xốn xang, biết rằng nguyện vọng của nàng ắt liên quan đến Mộ Dung công tử, cầu mong cho y bình an vô sự, vạn sự thuận lợi. Chàng chợt tự hỏi trên đời này có người con gái nào vì mình mà thầm ước nguyện gì chăng? Mộc Uyển Thanh trước đây yêu ta sâu đậm thật, nhưng từ khi nàng biết ta là anh trai nàng rồi ắt không còn được cái tâm tình cũ. Không biết trong những ngày vừa qua nàng ở đâu? Đã gặp được tình lang như nguyện chưa? Còn Chung Linh ư? Liệu nàng có biết ta cũng là anh nàng hay không? Dẫu cho không biết, thảng hoặc đôi khi nàng nghĩ đến ta, cùng lắm cũng chỉ rộn ràng trong chốc lát rồi qua đi chứ làm sao có thể canh cánh khắc khoải như Vương cô nương với ý trung nhân của nàng cho được?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com