Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

chap 8

Đại Đào sợ quá "rầm" một tiếng quỳ dạp xuống đất nói: "Nô tỳ oan uổng".

"Oan uổng?" Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói chưa có gì lo lắng, ánh mắt láo liên lập tức trong lòng đã hiểu phần nào. Hắn cười nhạt nói: "Ha ha. Không dùng đại hình ngươi không nhân tội. Công công, hãy tra khảo con tiện tỳ này".

"Được! Dụng hình!" Tiêu công công vung tay. Hai cung nữ cao lớn thô kệch, chân tay nhanh nhẹn, cho Đáng chỉ vào hai tay Đại Đào rồi ra sức kéo. Tiếng kêu thảm thiết của Đại Đào vang lên khắp đại sảnh, cùng với đó là tiếng vỡ vụn của xương cốt khiến lòng người run sợ, cực kỳ doạ người.

Đại Đào chỉ kiên cường trong khoảng thời gian uống chưa hết một chung trà rồi gào thảm thiết nói: "Xin tha mạng. Nô tỳ nói" Tiêu công công vung tay, lúc này hai cung nữ mới thu lại Đáng chỉ. Mười ngón tay của Đại Đào máu thịt lẫn lộn, hình như đã có mấy đầu ngón tay đã bị kẹp nát, đau đớn như châm kim, suýt chút nữa ngất xỉu. Đại Đào quỳ dạp trên mặt đất khóc nói: "Là trà của Ung Vương. Ung Vương đưa cho nô tỳ năm lạng, bắt nô tỳ nói với Nguỵ Thái y đây là trà Khổ Đinh mới tiến cống. Tất cả cũng đều là do Ung Vương dạy nô tỳ. Nô tỳ thực sự không biết uống trà vào mê man không tỉnh. Thật sự việc này không liên quan tới nô tỳ".

Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng. Quả nhiên chuyện này có quan hệ tới Ung Vương vậy đừng trách mình lòng dạ độc ác. Phải điều tra tới cùng, thẩm vấn nghiêm chỉnh các chi tiết liên quan. Đại Đào này nói rất cặn kẽ, không giống như đang bịa chuyện.

Trong cả quá trình thẩm vấn có một thái giám chuyên môn phụ trách ghi chép khẩu cung ghi lại, cuối cùng để Đại Đào ký tên rồi mới đeo gông xiềng dẫn đi.

Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công thương lượng. Cả hai quyết định tới ngay Ngự dược viện.

Căn cứ theo quy định của hoàng cung. Bất kỳ loại thuốc nào dùng cho Hoàng Thượng đều phải chia làm hai phần. Một phần được lưu lại, một phần để Hoàng Thượng dùng. Phần lưu lại có thể dùng để kiểm tra lại xem có tồn tại vấn đề gì không.

Khi hai người tới Ngự dược viện, tất nhiên ở đây cũng đã đóng cửa. Sau khi viên quan trực mở cửa ra thấy Tiêu công công và tam nha Đô Chỉ Huy Sứ tới liền vội vàng chạy đi báo cho Viện sứ Ngự dược viện. Viện sứ Ngự dược viện họ Khang không kịp mặc quan bào vội vàng chạy ra nghênh đón.

Đỗ Văn Hạo nói: "Khang Viện sứ, xin mời đem tất cả đơn thuốc cùng mẫu thuốc Hoàng Thượng dùng trước khi băng hà ra đây. Bản quan muốn điều tra thực hư".

Khang Viện sứ khó xử, ông ta chắp tay nói: "Tướng quân, thật sự xin lỗi. Chỉ có Hoàng Thượng hạ chỉ mới có thể lấy đơn thuốc cùng mẫu thuốc lưu lại ra để kiểm tra thực hư".

Tiêu công công the thé mắng: "Đầu ngươi hôn mê à? Hoàng Thượng đã băng hà, chưa chỉ định ngưòi thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Ngươi bảo chúng ta đòi Thánh chỉ ở chỗ nào?"

"Hì hì. Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu cũng được. Nếu không chúng ta chỉ còn cách đợi tới khi tân Hoàng Thượng lên ngôi hãy điều tra. Thật sự xin lỗi. Đây là quy định. Làm trái với quy định chính là tử tội. Ty chức không dám làm trái".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ai kêu ngươi làm trái? Bản quan phụng ý chỉ của Hoàng Thái Hậu điều tra vụ án Nguỵ Triển không làm tròn chức trách, cần lấy thuốc lưu tồn để kiểm tra. Ngay cả điều này cũng không được sao?"

Khang viện sứ cúi đầu hành lễ nói: "Tất nhiên là được. Nhưng mà dựa theo quy định, tướng quân vẫn phải đưa raăn bản ý chỉ của Hoàng Thái Hậu làm bằng chứng. Ty chức nhìn thấy ý chỉ mới có thể hạ lệnh đi lấy. Bằng không dù ty chức đồng ý, chỉ e nhị vị giám sát của Ngự Sử đài không nhìn thấy ý chỉ cũng sẽ không đồng ý. Một khi bọn họ không đồng ý, không thể lấy đơn thuốc cùng thuốc lưu giữ được".

Các vấn đề liên quan tới việc dùng thuốc của Hoàng Thượng trong hoàng cung được quy định cực kỳ nghiêm ngặt. Sau khi kê đơn thuốc, phải trải qua cục dược tiến hành kiểm tra lại, xác nhận không có vấn đề gì, giao cho Ngự dược viên dựa theo đơn thuốc tiến hành bốc thuốc gấp đôi liều dùng. Sau khi phối thuốc lại trả qua sự kiểm tra của nôi thị giám sát Ngự Sử Đài, chia thuốc ra làm hai phần. Một phần đem sắc, một phần niêm phong cất vào kho, đóng dấu, gắn xi phong kín lại, hai nội thị giám sát chia nhau ký tên rồi mới niêm phong cất vào tủ bảo vệ. Chìa khoá của tủ bảo vệ này cũng do Viện sử cùng hai nội thị giám sát quản lý. Phải sử dụng đồng thời chìa khoá của ba người mới có thể mở ngăn tủ bảo quản ra. Chế độ nghiêm ngặt đó chính là để bảo đảm thuốc lưu giữ không bị đánh tráo.

Trong khi đó muốn lấy thuốc lưu giữ tiến hành điều tra thì nhất định phải có Thánh chỉ của Hoàng Thượng. Không có Thánh chỉ của Hoàng Thượng, tự tiện mở ra chính là tử tội. Khang Viện sứ cũng không thể giỡn chơi với cái đầu của mình được.

Khang Viện sứ thấy Đỗ Văn Hạo không dùng sức mạnh để ép lấy thuốc lưu giữ, ông ta thở phào nhẹ nhõm, cười nói: "Tướng quân, Ung Vương gia đã có nghiêm lệnh, không có sự đồng ý của người, cho dù là bất kỳ kẻ nào cũng không được lấy thuốc lưu giữ ra kiểm tra. Vì vậy muốn lấy thuốc ra còn cần sự cho phép của Ung Vương gia".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Khang Viện sử hỏi: "Thật vậy sao?"

"Đúng vậy. Đây chính là tử lệnh của Ung Vương gia. Ty chức không dám không theo. Ha ha".

"Vậy coi như đã làm phiền. Cáo từ!"

Đỗ Văn Hạo dẫn theo mấy ngưòi Tiêu công công rời khỏi Ngự dược viện. Tiêu công công khẽ hỏi Đỗ Văn Hạo: "Tướng công, chuyện này bỏ qua như vậy sao?"

"Đương nhiên là không" Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tại sao Ung Vương lại ra nghiêm lệnh này? Ha ha, chỉ sợ là giấu đầu lòi đuôi. Đi, chúng ta tới gặp Hoàng Thái Hậu lấy ý chỉ".

Nhóm người của Đỗ Văn Hạo đi vào tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hâu. Ngày mai là ngày đưa tang Thái Hoàng Thái Hậu. Đêm nay là đêm cuối cùng, Hoàng Thái Hậu mang theo các phi tần túc trực trước linh cữu. Sau khi thông báo vào trong, Hoàng Thái Hậu lập tức triều kiến.

Hoàng Thái Hậu cho tả hữu lui ra, ngoắc tay ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo tới ngồi cạnh mình trên giường: "Văn Hạo, ngươi tới đúng lúc, ta đang định cho người tới truyền đòi ngươi".

Bây giờ đã gần nửa đêm canh ba. Hoàng Thái Hậu sốt ruộ phái người triệu kiến hắn nhất định là có chuyện khẩn cấp. Đỗ Văn Hạo chưa kịp bẩm báo tiến triển của tình hình điều tra đã vội hỏi: "Đã xảy ra chuyện gì sao?"

"Không có! Chỉ là có một chuyện quan trọng. Lúc trước ta đã không để ý tới. Vừa mới rồi quan chấp sự phụ trách khiêng linh cữu bẩm báo với ta: Muốn cử hành lễ từ linh rạng sáng ngày mai thì phải có người thống lĩnh Hoàng tộc tế lễ theo thứ tự. Sau đó khi khiêng linh cữu đưa tang cũng phải có người thống lĩnh Hoàng tộc bắt đầu nghi thức tế lễ, tiến hành tế lễ tổ tông. Khiêng linh cữu trước Ngọ Môn cũng phải có người chỉ huy. Ai là người có thể đảm đương trách nhiệm này?"

Đỗ Văn Hạo trả lời không cần suy nghĩ: "Điều này đương nhiên là người. Trong Hoàng tộc còn có ai cao hơn người sao?"

"Quan chấp sự nói: Dựa theo quy định của tổ tiên, người chủ trì tế lễ chỉ có thể là Hoàng Đế'.

Hoàng Đế ở đây chính là Hoàng Đế kế vị. Người chủ trì tế lễ của Hoàng Đế băng hà chính là chuyện đại sự. Điều này Đỗ Văn Hạo hiểu, vấn đề ở đây là Ung Vương và lục Hoàng tử đều tranh giành ngôi vị Hoàng Đế. Dựa theo quy định trong Hoàng cung, người trủ trì tế lễ chính là Hoàng Đế kế thừa ngôi vị. Một khi xác định bất kỳ ai trong số hai người trủ trì tế lễ khiêng linh cữu thì đã đương nhiên chấp nhận người đó chính là người thừa kế ngôi vị Hoàng Đế.

Đỗ Văn Hạo gật đầu. Hắn cũng cảm thấy đây là một chuyện khó giải quyết. Hắn nhìn Hoàng Thái Hậu hỏi: "Thao Thao, ý của nàng?"

"Ta?" Hoàng Thái Hậu cười nói: "Ta không có ý gì, ngươi cứ nói đi".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Chuyện này có quan hệ tới người thừa kế ngôi vị. Ta không thể làm thay cho nàng được".

Hoàng Thái Hậu sẵng giọng nói: "Ngươi còn khách sáo với ta sao? Ngươi đã nói giúp ta. Ngươi có chủ ý gì hãy mau nói ra đi".

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng cầm bàn tay mềm mại của nàng nói: "Được, ta giúp nàng nhưng mà có một chuyện ta muốn bẩm báo với nàng trước..."

Hoàng Thái Hậu cau mày nói: "Ta đang như có lửa đốt trong lòng ngươi còn nói sang chuyện khác. Trước tiên hãy nói chuyện này. Việc khác nói sau".

"Chuyện ta muốn nói chính là có liên quan tới chuyện đó. Sau khi nàng nghe xong chuyện này, có lẽ sẽ giúp cho nàng hạ quyết tâm ai là người đảm đương trách nhiệm trủ trì trách nhiệm khiêng linh cữu".

"Hả?" Hoàng Thái Hậu ngạc nhiên nhìn hắn: "Vậy ngươi nói đi".

Đỗ Văn Hạo liền thuật lại chuyện điều tra vừa rôi, cuối cùng hắn nói: "Sau khi điều tra sơ bộ thì thấy Ung Vương từng bắt Đại Đào, thị nữ thân cận của Đức Phi nương nương bưng một chén trà tới cho Thái y thừa Nguỵ Triển uống. Sau khi uống chén trà này, Nguỵ Triển ngủ mên man tới chiều tối ngày hôm sau. Sau khi tỉnh lại thì toàn thân hắn sực mùi rượu. Từ trước tới nay Nguỵ Triển không uống rượu vì vậy ta hoài nghi trong này có chuyện mờ ám nào đó".

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu trở nên tái nhợt. "Ngươi nói là Nhan nhi giở trò quỷ khi Hoàng Thượng băng hà sao?"

Đỗ Văn Hạo chậm rãi gật đầu nói: "Mặt khác căn cứ vào lời của Đức Phi nương nương: Sau khi thuốc của Hoàng Thượng tăng thêm đan dược chu sa, bệnh không thuyển giảm, trái lại còn trầm trọng hơn vì vậy ta nghi ngờ thuốc của Hoàng Thượng đã bị người thay đổi. Vừa rồi ta và Tiêu công công tới Ngự dược viện định bụng lấy thuốc lưu giữ ở đó để kiểm tra làm rõ thực hư. Kết quả Khang Viện sứ nói muốn lấy thuốc lưu giữ để kiểm tra phải có Thánh chỉ hoặc ý chỉ của Hoàng Thái Hậu. Nhưng Khang Viện sứ còn nói: Lúc trước Ung Vương gia có ra nghiêm lệnh ai muốn lấy thuốc điều tra phải có mệnh lệnh của Ung Vương gia".

"Thật vậy sao?" Hoàng Thái Hậu cắn đôi môi son suy nghĩ sau đó chậm rãi đứng dậy nói: "Đi! Ngươi theo ta tới lấy thuốc lưu giữ điều tra".

Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng trong lòng. Hắn vội kêu Tiêu công công mang đội Nội thị đi cùng. Sau khi Ngự giá của Hoàng Thái Hậu tới Ngự dược viện, cảnh cửa mở ra, viên quan trực thấy Hoàng Thái Hậu thân chinh ngự giá tới thì hoảng sợ giống như con thỏ vậy, hắn vội vàng chạy đi báo cho Khang viện sứ.

Khang viện sứ vừa mới cởi quần áo nằm nghỉ lại, vẫn chưa ngủ được, nhận được tin tức liền hấp tấp mặc quan bào chạy tới nghênh đón. Nội thị giám sát do Ngự sử đài phái tới ở Ngự dược viện cũng nhận được thông báo Hoàng Thái Hậu muốn kiểm tra vấn đề của thuốc lưu giữ thì cũng cuống quýt rời khỏi giường chẠtới.

Hoàng Thái Hậu chỉ lạnh lùng nói một câu với ba người đó: "Lấy thuốc dùng cho Hoàng Thượng trong ngày băng hà. Ai gia muốn kiểm tra".

Khang viện sứ và hai viên nội thị giám sát liên thanh trả lời, chạy đi mở các khay tủ, cẩn thận lấy thuốc lưu giữ ra. Sau khi kiểm tra dấu vết niêm phong vẫn còn nghiêm chỉnh, bỏ vào khay đưa tới dâng lên Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu nói với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ ái khanh, người hãy tới kiểm tra".

"Dạ" Đỗ Văn Hạo tiến lên tiếp nhận khay đựng thuốc. Sau khi kiểm tra thấy dấu vết niêm phong không có gì thay đổi, xác nhận thuốc không bị đánh tráo, hắn mới dùng tiểu đao, mở niêm phong, lấy gói thuốc bên trong đặt lên bàn, cởi bỏ dây buộc, mở ra nhìn. Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói với Hoàng Thái Hậu: "Thái Hậu, vi thần còn cần phải kiểm nghiệm những gói thuốc trước đó để tiến hành đối chiếu. Tốt nhất là lấy trong vòng thời gian mười ngày".

"Được. Hãy mang thuốc dùng cho Hoàng Thượng trước đây được giữ lại ra kiểm nghiệm".

Khang viện sứ cùng hai viên nội thị vội vàng chạy đi lấy thuốc dùng cho Hoàng Thượng trong vòng mười ngày mang tới. Sau khi Đỗ Văn Hạo lấy ra, nhìn qua một lượt rồi hắn nói với Hoàng Thái Hậu: "Thái Hậu, thỉnh người di giá tới xem".

Hoàng Thái Hậu đứng dậy, chậm rãi đi tới trước bàn.

Đỗ Văn Hạo chỉ vào mười gói thuốc để trân bàn nói: "Hoàng Thái Hậu, những thuốc dùng cho Hoàng Thượng đều do vi thần kê đơn. Nhưng có gia tăng thêm một vị thuốc. Đó là Chu sa. Căn cứ theo điều tra biết được chính là Ung Vương gia đã đề nghị gia tăng Chu sa. Hơn nữa lượng Chu sa trong mười thang trước này đều rất nhiều, vượt qua giới hạn bình thường mấy lần. Ba thang sau lượng Chu sa gấp mười lần. Đặc biệt ở thang cuối cùng này, xin thỉnh Hoàng Thái Hậu nhìn xem, lượng Chu sa trong thang thuốc này đã vượt qua lượng Chu sa trong ba thang kia mấy chục lần. Với lượng Chu sa đó đủ để cho một người trúng độc chết rất nhanh chóng".

Khang viện sứ cũng là Ngự y, ông ta nghe vậy sợ hãi, rụt rè hỏi một câu: "Tướng quân, không phải Chu sa là thượng phẩm tiên dược sao? Hình như hạ quan chưa bao giờ nghe thấy trúng độc Chu sa".

Hoàng Thái Hậu cũng nghi ngờ nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: "Cách để kiểm nghiệm lời nói của vi thần chính là hãy thử nghiệm một lần. Dùng một lượng Chu sa giống như lượng Chu sa dùng cho Hoàng Thượng trong ngày băng hà cho một con lợn béo có trọng lượng tương tự với trọng lượng của một người ăn thử là sẽ biết có trúng độc hay không".

Hoàng Thái Hậu thấy Đỗ Văn Hạo khẳng định như vậy thì vung tay nói: "Đi tìm một con lợn phù hợp tới đây. Lấy liều Chu sa tương tự như vậy cho nó ăn".

Tiêu công công trả lời rồi lập tức dẫn người đi tới chỗ chăn nuôi súc vật ở Ngự Thiện Phòng, tìm một con lợn rồi mang tới Ngự dược phòng.

Khang viện sứ cùng hai nội thị giám sát của Ngự Sự Đài ước lượng lượng Chu sa trong gói thuốc rồi mang tới một liều Chu sa tương tự, quấy vào trong thức ăn gia sức, ép con lợn đó ăn.

Chỉ chưa tới thời gian ăn xong một bữa cơm, con lợn đó liền kêu lên một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, miệng sùi bọt mép. Chỉ trong một thời gian đốt một nén nhang, nó run rẩy nằm trên mặt đất sau đó thì không nhúc nhích được nữa.

Tiêu công công tiến lên kiểm tra hơi thở của con lợn, rồi khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, con lợn đã chết".

Hoàng Thái Hậu quá sợ hãi, nàng đứng dậy đi tới trước, ngồi xổm kiểm tra hơi thở của con lợn ngay lập tức sắc mặt tái nhợt, chậm rãi đứng lên, nhìn chằm chằm vào mặt Khang viện sứ hỏi: "Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?"

 Chương 398: Thẩm vấn đêm khuya 

Khang viện sứ hốt hoảng quỳ xuống, dập đầu nói: "Hoàng Thái Hậu, vi thần không biết. Những gói thuốc này không bốc theo đơn cũ, cũng không phải do vi thần kiểm tra".

"Là ai?" Hoàng Thái Hậu lạnh lùng hỏi.

"Căn cứ theo ký tên trên gói giấy, nhất định là Ngự dược viện Viện phán Hoàng Cẩm Mộc và Hồ Húc kiểm nghiệm".

Hoàng Thái Hậu quay đầu nhìn Tiêu công công nói: "Hãy phái người đi bắt hai người đó tới đây".

Tiêu công công trả lời rồi mang theo một đội Nội thị vội vã rời khỏi Ngự dược viện.

Trong đại sảnh Ngự dược viện, Hoàng Thái Hậu âm trầm, nghiêm mặt ngồi lặng lẽ. Dù chính mắt nàng đã nhìn thấy con lợn trúng độc Chu sa mà chết nhưng trong lòng vẫn trăm mối tơ vò. Nàng nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi: "Đỗ ái khanh, vì sao Chu sa có thể trúng độc?"

Người cổ đại hoàn toàn tin tưởng Chu sa không có độc đó là vì Chu sa không giống với thạch tín. So với thạch tín, lượng trúng độc phải nhiều hơn nhiều, dẫn tới cái chết lại càng nhiều hơn. Trong khi đó lượng Chu sa dùng trong thuốc lại rất bình thường, không đạt tới lượng để gây chết người. Dù tương truyền là Chu sa có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng mà ngay cả dân thường cũng biết cần phải có đại sự luyện đan chế luyện mới thành vì vậy không ai vì muốn kéo dài tuổi thọ mà trực tiếp dùng Chu sa. Vì vậy việc trúng độc Chu sa cực kỳ hiếm gặp. Chính vì vậy người cổ đại thiếu sự hiểu biết về độc tính của Chu sa. Hơn nữa đa phần chu sa gây trúng độc mãn tính. Ví dụ như một số bậc đế vương mưu cầu trường sinh bất lão dùng đan dược có Chu sa nên trở thành người trúng độc mãn tính.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ kỹ lưỡng cách giải thích vấn đề này, Hắn cúi người nói: "Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu. Phàm cái gì gọi là thuốc thì đều có ba phần độc. Bất kỳ loại dược liệu nào cũng có độc. Cứ nhìn xem liều lượng dùng trong đơn. Nếu như liều thuốc nằm trong phạm vi bình thường, cho dù loại kịch độc như thạch tín cũng là dược liệu. Như trong đơn thuốc Thánh Huệ có cao thạch tín, có thể dùng để trị liệu vết thương lở loét ác tính làm thịt thối. Trong Tử Kim đan có phối hợp với thạch tín, cóp thể trị chứng hàn đờm, thở khò khè. Nhưng nếu một khi vượt quá liều thuốc dùng thì cho dù dược liệu thưởng phẩm như Chu sa cũng trở thành độc vật. Lại ví dụ như dược liệu "Rễ bản lam" (vị thuốc Bắc dùng giải nhiệt, tiêu độc, phòng bệnh) thường dùng trị liệu cảm mạo, ôn bệnh phát nhiệt. Từ xưa tới nay trong tất cả các y thư đều không ghi "Rễ bản lam" có độc nhưng mà nếu xử dụng liều lượng lớn cũng sẽ trúng độc chết. Trước kia vi thần hành nghề y cũng đã từng gặp qua bệnh án này. Lại ví dụ như "Thanh mộc hương" có thể được dùng trị chứng đau bụng. Y thư cũng không ghi có độc nhưng mà dùng với liều lượng lớn cũng có thể gây ra cái chết. Nếu như Hoàng Thái Hậu không tin thì có thể nhân dịp này kiểm nghiệm lại lần nữa".

Hoàng Thái Hậu nói: "Ai gia tin tưởng lời của ngươi, không cần phải thử".

Đỗ Văn Hạo khom người, chắp tay nói: "Đa tạ Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thượng dùng Chu sa còn có một điều cực kỳ hại. Đó chính là bệnh của Hoàng Thượng. Bệnh của Hoàng Thượng gọi là thận suy kiệt. Đây là do thận xuất hiện vấn đề. Trong khi đó hậu quả trực tiếp của dùng Chu sa quá liều đó là làm tăng mức độ của thận suy kiệt khiến cho bị suy thận cấp tính mà chết. Vì thế đối với Hoàng Thượng mà nói, dùng Chu sa quá liều không khác gì dùng thạch tín".

Hoàng Thái Hậu chậm rãi gật đầu nói: "Ai gia đã hiểu. Chuyện này nhất định phải tra ra manh mối. Ai gia tất có phán xét".

"Dạ!" Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Trước đây hắn một mực nghi ngờ Ung Vương gia đứng sau giở trò quỷ. Bây giờ xem ra càng có nhiều điểm để chứng minh điều này. Chỉ cần Hoàng Thái Hậu có thái độ này, Ung Vương nhất định sẽ không thể đăng cơ".

Một lát sau Ngự dược viện Viện phán Hoàng Cẩm Mộc cùng Hồ Húc bị dẫn tới. Ngay khi cả hai nhìn thấy gói thuốc mở ra để trên bàn, trên mặt đất còn có một con lợn chết tức thì cả hai giật nảy mình, quay người quỵ xuống lê tới dập đầu.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng hỏi: "Những gói thuốc trên bàn có phải do các ngươi phối chế và kiểm nghiệm không?"

Tiêu công công bước tới cầm gói thuốc để trên mặt đất trước mặt hai người. Sau khi hai người xem xét cẩn thận thì dập đầu trả lời là đúng.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: "Lúc nãy Ai gia đã lấy một lượng Chu sa ngang bằng với lượng các ngươi dùng trong gói thuốc cho lợn ăn. Kết quả con lợn trúng độc chết. Hãy nói đi, đây là chuyện gì?"

Hai người sợ ngây người, dập đầu thình thịch nói: "Hoàng Thái Hậu tha mạng! Đây toàn bộ là chỉ lệnh của Ung Vương gia cho bọn vi thần làm".

Mày liễu của Hoàng Thái Hậu dựng lên, nàng lạnh lùng nói: "Đến tột cùng là đã xảy ra chuyện gì? Hãy nói thật ra. Nếu không Ai gia xử tử lăng trì hai ngươi, tịch thu gia sản cả nhà các ngươi".

Hai người sợ tới mức hồn phi phách tán. Hoàng Cẩm Mộc run rẩy nói: "Vi thần nguyện nhận tội. Trước khi Hoàng Thượng băng hà...".

"Chờ một chút!" Đỗ Văn Hạo cắt ngang lời, hắn nhìn Hoàng Thái Hậu: "Hoàng Thái Hậu, tách hai người này ra thẩm vấn từng người một. Ghi lại khẩu cung sau đó đối chiếu hai khẩu cung là biết thật hay giả".

Hoàng Thái Hậu giật mình. Nàng sai người mang Hồ Húc ra đợi thẩm vấn sau, thẩm vấn Hoàng Cẩm Mộc trước.

HHoàng

Hoàng Cẩm Mộc dập đầu nói: "Trước khi Hoàng Thượng băng hà ba ngày, Ung Vương gia tới Ngự dược viện, gọi hai người vi thần ra ngoài nói: Hôm nay tinh thần Hoàng Thượng không tốt, cần điều dưỡng. Ung Vương nói đã tham khảo Trịnh Cốc, Viện sứ Thái y viện là có thể gia tăng liều lượng Chu sa trong thang thuốc của Hoàng Thượng.

Hai người vi thần có phần khó xử, bèn nói chỉ có thể bốc liều lượng thuốc theo đơn thuốc. Ung Vương gia nói đây là để kéo dài tuổi thọ của Hoàng Thượng. Nếu xảy ra chuyện gì Vương gia sẽ chịu trách nhiệm, bảo hai người vi thần cứ làm theo như lời Vương gia. Hai người bọn vi thần suy tính thấy Chu sa chính là tiên dược thượng phẩm, không những không có độc, hơn nữa còn có công dụng kéo dài tuổi thọ, gia tăng liều lượng cũng không có vấn đề gì xấu nên đồng ý".

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: "Không bốc thuốc theo như đơn, tội trạng như thế nào ngươi có biết không?"

Hoàng Cẩm Mộc phủ phục trên mặt đất khóc nói: "Luận tội, luận tội đáng chém. Vi thần tội đáng chết nhưng tất cả đều là chỉ lệnh của Ung Vương gia, vi thần không dám không tuân theo, nhất thời hồ đồ, cầu xin Hoàng Thái Hậu tha mạng".

Đỗ Văn Hạo nói xen vào: "Liều thuốc của ngày Hoàng Thượng băng hà nhiều hơn rất nhiều so với liều lượng của ba ngày trước đó. Đã xảy ra chuyện gì?"

Hoàng Cẩm Mộc nói: "Trước khi Hoàng Thượng băng hà một ngày, Ung Vương gia lại tới tìm hai người vi thần nói Hoàng Thượng vẫn có cảm giác tinh thần không tốt, muốn hai người vi thần thêm lượng thuốc lớn. Hai người bọn vi thần cũng không suy nghĩ gì cả liền tuân theo. Ngày hôm sau biết tin Hoàng Thượng băng hà. Chúng vi thần lo lắng có quan hệ tới liều thuốc dùng cho Hoàng Thượng nên tìm tới Ung Vương gia hỏi. Ung Vương gia hỏi lại hai người vi thần có bao giờ nghe nói người dùng Chu sa trúng độc chết chưa? Đương nhiên hai người vi thần lắc đầu. Ung Vương gia an ủi nói chỉ là chuyện trùng hợp. Hoàng Thượng mắc bạo bệnh, không có liên quan tới việc dùng dược, bảo hai người vi thần không cần lo lắng, cũng đừng nói lung tung ra bên ngoài".

Hoàng Thái Hậu nghiêm mặt, sai người mang Hoàng Cẩm Mộc xuống dưới, dẫn Hồ Húc vào thẩm vấn. Sau khi thẩm vấn đem so với lời khải của Hoàng Cẩm Mộc thì hoàn toàn ăn khớp.

Hoàng Thái Hậu hạ lệnh tống hai người vào Thiên lao, giao cho Đại Lý Tự hỏi tội. Cách toàn bộ chức vụ của Khang viện sứ Ngự dược viện, phế xuống làm thứ dân sau đó ra lệnh mang theo những gói thuốc đó, khởi giá hồi cung.

Sau khi quay lại tẩm cung, Hoàng Thái Hậu gọi Đỗ Văn Hạo vào trong phòng, đuổi người xung quanh ra khỏi phòng, rơi lệ nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Văn Hạo, bây giờ ta nên làm gì?"

Hoàng Thái Hậu không thể tưởng tượng lại tra ra kết quả này. Chính con trai thứ hai của nàng lại hạ độc giết chết con trai trưởng là Hoàng Thượng. Bất luận là nguyên nhân gì thì đối với một bà mẹ mà nói, không có cách nào nhận sự thật này.

Thật ra kết quả này khiến Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng nhưng gương mặt hắn lại làm bộ cực kỳ thông cảm: "Thao Thao, nàng cũng không cần quá thương tâm. Có lẽ Ung Vương gia cũng không biết liều lượng lớn Chu sa có thể làm người trúng độc chết. Có lẽ Vương gia có ý tốt nên mới làm vậy".

Hoàng Thái Hậu nghe vậy nén lệ thương tâm, vui vẻ nói: "Đúng, đúng! May có ngươi nhắc nhở ta. Hoàn toàn có khả năng này. Nhan nhi tâm địa thiện lương, nó tuyệt đối không làm cái chuyện giết huynh đoạt vị này. Nhất định là nó nghĩ sai hay nghe người ta nói sai. Đúng, đúng. Ta lập tức cho người đi gọi Nhan nhi tới hỏi là biết liền".

"Thao Thao, đợi một chút" Đỗ Văn Hạo vội vàng nắm lấy tay nàng.

"Có chuyện gì vậy?" Hoàng Thái Hậu ngẩng đầu hỏi.

"Hoàng Thái Hậu muốn tra ra chân tướng hay muốn thoát tội cho Ung Vương?"

"Đương nhiên muốn tra ra chân tướng".

"Vậy nhất định nàng không thể hỏi thế được".

Hoàng Thái Hậu sửng sốt rồi lập tức hiểu ý tứ của Đỗ Văn Hạo. Nàng gật đầu nói: "Không sai. Nếu như hỏi trực tiếp Nhan nhi như vậy, nói không chừng nó sẽ từ chối trách nhiệm. Không. Hỏi được tình huống thật sự, không có kết quả chính xác. Ngươi có đề nghị gì hay không?"

Đỗ Văn Hạo chậm rãi nói: "Chỉ có một cách nhưng vấn đề là cách này cũng hơi nguy hiểm một chút".

"Ngươi hãy cứ nói xem biện pháp thế nào?"

"Hoàng Thái Hậu đã nghe qua chuyện Khấu Chuẩn đêm tối thẩm vấn Phan Nhân Mỹ chưa?"

Hoàng Thái Hậu thoáng sửng sốt hỏi: "Khấu Chuẩn? Khấu Bình Trọng? Tể tướng của Thái Tông Hoàng đế sao?'

"Đúng vậy".

"Ta hiểu rồi nhưng mà ta không nghe nói tới Phan Nhân Mỹ. Người này là ai vậy?"

Đỗ Văn Hạo sửng sốt. Phan Nhân Mỹ là một đại gian thần thời Bắc Tống như vậy. Nàng thân là Hoàng Thái Hậu đương triều, tại sao lại không biết? Chuyện xưa của Dương gia tướng, bình thư (một hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể một câu dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ), kịch truyền hình có rất nhiều, nhất là bình thư Dương gia tướng, Đỗ Văn Hạo nghe nhiều nên đã thuộc, hắn lập tức nói: "Phan Nhân Mỹ chính là Thái sư nắm quyền dưới thời Thái Tông Hoàng đế, là quốc cữu của Thái Tông Hoàng đế. Nữ nhi của hắn là Thái Tố Dung chính là Tây cung nương nương của Thái Tông Hoàng đế".

"Tây cung nương nương của Thái Tông hoàng đế?" Hoàng Thái Hậu cau mày liễu. Nàng thân là Hoàng Thái Hậu, cực kỳ quen thuộc với gia phả Hoàng tộc. Nàng cẩn thận nhớ lại. "Thái Tông hoàng đế trước sau có bốn vị Hoàng Hậu. Theo thứ tự là Doãn Hoàng Hậu, Lý Hoàng Hậu cùng Lý Hiền phi. Sau khi Lý Hiền phi chết được truy phong. Phi tần có Vương Đức phi, không có ai là phi tần họ Phan".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo thoáng trợn tròn mắt. Hắn nghiêm chỉnh suy nghĩ lập tức hiểu ra. Chuyện xưa Dương gia tướng đã trải qua quá trình cải biến nghệ thuật, trong đó có rất nhiều chuyện xưa là hư cấu, có khác biệt rất lớn với lịch sử chân thật. Nói không chừng Phan Nhân Mỹ này cũng chỉ là người dựa theo nguyên mẫu một nhân vật nào đó trong lịch sử vì thế không có thực hắn liền cười nói: "Cái này, ta cũng chỉ xem qua dã sử diễn nghĩa. Có khả năng là không đúng".

Lúc này Hoàng Thái Hậu chỉ muốn biết làm thế nào để tra ra xem con thứ hai Ung Vương Triệu Nhan có phải thực sự hạ độc giết con trưởng là Tần Lạc hay không, cũng không muốn tìm hiểu nên gật đầu nói: "Vậy ngươi hãy nói tiếp chuyện xưa đó đi".

Đỗ Văn Hạo tươi như hoa nói: "Ái tướng của Thái Tông hoàng đế là Dương lão lệnh công, Dương Kế Nghiệp, võ công cái thế, văn võ song toàn. Dưới trướng có tám con trai, được xưng là "thất lang bát hổ", anh dũng thiện chiến, cực kỳ trung thành. Thái sư Phan Nhân Mỹ là con cáo già, mưu đồ giang sơn Đại Tống, dung túng cho con là Phan Báo lập lôi đài, mưu đoạt ấn soái, bị con trai thứ bảy của Dương Kế Ngiệp là Dương thất lang đánh chết tại lôi đài, từ đó hai nhà kết oán. Sau này khi Thái Tông hoàng đế bị vây ở thành U Châu, Dương gia tướng tới U Châu cứu quân vương, huyết chiến Kim Sa Than".

Hoàng Thái Hậu ngạc nhiên hỏi: "Thái Tông hoàng đế bị vây ở U Châu sao? Tại sao ta không biết?"

"Ha ha ha. Ta đã nói tất cả chỉ là chuyện dã xử. Có thể không đúng".

"Ai, người cứ nói đi".

"Dương gia tướng huyết chiến Kim Sa Than. Dương Kế Nghiệp binh mã bị vây ở bia Lý Lăng. Dương thất lang đánh mở đường máu xuống núi cầu viện. Phan Nhân Mỹ thân là đại soái không những phái quân cứu viện ngược lại còn mượn cơ hội báo thù, hắn dùng ế bắt Dương thất lang, treo lên trên cột cờ, dùng vạn tên bắn chết Dương thất lang. Dương lão lệnh công không muốn chịu nhục bị bắt nên đã đâm đầu vào bia Lý Lăng tự vẫn chết. Trận huyết chiến Kim Sa Than, cả nhà Dương gia tướng lần lượt chết trận, cuối cùng chỉ còn lại có Dương lục lang Diên Chiêu".

