Phần Không Tên 50
LÍ LUẬN VĂN HỌC
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Quan điểm/ quan niệm sáng tác
+ Là gì:
- Chỗ đứng, điểm nhìn để nhà văn sáng tác.
- Phải được hiện thực hoá trong quá trình sáng tác.
- Được phát biểu trực tiếp hay thể hiện gián tiếp qua các tác phẩm.
- Nhà văn nào cũng có quan điểm/quan niệm sáng tác nhưng để tạo thành một hệ thống có giá trị thì không phải ai cũng làm được.
+ Vai trò:
- Chi phối toàn bộ quá trình sáng tác (lựa chọn đề tài, hình tượng, lựa chọn lối viết, các hình thức nghệ thụât...)
- Phần nào thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn.
+ Ví dụ: Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh: Văn học là vũ khí lợi hại phục vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng.
+ Ứng dụng:
Phân tích quan điểm sáng tác của một nhà văn (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nam Cao...).
2. Phong cách nghệ thuật
+ Là gì:
Là nét riêng có tính hệ thống trong sáng tác của một nhà văn
+ Đặc điểm:
- Thiên về hình thức nghệ thuật.
- Có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà văn.
+ Vai trò:
- Là một trong những điều kiện quan trọng để đánh giá vị trí, tài năng của nghệ sĩ. Một nhà văn lớn phải là nhà văn có phong cách.
- Thể hiện bản chất của văn chương: hoạt động sáng tạo.
+ Ví dụ:
- Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu: Thơ dù viết về đề nào cũng nồng nàn thao thiết niềm giao cảm với đời. Tư tưởng nghệ thuật độc đáo này được chuyển hoá vào hệ thống các phương tiện biểu hiện mới mẻ (bút pháp tương giao; ngôn ngữ rất Tây, tinh tế; cách cấu tứ theo sự vận động của thời gian cùng giọng điệu thơ đa dạng, phong phú đủ để tái hiện những cung bậc, những biến thái tinh vi nhất, chân xác nhất của thế giới cũng như tình cảm con người).
- Phong cách nghệ thuật Tố Hữu: mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết; đậm đà tính dân tộc
- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác; cảm quan sắc nhọn phong phú; chữ nghĩa giàu có; tuỳ bút tài hoa...=> "Ngông".
+ Ứng dụng
Phân tích phong cách nghệ thuật của một tác giả (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nam Cao, Xuân Diệu...)
3. Tình huống trong truyện ngắn
+ Là gì:
- Là lát cắt của đời sống mà qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất và tư tưởng nhà thể hiện rõ nhất.
"Là một lát cắt, một khúc của đời sống. Nhưng qua lát cắt, qua khúc ấy người thấy được trăm năm của đời thảo mộc" (Nguyễn Minh Châu)
- Biểu hiện qui luật có tính nghịch lí trong sáng tạo nghệ thuật: qui mô nhỏ nhưng khả năng phản ánh lớn.
+ Vai trò:
- Khắc hoạ tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng nghệ sĩ.
- Xuất phát từ đặc trưng truyện ngắn: dung lượng nhỏ, thể hiện nhân vật qua một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống (tiểu thuyết: dài, theo sát toàn bộ cuộc đời, số phận nhân vật...) => Tình huống phải giống như thứ nước rửa ảnh làm nổi lên hình sắc nhân vật và tư tưởng nhà văn => Xây dựng được tình huống truyện độc đáo là dấu hiệu của:
• Một tác phẩm có giá trị
• Một tác giả tài năng.
+ Ví dụ: tình huống đợi tàu ám ảnh (Hai đứa trẻ), tình huống cuộc gặp gỡ đầy éo le, oái oăm giữa quản ngục và Huấn Cao (Chữ người tử tù), tình huống nhận thức (Chiếc thuyền ngoài xa)...
+ Ứng dụng:
Phân tích tình huống truyện trong: Chiếc thuyền ngoài xa, Vợ nhặt, Chữ người tử tù,...
4. Các giá trị văn học
+ Mô tả: có 3 giá trị cơ bản của văn học
- Giá trị nhận thức:
• Mang tới cho bạn đọc những tri thức sâu rộng về thế giới
• Giúp con người khám phá, nhận thức, thấu hiểu sâu sắc chính bản thân mình.
- Giá trị giáo dục
• Đem đến những bài học quí giá về lẽ sống
• Về tư tưởng: Hình thành cho con người những tư tưởng tiến bộ, có thái độ và quan điểm sống đúng đắn.
• Về tình cảm: Giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn trở nên lành mạnh, trong sáng.
- Giá trị thẩm mĩ:
• Nội dung:
§ Vẻ đẹp muôn hình vẻ của cuộc đời
§ Vẻ đẹp bản thân con người.
• Hình thức: những biện pháp, thủ pháp xây dựng hình tượng nghệ thuật sinh động, giàu sức gợi.
- Mối quan hệ của 3 giá trị:
• Giá trị nhận thức: tiền đề của giá trị giáo dục.
• Giá trị giáo dục: làm sâu sắc hơn giá trị nhận thức
• Các giá trị nhận thức và giá trị giáo dục đều được phát huy tích cực nhất qua giá trị thẩm mĩ.
+ Ví dụ:
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu mở rộng phạm vi nhận thức về một hiện thực bề bộn, phức tạp thời hậu chiến với những nghịch lí đầy ngang trái, đồng thời khám phá vẻ đẹp bên trong người đàn bà tưởng như chỉ biết cam chịu, khơi gợi ở bạn đọc một thái độ sống, một cách nhìn cuộc đời sâu sắc, tỉnh táo hơn thông qua những hình ảnh có tính chất biểu tượng, qua lối kể chuyện đa dạng.
+ Ứng dụng:
Đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học.
5. Nhà văn – văn bản – bạn đọc
+ Nhà văn: người sáng tạo ra văn bản => thực hiện quá trình kí mã => Ý đồ nghệ thuật, cách lí giải của nhà văn về văn bản chỉ là một khả năng hiểu văn bản.
+ Bạn đọc: ngưòi tiếp nhận văn học => thực hiện quá trình giải mã.
+ Văn bản: là một bộ mã, có thể chấp nhận nhiều cách giải khác nhau nhưng phải phù hợp với các mã đã được nhà văn kí gửi.
6. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ
+ Mô tả (so sánh với hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự)
Hiện ra qua giọng điệu, trạng thái tâm hồn, cảm xúc (nhân vật trong tác phẩm tự sự: có diện mạo, tính cách, hành động cụ thể)
+ Phân loại:
- Xét sự xuất hiện của tác giả trong tác phẩm:
• Cái tôi trữ tình: tác giả
• Nhân vật trữ tình nhập vai: khi tác giả hoá thân vào nhân vật khác trong tác phẩm.
- Xét về vai trò:
• Chủ thể trữ tình (người trực tiếp bộc lộ cảm xúc)
• Đối tượng trữ tình: đối tượng hướng tới của tâm trạng chủ thể trữ tình
+ Ví dụ:
- "Tảo giải" (Giải đi sớm) khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh - chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình với vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ và vẻ đẹp tinh thần chiến sĩ.
- "Sóng": xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình "sóng" – nhân vật trữ tình nhập vai, đối tượng trữ tình mang vẻ đẹp của khao khát tình yêu thuỷ chung, nồng nàn, mãnh liệt.
+ Ứng dụng:
Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong một bài thơ.
7. Giá trị hiện thực
+ Là gì:
- Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.
- Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí...)
+ Biểu hiện:
Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét chính:
- Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh.
- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa dạng. Cùng phản ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất Tố miêu tả nỗi chật vật về vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cổ nhiều tròng, Nguyễn Công Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường tuyệt lộ của người nông dân ("Bước đường cùng"), Nam Cao lại đi vào mảng hiện thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau tinh thần khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.
+ Vai trò:
- Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.
- Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.
+ Ứng dụng:
- Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm. (Chí Phéo, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt...)
- Phân tích nhân vật làm rõ giá trị hiện thực mới mẻ và độc đáo trong một tác phẩm. (nhân vật Chí Phèo, nhân vật Mị, nhân vật người phụ nữ vợ nhặt...)
8. Giá trị nhân đạo
+ Là gì:
- Hạt nhân: lòng yêu thương con người.
- Đối tượng: thường là nỗi khổ.
+ Biểu hiện: 3 khía cạnh cơ bản.
- Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh.
- Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.
- Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh.
Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt. Chẳng hạn, cùng viết về người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, yêu thương sâu sắc, Ngô Tất Tố khám phá ở Chị Dậu vẻ đẹp truyền thống, thuỷ chung, không tì vết; Kim Lân phát hiện ra nét nữ tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt trong tâm hồn người vợ nhặt, còn Tô Hoài thì khơi tìm sức sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi cô gái vùng cao - Mị...
+ Vai trò:
- Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn
"Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ" (Biêlinxki)
- Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn học là nhân học. Nghệ thuật chỉ có nghĩa khi hướng tới con người, yêu thương con người).
+ Ứng dụng:
- Phân tích giá trị nhân đạo trong một tác phẩm (Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ, Chí Phèo...)
- Làm rõ giá trị nhân đạo độc đáo và mới mẻ của một tác phẩm qua việc phân tích nhân vật (Phân tích nhân vật Tràng, phân tích nhân vật Mị, phân tích nhân vật Chí Phèo...)
+ Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
- Gắn bó hài hoà trong một tác phẩm.
- Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở chỗ: nếu nói giá trị hiện thực là nhắc tới sự trình bày, miêu tả hiện thực một cách tương đối khách quan thì nói tới gía trị nhân đạo tức là đã bao hàm thái độ của nhà văn (cảm thông, thương xót, đồng tình, ngợi ca...)
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Bình luận quan niệm của J.Paul. Sartre:
"Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng"
1. Nhiều năm trở lại đây, vấn đề tiếp nhận tác phẩm không chỉ là mối quan tâm của lí luận văn học mà còn là đối tượng của rất nhiều khoa học nghiên cứu văn học. Bình luận và phân tích quan niệm của J.Paul.Sartre trên cơ sở ngôn ngữ học hiện đại cho chúng tôi những kiến giải sâu sắc.