"Chờ một chút. Ta nghe ngươi nói chuyện xưa này, hình như là chuyện Dương Nghiệp thời Thái Tông hoàng đế. Con trai của Dương Nghiệp là Dương Diên Chiêu".

"Vậy đúng rồi. Dương Nghiệp, Dương Kế Nghiệp cũng không khác biệt nhau lắm. Đúng rồi, Dương gia tướng vẫn còn có hậu nhân sao?"

"Nếu đúng đó là Đại tướng Dương Nghiệp thì vẫn còn. Thiên Ba Dương phủ ở sau Hoàng cung không xa lắm".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Dương lục lang còn sống không?"

"Ngươi nói đúng, Dương Diên Chiêu, đã sớm qua đời. Sau khi chết đã được an táng trong Vĩnh Hậu lăng cùng Anh Tông hoàng đế".

Bây giờ Đỗ Văn Hạo mới hiểu được, sau khi Dương Diên Chiêu chết, được hưởng Hoàng ân chôn cất trong đế lăng. Hơn nữa còn được chôn cất trong lăng của Tống Anh Tông, trượng phu của Hoàng Thái Hậu. Hắn lại hỏi: "Vậy con của hắn là Dương Tông Bảo?"

"Dương Tông Bảo?" Hoàng Thái Hậu kinh ngạc nói: "Nghe nói Dương Diên Chiêu có ba con trai. Đứa con nhỏ nhất là Dương Văn Nghiễm, chưa nghe nói tới Dương Tông Bảo nhưng mà Dương Văn Nghiễm cũng đã chết. Chết cũng sớm lắm".

"Dương gia tướng còn có ai không?"

Chuyện xưa của Dương gia tướng được thịnh hành lưu truyền là từ triều Minh sau này. Vào triều Tống thì Dương gia tướng vẫn chưa nổi danh như vậy. Hoàng Thái Hậu cũng không biết rõ nên lắc đầu nói: "Chờ sau khi chuyện này xong xuôi, người tới bái phỏng Thiên Ba phủ một chuyến, không phải sẽ biết sao? Trước tiên ngươi hãy nói về sự tích thẩm vấn đêm Phan Nhân Mỹ".

"Đúng, đúng. Sau này Dương Diên Chiêu cực kỳ thương tâm, phẫn nộ, dâng tấu lên Kim điện tố cáo Phan Nhân Mỹ dùng việc quân báo tư thù. Phan Nhân Mỹ tìm mọi cách chối cãi, tuyệt đối không nhận tội. Thái Tông hoàng đế sai Ngự Sử Khấu Chuẩn thẩm tra vụ án này. Bát Hiền Vương Triệu Đức Phương cùng Khấu Chuẩn liền thiết kế một màn giả trang cảnh âm tào địa phủ. Bát hiền vương Triệu Đức Phương giả trang Diêm Vương, Ngự Sử Khấu Chuẩn giả trang Phán quan, đêm tối thẩm vấn Phan Nhân Mỹ. Phan Nhân Mỹ bị đưa tới Diêm La điện trong cảnh tối đen, không biết đó là giả. Trong cơn hoảng hốt hắn cứ tưởng là tới âm tào địa phủ thật, cuối cùng hắn bị doạ tới mức sợ hãi liền cung khai hết chân tướng sự việc. Cuối cùng bị khép tội chết. Ha ha ha".

Hoàng Thái Hậu kinh ngạc nói: "Ý của ngươi là chúng ta cũng bày ra cảnh âm tào địa phủ, thẩm vấn Nhan nhi sao?"

"Đúng. Chúng ta bày ra cảnh âm tào địa phủ, bắt Ung Vương gia gặp Hoàng Thượng ở dưới âm tào địa phủ. Có câu cửa miệng là: Không làm việc trái với lương tâm, không sợ quỷ gõ cửa. Nếu như Ung Vương gia thực sự không hạ độc Hoàng Thượng, khi nhìn thấy Hoàng Thượng nhất định sẽ không sợ hãi. Nếu như thật sự Ung Vương gia làm, khi nhìn thấy Hoàng Thượng sẽ sợ chết khiếp. Khi đó lại cho người giả trang Diêm Vương thẩm vấn, nhất định sẽ nói thật".

Hoàng Thái Hậu sửng sốt hồi lâu rồi chậm rãi gật đầu nói: "Chủ ý này cũng được. Vậy cứ làm thế. Nhưng mà phải nhanh lên. Trước canh năm phải tra xét rõ ràng chuyện này, không được để chậm trễ chuyện đưa tang ngày mai".

"Được" Đỗ Văn Hạo lưỡng lự một lát rồi hắn nói khẽ: "Nhưng mà vẫn còn một chuyện lo lắng".

"Chuyện gì?"

"Nếu thật sự Ung Vương gia mưu hại Hoàng Thượng, một khi nhìn thấy Hoàng Thượng ở âm tào địa phủ, rất có khả năng Vương gia sẽ bị điên khùng. Nàng cần chuẩn bị tâm lý. Tới khi Ung Vương gia bị doạ điên rồi, nàng đừng trách ta".

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu ảm đạm. Nàng rất hy vong kết quả chứng minh con trai thứ hai Ung Vương Triệu Nhan không có mưu hại con trai cả là Tống Thần Tông. Nhưng khi nàng tổng hợp lại tất cả kết qảu điều tra tình huống trước khi chết của Tống Thần Tông, trong lòng nàng hiểu rõ chắc chắn con trai cả Tống Thần Tông đã bị con trai thứ hai Ung Vương Triệu Nhan hạ độc chết. Khi Đỗ Văn Hạo nói xong mấy lời này nàng không khỏi rơi lệ nói: "Yên tâm đi. Ta sẽ không trách tội ngươi. Nếu như Nhan nhi thật sự mưu hại Hoàng huynh của nó, nó có nổi điên thì cũng là gieo gió gặt bão. Nó đã dám soán nghịch, hại chết Hoàng huynh, đáng luận tội chết. Nay chỉ nổi điên là đã tốt cho nó rồi".

"Được" Đỗ Văn Hạo ghé sát vào người Hoàng Thái Hậu thì thào vào tai nàng kế hoạch của mình. Sau khi Hoàng Thái Hậu nghe xong, chậm rãi gật đầu nói: "Đi, hãy cứ làm như người định liệu. Hãy làm đi".

Ung Vương Triệu Nhan ngồi kiệu theo mẫu hậu xuất cung, đi trên đường phố vắng lặng. Sau khi Hoàng Thượng v Thái Hoàng Thái Hậu băng hà, trong thời gian tang lễ, toàn kinh thành nghiêm cấm người đi lại vào ban đêm vì vậy trên đường cực kỳ yên tĩnh, ngẫu nhiên chỉ nghe thấy mấy tiếng chó sủa.

Ung Vương không biết đi tới đâu, mẫu hậu cũng không nói cho hắn biết. Hắn muốn vén màn kiệu lên nhìn nhưng màn kiệu đã bị cài chặt ở bên ngoài. Hắn đành chỉ buồn bực đi theo.

Qua một lúc lâu, chiếc kiệu dừng lại. Tiếp đó bên ngoài có người nói: "Vương gia, đến rồi. Có thể hạ kiệu" giọng nói ồm ồm giống như nói vào trong cái hũ vậy.

Ung Vương gia đợi một lúc lâu cũng không thấy có người vén màn kiệu giúp hắn. Hắn đành phải tự mình vén màn kiệu thì phát hiện ra chốt bên ngoài đã được bỏ ra.

Ung Vương vén màn kiệu lên, xuống kiệu, ngẩng đầu nhìn thì thấy hình như là trong một ngôi nhà, rất hoang vắng, không biết là nhà của ai. Sau đó nương theo ánh trăng mờ mờ, hắn có thể thấy cách đó không xa có một hồ nước hình bán nguyệt, ánh trăng phản xạ phát ra ánh sáng màu bạc. Trên mặt hồ có thể nhìn thấy bọt khí bốc lên ùng ục giống như tiếng nước sôi vậy.

Cỗ kiệu của hắn dừng lại gần hồ. Những người khiêng kiệu không thấy đâu. Kiệu của mẫu hậu hắn cũng không thấy. Bên cạnh hắn không có bất kỳ ai.

Ung Vương thấy sợ hãi. Hắn cảm thấy tim đập thình thịch. Đột nhiên hắn nghe thấy có tiếng động vang lên sau lưng. Đó là tiếng bước chân, răng rắc, răng rắc.

Ung Vương hốt hoảng quay đầu lại thì thấy cách đó không xa có một người đang đứng. Đúng ra là một người mặc y bào màu vàng. Người đó thấy hắn quay lại liền đứng yên.

"Là ai?" Ung Vương lấy can đảm quát hỏi.

Đối phương vẫn không trả lời, chỉ đứng im không nhúc nhích.

Ung Vương bình tĩnh nhìn thì phát hiện người đó mặc Hoàng bào kim long, còn đội cả vương miện. Đây là trang phục của Hoàng đế. Ai dám to gan mặc Hoàng bào? Nghĩ vậy Ung Vương nghiêm nghị quát hỏi. Đột nhiên Ung Vương cảm thấy ánh mắt của người đó rất quen thuộc nhưng mà không có miệng chỉ có một lỗ thủng tối om.

Đúng lúc này Ung Vương lại nghe thấy sau lưng có âm thanh. Đó là loại âm thanh dóc rách, bập bềnh. Ung Vương vội vàng quay đầu lại thì hắn trông thấy trên không trung có hai hình người màu trắng, đen, áo choàng dài, không ngừng di chuyển trên mặt hồ.

Ung Vương chăm chú nhìn thì phát hiện ra hai người đó đều là mặt xanh nanh vàng, lưỡi dài thè ra, tay cầm cây đại tang (lúc động quan, người con để tang chống gậy, trên đó có quấn một tờ giấy trắng), cười nhạt với hắn. Chẳng lẽ đây chính là Hắc Bạch Vô Thường trong truyền thuyết sao?

Ung Vương sợ hãi, hắn hoảng hốt thối lui mấy bước. Hắn bối rối đâm vào vật gì đó, hắn vội vàng quay đầu lại thì phát hiện ra người mặc Hoàng bào chẳng biết đã tới sau lưng hắn từ lúc nào, đang giương mắt nhìn hắn. Ung Vương sợ hãi tới hồn phi phách tán.

Thì ra đó là Hoàng huynh đã chết, Tống Thần Tông.

Ung Vương sợ hãi tới tè cả ra quần, té ngã xuống đất. Hắn muốn vùng dậy bỏ chạy nhưng hai chân hắn sợ tới mức cứng đơ, sao có thể nhúc nhích được đây? Mắt hắn nhìn thấy Tống Thần Tông bồng bềnh lướt tới, âm thanh từ xa dập dềnh đưa tới: "Trả lại mang ta! Trả lại mạng ta!"

 Chương 399: Tức Vị Trước 

Ung Vương vô vùng hoảng sợ, ngồi phịch xuống đất, gương mặt co rúm, hắn hoảng sợ gào lên chói tai: "Hoàng huynh! Hoàng huynh tha mạng!"

Hắc Bạch Vô Thường bồng bềnh, đung đưa trên mặt hồ cũng đã tiến tới nơi. Bốn phía xung quanh cũng lờ mờ xuất hiện vô số quỷ hồn bị đứt đầu, chặt chân, tay, phát ra những tiếng rên rỉ bi thảm.

"Trả lại mạng ta" Tống Thần Tông lơ lửng trên không trung, giơ cao hai tay.

Ung Vương vung tay loạn xạ gào lên: "Tha mạng! Tha mạng! Hoàng huynh. Đệ sai rồi. Đệ hiểu rằng đệ sai rồi. Tha mạng".

"Nói. Tại sao người phải dùng Chu sa hại chết ta?" Âm thanh phiêu đãng của Tống Thần Tông vang lên.

"Đây đều là chủ ý của Tư Mã Thiên Sư. Đệ không có suy nghĩ như vậy. Hoàng huynh tha mạng!"

Hai mắt Ung Vương hoảng sợ trợn trừng trừng. Hắn ngồi trên mặt đất, liên tiếp trượt lại phía sau, không ngờ đã lui tới cạnh bờ hồ. Hai tay hắn không còn gì chống đỡ. Hắn mất đà ngã xuống dưới. "Thùm" một tiếng vang lên, Ung Vương ngã vào trong bùn nhão.

Âm thanh phần phật không ngừng vang lên. Bốn phía xung quanh liên tiếp xuất hiện hài cốt, vươn cánh tay trắng hếu chụp vào người Ung Vương. Kéo tay hắn, kéo tóc hắn, cắn vào vai hắn.

Ung Vương đã sợ tới mức mất hết cả dũng khí: "Hoàng huynh! Đệ sai rồi. Đệ không nên hạ độc hai huynh. Xin tha mạng".

Thân hình Tống Thần Tông phiêu lãng trên không trung nghiêm nghị quát to: "Nói. Tại sao phải hại chết ta?"

"Đệ đáng chết. Tất cả là vò đệ thèm thuồng ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng huynh nên mới thế. Đây tất cả đều là chủ ý của Tư Mã Thiên Sư".

"Nói. Các ngươi hại chết ta như thế nào?"

"Tư Mã Thiên Sư hắn nói cho đệ. Hắn nói hắn luyện đan nên biết rõ ăn nhiều Chu sa cũng có thể gây chết người nhưng người khác lại không biết. Hắn bảo đệ cho thêm Chu sa vào trong thuốc của huynh, có thể hại chết huynh mà quỷ thần đều không hay biết. Đệ đáng chết. Đệ đáng chết, đệ đã tin lời hắn. Cầu xin Hoàng huynh tha mạng".

Ung Vương không ngừng vùng vẫy trong đám bùn nhão. Sặc sụa, gào thét hoảng loạn, âm thanh cực kỳ bi thương, thê thảm, gương mặt bị cào xé, máu be bét, co rúm lại vì sợ hãi. Hai tay Ung Vương không ngừng cào cấu, loạn đả, cắn xé, vật lộn chống cự lại những cánh tay của quỷ hồn.

Những quỷ hồn kia kéo Ung Vương ra giữa hồ nước. Ung Vương vừa hoảng sợ la gọi người của mình, vừa vùng vẫy một cách hoảng sợ tuyệt vọng trong nước, thân thể hắn không ngừng di chuyển ra giữa hồ nước.

Ngay khi nước ngập tới thắt lưng của Ung Vương, ở trên ngọn núi nhỏ ngay cạnh hồ vang lên một giọng nói: "Mau cứu người".

Đột nhiên ánh sáng nổi lên bốn xung quanh, sáng rõ như giữa ban ngày. Mấy thị vệ đeo một nạ phòng độc đã chạy tới, kéo Ung Vương từ dưới vũng bùn dưới hồ lên bờ rồi nhanh chóng đưa tới một ngôi viện nhỏ cách đó không xa.

Toàn thân Ung Vương dính bùn bẩn thỉu, hắn đã không còn khống chế đại, tiểu tiện của mình. Phân, nước tiểu chảy tràn ra, vương vãi khắp trên mặt đất. Mùi hôi thối bay khắp không trung. Những thị vệ đeo mặt nạ phòng độc tới kéo Ung Vương lên thì không thể hứng chịu cái mùi đó nhưng những thị vệ cảnh giới dưới chân núi nhỏ thìm không thoát được. Bọn họ chỉ có thể cau mày, bịt mũi, không dám đứng quay mặt theo hướng gió.

Lúc này từ trên ngọn núi nhỏ có ba người đi xuống. Đó chính là Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công.

Hoàng Thái Hậu nhìn Ung Vương toàn thân dơ bẩn, vẫn đang quỳ gối, hoảng sợ gào thét cứu mạng, khẽ thở dài một tiếng nói: "Nhan nhi, thật không ngờ ngươi vì ngôi vị Hoàng Đế mà lại hạ thuốc độc giết chết Hoàng huynh của mình".

Lúc này "Tống Thần Tông" ở bên hồ đã đi tới nơi, hắn gỡ mặt nạ phòng độc ra, cởi tiếp chiếc áo Hoàng bào trên người xuống, buồn rầu khom người nói: "Mẫu hậu, hài nhi cũng không thể ngờ hắn lại mưu hại Hoàng huynh. Thật sự là...Ai!"

Thì ra Đỗ Văn Hạo đã đạo diễn màn kịch này ngay trong toà trang viện ma quái mà hắn đã mua. Hồ nước trong toà trang viện vào nửa đêm canh ba vẫn toát ra chất khí có thể khiến con người sinh ra ảo giác khủng khiếp, bao phủ mù mịt ở khu vực xung quanh hồ nước. Người đóng vai Tống Thần Tông là Tào Vương Triệu Mạch, mặt đeo mặt nạ phòng độc, Hắc Bạch Vô Thường trên mặt hồ là người giấy dùng dây thừng điều khiển. Chỉ cần dùng người giấy điều khiển bằng dây thừng, Ung Vương gia dưới tác động của chất khi sinh ảo giác sẽ coi những người đó là người thật.

Đặc biệt là Tào Vương gia giả trang làm Tống Thần Tông. Cả hai vốn là anh em ruột thịt, cho dù có đeo mặt nạ phòng độc che miệng và mũi nhưng đôi mắt và thần hình vẫn đủ làm cho Ung Vương gia đang trong cơn ảo giác cảm thấy đó là quỷ hồn của Tống Thần Tông, hoảng hốt khai ra sự thật dùng Chu sa mưu hại Tống Thần Tông.

Đỗ Văn Hạo hỏi Hoàng Thái Hậu: "Hoàng Thái Hậu, vừa rồi Ung Vương gia có nói Tư Mã Thiên Sư đó là ai?"

Hoàng Thái Hậu căm hận nói: "Là môn khách của phủ Ung Vương, đạo nhân luyện thuỷ ngân chế đan dược. Tiểu Tiêu tử, ngươi hãy lập tức dẫn người đi bắt gã Tư Mã đạo nhân đáng chết đó lại, tống vào Thiên Lao, đợi trưa ngày mai xử tử lăng trì".

Tiểu công công vội vàng trả lời rồi dẫn theo thị vệ đại nội rời đi.

Tào Vương thấy Ung vương quỳ dạp trên mặt đất kêu khóc xin tha mạng, trong lòng không nỡ bèn tiến tới ôm lấy hắn nói: "Hoàng huynh, không có việc gì. Mẫu hậu sẽ khoan thứ tội cho huynh".

Lúc này Ung Vương đã hoàn toàn bị điên, Tào Vương ôm mình lại nghĩ rằng đó là lệ quỷ, cho rằng muốn tới mưu hại hắn. Hắn sợ tới mức phát nổi điên lên, há mồm cắn vào bả vai của Tào Vương sau đó Ung Vương bò dậy, lảo đảo chạy ra ngoài.

\Lúc này Ung

"Hãy mau ngăn cản nó lại" Hoàng Thái Hậu kinh hãi hô lên.

Thị vệ đại nội vội vàng xông tới bắt được Ung Vương, dẫn hắn quay lại. Ung Vương liều mạng giãy giụa, vừa đá vừa đánh, miệng khàn khàn gào lên: "Hoàng huynh tha mạng! Đệ sai rồi. Đệ không nên mưu hại huynh. Bọn lệ quỷ các ngươi không được tới đây. Hãy bỏ ta ra".

Hoàng Thái Hậu nhìn con trai mình mà nước mắt cứ tuôn trào không thôi. Nàng nói với Đỗ Văn Hạo: "Nhan nhi làm sao vậy? Ngươi hãy xem qua cho nó một chút".

Đỗ Văn Hạo cười thầm trong lòng. Hắn nhìn thất Ung Vương thực sự đã phát điên, cầu còn không được nên thực sự hả lòng hả dạ, hắn nào muốn chữa bệnh cho Ung Vương đây. Nhưng hắn vẫn biểu hiện ra vẻ cuống quýt bước tới, cầm tay Ung Vương bắt mạch, một lát sau hắn lại đổi tay.

Ung Vương liên tục giãy giụa, điên cuồng kêu gào tha mạng.

Cũng may có thị vệ đại nội cầm giữ hai bên nên Đỗ Văn Hạo mới thuận lợi bắt mạch. Bắt xong hắn lắc đầu nói: "Hoàng Thái Hậu, Ung Vương gia chính là hoảng sợ quá mức. Mạch chìm hỗn loạn, âm dương không đều, khí huyết ứ trệ, tinh thần hôn mê tới mức bị điên. Vì Ung Vương gia hoảng sợ cực độ khiến gang, mật bị tổng thương cực độ, chứng điên khùng đã quá nặng chỉ e không dễ dàng chữa trị. Đợi khi quay về vi thần sẽ kê một đơn thuốc, để Ung Vương gia tĩnh tâm điều dưỡng, có lẽ sẽ có chuyển biến tốt cũng chưa biết chừng".

Hoàng Thái Hậu rơi lệ nói: "Cũng không cần phải chữa trị. Nó mưu tội phản nghịch, đáng tội chết. Hãy bắt nó chết theo Hoàng Thượng".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui mừng như nở hoa. Đây mới chính là kết quả tốt nhất.

Tào Vương thập phần sợ hãi khi nghe Hoàng Thái Hậu nói vậy. Mặc dù hắn bị Ung Vương hung ác cắn một cái nhưng dù sao vẫn là thủ túc tình thâm. Hắn quỳ xuống dập đầu với Hoàng Thái Hậu: "Mẫu hậu, cầu xin người. Hãy tha thứ cho Hoàng huynh. Giờ đây Hoàng huynh đã điên rồi, đã bị trừng phạt rồi. Xin hãy giữ lại mạng sống của Hoàng huynh".

Hoàng Thái Hậu nhìn đứa con thứ hai điên điên khùng khùng, không ngừng chỉ tay lên trời cầu xin tha mạng, rơi lệ khẽ gật đầu, nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ý của ngươi thế nào?"

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo hy vọng nhổ cỏ nhổ tận gốc, không muốn lưu lại mối hoạ này. Nói không chừng một ngày nào đó Ung Vương khỏi căn bệnh điên khùng này, có thể tìm tới tính sổ với hắn. Khi đó nhất định không có kết quả hay nhưng mà hắn không thể nói những lời này. Đỗ Văn Hạo vội vàng chắp tay nói: "Hoàng Thái Hậu chính là nữ trung Nghiêu Thuấn, nhất định sẽ có phát xét sáng suốt. Vi thần không dám nói bừa".

"Nữ trung Nghiêu Thuấn? Ai!" Hoàng Thái Hậu rơi lệ nói: "Nhan nhi như vậy, còn nói gì mà nữ trung Nghiêu Thuấn. Nghiệp chướng! Ai! Húc nhi băng hà, giờ đây không thể không chôn Nhan nhi theo cùng. Nửa đời sau của Ai gia biết trông cậy vào ai".

Tào Vương khó chịu, nói vẻ ngượng ngùng: "Mẫu hậu hãy nén bi thương. Không phải vẫn còn hài nhi sao?"

Hoàng Thái Hậu vung tay áo, tức giận quát: "Cút!"

Tào Vương sợ tới mức quỳ gối ở bên cạnh, không dám lên tiếng nữa.

Hoàng Thái Hậu nước mắt lưng tròng nói với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ ái khanh, ngươi hãy nói một chủ ý với Ai gia".

Đỗ Văn Hạo đã hiểu, trong lòng Hoàng Thái Hậu hoàn toàn không muốn người con thứ hai này chết. Điều này cũng có thể lý giải. Chuyện đã xảy ra như này, Hoàng Thái Hậu sẽ không để. Chỉ cần Ung Vương không lên làm Hoàng Đế, lại nổi điên, việc chết hay không chết cũng chẳng có quan hệ gì lớn.

Nhưng chuyện này nhất định phải để cho mọi người biết, đá quả bóng sang các quan đại thần phụ chính, để bọn họ đưa ra chủ ý là tốt nhất. Bọn họ nhất định sẽ đưa ra một biện pháp thích hợp nhất.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, việc này vô cùng trọng đại. Vi thần thật sự không dám ngông cuồng khuyên can. Không bằng hãy thỉnh ý kiến của các đại thần phụ chính, nhân tiện hãy lựa chọn luôn Hoàng Đế. Bây giờ cũng sắp bình minh rồi, tránh chậm trễ việc đưa tang sáng mai".

Hoàng Thái Hậu suy nghĩ rồi gật đầu nói: "Cũng chỉ còn cách đó. Vậy cứ làm theo ý của ngươi nhưng mà ngươi cũng tham gia".

"Hoàng Thái Hậu, vi thần chỉ là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, không thuộc đại thần phụ chính. Theo như quy tắc thì không được".

"Quy tắc đều do con người định ra. Ai gia cho phép ngươi tham gia, ngươi cứ tham gia. Tới khi đó Ai gia còn có chuyện muốn nói".

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người nói: "Dạ, vi thần tuân chỉ".

Trắc điện cung Phúc Ninh.

Lúc này trời đã gần canh năm. Đất trời vẫn còn chìm trong bóng đêm đen kịt. Bởi vì rạng sáng chính làthời điểm khiêng linh cữu đưa tang. Các trọng thần trong triều tới lúc đó đều phải nâng linh cữu tới Đế lăng, ai cũng gần như cả đêm không ngủ, đều chờ ở linh đường vì vậy khi ý chỉ của Hoàng Thái Hậu truyền xuống, toàn bộ bảy vị đại thần phụ chính lập tức đi vào trắc điện cung Phúc Ninh.

Bảy vị đại thần phụ chính theo thứ tự là: Tả Thừa tướng (tả Thượng thư bộc xạ kiêm môn hạ thị lang hành thị trung sự) Vương Pháp, hữu Thừa tướng (hữu Thượng thư kiêm môn hạ thị lang hành thị trung sự) Thái Xác, Môn hạ thị lang Chương Cụ, tả thừa Thượng thư Thái Ca, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý, Viện sứ Xu Mật viện (tri Xu Mật viện sứ) Hàn Chẩn, Xu Mật viện phó sứ (đồng tri Xu Mật viện sứ) Lâm Hi.

Bảy người đi vào trắc điện thì thấy ở phía sau chính điện có một bức rèm buông xuống. Đằng sau bức rèm có một chiếc giường êm. Hoàng Thái Hậu mặc đồ tang đang ngồi ngay ngắn trên giường.

Phía trước về phía trái của bức rèm có một đứa bé choai choai đang đứng. Người đó chính là lục Hoàng tử, An Duyện Quận Vương Triệu Hú. Đứng ở ở trái là Ung Vương Triệu Nhan cùng Tào Vương Triệu Mạch. Sắc mặt Tào Vương lo lắng, sắc mặt Ung Vương lại hoảng sợ, núp sau lưng Tào Vương, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn trộm, miệng không ngừng lẩm bẩm.

Phía bên phải đại điện có một người đang đứng. Đó chính là tân quan tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, Ngự y Đỗ Văn Hạo.

Thấy vậy bảy vị phụ chính đại thần không khỏi kinh ngạc. Thừa tướng Vương Giai khẽ nhếch miệng cười, trong lòng vô cùng đắc ý, ông ta khẽ gật đầu với Đỗ Văn Hạo sau đó khom người thi lễ với Hoàng Thái Hậu. Sáu người còn lại cũng khom người thi lễ.

Hoàng Thái Hậu nói: "Chúng ái khanh, Ai gia có một việc muốn thông báo cho các vị phụ chính đại thần biết".

Nghe xong bảy người lập tức hiểu đây chính là chuyện cớ liên quan tới Hoàng Đế tương lai. Bảy người đều vểnh tai, không dám thở mạnh, chú ý lắng nghe.

Hoàng Thái Hậu dừng lại một chút rồi mới chậm rãi nói: "Hoàng Thượng đột nhiên băng hà, vô cùng khả nghi. Ai gia đã yêu cầu Đỗ ngự y âm thầm điều tra. Hiện tại đã tra ra Ung Vương Triệu Nhan bị thực khách trong phủ là Tư Mã đạo nhân xúi bẩy đã hạ độc dược trong thuốc của Hoàng Thượng khiến cho Hoàng Thượng trúng độc chết".

Tin này giống như sét đánh giữa trời quang, chấn động bảy vị phụ chính đại thần. Tất cả đều ngây người rôi không tự chủ được cùng nhìn Đỗ Văn Hạo.

Hoàng Thái Hậu nói tiếp: "Trong chuyện này, nhân chứng, vật chứng đã đầy đủ. Thủ phạm Tư Mã đạo nhân đã chịu trói, hắn đã lập tức thú nhận tội này. Ung Vương Triệu Nhan vì sợ tội mà nổi điên khùng. Hiện giờ thần trí đã điên loạn, không thuốc nào có thể chữa khỏi".

Hoàng Thái Hậu mới nói tới đó, Ung Vương Triệu Nhan tựa như muốn giải thích cho lời nói của Hoàng Thái Hậu, hắn khàn khàn gào lên, quỳ thụp xuống đất, không ngừng dập đầu, miệng cầu khẩn: "Hoàng huynh, tha mạng. Đệ sai rồi. Đệ không nên hạ độc Hoàng huynh. Tha mạng!" "thình thình thình" mấy tiếng vang lên. Trên trán Ung Vương lập tức đầm đìa máu tươi.

Bảy người cực kỳ hoảng sợ không biết phải làm gì.

Hoàng Thái Hậu nhìn Ung Vương đang điên loạn dập đầu, không cho người tới ngăn cản, giống như là không nhìn thấy gì, dài giọng nói: "Ung Vương đã phạm phải trọng tội như vậy. Tội không thể tha. Ý của Ai gia bắt nó chết theo Hoàng Thượng. Ý của các khanh thế nào?"

Vương Giai không ngờ lại xảy ra chuyện tới mức đó, nhất thời đứng ngây người không có phản ứng. Ông ta vốn là người đứng đầu, vốn phải là người lên tiếng trước nhưng ông ta cứ ngây người đứng vậy, không nói câu nào, sau người còn lại cũng không thể lên tiếng trước. Nhưng tình hình lúc này không giống với lúc bình thường nên không thể tuân theo quy định, Thái Xác ho nhẹ một tiếng rồi tiến lên khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, vi thần cho rằng, Ung Vương cùng Hoàng Thượng thủ túc tình thâm. Nếu như không có kẻ khác xúi giục, nhất định sẽ không phạm phải trọng tội như vậy. Bây giờ thần trí rối loạn, vốn đã chịu sự trừng phạt của ông trời, có thể miễn tội chết. Có thể hạ lệnh cho Ung Vương vĩnh viễn coi sóc Đế lăng, thủ hộ Vĩnh Dụ lăng, bầu bạn với Hoàng huynh".

Hoàng Thái Hậu khẽ gật đầu, sắc mặt âm u lạnh lẽo hoàn hoãn hơn rất nhiều. Sáu người còn lại làm quan tới vị trí này đương nhiên đều là những người tinh khôn, sao có thể không nhận ra Hoàng Thái Hậu tương đối hài lòng với ý đó nên cũng đều phụ hoạ theo đuôi.

Kết quả này thực sự rất kỳ diệu, Đỗ Văn Hạo như mở cờ trong bụng. Điểm tốt của chủ ý này là bắt thằng nhãi Ung Vương kia đi thủ hộ lăng Hoàng huynh cả đời này, nhất định không còn cơ hội tìm tới gây chuyện với hắn. Chủ ý này quá hay!

Đỗ Văn Hạo không nhịn được liếc nhìn Thái Xác. Hắn thầm nghĩ lão già này đoán ý rất chính xác. Hơn nữa tâm tính rất độc ác, Ung Vương đối xử với lão không bạc, lão lại giậu đổ bìm leo. Lão biết rõ Hoàng Thái Hậu sẽ không thực sự c lòng bắt Ung Vương chết theo, chính hắn không chỉ nói ra chủ ý cho mọi người biết mà còn có thể làm theo ý tức thoát tội chết của Hoàng Thái Hậu, mà chủ ý như vậy còn khủng khiếp hơn cả lưu đày ba ngàn dặm. Hơn nữa cách xử lý cũng vô cùng thoả đáng.

Hoàng Thái Hậu thấy tử Thừa tướng Vương Giai từ nãy tới giờ vẫn không nói gì liền nhạt nhẽo hỏi: "Vương ái khanh, ý định của khanh thế nào?"

Vương Giai thoáng sửng sốt, sau khi suy nghĩ một lát ông ta liền khom người nói: "Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu, lão thần tán thành đối với chủ ý của Thái Tể tướng. Lão thần cho rằng vì thể diện của Hoàng gia nên chuyện này không nên loan truyền ra ngoài, cũng không nên đưa vào chính sử. Đối với bên ngoài chỉ nói ngắn gọi là Ung Vương thương tiếc Hoàng huynh nên tự nguyện vào lăng thủ hộ".

Hoàng Thái Hậu rốt cuộc cũng nhếch mép cười vẻ thoả mãn. Nàng nhìn lướt qua mọi người, chậm rãi nói, ý kiến của Vương ái khanh, chúng ai khanh nghĩ sao?"

Giây phút này trong trắc điện sáng như ban ngày. Nụ cười thoả mãn của Hoàng Thái Hậu đều lọt vào trong mắt của các phụ chính đại thần nên ai nấy cũng khom người nói: "Bọn thần tán thành".

"Được, đã như vậy thì việc này đã xong rồi" Hoàng Thái Hậu dừng lại một lát rồi nói tiếp: "Thế nhưng còn chưa tới một canh giờ nữa là tới lúc khiêng linh cữu đưa tang, phải chỉ định ra người dẫn dắt Hoàng gia khiêng linh cữu. Chúng ái khanh có đề nghị gì không?'

Giờ đây trong việc tranh đoạt ngôi vị Hoàng Đế, Ung Vương vì mưu hại Hoàng Thượng mà bị hạch tội, vĩnh viễn ở Đế lăng, lại đã nổi điên, đương nhiên cũng không thể chỉ định một người điên làm Hoàng Thượng, đã rút lui ra khỏi cuộc canh tranh này. Lúc này chỉ còn một lựa chọn duy nhất là lục Hoàng tử, Duyên An Quận Vương Triệu Hú. Hoàng Thái Hậu biết rõ mà còn hỏi hiểu nhiên chỉ muốn từ miệng mọi người có kết quả này, càng lộ rõ vẻ độ lượng, uy nghi.

Mặc dù kết quả này giống như là rận trên đầu hói nhưng rõ ràng dù lớn hay nhỏ cũng coi như công lao ủng hộ. Nhưng mà lúc này đây Thái Xác thực sự không có ý nói trước. Dù sao trước kia ông ta cũng gắng sức ủng hộ Ung Vương nối ngôi Hoàng Đế. Lần này tình hình xoay chuyển quá nhanh theo chiều hướng xấu. Tốt nhất là để cho Vương Giai nói trước sau đó bản thân mình ra mặt ủng hộ. Trong khi đó Vương Giai cũng có tính toán riêng của mình. Ông ta hiểu rằng ngôi vị Hoàng Đế rốt cuộc đã định, lục Hoàng tử sẽ nối ngôi. Lúc này ủng hộ hay không, công lao cũng đã được xác nhận, dù lúc này không nói cũng không ảnh hưởng gì. Tốt nhất hãy để người phe bên kia nói ra trước như vậy là hai phái thống nhất, lại càng thêm thoả đáng.

Thái Xác thấy Vương Giai không biểu hiện thái độ gì, trong khi đó Hoàng Thái Hậu lại nhìn mình nên đành phải chắp tay nói: "Thần cho rằng Duyên An Quận Vương chính là Hoàng tử trưởng, xứng đáng thừa kế ngôi vị Hoàng Đế của tổ tiên. Vì Hoàng Đế chỉ huy khiêng linh cữu đưa tang. Sự việc gấp gáp, xin Hoàng Thái Hậu noi theo Lưu Hoàng hậu của Nhân Tông hoàng đế nghe báo cáo và quyêt định sự việc, tham gia công việc quốc sự" Nói xong ông ta vén áo bào quỳ xuống dập đầu.