2. Nếu như vai trò sáng tạo của nhà văn có lịch sử nghiên cứu khá đầy đặn thì vai trò của người đọc, bản chất của quá trình tiếp nhận văn học dẫu đã được "canh tác" ít nhiều vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ, mời gọi khám phá.
Lấy mối quan hệ tác giả - tác phẩm - bạn đọc làm căn cốt, xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau về yếu tố trung tâm của hoạt động văn học.
Trước đây, có một quan niệm đã trở thành quán tính trong nghiên cứu phê bình: lấy tác giả cùng cá tính sáng tạo làm trung tâm. Nó xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận.
Ý tưởng của nghệ sĩ là nòng cốt, là "chỉ dẫn của Chúa" để soi đường cho những tín đồ văn chương mải miết đi tìm chân lí. Tiếp nhận được xem như một nỗ lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ vào tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà văn trong bề mặt ngôn ngữ, văn bản.
Theo đó, phê bình cố gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để dựng lại một tác phẩm văn học duy nhất trong ý đồ sáng tạo. Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là tiếp cận trực tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp.
Vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các tác phẩm khuyết danh, các sáng tác của các nhà văn không đồng thời với chúng ta hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khoá đi vào văn bản mãi mãi bị vùi lấp.
Xem tác phẩm văn học "như một quá trình", các nhà nghiên cứu đã phục nguyên vai trò của bạn đọc.
Chúng tôi quan tâm tới phân tích của hai tác giả Nguyễn Lai và Bùi Minh Toán trên góc độ ngôn ngữ học.
GS.Nguyễn Lai trong bài viết "Về quá trình tiếp nhận văn học" có đưa ra 5 luận điểm quan trọng:
ü Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, thoạt tiên ta nghĩ ngay tới "sản phẩm" được làm ra. Theo cách đó, sản phẩm chưa qua tay người tiêu dùng thì mới ở dạng tiềm năng. Do vậy, năng động chủ quan của người tiếp nhận là cánh cửa đầu tiên để ta có thể đi vào ngôi nhà tạo nghĩa của quá trình tiếp nhận văn học.
ü Chủ thể hoạt động biến "thành phẩm" thành tác phẩm.
ü Sự khác nhau giữa kí hiệu thẩm mĩ và hình tượng thẩm mĩ. Tuy cùng là những gợi dẫn thẩm mĩ, nhưng ở hình tượng tượng thẩm mĩ, tính năng động chủ quan của chủ thể phát huy cao độ và phát huy với thế hoàn toàn chủ động. Từ ngữ, kí hiệu thẩm mĩ chỉ là phương tiện của quá trình gợi dẫn. Trong luận điểm này, tác giả cũng phân tích quá trình chuyển mã từ mã ngôn ngữ sang mã hình tượng.
ü Quá trình tác động một cách có qui luật của tác phẩm nghệ thuật đối với người tiếp nhận.
ü Mối quan hệ giữa người tiếp nhận với tác phẩm và xã hội thông qua ngôn ngữ.
Coi hoạt động văn học như là hoạt động giao tiếp, GS Bùi Minh Toán xem xét quá trình tiếp nhận văn học trên hai khía cạnh.
ü Vai trò của người đọc trong quá trình tiếp nhận.
ü Vai trò của người đọc trong chính hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ.
Trong quá trình sáng tạo của nhà văn, độc giả có vai trò nhất định, chi phối quá trình sáng tạo và chi phối cả nội dung, hình thức của tác phẩm.
Trong quá trình tiếp nhận, độc giả có vai trò đồng sáng tạo. Tác phẩm là một bộ mã, nhà văn là người kĩ mã, bạn đọc giải mã.
3. Như vậy, ở Việt Nam, quan niệm về quá trình tiếp nhận và vai trò của bạn đọc đã được thấu thị qua những lăng kính khoa học đáng tin cậy. Dễ dàng nhận thấy những luận điểm đó khá gần gũi với nhận định của J.Paul.Sartre.
"Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận đông. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng".
Trước hết, Sartre nhận xét tác phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình thai nghén của nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như "con quay kì lạ". Tác phẩm chỉ hiện tồn "trong vận động".
Dường như, ở đây có một cuộc đối thoại ngầm với các quan điểm cho rằng tác phẩm là cố định, duy nhất, chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà văn ( đã phân tích ở trên). Vận động là điều kiện thiết yếu để tác phẩm có thể xuất hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.
Vậy cơ chế nào cho sự vận động của văn bản nghệ thuật? Ông khẳng định "cần có hoạt động cụ thể là sự đọc", đồng thời tiếp tục nhấn mạnh vai trò của sự đọc hay cũng chính là vai trò của độc giả "tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục.
Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng". Như vậy sự đọc có ý nghĩa sống còn đối với sức sống của tác phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những "vệt đen trên giấy trắng" – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Sự đọc là máu để biến một thể xác vật chất (văn bản) thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có trăn trở.
Tóm lại, J.Paul.Sartre sử dụng cách nói quá để nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của tiếp nhận đối với đời sống văn học. Vô hình chung, tác giả đã xem văn học là hoạt động giao tiếp, là một quá trình.
Dễ dàng nhận thấy dấu ấn triết học hiện sinh trong nhận định này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới ở hình thức cá thể, hiện thực với sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm văn học là một sản phẩm tinh thần, được cụ thể bằng dạng vật chất (văn bản ngôn từ), cũng chỉ có ý nghĩa trong đời sống của nó – sự đọc. Được viết ra từ những ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc giả, nhân loại nói chung, tách khỏi sự đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.
Khẳng định ý nghĩa của sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhà văn và quá trình sáng tạo. "Con quay kì lạ" dẫu biến ảo, vận động về đâu cũng cần có một trục trụ duy nhất để cân bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày công xây dựng trong tác phẩm. Tác phẩm là một quá trình, Sartre nhấn mạnh vào quá trình thứ hai – giải mã. "Tác phẩm chỉ có thể kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục" .
So sánh quan niệm của Sartre với luận giải của Nguyễn Lai, Bùi Minh Toán (đã nên ở trên), có thể thấy sự tương đồng rõ nét. Nếu Sartre cho rằng thiếu sự đọc, tác phẩm chỉ là "những vệt đen trên giấy trắng" thì Nguyễn Lai coi văn bản được nhà văn sáng tạo ra mới chỉ ở dạng "tiềm năng".
Tiềm năng ấy chỉ được hiện thực hóa thông qua quá trình giải mã tín hiệu thẩm mĩ dựa trên sự tác động có qui luật của văn bản lên người đọc. Bùi Minh Toán phân tích chỉ rõ vai trò của độc giả một cách toàn diện. Như vậy, từ những so sánh này, có thể khẳng định:
v Quá trình văn học được tạo thành từ quá trình sáng tác (của nhà văn) và quá trình tiếp nhận (của người đọc). Nó có tính liên tục, quan hệ chặt chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn bản.
v Trung tâm của quá trình văn học là văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng nghĩa với việc sáng tạo những tín hiệu thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã (chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật). Đến lượt mình, độc giả thực hiện việc giải mã.
Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác cho văn bản.
Xét ở góc độ này, văn bản có tính độc lập tương đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục của "con quay kì lạ" chính là những chỉ dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm.
v Đời sống của tác phẩm không phải tính bằng thời gian nhà văn thai nghén ra nó. Có những sản phẩm nghệ thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả. Lại có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn tiếp tục.
Thực tế đời sống văn học cho thấy quan niệm của Sartre là hoàn toàn có lí.
Truyện Kiều – sản phẩm của "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" của Nguyễn Du khai sinh cách đây mấy nghìn năm vẫn còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao cách cảm nhận và tranh luận khác nhau. Nguyễn Du đã mất nhưng sinh mệnh nghệ thuật Truyện Kiều dường như bất tử. Mối thế hệ bạn đọc, với nền tảng văn hóa, tinh thần khác nhau lại giải mã tác phẩm theo một cách khác bằng một thái độ riêng.
Có thời, người ta đặt Truyện Kiều lên bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị trí của tác phẩm. Dùng quan điểm xã hội học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận xét mà không căn cứ vào ngôn từ, mọi nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế tắc.
GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm mĩ đã rút ra những luận điểm chính xác về Thi pháp Truyện Kiều, gợi mở cho chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ của "con quay kì lạ" chính là ngôn từ nghệ thuật.
Tính độc lập tương đối của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc có thể phát hiện những nét mới ngoài ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm 2005, có một học sinh được điểm 10 khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ dụng công trong xây dựng phẩm chất anh cu Tràng (sự hiếu thảo với bà cụ Tứ). Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ đã kí gửi – văn bản có thể giải theo nhiều cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ cảm phong phú.
Sáng tạo văn học đồng nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ thuật người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục quay này.
Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ "mặt chữ điền" (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử) có thể hiểu là khuôn mặt của người con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của người con gái soi qua trái tim nhớ thương da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa là gắn với văn cảnh "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" để thấy được nét đẹp của con người Vĩ Dạ và niềm hoài mong đau đáu của Hàn Mạc Tử.
Tương tự như thế, cặp hình tượng "non – nước" ở "Thề non nước" của Tản Đà mang tính đa nghĩa: vừa là hai vật thể thiên nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người con trai và người con gái nhớ thương trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một trạng thái cảm xúc chung.
Hồ Chí Minh khi cầm bút đều đặt ra bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào? Người đọc như vậy còn có vai trò chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn.
Văn bản thì duy nhất nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là bất tận. Tác phẩm có thể chỉ được tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó là bất tử (đối với các kiệt tác). Độc giả chính là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Quan niệm hiện sinh của J.Paul.Sartre xét cho cùng đã đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm văn học.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐHQG. 1998.