Thái Xác vốn kiên quyết ủng hộ Ung Vương kế vị nhưng nay thủ lĩnh của phe đó đã đào tẩu, ủng hộ lục hoàng tử kế vị, mấy người Hàn Chẩn bên phe đó đương nhiên cũng phải đi theo. Tất cả đều tỏ thái độ tán thành, cùng quỳ xuống dập đầu.

Kết quả này khiến Vương Giai cực kỳ cao hứng, ông ta cũng vén áo bào quỳ xuống nói: "Duyên An Quận Vương xứng đáng kế thừa thiên hạ, cũng là thuận theo thiên mệnh. Hoàng Thái Hậu có thể dùng cương vị Thái Hoàng Thái Hậu, buông rèm chấp chính, nhất định sẽ khiến quốc thái dân an".

Triệu Hú chính là cháu nội của Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Triệu Hú lên ngồi Hoàng Đế. Tất nhiên Cao Thao Thao chuyển từ Hoàng Thái Hậu lên Thái Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn nhìn mình mỉm cười gật đầu lúc này mới chậm rãi nói: "Chúng ái khanh đã đồng lòng nhất trí Duyên An Quận Vương kế thừa ngôi vị Hoàng Đế, Ai gia cũng đồng ý. Việc này đã định. Chúng ái khanh hãy nói xem chừng nào có thể tiến hành lễ đăng cơ của tân Hoàng Đế?"

Vương Giai khom người nói: "Việc tang của tiên đế hơn một tháng rồi. Việc quốc sự một mực do lão thần và Thái Tể tướng cùng nhị vị Vương gia tạm cai quản. Mọi việc bọn vi thần đều cẩn thận mà không dám quyết định. Nay tân Hoàng Đế đã định, mọi việc cũng nên quay lại quy củ. Theo như lão thần thấy hãy mô phỏng theo sau thời Tây Hán Vũ Đế, lập tức lên ngôi, cũng xin thỉnh Hoàng Thái Hậu lập tức chấp chính, nghe tấu sớ và quyết định".

Hoàng Thái Hậu nói: "Hôm nay đăng cơ liệu có gấp quá không?"

"Xin Hoàng Thái Hậu yên tâm. Hơn một tháng nay bọn lão thần đã chẩn bị cho việc tân Hoàng Đế đăng cơ, chỉ còn chờ quyết định của Hoàng Thái Hậu".

"A, các ngươi nghĩ rất chú đáo. Chúng ái khanh, ý của các khanh thế nào?"

Thái Xác cũng khom người nói: "Vi thần cũng tán thành ý của Vương Tể tướng".

Hoàng Thái Hậu cười thoả mãn, chậm rãi nói: "Nếu đã như vậy thì hãy làm theo lời các khanh nói tức vị trước. Còn về phần nghe tấu chương, quyết định quốc sự, Ai gia vốn tính thích yên tính nhưng Hú nhi tuổi còn nhỏ, các khanh lại một mực đề nghị Ai gia nghe tấu chương và quyết định. Ai gia nghĩ cũng không thể trốn tránh được. Ai gia đồng ý với bản tấu của các khanh, cùng nghe tấu và quyết định quốc sự sau này khi Hoàng Thượng trưởng thành, Ai gia sẽ trả lại cho Hoàng Thượng".

Tân Hoàng Đế đã xác định. Sắc mặt mọi người đều vui mừng nhưng vấn đề là nụ cười của mấy người Thái Xác có vẻ miễn cưỡng.

 Chương 400: Tám vị phụ chính đại thần 

Tể tướng Vương Giai khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, hôm nay tân đế mới tức vị, xưa không bằng nay, nên chọn sư bảo mới. Chọn người nào thích hợp, ai có thể đảm đương, kính xin Hoàng Thái Hậu định đoạt".

Sư bảo chính là là gia sư của Hoàng Đế. Hoàng Thái Hậu nhìn lướt qua mọi người nói: "Theo ý kiến của các khanh. Người có có thể đảm đương công việc này?"

Thái Xác vội vàng nói xen vào: "Hai người Lục Điền, Thái Biện từ trước vẫn là sư bảo của Duyên An Quận Vương, cẩn thận, chỉ dạy có phương pháp, cũng quen thuộc bản tính của tân Hoàng Đế, không bằng cứ nên để hai người này tiếp tục đảm nhiệm".

Vương Giai nhíu mày suy nghĩ. Lục Điền, Thái Xác tuy hai người này đều là hai người tài năng xuất chúng thời nay nhưng đều là người ủng hộ biến pháp. Nếu để hai người này tiếp tục đảm nhiệm công việc sư bảo của tân đế chỉ e sẽ lại xuất hiện một Tống Thần Tông thứ hai. Ý của ông ta là muốn thay thế hai người này tránh để tiếp tục ảnh hưởng tới tân đế, Vương Giai đang định tiến lên can gián thì Hoàng Thái Hậu đã nói: "Hai vị sư bảo trước kia của lục Hoàng tử Duyên An Quân Vương cũng không tệ. Nhưng hôm nay Duyên An Quận Vương đăng cơ làm Hoàng Đế, sư bảo của Hoàng Đế phải căn cứ vào tình hình có sự điều chỉnh, sự lựa chọn phải rất thích hợp. Vương ái khanh, ngươi có đề nghị người nào thích hợp không?"

Vương Giai thực đang chờ những lời này của Hoàng Thái Hậu, ông ta vội vàng khom người nói: "Lão thần cho rằng nhị vị đại nhân là học sĩ Xu Mật viện Triệu Ngạn cùng Ngự sử kiêm hầu cận của Anh Tông hoàng đế trước kia Phó Nghiêu Du có thể đảm nhiệm việc này".

Triệu Ngạn, học sĩ Xu Mật viện chính là một con một sách điển hình, được xưng tụng là không sách nào không đọc, hơn nữa lại cực kỳ chống đối biến pháp, thuộc phái bảo thủ. Tài học của Phó Nghiêu Du có thể nói chất đầy năm xe. Năm xưa vì phản đối biến pháp và bị biếm chức ra khỏi kinh thành tới nhậm chức ở châu, huyện. Vương Giai giới thiệu hai người đều thuộc phái bảo thủ, mục đích là muốn tân đế ngay từ nhỏ rời xa biến pháp, không thay đổi phương pháp trị vì của tổ tông.

Thái Xác nào không biết, ông ta đang định phản đối, Hoàng Thái Hậu đã gật đầu nói: "Vương ái khanh tiến cử người, Ai gia cho rằng rất thoả đáng. Vậy cứ định hai người đó đi. Hơn nữa chúng ái khanh đều là phụ chính đại thần, cũng phải bớt chút thời gian tới Tư Thiện đường, giúp tân đế học tập, truyền dạy sở học của mình".

Bảy người vội vàng trả lời đồng ý. Thái Xác nghe thấy Hoàng Thái Hậu lựa chọn một cách không do dự, trong lòng thoáng giá lạnh. Ông ta cảm thấy biến pháp chỉ e đã đi tới con đường cùng.

Hoàng Thái Hậu nói với Triệu Hú đang đứng bên ngoài rèm che: "Hú nhi, hãy bước lên gặp mặt tám vị phụ chính đại thần".

Đám người Thái Xác lắp bắp kinh hãi khi nghe Hoàng Thái Hậu nói câu đó. Bọn họ chỉ có bảy người, Hoàng Thái Hậu lại nói tám người. Không phải Hoàng Thái Hậu nói sai mà chính là ám chỉ. Trên triều đình hiện nay người có thể gia nhập phụ chính đại thần chỉ e cũng chỉ có mình Đỗ Văn Hạo mà thôi.

Lập tức Thái Xác phản ứng thần tốc, ông ta khom người nói: "Chúc mừng Đỗ tướng quân thăng chức phụ chính đại thần. Đỗ tướng quân đánh một trận Tây Sơn, dùng năm ngàn tướng sĩ tiêu diệt hai vạn phiến quân Thổ Phiên, chiến cổng hiển hách, tuần y đề điểm các lộ, vì dân tạo phúc. Lần này lại nhất cử phá đại án mưu thoán nghịch. Càng vất vả, công lao càng lớn, quả thực là bậc lương đống của đất nước, đương nhiên có thể gia nhập Tể chấp, phù tá tân đế".

Những người còn lại cũng kịp thời phản ứng, đều lên tiếng chúc mừng.

Hoàng Thái Hậu gật đầu mỉm cười nói: "Các khanh nói rất đúng. Đỗ ái khanh bước lên nghe phong".

Đỗ Văn Hạo vội vàng vén áo bào bước lên, quỳ xuống.

"Khanh thân là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, kiêm chức không bằng chuyên trách. Ai gia phong khanh là tam nha Đô Kiểm Điểm, thống lĩnh tam nha".

Vào thời Tống, tam nha phân chỉ thống lĩnh binh mã trong cả nước, Đô Kiểm Điểm thì chính là Tổng tư lệnh ba quân, quyền lực rất lớn. Năm đó trước khi Tống Thái Tổ, Triệu Khuông Dẫn làm binh biến Trần Kiều đã đảm nhiệm chức Đô Kiểm Điểm nhà Hậu Chu sau này khi khoác áo Hoàng bào lập ra nhà Đại Tống, ông ta dựa theo nghiệm tạo phản thành công của mình đã nhận ra chức Đô Kiểm Điểm quyền lực rất lớn, phải tăng cường cảnh giác vì vậy vẫn giữ lại chức vị này nhưng lại không phong cho bất kỳ người nào đảm nhiệm, khiến nó vẫn để trống, sau này thì dứt khoát huỷ bỏ, Tống Thái Tổ cũng chia tam nha là ba, phân chia ba người phụ trách, từng người một chịu trách nhiệm với Hoàng Thượng, đạt được mục đích phân chia quyền lực.

Không thể tưởng tượng nổi bây giờ Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lại phục hồi chức quan này, trao tặng cho nhân tình của mình là Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo dập đầu nói: "Vi thần lĩnh chỉ. Tạ ơn Hoàng Thái Hậu" Sau đó hắn vén áo bào đứng dậy.

Hoàng Thái Hậu nhìn lướt qua gương mặt kinh ngạc của mấy người Thái Xác nói tiếp: "Từ nay về sau, phẩm hàm của Đô Kiểm Điểm chính là quan nhị phẩm, tham gia Tể chấp, cùng với xử lý việc quân chính. Các vị ái khanh hãy đồng tâm hiệp lực để phò tá tân đế".

Mấy người Vương Giải, Thái Xác cùng chắp tay trả lời rồi quay sang chúc mừng Đỗ Văn Hạo.

Mấy người Thái Xác quả thực không thể tưởng tượng nổi sau khi Hoàng Thái Hậu quyết định buông rèm chấp chính, đạo thánh chỉ đầu tiên chính là thăng quan cho vị Ngự y Đỗ Văn Hạo này, trong lòng không khỏi suy xét. Trước đây Đỗ Văn Hạo chỉ là quan tứ phẩm. Văn võ bá quan trong triều công lao so với Đỗ Văn Hạo còn lớn hơn rất nhiều. Năng lực của nhiều người còn xuất sắc hơn Đỗ Văn Hạo, nhưng không ai có thể đi theo con đường một bước lên mây, nhậm chức tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, Hoàng Thái Hậu còn khôi phục chức Đô Kiểm Điểm vì hắn, phẩm hàm của hắn cũng tăng lên, gia nhập nhóm phụ chính đại thần. Từ một viên quan tứ phẩm nhảy vọt lên vào nhóm phụ chính đại thần có thể thấy Hoàng Thái Hậu đối xử với Đỗ Văn Hạo không bình thường, sau này tuyệt đối không thể xem thường.

Trong lòng Vương Giai như nở hoa, thầm vui mừng con mắt già nua của mình vẫn còn chưa hồ đồ, nhìn người không sai, tìm được một rể hiền như vậy cho nữ nhi bảo bối của mình. Sau này không cần phải lo lắng gì nữa.

Hoàng Thái Hậu nói với mọi người: "Trước khi tiên đế băng hà, nghe tin Đỗ ái khanh láy ít thắng nhiều, tiêu diệt toàn bộ phản quân của tộc Thổ Phiên ở Tây Sơn, cực kỳ thoải mái, có xưng tụng rằng từ thời Vĩnh Nhạc tới nơi không có cuộc chiến nào khoan khoái như vậy. Hôm đó tiên đế có mời đầy đủ chúng phi tần tới uống rượu. Tiên đế có khen ngợi Đỗ ái khanh am tường binh pháp, cầm quân rất có phương pháp. Mặc dù tự ý đoạt quân quyền, dựa vào luật pháp đáng phạt nhưng tương lai sau này cần phải trọng dụng. Vì thế Ai gia mới phong cho Đỗ ái khanh làm lãnh binh tam gia, thực ra cũng là làm theo di mệnh của tiên đế".

Đỗ Văn Hạo không ngờ lại còn có thông tin này. Hắn vốn chỉ nghĩ là Hoàng Thượng tức giận, không ngờ lại đánh giá hắn cao như vậy. Trong lòng Đỗ Văn Hạo thầm xúc động, hắn khom người, cúi đầu.

Hoàng Thái Hậu lại nói tiếp: "Tiên đế đã từng luận bàn về việc trị quốc với Đỗ ái khanh, đã từng nói với Ai gia Đỗ ái khanh có tài năng trị quốc, có rất nhiều chủ trương mới. Mặc dù có thể thực sự gây chấn động nhưng lối suy nghĩ rất tinh tế, rất độc đáo. Cũng chính vì lý do đó tiên đế mới giao cho cai quản phủ Tĩnh Giang, tiêu diệt giặc cỏ ở nơi đó, chỉnh đốn quan lại địa phương, giúp nạn dân thiên tai, an dân, khuyến khích nông nghiệp hưng thịnh. Rất nhiều việc làm đã được tiên đế khen ngợi, khen Đỗ ái khanh có thể được trọng dụng. Tiên đế cử Đỗ ái khanh làm tuần y các lộ, đề điểm hình ngục chính là để thể nghiệm, quan sát dân tình, hiểu rõ về sự vụ các địa phương, chuẩn bị cho tương lai nhưng đáng tiếc tiên đế không thể đợi tới khi Đỗ ái khanh triển khai kế hoạch to lớn của mình".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo cực kích động, hắn vén áo bào quỳ xuống hướng về lĩnh cữu của Tống Thần Tông ở chính điện Phúc Ninh, nức nở nói: "Vi thần không ngờ lại được Hoàng Thượng yêu mến như vậy. Vi thần du có thịt nát xương tan cũng quyết không phụ thánh ân".

Nói xong hắn dập đầu thình thịch mấy tiếng, khóc lóc ngay tại chỗ.

Vương Giai cũng vén áo bào quỳ xuống, hướng điện Phúc Ninh dập đầu. Vương Giai thân là quan Tể tướng, một khi ông ta đã quỳ xuống, mấy người Thái Xác đương nhiên cũng phải quỳ xuống dập đầu.

Hoàng Thái Hậu nồng nàn nhìn Đỗ Văn Hạo, chậm rãi nói: "Chúng ái khanh hãy đứng dậy. Hú nhi, mau bước lên ra mắt tám vị phụ chính đại thần".

Triệu Hú khom người nói: "Hoàng tôn lĩnh chỉ" Hắn do dự một lát rồi nói: "Hoàng tổ mẫu, Hoàng tôn có một yêu cầu, không biết có nên nói hay không".

Hoàng Thái Hậu nói: "Cứ nói".

"Hoàng tôn nghe Hoàng tổ mẫu nói nhiều về tài năng của Đỗ tướng quân, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ, muốn mời Đỗ tướng quân làm sư bảo của mình. Không biết có được không?"

Hoàng Thái Hậu thoáng sững người liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ ái khanh, ý của khanh thế nào?"

Hai mắt Đỗ Văn Hạo đỏ đỏ, hắn hít hít mũi, trong lòng cực kỳ cảm động và nhớ tới ơn tri ngộ của Tống Thần Tông đối với mình. Yêu ai yêu cả đường đi, tất nhiên Đỗ Văn Hạo cũng cảm động với người con của Tống Thần Tông. Bản thân hắn có tri thức của một ngàn năm sau so với triều Tống, hắn có thể dạy vị Hoàng Đế nhỏ này rất nhiều tri thức. Cảm xúc bắt đầu dâng trào trong lòng hắn, hắn quyết tâm sẽ bồi dưỡng vị tiểu Hoàng Đế trước mắt này thành một Hoàng Đế có tri thức mới, có thể cứu vớt Đại Tống suy tàn lâu nay. Hắn lập tức tiến lên nói: "Vi thần nguyện ý, nguyện tận tâm tận lực làm tròn chức trách sư bảo của tân đế".

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu vui mừng, nàng chậm rãi gật đầu nói: "Nếu đã như vậy thì làm phiền Đỗ ái khanh".

Triệu Hú tươi cười vẻ đắc ý, hắn liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi tiến lên trước điện hai bước, chắp tay nói: "Hú nhi ra mắt chư vị phụ thần".

Mấy người phụ chính đại thần hoảng sợ, liên tiếp vén áo bào quỳ xuống, Vương Giai xuất lĩnh nói to: "Thần, tả Phó bộc xạ, môn hạ thị lang Vương Giải khấu kiến Thánh Thượng" Nói xong ông ta cung kính hành đại lễ, bái ba bái, dập đầu chín cái.

Thái Xác cũng nói: "Thần, hữu phó bộc xạ, trung thư thị lang Thái Xác, khấu kiến Thánh Thượng".

Mấy người còn lại cũng lần lượt báo danh, hành đại lễ.

Mặc dù Triệu Hú vẫn chưa tiến hành đại lễ đăng cơ, vẫn chưa phải là tân đế. Nhưng điều này cũng giống như lãnh đạo mới nhậm chức ở một cơ quan. Tổ chức của bộ đã họp, nghiên cứu và quyết định, tin tức làn truyền ra bên ngoài. Cho dù còn chưa chính thức thông báo xuống bên dưới, ai gặp mặt cũng xưng là cục trưởng, viện trưởng làm người nghe rất sảng khoái.

Triệu Hú mới mười tuổi. Lần đầu tiên hắn thấy người hành đại lễ bái ba bái, dập đầu chín cái thì rất ngạc nhiên, hơn nữa lại gần như toàn những ông lão râu tóc bạc phơ nên bật cười khanh khách.

Từ sau rèm Hoàng Thái Hậu hừ lạnh một tiếng nói: "Hú nhi, phụ hoàng ngươi, Tằng tổ hoàng hậu còn quàn ở bên. Tại sao ngươi lại vui cười lúc này?"

Triệu Hú kinh hãi, hắn vội vàng quay người dập đầu nói: "Hoàng tôn biết sai rồi, thỉnh Hoàng tổ mẫu trách phạt".

Tân đế mới lập, Hoàng Thái Hậu cũng không muốn làm Triệu Hú quá mất mặt liền thản nhiên nói: "Sau này ngươi thân là vua một nước, tất cả hành xử phải cực kỳ suy xét cẩn thận, phải giống như Hoàng cao tổ Nhân Tông hoàng đế của ngươi vậy, làm một Hoàng Đế nhân từ. Hãy đứng lên đi".

Mấy người Thái Xác nghe Hoàng Thái Hậu dạy bảo Hoàng tôn không đề cập với trượng phu của mình là Anh Tông hoàng đế cho là có ý nghĩa khiêm tốn mà thôi, không đề cập tới Tống Thần Tông hoàng đế mà ngược lại đề cấp tới Tống nhân Tông hoàng đế của mấy chục năm trước, biết hiển nhiên Hoàng Thái Hậu không muốn tân đế Triệu Hú sau này học tập ý chí tiến thủ cương quyết của Tống Thần Tông mà muốn Triệu Hú biết kính cẩn lắng nghe, tiết kiệm nhân ái, học tập cách bảo thủ giữ vững nghiệp lớn của Tống Nhân Tông thì trong lòng lại càng lạnh buốt.

Triệu Hú chậm rãi đứng dậy, chắp tay, bập bẹ giọng nói trẻ thơ nói: "Chư vị ái khanh bình thân. A, Đỗ ái khanh, chư vị khanh gia đều dùng đại lễ khấu kiến ta. Tại sao khanh lại vẫn đứng ở đó?"

Triệu Hú vẫn chưa đăng cơ, theo quy định chặt chẽ vẫn không thể xưng là "Trẫm" nên hắn do dự một lát dùng chữ "ta".

Đỗ Văn Hạo thấy Triệu Hú tuổi còn nhỏ tựa như đã có tính kiêu căng tức thì trong lònh tức giận cười nhẹ một tiếng chắp tay nói: "Văn Hạo chỉ là thần tử, đương nhiên phải cùng bọn họ quỳ lạy dùng đại lễ quân thần. Nhưng nay Văn Hạo là sư bảo của Thánh Thượng. Cái gọi là sự tôn nghiêm của đạo học. Người làm thầy phải bái kiến đệ tử của mình, không hợp với lễ nghi tôn sư của Nho gia. Vì vậy Văn Hạo khẩn cầu Thánh Thượng từ nay về sau miễn trừ cho Văn Hạo dùng đại lễ quỳ lạy, thể hiện sự tôn sùng của Thánh Thượng với phẩm đức học thuật của Nho gia".

Triệu Hú thoáng ửng sốt rồi hắn chỉ vào Thái Ca đang quỳ lạy trên mặt đất nói: "Ông ấy đã từng là sư bảo của ta, tại sao vẫn phải quỳ?"

"Hoàng Thái Hậu mới vừa thay đổi sư bảo. Hiện nay Thái đại nhân không còn là sư bảo của Thánh Thượng, đương nhiên phải hành đại lễ quân thần. Thế nhưng một ngày làm thầy, cả đời làm thầy. Khụ khụ. Thái Ca đại nhân đã từng là sư bảo của Thánh Thượng, Thánh Thượng cũng không nên tiếp nhận đại lễ của ông ấy. Coi trọng tôn sư, lễ giáo có quan hệ với việc hưng thịnh của một quốc gia. Thánh hiền Tuân Tử có câu: "Quốc có hưng cần phải quý sư, trọng phó (thầy giáo). Quý sư trọng phó thì luật pháp được duy trì.

Quốc suy chính là khinh rẻ sư, coi nhẹ phó. Thích dùng sai nha thì pháp luật hỏng. Thánh Thượng mới là bậc quân chủ của một nước mà đã không tôn sư, coi trọng giáo thì thực sự không phải điều may mắn của một quốc gia".

Triệu Hú không ngờ Đỗ Văn Hạo lại chỉ trích một cách không khoan nhượng, lại còn trích dẫn câu nói của bậc thánh hiền Tuân Tử nên nhất thời mặt đỏ lên không biết làm thế nào phản bác lại. Nhưng Triệu Hú trời sinh nhanh nhẹn, không dễ dàng chịu thua người khác, mắt hắn đảo lên rồi nói: "Khanh đã đưa ra lời dạy của thánh hiền Tuân Tử. Nhưng Tuân Tử nói: "Thiên Tử là đấng chí tôn, trong thiên hạ không ai sánh bằng, ngoảnh mặt về nam và sai khiến thiên hạ, không ai được trái lệnh, đều phải chấn đọng phục tùng. Khanh giải thích mấy lời này thế nào?"

Mấy câu này Đỗ Văn Hạo nghe không hiểu nhưng hắn nghe thấy kiểu nói của Triệu Hú, tức giận không nhịn được, chậm rãi nói: "Quân chính là Thiên Tử, Quân lâm thiên hạ (ý muốn nói quân chủ quay mắt về phía thiên hạ, quân vương bao trùm trên vạn người), thần tử phải phục tùng quân vương. Nhưng mà Thánh Thượng cũng nên nghe qua một câu nói khác của Tuân Tử: Quân sư chính là gốc rễ, không quân sư tất sinh ác trị".

Triệu Hú thoáng sửng sốt, ánh mắt khẽ chuyển, nói: "Đỗ sư bảo, khanh chuẩn bị dạy ta bộ nào trong tứ thư ngũ kinh".

Đỗ Văn Hạo nhìn thấy sắc mặt này của Triệu Hú lập tức nhớ tới những hành động tinh nghịch, hồ đồ của hắn, bất giác nhíu mày. Lúc trước hắn chỉ nhất thời xúc động chấp nhận làm lão sư của Hoàng Thượng. Hiện tại hắn nghĩ tới việc làm lão sư cho Hoàng Thượng, không thích hợp, không thoải mái, lại càng không được nghiêm khắc tức thì trong lòng thoáng hối hận. Đỗ Văn Hạo nghe thấy Triệu Hú nói câu đó lập tức mượn cớ xuống lừa, chắp tay nói: "Tài học thiên hạ không chỉ có tứ thư ngũ kinh. Sở học của Thánh Thượng đương nhiên đã thuộc lòng điển tích của các bậc tiên hiền. Nhưng Thánh Thượng chính là vua của một nước, chi bằng hãy học qua, tri thức cổ kim nhiều thứ cần học. Thánh Thượng đã chọn Văn Hạo làm thầy, nhất định không phải nhìn trúng trình độ tứ thư ngũ kinh của Văn Hạo. Nếu một khi như thế đừng nói tới học giả uyên thâm, tài học năm xe khi xưa là Tư Mã Quang, mà ngay cả Thư Thụ tiên sinh, Hạo cũng không sánh bằng. Văn Hạo thỉnh cầu được từ chức sư bảo của Thánh Thượng. Văn Hạo đã không phải sư bảo của Thánh Thượng, đương nhiên phải hành đại lễ quân thần. Thần tam nha Đô Kiểm Điểm, Ngự y Đỗ Văn Hạo cầu kiến Thánh Thượng".

Nói xong, Đỗ Văn Hạo vén áo bào, định quỳ xuống.

Sở dĩ Triệu Hú muốn Đỗ Văn Hạo làm lão sư của mình chẳng qua là lúc trước Hoàng Thái Hậu mới lập hắn làm Hoàng Đế, trong lòng cảm kích, lại nghe Hoàng Thái Hậu tôn sùng Đỗ Văn Hạo như vậy nên mới thuận miệng nói ra, cũng là một cách tâng bốc Hoàng Thái Hậu mà thôi. Hắn nghe nói Đỗ Văn Hạo muốn từ chức, vuốt mông ngựa không được lại còn ngược lại làm cho Hoàng Thái Hậu có cảm giác bản thân mình tuỳ hứng, bướng bỉnh, làm lão sư tức giận bỏ đi, vậy chẳng khác gì chữa lợn lành thành lợn què.

Triệu Hú liếc mắt nhìn trộm Hoàng Thái Hậu trong rèm, thất mày liễu Hoàng Thái Hậu cau lại, hiển nhiên trong lòng rất khó chịu. Triệu Hú không khỏi thoáng rùng mình. Thân là con cháu Hoàng tộc, hắn đã được nghe nhiều chuyện xưa của các Hoàng tộc tiền triều. Hắn hiểu rằng trong lịch sử đã từng có tiền lệ Ấu quân vì chọc giận Thái Hậu buông rèm chấp chính mà bị xử phạt, thậm chí còn bị phế. Mới rồi Hoàng Thái Hậu tôn sùng Hoàng Thái Hậu như vậy, không thể khinh xuất chọc giận Hoàng Thái Hậu, khi đó ngội vị Hoàng Đế khó giữ được.

Triệu Hú phản ứng rất nhanh, hắn vội vàng tiến lên xua tay nói: "Chờ một chút, Đỗ sư bảo".

Đỗ Văn Hạo vừa vén sáo bào, vẫn chưa quỳ xuống, nghe Triệu Hú nói vậy thì dừng lại, ngẩng đầu nhìn hắn nói: "Thánh Thượng có gì phân phó?"

"Ừ. Hú nhi thỉnh tướng quân làm sư bảo của ta. Tướng quân học rộng tài cao, có tài trị quốc. Điểm này phụ vương cùng tổ mẫu, Thái Hoàng Thái Hậu đều tôn sùng. Vừa rôi sư bảo nói về sự tôn nghiêm của đạo học rất đúng. Hú nhi sắp đăng cơ, cần phải là tấm gương sáng, lễ kính tôn sư, không vì tôn nghiêm của đế vương mà bỏ qua tôn sư trọng đạo. Hú nhi biết sai rồi. Sau này miễn Đỗ sư bảo và các sư bảo khác tiến hành đại lễ quân thần".

Đỗ Văn Hạo thoáng sững người khi nghe tiểu Hoàng Đế nhận sai sót, cũng miễn cho hắn sau này tiến hành quỳ đại lễ. Hắn nhìn Hoàng Thái Hậu ở sau bức rèm, thấy nàng mỉm cười, chậm rãi gật đầu với mình, trong mắt ngậnp tràn sự mong đợi thì mới chắp tay cúi dạp người thi lễ nói: "Thánh Thượng quá lời. Vi thần đa tạ Thánh Thượng giữ gìn sự tôn nghiêm của đạo tôn sư".

Đúng lúc này từ xa vang lên tiếng kẻng canh năm.

Hoàng Thái Hậu nói: "Canh nắm rồi, sắp tới lúc khiêng linh cữu đưa tang. Vương ái khanh, khanh phụ trách việc lên ngôi của Hoàng Đế. Đỗ ái khanh, khanh phụ trách cảnh giới. Các khanh gia còn lại hãy theo phụ tá bên cạnh. Tất cả các khanh hãy mau đi".

Tám người đồng loạt trả lời.

Bình minh, điện Phúc Ninh.

Linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thấi Hậu đều quàn ở trong này.

 nghi lễ tế lễ khiêng linh cữu bắt đầu, tân Hoàng Đế Triệu Húc, mặc quần áo tang, đứng đầu, bái vị

Phía sau Triệu Hú là Hoàng Thái Hậu, Ung Vương, Tào Vương cùng các thân vương khác, còn có các Hoàng tử, phi tần hậu cung, công chúa cùng hoàng thân quốc thích, cũng mặc quần áo tang, đứng theo tôn ti trật tự trong Hoàng tộc. Các trọng thần đều xếp hàng theo thứ tự ở bậc thềm bên ngoài điện và sân điện.

Những đại thần này thấy người chủ trì tế lễ chính là lục hoàng tử Duyên An Quận Vương thì đều hiểu đây chính là tân Hoàng Đế.

Trong tiếng hô của viên quan lĩnh xướng, bái lạy bốn lễ, hiến tế, hiến rượu, đọc điếu, lại bốn vái sau đó quan chấp sự nói" Khóc!" một hiệu lệnh vang lên tất cả Hoàng tộc buồn bã kêu khóc.

Dù sao Hoàng Đế Triệu Hú dẫn đầu mới chỉ có mười tuôit, căn bản còn chưa hiểu biết nhiều, đương nhiên còn hiểu biết rất hạn hẹp về cái chết. Ngày hôm đó khi biết tin phụ hoàng đã băng hà, hắn đã cùng mẫu thân gào khóc một hồi nhưng sau đó dần dần quên lãng. Giờ đây đã qua một tháng lại biết mình sẽ trở thành Hoàng Đế mới, trong lòng không ngừng đắc ý. Bây giờ đột nhiên bắt một đứa trẻ như hắn chảy nước mắt khóc rống lên, hắn không phải là một diễn viên, đâu có làm được như vậy. Hắn không ngừng khóc khan, không ngừng giả bộ đau đớn, sánh mắt quay loạn mọi chỗ, nhìn đông nhìn tây. Quan chấp sự nhìn thấy nhưng biết hắn sắp làm Hoàng Đế nào dám nói nửa câu.

Sau khi lễ Khải điện qua đi, đoàn người hoàng thân quốc thích bắt đầu đi vào dưới sự chỉ dẫn của viên quan lĩnh xướng vào chỗ quàn lĩnh cữu Hoàng Đế

Quan chấp sự thu lại tấm màn, lau chương cung (quan tài làm bằng gỗ chương), thì ra là để lau bụi đất cho quan tài của Hoàng Đế. Quan chấp sự chỉ dẫn thiết lập Long tập, chân đình, thần bạch dư, dật sách bảo dư (tên những đồ cúng lễ) trên điện sau đó bắt đầu cúng tế tổ tiên, thiết điện tế vong linh, lại là bốn vái, hiến tế, lại bái sau đó khẩu lệnh kêu khóc. Như thường lệ tân Hoàng Đế Triệu Hú lại đảo mắt xung quanh, gào khan.

Sau đó quan Tư lễ cung thỉnh Hoàng Đế đi vào trước hai cỗ quan tài của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu cao hơn đầu người, mặt quay về tây. Quan dẫn lĩnh quỳ tấu, thỉnh linh giá xuất phát.

 Chương 401: Lễ Đăng Cơ 

Chấp Sự Quan bưng Dật Sách Bảo Dư dùng để chiêu hồn, còn Minh Tinh thì dùng để viết tên hiệu của Hoàng Đế để truy phong.

Hàng trăm Chấp Sự Quan đến dự lễ đón linh cữu của Tống Thần Tông đã đứng vây quanh quan tài, dùng để khênh chiếc linh cữu của Tống Thần Tông là một chiếc đòn gỗ to và nặng, nó có tên là Độc Long Giang, phía trước có khắc trạm đầu rồng, còn phía sau thì chạm trổ đuôi rồng, phải cần một trăm hai mươi tám người mới nâng nổi nó lên. Còn linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu thì do chín mươi sáu người khênh, những người khênh linh cữu này đã được rèn luyện vô cùng nghiêm ngặt, ngày thường tập luyện, bọn họ đều phải khênh những chiếc quan tài trên đó có đặt một bát nước đầy, khi khênh nó xuống cầu thang thì đến một giọt nước ở trong bát trên quan tài không được đổ ra ngoài,

Đám Nội Thị vô cùng cẩn thận khi khênh linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu, linh cữu của Tống Thân Tông ra trước, còn của Thái Hoàng Thái Hậu ra sau, trước sau đều vô cùng cẩn trọng và vững vàng.

Đám Chấp Sự Quan lúc này cũng lục đục mỗi người cầm một chiếc lọng, che lấy linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu.

Tiếp sau đó thì viên quan dẫn đường liền quỳ xuống mời linh cữu của Hoàng Thượng lên Long Tập, Long Tập thực chất là một chiếc xe chạm trổ hoa văn rồng phượng, chuyên dùng để chờ quan tài cho Hoàng Thượng. Mấy tên Nội Thị lúc này cũng đã đặt linh cữu của Hoàng Thượng lên trên Long Tập một cách cẩn thận, sau đó dùng một tấm vải màu sắc sặc sỡ che lên linh cữu của Hoàng Thượng,

Còn đám Chấp Sự Quan thì cầm lọng đứng ở hai bên, sau khi viên Tư Lễ Quan cao giọng khởi xướng xong, thì chiếc Long Tập bắt đầu lăn bánh rời khỏi hoàng cung. Phía sau là những viên quan Chấp Sự khác bưng Dật Sách Bảo Dư, Thần Bạch Dư, Chân Đình, Minh Tinh (Những vật dùng trong tế lễ, chiêu hồn, viết truy hiệu cho Hoàng Đế) tiếp sau đó là Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Thân Vương, Hoàng Tử, Phi Tần, Hoàng Thân Quốc Thích, ai cũng khóc lóc vô cùng đau thương.

Dọc trên đường đưa lễ đám Ngự Lâm Quân cũng mặc áo hiếu, để tang đứng trang nghiêm ở hai bên đường, Đỗ Văn Hạo cũng khoác trên người tấm áo tang, tay cầm kiếm đi bên cạnh linh cữu của Hoàng Thượng.

Toàn bộ quá trình tang lễ thì chỉ có mỗi một mình Tam Nha Đô Chỉ Huy Sứ Đỗ Văn Hạo là được phép cầm kiếm, đây là Hoàng Thái Hậu đặc cách cho hắn.

Đội khênh linh cữu ra khỏi cung từ cổng Tả Điện, sau đó đi thẳng ra cổng Ngọ Môn, nơi này cũng là nơi tổ chức nghi thức tang lễ, dĩ nhiên vẫn là Tự Hoàng Đế Triệu Hú dẫn đầu. Tư Lễ Quan khởi xướng xong thì tất cả cùng vái lạy bốn lần, rồi lại phải lạy thêm một lần nữa, tiếng khóc than lại một lần nữa vang lên dữ dội.

Tiễn đưa linh cữu đến đây là kết thúc, cũng là thời điểm vĩnh biệt Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả Hoàng Thân Quốc Thích đều khóc rống lên chấn động cả hoàng cung, có người còn nằm ngửa ra đất giãy giụa không ngừng sửa sắp chết đến nơi, có người thì chạy bổ đến linh cữu cứ như muốn theo Hoàng Thượng xuống dưới suối vàng luôn không bằng, mỗi người một kiểu không ai giống ai, đám Nội Thị phải vất vả lắm mới khuyên ngăn lôi kéo được bọn họ ra.

Trong đám người này còn có cả Ung Vương Triệu Nhan không ngừng dập đầu xuống đất kêu gào thê lương.

Tiếp sau đó, thì vẫn còn một nghi thức khác vô cùng quan trọng phải cử hành, đó là làm lễ kế vị cho Hoàng Đế mới.

Tư Lễ Quan mở to giọng hết cỡ khởi xướng mời Tự Hoàng Đế Triệu Hú lên kế vị. Triệu Hú lững thững áo tang đứng trước linh cữu của Tống Thần Tông cúi lạy ba lạy, dập đầu chín cái, rồi chính thức nhận lệnh kế vị lên ngôi Hoàng Đế.

Tiếp theo, Tư Lễ Quan quỳ xuống trước linh cữu mời mọi người khởi giá.

Sau đó, viên quan dẫn đường liền quỳ xuống mời vị tân Hoàng Đế về cung, về cùng với Triệu Hú còn có Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thân Quốc Thích để bắt đầu cử hành buổi nghi lễ quan trọng nhất, trang nghiêm nhất tại Đại Điện. Tại đây Tể Tướng Vương Giai đã hoàn tất công việc cho buổi lễ đăng cơ.

Ngoài cổng Ngọ Môn, các lễ quan liền quỳ xuống trước linh cữu mời lên Long Tập để xuất phát, Ngoại trừ Tự Hoàng Đế ra, thì các Thân Vương khác đều phải đi theo cùng linh cữu, khi đi ra đến cổng Thụy Môn đến Thái Miếu thì Tào Vương Triệu Cố sẽ chủ trì buổi lễ từ biệt tổ tông tại Thái Miếu.

Vĩnh Dụ Lăng của Tống Thần Tông đến giờ vẫn chưa xây dựng xong, chính vì vậy mà bây giờ phải đặt linh cữu trong Thái Miếu, chờ lăng mộ xây xong rồi mới đưa ra đó để an táng. Còn Thái Hoàng Thái Hậu thì chôn cùng với Tống Nhân Tông tại mộ Vĩnh Chiêu Lăng, chính vì vậy mà sau buổi lễ cáo từ tổ tông xong, thì Lễ Quan lại quỳ xuống mời linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu khởi giá.

Thân Vương lại tiếp tục đưa linh cữu đến cổng Đức Thắng Môn rồi quỳ xuống bái biệt tại đây, sau đó dõi mắt theo lĩnh cữu rồi lại quay lại hoàng cung tham gia buổi lễ đăng cơ của Hoàng Đế Triệu Hú.

Người dẫn đội Ngự Lâm Quân tiễn đưa linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu về Vĩnh Chiêu Lăng an nghỉ là Tam Nha Phó Đô Chỉ Huy Sứ đại tướng quân Lý Phổ, còn Đỗ Văn Hạo thì ở lại Hoàng Cung tham dự buổi lễ kế vị của Hoàng Đế, hắn còn phụ trách khâu an ninh của buổi lễ quan trọng này.

Buổi lễ đăng cơ cử hành tại Đại Khánh Điện, nơi đây đã được trang hoàng lại mới tinh, sau khi xác định tân vương xong thì các quan viên đã được phái đến Thái Miếu tiến hành công bố việc đăng cơ.

Các văn võ bá quan trong triều khi trước đều tiễn đưa linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu ra cổng Ngọ Môn xong rồi lại cùng với Tự Hoàng Đế về Đại Khánh Điện, thay đổi quần áo để chuẩn bị buổi lễ kế vị cho Triệu Hú,

Các viên quan lại trong Bộ Lễ đã đặt chiếc Ngọc Ti Hoàng Đế ở trên mặt bàn Hương Án của Hoàng Thượng, cạnh đó còn có cả những bức thiệp chúc mừng tân vương, cùng với chiếu thư và bút nghiên.

Ở hai bên Đại Điện lúc này đã có đội ngũ quan lại chỉ đứng chuyên để ghi chép lại sự việc, đứng trông vô cùng nghiêm túc, hai bên ngoài cổng Đại Khánh còn đặt hai cỗ xe nạm ngọc có tên gọi Ngọc Liễn và Kiêm Liễn, phía trước cổng Tuyên Đức thì có đặt năm cỗ xe có tên Kim Cách, Ngọc Cách, Mộc Cách, Cách Cách chuyên dành cho Thiên Tử sử dụng, ngoài ra còn có các đội ngũ âm nhạc nữa.

Vì lễ hội đăng cơ của Triệu Hú là thuộc vào dạng vừa đưa tang vừa lên ngôi, chính vì vậy mà đội ngũ âm nhạc được bày biện ở trước Đại Khánh Điện chỉ có dụng cụ âm nhạc thôi, chứ không có người chơi nhạc, bày chúng ở đó chăng qua là muốn biểu thị sự vui vẻ thôi, chứ thật sự không cần phải nổi nhạc lên, vì dù sao trong đây còn là buổi tang lễ.

[Trong các bộ truyện xuyên việt, vượt thời gian khác thì trong đại lễ đăng cơ không quản là đang có tang hay không, tất cả đều nổi nhạc kèn trống vui vẻ, điều này không phù hợp với thực tế, cũng chẳng phù hợp với lịch sử chút nào. Đây là lão Mộc Dật nói vậy! ]

Trước đó, Đỗ Văn Hạo đã bố trí an ninh trong buổi lễ đăng cơ này vô cùng thỏa đáng và chặt chẽ rồi, trong giờ phút quan trọng cuối cùng này hắn lại còn đem theo Đại Nội Thị Vệ đi tuần hết cả cái Đại Điện này mấy vòng nữa.

Trong hoàng cung lúc này đã an bài rất nhiều Ngự Lâm Quân, tất cả các đường cửa ra vào đều được canh phòng vô cùng cẩn mật, kẻ địch bên ngoài cũng khó mà có thể trà trộn vào bên trong được, và chủ yếu đối phó với những người trong nội bộ, chính vì vậy mà khi Hoàng Thượng chưa xuất hiện Đỗ Văn Hạo đã đi kiểm tra cả cái Đại Điện này hết mấy lần liền, trong đó có cả cung nữ, thái giám, nội thị cùng với văn võ bá quan, ai hắn cũng kiểm tra một cách kỹ lưỡng.

Cũng trong lúc này, Triệu Hú cũng đã ở phía trong Đại Khánh Điện mặc xong quần áo của Hoàng Đế, Triệu Hú trước tiên phải đến Điện Văn Đức nằm ở bên trái trước để tiếp nhận tám vị Tể Tướng cùng với Tam tỉnh và Lục Bộ, sau đó là tới Đại Lý Tự, Hàn Lâm Viện. Nói chung là những người phụ trách những nhiệm vụ trọng yếu hai quỳ mười lạy. Vì tân vương đã miễn cho Đỗ Văn Hạo rồi, nên hắn không phải quỳ lạy như mấy người kia nữa, mà chỉ việc cúi người lạy tạ mà thôi.

Xong xuôi đâu đấy, Lễ Bộ Thượng Thư liền quỳ xuống mời Hoàng Thượng, Triệu Hú liền bắt trước bộ dạng của người lớn khệnh khạng bước ra khỏi điện, sau đó đi tới Đại Khánh Điện, rồi ngồi lên ngai vàng trong đây.

Phía sau ngai vàng lúc này đã xuất hiện một chiếc rèm che, Hoàng Thái Hậu ngồi ngay sau đó ra chỉ cho các quan Thần trong triều.

Còn đám quần thần đứng nghiêm thành hai hàng phía dưới, Tể Tướng Vương Giai thì đứng cúi người bên cạnh ngai vàng từ từ mở chiếu thư ra đọc, bức Chiếu thư kế vị này là do môn hạ của Trung Thư ngày đêm ngẫm nghĩ và chỉnh sửa mới viết ra được, chính vì vậy mà chữ đầu tiên là môn hạ, chứ không giống như đời nhà Thanh là Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết gì gì đó.

Vương Giai lúc này khẽ hắng giọng lên một cái, rồi lắc lư cái đầu của mình cất tiếng khàn khàn lên đọc bản chiếu thư kế vị.

“Môn hạ viết: để dân chúng được ấm no mà lập ra quân vương, quân vương hiệu lệnh thiên hạ bốn phương là vì sự an nguy ngàn đời của trăm họ, Tiên Đế tài giỏi văn võ song toàn, tài trị quốc hơn hẳn thiên cổ, nay Thế Tử anh minh, vì sự nghiệp Tiên Đế nên kế vị làm nên nghiệp lớn! Bố cáo cho toàn dân thiên hạ được biết!”

Sau khi đọc xong chiếu thư kế vị, Vương Giai liền cuộn nó vào giao cho Đại Học Sĩ dâng lên cho Nội Các Học Sĩ, Nội Các Học Sĩ tiếp lấy cẩn thận đóng dấu lên đó, rôi đem cuộn chiếu thư này giao cho Lễ Bộ Thượng Thư.

Lúc này, tiếng trống tại cổng Ngọ Môn đã vang lên, dưới sự chỉ dẫn của Tư Lễ Quan, các vương công đại thần ở bên ngoài Đại Khánh Điện đều đồng loạt quỳ xuống tiến hành ba quỳ chín lạy. Sau đó là một đám nội thị tay cầm roi ngựa dài tầm hai mét quất liền mấy tiếng kêu đen đét trong không trung.

Tiếp sau đó, Vương Giai lại cung kính cầm lấy một cuộn thánh chỉ khác, để tuyên bố chỉnh sửa niên hiệu.

“Trẫm kế nghiệp Tiên Đế, nguyện đem tâm sức ra giúp đời giúp nước, làm việc chăm chỉ không ngại gian khó, chính thức tuyên bố bắt đầu từ ngày một tháng một cải hiệu Nguyên Phong năm thứ chín thành Nguyên Hữu năm thứ nhất!” Vương Giai lắc lắc đầu đọc xong rồi lại cuộn lại đưa cho Nội Các Học Sĩ đóng dấu.

Sau đó ông lại cầm thêm một bản chiếu thư khác, đây là bản chiếu thư tôn Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lên thành Thái Hoàng Thái Hậu, Vương Giai lại hắng giọng đọc.

“Từ đời vương giả khi xưa, thì quân phương là người đứng đầu trong thiên hạ, Hoàng Thái Hậu nổi tiếng là người nhân đức, cần kiệm liêm chính, lại phò tá Anh Tông làm mẫu nghi thiên hạ, nhân hậu đảm đang, được nhân dân kính ngưỡng, quân thần kính nể, tạo phúc cho muôn dân từ bi hỷ sả, nay truy phong lên Thái Hoàng Thái Hậu!”

Vương Giai đọc xong lại đem bản chiếu thư này đưa cho Nội Các Học Sĩ đóng dấu rồi lại dâng lên một đạo thánh chỉ khác, thánh chỉ này tuyên bố Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao quyết định buông rèm chấp chính, Vương Giai cầm chiếu thư lên quét mắt nhìn quần thần một lượt xong lại hắng giọng đọc.

“Thái Hoàng Thái Hậu nhân đức vẹn toàn, thông minh tuyệt đỉnh, thấu hiểu lòng dân, từ bi độ lượng, biết thâu nạp lời trung nghĩa, hiểu biết về quân sự, nên quết định phò giúp Hoàng Thượng nhiếp chính...!”

Lần này tới lượt Lễ Quan khởi xướng, các vị quan lại trong triều nhất thời quỳ xuống ba lần, lạy chín cái cung chúc Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng.

Tiếp sau đó, Vương Giai lại tiếp tục đọc thêm mấy đạo thánh chỉ nữa, trong đó phong Hoàng Hậu lên làm Hoàng Thái Hậu, phong Chu Đức Phi nương nương lên làm Hoàng Thái Phi, ban cho Ung Vương và Tào Vương vào triều đặc quyền không cần xưng danh tính, phong Ninh Quốc Công Triệu cố lên làm Quận Vương, còn các vương công khác cũng đều được phong tước hết.

Sau khi kết thúc, chiếu thư lại được đưa cho quan trong bộ lễ, rồi sau đó lần lượt ra được đưa ra khỏi cổng Đại Khánh đến công Tuyên Đức bố cáo cho thiên hạ được biết.

Đỗ Văn Hạo ngoại trừ việc tham gia lễ bái ra, thì chức trách chủ yếu của hắn vẫn là hông đeo bảo kiếm đề phòng canh gác không một phút lơ là,

Cuối cùng thì nghi lễ cũng đã hòan toàn kết thúc, tân Hoàng Đế Triệu Hú lui ra khỏi hậu điện, quân thân lúc này cùng giải tán, Đỗ Văn Hạo cũng thở phào nhẹ nhõm. Hắn sau đó lại đem đám thị vệ tuần tra một lượt nữa cho kỹ càng, sau khi dặn dò canh gác cẩn mật đâu đấy xong rồi thì trời cũng đã tối, cũng may mà mọi việc rất thuận lợi, không hề có chuyện gì xảy ra cả. 

Đỗ Văn Hạo đi đến tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu Thao Thao, nhưng sau khi hỏi han thì hắn được biết Thao Thao của hắn bây giờ đã không còn ở đây nữa mà chuyên sang nơi ở của Thái Hoàng Thái Hậu Tào Thị, tức cung Càn Ninh rồi, Đỗ Văn Hạo nghe vậy lại chạy sang đó, đến nơi trông thấy tên thái giám đứng ở bên ngoài canh giữ liền lên tiếng hỏi: “Thái Hoàng Thái Hậu đâu?”

“Dạ! Bẩm tướng quân! Thái Hoàng Thái Hậu bây giờ đang ở trong vườn hoa Hậu Uyển ạ!” Tên thái giám đáp,

Vườn hoa Hậu Uyển tức là Ngự Hoa Viên trong Hoàng Cung, đó là nơi mà Thái Hoàng Thái Hậu Tào Thị rất yêu quý. Đỗ Văn Hạo cũng đã từng dạy bà cách làm thế nào cho hoa nở nhanh, và làm thế nào cho hoa nở muộn, chỉ cần nắm giữ nhiệt độ hợp lý là có thể làm hoa ra trái mùa, chính vì vậy mà nơi đây hoa mọc tươi tốt, do thế mà Thao Thao của hắn rất là ngưỡng mộ và yêu thích nơi đây. Nên khi mới dọn về đây bà đã ra luôn vườn hoa ngắm cảnh rồi.

Đỗ Văn Hạo được tên thái giám dẫn đường đi vào bên trong Hậu Uyển, từ xa hắn đã trông thấy Thao Thao của hắn ngồi trong một chiếc đình ngẩn người ngắm những bông hoa tươi đẹp ở trong vườn.

Việc tang lễ cũng đã lo xong, Thái Hoàng Thái Hậu cũng đã bỏ áo tang xuống, thay bằng một bộ áo váy bồng thắt eo màu đen, quanh eo còn thắt thêm một tấm lụa trắng nữa, mái tóc của bà không hề vấn cao lên, mà cứ để nó xõa xuống dưới vai, chỉ cột nó bằng một sợi dây màu trắng đơn giản, trông vô cùng đạm bạc lại có phần cô đơn.

Đỗ Văn Hạo liền nhanh chân bước vào trong đình cúi người thi lễ nói: “Vi Thần bái kiến Thái Hoàng Thái Hậu!”

Cao Thao Thao đang ngẩn người ngắm cảnh, thì bỗng nhiên bị tiếng nói của Đỗ Văn Hạo làm cho sực tỉnh, khi nhận ra hắn rồi thì bà vô cùng mừng rỡ quay mặt lại mỉm cười vẫy tay với hắn nói: “Không cần đa lễ, mau lại đây với ta!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền tiến tới đứng cạnh bên Thái Hoàng Thái Hậu.

Cao Thao Thao lúc này liền vẫy tay ra ý cho bọn thái giám và cung nữ đều lui hết ra bên ngoài, sau đó quay sang Đỗ Văn Hạo ra ý bảo hắn ngồi xuống bên cạnh mình.

Tuy rằng bây giờ trời đã chập choạng tối, sắc trời cũng đã âm u, nhưng vì cái Ngự Hoa Viên này quá rộng cho dù trong này không có một bóng người nào nữa, nhưng vẫn có cảm giác dường như có người đang đứng ở đâu đó trong này đưa mắt lên nhìn trộm hai người, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo trong bụng có phần sợ hãi, khép nép ngồi xuống nhưng vẫn giữ một khoảng cách với Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao.

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao thấy Đỗ Văn Hạo như vậy liền sẵng giọng nói: “Sao chàng ngồi xa ta thế làm gì? Ta lẽ nào là cọp hay sao mà chàng lại sợ ta thế?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười híp cả mắt lại thấp giọng đáp: “Nàng mà ghê gớm lên thì còn kinh hơn cả cọp nữa!”

Câu nói này của Đỗ Văn Hạo có hai ý, một là hắn nói Thao Thao của hắn giết chết Tư Mã Đạo Nhân vô cùng ghê gớm, hai là lúc hai người gần gũi nhau, Thao Thao của hắn tham lam như hổ đói vậy.

Thái Hoàng Thái Hậu dĩ nhiên là hiểu theo ý sau của hắn, nên nhất thời đỏ mặt lên nói: “Lúc nãy thì sợ co rúm cả vào, bây giờ lại giở trò mồm mép hả? Còn không ngồi gần vào đây? Không có lệnh của ta thì không ai dám vào trong này đâu?”

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là hiểu điều này, nên hắn lấy hết sức can đảm ngồi xịch gần đến bên Cao Thao Thao, rồi vòng tay ra ôm lấy eo của bà,

Cao Thao Thao cũng thuận thế dựa đầu vào vai của Đỗ Văn Hạo, nhu mì nói: “Một tháng trước đây thôi, Thái Hoàng Thái Hậu vẫn còn ngồi ở trong này chăm sóc vườn hoa của người, vậy mà bây giờ người đã cưỡi hạc về nơi tiên cảnh rồi! ”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Thao Thao của hắn buồn bã như vậy, liền ôm ghì lấy áp sát mặt của hắn vào mặt của bà nói: “Thao Thao! Tang lễ cũng đã lo xong đâu đấy hết cả rồi, người mất thì cũng đã mất rồi! Còn người sống thì vẫn phải sống chứ, thôi nàng đừng nghĩ đến những chuyện buồn nữa được không?”

“ừm!” Thái Hoàng Thái Hậu nghiêng đầu nhìn hắn rồi mỉm cười một cách miễn cưỡng nói: “Bây giờ ta cũng đã thành Thái Hoàng Thái Hậu rồi đó, chỉ trong nháy mắt mà ta đã già đến thế này rồi!”

“Già đâu mà già...Đỗ Văn Hạo nói xong liền hôn luôn lên môi của Thái Hoàng Thái Hậu, tuy nó vẫn mềm mại, nhưng lại lành lạnh. Đỗ Văn Hạo liền thương cảm nói: “Làn da của Thao Thao của ta vẫn còn mượt mà lắm, nó mềm trơn mịn như quả trứng vậy! Thao Thao sẽ không bao giờ già, cứ trẻ đẹp mãi thế này thôi!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì hai mắt sáng lên vì hạnh phúc, bà ngẩng đầu lên nhì hắn rồi vòng cả hai tay bá lấy cổ của Đỗ Văn Hạo hôn lấy hôn để, rất lâu sau mới miễn cưỡng buông Đỗ Văn Hạo ra, rồi bà lại dúi đầu vào ngực của hắn khẽ nói: “Văn Hạo! Ta sợ lắm!”

“Sợ cái gì chứ?” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng vuốt mái tóc của Thái Hoàng Thái Hậu nói.

“Sợ một ngày nào đó, ta cũng giống với Thái Hoàng Thái Hậu, hai mắt ta nhắm lại vĩnh viễn không thể trông thấy chàng được nữa Thái Hoàng Thái Hậu buồn bã đáp. Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nâng cằm của Thái Hoàng Thái Hậu lên, thấy đôi mắt phượng của bà nhắm lại và ngấn lệ, hai hàng lông mi khẽ chớp lên một cái, một giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên gương mặt đáng thương của bà.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy thương xót vô cùng, hắn liền hôn luôn lên đôi mắt ngấn lệ đáng thương đó rồi nhẹ nhàng an ủi: “Ngốc ạ! Nàng cũng có hơn ta được bao tuổi đâu, ta là một tướng quân nam chinh bắc chiến có khi lại về cõi vĩnh hằng trước nàng cũng nên!”

“Bậy nào...! Không được nói bậy!” Thái Hoàng Thái Hậu nghe Đỗ Văn Hạo nói gở như vậy thì vội vã đưa tay lên bịt miệng hắn lại rồi nói: “Tất cả đều tại ta, tại ta nói những điềm gở như thế, nên chàng mới nói khùng như vậy!”

“Ha ha!” Đỗ Văn Hạo bật cười rồi hôn lên bàn tay của Thái Hoàng Thái Hậu nói: “Chúng ta cùng sống lâu trăm tuổi, đến lúc đó về trời rồi làm một đôi phu thê thần tiên chốn bồng lai tiên cảnh, ngày nào cũng hái đào trong vườn Thượng Uyên!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy cũng bật cười, nét mặt đắm chìm trong sự vui vẻ và hạnh phúc, bà lại dụi đầu vào lòng Đỗ Văn Hạo nói: “Nếu mà thật như vậy thì tốt biết bao nhiêu!”

“Dĩ nhiên là thật như vậy rồi, ông trời có mắt nhất định sẽ không nỡ lòng nào tách rời hai chúng ta ra đâu!” Đỗ Văn Hạo cười nói.

“ừm!” Thái Hoàng Thái Hậu mỉm cười nhắm mắt hưởng thụ câu nói vừa rồi của Đỗ Văn Hạo.

Trời cũng dần dần tối dần. Đúng lúc này bên tai của hai người bỗng nhiên nghe thấy gió thổi vù vù, cát bay lên tứ tung.

“Mưa rồi!” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nói: “Lâu lắm rồi mà chưa có mưa! Lần này ông trời đổ mưa xuống cho chúng ta rồi, thật là sảng khoái!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mở mắt ra, bà liền trông thấy những giọt mưa tí tách rơi bên ngoài chiếc đình, bà vui mừng ra mặt đứng thẳng người lên kéo lấy tay của Đỗ Văn Hạo đứng sát hiên của chiếc đình nói: “Ta thích nhất là trời mưa, khi trời mưa trái tim ta rất tĩnh lặng, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên lá chuối, cái cảm giác ấy khó tả vô cùng.

“Đúng vậy! Gốc chuối bên cửa sổ.... Hứng những giọt mưa rơi, mưa rơi hoài không ngớt, tâm trạng nỗi đầy vơi....!” Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên cao hứng ngâm một bài thơ lên,

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì kinh ngạc quay sang hắn nhìn nói: “Thơ hay quá, là chàng viết ư?”

“Ồ không, là một nữ thi sĩ thời đại Tống chúng ta có tên là Lý Thanh Chiếu viết đó! ” Đỗ Văn Hạo nói, ,

“Lý Thanh Chiếu? Ai vậy nhỉ? Sao ta chưa bao giờ nghe qua tên của người này? Người ấy bây giờ đang ở đâu?” Thái Hoàng Thái Hậu hỏi.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy ngượng ngùng đáp: “Cái này thì ta không rõ...!”

Đỗ Văn Hạo chỉ biết Lý Thanh Chiếu sống vào những năm cuối của Bắc Tống, sau đó thì Bắc Tống bị diệt vong bà liền dời vào nam, Bắc Tống lúc đó chuyển thành Nam Tống, vậy nhưng cụ thể thời gian là bao giờ thì hắn không rõ lắm, cũng không biết Lý Thanh Chiếu là người ở đâu, Đỗ Văn Hạo lúc này cũng nghĩ, đến cả Thái Hoàng Thái Hậu cũng không biết thì chắc Lý Thanh Chiếu vẫn chưa ra đời, mà cho dù ra đời rồi thì cũng chưa nổi tiếng.

Thái Hoàng Thái Hậu lúc này liền nói: “Hình như chàng vẫn chưa đọc hết cả bài thơ thì phải, chàng đọc tiếp cho ta nghe đi!”

“ừm, được! Canh ba tí tách nỗi sầu ai, từng giọt xót xa như sương đắng, nhớ về người đó nơi trời Bắc, mưa xa bỗng dậy nỗi lòng không!” Đỗ Văn Hạo ngân lên.

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mê mẩn như người mất hồn lẩm nhẩm: “Gốc chuối bên cửa sổ...hứng những giọt mưa rơi! Mưa rơi hoài không ngớt, tâm trạng nỗi đầy vơi! Canh ba tí tách nỗi sầu ai, từng giọt xót xa như sương đắng! Nhớ về người đó nơi trời Bắc,

mưa xa bỗng dậy nỗi lòng không ! Bài thơ này hay quá! Lúc nãy chàng nhắc ta mới nhớ, trong này ta cho đựng một cái lầu, rồi trồng thật nhiều chuối xung quanh, khi mưa xuống chúng ta tới đó uống rượu ngâm thơ, đánh đàn nghe hát, chàng thấy thế nào?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười nói: “Cái này tuyệt đấy, vậy nhưng ta lại không biết làm thơ, cũng không biết đàn hát, còn uống rượu thì không có vấn đề gì cả, hề hề, hay là nàng đánh đàn ngâm thơ, còn ta chỉ ngồi uống rượu thôi, nàng đánh một khúc nhạc, ta uống một cốc rượu, nàng làm một bài thơ, ta uống thêm một cốc nữa, được không hả?”

“Không được không được, chỉ một mình ta đánh đàn ngâm thơ thì có gì là hay, chàng không phải vừa ngâm một bài thơ rất hay rồi đó hay sao?” Thái Hoàng Thái Hậu lắc đầu nguầy nguậy nói,

“Nhưng đó là của Lý Thanh Chiếu, chứ có phải ta làm đâu!” Đỗ Văn Hạo cười khổ nói,

“Ta không tin! Chàng vừa ngâm một bài thơ hay như vậy, cứ nói không phải của mình, lại còn nói là do cái gì mà Lý Thanh Chiếu viết! Không phải ta nói ngoa chứ ta đọc sách ngâm thơ từ bé đến giờ, chưa từng nghe đến bài thơ này bao giờ, đừng nghĩ là ta đọc ít sách, ta đọc nhiều lắm đó, nhiều đến nỗi mà bây giờ có rất ít bài thơ nào là ta không biết! Hứ...! Chàng biết làm thơ mà cứ dối ta là Lý Thanh Chiếu viết, ta không cần biết, chàng phải làm thơ cho ta nghe cơ...! ” 

 Chương 402: Tiêu chuẩn của thắng bại 

"Văn Hạo" Đỗ Văn Hạo thấy dáng vẻ làm nũng của Cao Thao Thao vô cùng đáng yêu. Đỗ Văn Hạo không nhịn được ôm lấy nàng, gắn miệng vào đôi môi mọng đỏ của nàng, trong đầu thầm tính toán: Thơ Đường, Tống từ. Nàng đương nhiên hiểu rõ từ Bắc Tống về trước, vậy chỉ còn từ Nam Tống về sau. Người nổi tiếng ở Nam Tống cũng không thiếu. Ví dụ như Lý Thanh Chiếu gì đó, Lục Du, Tân Khí Tật, Khương Toạ, Văn Thiên Tường vân vân. Cũng may bản thân mình có bá phụ không chỉ tinh thông Trung y mà còn rất yêu thích thơ, từ cổ. Khi mình còn bé, đã rất nhiều lần bắt mình học thuộc lòng, trong đầu vẫn còn nhớ được một ít, thật sự để đối phó lại cũng không thành vấn đề. Hắn liền nói: "Vậy được rồi, ta cung kính không bằng tuân lệnh.

Nhưng mà cũng cần phải nói trước ta ngâm thơ, sáng tác từ không được tốt lắm, nàng cũng đừng làm khó ta. Ta làm không được cũng đừng chê cười ta".

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vỗ tay nói: "Ừ. Vậy chúng ta đã định, không được phép chơi xấu".

"Đó là đương nhiên. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy".

"Được. Ngươi còn phải giúp ta đánh đàn" Cao Thao Thao hưng phấn ôm mặt hắn, ngẩng đầu nói.

"Đánh đàn ư? Đàn tranh, cầm, tỳ bà ta đều không đánh được. Nói không chừng nàng phải nút bông".

"Ai bảo ngươi đánh đàn" Cao Thao Thao cười hì hì. Nàng chụp lấy thanh bảo kiếm bên hôn Đỗ Văn Hạo, xoàn xoạt rút kiếm ra một nữa, ánh kiếm lấp lánh, lạnh giá rồi lại ấn thanh kiếm lại nói: "Ta đánh đàn, ngươi múa kiếm'.

"Múa kiếm?"

"Ngươi đường đường là Đại tướng quân, đừng nói với ta là ngươi không biết múa kiếm chứ?"

Quả thật Đỗ Văn Hạo không học qua kiếm thuật. Hắn mới học Cầm nã thủ và Phân thân thác cốt của Lâm Thanh Đại. Nhưng mà Lâm Thanh Đại là võ lâm cao thủ. Hắn có thể bớt chút thời gian học kiếm thuật, có sự trợ giúp của Lâm Thanh Đại hẳn cũng không có vấn đề gì. Bất chợt Đỗ Văn Hạo nhớ tới phim "Tần Dũng" có cảnh lá rụng, mữ nữ đánh đàn, tướng quân múa kiếm, tức thì nhiệt huyết trong lòng bốc lên, hắn gật đầu nói: "Được. Nàng đánh đàn, ta múa kiếm trợ hứng".

"Hay hay hay" Cao Thao Thao hưng phấn nói hay ba lần. "Chỉ tiếc bây giờ trời đã tối đen, nếu không ta thực sự muốn bắt đầu ngay lập tức".

"Ha ha. Ta muốn trước tiên sửa lại toà đình ngắm mưa, có cảnh sắc đẹp, khi đó mới có tâm tình tốt".

"Nói rất đúng. Ngày mai ta cho bọn chúng tiến hành, sẽ hoàn thành trong vòng nửa tháng".

"Ừ, tốt lắm".

Cao Thao Cao thấy sắc trời ngày một tối dần, cảnh sắc bên ngoài đình không còn nhìn thấy rõ, mưa cũng dần dần to lên. Được sự che giấu của màn đêm, lá gan của Cao Thao Thao cũng lớn dần. Nàng ôm cổ Đỗ Văn Hạo, kiễng chân hôn hắn.

Đỗ Văn Hạo ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao, đôi ma trảo của hắn không ngừng vuốt ve thân thể lồi lõm hấp dẫn của nàng. Lần này hai người hôn nhau rất lâu, bốn phía chỉ có tiếng mưa rơi tí tách.

Khuôn mặt Cao Thao Thao đỏ bừng, hơi thử gấp gáp, nàng lên tiếng: "Lần trước chúng ta nói, sau khi việc tang xong xuôi sẽ tìm thời gian đi chơi, nghỉ ngơi thoải mái, hồi phục mấy ngày. Ngươi nói xem chúng ta nên đi chỗ nào?"

"Nàng quyết định. Nàng muốn đi đâu ta sẽ theo nàng đi tới đó" Đỗ Văn Hạo ôm lấy khuôn mặt trơn mịn của nàng, ôn nhu nói.

"Ừ. Để ta suy nghĩ xem thế nào. Chỉ e bây giờ chúng ta vẫn chưa đi được".

"Tại sao vậy?"

"Lúc trước quan Tể tướng Vương Giai nói: Trong hơn một tháng qua còn tồn đọng rất nhiều tấu chương chờ ta phê duyệt. Mới vừa rồi ta đã quyết định chấp chính, bây giờ lại bỏ ra ngoài du ngoạn, chỉ e sẽ có ảnh hưởng không tốt, hơn nữa còn làm chậm trễ chính sự. Tốt nhất là chờ đợi đã, để qua quãng thời gian bận rộn này hẵng nói".

"Được. Bây giờ nàng lấy quốc gia đại sự làm trọng, ta rất mừng. Sau này giang sơn Đại Tống ở trong tay nàng, nàng phải hết lòng vì chuyện quốc gia đại sự. Chuyện nhi nữ thường tình cũng có thể bỏ qua đi".

"Ta không" Cao Thao Thao ở trong ngực Đỗ Văn Hạo, lắc lắc thân hình nhỏ nhắn xin xắn, nũng nịu nói: "Ta đã phải xử lý chuyện quốc gia đại sự, ta cũng muốn chuyện nhi nữ thường tình với ngươi. Ta phê duyệt tấu chương cũng muốn ngươi ở bên. Dù gì ta cũng không cho phép người rời khỏi ta".

Đỗ Văn Hạo hôn phớt nàng nói: "Thôi nào, ta cũng không nỡ rời khỏi nàng. Nàng không cho ta rời đi, cả ngày ta ở với nàng, chạm vào mái tóc, vành tay nàng, được không?"

"Ừ" Cao Thao Thao hạnh phúc hôn Đỗ Văn Hạo, nhưng rồi nàng lại khẽ thở dài nói: "Nhưng mà ngươi là tam nha Đô Kiểm Điểm, phụ trách quân đội cả nước, cũng có rất nhiều chuyện phải xử lý, chỉ sợ ngươi không có nhiều thời gian theo giúp ta".

"Không sao. Không phải vẫn còn cấp phó sao? Một mình ta làm, mệt chết đi được mà vẫn không hết".

Bàn tay phải của Cao Thao Thao khẽ bịt miệng hắn, sẵng giọng nói: "Hãy hứa sau này không được nói tới chữ "chết" nha".

"Được" Đỗ Văn Hạo bỏ tay nàng xuống, cười nói: "Nhưng mà sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên. Thân ta chính là Đại tướng quân trong triều. Sau này một khi xảy ra chiến trận, nhất định phải lãnh binh xuất chinh. Không vị tướng quân nào bách chiến mà không chết".

"Bảo người đừng nói người còn nói. Còn nói nữa ta sẽ phạt ngươi" Cao Thao Thao lập tức dùng miệng ngăn chặn miệng của Đỗ Văn Hạo, hôn hắn một cái rồi gắt lên: "Hơn nữa ta không cho phép ngươi rời khỏi ta, cũng không phê chuẩn cho người dẫn quân xuất chính. Không phải như vậy sẽ tốt sao?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Được. Dù sao ta cũng không am hiểu binh pháp, lãnh binh xuất chinh, tám chín phần mười sẽ bị đánh bại, làm nàng mất mặt".

"Ngươi còn nói không hiểu binh pháp. Tiên đế tán thưởng ngươi lãnh binh có phương pháp, tinh thông binh pháp, đánh một trận với người Thổ Phiên, lấy ít thắng nhiều. Sau này lãnh binh xuất trận nhất định sẽ là thường thắng tướng quân".

Đỗ Văn Hạo cười hì hì, hắn lắc đầu nói: "Thao Thao, nói thật ta tới tam nha một thời gian, cũng đã hiểu được một chút tình hình của tam nha. Nếu như quân đội Đại Tống của chúng ta bây giờ, muốn đánh thắng trận, đánh bại Tây Hạ cùng nước Liêu quả thật không dễ dàng chút nào".

Trước kia Cao Thao Thao một mực ở trong thâm cung, không hỏi tới chính sự, cũng không hiểu gì về quân đội, lại càng không hiểu binh pháp. Bây giờ vì tiểu Hoàng Đế mới mười tuổi, còn cách tuổi trưởng thành để tự chấp chính những bảy, tám năm. Thời gian buông rèn chấp chính của Cao Thao Thao còn rất lâu, không thể chỉ đối phó qua loa. Nàng cũng muốn tìm hiểu, quản lý tốt. Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói quân đội Bắc Tống rất kém cỏi, khó có thể đánh thắng trận, bất giác nàng lắp bắp kinh hãi: "Thật vậy sao? Binh lực của chúng ta kém hơn so với nước Liêu và Tây Hạ sao?"