2. Đỗ Hữu Châu. Một số luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các tác phẩm văn học. Tạp chí ngôn ngữ, số 2, 1990.
3. Nguyễn Lai. Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học. NXB GD. 1996.
4. Phương Lựu. Lí luận văn học. NXBGD. 2003.
5. Khrap-chen-kô. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học. NXB Tp HCM. 1978
6. Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người trong thế kỷ (nguồn: evan.com.vn)
7. Trần Đình Sử. Thi pháp Truyện Kiều. NXB GD. 2002
8. Nguyễn Thuỳ. Viết văn, Đọc văn: "Đối thoại với chính mình, với người" (nguồn: )
9. Bùi Minh Toán. Tập bài giảng chuyên đề Ngôn ngữ và văn học. 2009.
Đỗ Thị Thúy Dương
Đề: Vì sao có thể nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người? Liên hệ với thực tế văn học.
* BÀI LÀM MẪU
Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ. Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa... bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong. Với tư cách là cụ thể của hoàn cảnh, là động lực của sự phát triển xã hội, là nguồn gốc của mọi sáng kiến, phát minh. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ đau luôn luôn là đối tượng trung tâm của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính. Nhà văn Nga Tolstoi đã từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Còn Goethe thì nói: "Những điều đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống". Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: "Nhà văn là người cho máu". Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm chân chính đúng là sản phẩm của trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt nữa của người nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt – cái mà người ta gọi là cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật. Không ai làm thơ làm văn trong trạng thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm hứng ấy có thể bắt đầu từ niềm vui sướng, tự hào hay tin tưởng, phấn khởi, nhưng với nghệ sĩ chân chính thì chẳng bao giờ có niềm vui hời hợt, giản đơn. Bởi vì cuộc sống con người, trong tính hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tối, cái xấu luôn luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi liền với khổ đau, bất hạnh...Và những khổ đau của con người xưa nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút.
Chính nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm ấy một cách giản dị chân thành: "Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đấy trong người" với Huygo thì bể khổ của nhân loại là hầm mỏ khai thác không vơi cạn của đời ông. Truyện kiều là tiếng khóc đứt ruột. Chí Phèo là tiếng thét phẫn uất đòi quyền làm người...Những tác phẩm chân chính, bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, ghê tởm ... Tuy nhiên "thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung". Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học chân chính có thể mang lại cho con người.
Ở đây có mấy vấn đề cần lưu ý:
1/ Sở dĩ nói văn học chân chính chứ không phải văn học nói chung vì trong sự tồn tại của văn học nhân loại quả là những tác phẩm vì con người, nâng cao phẩm giá con người nhưng cũng có thứ văn chương làm hạ thấp phẩm giá con nguời. Có những tác phẩm là kết quả của thao thức khổ đau, hi sinh, trăn trở, nhưng cũng không thiếu thứ văn chương làm
thuê, làm công cụ, bồi bút tô son trát phấn cho giai cấp thống trị trong những xã hội đã suy tàn, mục ruỗng... Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ tiền sẽ bị quên lãng với thời gian. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chân chính . "Những người khốn khổ" của Hugo, " Sống lại" của L.Tolstoi, Truyện Kiều của Nguyễn Du... là những tác phẩm trong đó tác giả còn bộc lộ nhiều quan điểm sai lầm về tư tưởng và những giải pháp cải tạo xã hội, nhiều nhân vật cũng đã trải qua bao nhiêu vấp ngã, giằng xé, lầm lẫn... nhưng đó lại là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời gian; bởi sức mạnh cảm hóa sâu xa, bởi lòng yêu thương con người mênh mông, sâu thẳm; bởi thái độ căm ghét, phẫn uất trước những thế lực xấu xa, tàn ác đã giày xéo, chà đạp lên con người. Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người tin hơn ở những điều thiện, ở khả năng vươn tới cái cao cả, cao thượng, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựng những điều ác khủng khiếp do xã hội và có khi do chính mình gây ra.
2/ Mặt khác, nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học không phải chỉ là khả năng gợi lòng trắc ẩn, động tâm, thương cảm đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo diễn ra trong xã hội, dù điều đó cũng là một phương tiện đáng quí. Khả năng nhân đạo hóa còn bộc lộ ở sự tự ý thức về bản thân, tự nhận diện bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác... mà tác phẩm gợi lên. Người ta đã nói đến sự "thanh lọc" tâm hồn của văn học, hay hình thức "sám hối" của bản thân trước lương tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế. Đọc Nam Cao không phải chỉ là để cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ... với một cuộc sống bị "cơm áo ghì sát đất", nó đang có nguy cơ giết chết những ước mơ và những tình cảm nhân ái, cao thượng. Những tác phẩm của Nam Cao còn như một tấm gương soi để độc giả hôm nay tự nhận diện chính mình, không ngừng vượt lên hoàn cảnh bản thân để sống một cách xứng đáng hơn, tốt đẹp hơn. Nếu trong tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ là một trí thức hoàn toàn tốt thì tác phẩm có thể không làm ta xúc động đến thế. Sự giằng xé giữa nhân cách cao thượng, hành vi đẹp đẽ, hoài bão to lớn, tấm lòng vị tha của một "chàng trai trẻ vốn say mê lí tưởng" với những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí, với sự câu thúc của đời sống tầm thường hàng ngày, cả những cẩu thả, bất lương trong nghề cầm bút và những hành vi "khốn nạn, tàn nhẫn của hắn" đối với Từ – người vợ rất đỗi đáng thương của y và những giằng xé nội tâm không nguôi trong lòng Hộ, lại làm người đọc xót xa thương cảm đến tận đáy lòng. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn rất lớn của tác phẩm. Chính bản thân tác phẩm "Đời thừa" đã tạo được giá trị đích thực mà tác giả của nó hằng mong mỏi. "Nó chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho con người gần người hơn". Những giá trị nhân văn to lớn như thế lại được hình thành từ những mẫu chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh nhưng đã được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài hoa và nhất là bằng một cuộc sống cũng đầy mâu thuẫn, đau xót, trăn trở của chính nhà văn Nam Cao. Ở đây có vấn đề viết cái gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và sự phản ánh. Nói cho rõ hơn, ở đây tình cảm, lương tri, thái độ trân trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã rọi sáng vào từng cảnh ngộ trong câu văn, làm dấy lên ở người đọc một mối liên tưởng đồng cảm, đau xót. Đó mới là những yếu tố tạo nên sức thuyết phục sâu xa đối với người đọc. Đọc "Đời thừa" ta có cảm giác như nhà văn đã rọi vào chỗ sâu kín nhất của tâm tư. Quá trình nhân đạo hóa sẽ hình thành từ sự đồng cảm ấy. Ở "Lão Hạc" cũng vậy. Tác phẩm gợi lên lòng thương cảm nơi người đọc từ cái chết thê thảm của lão vì lòng thương con và vì tình trạng khốn quẫn của lão. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm chủ yếu lại không chỉ nằm ở đấy. Tác phẩm gợi lên những tình cảm vị tha, cao thượng đầy tự trọng của một lão già nông dân chất phác, hiền lành: biết đâu lão tự tử còn vì lòng tự trọng bị tổn thương, bị lương tâm cắn rứt vì nỡ lừa dối một con chó! (trong khi còn biết bao con người mang mặt người nhưng lòng lang dạ thú "người với người là chó sói"). Phát hiện ở chỗ sâu xa nhất
những nét đẹp lương tri con người, tác phẩm đóng vai trò tích cực trong việc làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn. Đó là chưa kể đến những câu văn chan chứa một lòng vị tha độ lượng, một thái độ làm hòa với người khác và với chính mình, những tình cảm nhân văn, nhân đạo là bài học về cách sống, cách xử thế, cách nhìn nhận và đánh giá con người làm cho lòng ta trở nên thanh thản hơn, cao thượng hơn. "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tâm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương... "Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân, có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác hơn. Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị nỗi lo lắng buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận".
Chao ôi, nếu ai cũng nghĩ được như thế thì quan hệ giữa con người với con người sẽ tốt đẹp biết bao nhiêu. Những câu văn xót xa mà đẹp đẽ như thế đã vượt ra khỏi muôn khổ của tác phẩm, nó nói về cái tình người muôn thuở cần có, nó có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn.
3/ Ở đây nói nhân đạo hóa để nhấn mạnh sức cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. Con người là sản phẩm của tạo hóa, nó vốn đẹp đẽ "nhân chi sơ, tính bản thiện". Nhưng xã hội có thể làm tha hóa con người thì văn chương chân chính lại có khả năng tác động ngược lại. Tình thương, lòng nhân đạo sẽ cảm hóa, thức tỉnh lương tri vốn luôn ẩn chứa trong chiều sâu nội tâm con người, có khả năng "nhân đạo hóa" con người. Nói "khả năng" vì không nhất thiết bao giờ cũng có thể đạt được như vậy. Nó còn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận riêng biệt của chủ thể cảm thụ. Nhưng một nhà văn chân chính bao giờ cũng nung nấu, khát vọng tác phẩm của mình sẽ đem lại một giá trị tinh thần nào đấy, nhằm cứu vãn con người. Ngay cả Truyện Kiều, dù Nguyễn Du có viết:
"Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh"
thì ta cũng hiểu đó chỉ là một cách nói khiêm nhường. Khi trút lên ngòi bút bao nỗi đớn đau về cuộc đời, đương nhiên nhà văn khao khát những tấm lòng tri âm, những giọt nước mắt đồng cảm:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Mấy thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều và những tác phẩm đầy nhân đạo của Nguyễn Du mãi mãi là người bạn tâm tình, là nguồn sức mạnh của biết bao thế hệ độc giả, kể cả những độc giả trẻ tuổi hiện nay:
Dẫu súng đạn nặng lòng ra hỏa tuyến
Đi đường dài, em giữ "Truyện Kiều" theo.