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Đại Tống chúng ta chiếm ưu thế. Cho dù là "Tiên, Xuyên" binh. Ngay cấm binh chúng ta cũng có sáu mươi vạn người, chừng đó đủ để tác chiến theo quy tắc thông thường. Sương quân địa phương có hai mươi vạn quân. Sương quân phụ cận kinh thành có mấy vạn quân nhưng tất cả chỉ là binh lính tạp dịch, không có sức chiến đấu, không thể trực tiếp đánh trận. Nếu như tăng thêm Sương quân, tổng binh lực của chúng ta sẽ gần chín mươi vạn người. Mặc khác chúng ta còn một số lượng không xác định hương binh trong dân gian. Phiên binh của Khương tộc cùng các dân tộc thiểu số, cùng với binh lính và quân cung thủ của các nha môn các nơi".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Nhiều binh lính như vậy ư? So với Tây Hạ và nước Liêu thì thế nào?"

"Quân đội nước Liêu là do Cung trướng quân, quân của các bộ tộc lớn, quân bộ tộc, ngũ kinh hương đinh cùng với quân đội các nước chư hầu hợp thành. Quân Cung trướng của nước Liêu tương đương với Cấm quân của chúng ta, là bộ đội tinh nhuệ chủ lực của nước Liêu, tổng binh lực có mười vạn người ggì đó. Quân bộ tộc của các đại thủ lĩnh thật ra là đội vệ binh của các đại thần cùng các thân vương, binh lực nhiều thì hơn một ngàn, ít thì mấy trăm, tổng binh lực có ba vạn người gì đó. Quân bộ tộc là loại quân đội quân dân kết hợp của các bộ lạc, không phải là quân đội thường trực chính quy, thời binh là dân thường, thời chiến là binh lính. Hơn nữa chủ yếu phụ trách việc bảo vệ nội địa nước Liêu và kinh thành, bình thường không bao giờ tác chiến ở biên giới vì vậy không tính vào số lượng quân đội tác chiến chính quy. Ngũ kinh hương đinh cũng giống như hương đinh của chúng ta, hiệu quả thì như Sương quân chúng ta, cũng là lính tạp dịch, không trực tiếp tham gia đánh trận".

Cao Thao Thao nói: "Rốt cuộc thì nước Liêu có bao nhiêu quân đội?"

"Quân đội chính quy có thể trực tiếp đánh trận không vượt quá hai mươi vạn quân, cộng thêm số lượng lính tạp dịch cùng lực lượng vũ trang địa phương, tổng số cũng không vượt qua con số ba mươi vạn quân".

"Ít như vậy sao?" Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Chỉ tương đương một phần ba quân đội chúng ta. Còn Tây Hạ thì sao? Có bao nhiêu binh lính?"

"Quân đội Tây Hạ do quân thị vệ trung ương, Cầm sinh quân cùng địa phương quân hợp lại. Quân thị vệ trung ương Tây Hạ kể cả năm ngàn quân Ngự lâm "Chất tử quân", ba ngàn người là thân binh trọng giáp kỵ binh của Hoàng Đế, hai ngàn năm trăm người là binh lính thiếp vệ kinh thành. Số lượng của quân đội tinh nhuệ chính quy của Tây Hạ "Cầm sinh quân" ước chừng mười vạn người. Tổng số quân đội chính quy không quá mười lăm vạn người. Bởi vì ở Tây Hạ và Đại Liêu, toàn dân là binh lính trong biên chế quân đội. Tổng số quân đội có thể lên tới năm mươi vạn người nhưng mà không thoát ly sản xuất, không thể tính là quân chính quy. Đương nhiên nếu tính thêm bộ phận này thì có thể tăng lên tới sáu mươi lăm vạn quân".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Như vậy vẫn kém hơn rất nhiều so với chúng ta. Hơn nữa quân chính quy của chúng mới có mười lăm vạn quân. Tổng binh lực Cấm quân của chúng ta đã có sáu mươi vạn người, nhiều hơn chúng rất nhiều. Cho dù tổng binh lực của Tây Hạ và Đại Liêu cộng lại mới miễn cưỡng vượt chúng ta. Nếu chia ra đánh, chúng ta nhất định thắng".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu cười gượng nói: "Nhưng hết lần này tới lần khác chúng ta đánh không lại chúng. Hay nói chính xác một chút là khi chiến tranh với Tây Hạ và Đại Liêu chúng ta thắng ít, bại nhiều".

Cao Thao Thao sửng sốt hỏi: "Thật vậy sao?"

"Tại sao lại không. Ta chỉ cần kể ra một số thì nàng sẽ hiểu. Trước tiên hãy nói chuyện chiến tranh Tống Liêu của Thái Tổ hoàng đế'.

"Chờ một chút" Cao Thao Thao cắt ngang lời Đỗ Văn Hạo: "Ta cảm thấy đói bụng, để ta truyền lệnh, chúng ta vừa ăn, vừa nói, được không?"

Đỗ Văn Hạo hôn nàng rồi nói: "Nàng hồ đồ rồi, Thao Thao. Đừng quên nàng là Thái Hoàng Thái Hậu, là quân, ta chỉ là thần tử. Làm gì có thần tử nào ngồi ăn cơm cùng bàn với bậc đế vương. Nàng thấy thuận mắt thì thưởng cho ta mấy khay thức ăn để ta mang về ăn là được".

Cao Thao Thao cười nói: "Ta không. Ta muốn ăn cùng với ngươi".

"Nếu để cho những giám quan Ngự Sử Đài kia biết được, hạch tội ta, ta không không chịu nổi".

"Sợ cái gì? Không phải là không thể làm chúng không biết. Đợi lát nữa truyền lệnh xong, ta sẽ cho người lui ra ngoài, không cho chúng hầu hạ ở bên. Cũng chỉ cần mang tới một chiếc bàn con, cùng thức ăn và một bình mỹ tửu là được. Chúng ta tự mình rót uống rượu. Vừa ngồi lắng nghe trời mưa, vừa nghe ngươi nói chuyện quân đội, gián quan sẽ không biết được.

Ta còn muốn ngươi theo giúp ta nhiều việc, có được không?"

Đỗ Văn Hạo thoáng sững người, hắn không trải qua sự giáo dục về lễ giáo phong kiến, cũng không quá quan tâm tới nghĩa vị quân thần liền gật đầu đồng ý.

Cao Thao Thao vui mừng đi ra rìa đình hóng mát, cao giọng nói về hướng chiếc cổng vòm ở phía xa: "Tiểu Tiêu tử".

"Ai! Tới đây!" Cao Thao Thao kêu lên một tiếng, Tiêu công công từ xa trả lời, tay cầm một cái ô vải dầu màu đỏ hấp tấp đội mưa chạy tới, ông ta khom người nói: "Thái Hoàng Thái Hậu có gì phân phó?"

"Truyền lệnh. Hãy mau chọn mấy món ăn ngon cùng một bình mỹ tửu tới đây".

"Dạ!" Tiêu công công trả lời rồi chạy đi truyền lệnh.

Cao Thao Thao đi tới ngồi xuống cạnh lan can, bắt Đỗ Văn Hạo ngồi bên cạnh mình rồi nói: "Văn Hạo, không ngờ ngươi lại hiểu rõ tình hình quân sự của Đại Liêu và Tây Hạ như lòng bàn tay mình".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nói như lòng bàn tay thì vẫn chưa được. Lần trước sau trận đánh quân bộ lạc Thổ Phiên ở Tây Sơn, phủ Thành Đô, ta cũng rất quan tâm về vấn đề này. Trước đây mấy ngày nàng để cho ta tiếp nhận binh quyfn từ tay mấy người, bổ nhiệm ta làm ta nha Đô Chỉ Huy Sứ ta đã muốn tìm hiểu về tình hình quân sự. Ta không thể không biết bất kỳ điều gò có liên quan tới mình. Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ta đã bố trí cảnh giới. Ta đã đọc qua các tư liệu quân sự có liên quan tới Đại Liêu và Tây Hạ, mặt khác ta đã tìm đọc các tư liệu từ khi kiến quốc tới nay của Đại Tống, nghiên cứu kỹ càng các tư liệu xuất chính bên ngoài. Bây giờ nàng hỏi ta có thể trả lời. Hơn nữa thủ hạ của ta năm đó đã thăm dò một chút tình hình chinh chiến Tây Hạ của các tướng sĩ. Bọn họ cũng đã cung cấp cho ta khá nhiều tình hình chiến tranh với Tây Hạ. Ta đã hỏi bọn họ tất cả những việc cần hỏi".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Ngươi quả thực có dụng tâm. Xem ra ta dùng ngươi làm tam nha Đô Kiểm Điểm thực không sai".

"Không sai hay không thì bây giờ vẫn còn chưa nói được. Dù sao ta cũng có dụng tâm".

"Tốt lắm. Ngươi hãy nói tiếp điều đang nói đi. Ta muốn nghe. Những điểm nào ta không biết, ngươi phải nói rõ cho ta biết một chút. Vì sao binh lực của chúng ta đông hơn quân Tây Hạ và nước Liêu nhiều lần mà chúng ta lại bại nhiều hơn thắng?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Đầu tiên phải hiểu chính xác thế nào là chiến thắng.

Cái gì gọi là tiểu chuẩn thắng bại của chiến tranh. Đó là bởi vì sau khi xảy ra chiến tranh, hai bên đều thường tự tuyên bố là mình chiến thắng nhưng rốt cuộc là ai thắng ai bại, chỉ có một cách là suy xét các tiêu chuẩn một cách khách quan mới có thể đưa ra kết luận một cách khách quan".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Đúng vậy, ngươi nói rất có lý. Tiêu chuẩn của thắng bại là gì?"

"Ta cũng không phải là một nhà quân sự. Trước kia ta đã từng tham khảo qua Tư Mã Quang vấn đề này. Ông ta đã viết một bộ sách. Tiên đế ban tặng tên là "Tư Trị thông giám", đánh giá lịch sử từ đời nhà Chu tới thời Ngũ đại, trải qua hơn một nghìn năm trong lịch sử, trong đó có khá nhiều nội dung có liên quan tới quân sự chiến tranh. Bộ sách này được tiên đế rất đề cao, tán thưởng. Ta đã lãnh giáo ông ta về tiêu chuẩn thắng bại trong sách của mình. Ông ta nói tiêu chuẩn chủ yếu nhất là mục đích phát động chiến tranh có thực hiện được hay không. Đây là điều chủ yếu nhất. Có rất nhiều mục đích của chiến tranh, có công thành chiếm đất, có hỗ trợ vây Nguỵ cứu Triệu, có tấn công trừng phạt, có phòng ngự chống cự. Mặc kệ là mục đích gì, chỉ cần thực hiện được mục tiêu tác chiến là thắng lợi. Giả sử thương vong của phe mình nhiều hơn bên đối phương thì vẫn có thể được coi là chiến thắng. Nhưng nếu như mục đích chiến tranh không thực hiện được, cho dù có giết được số lượng địch nhân vượt xa số lượng thương vong của bên mình thì cũng không thể nói là thắng lợi. Đương nhiên cũng không tính là bại. Nói cách khác, Tư Mã Quang đã cởi bỏ quan niệm thủ thắng nặng nề, phân tích thắng bại trong chiến tranh. Còn về phần so sánh tỷ lệ thương vong của hai bên, địa bàn được mất, ông ta không quá coi trọng".

Hình như Cao Thao Thao không mấy hứng thú với quan điểm chiến tranh mới mẻ của Tư Mã Quang. Nàng nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đừng nói về ông ta. Hãy nói xem ngươi nghĩ thế nào?"

"Ta ư? Ta cảm thấy tiêu chuẩn thắng bại của chiến tranh đối với chính khách và giới lãnh đạo quân sự. Khụ khụ. Đối với tướng quân lãnh binh cùng quyết sách của đế vương mà nói, tiêu chuẩn đánh giá cũng không hoàn toàn giống như vậy, có đôi khi thậm chí rất khác biệt".

Cao Thao Thao là Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, đương nhiên quan tâm tới tiêu chuẩn của hắn nên hỏi: "Đế vương đánh giá thắng bại trong chiến tranh là như thế nào?'

"Đế vương đánh giá thắng bại của cuộc chiến tranh thì phần nhiều dựa vào góc độ suy xét chính trị, đánh giá tình thế trước cuộc chiến và sau cuộc chiến, đánh giá cái được, cái mất sau cuộc chiến. Đánh thắng một cuộc chiến nhưng quốc gia cuối cùng không đạt được lợi ích, thậm chí phải đối mặt với một tình hình nghiêm trọng. Đối với bậc đế vương mà nói, cuộc chiến tranh đó đã không thắng".

Cao Thao Thao chỗ hiểu chỗ không, gật đầu hỏi: "Còn tướng quân lãnh binh thì sao?"

"Tiêu chuẩn thắng bại của tướng quân là tương đối. Bởi vì nếu thật sự xảy ra chiến tranh, có thể chia ra làm ba mức độ như sau: Mức độ thứ nhất là tình hình thắng bại từ đầu đến cuối của toàn bộ cuộc chiến tranh. Mức độ thứ hai là tình huống thắng bại của chiến dịch đại quy mô. Mức độ thứ ba chính là tình huống thắng bại của những trận chiến. Là một tướng lĩnh quân sự cao cấp nên chú trọng tới mức độ thắng lợi chiến tranh ở mức độ thứ nhất. Nếu như đạt được thắng lợi này thì cho dù có thua một số chiến dịch hay những trận chiến nhỏ thì cũng coi là người chiến thắng".

"Có lý" Cao Thao Thao liên tục gật đầu. "Thắng bại của chiến dịch đại quy mô là như thế nào?"

"Đây cũng là một điều rất quan trọng. Sau một chiến dịch đại quy mô, rất có thể sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tương quan thực lực của hai bên, đến nỗi ảnh hưởng tới kết quả của cả một cuộc chiến. Vì vậy nhất định phải tận dụng được kết quả thắng lợi của nhiều chiến dịch đại quy mô mới có thể chuyển hoá thành thắng lợi cuối cùng của cả một cuộc chiến. Nhưng đây không phải là điều tuyệt đối. Vì dù có đôi khi liên tiếp giành được mấy thắng lợi trong chiến dịch đại quy mô nhưng lại thua trong một chiến dịch quan trọng nhất sẽ dẫn tới thất bại trong cả một cuộc chiến. Cuộc chiến giữa Tây Hán Lưu Bang cùng Hạng Vũ chính là một minh chứng tốt nhất".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Đúng vậy. Tây Sở Bá Vương đánh giết Lưu Bang đại bại nhưng không giết chết Lưu Bang ở Hồng Môn Yến. Kết quả cuối cùng thất bại trong cuộc chiến Cai Hạ, tự vẫn ở Ô Giang".

"Đúng vậy. Thắng bại của trận đánh nhỏ có thể chuyển hoá thành thắng bại của cả một chiến dịch lớn. Nhưng mà phán xét thắng bại một cuộc chiến không thể giới hạn trong những trận đánh nhỏ lẻ. Bởi vì trận đánh riêng lẻ có thể là vì suy sét tới toà cục mà cố ý để thua. Ví dụ như cuộc chiến dụ địch nhân xâm nhập, nhất định phải thua vì thế khi xét đoán thắng bại của hai bên nhất định vẫn phải căn cứ vào kết quả của chiến dịch đại quy mô cùng cả cuộc chiến. Lúc đó mới có ý nghĩa".

Những giải thích này dễ hiểu, Cao Thao Thao có thể hiểu được: "Vậy nhận xét của ngươi thế nào?"

Nói tới đây, Tiêu công công đã mang theo người của Ngự Thiện phòng đưa cơm tới. Mấy món ăn ngon, cộng thêm một bình rượu thượng giai tinh khiết cùng cho yến tiệc cung đình.

Sau khi đặt trên bàn đá, cùng với để thêm một chiếc đèn bão trên bàn. Loại đèn này che kín gió, không bị ảnh hưởng bởi mưa gió bên ngoài. Tiêu công công không đợi Thái Hoàng Thái Hậu căn dặn đã cực kỳ biết điều, dẫn tất cả mọi người ra khỏi cửa vườn hoa, đóng cửa lại.

Bên ngoài trời mưa phùn bay lất phất, rơi xuống lá cây, những bông hoa, trong bụi cỏ, tiếng mưa rơi tí tách, không khí tràn ngập tình thơ ý hoạ.

Cao Thao Thao kéo Đỗ Văn Hạo ngồi song song, đích thân rót cho hắn một chén rượu, lại rót cho mình một chén. Nàng bưng chén lên, cười ngọt ngào nói: "Hai chúng ta uống cạn chén này. Chỉ mong hai ta có thể lâu dài ở bên nhau".

Đỗ Văn Hạo cũng bưng chén rượu lên nói: "Trên đời này, nàng là lão đại, chỉ cần nàng không ghét ta, không đuổi ta, sẽ không ai có thể đuổi ta rời khỏi nàng".

Cao Thao Thao cười nói: "Đánh chết ta, ta cũng sẽ không bao giờ đuổi ngươi đi".

"Ha ha ha. Lần này chính là nàng nói từ 'chết" trước đó nha. Phạt rượu".

Cao Thao Thao cười khanh khách nói; "Được, được, ta nhận phạt" Nói xong nàng nâng ly rượu, uống một hơi cạn sạch, sau đó nàng rót một chén khác, ánh mắt đắm đuối nhìn hắn: "Vì tình ý đời này, kiếp này, hai ta cùng uống một chén".

Đỗ Văn Hạo cầm chén rượu, một tay ôm vòng eo nhỏ của nàng nói: "Hay! Cũng vì kiếp sau chúng ta có thể ở cùng một chỗ. Cụng ly".

"Ừ, đúng vậy" Trong mắt Cao Thao Thao ngập tràn niềm hạnh phúc, nàng nhìn Đỗ Văn Hạo, chậm rãi uống chén rượu.

Đỗ Văn Hạo cũng ngửa cổ, uống cạn chén rượu, hắn đặt chén rượu xuống, cầm đôi đũa ngà, gắp một con tôm càng xanh bỏ vào miệng nhỏ nhắn của nàng.

 Chương 403: Buồn Bực

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Tốt lắm. Ngươi nói xem tiêu chuẩn thắng bại chiến tranh của ngươi là gì?"

"Ừ. Trước hết hãy cho người đi lấy bản đồ biên giới ra đây. Có bản đồ nói tốt hơn, ta cũng nhớ tường tận hơn" Đỗ Văn Hạo nói.

"Được" Cao Thao Thao đứng dậy, đi ra ngoài rìa đình hóng mát, gọi Tiêu công công vào, bảo ông ta tới tam nha lấy bản đồ tác chiến biên giới Tống Liêu cùng biên giới Tống Hạ tới đây.

Đỗ Văn Hạo nói: "Nhân lúc chưa có bản đồ, ta nói tiếp chủ đề lúc trước vẫn đang nói dở. Ta hoàn toàn đồng ý với đánh giá về tiêu chuẩn thắng bại trong chiến tranh của Tư Mã Quang. Muốn xem một cuộc chiến tranh thắng hay bại, quan trọng nhất là xem mục đích phát động chiến tranh có thực hiện được hay không mà không nên giới hạn trong phạm vi đất đai, thành trì được hay mất, hoặc chỉ đơn giản so sánh tình hình thương vong của hai bên. Đương nhiên mục đích chiến tranh có nhiều loại. Ví dụ như mở rộng lãnh thổ, đoạt lại đất đai bị mất, trừng phạt đối phương, tiêu diệt binh lực đối phương, vây Nguỵ cứu Triệu, chống ngoại xâm".

Đỗ Văn Hạo giơ đũa gắp thức ăn bỏ vào miệng nhai rồi nói tiếp: "Phán xét thắng bại của một cuộc chiến tranh nhất định phải có vật tham chiếu, cũng giống như đi lại vậy. Nàng ngồi thuyền nhỏ đi trên sông. Đối với cảnh vật hai bên bờ sông, nàng đang vận động. Đối với vật, nàng lại đang bất động. Xét đoán thắng bại của một cuộc chiến cũng như vậy. Nếu như mục đích tiến hành chiến tranh của một quốc gia là chống ngoại xâm. Kết quả cuối cùng quân thù bị đuổi ra khỏi đất nước, cho dù thương vong lớn hơn quân địch, cũng không chiếm được một tấc đất nào của đối phương nhưng cũng có thể coi là chiến thắng. Nếu như mục đích chiến tranh là mở rộng lãnh thổ, cho dù thương vong lớn hơn quân địch nhưng vẫn duy trì sự chiếm đóng lãnh thổ kẻ thù, cũng được coi là thắng".

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao nói: "Vậy tính thương vong giữa quân mình và số quân thù giết được, có ảnh hưởng tới xét đoán thắng bại của cuộc chiến tranh không?"

"Đương nhiên là có ảnh hưởng" Đỗ Văn Hạo nói: "Nếu mục đích chiến tranh là trừng phạt đối phương thì có. Nàng muốn đi trừng phạt kẻ thù. Nếu như thương vong của đối phương thê thảm hơn thì có được coi là nàng đã chiến thắng hay không? Đương nhiên. Giết địch một vạn, thương vong bản thân ba nghìn thì có thể khẳng định là thắng. Trong chiến tranh có tính chất trừng phạt, xét đoán có chiến thắng cuộc chiến hay không, ngoại trừ thương vong quân mình rõ ràng không thể vượt qua thương vong của kẻ thù, còn phải tính tới những tổn hại nghiêm trọng của đối phương về thành trì, kinh tế, tâm lý của dân chúng. Nếu như đánh thọc sâu vào hậu phương kẻ thù mấy trăm dặm, phá được mấy toàn thành trì, phá huỷ hoàn toàn các điều kiện kinh tế, cuối cùng chủ động rút về thì cho dù số lượng thương vong tương đương với quân thù, cũng có thể được coi là chiến thắng bởi vì khi đó tổn thất của đối phương đã lớn hơn mình rất nhiều, mục đích của chiến tranh đã đạt được. Chiến tranh tấn công trừng phạt còn thườn đi kèm theo những ý đồ chính trị. Ví dụ vây Nguỵ cứu Triệu là một điển hình với chiến tranh tự vệ tấn công). Mặt khác so sánh tỷ lệ thương vong của hai bên có thể ảnh hưởng tới mức độ chiến thắng. Một khi thương vong nặng nề, vượt xa thương vong của đối phương thì khi đó cho dù có chiến thắng thì cũng chỉ tính là chiến thắng thê thảm".

Cao Thao Thao nghe Đỗ Văn Hạo nói về tiêu chuẩn xét đoán thắng bại trong chiến tranh, đã hiểu thêm một bước sự phức tạp của chiến tranh. Nàng nâng chén uống cùng Đỗ Văn Hạo sau đó nói: "Lúc trước ngươi nói. Binh lực của Đại Tống chúng ta vượt xa nước Liêu và Tây Hạ, tương đương với tổng binh lực của cả hai nước nhưng khi tác chiến với nước Liêu và Tây Hạ, chúng ta lại thắng ít bại nhiều. Nhưng trước kia ta đều chỉ nghe trên dưới từ Hoàng Thượng, triều đình và dân chúng nói chúng ta đánh bại Tây Hạ, đánh bại nước Liêu. Tuy ngẫu nhiên chúng ta có trận đại bại nhưng đại đa số trận đánh chúng ta đều thắng, hoàn toàn không giống như những gì ngươi nói. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Lý do rất đơn giản. Tốt thì khoe ra, xấu xa đậy lại. Nàng cứ tới kho lưu trữ tình hình chiến sự của tam nha, đọc cẩn thận mấy ngày, nàng sẽ biết rốt cuộc chúng ta thắng nhiều bại ít hay thắng ít bại nhiều".

"Ngươi đã xem qua rồi phải không?"

"Ừ. Sau khi nàng để ta làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, ta liền rành chút thời gian ở trong tam nha nghiên cứu một số tư liệu chiến tranh về tổn thất, tình hình chiến sự của các cuộc chiến tranh với Tây Hạ và Đại Liêu, mục đích phải là biết người biết ta. Kết quả chiến tích của quân Đại Tống chúng ta làm ta rất thất vọng, không hề giống như những tuyên truyền về thắng lợi lớn ở trên triều đình. Vì thế để biết được chân tướng sự việc thì chỉ còn cách tự mình nghiên cứu trong đám tư liệu, không thể tin vào tin đồn nhảm".

"Ừ. Vậy ngươi hãy nói với ta về thực lực thật sự của quân Đại Tống, ta cũng muốn hiểu một chút".

"Ta vẫn chỉ có một ý này: Không thể đánh giá mình quá thấp, đương nhiên cũng không thể đánh giá mình cao hơn hẳn so với thực lực của mình. Điều thứ hai còn nguy hiểm, đáng sợ hơn điều thứ nhất rất nhiều".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Không sai, chờ lát nữa đưa địa đồ tới, chúng ta sẽ nói căn cứ vào địa đồ. Bây giờ chúng ta uống rượu ăn cơm".

Hai người vừa ngồi uống rượu nói chuyện, vừa ngồi nghe tiếng mưa rơi ở bên ngoài. Một lát sau Tiêu công công ôm hai quyển địa đồ quay về, theo thứ tự là địa đồ biên giới Tống Liêu, và địa đồ biên giới Tống Hạ. Đỗ Văn Hạo nhận lấy, hắn trải bản đồ biên giới Tống Liêu trên mặt đất, dùng chén chận bốn góc, lại bảo Tiêu công công bẻ một cành liễu ở trên cây liễu bên ngoài đình, tước hết lá làm thước chỉ.

Đỗ Văn Hạo nói: "Chiến tranh Tống Liêu tổng cộng tiến hành trên hai mươi lăm năm, trên một trăm trận đánh lớn nhỏ. Chúng ta chỉ tính toán ra số chiến dịch đại quy mô sẽ tính toán ra thắng bại. Bắt đầu từ cuộc chiến sớm nhất là cuộc chiến Cao Xa Hà".

Đỗ Văn Hạo chỉ cành liễu vào một chỗ trên địa đồ nói: "Trận chiến này là Đại Tống chúng ta khởi xướng. Mục tiêu tối thượng của cuộc chiến này là đoạt lại mười sáu châu Yên Vân, thừa cơ đoạt U Châu (bây giờ là Bắc Kinh). Thực ra trận chiến này không được chuẩn bị tốt đã vội vàng ra quân. Ban đầu quân Tống liên tiếp khải hoàn ca, đánh thẳng tới chân thành U Châu, bao vây thành U Châu tầng tầng lớp lớp nhưng cường công không hạ nổi. Nước Liêu phái ra mười vạn kỵ binh tinh nhuệ bất ngờ tập kích đường tiếp viện của quân ta, quyết chiến cùng quân Tống ở bờ sông Cao Lương bên ngoài thành U Châu. Quân Tống không địch nổi, kết quả đại bại. Quân Liêu thừa thắng đuổi giết một mạch, quân Đại Tống tan vỡ hoàn toàn, chết hơn một vạn người. Thái Tông hoàng đế của chúng ta vì không còn ngựa mà cưỡi nên phải cưỡi lừa trốn về nội địa Đại Tống. Toàn bộ đất đai chiếm được khi trước lại quân Liêu chiếm lại. Đại Tống không đạt được mục tiêu của cuộc chiến nên trận chiến này thất bại".

Cao Thao Thao nói: "Trận chiến này quân ta đơn độc xâm nhập nội địa quân địch, quả thực rất mạo hiểm".

"Hẳn như vậy. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc cũng bởi vì xâm nhập nội địa, xây thành ở nơi hiểm địa mà thất bại".

"Thật vậy sao? Ngươi hãy nói tiếp cuộc chiến Tống Liêu đi".

"Được. Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến thành trì. Đối với Đại Tống chúng ta mà nói đây là một cuộc chiến phòng ngự. Mục đích chiến lược của cuộc chiến là phòng ngự chống lại quân Liêu tấn công. Nước Liêu muốn trả thù Đại Tống đã đánh U Châu, mấy vạn quân Liêu đã tấn công vào biên giới Đại Tống. Hai bên quyết chiến một trận ở Hà Bắc. Chiến thuật của quân Tống được bố trí như sau; sử dụng quân vu hồi đánh bọc sườn quân địch, quân Liêu đại bại, chém giết hơn một vạn quân Liêu, thu được hơn một ngàn thớt chiến mã. Quân Liêu thất bại lui về biên giới nước Liêu. Trận chiến này tuy quân Tống tham gia tác chiến được hình thành bởi mấy cánh quân nhưng bởi vì có quan quân chỉ huy thống nhất, sử dụng chiến thuật chính xác vì vậy đã giành thắng lợi".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Ta nghe nói Thái Tông hoàng đế đánh trận rất lợi hại".

"Đúng vậy. Thuở ban đầu mới lập nước, quân Tống đều là những binh lính dũng cảm, thiện chiến, mạnh mẽ, sức chiến đấu rất mạnh, ít nhất không thua kém quân Liêu".

"Ừ. Vậy những trận chiến sau đó?"

Đỗ Văn Hạo lại dùng cành liễu chỉ vào địa đồ nói: "Sau chiến đánh đó là chiến dịch Nhạn Môn Quan này, là một trận đại thắng vô cùng rạng rỡ của Đại Tống chúng ta. Sau khi quân Liêu tấn công Mãn Thành thất bại, vào mùa xuân năm sau đã phái đại quân tấn công Nhạn Môn, bị Đại tướng Dương Nghiệp, phụ thân của Dương lục lang phối hợp với Phan Nhân Mỹ chặn đánh, quân Liêu đại bại ở Nhạn Môn. Đây là cuộc chiến Nhạn Môn lần thứ nhất".

Cao Thao Thao nói: "Trận chiến này tuy thắng như không có nhiều điều đặc sắc".

"Đặc sắc là cuộc chiến thứ hai" Đỗ Văn Hạo cười tươi nói: "Năm sau mười vạn quân Liêu tấn công mãnh liệt Nhạn Môn. Đại tướng trấn thủ ải Nhạn Môn chỉ có mấy ngàn quân, Dương Nghiệp cầu viện Phan Nhân Mỹ, Phan Nhân Mỹ lại án binh bất động. Dương Nghiệp không còn cách nào khác đành phải dùng kỳ binh, chỉ huy mấy ngàn cảm tử quân lẻn ra sau đột nhiên tập kích hậu quân quân Liêu. Quân Liêu không biết rõ tình huống, lập tức đại loạn. Dương Nghiệp xác định chính xác mục tiêu: Phá giặc phải bắt vua trước, ông tập trung binh lực liều chết tấn công vào chỗ soái kỳ quân Liêu, quả nhiên đã chém chết thống soái quân Liêu, quân liêu như rắn mất đầu lập tức đại loạn. Quân trấn thủ Nhạn Môn thừa thắng ùa ra đánh giết. Quân Liêu tan tác bỏ trốn về nội địa nước Liêu. Trận chiến này Dương Nghiệp lấy ít thắng nhiều, mấy ngàn quân đánh tan mười vạn quân Liêu. Có thể nói đây chính là trận đánh lấy ít thắng nhiều điển hình".

Cao Thao Thao vỗ tay cười nói: "Thật tốt, thật tốt! Cạn chén!"

Hai người lại uống cạn một ly. Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo nhỏ khẹ nói: "Dương Nghiệp dùng mấy ngàn quân đánh thắng mười vạn quân Liêu, lợi hại hơn người. Hì hì hì".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Ta có đáng gì đâu. Quân Thổ Phiên kém xa quân Liêu. Hơn nữa sở dĩ ta có thể đánh bại chúng chính là dùng thủ đoạn gian trá".

Cao Thao Thao bày trò chọc Đỗ Văn Hạo nay thấy hắn tự nhận mình không bằng người thì lại an ủi hắn, cười nói: "Binh bất yếm trá, có thủ đoạn dùng mánh lới mới được coi là có mưu lược. Dương Nghiệp chẳng qua là đánh lui quân Liêu, ngươi lại tiêu diệt quân Thổ Phiên bộ Tây Sơn. Có thể nói ngươi lợi hại hơn ông ấy nhiều".

"Ha ha ha. Ta không dám so sánh với Dương gia tướng. Trận đại thắng ải Nhạn Môn, Đại Tống chúng ta lấy ít địch nhiều thắng lớn. Nhưng trận chiến sau đó lại không được như ý người. Trận chiến kế tiếp chính là trận chiến Ngoã Kiều quan. Quân Liêu tập kết binh lực, chuẩn bị xuôi nam với quy mô lớn, tấn công Đại Tống. Thái Tông hoàng đế biết tin, thống lĩnh đại quân tiếp viện, chuẩn bị quyết chiến với quân Liêu ở Ngoã Kiều quan. Không ngờ quân Liêu tấn công thần tốc, đã bao vây bốn mặt trọng trấn Ngoã Kiều quan trước, quân Tống ở phụ cận tới tiếp viện bị đánh lui. Đợi lâu không thấy quân Kinh sư tới tiếp viện, quân Liêu vượt sông tấn công mãnh liệt, quân Tống thất bại lui quân. Quân Liêu đánh giết một mạch tới Mạc châu rồi mới thu binh quay lại. Trận này quân Tống thương vong thê thảm. Ở góc độ phòng ngự mà nói, không ngăn cản được quân địch tấn công, tháo chạy, lại hao binh tổn tướng nên chỉ có thể nói là thất bại".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Ai. Nếu đại quân Kinh sư của Thái Tông hoàng đế tới nơi kịp thời, có lẽ sẽ không thất bại".

"Đại quân Kinh sư ngày đêm hành quân với tốc độ nhanh nhất. Nhưng đáng tiếc là chúng ta có quá ít ngựa. Không có ngựa, không có cách nào tiến quân nhanh được. Trong lúc tác chiến với quân Liêu, chúng ta rất bất lợi ở phương diện này. Cuộc chiến Cao Xa Hà, kỵ binh tinh nhuệ của quân Liêu nhanh chóng cứu viện. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu làm quân ta thất bại. Cuộc chiến Kỹ Câu quan sau này cũng như vậy. Sở dĩ triều Tây Hán và triều Đường có thể tác chiến với quân Hung Nô trong thế thượng phong, nguyên nhân chủ yếu chính là có một đội thiết giáp kỵ binh tinh nhuệ. Lần giao tranh thứ nhất giữa Tây Hán và Hung Nô, Tây Hán đã huy động được ba mươi vạn chiến mã tham gia. Đây quả thực là con số chúng ta không thể tưởng tượng nổi".

"Ừ. Vấn đề này ta đã nghe tiên đế bàn luận nhiều lần, luôn can thán chúng ta thiếu chiến mã. Trong nội địa Đại Tống nuôi được quá ít chiến mã.

Đại bộ phận chiến mã là mua của Tây Hạ và Đại Liêu. Chúng không chỉ nâng giá mua mà còn hạn chế số lượng. Khi mối quan hệ hai bên căng thẳng, dù chưa tới mức nổ ra chiến tranh chúng cũng lập tức cấm bán ngựa cho chúng ta. Thật sự rất đáng hận. Chúng ta đã nghĩ rất nhiều biện pháp nhưng vẫn rất thiếu ngựa. Ngươi có cách hay nào không?"

Đại Tống thiếu ngựa. Đây là vấn đề mà ngay khi xuyên việt tới đây, Đỗ Văn Hạo đã lập tức cảm nhận được. Khi hắn ở huyện thành, tới nhà dân khám chữa bệnh, chỉ có thể đi xe trâu, hoặc cưỡi lừa. Chỉ có nha môn mới có mấy thớt ngựa.

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một hồi nhưng thực sự không thể nghĩ ra một biện pháp hay nào để gia tăng số lượng chiến mã, hắn đành cười gượng lắc đầu nói: "Tạm thời ta không thể nghĩ ra biện pháp hay nào. Đợi khi ta về nhà suy xét cẩn thận tìm ra rồi sẽ nói sau".

"Ừ, được".

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Sau này khi quân Liêu tổ chức mấy lần xâm nhập phía nam nhưng đều bị quân ta đánh lui. Thương vong của hai bên cũng không lớn, quy mô trận đánh cũng nhỏ, thắng bại không đáng kể. Sau này khi Hoàng Đế nước Liêu chết, nước Liệu vội vàng dụng binh với Cao Ly và Nữ Chân, không rảnh chú ý tới phía nam. Hai bên đã ngưng chiến mấy năm. Sau này khi tiểu Hoàng Đế nước Liêu kế vị, Thái Tông hoàng đế liền quyết định tổ chức bắc phạt lần thứ hai nhưng thật sự không ngờ lại thất bại nặng nề".

Sắc mặt Cao Thao Thao có chút hổ thẹn: "Chúng ta lại thất bại sao?"

"Lần bắc phạt này chính là cuộc chiến Kỳ Câu quan. Quy mô của cuộc chiến này rất lớn. Hai bên đều huy động lượng binh lực lên tới mười vạn người. Cả chiến dịch diễn ra mấy tháng trời. Vào thời kỳ đầu chiến dịch, quân Tống chúng ta chia ra làm ba lộ. Đông lộ đánh nghi binh U Châu, trung lộ, tây lộ tấn công mạnh mẽ Sơn Hậu, Chư châu sau đó hội quân ở U Châu. Thời gian đầu chiến dịch, quân ta chiến thắng tiến quân một mạch, đánh chiếm được khá nhiều châu, huyện của nước Liêu. Vì chủ lực quân Liêu chưa tới kịp, ưu thế cơ động của kỵ binh đã được phát huy đầy đủ, chúng lợi dụng địa hình bình nguyên, gò đồi tiến hành tập kích quấy rối, đã thành công làm thất bại ý đồ chiến lược bao vây U Châu của quân . Sau khi quân chủ lực quân Liêu đánh tới, đã đánh bại lộ quân phía đông của Đại Tống ở Kỳ Câu quan. Bởi vì quân Tống dựa lưng vào sông tác chiến, tan tác tháo chạy qua sông, chết chìm rất nhiều. Quân Liêu vượt sông đuổi giết, tiêu diệt mấy vạn quân ta. Hai lộ quân kia của quân ta sau khi giao tranh cũng đều tan tác, Đại tướng Dương Nghiệp tử trận. Toàn bộ lãnh thổ chiếm được lại mất. Lúc đó nguyên khí Đại Tống chúng ta tổn thương nặng nề. Từ đó về sau không thể tổ chức bắc phạt nữa".

Cao Thao Thao giơ ngón tay đếm đếm rồi cười gượng nói: "Tổng cộng xảy ra sáu chiến dịch lớn với quân Liêu. Chúng ta chỉ thắng có ba. Dùng quân chi sư bách chiến đối đầu với quân Liêu mà chỉ đánh ngang tay, coi như quân ta cũng kém cỏi".

Đỗ Văn Hạo cười gương nói: "Nói bất phân thắng bại là ta tự an ủi mình. Trong sau chiến dịch lớn, trong hai cuộc chiến Nhạn Môn, hẳn chỉ nên tính lần thứ nhất, còn lần thứ hai chỉ là một đánh đơn lẻ, không tính là chiến dịch. Mặc dù giết chết chủ soái quân Liêu nhưng không giết được nhiều quân địch. Quân Liêu cũng vì không biết rõ tình hình mà chủ động triệt thoái về chứ không phải vì bị đánh bại. Đặc biệt trong chiến dịch cuối cùng, cuộc chiến Kỳ Câu quan thì thực sự chúng ta thất bại thê thảm. Tổng cộng tổn thất mấy vạn tướng sĩ, số lượng thương vong này vượt xa mấy lần số lượng thương vong của mấy chiến dịch trước cộng lại. Thất bại của chiến dịch này nặng nề hơn nhiều mấy chiến dịch trước, thời gian lại lâu hơn. Tính về quy mô có thể tương đương với hai chiến dịch. Vì vậy nói một cách khách quan: Về tổng thể trong chiến tranh Tống Liêu, Đại Tống chúng ta thắng ít hơn bại. Mười phần chỉ thắng ba, thua bảy".

Cao Thao Thao thầm thở dài một tiếng nói: "Nghe những chiến bại này quả thực làm người rất buồn bực. Không nói nữa. Chúng ta uống rượu".

Sau khi hai người uống mấy chén rượu, lại dựa sát vào nhau nghe tiếng mưa rơi. Trong lòng Cao Thao Thao vẫn nặng nề, rốt cuộc nàng vẫn lo nghĩ tới tình hình chiến sự Liêu Tống. Mặc dù tâm trạng vẫn buồn bực khi nghe nhưng lại vẫn muốn biết kết cục phía sau nên nói: "Ngươi nói tiếp đi. Sau này chúng ta có còn thắng ít bại nhiều không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Thôi được rồi. Chiến bại sau này nghe càng nản hơn nữa. Ta chỉ nói rất đơn giản".

 Chương 404: Nhiều lần chiến bại 

Cao Thao Thao lắc đầu nói: "Không cần phải như vậy. Ngươi cứ nên nói tỉ mỉ một chút. Ta cần phải hiểu càng nhiều càng tốt để sau này sẽ phải quyết định chúng ta nên ứng phó với chúng thế nào".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Sau này quân ta giao chiến với quân Liêu cũng không có trận đánh nào nổi tiếng. Sau chiến dịch Kỳ Câu quan, quân Liêu gặt hái thành quả nên mùa đông năm sau chúng lại tập hợp đại quân, một lần nữa xuôi nam với quy mô lớn, quyết chiến với quân Tống ở Quân Tử quán (trung tâm bình nguyên Hoa Bắc, nằm giữa vùng tam giác Bắc Kinh, Thiên Tân và Thạch Gia Trang), quân ta bị quân Liêu bao vậy, toàn quân mấy vạn người hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ có chủ soái kịp thời trốn thoát. Quân Liêu thựa dịp tiến quân thần tốc, sau khi đánh cướp mấy châu mới đắc thắng rút quân khải hoàn. Sau đó kỵ binh quân Liêu lợi dụng ưu thế tốc độ, sau khi nhanh chóng tập kết binh lực, quân ta còn chưa kịp phản ứng đã xâm nhập đánh phá các châu huyện. Sau khi đánh cướp một hồi chúng lại lui quân, không để chúng ta có cơ hội tập trung binh lực áp chế. Năm sau quân Liêu lại một lần nữa xuôi nam xâm nhập. Sau khi đánh chiếm mấy châu của chúng ta, chúng mới bị đánh lui. Cho tới khi Thái Tông hoàng đế băng hà, Chân Tông hoàng đế kế vị, hai bên không xảy ra trận đánh quy mô lớn nào. Chủ yếu vào giai đoạn này là quân Liêu xuôi nam xâm nhập, tập kích quấy rối, quân ta quyết đấu trong thế phòng ngự, tuy thắng bại hai bên đều có nhưng xét về tổng thể, quân ta vẫn coi như rơi vào thế xấu, tỷ lệ thắng bại vẫn là ba phần như trước".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Đúng vậy, quân Liêu có ưu thế kỵ binh, chúng có thể tập trung binh lực ở một điểm, đánh rồi rút lui. Chúng ta phòng ngự bị động, nhất định là bất lợi. Sau này thì sau?"

"Về sau Tống Liêu có một trận quyết chiến cuối cùng, cuộc chiến Thiền Uyên. Sau mấy năm chiến thuật phòng ngự của quân ta đã được củng cố hơn rất nhiều. Khả năng phòng ngự ở biên giới của chúng ta đã tăng lên rất nhiều. Khi đó Tiêu thái hậu của Đại Liêu chỉ huy hai mươi vạn quân Liêu xuôi nam, đánh chiếm nhiều châu, huyện ở biên giới nhưng liên tiếp gặp khó khăn, không thành trì nào bị công phá nhưng mà tổn thất của hai bên cũng không lớn".

Rốt cuộc Cao Thao Thao cũng nở một nụ cười khi nghe Đỗ Văn Hạo nói tới đó: "Bị nhiều thiệt thòi như vậy hẳn cũng phải học được bài học chứ".

"Đúng vậy. Mặc dù những trận chiến trước đó quân ta cũng không thiệt hại nhiều nhưng khi tin tức hai mươi vạn đại quân Liêu xuôi nam quy mô lớn bay tới triều đình, một số quần thần trong triều dao động mạnh mẽ. Đa số quần thần chủ trương rời kinh đô xuống phía nam, thậm chí có một số chủ trương bỏ chạy tới Thành Đô".

Với sự cố gắng của phái chủ chiến cầm đầu bởi Khấu Chuẩn. Chân Tông hoàng đế vốn cũng muốn bỏ chạy nhưng với sự tận lực khẩn cầu của mấy người Khấu Chuẩn, Chân Tông hoàng đế quyết định ngự giá thân chinh. Khi đi vào thành Thiên Uyển, vẫn còn run run khi trèo lên lâu thành".

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo vẻ quái dị: "Những điều này ngươi lấy ở đâu vậy?"

Hiệp ước Thiền Uyên cực kỳ nổi tiếng trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Giáo viên dạy môn lịch sử trung học đã giảng giải rất lỹư lưỡng về vấn đề này. Thật ra câu nói đó của Đỗ Văn Hạo là hình dung có chút khoa trương của giáo viên đó để đùa cợt với bậc đế vương cổ đại. Đỗ Văn Hạo và Cao Thao Thao là cặp tình nhân, khi nói chuyện không giữ ý tứ, hắn thuận miệng nói ra. Bây giờ hắn nghe Cao Thao Thao hỏi lại mới biết trêu chọc tiên đế như vậy là phạm trọng tội bất kính.

Đỗ Văn Hạo vội vàng cười giả lả, hắn ôm eo nàng hôn một cái rồi nói: "Thực xin lỗi. Thao Thao, những chi tiết này là trong dã sử, có mấy chỗ không có thật. Là ta nói hưu nói vượn. Nàng đừng để tam. Thật ra Chân Tông hoàng đế cực kỳ dũng cảm. Những Hoàng Đế có can đảm ngự giá thân chinh thật ra không có mấy người. Chân Tông hoàng đế đích thân ra tuyền tuyến chỉ huy đã khiến cho quân Liêu bãi binh, không dám xuôi nam nửa bước. Có thể xưng là anh hùng. Ha ha ha".

Sau khi Đỗ Văn Hạo xin lỗi hắn lại liên tiếp vuốt mông ngựa. Rốt cuộc Cao Thao Thao cũng tươi cười nói: "Những lời nói trước kia của ngươi chỉ có thể nói trước mặt ta. Nếu để cho người ngoài nghe thấy, quả thực không hay chút nào. Sau này ngươi phải cẩn thận chú ý mới được".

"Biết rồi!" Đỗ Văn Hạo ôm Cao Thao Thao hôn một hồi lâu. "Ta cũng chỉ ở trước mặt nàng mới ăn nói tuỳ tiện như vậy. Nếu đổi lại trước mặt người khác, kể cả phu nhân của mình ta cũng không nói như vậy".

Cao Thao Thao nghe nói Đỗ Văn Hạo đặt nàng cao hơn cả người nhà của hắn, cùng với sự thân mật của hai người, hiển nhiên hắn đã coi mối quan hệ của hai người quan trọng hơn cả người nhà nên trong lòng càng cao hứng. Nàng mỉm cười nói: "Thôi được rồi. Sau này phải chú ý một chút. Ngươi nói tiếp đi".

"Được. Chân Tông hoàng đế của chúng ta ngự giá thân chinh, lập tức sĩ khí quân ta đại chấn. Trong trận quân Liêu có một viên Đại tướng khoác Hoàng bào ra trước trận vênh váo tự đắc, khoa chân múa tay, xem dáng vẻ là một viên quan lớn, quân ta liền bẩm báo Chân Tông Đại đế. Chân Tông Đại Đế hạ lệnh dùng nỏ sàng có tầm bắn rất xa, bắn ra như châu chấu, lập tức bắn chết viên tướng Liêu đó. Sau này mới biết được người đó là tướng tiên phong của quân Liêu".

Cao Thao Thao vỗ tay cười nói: "Bắn hay lắm!"

Đỗ Văn Hạo cũng cười nói: "Đúng thế! Quân Liêu đơn độc xâm nhập, liên tục công thành thất bại. Bây giờ tướng tiên phong lại bị bắn chết, lại thấy Hoàng Đế Đại Tống ngự giá thân chinh, sĩ khí quân ta đại chấn, trong lòng liền e sợ, đề nghị giản hoà. Trên đường ngự giá thân chinh, Chân Tông hoàng đế nhìn thấy dân chúng vùng biên cương hơn hai mươi năm chịu thảm hoạ chiến tranh, trong lòng vô cùng đau xót, nay thấy quân Liêu muốn giảng hoà. Lão nhân gia người là người nhìn xa trông rộng, lại thương xót sự khổ sở hai mươi năm qua của dân chúng biên cương hai nước nên cuối cùng quyết định tốn chút tiền mua sự bình yên. Hai bên ký hiệp định, kết làm hai nước anh em. Liêu Thánh Tông tôn Tống Chân Tông làm huynh. Tống Chân Tông lại xưng Tiêu Thái hậu là thúc mẫu (thím). Đại Tống ta hàng năm phải tiến cống cho Đại Liêu mười vạn lạng bạc trắng, hai mươi vạn súc lụa. Đôi bên cử sứ gia bang giao. Sử sách gọi là: Hiệp ước Thiền Uyên".

"Vậy trận này chúng ta thua hay thắng?"

"Phải nói là trận này hai bên đều thắng. Những trận chiến trước đó hai bên đều không có thiệt hại cụ thể. Cuối cùng hiệp ước Thiền Uyên cũng kết thúc giao tranh. Số tiền tiến cống hàng năm của hiệp ước Thiên Uyên không lớn lắm. Đối với Đại Tống chúng ta, số tiền ấy chỉ như chín trâu mất một sợi lông. Nhưng đối với Đại Liêu mà nói lại như một miếng bánh lớn, tất nhiên chúng vô cùng mững rỡ, không cần phải mạo hiểm xuôi nam đánh cướp, dùng số tiền đó có thể có cuộc sống tương đối sung túc. Vì vậy từ đó về sau quân Liêu không phái quân xuôi nam. Hai bên tiếp tục chung sống hoà bình với nhau, không có chinh chiến, cùng với thời gian cuộc sống của dân chúng cũng trở nên giàu có sung túc. Quả nhiên Chân Tông hoàng đế là người biết nhìn xa trông rộng, dùng tiền trinh đổi lấy sự bình yên mấy chục năm của biên giới. Số tiền đó cũng chỉ là tiết kiệm quân lương không đi viễn chinh. Điều chủ yếu nhất là chúng ta tránh được hàng vạn người phải tử chiến xa trường, dân chúng vùng biên cương rơi vào cảnh lầm than. Chân Tông hoàng đế là người có lòng thương tiếc dân chúng, tấm lòng bao la".

Đỗ Văn Hạo liên tiếp vỗ mông ngựa khiến cho Cao Thao Thao mặt mày hớn hở, nghe thấy câu cuối nàng không hiểu nên ngạc nhiên hỏi: "Điểu Sinh ngư thang?'

Câu này là câu cửa miệng của Vi Tiểu Bảo, Đỗ Văn Hạo thuận miệng nói ra, cũng có ý trêu chộc nhưng nghe Cao Thao Thao hỏi hắn vội vàng sửa lại: "Thật xin lỗi là Nghiêu Thuấn Vũ thang. Chắc ta nói nhanh quá nên không rõ ràng. Ha ha ha".

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Ngươi nha! Lại nói loạn rồi!"

"Ha ha. Lúc trước tâm tình nàng nặng nề mà sao thoáng chốc đã thay đổi?"

Nụ cười trên gương mặt Cao Thao Thao biến mất, nàng thở dài nói: "Đúng vậy. Ta nghe ngươi nói giữa Đại Tống và Liêu xảy ra nhiều cuộc chiến như vậy, quân ta chỉ có ba phần thắng, bảy phần thua trận. Cuối cùng chúng ta còn phải dùng tiên đổi lấy sự yên bình. Tại sao không phải là chúng dùng tiền mua sự bình an từ chúng ta? Nói cho cùng thì vẫn là không đánh lại chúng. Ai! Điều này khiến trong lòng ta rất buồn bực".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Đó đã đáng gì. Chờ khi nàng nghe xong mấy cuộc đại chiến với Tây Hạ nàng sẽ thấy mấy cuộc chiến trước không đáng gì".

"Hả?" Đánh nhau với Tây Hạ chúng ta còn thua thảm hơn sao?"

"Đúng vậy. Khi chiến tranh với nước Liêu là lúc chúng ta vừa mới lập nước, binh hùng tướng mạnh, tuy có thất bại nhưng cũng không quá nặng nề. Khi xảy ra chiến tranh với Tây Hạ, chúng ta đã trải qua một thời thái bình quá dài. Mặc dù chúng ta có quân đội đông đảo hơn rất nhiều quân đội Tây Hạ. Nhưng kết quả chiến tranh thì chúng ta lại còn thất bại thảm hại hơn".

"Không thể nào" Cao Thao Thao cười buồn bực nói: "Trước kia ta toàn nghe những chiến thắng khải hoàn".

"Nghe những văn nhân đó tuyên truyền thì chiến tích của chúng ta rất hay. Nàng phải biết rằng Tây Hạ vốn là đất thuộc địa của chúng ta. Chúng ta dùng quốc lực một đất nước nhưng lại không thể nào khiến nó thuần phục ngược lại còn bị tổn thất nặng nnề. Chuyện đó phải nói thế nào đây? Dù sao cũng phải giữ thể diện cho Thiên triều chúng ta mà".

"Vậy làm thế nào ngươi biết được?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Nàng đừng quên, hơn tháng trước nàng bổ nhiệm ta làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ. Tam nha lại cai quản quân đội. Trong tam nha có rất nhiều tư liệu chiến tranh, rất phong phú. Ta đã không lãng phí thời gian những ngày đó.

Những khi rảnh ta đều nhốt mình trong các lý tư liệu của tam nha. Ta lấy những tư liệu nguyên gốc nên có thể hiểu được chân tướng sự việc. Trong khi đó nàng lại nghe người khác tuyên truyền nên chỉ có thể nghe những điều nói dối hào nhoáng".

Cao Thao Thao đứng dậy. Nàng chắp tay sau lưng đi ra ngoài cạnh đình, chẳng biết mưa ngoài trời đã ngớt từ lúc nào. Bầu trời mù mù đã quang dần, mây tan ra, thậm chí đã xuất hiện một vài ngôi sao nhỏ.

Cao Thao Thao quay lại, nàng nghiêm mặt nói với Đỗ Văn Hạo: "Văn Hạo, ngươi phải nói với ta chân tướng của sự việc. Ta muốn biết sự thật chứ không phải là lời nói dối, bất kể là có ý tốt hay không. Ta chỉ muốn biết sự thật. Muốn trị vì một quốc gia tốt, nhất định phải nắm được tình hình thực tế của đất nước".

"Được!" Đỗ Văn Hạo vội vàng đứng dậy, nhẹ nhàng ôm nàng nói: "Nàng cứ yên tâm. Ta nhất định sẽ giúp nàng trị vì quốc gia tốt, chỉnh đốn quân đội, thành lập một đội quân dũng mãnh bách chiến bách thắng".

"Ừ" Rốt cuộc trên gương mặt xinh đẹp của Cao Thao Thao cũng hiện ra nụ cười vui vẻ: "Có người ở cùng ta, trong lòng ta cũng thấy rất an tâm".

"Ha ha nhưng mà tiên đế đã từng nói chủ kiến của ta thường không thể tưởng tượng nổi, nói cách khác là kỳ quặc. Nhất định nàng sẽ không tiếp thu được".

"Ta biết. Tiên đế đã từng nói. Nhưng mà chỉ cần ngươi nói có đạo lý, dù có khác người cũng chẳng sao".

"Vậy là tốt rồi. Ta rất an tâm. Tiếp theo ta nói về chiến tranh Tống Hạ".

"Chờ một chút" Cao Thao Thao nói: "Thức ăn lạnh rồi, để ta bảo bọn họ hâm nóng thức ăn. Chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Cứ để bọn họ hầu hạ ở bên cạnh cũng được. Dù sao bây giờ chúng ta cũng chỉ nói chuyện chiến tranh, không làm gì khác".

Gương mặt vốn hai tái vì men rượu của Cao Thao Thao ửng hồng. Nàng liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói: "Chuyện khác? Ngươi còn muốn làm chuyện gì khác?"

"Nàng nói thử xem?" Đỗ Văn Hạo ôm nàng sát vào người, hôn lên đôi môi mọng đỏ, bàn tay hắn vuốt ve đôi gò bồng đảo cao ngất của nàng rồi miệng hắn khẽ mơn man vàng tai mềm mại của nàng. "Nàng biết ta muốn làm gì không?"

Cao Thao Thao thở gấp gáp, nàng nhẹ nhàng đấm hắn một cái: "Đừng lộn xộn. Hãy ngồi xuống nói chuyện chiến tranh một cách nghiêm chỉn. Chúng ta thất bại thê thảm như vậy, ngươi vẫn còn tâm tư làm cái đó ư?"

"Ha ha. Tất cả những thất bại đó đều là chuyện trước kia. Lần sau chúng ta hãy đánh thắng chúng một trận thật thống khoái làm cho chúng không dám giở giọng nữa, chẳng phải như vậy sẽ thu lại cả vốn lẫn lãi sao?"

'Vậy phải xem bản lĩnh Đại tướng quân của ta" Cao Thao Thao hôn Đỗ Văn Hạo, nàng đẩy hắn ngồi xuống rồi kêu Tiêu công công tiến vào, bảo thay thức ăn. Sau khi hai người ăn một chút, uống mấy chén rượu, Đỗ Văn Hạo lại mới nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo nói: "Trong lúc Đại Tống và Đại Liêu đang giao tranh, bộ tộc Đảng Hạng Tây Hạ nhiều lần khởi binh làm phản lại Đại Tống. Bởi vì khi đó Đại Tống chúng ta phải dốc toàn lực đối phó với Đại Liêu, không rảnh tay quan tâm tới bộ tộc Đảng Hạng, dùng phương sách dùng người Di, chế ngự người Di (di; rợ - người Trung Quốc thời xưa gọi các dân tộc ở phía Đông), dùng đồng minh là người Thổ Phiên đối phó với người Đảng Hạng, chỉ thỉnh thoảng mới xuất binh chinh phạt. Thời kỳ này thực lực quân đội Tây Hạ không mạnh, Đại Tống cũng không xuất binh nhiều. Đại khái hai bên đánh cũng chỉ ngang nhau. Nhưng bốn mươi năm trước Tây Hạ nguyên Hạo phản lại Đại Tống, tự xưng làm Đế, thành lập nước Tây Hạ, trước sau cùng Đại Tống chúng ta đánh năm chiến dịch lớn".

"Không cần phải nói cũng biết lại là chúng ta thất bại thảm hại" Cao Thao Thao cười gượng nói.

Đỗ Văn Hạo cười cười nói: "Trận chiến đầu tiên gọi là cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu. Quân Tây Hạ phát động tấn công trước, bao vây Diên Châu. Tướng trấn thủ biên cương của Đại Tống phán đoán tình thế sai, cho rằng quân Tây Hạ chỉ tập kích quấy rối quy mô nhỏ, liền tập hợp một vạn binh sĩ tới cứu viện. Ai ngờ khi đó Nguyên Hạo đã chuẩn bị binh lực lên tới mười vạn quân. Hắn đã chọn kế sách bao vây, diệt viện, bao vây một vạn quân tiếp viện của Đại Tống trùng trùng điệp điệp. Quân Tống quyết chiến đột phá vòng vây cũng không thoát được. Ngoại trừ một số ít phá được vòng vây, một vạn quân Tống gần như bị tiêu diệt. Nhưng quân Tây Hạ đánh mãi cũng không thể hạ được thành liền thu quân quay về".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Không biết rõ tình hình địch, tuỳ tiện tiến quân, không thất bại mới là lạ".

Bởi vì Đỗ Văn Hạo thấy nhiều cung nữ, thái giám hầu hạ xung quanh nên hắn không dám gọi thẳng tên của Thái Hoàng Thái Hậu, hắn vỗ đùi khen: "Thái Hoàng Thái Hậu nói rất đúng. Thật ra trước khi xông vào vòng vây đối phương, quân ta đã phát hiện đại quân Tây Hạ rất đông, cũng không phải là tập kích, quấy rối nhỏ nhưng lại không cảnh giác.

Trong khi đó chỉ huy tác chiến lại là văn nhân, hoàn toàn không có hiểu biết gì về quân sự, cái gì gọi là cầm quân tác chiến. Thường nhân trở thành chỉ huy, không thua mới là lạ".

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ".

Đỗ Văn Hạo đang định nói chính vì di chiếu đó khiến thất bại nhưng hắn liếc mắt nhìn thấy cung nữ và thái giám đang đứng bên cạnh nên sửa thành: "Dạ, vi thần nói tiếp. Trận chiến sau đó là trận chiến Thuỷ Xuyên, quân Tống chúng ta còn thất bại thảm hại hơn nhiều. Năm thứ hai sau cuộc chiến ở Tam Xuyên Khẩu, một lần nữa mười vạn đại quân Tây Hạ lại xâm nhập phía nam nhưng quân Tây Hạ lại dùng quân chủ lực mai phục ở Thuỷ Xuyên, dùng một lượng nhỏ binh lực dụ địch đánh nghi binh. Hơn một vạn đại quân ta nghênh chiến, quân địch giả vờ thất bại, quân ta trúng kế, truy kích đường xa, rơi vào trận địa phục kích của quân địch. Hơn một vạn tướng sĩ chỉ có vẻn vẹn hơn một ngàn người huyết chiến phá được vòng vây, còn lại đều chết trận".

"Ai! Lại là toàn quân bị tiêu diệt" Cao Thao Thao thở dài một tiếng nói: "Chúng ta không thể làm quân Tây Hạ toàn quân bị tiêu diệt sao?"

"Thái Hoàng Thái Hậu, quân đội hai bên giao chiến cũng giống như hai người đánh nhau. Khí lực mạnh, võ công giỏi nhất định có thể đánh thắng khí lực yếu, võ công kém".

Tiêu công công cảm thấy mấy lời này của Đỗ Văn Hạo không lọt tai, sợ Thái Hoàng Thái Hậu mất hứng liền gượng cười nói xen vào: "Đại tướng quân nói sai rồi Đại Tống chúng ta là thượng quốc, trên trăm vạn hùng binh, sao lại nói là khí lực yếu, võ công kém? Tây Hạ chỉ là một nước man di, có một, hai chục vạn quân ô hợp sao lại có thể nói là khí lực mạnh, võ công giỏi được?"

Không đợi Đỗ Văn Hạo lên tiếng, Cao Thao Tháo đã nói trước: "Tiểu Tiêu tử, ngươi không hiểu. Quân đội Đại Tống nhiều hơn thì làm gì? Điều này cũng giống như một con bò lớn và một con sói đói. Con bò béo có vóc dáng to lớn hơn một con sói đói, khí lực cũng mạnh hơn, sao có thể alf đối thủ của con sói đói? Đại Tống là một thượng quốc nhưng lại thiếu một đội quân thiện chiến, dũng mãnh, cũng giống như con bò không có răng nanh, bị con sói ăn sạch sành sanh".

Tiêu công công cười hì hì nói: "Đúng vậy. Thái Hoàng Thái Hậu nói đúng. Đại tướng quân đúng là người lão luyện trong phương diện này, phân tích vô cùng chính xác, suy nghĩ rất sâu xa làm người khác bừng tỉnh. Ha ha ha".

"Ai! Ngươi nói không sai, lời nói của Đỗ tướng quân khiến Ai gia bừng tỉnh. Đỗ tướng quân, ngươi nói tiếp đi".

Đỗ Văn Hạo mừng thầm khi nghe Cao Thao Thao nói những lời đó, hắn đã không uổng phí một phen uốn lưỡi, hắn liền nói tiếp: "Được. Trận chiến sau đó được gọi là cuộc chiến Định Xuyên. Quân Tây Hạ chia làm hai đtấn công. Quân ta cũng chia binh đón đánh. Một lộ quân quyết chiến ở trại Định Xuyên, thất bại tan tác liền giẫm đạp lên nhau chạy vào thành. Chủ tướng còn suýt chút nữa bị loạn quân giết chết. Quân Tây Hạ cắt đứt đường tiếp viện, không còn hy vọng thủ thành, chủ tướng đành phải hạ lệnh phá vây, kết quả tríng mai phục, gần một vạn tướng sĩ toàn quân bị ntiêu diệt".

"Ai! Lại là toàn quân bị tiêu diệt. Nào, uống rượu!"

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, chúng ta cũng thắng được một trận đánh nho nhỏ. Lộ đại quân kia của quân Tây Hạ đã bị quân ta kiên cường chặn lại, tổn thất không tiến được nên Tây Hạ quyết định bãi binh".

Cao Thao Thao cười nói: "Ờ, chúng ta cũng có lúc đánh thắng sao?"

'Đúng vậy. Ha ha ha vì vậy sau ba cuộc chiến Tâ Hạ liền kế kết hiệp ước với Đại Tống chúng ta, xưng thần với chúng ta. Nói là xưng thần nhưng kỳ thật Tây Hạ hoàn toàn độc lập. Hàng năm chúng ta còn phải cung cấp cho Tây Hạ mười ba vạn súc lụa, năm vạn lượng bạc trắng, ba ngàn cân trà".

"Nỗi nhục mất nước! Vô cùng nhục nhã" Cao Thao Thao tức giận nói. Sắc mặt nàng tai nhợt vì tức, hai hàm răng nghiến chặt. Hai bàn tay trắng như tuyết nắm chặt.

Đỗ Văn Hạo thở dài nói: "Ai! Đây cũng là vì không còn cách nào khác, cũng là dùng tiền mua hoà bình. Cũng may chúng ta cũng nhiều tiền nên cũng không quá quan tâm".

"Tiền, tiền nhiều tiền hơn nữa cũng không thể dùng tiền mua hoà bình. Đây là dùng tiền mua sự sỉ nhục".

Đỗ Văn Hạo thấy Cao Thao Thao tức giận như vậy, trong lòng hắn lại càng cao hứng. Hắn cố làm ra vẻ ủ rũ, liên tục gật đầu rồi nói tiếp: "Đúng vậy, chúng ta đánh không lại người ta. Có thể không tốn tiền sao? Đúng như Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, một con bò béo không có rănh nanh chỉ có thể chịu bị lang sói cấu xé".

Cao Thao Thao sững sờ, tròn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một lát rồi nàng chậm rãi nói: "Lời của ngươi có ý gì?"

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua mấy người Tiêu công công bên cạnh rồi hắn thở dài một tiếng nói: "Trận chiến đánh thành đã vậy. Cho dù muốn nói gì cũng không có gì mà nói".

Cao Thao Thao gật đầu. Nàng cầm chén rượu uống một hơi cạn rồi chậm rãi nói: "Ngươi cứ nói tiếp đi. Hãy cứ nói những điều trọng yếu thôi".

"Dạ! Sau khi hai bên ký hoà ước hoà bình. Biên giới hai bên yên tĩnh trong vòng ba mươi năm sau đó lại xảy ra chiến tranh".

Cao Thao Thao nói: "Hai cuộc chiến sau này chính là cuộc chiến Linh Châu và cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc không?"

"Đúng vậy".

"Vậy không cần phải nói. Hai cuộc chiến này Ai gia đã nghe tiên đế nhắc tới nhiều lần. Ta hiểu hai cuộc chiến này chúng ta đều thất bại nhưng không nắm rõ về tổn thất. Ngươi hãy nói vắn tắt một chút".

"Được. Trận đánh ở Linh Châu, quân ta xuất ba mươi vạn quân, chuẩn bị một ntrận tiêu diệt Tây Hạ, một đường thẳng tiến, tiêu diệt hơn một quân Tây Hạ. Quân Tây Hạ thất bại, liên tiếp tháo lui. Quân ta liều lĩnh tấn công thần tốc, đánh thẳng vào nội địa Tây Hạ mấy trăm dặm. Tất cả các lộ quân Tây Hạ bắt đầu vây kín chúng ta. Quân ta bị bốn mặt giáp công, thất bại tháo lui, hao binh tổn tướng tới mấy vạn người".

 Chương 405: Binh cường không biến pháp 

Cao Thao Thao thở dài nói: "Đơn độc xâm nhập. Đơn độc xâm nhập".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Lãnh binh của chúng ta đều là quan văn, chưa từng học qua binh pháp, cũng chưa từng lãnh binh đánh giặc. Phạm sai lầm là lẽ đương nhiên".

Cao Thao Thao sửng sốt hồi lâu rồi mới chậm rãi nói: "Ngươi nói tiếp đi".

"Được. Năm sau hai nước Tống Hạ diễn ra chiến dịch thành Vĩnh Nhạc".

"Không cần phải nói trận chiến này, Ai gia đã biết rất rõ ràng. Cũng giống như chiến dịch trước. Quân ta xuất hai mươi vạn đại quân, sử dụng vũ khí làm mỏi mệt cùng mặt nạ phòng độc của ngươi cung cấp, công thành chiếm đất, lại là một đường thẳng tiến, giết vô số quân địch, một mực đuổi tới dưới chân thành kinh đô Tây Hạ nhưng Tây Hạ thu được trang bị phòng độc của ngươi, tiến hành nghiên cứu, phỏng chế ra rất nhiều làm cho vũ khí dịch bệnh của quân ta mất hiệu quả. Quân Tây Hạ vây kín, quân ta thua chạy vào thành Vĩnh Nhạc. Đại quân Tây Hạ mạnh mẽ tấn công phá thành, hai mươi vạn đại quân gần như bị tiêu diệt vì vậy tiên đế khóc lóc ba ngày liền ở Thái miếu, không ăn không uống, cả ngày dùng nước mắt rửa mặt".

Nói xong những lời cuối cùng đó, Cao Thao Thao lại nhớ tới dáng vẻ con trai mình là Tống Thần Tông lúc đó, trong lòng lại cực kỳ bi thương, nức nở nghẹn ngào, khóc oà.

Đỗ Văn Hạo cúi người chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu hãy bớt bi thương".

Cao Thao Thao gạt lệ, phất tay cho mấy người Tiêu công công lui ra. Nàng đứng dậy đi tới mé ngoài đình hóng mát, nhìn những ánh sao lờ mờ trên bầu trời một lúc lâu rồi mới yếu ớt hỏi: "Văn Hạo, ngươi nói cho ta biết những chuyện chiến bại xưa kia của Đại Tống là có mục đích gì?"

"Thao Thao, nàng rất thông minh" Đỗ Văn Hạo cười hì hì. Hắn đứng dậy đi tới ôm Cao Thao Thao từ sau lưng. "Thao Thao, nàng đã bổ nhiệm ta làm tam nha Đô Kiểm Điểm, cũng không quản ngại cho phép ta tham gia Tể chấp. Cả ngày hôm nay ta chỉ nghĩ tới chuyện làm thế nào chấn hưng sự oai hùng của Đại Tống? Ta nói với nàng những chuyện cũ đau buồn chính là muốn để cho nàng có một sự hiểu biết thực sự khách quan với quân đội Đại Tống. Thao Thao, giờ đây quân đội Đại Tống thực sự giống như lão hổ bị bẻ gãy hết hàm răng cùng móng vuốt, chỉ e ngay cả hồ ly cũng không đánh lại. Nếu không nghĩ ra cách nào, sớm muộn Đại Tống chúng ta cũng lâm nguy".

Những lời đó của Đỗ Văn Hạo hoàn toàn không chút khoa trương. Trong lịch sử, chỉ bốn mươi năm sau Bắc Tống quả thật đã bị nước Đại Kim tiêu diệt. Đỗ Văn Hạo đã tới nơi này, hắn muốn thay đổi lịch sử.

Cao Thao Thao móc đôi bàn tay mềm mại vào tay Đỗ Văn Hạo, nàng ngả đầu vào vai hắn, thân hình nhỏ nhắn xinh xắn dựa hẳn vào lòng Đỗ Văn Hạo. Đôi mắt phượng không ngừng ngơ ngẩn nhìn sao trên bầu trời: "Không phải tiên đế không có giấc mộng binh cường. Mục đích chính của việc sử dụng biến pháp của Vương An Thạch chính là muốn nước mạnh, binh cường. Lúc ban đầu bản thân ta cũng hông phản đối biến pháp. Nhưng sau khi thực hiện biến pháp không những không có nước mạnh binh cường, ngược lại còn làm cho thần dân công phẫn, dân chúng lầm than. Ai! Phải làm thế nào thì mới có nước mạnh binh cường đây?"

Đỗ Văn Hạo xiết chặt vòng eo nhỏ của nàng nói: "Chỉ cần cố gắng tìm đúng con đường đi, nhất định sẽ làm cho nước mạnh binh cường".