(Chế Lan Viên – Gửi Kiều cho em Năm đi đánh Mỹ)
Không thể nào có thể nói hết khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con người. Nhưng quả thật, đọc một tác phẩm văn học chân chính, ta có cảm giác thật hạnh phúc và sung sướng như đang được đối diện, tâm tình trò truyện với một người bạn thông minh, nhân ái, từng trải, như đang được chia sẻ nỗi buồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy thử thách của cuộc sống. Biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ. Nói như Gorki :"sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôi
biết rằng con người thật là vĩ đại và đẹp đẽ, rằng con người luôn luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên trái đất và vì thế mà họ đã chịu biết bao đau khổ". Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn: "Con người – cái tên mới đẹp làm sao, mới vinh quang làm sao. Con người phải tôn trọng con người".
Hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với nỗi khổ đau của g của mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại và đebuồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy tà truyện với môcon người, biết căm ghét cái giả dối, ti tiện, tàn ác, biết hướng tới cái chân, thiện, mĩ; biết sống một cách chân thật, nhân ái, cao thượng... đó là những dấu hiệu của quá trình 'nhân đạo hóa" mà văn học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho con người, vì hạnh phúc của con người./.
ĐỀ 2
Thời gian làm bài: 120 phút
Phần I: Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Phong cách văn học (hay phong cách nghệ thuật) nảy sinh do chính những nhu cầu của cuộc sống, bởi vì cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những nhân tố mới mẻ, những cái không lặp lại bao giờ; và nó cũng nảy sinh từ nhu cầu của quá trình sáng tạo văn học vì đó là một yếu tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn, sức sống của tác phẩm. Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Nói cách khác, phong cách là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo, vì thế Buy-phông viết: "phong cách chính là người" .
(Quá trình văn học và phong cách văn học, SGK Ngữ văn 12, tập 1, trang 181, NXB GD 2013)
1. Đoạn trích chủ yếu đề cập đến khái niệm nào của lí luận văn học?
2. Khái niệm đó nảy sinh từ những cơ sở thực tế nào?
3. Tìm câu văn thể khái quát nội dung khái niệm đó.
4. Những cơ sở tạo nên tính hấp dẫn, sức sống của tác phẩm văn học?
Phần II: Làm văn (7 điểm)
Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng
(Sóng Hồng)
Quan điểm của anh/chị về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I: Đọc hiểu
1. Đoạn trích đề cập đến khái niệm: Phong cách văn học (hay phong cách nghệ thuật) – 0,5 điểm
2. Khái niệm đó nảy sinh từ những cơ sở thực tế:
– Từ những nhu cầu của cuộc sống – 0,5 điểm
– Từ nhu cầu của quá trình sáng tạo văn học – 0,5 điểm
3. Câu văn thể khái quát nội dung khái niệm:
Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể – 0,5 điểm
4, HS sử dụng kiến thức đã học để trả lời một cách ngắn gọn, thuyết phục – 1,0 điểm
Phần II: Làm văn
1. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết làm kiểu bài nghị luận văn học, phân tích, chứng minh văn bản Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ một vấn đề lí luận văn học. Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát có cảm xúc, ngôn ngữ chọn lọc, không mắc các loại lỗi.
2. Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
* Giới thiệu vấn đề nghị luận.
* Giải thích ý kiến:
– Thơ là thơ : Thơ trước hết phải là chính nó, nghĩa là phải mang đầy đủ những đặc trưng riêng khác với bất kì loại hình nghệ thuật nào: truyện, kịch... Thơ là phương thức trữ tình, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt.
– Thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng:
+ Thơ là họa: Họa có nghĩa là hội họa, đặc trưng ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình, thơ có thể gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh, chi tiết sống động, chân thực như bản thân sự sống vốn có.
+ Thơ là nhạc: Nhạc là âm nhạc. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Tính nhạc của thơ thể hiện ở: thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, thanh điệu,...
+ Thơ còn là chạm khắc: Khả năng tạo dựng hình khối, đường nét sống động, chân thực của ngôn ngữ thơ ca.
=> Sóng Hồng đã khẳng định vẻ đẹp, giá trị độc đáo của thơ ca: thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy phải được thể hiện theo "một cách riêng" nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật riêng.
* Chứng minh qua bài Tây Tiến:
– Chất thơ của Tây Tiến:
+ Bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Quang Dũng: nỗi nhớ đơn vị cũ, nhớ thiên nhiên núi rừng, con người Tây Bắc.
+ Ngôn ngữ thơ hàm súc, đa nghĩa, có tính biểu cảm cao.
– Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc:
+ Chất hoạ: Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, bí ẩn, dữ dội, mà mĩ lệ thơ mộng trữ tình.
+ Chất nhạc: phép đối, điệp âm, sử dụng từ láy, cách ngắt nhịp, phối thanh Bằng – Trắc... => tạo nên giọng điệu gân guốc, mạnh mẽ khi nói về con đường hành quân gập ghềnh, trắc trở; giọng điệu êm đềm man mác khi nói về thiên nhiên thơ mộng trữ tình; giọng thơ vui tươi, khoẻ khoắn khi tái hiện kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm liên hoan.
+ Đường nét của điêu khắc: chạm khắc bức tượng đài về người lính Tây Tiến sống động, chân thực, mang vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn mà bi tráng.
– Bài thơ Tây Tiến thể hiện phong cách riêng, độc đáo của Quang Dũng: bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng, hồn thơ bay bổng và ngôn ngữ sáng tạo, tinh tế, tài hoa.
* Đánh giá chung
– Ý kiến của Sóng Hồng đã khẳng định sức sống và vẻ đẹp của thơ ca.
– Bài thơ Tây Tiến xứng đáng là một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thi ca cách mạng Việt Nam.
Câu 1 (8,0 điểm)
Phải chăng, người muốn là mình mà không dám là mình thì dần dần có thể sẽ đánh mất mình?
Câu 2 (12,0 điểm)
Nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki cho rằng:
Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Từ cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
...................................................HẾT.................................................
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THANH HÓA
HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI CHỌN ĐỘI TUYỂN
HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA LỚP 12 THPT
NĂM HỌC 2014 – 2015
MÔN THI: NGỮ VĂN
Ngày thi: 10/10/2014
(Đáp án gồm có 04 trang)
Câu
Ý
Nội dung
Điểm
1
Phải chăng, người muốn là mình mà không dám là mình thì dần dần có thể sẽ đánh mất mình?
8,0
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ, chủ kiến của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, được tự do bày tỏ quan niệm riêng của mình, nhưng phải có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thể
a.
Giải thích
1,5
– Muốn là mình: là khao khát thể hiện, bộc lộ và khẳng định bản thân.
– Không dám là mình: là không đủ bản lĩnh, dũng khí và sự tự tin để thể hiện, bộc lộ và khẳng định mình.
– Đánh mất mình: không còn là chính mình.
-> Câu hỏi đặt ra ở đề bài là băn khoăn về sự nguy hại của lối sống không dám là mình.
b.
Luận bàn
5,0
Thí sinh có thể trình bày nhiều suy nghĩ khác nhau về vấn đề muốn là mình mà không dám là mình thì dần dần có thể sẽ đánh mất mình nhưng việc luận bàn cần hướng đến các phương diện sau:
– Khát khao được là mình, được sống với chính mình là nhu cầu cần thiết, chính đáng và là niềm hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, không phải lúc nào, không phải ai cũng dám là mình.
– Chỉ ra các biểu hiện ở những dạng thức, mức độ khác nhau của lối sống không dám là mình.
– Cần lí giải được vì sao người muốn là mình mà không dám là mình.
– Có đúng là người muốn là mình mà không dám là mình thì dần dần có thể sẽ đánh mất mình không?
c.
Bài học nhận thức và hành động
1,5
Từ luận bàn trên, thí sinh cần phải rút ra bài học nhận thức và hành động để thể hiện, khẳng định mình một cách chính đáng, để được sống là chính mình một cách có ý nghĩa.
2
Cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích để bình luận ý kiến của nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki
12,0
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.
Yêu cầu cụ thể
a.
Giải thích ý kiến
3,0
* Cắt nghĩa ý kiến:
– Chất thơ: là chất trữ tình thể hiện ở việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu và sức biểu cảm.
– Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển: là một cuộc sống chân thực đến trần trụi, thô ráp.
– Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả: là hiện thực phản ánh không mang tính định hướng, không có khả năng tác động đến tư tưởng, tâm hồn người đọc.
-> Bằng cách nói phủ định, ý kiến đã khẳng định ý nghĩa của chất thơ trong văn xuôi: chất thơ chính là đôi cánh nâng đỡ để cuộc sống được phản ánh vừa trở nên thi vị, trong sáng, giàu tính thẩm mĩ vừa thúc gọi, dẫn dắt, bồi đắp những tư tưởng, tình cảm nhân văn cho tâm hồn bạn đọc.
1,5
* Lí giải ý kiến:
– Phương thức biểu đạt chủ yếu của văn xuôi là tự sự, nhà văn thường chú ý đến xây dựng cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết, tình huống. Trong khi đó phương thức biểu đạt chủ yếu của thơ là biểu cảm, nhà thơ tập trung bộc lộ tiếng nói tâm hồn mình bằng vần điệu. Vậy nên, khi văn xuôi chứa đựng chất thơ sẽ tạo nên phong vị ngọt ngào, dễ lan thấm vào tâm hồn người đọc.
– Trong thực tế sáng tác, các nhà văn thường có xu hướng phối hợp, đan xen nhiều thể loại. Đưa chất thơ vượt biên giới thể loại sang văn xuôi chính là sự vận dụng kết hợp linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức biểu đạt của nhà văn.
1,5
b.
Cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích
7,0
Thí sinh được tự do lựa chọn một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích để cảm nhận. Tuy nhiên đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung hướng sự cảm nhận vào hai phương diện:
– Chỉ ra được biểu hiện của chất thơ trong tác phẩm trên cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
– Phân tích được ý nghĩa của chất thơ trong việc phản ánh hiện thực ở tác phẩm văn xuôi trên hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, làm cho cuộc sống trong trang văn trở nên thi vị, trong sáng, vút cao.