Cao Thao Thao chậm rãi quay người, nàng ôm cổ Đỗ Văn Hạo, đôi mắt đẹp chăm chú nhìn hắn: "Ngươi đã nghĩ ra cách làm cho nước mạnh binh cường sao?'

Đỗ Văn Hạo nói: "Ngay khi tiên đế bổ nhiệm ta làm Lộ câu quản phủ Thành Đô, ta đã suy nghĩ tới vấn đề làm thế nào để cho nước mạnh binh cường.

Khi ở phủ Thành Đô ta cũng đã áp dụng một số biện pháp thực tế. Nhưng vấn đề là ta chưa biết hiệu quả thực sự thế nào đã bị điều đi. Nếu muốn biết hiệu quả thế nào, có thể hỏi Tô Thức (còn gọi là Tô Đông Pha). Nhất định hắn vẫn tiếp tục áp dụng biến pháp của ta ở Tĩnh Châu".

Cao Thao Thao lắc đầu nói: "Ta không cần bíên pháp của ngươi, không muốn dùng biến pháp của ngươi di hoạ cho dân chúng. Ta chỉ muốn ngươi giúp binh cường, giúp ta thành lập một đội quân kiêu dũng thiện chiến, bách chiến bách thắng, dẹp yên Tây Hạ và Đại Liêu, báo thù rửa hận".

Cao Thao Thao vốn tính tình nhu nhược nhưng một khi đã bị rơi vào thế bắt buộc phải buông rèm chấp chính, không thể không suy nghĩ vì đất nước. Vừa rồi nàng lại nghe Đỗ Văn Hạo kể lại chuyện chiến tranh thời trước của Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu thắng ít bại nhiều, tâm tình cực kỳ buồn bực, sinh lòng oán hận với Tây Hạ và Đại Liêu, cuối cùng đã thốt lên câu nói cực kỳ khí phách nói trên.

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ Cao Thao Thao là nhân vật lãnh tụ của phái bảo thủ, kiên quyết phản đối biến pháp của Vương An Thạch, kiên trì phương pháp thống trị của tổ tông vì vậy khi nàng nghe tới biến pháp, lập tức phản đối như một phản xạ có điều kiện. Đỗ Văn Hạo cũng hiểu chuyện này không gấp được nên vội ôm nàng nói: "Được, chỉ là binh cường, không biến pháp, không gây tai hoạ cho dân chúng. Không...hãy cho ta một chút thời gian để suy nghĩ xem làm thế nào để binh cường".

"Ừ. Ta cho ngươi ba ngày, không năm ngày suy nghĩ. Có đủ không?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nếu như bế môn suy nghĩ thì chỉ một ngày là đủ, không cần phải năm ngày".

"Thôi được, một ngày bế môn suy nghĩ sao? Bế môn suy nghĩ có thể làm cho binh cường sao? Ta muốn ngươi có thể tìm ra biện pháp thật sự có thể làm cho binh cường".

"Vậy thì năm ngày sẽ không đủ".

"Ồ? Vậy thì mấy ngày?"

Đỗ Văn Hạo cầm tay nàng chậm rãi nói: "Thao Thao. Nói thật ta vẫn có một vấn đề tồn tại trong quân đội Đại Tống chúng ta cần phải làm rõ. Nàng đã trao cho ta quyền thành lập một đội quân hùng mạnh, ta không thể giải tán toàn bộ quân đội hiện nay thành lập đội quân mới. Ta chỉ có thể tiến hành cải cách quân đội hiện tại. Không phải trong triều đình đã từng ồn ào nói đến ba nhũng sao (vào thời Bắc Tống có ba nhũng là: Quan lại, Sương quân và tăng đạo). Một trong tam nhũng đó chính là nhũng binh. Quân đội nhũng nhiễu như thế nào, nhũng nhiễu tới mức độ nào. Tại sao sức chiến đâu lại giảm sút. Tại sao đánh trận là bại? Những điều này không phải vô cớ mà nghĩ ra được. Nhất định phải tiến hành điều tra, khảo sát trong quân đội một cách nghiêm chỉnh, tìm ra vấn đề mấu chốt. Muốn hoàn thành công việc này chỉ e ba năm cũng không thể làm xong được. Ta cũng thực sự không biết chính xác cần bao nhiêu thời gian. Thế nhưng ta tin tưởng rằng cũng không cần nhiều quá nhiều thời gian bởi vì nhiều vấn đề rất rõ ràng. Ta nghĩ rằng một khi đã tìm đúng vấn đề, nghĩ ra phương pháp giải quyết ta sẽ bẩm báo với nàng, được không?'

"Nhưng mỗi khi nghĩ tới Đại Tống chúng ta đã nhiều lần thua Đại Liêu và Tây Hạ, hàng năm chúng ta còn phải tiến cống tiền, vật phẩm cho chúng, trong lòng ta không yên, ta chỉ muốn sớm báo thù rửa hận".

"Ta hiểu tâm tình của nàng. Ta thân làm quan chỉ huy cao nhất của tam nha, sao có thể không nghĩ tới thù hận này? Ta chỉ muốn ngay lập tức xây dưng một đội quân mãnh hổ, bách chiến bách thắng, đánh xuyên Tây Hạ, Đại Liêu, thậm chí là cả thế gian này. Nhưng mà nóng vội ăn không hết đậu hũ nóng (nói một cách ví von là: Nóng vội được không bằng mất - hay là dục tốc bất đạt). Những vấn đề của quân đội Đại Tống đã chồng chất hơn một trăm năm. Rất nhiều vấn đề rắc rối rất khó gỡ, thậm chí là thâm căn cố đế. Nếu muốn thay đổi, không phải chỉ cần một đạo thánh chỉ là có thể thay đổi được. Nếu công việc đơn giản như vậy, tiên đế đã sớm hoàn thành công việc này. Chúng ta cũng đã không bị Tây Hạ đánh bại thê thảm như vậy. Thao Thao, nàng phải cho ta đủ thời gian mới có thể hoàn thành công việc này, thực hiện mục đích binh cường".

Hai mắt Cao Thao Thao đẫm lệ, nàng ngẩng đầu nhìn hắn buồn bã nói: "Khi nào mới có thể thực hiện được mục đích này?"

"Thao Thao, nàng phải chuẩn bị tâm lý, có thể là rất lâu. Vấn đề tối kỵ là cải cách quân đội chỉ vì mối lợi trước mắt".

"Nhưng dù sao ngươi có phải đại khái có một hạn định thời gian".

"Căn bệnh tồn tại trên một trăm năm muốn thay đổi cho dù không cần hơn một trăm năm cũng cần mấy chục năm. Thời gian cụ thể bao lâu quyết định là ở hai yếu tố".

Cao Thao Thao vội vàng hỏi: "Hai yếu tố nào?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Một yếu tố là biện pháp của mình có mạnh mẽ hay không, biện pháp cải cách có thông suốt hay không, có kiên quyết triệt để hay không. Yếu tố thứ nhất quyết định bởi ta. Yếu tố thứ hai chính do nàng quyết định".

Cao Thao Thao cười nói: "Ngươi cứ . Chỉ cần ngươi chú tâm điều tra, xác định được biện pháp là binh cường, ta sẽ hoàn toàn ủng hộ ngươi. Chỉ cần có thể để quân Đại Tống chúng ta đánh bại quân Tây Hạ và Đại Liệu, ta sẽ đồng ý bất kỳ yêu cầu nào, biện pháp nào ta cũng ủng hộ".

"Được" Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Như vậy chúng ta coi như đã định".

Đỗ Văn Hạo ôm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Hai người ôm nhau đứng yên một chỗ.

Rất lâu sau hai người mới buông nhau ra. Cao Thao Thao nói: "Văn Hạo. Hôm nay Hú nhi đăng cơ thuận lợi. Chuyện này có thể giải quyết thuận lợi như vậy, hai bên có thể tránh khỏi dùng binh đao với nhau, công đầu là của ngươi. Hơn nữa ngươi còn điều tra ra chân tướng tiên đế bị mưu hại, ta rất cảm kích vì vậy ta muốn thưởng công cho ngươi".

Đỗ Văn Hạo vuốt ve đôi gò bồng đảo của nàng, hôn lên đôi môi mọng đỏ của nàng, cười hì hì nói: "Nàng chính là phần thưởng của ta. Đây chính là phần thưởng cao nhất của phần thưởng".

Cao Thao Thao hờn dỗi đánh Đỗ Văn Hạo: "Hai chúng ta đều là có tình cảm với nhau. Sao có thể xem như là phần thưởng đây?'

"Ha ha ha. Thôi được rồi. Phần thưởng của ta là gì?"

"Ừ. Bây giờ ngươi đã là quan nhị phẩm Đô Kiểm Điểm, vẫn còn làm việc ở Ngũ Vị đường thì không ra thể thống gì. Không phải Tiền Bất Thu là đồ đệ của ngươi sao? Ta nghe nói y thuật của hắn cũng rất khá. Hãy để Ngũ Vị đường cho hắn trông nom. Sau này ta còn rất nhiều chuyện cần ngươi trợ giúp. Chỉ e người sẽ không còn nhiều thời gian đi xem bệnh cho người khác".

Đỗ Văn Hạo nhéo nhéo khuôn mặt trơn mềm của nàng, cười trêu chọc: "Ta là đại phu. Không để ta đi xem bệnh cho người ta. Nàng muốn đập bể chén cơm của ta sao?"

"Đúng. Ta muốn đập bể chén cơm đại phu của ngươi nhưng ta sẽ cho ngươi một chén vàng khác. Ngươi đang ở Ngũ Vị đường làm đại phu, chỉ có thể cứu chữa được một số ít người bệnh. Bây giờ ngươi giúp ta trị vì quốc gia, có thể cứu vớt được trăm ngàn vạn người trong thiên hạ. Trước kia ngươi là y nhân. Bây giờ ta muốn ngươi là y quân, chữa khỏi căn bệnh của quân đội Đại Tống chúng ta".

Đỗ Văn Hạo trịnh trọng gật đầu nói: "Thao Thao, nàng yên tâm. Ta là đại phu chữa bệnh cho người đời, là một đại phu tốt. Chữa trị bệnh nhũng cho quân đội, ta cũng nhất định là một đại phu tốt, một đại phu ưu tú làm nàng thoả mãn".

Cao Thao Thao ôm Đỗ Văn Hạo, hôn hắn nói: "Tất cả ta đều nhờ vào ngươi".

"Dựa vào sự cố gắng của hai chúng ta".

"Ừ!" Cao Thao Thao trịnh trọng gật đầu: "Sau này ngươi không cần ở Ngũ Vị đường nữa. Nơi ấy giao cho mấy người Tiền Bất Thu. Ta sẽ cho ngươi một toà phủ lớn, được không?"

"Được. Phủ đệ nàng cho ta nhất định là không chê được" Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Nàng chuẩn bị cho ta ở đâu?"

"Ở đằng sau Hoàng cung, cùng với hai toà Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Tể tướng Vương Giai. Bên trái là Thiên Ba phủ, bên phải là phủ Tể tướng. Nơi đó rất rộng lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Vương Tể tướng. Tu sửa đã hai năm, cũng sắp hoàn thành".

"Hả? Tu sửa hai năm? Nhất định lúc trước tu sửa không phải cho ta. Là của ai vậy?"

"Trước kia chuẩn bị cho Nhan nhi. Nó nói Ung Vương phủ của nó quá nhỏ, cả ngày hắn ầm ĩ nói muốn ta cho hắn một toà phủ đệ khác ở sau Hoàng cung. Ta đồng ý. Hiện tại nó đã nổi điên, hơn nữa cả đời này phải thủ hộ lăng của Hoàng huynh, không dùng toà phủ đệ này nữa. Ta thưởng cho ngươi".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Đây là phủ của vương gia. Ta chiếm dụng không tốt lắm".

"Hiện tại vẫn chưa tu sửa xong, lại chưa có treo biển. Ai dám nói đây là phủ Vương gia. Chỉ cần treo biển Đại tướng quân thì không phải là phủ Đại tướng quân sao? Nếu như ngươi. Nếu như người ta nghĩ đó là phủ Vương gia vậy ngươi cứ lo liệu đi, giúp đỡ ta, ngày nào đó ta sẽ phong ngươi làm Vương gia, chẳng phải xứng đôi sao?"

"Hãy từ từ. Ta vẫn còn rất trẻ. Từ quan Đề Hình tứ phẩm thăng thẳng lên tam nha Đô Kiểm Điểm chính nhị phẩm, còn tham gia Tể chấp. Ta vẫn còn chưa có đại công nào. Điều này đã làm rất nhièu người thì thầm vụng trộm sau lưng. Bây giờ nàng nhắc ta làm vương gia, văn võ bá quan trong triều đều không ưa, ta cũng không dám tiếp nhận. Chờ tới khi ta chính thức hoàn thành mấy đại sự. Ít nhất có thể cải cách quân đội thành công, đánh thắng mấy trận chiến lớn, có chiến công. Khi đó cất nhắc có lẽ sẽ tốt hơn một chút".

"Vậy cũng đúng. Nhưng ta tặng ngươi phủ đệ đó ngươi có muốn không?'

"Muốn! Có gì mà không muốn" Đỗ Văn Hạo ôm sat Cao Thao Thao vào lòng hôn lên đôi môi thơm của nàng, ôn nhu nói: "Nàng tặng đồ đạc cho ta, đừng nói là một toà phủ Đại tướng quân tốt như vậy mà ngay cả một cây châm, một khi là thành tâm của nàng ta cũng cất kỹ".

Cao Thao Thao ngượng ngùng nói: "Vậy là được rồi. Ngày mai ta sẽ hạ chỉ ban toà phủ đẹ đó cho người là phủ Đại tướng quân, cũng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, tranh thủ hoàn thành sớm để ngươi có thể chuyển vào. Ngươi cũng nên bớt chút thưòi gian đi xem một chút. Hãy dựa vào yêu cầu mà có điều chỉnh, nhân lúc có thợ cũng nên sửa sang cẩn thận'.

"Được. Cám ơn Thao Thao của ta đã tặng ta một toà phủ đệ lớn".

Cao Thao Thao cười hì hì nói: "Thật ra ta cũng có tư tâm. Toà phủ đệ kia ở ngay sau Ngự hoa viên của Hoàng cung. Khoảng cách rất gần. Sau này ta gọi ngươi, đi vào lối cửa sau rất thuận tiện. Ngươi ở gần như vậy thì cũng giống như đang ở bên cạnh ta, trong lòng ta càng yên tâm hơn".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng ấm áp khi nghe nàng nói giọng si tình như vậy, hắn nhẹ nhàng nói: "Đúng vậy. Nàng nghĩ thật chu đáo. Sau này mỗi khi ta nghĩ đến nàng, ta vào Hoàng cung với nàng cũng rất thuận tiện".

Cao Thao Thao lại ôm cổ Đỗ Văn Hạo thân mật một hồi lâu rồi mới ôn nhu nói: "Thôi được. Ngày hôm nay cũng rất mệt mỏi rồi. Ngươi hãy về sớm một chút nghỉ ngơ. Bắt đầu từ ngày mai ngươi sốc sức giúp ta làm chuyện đó. Nhất định phải làm tốt. Trước khi ngươi đề xuất biện pháp cải tạo quân đội, ngươi không cần phải tới lâm triều. Hãy tập trung tinh lực làm việc này".

"Được" Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rồi nói: "Có một vài chuyện vẫn cần phải có ý chỉ của nàng".

'Nói đi" Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo vẻ nồng nàn: "Chuyện gì ta cũng đồng ý với ngươi".

"Đừng gấp gáp. Ta vẫn chưa nói. Nếu như ta đòi đi giết người phóng hoả nàng cũng đồng ý sao?"

"Đồng ý! Hì hì. Ngươi là người có tấm lòng nhân hậu, sẽ không bao giờ làm những chuyện thương thiên hại lý. Điều này ta rất yên tâm. Nếu ngươi đòi đi giết người phóng hoả, nhất định ngươi có lý do của mình vì vậy ta cũng đồng ý".

Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động: "Thao Thao, cám ơn nàng tin tưởng ta như vậy. Ta sẽ không phụ lòng tín nhiệm của nàng".

"Ừ. Chuyện gì? Nói đi".

"Tỷ lệ chết của trẻ mới sinh của Đại Tống chúng ta cực kỳ cao. Lần này ta đi tuần y phát hiện phương pháp đỡ đẻ của các bà đỡ của các địa phương rất lạc hậu. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu là hài nhi chết sau khi sinh. Mặc khác còn nhiều chứng bệnh đau bụng cấp. Các loại bệnh tật của người bệnh thường gây ra đau bụng. Bây giờ các đại phu chỉ dùng thuốc chén để điều trị trong khi đó rất nhiều trường hợp đau bụng cấp cần phải mổ. Ngoại trừ ta ra không còn ai có thể thực hiện loại giải phẫu này".

"Ta hiểu. Ngươi cứ nói thẳng suy nghĩ của ngươi".

"Ta muốn đồng thời kiêm nhiệm Đề Cử Thái y cục (cục trưởng), tiến hành cải cách giảng dạy của cục Thái y. Các giao sinh của Thái y cục tiếp nhân một số tri thức ngoại khoa cơ bản cùng với phương pháp đỡ đẻ mới và một số loại giải phẫu ngoại khoa đơn giản. Sau này bọn họ tới dạy học ở các cục y học ở các nha môn thì có thể phổ cập phương pháp đỡ đẻ mới cùng với các kiến thức cơ bản của giải phẫu ngoại khoa. Như vậy có thể làm giảm rất lớn tỷ lệ hài nhi chết khi sinh ra cùng tỷ lệ chết của người trưởng thành do đó nâng cao được tuổi thọ của người dân Đại Tống chúng ta. Hai điều này một giảm, một tăng làm tốc độ tăng trưởng của dân cư Đại Tống nhanh hơn, không chỉ có thể cung cấp một lượng lớn sức lao động mà còn bổ sung một nguồn binh lính dồi dào. Đây chính là một biện pháp hữu hiệu của binh cường. Ta đi tuần y được một năm đã điều tra đầy đủ. Người học hai hạng mục kỹ thuật này ở các nơi đã trở thành một xu thế, người người nối tiếp nhau không dứt. Kết quả đã chứng minh: Phương pháp đỡ đẻ mới cùng kiến thức ngoại khoa cơ bản của ta đã giúp làm giảm tỷ lệ hài nhi mới sinh chết cùng với tránh gây ra tử vong đối với những trường hợp ngoại thương. Rõ ràng rất có hiệu quả. Điều này không cần phải nghiên cứu, có thể áp dụng được".

"Thật tốt quá. Ta hoàn toàn đồng ý. Đây là biện pháp tốt làm nước mạnh binh cường" Cao Thao Thao hưng phấn nói. "Ta hoàn toàn tin tưởng lời ngươi nói. Ta cũng nghe nói ngươi tổ chức các lớp bồi dưỡng đỡ đẻ ở kinh thành phủ Khai Phong này rất được hoan nghênh. Các bà đỡ trải qua việc bồi dưỡng của Ngũ Vị đường các ngươi được các bà đỡ trong toàn thành tranh nhau mời, giá tiền tăng lên gấp bội. Phẫu thuật chữa thương chính là tuyệt kỹ của ngươi, ngươi muốn hiến dâng ra để cứu tính mạng dân chúng. Ta thay mặt dân chúng cám ơn ngươi".

"Ha ha ha, không cần cám ơn. Tuy ta chuẩn bị dạy kỹ thuật phẫu thuật chữa thương ở Thái y cục nhưng đó vẫn chỉ là những điều cơ bản. Những phương pháp cao thâm của kỹ thuật này không phải cứ dạy là học được. Sẽ phải học từ từ, trước tiên học cơ bản, từ trong đó lựa chọn ra những y giả trẻ tuổi xuất sắc, y đức cao thượng, học giỏi ta sẽ tự tay thu nhận bọn họ làm đồ đệ, truyền thụ thần kỹ cho bọn họ".

"Tốt. Cứ tiến hành từng bước một có chất lượng mới có thể vững chắc. Rất tốt, ngày mai ta sẽ hạ thánh chỉ phong ngươi làm Đề Cử Thái y cục".

"Cám ơn Thao Thao" Đỗ Văn Hạo hôn nàng nói: "Nhưng mà Thái y cục chỉ truyền dạy những kiến thức liên quan, còn những dược phẩm, thiết bị có liên quan phải mua ở Ngũ Vị đường của ta. Đây không thể là cống hiến miễn phí. Hì hì hì".

"Đó là đương nhiên. Hẳn cũng không nên để ngươi vất vả kiếm tiền".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Không phải ta vì tiền. Lương tháng của quan nhị phẩm Đô Kiểm Điểm cũng đủ cho người nhà ta. Ta chỉ muốn lập nên ý thức về nhãn hiệu, tương lai sẽ thành lập chế định bảo vệ bản quyền tri thức".

"Nhãn hiệu? Bản quyền tri thức?" Đương nhiên Cao Thao Thao chưa từng nghe qua những thuật ngữ hiện đại nanỳ nên nàng nghi ngờ hỏi.

"Giống như là phát kiến ra một cái gì đó tốt. Tất cả mọi người đổ xô tới mua. Thứ tốt đó chỉ do nàng làm, những người khác không được. Ví dụ như nàng vẽ một bức tranh, trên bức tranh đó có một vòng tròn. Bên trong vòng tròn ghi: Ngũ Vị đường. Bức tranh đó được dán trên vật nàng làm ra. Thứ này gọi là nhãn hiệu. Người khác nhìn thấy nhãn hiệu này thì biết đó là do Ngũ Vị đường làm ra, biết tên của cửa hiệu, sẽ không mua phải hàng giả mạo của người khác làm ra".

"Nếu như người khác cũng bắt chước dán cái nhãn gì đó lên thì phải làm thế nào?"

"Chỉ cần nàng ban một đạo thánh chỉ nói rõ Ngũ Vị đường của ta sản xuất vật này. Ai dám giả mạo nhãn hiệu Ngũ Vị đường của ta thì sẽ bị đánh bằng roi, phạt tiền, tống ngục, lưu đày vân vân. Người khác sẽ không dám giả mạo. Điều tốt của quy định này là có thể bảo vệ được sản phẩm tốt, cổ vũ sáng tạo khiến cho những người tài năng được hưởng lợi thực tế".

"Nghe ngươi nói ta cũng động tâm" Cao Thao Thao mỉm cười nói. "Điều này rất đơn giản. Ngày mai ta sẽ hạ một đạo thánh chỉ như vậy. Muốn viết nội dung gì ngươi cứ định ra, giao cho bọn họ. Ta cho bọn họ truyền đi".

 Chương 406: Việc vui trong nhà 

Đỗ Văn Hạo nói: "Hay. Hãy lấy Ngũ Vị đường của ta là chiêu bài thí điểm. Chờ sau khi thí điểm thành công, tích luỹ kinh nghiệm, từng bước mở rộng tới một số sản phẩm của các cửa hiệu lâu đời, cũng cần phải ban hành một số pháp lệnh bảo vệ. Sau này không cần phải ban thánh chỉ cho từng sản phẩm".

Cao Thao Thao nói: "Cái này ta không hiểu ngươi cứ quyết định là được. Muốn ta làm gì cứ nói, ta cho người làm cái đó. Bảo vệ danh dự của các cửa hiệu lâu đời, phòng ngừa thương nhân bất lương giả mạo. Ta tin tưởng biện pháp bảo vệ các cửa hiệu lâu đời của ngươi nhất định không phải là một chủ ý ôi thiu".

"Ha ha. Có phải là chủ ý ôi thiu hay không vẫn còn rất khó nói. Có một vĩ nhân nói: Thực tế chính là tiêu chẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý. Ai nói cũng không tính, thực hiện tốt mới tính".

"Vĩ nhân này nói không sai" Tuy Cao Thao Thao không hiểu lắm lời của Đỗ Văn Hạo nhưng đại khái cũng hiểu một chút. Nàng cười hì hì nhìn hắn, thầm nghĩ câu nói này không phải là của cái gọi là vĩ nhân gì đó nếu không tại sao mình chưa bao giờ nghe nói. Nhất định lại là do Đỗ Văn Hạo bịa ra nhưng cũng không hỏi.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Ta muốn toàn lực ứng phó chỉnh đốn quân đội. Thái y cục nhất định phải có một người tín nhiệm, có nghiệp vụ giúp ta mới được".

"Vậy được! Ta phong cho đồ đệ của người là Tiền Bất Thu làm Cục phán Thái y cục để hắn giúp ngươi.

Đúng rồi, không phải còn có bà đỡ cùng nữ quan giáo học. Ta phong cho phu nhân và tiểu thiếp của ngươi trước kia làm bà đỡ phủ Khai Phong làm y quan, thế nào?"

"Hay!" Đỗ Văn Hạo mừng rỡ, hắn hôn nàng nói: "Thao Thao, nàng thật tốt. Ta thay Vũ Cầm và Phi Nhi cám ơn nàng".

"Cám ơn cái gì? Suy nghĩ của ngươi cũng chính là suy nghĩ của ta".

"Vậy coi như là chúng ta tâm linh tương thông".

Thái Hoàng Thái Hậu cười to nói: "Còn gì khác nữa không?"

"Còn nữa" Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Muốn học phẫu thuật chữa bệnh nhất định phải tiến hành giải phẫu thi thể vì vậy ta muốn thỉnh nàng hạ một đạo thánh chỉ yêu cầu các địa phương sau này xử tử phạm nhân không được phép cho người lãnh thi thể cũng với các trường hợp tử vong vì thiên tai cũng không cho người lãnh về. Tất cả các thi thể phải dùng khối băng niêm phong cất vào kho sau đó cấp cho Thái y cục, ta muốn dùng để giải phẫu dạy học. Sau khi thi thể sử dụng xong chúng ta sẽ tiến hành hoả táng".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Điều này không có vấn đề gì. Dù sao những thi thể không có người nhận cũng đều hoả thiêu hay là chôn lung tung ở các nghĩa địa. Nay các ngươi dùng để dạy học y thuật, học xong hãy cứu càng nhiều người càng tốt. Đây là chuyện tốt. Ngày mai ta sẽ hạ chỉ thông báo các nơi. Còn chuyện gì khác không?"

"Đúng vậy. Có khả năng công tác điều tra của ta có liên quan đến tam tỉnh lục bộ cùng các bên liên quan khác. Ta cần bọn họ phối hợp cung cấp các tư liệu".

"Ta hiểu. Ta lập tức ghi cho ngươi một đạo thủ dụ, lệnh cho cả triều đình cùng nha môn các địa phương đều phải nghe lệnh của ngươi, thuận tiện cho việc điều tra của ngươi. Thế nào?"

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Vậy thì tốt quá".

Cao Thao Thao gọi Tiêu công công tới, mang giấy bút. Nàng cầm bút viết một đạo thủ dụ, đóng đại ấn, đưa cho Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo vui mừng phấn khởi, hai tay cung kính nhận lấy, cẩn thận cất vào trong người rồi cáo từ ra về.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo ngồi kiệu ra tới cửa cung Khôn Ninh. Một trong hai nội thị gác cổng tiến lên trước, khom người nói: "Đại tướng quân, chuyện dạy học cho Hoàng Thượng thì nên làm thế nào bây giờ?"

"Ha ha. Ngươi hỏi ta ta hỏi ai bây giờ?" Tâm tình Đỗ Văn Hạo rất tốt nên tuỳ tiện vui đùa nhưng khi nhìn thấy vẻ thắc thỏm lo âu của viên nội thị hắn mới ý thức được rằng bây giờ bản thân mình không còn là một Ngự y nho nhỏ mà đường đường là quan nhị phẩm Tể chấp, tam nha Đô Kiểm Điểm. Bất kỳ lời nói giỡn nào cũng khiến người khác tin là thật. Nụ cười vụt tắt, hắn nói tiếp: "Ngươi nên đi tìm người phụ trách việc dạy học cho Hoàng Thượng đi. Ngươi tìm ta, ta thực sự không biết".

Viên nội thị vội vàng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu đã có dặn dò việc dạy học cho Hoàng Thượng do ngài phụ trách".

"Ta?" Đỗ Văn Hạo ngẩn người: "Vừa rồi ta ở chỗ Thái Hoàng Thái Hậu ra, người không nói với ta chuyện này".

"Điều này đúng là do Thái Hoàng Thái Hậu nói. Tiểu nhân cũng không dám giả truyền thánh chỉ. Ban chiều khi Hoàng Thượng đi gặp Thái Hoàng Thái Hậu bẩm báo về chuyện dạy học, Thái Hoàng Thái Hậu đã nói vậy".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ: Lúc trước chỉ nói chuyện thất bại chiến trận giữa Đại Tống cùng Tây Hạ và Đại Liêu, Cao Thao Thao rất phẫn nộ, trong cơn tức giận của mình chỉ e nàng đã quên chuyện này nên hắn nói tiếp: "Nếu là chỉ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu, đương nhiên phải tuân theo. Hoàng Thượng phải học những gì?"

"Tứ thư ngũ kinh và các loại nghi lễ cung đình".

"A. Bây giờ đã muộn rồi. Hãy để ngày mai hẵng tính. Sáng mai bản tướng quân đi gặp Hoàng Thượng, mời hai vị thầy dạy khác của Hoàng Thượng cùng thương nghị".

Người nội thị kia vội nói: "Đại tướng quân, chỉ e sáng mai không được".

"Vì sao?"

"Sáng mai ngài phải thảo luận chính sự ở Chính sự đường. Đây là công văn của nha môn Tể tướng gửi cho ngài" Nói xong hai tay viên nội thị cầm công văn, khom người đưa cho Đỗ Văn Hạo.

"Ồ?" Đỗ Văn Hạo nhận lấy, mở ra lấy ra một tờ giấy, mở xem thì ra đó là một giấy thông báo hội họp, thông báo cho hắn sáng sớm ngày mai, giờ thìn tới nha môn Tể tướng thương nghị sự vụ quân chính.

Lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo nhận được thông báo hội họp nên trong lòng rất cao hứng. Sáng sớm ngày mai là lần đầu tiên hắn tham gia thương nghị sự vụ quân chính, thực hiện chức năng Tể chấp của mình, trong lòng niềm vui không khỏi nhân lên. "Sáng mai phải họp thương nghị việc quân chính. Điều này không thể chậm trễ. Vậy hãy để chiều ngày mai, hay tối ngày mai, thế nào?"

Viên nội thị cười nói: "Đại tướng quân, chỉ sợ là không chờ đợi được. Nghe nói trước kia Hoàng Thượng còn là Hoàng tử rất lười biếng, không chịu học hành, đi ra ngoài chơi lâu mới quay về, Thái Hoàng Thái Hậu biết được, dùng thước đánh vào lòng bàn tay Hoàng Thượng vì vậy Hoàng Thượng bây giờ sợ chậm trễ việc học nên mới cho tiểu nhân mời Đại tướng quân tới thương nghị chuyện học sau này".

"Chẳng phải những thầy dạy của Hoàng Thượng đã định rồi sao? Không được, lúc sáng sớm, hai sư bảo Lục Điền cùng Thái Các đã bị bãi thay mới. Mặc dù đã chọn hai người sư bảo Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du nhưng vẫn còn chưa thương nghị phân công nên không thể dạy học được".

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút rồi nói: "Bây giờ trời cũng đã muộn. Lúc này mời nhị vị đại nhân tới thương nghị cũng không tiện. Ừ. Như này đi, ngươi hãy quay về bẩm báo Hoàng Thượng, thỉnh Hoàng Thượng sáng mai cứ xem lại những bài học ngày trước. Chiều mai ta muốn khảo sát xem Hoàng Thượng lúc trước học thế nào. Đợi ngày mai sau khi ta tìm nhị vị đại nhân thương nghị, xác định lại công việc đảm nhiệm dạy học".

Viên nộ tị vội vàng khom người trả lời.

Đỗ Văn Hạo thưởng cho hai viên nội thị một ít bạc vụn. Hai viên nội thị vui mừng, suý chút nữa quỳ xuống dập đầu tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo vui mừng phấn chấn mới ngồi kiệu rời khỏi Hoàng cung, quay trở về Ngũ vị đường.

Hôm nay đã xảy ra nhiều chuyện. Đỗ Văn Hạo vẫn chưa kịp thích ứng nên hắn cười khúch khi đi vào nhà. Anh Tử hiếu kỳ hỏi: "Thiếu gia, nhìn người phấn chấn như vậy, hẳn là có chuyện tốt?"

"Đương nhiên là có chuyện tốt. Chuyện rất tốt. Ha ha ha. Mau đi mời phu nhân và các vị nãi nãi, Trầm sư gia, Kha cô nương, Tiền Bất Thu, Diêm Diệu Thủ, Khờ Đầu tới chánh đường. Thiếu gia ta có việc muốn công bố".

"Vừa hay phu nhân cũng có chuyện muốn nói với người".

"Thật vậy sao? Có chuyện gì vậy?'

"Nô tỳ cũng không dám mau miệng. Đợi lát nữa phu nhân sẽ cho thiếu gia biết. Hì hì".

"Ngươi tiểu nha đầu này. Dám nói dối với ta. Xem ta trị ngươi thế nào" Nói xong Đỗ Văn Hạo thò tay muốn ôm Anh Tử. Anh Tử cong người né tránh, cười hì hì chạy đi.

Bốn phu nhân của Đỗ Văn Hạo, Kha Nghiêu cùng mấy người Trầm sư gia, Tiền Bất Thu nhanh chóng đi vào đại sảnh. Sau khi mọi người ngồi xuống nhìn thấy sắc thái phấn chấn của Đỗ Văn Hạo thì rất hiếu kỳ.

Đỗ Văn Hạo ho nhẹ một tiếng rồi nói: "Mọi người, sáng hôm nay bản tướng quân lại thăng quan. Ha ha. Thái Hoàng Thái Hậu ân điển thăng ta làm tam nha Đô Kiểm Điểm, hàm nhị phẩm, còn đặc biệt xếp ta vào Tể chấp tham gia xử lý sự vụ quốc gia. Ha ha ha".

Mọi người kinh ngạc, vui mừng khi nghe tin này. Lúc trước Đỗ Văn Hạo đã là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, tòng nhị phẩm. Bây giờ thăng lên chính nhị phẩm Đô Kiểm Điểm. Nhưng điều nay không thực sự làm mọi người kinh ngạc vui mừng. Điều làm bọn họ kinh ngạc chính là Đỗ Văn Hạo được tham gia Tể chấp. Nếu trong xã hội hiện đại thì tương đương với thường uỷ viên bộ chính trị, thuộc về một tập đoàn lãnh đạo cao nhất của đất nước nên ai nấy đều đứng dậy chúc mừng.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui như hoa nở nhưng hắn không thể biểu lộ sự đắc ý quá mức trên gương mặt mình. Hắn chỉ mỉm cười chắp tay đáp lễ: "Đều là ân điển của Thái Hoàng Thái Hậu, ta xấu hổ không dám nhận".

Kha Nghiêu cười hì hì nói: "Ca ca. Ca lại khiêm tốn rồi. Chức vị này nên sớm để người ngồi. Ca tham gia vào Tể chấp cũng hoàn toàn đủ tư cách".

Đỗ Văn Hạo vội vàng khoát tay nói: "Quá khen, quá khen! Ngoại trừ việc đảm nhiệm Tể chấp, Thái Hoàng Thái Hậu còn muốn ta kiêm nhiệm Đề Cử Thái y cục, phụ trách công việc của Thái y cục" Đỗ Văn Hạo quay đầu nói với Tiền Bất Thu: "Bất Thu, Thái Hoàng Thái Hậu đã nói muốn phong ngươi làm Cục phán Thái y cục (phó cục trưởng) để ngươi giúp đỡ ta trong việc cải tiến chế độ dạy y thuật của Thái y cục. Ngươi có hứng thú không?"

Tiền Bất Thu cười khom người nói: "Đương nhiên là có hứng thú. Sư phụ có rất nhiều thần kỹ. Trên đường tuần y đã dạy không ít người. Nếu có thể duy trì lâu dài hệ thống truyền thụ của Thái y cục thì sẽ rất tốt. Lão hủ nhất định sẽ dốc sức phụ tá sư phụ, làm tốt công việc của Thái y cục".