+ Thứ hai, khiến hiện thực đó có thể định hướng, dẫn dắt tâm hồn người đọc.
3,0
4,0
c.
Bình luận ý kiến
2,0
– Khẳng định câu nói của nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki là sự đề cao, đánh giá ý nghĩa của chất thơ trong văn xuôi. Đồng thời cũng là sự chia sẻ kinh nghiệm quý giá của một nhà văn đã không ngừng lao động sáng tạo viết nên những áng văn xuôi đẹp, thấm đẫm chất thơ.
– Đây cũng chính là sự gợi nhắc, cổ vũ cho người cầm bút vận dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt để mong có được những tác phẩm văn chương giá trị.
– Đưa chất thơ vào trong văn xuôi không có nghĩa là nhà văn thoát li hiện thực cuộc sống, tô hồng và thi vị hóa cuộc sống.
ĐỀ 3
Nghĩ về thơ, thi sĩ Hoàng Cầm từng khẳng định:
"Âm điệu là cỗ xe chuyên chở điệu hồn thi phẩm."
Hãy lắng nghe âm điệu ấy trong một số bài thơ mà anh/chị tâm đắc.
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.
Yêu cầu cụ thể
Giải thích ý kiến
* Cắt nghĩa ý kiến:
– Âm điệu: là sự hòa điệu giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ, là dạng thức hết sức vi diệu của điệu hồn trong thơ. Cảm xúc được gợi ra từ nghệ thuật tổ chức các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, thanh điệu, vần điệu, giọng điệu...
– Điệu hồn: chiều sâu xúc cảm, tinh thần của bài thơ.
=> Bằng cách nói khẳng định "chuyên chở", Hoàng Cầm đã nhấn mạnh vai trò của của âm điệu trong thơ. Đây là phương tiện đắc lực trong việc thể hiện cảm xúc và linh hồn của bài thơ, cảm xúc hóa thân trong âm điệu thơ.
* Lí giải ý kiến:
– Đặc trưng của thơ là trữ tình, nghiêng về biểu hiện thế giới chủ quan của con người với trạng thái tình cảm, rung động (thơ là tiếng lòng, là rung cảm mãnh liệt của nhà thơ trước cuộc sống)
– Nội dung cảm xúc trong thơ được thể hiện qua cách tổ chức ngôn từ đặc biệt, hàm súc, giàu nhạc tính, cụ thể các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, vần điệu, thanh điệu, giọng điệu... Đọc thơ, cảm được âm điệu coi như đã nhập được vào hồn thơ, chạm vào được "cõi thơ" thực sự.
Trong thực tế, có rất nhiều bài thơ mà sức hấp dẫn, sức sống của nó trong lòng người đọc bắt đầu từ âm điệu.
Lắng nghe âm điệu trong một số bài thơ tâm đắc
Thí sinh được tự do lựa chọn một vài thi phẩm mình tâm đắc để cảm nhận. Tuy nhiên cần tập trung vào những vấn đề chính sau:
– Các dấu hiệu nghệ thuật thuộc âm điệu bài thơ: từ thể thơ đến thanh điệu, nhịp điệu, vần điệu, giọng điệu, khoảng lặng ngôn từ... Mỗi thi phẩm có một âm điệu riêng với cách tổ chức các yếu tố nghệ thuật đó một cách đặc biệt.
– Cảm nhận rõ ý nghĩa của âm điệu trong việc bộc lộ cảm xúc, chiều sâu tư tưởng của thi phẩm:
+ Tạo nên sự hấp dẫn cho bài thơ về mặt nghệ thuật, đặc biệt là âm vang của lời thơ.
+ Dẫn dắt, hòa điệu tâm hồn người đọc vào thế giới cảm xúc lắng sâu cùng điệu hồn thi phẩm.
Bình luận ý kiến
– Ý kiến của thi sĩ Hoàng Cầm giúp ta nhận thức sâu sắc vai trò của âm điệu trong thơ. Chỉ khi bài thơ là kết quả của sự rung động mãnh liệt và sự sáng tạo độc đáo trong cách tổ chức ngôn từ thì âm điệu thơ mới trở nên ngân vang. Như thế, âm điệu đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ quan trọng của bài thơ.
– Ý kiến ấy không chỉ có ý nghĩa với người sáng tác mà còn là sự định hướng, gợi mở cho người tiếp nhận, đọc thơ, cần "lấy hồn tôi để hiểu hồn người", cần nắm bắt âm điệu thơ để đến được điệu hồn thi phẩm.
– Từ phương diện âm điệu, có thể thấy được thực tài, thực tâm của người nghệ sĩ, đó cũng là một yêu cầu để thi phẩm có sức sống lâu bền trong lòng người đọc.
ĐỀ 4
Bàn về văn học, Thanh Thảo cho rằng:
"Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống "ra người" hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người."
(Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ – NXB GD, 2015)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào, bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại, hãy làm sáng tỏ.
HƯỚNG DẪN :
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.
Yêu cầu cụ thể
1. Giải thích ý kiến
* Cắt nghĩa ý kiến:
– Văn chương: là loại hình nghệ thuật bao gồm các sáng tác dùng ngôn từ nghệ thuật để phản ánh cuộc sống con người.
– Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc: văn chương thầm lặng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mà một cuộc đời khó lòng thấu trải hết. Nó giúp người đọc thỏa mãn nhu cầu nếm trải sự sống muôn hình vạn trạng. Đến với văn học, ta không chỉ khám phá, nhận thức hiện thực mà còn cảm nhận, hiểu biết tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhân loại và chính mình.
– Nó giúp con người sống "ra người" hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người:
+ nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người:
(+) vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: sự phát hiện của nhà văn về những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong thế giới tâm hồn con người, có tác động tích cực đối với con người, cuộc đời. Người đọc sẽ nhận ra ý nghĩa của văn chương với tâm hồn mình từ chính điều này.
(+) Nếu người đọc chủ động tìm kiếm cái đẹp ẩn kín, tiềm tàng cũng như nhận ra sự thể hiện những vẻ đẹp sâu thẳm trong hình tượng nghệ thuật ở tác phẩm thì sẽ nhận ra được những thông điệp thẩm mĩ sâu xa.
+ Nó giúp con người sống "ra người" hơn, sống tốt hơn: tác phẩm văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng, thánh thiện, làm nảy nở trong tâm hồn ta những xúc cảm cao đẹp, hướng ta đến những phẩm chất tốt đẹp mang tính nhân văn.
* Lí giải ý kiến:
– Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách tổng hợp, toàn vẹn trong mọi quan hệ đa dạng, phức tạp, tập trung khám phá chiều sâu khôn cùng của tâm hồn con người.
– Văn học có sứ mệnh cao cả bởi tác động sâu sắc tới đời sống tinh thần con người: văn học làm giàu thêm nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về chính bản thân mình; văn học bồi đắp, nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người -> khiến con người trở nên hoàn thiện, người hơn, sống tốt hơn.
– Văn học luôn đồng hành với nhân loại, có vị trí không thể thay thế được trong đời sống của con người.
2. Làm sáng tỏ ý kiến bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại trước 1945
Thí sinh được tự do lựa chọn một vài truyện ngắn hiện đại mà mình yêu thích để thấu hiểu vấn đề. Tuy nhiên, đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung vào hai phương diện:
– Chỉ ra các thông điệp nghệ thuật, những trải nghiệm về cuộc sống, số phận, nhân cách hay chiều sâu tâm hồn con người trong tác phẩm. Từ tác phẩm, khám phá những điều mới mẻ trong cái bình thường, phát hiện chân lí sâu xa trong những điều giản dị.
– Từ việc phát hiện cái Đẹp sâu xa của nội dung tác phẩm ở những vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của nhân vật, hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm mà nhận ra giá trị nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người của tác phẩm. Đó cũng chính là sứ mệnh cao cả muôn đời của văn chương nghệ thuật.
Bình luận ý kiến
– Ý kiến là lời tâm sự, chia sẻ của một người cầm bút luôn yêu quý và trân trọng văn chương, chỉ ra sứ mệnh cao cả của văn chương với con người.
– Ý kiến là định hướng để người đọc tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm trong chiều sâu tư tưởng của nó.
– Bồi dưỡng tình yêu, niềm say mê văn học nói riêng, tình nhân ái, tư tưởng sống đẹp cho bạn đọc nói chung.
Đề bài :
Nói về tính độc đáo của phong cách trong sáng tác, có ý kiến cho rằng:
"Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là nó có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình".
Anh (chị) hãy chọn phong cách tác giả Nam Cao để phân tích, làm sáng tỏ ý kiến trên.
ĐÁP ÁN
Bài làm của học sinh cần đảm bảo những yêu cầu sau đây:
Về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về phong cách sáng tác của Nam Cao qua một số tác phẩm, học sinh đánh giá ý kiến trên. Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải làm rõ những nội dung cơ bản sau:
– Giới thiệu về ý kiến: nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ năng lực sáng tạo, độc đáo. Đấy chính là phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn chân chính.
– Giải thích ý kiến:
– Thế nào là phong cách nghệ thuật?
+ Là khuôn mặt riêng, giọng điệu riêng của từng nghệ sĩ trong thế giới nghệ thuật, là những nét riêng biệt, chủ yếu của một tài năng nghệ thuật độc đáo.
+ Cái riêng, cái mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của nhà văn là gì? Đó là cái nhìn độc đáo đối với hiện thực cuộc sống thể hiện chiều sâu của sự cảm nhận và khám phá đời sống của nhà văn, là sự sáng tạo mới mẻ trong việc sử dụng các phương tiện hình thức nghệ thuật (như lời văn, câu văn, từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu,...)
– Phân tích phong cách Nam Cao qua một số tác phẩm tiêu biểu.
Những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nam Cao.
+ Nam Cao nhìn đời, nhìn con người vừa bằng đôi mắt hiện thực sắc sảo, nghiêm ngặt, vừa bằng đôi mắt của tình thương và lòng vị tha.
+ Để chuyển tải nội dung cái nhìn ấy, nhà văn chú trọng xây dựng những cốt truyện tâm lí sinh động, phức tạp (với sự giằng co, dằn vặt, thao thức đến khắc khoải của nhân vật) và tập trung bút lực vào hai đề tài chính là người nông dân và người trí thức nghèo.
Phân tích một số tác phẩm của Nam Cao để làm sáng tỏ những nét phong cách trên. (ví dụ: Chí Phèo, Đời thừa...)
– Đánh giá chung:
– Sức sống lâu bền của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào sự mới lạ, độc đáo trong cách nhìn, cách thể hiện của nhà văn.
– Phong cách nghệ thuật là thước đo tài nghệ, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Câu I (8,0đ):
Cháy lên để tỏa sáng.
Câu II (12,0đ):
Nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép cho rằng: Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác
.( Dẫn theo Khrapchenco. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học. Nhà xuất bản tác phẩm mới, 1978).
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên và làm sáng tỏ cái giọng riêng biệt của Xuân Diệu qua một số bài thơ tiêu biểu.
ĐÁP ÁN ĐỀ CHỌN HỌC SINH GIỎI KHỐI 11
Năm học: 2016 – 2017
MÔN: NGỮ VĂN
I Cháy lên để tỏa sáng.
1 Giải thích (1,0 điểm)
– Cháy: là niềm đam mê nhiệt huyết hết mình
– Tỏa sáng: làm nên thành tựu, nâng cao tầm vóc, giá trị bản thân, được mọi người ngưỡng mộ, tôn vinh.
-> Cả câu: Đề cao niềm đam mê nhiệt huyết làm nên thành tựu giúp bản thân mình tỏa sáng của mỗi người 0,25
2 Bàn luận (6,0 điểm)
– Con người cần "cháy" hết mình với công việc:
+ Có niềm đam mê, nhiệt huyết con người sẽ làm việc quên thời gian và mệt mỏi, tạo ra hiệu quả cao. Ngược lại, thiếu đam mê, làm việc gượng ép, miễn cưỡng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công việc.
+ Có đam mê con người đồng thời sẽ có khát vọng, ước mơ làm những điều đẹp đẽ, có ích thậm chí là kì tích, là những phát minh sáng chế đem lại lợi ích cho cộng đồng, nhân loại (như các nhà bác học say mê nghiên cứu, phát minh...)
+ Có đam mê người ta cũng sẵn sàng dâng hiến công sức trí tuệ cho cộng đồng thậm chí sẵn sàng hi sinh riêng tư vì cái chung (như AnhXtanh hi sinh hạnh phúc cá nhân cho việc nghiên cứu)
+ Khi có đam mê nhiệt huyết con người trở nên năng động, sáng tạo, có niềm tin vào bản thân, có ý chí quyết tâm vượt qua thử thách khó khăn để hoàn thành công việc hoặc thực hiện được ước mơ...(Bill Gates vì niềm đam mê máy tính mà sẵn sàng bỏ học ĐH trong sự can ngăn của nhiều người... nhưng ông quyết tâm vượt qua và ông đã thành công).
– Thành công từ những đam mê sẽ giúp con người "tỏa sáng":
+ Nâng cao tầm vóc, giá trị bản thân
+ Được mọi người ngưỡng mộ, tôn vinh
– Tuy nhiên:
+ Không nên đam mê thái quá để mình bị cuốn theo một vòng xoáy nào đó không dứt ra được mà vòng xoáy đó lại ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của ta (ví dụ mê chơi game mà chểnh mảng học hành); con người quá say mê làm giàu hay làm việc gì đó muốn khẳng định bản thân một cách nóng vội thì cũng dễ dẫn đến tham lam, phạm tội...
+ Phê phán những người học tập, làm việc thiếu lòng nhiệt tình; không có ước mơ và cũng không có động lực và quyết tâm thực hiện ước mơ hay hoàn thành công việc...
3 Bài học nhận thức và hành động (1,0 điểm))
– Cháy hết mình, đam mê nhiệt huyết với học tập, lao động là yếu tố quan trọng giúp con người thành công, khẳng định được vị trí của mình trong cuộc sống và xã hội nên con người cần nuôi dưỡng đam mê.
– Con người cần phải học tập, trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng sống tích cực, bồi đắp tâm hồn để thắp sáng đam mê. 0,5
Câu 2 :Bình luận ý kiến của nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép và làm sáng tỏ cái giọng riêng biệt của Xuân Diệu qua một số bài thơ tiêu biểu
1 Giới thiệu vấn đề ( 1,0 điểm)
– Nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép cho rằng: Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác.
– Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Qua sáng tác của mình, ông đã in được dấu vào nền văn học với một giọng riêng biệt, độc đáo hiếm thấy. 0,5
0,5
II
2 Giải thích ý kiến (2,0 điểm)
– Tài năng văn học: Khả năng văn học, sự giỏi giang, điêu luyện của người nghệ sĩ ngôn từ trong sáng tạo nghệ thuật. Tài năng văn học còn là cách nói hoán dụ để chỉ những nhà văn nhà thơ có tài.
– Nói : Là thể hiện thành lời một nội dung nào đó, giọng : Là cách phát âm, cách nói. Tiếng nói của mình, cái giọng riêng biệt của chính mình : Là cách diễn đạt, cách thể hiện độc đáo của một cá nhân về vấn đề nào đó.
– Không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác: Duy nhất, không thể có người thứ hai giống mình.
=> Nhận định là cách nói hình ảnh có tính chất đúc kết về cái quan trọng của những tài năng văn học lớn. Đó là: Một nghệ sĩ có tài phải là người có phong cách riêng độc đáo, không lẫn với bất cứ ai, không giống với bất cứ người nào. 1,0
3 Bình luận ý kiến (3,0điểm)
– Phong cách nghệ thuật của nghệ sĩ là một cái gì đó bền vững, xuyên suốt, lặp đi lặp lại trong các sáng tác trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Nói cách khác phong cách là biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân người sáng tạo.
– Phong cách nghệ thuật biểu hiện ở cái nhìn có tính chất khám phá, ở giọng điệu riêng biệt, ở hệ thống hình tượng, ở các phương diện nghệ thuật...
– Điều quan trọng trong tài năng của người nghệ sĩ là cái riêng biệt, độc đáo mà không ai có thể bắt chước, làm theo. Đây vừa là yêu cầu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá vị trí của nghệ sĩ ấy trên văn đàn. Cái riêng ấy sẽ giúp họ ghi được dấu ấn trên nền văn học, được người đọc yêu mến, tôn vinh. 1,5
4 Phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu để làm rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. (5,0 điểm)
– Thơ Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới nhưng đồng thời cũng mang đậm bản sắc riêng của cái tôi trong thơ Xuân Diệu. Đó là cái tôi tích cực, mãnh liệt, lúc nào cũng thèm yêu, khát sống, khát khao tận hưởng, cống hiến ngay trên thiên đường trần thế này. Cái tôi mang giọng điệu vồ vập, vội vàng, cuống quýt...Dù khi vui hay khi buồn đều nồng nàn, tha thiết.
– Cái nhìn của Xuân Diệu là cái nhìn tình tứ nên thiên nhiên luôn hiện ra với vẻ đẹp xuân tình.
– Thơ Xuân Diệu tiêu biểu cho tinh thần lãng mạn. Mỗi tiếng thơ như một cơn lũ cảm xúc tuôn chảy, câu nọ gọi câu kia, hình ảnh này gọi hình ảnh kia trong một hơi thơ dồi dào, lôi cuốn.
– Mỗi thi phẩm của Xuân Diệu đều có một cấu tứ khá chặt chẽ, không chỉ phơi trải tình cảm một cách đơn thuần, thi sĩ còn đưa ra những quan niệm, những triết lí về tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc, thời gian...
– Xuân Diệu có những nỗ lực, có những cách tân thơ tiếng Việt bằng sự bền bỉ học hỏi và vận dụng cấu trúc thơ phương Tây, sáng tạo những điệu nói, những cách nói mới, phát huy được triệt để các giác quan trong cảm nhận.
Lưu ý: Học sinh chọn các bài thơ tiêu biểu như Vội vàng, Thơ duyên, Đây mùa thu tới... để minh họa cho từng đặc điểm trên của phong cách thơ Xuân Diệu.
5 Đánh giá (1,0 điểm)
– Phong cách độc đáo chính là yếu tố quyết định tài năng và sức sống của tác phẩm văn học.
– Xuân Diệu đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn bởi giọng điệu riêng biệt của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác 0,5
0,5
Câu 1- 8đ: Hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 từ) có nhan đề Con lật đật.
Câu 2-12đ: Nhà thơ Trung Quốc đời Tống, Lục Du đã viết:
Công phu của thơ là ở ngoài thơ (công phu tại thi ngoại).
Suy nghĩ của anh (chị) về lao động thơ ca từ ý kiến trên.
-> Đáp án:
Câu 1:
Giải thích: con lật đật – đồ chơi quen thuộc
– Lật đật có nguồn gốc từ Nhật Bản, về sau du nhập vào Nga , tại đây nó được cải tiến và truyền bá rộng rãi trở thành nét văn hóa đặc sắc của đất nước bạch dương. Với trẻ em ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, lật đật là thứ đồ chơi quen thuộc và hấp dẫn.
– Con lật đật có nhiều đặc điểm rất đáng chú ý: vẻ mặt vui vẻ, tươi tắn, vì có bộ phận giữ thăng bằng rất tốt nên dù có bị tác động thế nào cũng luôn trở lại tư thế thẳng đứng.
Suy nghĩ của bản thân
Dù chỉ đơn giản là một món đồ chơi nhưng con lật đật lại gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ:
– Con lật đật luôn mang vẻ mặt tươi tắn, vui vẻ, đó chính là biểu hiện của sự lạc quan yêu đời. Điều này rất có ý nghĩa. Bởi, trong cuộc sống chúng ta cần phải lạc quan, vững vàng vượt qua thử thách và hơn thế chúng ta còn phải biết mỉm cười chấp nhận những thất bại để có thể tiếp tục làm lại.
– Con lật đật luôn luôn đứng thẳng dù có bị lật qua lật lại. Trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt với những khó khăn thử thách, điều quan trọng là không được cúi đầu gục ngã trước bất kì hoàn cảnh nào, phải biết đứng dậy sau mỗi thất bại để luôn hướng về phiá trước.
– Vì có một trọng tâm vững chắc nên nó có thể đứng vững dù có bị tác động thế nào. Điều này giúp mỗi chúng ta hiểu rằng mỗi người cần phải có bản lĩnh sống để có thể vững vàng dù trong mọi tình huống của cuộc sống.
Bài học cho mọi người
– Trong cuộc sống luôn lạc quan, sẵn sàng đối diện với những thử thách và biết chấp nhận thất bại để đi đến thành công.
– Mỗi người cần tự rèn luyện cho mình một bản lĩnh vững vàng để có thể tự tin, chủ động trong cuộc sống vốn rất nhiều những khó khăn, bất trắc.
Câu 2:
Giải thích
– Ở ngoài thơ : Vai trò vốn sống khả năng hiểu biết cuộc đời, sự từng trải là nhân sinh của người cầm bút.
– Lục Du muốn khẳng định sức mạnh của thơ nằm ở đời sống chứ không phải ở ngôn từ.
Bàn luận vấn đề
– Nói đến thơ là nói đến cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ, cảm hứng ấy chỉ xuất hiện trong việc tiếp xúc với hiện thực đời sống, cho nên cảm hứng thơ ca không tự nhiên mà có, nó đến trong sự va đập của nhà thơ với cuộc đời.(Nguyễn Du để có cảm hứng đau đớn lòng phải bắt đầu từ "những "điều trông thấy"...}.
– Nói đến thơ là nói đến cái Đẹp, đó là cái Đẹp bất ngờ, đa dạng, tiềm ẩn trong hiện thực đời sống và chỉ khi đi vào hiện thực người cầm bút mới có cơ duyên bắt gặp được những cái Đẹp ấy.
{Những hình ảnh thi vị trong thơ không phải lúc nào cũng là sự hư cấu mà nó
bắt nguồn từ hiện thực cuộc đời: Đầu súng trăng treo – là hình ảnh đẹp bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu...}.
– Chính hiện thực là chất liệu nhào nặn lên bản lĩnh của nhà thơ. Cuộc sống với sự tương tác của nó đem lại cho anh ta cái nhìn riêng, và đó là yếu tố quyết định tài năng của người nghệ sĩ. {Chính cuộc đời đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du (sống trong thời đại nhiều biến cố, đã đưa đến cảm thức về thân
phận bé bỏng của con người)...}.
Mở rộng, nâng cao
– Nếu chỉ có thi ngoại (chỉ có hiểu biết cuộc sống) thơ sẽ không còn thuyết phục (làm người quý thẳng, làm thơ quý cong). Vì thế bên cạnh sự hiểu biết cuộc sống, thơ còn phải là thế giới nghệ thuật của ngôn từ (cách tổ chức lời thơ, nhịp thơ...).
– Tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là sự kết hợp hài hòa của hai yếu tố "thi
ngoại" và "chuốt lời" mới tạo nên sự xuất thần.
– Chính sự cao quý của thơ nên người nghệ sĩ phải sống, phải không ngừng trải
nghiệm, phải vật lộn với ngôn từ mới có thể đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.
Đề bài : So sánh ánh sáng và bóng tối giữa Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù
Hướng dẫn cách làm :
Mở bài :
Giới thiệu khái quát về hai tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân và hai bài truyện ngắn Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù; hai chi tiết được yêu cầu cảm nhận.
Thân Bài
Cảm nhận về hai chi tiết nghệ thuật
a. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ.
– Dạng thức của ánh sáng, bóng tối
+ Ánh sáng: vừa mang ý nghĩa vật lý (những nguồn sáng xuất hiện trong tác phẩm như: Phương tây đỏ rực, ngọn đèn chị Tý, bếp lửa của bác Siêu, chuyến tàu...) vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho ước mơ, khát vọng
+ Bóng tối: vừa mang ý nghĩa vật lý (dãy tre làng đen lại, bóng tối mù mịt dày đặc trong đêm...)
– Tương quan ánh sáng, bóng tối: tồn tại trong thế giao tranh từ đầu đến cuối tác phẩm trong đó bóng tối càng lúc càng chiếm ưu thế để rồi thắng thế còn ánh sáng thì nhỏ bé, tội nghiệp. Về ý nghĩa thực nó cho thấy bức tranh phố huyện nghèo nàn, tăm tối. Về ý nghĩa biểu tượng nó cho thấy những con người nhỏ bé như chị em Liên mang trong mình ước mơ, khát vọng mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng nhưng ước mơ đã mâu thuẫn gay gắt và có nguy cơ bị bóp nghẹt bởi hiện thực tăm tối.
b. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
– Dạng thức của ánh sáng, bóng tối:
+ Ánh sáng: vừa có dạng thức vật lý ( ngọn đèn của Quản ngục, ánh sáng của vì sao Hôm , ngọn đuốc tẩm dầu..) vừa mang tính biểu tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật cao quý và thiên lương trong sáng tốt đẹp của con người.
+Bóng tối: Vừa có dạng thức vật lý (Bóng tối bao trùm trong đêm quản ngục ngồi suy nghĩ cùng cái chật hẹp, tối tăm, bẩn thỉu của buồng giam..) vừa mang tính biểu tượng cho hiện thực đen tối, ngột ngạt, bạo tàn của nhà ngục nói riêng và xã hội nói chung
-Tương quan ánh sáng, bóng tối và ý nghĩa: Có sự giao tranh gay gắt nhưng ánh sáng đã nổi bật trên nền cái tăm tối, bẩn thỉu ( như ánh sáng của bó đuốc và màu trắng của tấm lụa nổi bật trên nền của nhà giam bẩn thỉu, chật chội; như vẻ đẹp trong thiên lương của Huấn Cao và Quản ngục đã nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt)
So sánh:
– Điểm tương đồng:
+ Cả ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm đều xuất hiện với một tần số lớn
+ Ánh sáng đều biểu tượng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối biểu tượng cho hiện thực đen tối, nghiệt ngã.
+ Ánh sáng và bóng tối ở cả hai tác phẩm đều tồn tại trong thế giao tranh với nhau một cách gay gắt
+ Đều được xây dựng bằng bút pháp tương phản đối lập đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn.
– Điểm khác biệt:
+ Trong Hai đứa trẻ, ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt còn bóng tối bao trùm, chiếm ưu thế còn trong Chữ người tử tù ánh sáng lại nổi bật rực rỡ trên nền bóng tối.
+ Thông điệp mà Thạch Lam muốn gửi gắm là hãy thay đổi hiện thực để con người có thể sống trọn vẹn với ước mơ hi vọng của mình còn của Nguyễn Tuân lại là cái đẹp có một sức mạnh kì diệu, nó có thể nối liền mọi khoảng cách, có thể thanh lọc tâm hồn cho con người
+ Về Nghệ thuật: Thạch Lam miêu tả ánh sáng, bóng tối bằng thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu nhạc điệu hình ảnh còn Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ góc cạnh, giàu tính tạo hình
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều là những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tăm tối trước 1945
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn
Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc thể hiện rõ phong cách của hai nhà văn
4. Người ta thường coi bài Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi và Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh là hai áng "thiên cổ hùng văn".Anh (chị) hãy nhận xét những điểm giống nhau và khác nhau của hai tác phẩm trên về nội dung, hình thức thể loại và về ý nghĩa lịch sử.
So sánh bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh với bài Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi.
a) Chỗ giống nhau:
– Về nội dung: lên án tội ác của giặc, khẳng định chiến thắng của ta và tuyên bố độc lập.
– Về đặc trưng thể loại: tính chính luận, thể hiện ở lập luận chặt chẽ, chứng minh chính nghĩa của ta và sự độc ác, hèn nhát của giặc.
– Về giá trị lịch sử: Cả hai đều có thể gọi là những bản tuyên ngôn độc lập, mở ra một kỉ nguyên mới, một thời đại mới cho đất nước.
b) Chỗ khác nhau:
– Đại Cáo Bình Ngô ngoài yếu tố chính luận( dùng lí lẽ, lập luận lô gic) có sáng tạo hình tượng rất cụ thể, sinh động, đem đến cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Đây là đặc điểm về thể loại của các tác phẩm thời trung đại với tình trạng văn sử triết bất phân( Văn học thuật, văn hành chính và văn hình tượng chưa có sự phân biệt rạch ròi).
– TNĐL là tác phẩm thời hiện đại nên có sự phân biệt rõ ràng về mặt thể loại: Đã là văn chính luận thì hoàn toàn dùng lí lẽ. Tình cảm của tác giả, nếu có, chủ yếu ở chỗ mài sắc giọng văn đanh thép, hùng hồn
5. Vì sao có thể nói Tuyên Ngôn ĐộcLập là một văn bản chính luận nhưng vẫn giàu tính nhân bản?
– Nói qua các giá trị chính trị, lịch sử, pháp lí...
– Nội dung tính nhân bản:
+ Khẳng định quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng của con người và của toàn dân tộc.
+ Lên án tội ác đối với con người về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa..
+ Xót xa trước những đau thương của nhân dân Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân Pháp( dân ta chịu hai tầng xiềng xích... dân ta càng cực khổ, nghèo nàn... hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói...)
+ Đề cao những hành vi nhân đạo và khoan hồng của người Việt Nam đối với người Pháp.
+ Lên án những hành vi hèn hạ, lật lọng của thực dân Pháp. Khẳng định hành động dũng cảm đứng lên giành quyền sống cũng như quyết tâm giữ vững quyền độc lập tự do của con người Việt Nam.
6. Tuyên Ngôn Độc Lập không chỉ hấp dẫn bởi nghệ thuật nghị luận mẫu mực mà còn lay động sâu sắc người đọc bởi tình cảm thắm thiết của tác giả. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Lâu nay, khi phân tích tuyên ngôn độc lập, nhiều người chỉ khai thác phương diện nghệ thuật nghị luận mẫu mực mà coi nhẹ hoặc bỏ qua một phương diện quan trọng khác là nội dung tình cảm, chất văn của văn bản. Chế Lan Viên sớm chú ý tới phương diện thứ hai này trong bài viết "Trời cao xanh ngắt sáng tuyên ngôn".
* Phương diện thứ nhất: Nghệ thuật nghị luận mẫu mực.
* Phương diện thứ hai: Về sức lay động của những tình cảm thân thiết của bản tuyên ngôn, nên chú ý tới mấy ý chính sau:
– Thái độ căm phẫn của tác giả khi vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta( chúng thi hành ...chúng lập ra...chúng thẳng tay...chúng ràng buộc...chúng dùng..chúng cướp...chúng giữ độc quyền...chúng đặt ra...chúng không cho).
– Tình cảm xót thương của tác giả khi nói đến nỗi đau của dân tộc ta.( tắm những cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu...nòi giống ta suy nhược... dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều...)
– Tình cảm thiết tha, mãnh liệt; thái độ cương quyết, đanh thép khi nói đến quyền hưởng tự do,độc lập...của nhân dân Việt Nam cũng như quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập dân tộc( sự thật là...sự thật là...chúng tôi tin rằng...quyết không thể không công nhận...một dân tộc gan góc...một dân tộc đã gan góc...dân tộc đó phải được tự do!Dân tộc đó phải được độc lập).
– Bài văn toát lên khát vọng, ý chí mãnh liệt của tác giả và cũng là khát vọng muôn đời của dân tộc ta.
– Tất cả những tình cảm trên được bộc lộ qua một giọng văn đặc biệt: khi thì nồng nàn thiết tha,
Đề bài :
"Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy" (T.Sêkhốp)
Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên . Chứng minh bằng các tác phẩm văn học .
Hướng dẫn :
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
1.Giải thích ý kiến:
– Người nghệ sĩ chân chính: là người ý thức được thiên chức của mình trong quá trình sáng tạo là "nâng đỡ cái phần tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn", tác phẩm của họ sinh ra là vì con người, hướng đến cuộc sống tốt đẹp của con người.
– Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi người cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà văn (chú ý cách diễn đạt: một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy – thể hiện rõ tính chất bắt buộc). Nói cách khác, nếu không có lòng nhân đạo thì không thể trở thành nhà văn chân chính.
– Hơn nữa, Sê-khốp còn đòi hỏi tình cảm nhân đạo ở người nghệ sĩ phải là thứ căn bản, có chiều sâu từ trong cốt tủy chứ không chỉ là tình cảm nông cạn, hời hợt, mơ hồ. Tình càm nhân đạo trở thành phẩm chất không thể thiếu của người cầm bút. Đó chính là cái tâm của người nghệ sĩ.
2. Bình luận:
Ý kiến của T.Sê- khốp hoàn toàn đúng đắn vì:
– Tác phẩm văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm chứa tinh thần nhân văn sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người. Tác phẩm văn học chỉ có ý nghĩa khi mục đích sáng tác của nhà văn là nhằm phục vụ cuộc sống con người (Văn chương sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có)
– Một trong những chức năng cơ bản của văn học là giáo dục, là cứu vớt con người. Trong thực tế, không gì có sức mạnh giáo dục con người bằng chính tình cảm của con người. Do vậy phải xuất phát từ tình cảm chân thực.
– Mỗi văn bản văn học bắt đầu bằng sự rung động cực điểm của tâm hồn người nghệ sĩ. Phải sẵn mang trong lòng mối thương cảm sâu sắc với cuộc đời, người nghệ sĩ mới có thể cầm bút và bắt đầu quá trình sáng tạo (Thơ phát khởi từ trong lòng người ta hay Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần). Nhà văn phải là người sống sâu sắc với cuộc đời, với nhiều số phận, cảnh ngộ, phải hòa với cuộc đời và viết văn vì cuộc đời, luôn giữ cho cái tâm trong sáng.
– Từ phía tâm lí tiếp nhận của độc giả: Độc giả luôn mong đợi những trang viết chứa đựng lòng yêu thương chân thành của nhà văn. Chỉ những trang viết như thế mới có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Tác phẩm của nhà văn sẽ làm cho tâm hồn người đọc thêm trong sáng, phong phú.
– Ý kiến của Sê-khốp không có nghĩa là phủ nhận những phẩm chất khác của người nghệ sĩ mà muốn nhấn mạnh và đề cao tình cảm nhân đạo như là yếu tố đầu tiên không thể thiếu của người nghệ sĩ. (Chú ý cách nói phải có chứ không phải chỉ có).
3. Chứng minh:Học sinh chọn một vài tác phẩm, phân tích làm nổi bật tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả. Tập trung vào những biểu hiện cơ bản:
a.Tố cáo tội ác của các thế lực chà đạp lên quyền sống của con người
–Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tố cáo thế lực phong kiến chà đạp lên nhân phẩm của Thúy Kiều , bán con người thành thứ hàng hóa để trao đổi , mua bán (dẫn chứng-phân tích ).
–Chí Phèo lên án chế độ phong kiến tước đoạt quyền được sống lương thiện của con người (dẫn chứng-phân tích ).
–Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài lên án hai thế lực ở miền núi là cường quyền và thần quyền đã bóp nghẹt quyền sống của biết bao người lao động như Mị và A Phủ (dẫn chứng-phân tích ).
à Đó là những chế độ phi nhân tính .
b.Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người :
Qua những tác phẩm của mình , nhà văn đã hết lòng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của con người thông qua các nhân vật trong tác phẩm :
-Thúy Kiều không chỉ là cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn có những đức tính tốt đẹp như hiếu thảo , trọng tình , chung thủy v.v (dẫn chứng-phân tích )
–Chí Phèo là con người có bản tính lương thiện nên cuối cùng cũng trở về với bản chất lương thiện của mình (dẫn chứng-phân tích ).
-Tràng , bà cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân là những con người nhân hậu (dẫn chứng-phân tích )
-Người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Chân có một tình thương yêu vô bờ bến đối với những đứa con : thương con , yêu con chị chấp nhận tất cả . Mỗi lần chồng đánh , chị xin chồng lên bờ mà đánh để những đứa con không phải chứng kiến , không bị tổn thương về tinh thần . Chị không muốn li dị với chồng cũng bởi thương con ví "Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba , để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con (...) Phải sống cho con chứ không thể sống cho mình" . Và ít ai ngờ rằng , niềm vui lớn nhất của chị là "lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no"
c.Thể hiện những ước mơ , khát khao hạnh phúc , khát vọng vươn lên của họ :
–Chí Phèo khao khát được sống lương thiện .
–Mị trong Vợ chồng A Phủ khao khát sống , khao khát tự do , bừng dậy một sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân và khi quyết định cởi trói cho A Phủ .
–Vợ nhặt : Kim Lân đã thắp lên trong các nhân vật niềm hi vọng về một cuộc sống mới , tốt đẹp hơn . Sống giữa không khí đói khát , chết chóc bủa vây nhưng bà cụ Tứ vẫn có một niềm tin mãnh liệt vào tương lai "may ra ông giời cho khá" , "không ai giàu ba họ , khó ba đời" và mọi người trong cái gia đình nhỏ bé ấy vẫn hăm hở thu dọn nhà cửa cho gọn gàng , sạch sẽ .
d.Các tác giả miêu tả , thể hiện những điều trên bằng một thái độ cảm thông , bằng tình cảm yêu thương , xót xa , bênh vực
-Nguyễn Du như hòa vào nỗi đau của Thúy Kiều :
-Chẳng vò mà rối , chẳng dần mà đau
-Đã cho lấy chữ hồng nhan ...
-Đau đớn thay ....
-Giọng điệu Tô Hoài như hòa vào dòng tâm tư của Mị trong đêm tình mùa xuân
Phơi bày , tố cáo tội ác tàn bạo của bọn thống trị , nói lên nỗi khổ, đòi quyền sống cho những người lao động , những con người yếu đuối ...cái nhìn của các nhà văn rõ ràng không phải là cái nhìn thương hại , mỗi câu văn của họ viết ra không phải để bố thí tình thương cho những kiếp người bất hạnh . Ta đọc được trong đó niềm cảm thông , yêu thương , xót xa đến tê tái cõi lòng của mỗi trái tim nghệ sĩ . Nếu không thấu hiểu , không đồng cảm sâu xa thì không bao giờ họ sáng tạo được những tác phẩm chân thực như thế .
Đánh giá
-T.Sêkhôp hoàn toàn có lí khi đề cao phẩm chất nhân đạo của nhà văn .
-Lí do :
+Tác phẩm văn học chân chính phải hàm chứa tinh thần nhân văn sâu sắc , chứa đựng niềm vui , nỗi khổ của con người .
+Một trong những chức năng quan trọng của văn học là giáo dục , là cứu vớt con người . Do đó , phải xuất phát từ tình cảm chân thực .
+Mỗi văn bản văn học bắt đầu bằng sự rung động cực điểm của tâm hồn người nghệ sĩ .Phải sẵn mang trong lòng mối thương cảm sâu sắc với cuộc đời , người nghệ sĩ mới có thể cầm bút và bắt đầu quá trình sáng tạo .
+Về phía người tiếp nhận : cũng luôn mong đợi những trang viết chứa đựng lòng yêu thương chân thành .
Kết luận
Với những sáng tác trên và còn nhiều sáng tác nữa (chưa được bàn đến ở đây) người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con người của các nhà văn . Điều đó đã góp phần khẳng đinh ý kiến của T.Sêkhôp hoàn toàn đúng đắn .
#}y~
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com