"À, đúng rồi. Cầm nhi, Phi nhi. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói muốn phong hai người là y quan Thái y cục, chuyên phụ trách giảng dạy môn nữ khoa. Hai người có nguyện ý không?"

Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi vui mừng phấn chấn, cả hai liếc nhìn nhau đứng dậy, đáp lễ. Bàng Vũ Cầm nói: "Tướng công, chúng thiếp nguyện ý, nhất định sẽ trợ giúp tướng công dạy tốt môn nữ khoa".

"Ừ. Trách nhiệm cải cách chế độ học tập của Thái y cục ta nhờ cả vào mấy người. Thật ra chỉ cần thực hiện theo chương trình chúng ta thực hiện trên đường tuần y là được. Đúng rồi. Thái Hoàng Thái Hậu còn đồng ý sau này những người chết đói, xử trảm không được để người nhà lãnh về. Toàn bộ thi thể đưa tới Thái y cục, dùng vào việc tiến hành giải phẫu thi thể dạy học. Ba người cũng đã học được nhiều kiến thức về giải phẫu, nhất định có thể đảm đương được".

Kha Nghiêu nói: "Vậy Ngũ Vị đường do ai cai quản?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đừng có gấp. Hãy nghe ta sắp xếp. Ta trở thành Tể chấp. Bất Thu, Cầm nhi, Phi nhi cùng tới Thái y cục chỉ e không còn thời gian cai quản Ngũ Vị đường. Sau này Ngũ Vị đường giao cho hai người Khờ Đầu quản lý. Những năm qua Diêm Diệu Thủ đi theo ta, y thuật cũng tiến rất xa, đặc biệt là trong việc chữa trị vết thương lở loét cùng xương cốt, hoàn toàn có thể đảm nhiệm, nội khoa hắn cũng có nhiều tiến bộ. Trong năm qua y thuật của Khờ Đầu cũng tiến bộ không ngừng. Hai người các ngươi phụ trách Ngũ Vị đường nhất định không có vấn đề gì. Nếu gặp các chứng bệnh phức tạp hãy để sư phụ các ngươi xử lý. Ngũ Vị đường chính là chiêu bài của chúng ta. Nhất định phải trông nom cẩn thận".

Diêm Diệu Thủ cùng Khờ Đầu vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ nhận lời.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Sau này thuốc mê, thuốc nước trừ độc, dụng cụ giải phẫu ngoại khoa sử dụng trong ngoại khoa của cả nước. Tất cả đều phải nhập hàng của chúng ta. Thái Hoàng Thái Hậu đã đồng ý ban thánh chỉ bảo vệ tên cửa hiệu Ngũ Vị đường của chúng ta, không để cho người khác làm giả mạo xâm hại. Sau này Ngũ Vị đường không chỉ là một dược đường mà còn là một công ty y dược. Tất cả các công việc sản xuất thuốc cùng khí tài và việc tiêu thụ sản phẩm đều do Thanh Đại phụ trách. Kha Nghiêu, muội theo trợ giúp, được không?"

Lâm Thanh Đại cùng Kha Nghiêu liếc nhìn nhau, rồi cùng mỉm cười gật đầu đồng ý.

Lâm Thanh Đại hỏi: "Vậy chúng ta có nên mua lại nhà cửa để chuyên dùng sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ không?'

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Không cần. Sản xuất ở ngay đây".

Lâm Thanh Đại nói vẻ khó xử: "Nhà của chúng ta cũng không nhỏ. Nhưng nếu chúng ta sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ ở ngay chỗ này, cũng rất phiền toái. Đương nhiên nếu như cả trang viện này để làm nơi sản xuất cũng đủ. Nhưng chúng ta phải chuyển chỗ ở".

"Đúng, chúng ta sẽ chuyển đi. Nơi này chỉ để làm nơi chữa bệnh cùng sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ".

Mọi người kinh ngạc khi nghe nói vậy. Kha Nghiêu nhanh mồm nhanh miệng hỏi: "Ca, chúng ta chuyển đi đâu? Lại mua nhà mới sao? Nói trước muội không muốn tới ngôi quỷ trạch đó đâu".

"Ai bảo muội tới quỷ trạch?" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Chúng ta có chỗ rồi. Thái Hoàng Thái Hậu ân điển nói trước đây ta có chút công lao nên thưởng công tặng cho ta một toà phủ đệ mới. Toà phủ đệ đó ở ngay sau Hoàng cung, bên cạnh Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ Tể tướng của quan Tể tướng Vương Giai. Toà phủ đệ này tu sửa cũng sắp xong, ta nghe nói cũng không tệ lắm. Thái Hoàng Thái Hậu nói chúng ta hãy bớt chút thời gian đi xem qua một chút, có chỗ nào không vừa mắt thì cho tu sửa lại để sau này được như ý muốn".

Lập tức chúng nữ vui mừng tung tăng như chim sẻ. Nữ nhân chính là vậy. Việc chuyển nhà mới luôn luôn háo hức như vậy.

Kha Nghiêu hỏi Trầm sư gia: "Ai! Sư gia, ngươi có biết toà phủ đệ này không?"

Trầm sư gia vuốt chòm râu bạc cười nói: "Tất nhiên biết. Toà phủ đệ này trước kia là tân Vương phủ của Ung Vương gia, nghe nói sắp sửa xong, không ngờ bây giờ lại tặng tướng quân".

Kha Nghiêu nói: "Toà phủ đệ này có lớn không? So với trang viện Ngũ Vị đường này của chúng ta thì thế nào?"

"Ha ha. Không thể so sánh như vậy được. Muội hãy nghĩ xem. Con phố ngay sau Hoàng cung, một nửa là phủ đệ. Hơn nữa hai bên là Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Vương Tể tướng. Nói cách khác phủ đệ này của Đại tướng quân, lớn hơn nhiều so với phủ của Vương Tể tướng và Thiên Ba phủ của Dương gia. Nhưng ta vẫn chưa vào trong nên không biết bên trong như thế nào".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Kha Nghiêu, đừng nóng vội. Sáng sớm mai, muội và các tẩu tử đi xem qua một chút không phải sẽ biết sao? Thôi được, chuyện của ta đã nói xong. Đúng rồi, Vũ Cầm, lúc nãy Anh Tử nói nàng có chuyện muốn nói với ta. Ha ha. Gần đây nhà chúng ta liên tiếp có chuyện vui. Chuyện gì vậy?"

Bàng Vũ Cầm mỉm cười nói: "Lúc chiều, phu nhân của Vương Tể tướng tới nói hôm nay quốc tang đã kết thúc. Lệnh cấm tiệc rượu, cấm yến tiệc kết hôn đã kết thúc vì vậy cũng nên thảo luận chuyện hôn nhân. Thiếp cảm thấy cũng đúng. Hai người thiếp đã tra xét Hoàng lịch rồi thống nhất vào đầu tháng sáu. Tướng công thấy thế nào?"

Nghe nói tới chuyện này, mặt Đỗ Văn Hạo nóng lên, liếc trộm mấy phu nhân của mình, thấy mấy nàng nhìn mình cười mà như không phải cười, càng cảm thấy ngượng ngùng khó xử, hắn ngượng ngùng nói: "Chuyện này cứ do phu nhân làm chủ là được".

"Vậy cứ quyết định vào đầu tháng sáu. Hôn lễ nghênh đón tân nương xuất giá bái thiên địa".

"Ừ" Đỗ Văn Hạo lại nhớ tới dung nhan tuyệt thế của Vương Nhuận Tuyết, trong lòng hắn không khỏi nhảy loạn lên. Đặc biệt mùi thơm kín đáo trên cơ thể nàng. Mới nghĩ tới đó dục hoả đã bốc lên, không thể kiềm chế. Quả thực làm hại cái mạng già này.

Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu. Bây giờ không phải là lúc nghĩ tới chuyện nhi nữ thường tình, có rất nhiều chuyện cần hắn xử lý. Hắn nhìn Lâm Thanh Đại mỉm cười nói: "Thanh Đại, còn có một việc phiền nàng".

Lâm Thanh Đại cười nói: "Chuyện tốt có thể làm. Chuyện xấu xin miễn".

Tất cả mọi người cùng cười. Đỗ Văn Hạo nói: "Không phải chuyện tốt, cũng không phải chuyện xấu mà là chuyện khổ sai".

"Khổ sai? Được, ta không sợ khổ".

"Vậy là được. Hãy dạy ta luyện kiếm".

Lâm Thanh Đại ngạc nhiên nói: "Luyện Kiếm sao? Chàng là Đại tướng quân toạ trấn trướng trung quân. Trù tính việc quân trong trướng, không cần phải anh dũng xông lên giết địch. Luyện kiếm làm gì?"

Kha Nghiêu ở bên cũng che miệng nói: "Đương nhiên là để phòng thân. Không đúng. Ca, ca có đội thân binh bảo vệ. Ca còn đề phòng cái gì?"

"Phòng muội" Đỗ Văn Hạo trêu chọc nàng: "Phòng muội cắn ta. Ha ha ha".

"Hay lắm. Ca dám mắng muội là con chó nhỏ. Được, hãy chờ coi!"

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Ta thân là tam nha Đô Kiểm Điểm, tam nha quản lý và huấn luyện quân đội. Ta là Đại tướng quân, là Đại tướng quân thao luyện binh sĩ, không phải là lãnh binh đánh trận. Ta đi huấn luyện binh sĩ. Trong lúc nhàn dỗi, mọi người muốn ta thể hiện bản lãnh. Ta lại chỉ biết Phân thân thác cốt thủ, cũng không thể thi triển mấy cái đó được. Vậy mất mặt lắm. Ta phải luyện mấy bộ kiếm pháp mới có uy phong".

Lâm Thanh Đại cười nói: "Vậy được. Chàng muốn học, thiếp dạy cho chàng. Nhưng mà các tướng sĩ của chàng rất có khả năng bộc lộ một chút công phu cưỡi ngựa bắn tên của Đại tướng quân. Chàng nhất định phải luyện tập cái đó mới được".

"Được. Vậy nàng cứ dạy ta là được".

"Thiếp không am hiểu lắm về công phu mã đao. Chàng phải tìm sư phụ khác".

"Vậy thôi cứ tạm bỏ qua cái đó đã. Trước tiên cứ luyện kiếm. Mỗi sáng chàng luyện công nhớ gọi thiếp".

"Được".

Kha nghiêu lại nói xen vào: "Ca, ca thân là Đại tướng quân, có biết binh pháp không? Tại sao không tìm lão sư giúp chàng binh pháp?"

Đỗ Văn Hạo đã sớm nghĩ tới vấn đề này nhưng chuyện binh pháp này không phải ngày một ngày hai có thể học được. Không học cũng không được, hắn cũng đang buồn bực vì điều này. Đương nhiên không thể để lộ trước mặt Kha Nghiêu nên nói: "Điều này ta đã có sắp xếp ổn thoả. Mọi chuyện đã nói xong. Mời Trầm sư gia ở lại. Tất cả những người khác lui ra".

Tất cả mọi người đều lui ra ngoài. Kha Nghiêu là người đi sau cùng, nàng khép cửa đại sảnh lại.

Đỗ Văn Hạo lấy từ trong người thông báo của nha môn Tể tướng đưa cho Trầm sư gia nói: "Sư gia, ngươi hãy xem giúp ta đây là cái gì".

Trước đây Trầm sư gia đã phụ tá cho hai Tể tướng. Đương nhiên không còn lạ lẫm với công giản này. Ông ta nhìn lướt qua rồi khom người, chắp tay nói: "Tướng quân. Đây là công giản thương nghị sự vụ quân chính của nha môn Tể tướng".

"Ta hiểu. Ý của ta là mỗi lần thương nghị đều phát đồ chơi này sao?"

 Chương 407: Chính sự đường thảo luận chính sự 

Trầm sư gia nói: "Cũng không phải vậy. Thương nghị quân chính của Tể chấp là đại sự. Đúng hạn là họp. Bình thường cứ mười ngày họp một lần. Cứ mỗi tháng hội nghị thường kỳ của Tể chấp vào mùng mười, hai mươi và ngày ba mươi.

Mỗi khi có công việc đặc biệt phải xử lý liền thì lập tức triệu tập hội nghị. Khi đó sẽ do Tể tướng triệu tập, phát ra thông báo hội nghị như này. Có lẽ thời gian trước đây do bận rộn lo việc tang ma cùng với việc người kế vị ngôi vị Hoàng Đế nên còn đọng lại rất nhiều chuyện cần phải xử lý vì vậy phải khẩn cấp giải quyết".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ồ, còn lâm triều? Khi nào thì lâm triều?'

"Lâm triều thì vào ngày năm. Ngày mùng năm, mười lăm và hai mươi lăm mỗi tháng ba lần. Khi khẩn cấp có chuyện quan trọng cần thương nghị cũng có thể mở bất kỳ lúc nào. Trước khi mở cũng cần phải có công văn thông báo".

"Tể chấp chủ trị nghị sự những vấn đề gì? Ta biết chắc chắn đều là những đại sự quân chính. Ngươi có kinh nghiệm phong phú, hãy giúp ta dự đoán ngày mai thảo luận chính sự, có khả năng thương lượng những điều gì để ta chuẩn bị trước một chút".

"Ừm. Điều này cũng rất khó nói. Bình thường khi Tể chấp thương nghị chuyện chính sự tất cả đều do nha môn Tể tướng quyết định những hạng mục công việc quan trọng cần thương nghị, nghe qua tình hình xử lý một số chuyện đại sự được phân công xử lý. Bây giờ Hoàng Đế mới đăng cơ. Thái Hoàng Thái Hậu nghe báo cáo và quyết định sự việc. Có thể bước tiếp theo là sẽ nghe các báo cáo toàn diện của các vấn đề, hiểu rõ tình hình cơ bản của tất cả các phương diện, có khả năng sẽ sắp đặt giải quyết những chuyện đó".

"Thái Hoàng Thái Hậu có tham gia hội nghị Tể chấp thảo luận chính sự không?"

"Hình như là không tham gia. Đây là chuyện của Tể chấp. Sau khi Tể chấp thương nghị xong phải bẩm báo lên Hoàng Thượng ân chuẩn. Bây giờ là Thái Hoàng Thái Hậu thẩm định. Nếu như Thái Hoàng Thái Hậu có điều gì không hiểu rõ, hoặc là có ý chỉ khác thì sẽ triệu tập Tể chấp tới điện Văn Đức để hỏi rõ".

"Đã hiểu" Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát rồi hắn khẽ nói: "Trầm tiên sinh, ngươi là trợ thủ đắc lực nhất của ta. Lần này có thể thuận lợi đoạt lại binh quyền từ tay hai người Ung Vương gia và Vi Ngạn, tránh khỏi một cuộc chính biến cung đình đổ máu, ngươi đã giúp ta rất nhiều chủ ý quan trọng, công lao rất lớn".

Trầm sư gia hạ thấp người thi lễ nói: "Tướng quân quá khiêm nhường. Tướng quân thiếu niên xuất anh hùng, tiền đồ xán lạn vô hạn, có thể được phụ tá tướng quân đó chính là vinh hạnh của lão hủ".

"Ha ha. Thực không dám dấu diếm. Thái Hoàng Thái Hậu giao cho ta một nhiệm vụ gian khổ bậc nhất. Đó là ta phải chỉnh đốn lại quân đội Đại Tống sau đó phải tổ chức quân đội Đại Tống thành một đội quân sức mạnh vô địch" Sau đó giọng nói của Đỗ Văn Hạo nhỏ dần: "Thái Hoàng Thái Hậu rất phẫn nộ đối với việc hàng năm Đại Tống chúng ta phải tiến cống Tây Hạ và Đại Liêu. Trong tương lai chúng ta sẽ dụng binh giải quyết vấn đề này".

Trầm sư gia mỉm cười nói: "Thái Hoàng Thái Hậu chính là nữ lưu anh hùng".

Đỗ Văn Hạo sửng sốt nói: "Nghe tiên sinh nói những lời này, tiên sinh có ý kiến với kế hoạch của Thái Hoàng Thái Hậu sao?"

"Không dám. Nhưng mà tân Đế mới đăng cơ, tất cả đều hả lòng hả dạ. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, rất dễ hiểu việc có ý định sửa trị quân đội này. Nhưng vấn đề là cố tật của quân đội Đại Tống rất nghiêm trọng, không thể dễ dàng giải quyết".

"Đúng vậy. Vì thế ta mới lãnh giáo tiên sinh. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu để cho ta đề xuất phương án cải cách, chỉnh đốn quân đội nhưng phải bẩm báo người thẩm duyệt, đồng ý mới tiến hành cải cách một cách dứt khoát".

Trầm sư gia vuốt chòm râu trắng. Ông ta cúi đầu, tỏ vẻ nhũn nhặn, trầm ngâm một lát mới nói: "Tướng quân có tính toán gì không?"

"Trên đường quay về ta một mực suy nghĩ. Trong ngàn đầu vạn mối nên bắt đầu từ chỗ nào. Suy nghĩ cơ bản là trước tiên phải nắm bắt được tình huống. Chỉ có hiểu được tình hình thực tế mới có thể đề ra phương án thích hợp nhất. Làm việc phải có mục đích rõ ràng. Lúc trước ta ở trong kho tư liệu tam nha chủ yếu đã tìm đọc tình hình chiến sự giữa Đại Tống và Tây Hạ cùng Đại Liêu. Ta muốn dùng lịch sử thê thảm đau đớn để thức tỉnh Thái Hoàng Thái Hậu bừng tỉnh, để người chính thức biết được những văn nhân luôn ca ngợi công đức triều đình chính là chính là tai hoạ của đất nước. Tiền tiến cống hàng năm cho Tây Hạ và Đại Liêu cũng không phải là tặng phẩm mà chính là đi cống, dngf tiền mua hoà bình, làm người hiểu quân đội Đại Tống chúng ta đã rơi xuống mức không thể chịu nổi một trận chiến. Vấn đề chỉ là quân đội Đại Tống chúng ta đã yếu ớt tới mức độ nào, vấn đề cụ thể nào đang tồn tại ta vẫn chưa có một suy nghĩ cụ thể. Vì vậy ta muốn đi xuống dưới tìm hiểu một cách rõ ràng xem đội quân mà ta đang lãnh đạo rốt cuộc có sức chiến đấu hay không, rốt cuộc vấn đề gì đang tồn tại, có thể bảo vệ quốc gia hay không?"

Trầm sư gia lộ vẻ xúc động, ông ta hạ thấp người thi lễ nói: "Thái độ này của tướng quân mới thực sự là thái độ chân chính một người cầm quân cần có. Con đường để binh cường, tiên đế cũng đã thử qua. Tướng quân nên suy xét cái được cái mất của biến pháp binh cường tiên đế đã uỷ thác Vương An Thạch thực hiện, tránh giẫm lên vết xe đổ, giảm việc phải đi đường vòng".

"Ừ. Ngươi nói rất đúng. Theo ngươi cái được cái mất là gì?"

Trầm sư gia cười nới: "Lão hủ chỉ là một hủ nho, cầm quân không phải sở trường của lão hủ nhưng mà tướng quân đã hỏi. Lão hủ có một số kiến giải vụng về, thỉnh tướng quân tham khảo. Kế sách binh cường của Vương An Thạch có mấy điểm: Thứ nhất: Cắt giảm nhũng binh, chỉnh biên cấm quân cùng Sương quân. Thứ hai là cải tiến chế tạo vũ khí. Thứ ba là huỷ bỏ chiến thuật canh giữ phòng thủ, phổ biến tương binh pháp cùng kết hợp với đội pháp, tăng mạnh quân số. Thứ ta là bảo vệ mã pháp. Thứ năm là bảo giáp pháp (chế độ biên chế hộ tịch ngày xưa để quản lý nhân dân theo nhiều tầng. Một số nhà hợp thành một giáp;một số giáp hợp thành một bảo; giáp có giáp trưởng; mỗi bảo có một bảo trưởng). Xin thứ cho lão hủ nói thẳng phép trị quân binh cường của Vương An Thạch cũng chẳng có gì tốt. Ông ta chỉ đơn giản nói ý nghĩa của biến pháp là: Luyện binh giáp, tích trừ tiền lương, tướng soái chỉ huy nghe lệnh triều đình. Suy nghĩ của ông ta ngoại trừ bảo giáp pháp có hơi mới mẻ còn lại chỉ là luận điệu cũ rích, mà bảo giáp pháp chứng minh là đã thất bại. Thái Hoàng Thái Hậu sẽ nhanh chóng bãi bỏ".

Đỗ Văn Hạo nói: "Đúng vậy. Lần trước ta theo tiên đế vi hành, cũng có rất nhiều xúc cảm với bảo giáp pháp. Quy định của pháp này về tội liên đới còn đáng sợ hơn rất nhiều so với tiền triều, khiến cho người người cảm thấy bất an. Dân chúng không được sống yên ổn. Mục đích chính của bảo giáp pháp chính là luyện dân binh. Một khi có chiến tranh có thể chuyển dân binh thành một đội dự bị chiến lược. Mục đích thì rất tốt nhưng vấn đề là binh lính là một công việc đặc thù, phải trải qua huấn luyện lâu dài mới có thể đảm nhiệm được. Phải trải qua huấn luyện trường kỳ nhiều năm mới có sức chiến đấu. Không phải biết múa đao, bắn tên dã là binh lính tinh nhuệ. Lão hủ không dám nói tâng bốc nhưng thực sự không mạnh hơn dân chúng bình thường bao nhiêu".

"Trên thực tế giáp binh bảo giáp của hầu hết các địa phương trong cả nước đều không tiến hành huấn luyện quân sự mà bị quan phủ địa phương xử dụng làm sai dịch miễn phí, đi ngược với dự tính ban đầu. Thật ra bốn hạng mục biến pháp của Vương An Thạch đều nhằm mục đích loại bỏ ung tật, lính yếu kém của quân đội. Tất cả các biện pháp đều nhằm vào điều này, hiệu quả cũng tạm được. Điều này chỉ cần theo dõi hai đại chiến với Tây Hạ là biết được".

Đỗ Văn Hạo nói: "Theo như tiên sinh nói. Kế sách cường quân của tiên đế đã nắm được vấn đề mấu chốt. Vì sao không hiệu quả?'

Trầm sư gia áy náy nói: "Tướng quân. Nói thật lão hủ không có quá nhiều ý kiến về phương pháp trị quân. Ba hoa chích choè, xa rời thực tế chỉ là nói dối tướng quân. Xin thỉnh tướng quân xuống bên dưới điều tra như vậy mới tìm được câu trả lời có sức thuyết phục, cũng có thể rìm ra biện pháp chính thức giải quýêt vấn đề".

"Được! Trước tiên không được bàn luận theo cảm xúc. Trước tiên phải điều tra hiểu rõ. Mao chủ tịch. Khụ khụ. Một vĩ nhân đã nói: Không điều tra sẽ không có quyền lên tiếng. Ngày mai bắt đầu tiến hành điều tra. Trước tiên bắt tay vào điều tra Nhung Vệ cấm quân ở kinh thành. Cải cách quân đội là một công trình theo hệ thống, liên quan tới nhiều mặt, muốn hiểu rõ tình hình tổng thể các vấn đề của đất nước, phải suy xét thông suốt mới được. Ta đã có thánh chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả các nha môn phải tận lực phối hợp điều tra với ta. Trầm sư gia, ngươi rất thân thuộc các nha môn của triều đình. Công việc thu thập các tư liệu của các vấn đề giao cho ngươi. Ta sẽ tới điều tra tình hình trong nội bộ quân đội. Chúng ta một trong một ngoài chia nhau tiến hành. Ý tiên sinh thế nào?"

Sửo trường của Trầm sư gia là tiếp xúc với các nha môn, tất nhiên sẽ không có vấn đề gì, huống chi còn có thủ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu. Ông ta lập tức đồng ý rời nhận thủ dụ, cáo từ.

Đêm đó là Liên nhi hầu hạ. Đỗ Văn Hạo ở trong nội cung mấy ngày liền. Mặc dù có Thái Hoàng Thái Hậu vuốt ve an ủi cho qua cơn nghiện nhưng cuối cùng vẫn không có chuyện gì, hắn đã sớm "nhịn đối nhịn khát". Liên nhi lại là người một mực khôn khéo dịu dàng ngoan ngoãn, cực kỳ hiểu lòng người. Khi ở trong hậu cung nàng thuật trung phòng (cung nữ chuẩn bị để đề phòng Hoàng Thượng đột nhiên sủng hạnh, lại không biết ứng phó thế nào, khiến Hoàng Thượng khó chịu mà không được việc). Nàng đã hầu hạ Đỗ Văn Hạo liên tiếp mấy lần. Mây mù dày đặc không biết người nơi đâu cho tới lúc Đỗ Văn Hạo thoả mãn. Hai người mới ôm nhau ngủ.

Tờ mờ sáng ngày hôm sau, Liên nhi đã tỉnh giấc, Đỗ Văn Hạo ngủ gà ngủ gật, lầu bầu nói: "Liên nhi, làm gì vậy? Còn muốn hả? Đến đây nào" Nói xong hắn lại ôm thân thể mịn màng của Liên nhị, định tiếp tục lên ngựa.

"Lão gia, không phải" Liên nhi cười bắt tay hắn. Trong tất cả phu nhân của hắn chỉ có Liên nhi gọi Đỗ Văn Hạo là lão gia, mãi vẫn không đổi: "Lão gia, người đúng là quý nhân hay quên. Tối hôm qua còn nói muốn Thanh Đại tỷ dạy mình luyện kiếm. Anh Tử đang gọi người ở ngoài cửa đấy. Nhất định Thanh Đại tỷ đang đợi bên ngoài. Mau dậy đi".

Lúc nãy Đỗ Văn Hạo đang ngủ nên không nghe thấy, hắn vội vàng nói vọng ra ngoài: "Anh Tử, nãi nãi của các người đã dậy rồi sao?'

Anh Tử nói vẻ tức giận: "Từ sáng sớm. Thiếu gia, chờ người cả buổi rồi".

"Ai nha thực xin lỗi" Đỗ Văn Hạo lăn lông lốc bò dậy. "Mau vào giúp ta mặc quần áo".

Anh Tử nói: "Nô tỳ là nha hoàn của phu nhân, không phải là nha hoàn của phòng này. Theo quy định không thể vào trong".

"Phiền phức. Liên nhi không thể không có nha hoàn sao? Cái gì mà là quy củ. Mau vào đi. Ta vội lắm. À đúng rồi. Lần trước ta bảo Vũ Cầm mua mấy nha hoàn, lão mụ tử, nàng có mua không?"

"Phu nhân sợ sau này tân phu nhân không vừa ý với nha hoàn, lão mụ tử mua về. Dù sao người ta cũng là nữ nhi của quan Tể tướng vì thế trong lần thương nghị trước phu nhân có buột miệng hỏi Tể tướng phu nhân. Lão phu nhân cũng rất khách khí nói cho phu nhân chúng ta biết những hạ nhân làm việc vặt thì có thể mua, chỉ cần chịu khó nhưng nha hoàn thiếp thân thì có thể mang về, không nên mua phòng trường hợp không vừa ý. Tể tướng phu nhân nói đợi khi nữ nhi của mình xuất giá sẽ cho mấy nha hoàn thiếp thân làm của hồi môn dùng làm quà ra mắt phu nhân và mấy vị di nương nên phu nhân chỉ mua mấy người làm việc vặt, không mua bất kỳ nha hoàn cho phòng nào. Trong phòng vẫn còn đóng cửa, sao nô tỳ có thể vào?"

Anh Tử đẩy cửa từ bên ngoài. Cánh cửa bị cài then bên trong, Liên nhi vội vàng để thân thể loã lồ xuống giường chạy ra ngoài cởi then cài. Anh Tử cầm đèn lồng đi vào trong phòng, nàng đặt đèn lồng trên bàn, giúp Đỗ Văn Hạo mặc quần áo.

Anh Tử nói: "Thiếu gia của ta ơi, người tóc tai bù xù như vậy đi ra ngoài. Bên ngoài trời tối om như vậy nhất định sẽ hù doạ người khác. Hơn nữa để như vậy không tiện cho luyện võ. Thiếu gia hãy để nô tỳ búi tóc lại, chậm trễ cũng không sao".

Anh Tử sừng sộ kéo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống. Nàng cùng Liên nhi giúp hắn trải đầu. Trong tiếng giục giã của Đỗ Văn Hạo nàng vội vàng búi tóc: "Thôi tạm thời cứ như vậy. Sau khi luyện kiếm xong, nô tỳ sẽ giúp thiếu gia trải đầu lại".

Đỗ Văn Hạo vội vàng ra khỏi tiểu viện của Liên nhi. Anh Tử đứng ở bên ngoài nhìn thấy dáng vẻ của hắn cười hỏi: "Nhìn dáng vẻ lôi thôi của chàng này. Anh Tử hầu hạ chàng như vậy sao?"

"Không không. Không thể trách Anh Tử. Là ta dậy muộn, ta sợ nàng chờ lâu sốt ruột nên mới làm qua quýt như vậy" Dựa vào ánh sáng của chiếc đèn lồng treo ở cửa ra vào, Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trán Lâm Thanh Đại lấm tấm mồ hôi, hắn ngạc nhiên hỏi: "Chẳng lẽ nàng đã luyện rồi sao?"

"Ừ. Có luyện một lát. Bình thường canh bốn thiếp đã thức dậy luyện công".

"Ai! Nàng đều luỵên một canh giờ sao? Ta không thể dậy sớm như vậy".

"Chàng dậy sớm vậy làm gì? Đây là thói quen từ nhỏ của thiếp. Dù sao chàng cứchỉ luyện kiếm, không cần dậy sớm. Canh năm dậy là được rồi. Luyện nửa canh giờ. Rửa mặt. Đi vào triều".

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Sau này tới canh năm nàng cũng không cần tới gọi ta. Nàng cứ chờ ta ở rừng trúc hậu viện. Ta ngủ dậy sẽ tới đó".

"Được. Đi thôi".

Hai người đi tới rừng trúc hậu viện, Đỗ Văn Hạo bắt đầu được Lâm Thanh Đại truyền dạy kiếm pháp.

Lần trước Đỗ Văn Hạo đã học xong căn bản của Phân thân thác cốt thủ. Tố chất cơ thể hắn cũng tốt, lĩnh ngộ nhanh. Sau nửa canh giờ hắn đã có thể đại khái nuốt cả quả táo "nuốt cả quả táo; ăn tươi nuốt sống; nuốt chửng (ví với việc tiếp thu không có chọn lọc) " bộ kiếm pháp sau này sẽ từ từ luyện tập.

Sau khi Đỗ Văn Hạo quay về phòng, Anh Tử hầu hạ hắn rửa mặt, thay quan bào, ăn sáng. Anh Tử tiễn hắn rời khỏi trang viện. Khi ra tới cổng chính, đội thân binh đã đang đợi hắn ở đó.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn cỗ kiệu đặt ở ngay cửa ra vào, cau mày nói với đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường: "Bây giờ ta là võ tướng, không phải là quan văn, sẽ không ngồi kiệu, phải tập tư duy của võ tướng, phải làm từ việc nhỏ trở đi. Sau này ta xuất môn, không phải trường hợp đặc biệt tất cả đều chuẩn bị ngựa. Thay ngựa!"

"Dạ!" Hứa Văn Cường khom người trả lời. Hắn vội vàng phân công người đi chuẩn bị ngựa.

Chiến mã của Đỗ Văn Hạo được thắng yên cương nhanh chóng được đưa tới. Đỗ Văn Hạo liếc nhìn quan bào trên người, lại cảm thấy không tự nhiên. Quan bào là áo dài của quan văn, cưỡi ngựa rất khó nhưng mà bây giờ đổi quan phục không còn kịp. Hắn quay đầu nhìn Anh Tử nói: "Nhớ kỹ Thiếu gia ta sau này là Đại tướng quân phải mặc nhung trang, không mặc quan bào của quan văn".

Anh Tử vội vàng trả lời.

Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, giật cương, giục ngựa bước trên con đường lát đá xanh đi thẳng tới nha môn Tể tướng trong Hoàng cung, cũng là Trung thư tỉnh nha môn.

Mặc dù triều Tống có tam tỉnh (tam tỉnh là chế độ quan chế tam tỉnh. Bắt đầu vào triều Tuỳ, hoàn thiện vào đời Đường. Triều Tống tiếp tục sử dụng. Tam tỉnh là Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh, phân chia nhau khởi thảo chiếu thư, xét duyệt chiếu thư cùng chấp hành chính lệnh, có tác dụng phòng ngừa việc lộng quyền của một cá nhân ở một mức độ nào đó) nhưng không còn như tam tỉnh như triều Đường. Trung thư tỉnh nắm quyền lực tối cao, ở trong Hoàng cung. Môn hạ và Thượng thư tỉnh không còn quyền quyết định những vấn đề quan trọng, nha môn bị chuyển ra ngoài Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo và đội thân binh cận vệ dừng lại bên ngoài cửa nha môn Tể tướng. Sau khi hắn xuống ngựa, binh lính canh gác ngoài cửa lập tức chào hắn theo nghi thức quân đội.

Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu nhìn. Nha môn Tể tướng này quả thực cũng xoàngĩnh. Dù ngoài cửa trông cũng quyền thế nhưng quá cổ kính. Nước sơn trên cánh cửa đã bong từng mảng, trông không khác gì ngôi miếu Long vương.

Viên quan trực cung kính dẫn Đỗ Văn Hạo vào trong. Sau khi bước qua cổng, qua cửa Thuỳ hoa (một kiểu cửa trong kiến trúc nhà thời xưa, trên có mái, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ sơn màu) thì chính là một đại viện theo kiểu Tứ Hợp Viện. Ở chính giữa đại sảnh có treo một tấm biển, sơn đen chữ vàng: "Chính sự đường".

Xung quanh đại viện là hành lang. Hai bên là hai dãy phòng làm việc dài. Bên trong phòng tuy có rường cột chạm chổ (ví như nhà hoa lệ) nhưng đều rất cổ xưa. Nếu so với các thiết bị lắp đặt trong những ngôi nhà cao tầng tráng lệ của xã hội hiện đại thì quả thực khác nhau một trời một vực.

Ý một ý giải thích thì quan lại thời cổ đại là "Người đầy tớ của nhân dân". Ít nhất suy nghĩ này mạnh mẽ hơn so với thời hiện đại ở văn phòng làm việc. Thời cổ đại chú trọng "quan không tu sửa nha môn'. Thứ nhất không làm hao tổn tiền bạc cho những hạng mục này. Thứ hai là đặc điểm của tính lưu động xuất quan lại (quan lại ở kinh thành bị điều về các địa phương làm quan). Đặc biệt là các quan lại trung cao cấp, theo quy định ba năm chuyển đổi nhiệm vụ một lần. Nhưng trên thực tế còn ít hơn quy định này, chỉ một, hai năm đã thay đổi nhiệm sở, giống như đèn kéo quân vậy. Ngay khi tu sửa nha môn đẹp đẽ, chưa kịp ngồi hưởng thụ đã lại nhấc mông rời khỏi vì vậy không ai muốn bỏ tiền túi ra tu sửa để người khác ngồi hưởng.

Xuyên quan đại sảnh, bước lên bậc thềm chính là Chính sự đường. Hai tên lính đang canh gác cung kính chào theo nghi thức quân đội, vén màn trướng lên, Đỗ Văn Hạo bước vào nội đường.

Treo ở chính giữa đại đường là một bức tranh tiên hạc. Hai bên treo câu đối. Bên dưới, chính giữa đại đường có hai chiếc ghế làm bằng gỗ mun, phía trước là một chiếc bàn tứ phương cũng làm bằng gỗ mun.

Hai bên đại đường đều có bày ba chiếc ghế gỗ mun, cạnh ghế đều có bàn trà hình chữ nhật, cũng làm bằng gỗ mun.

Hai bên trái phải của cửa ra vào có đặt chéo một cái bàn dài cùng với hai chiếc ghế. Bên phải có hai người đang ngồi, trước mặt có giấy bút, nghiên mực, xem dáng vẻ chính là quan lại ghi chép nội dung cuộc họp. Bên kia để không, chắc là để dành cho người báo cáo.

Bên dưới cửa sổ của hai bên đại điện cũng đều đặt hai hàng ghế, chắc là để cho người ngồi dự thính, những chiếc ghế này để trống. Cửa sổ của ba mặt đều đóng chặt, có khá nhiều cửa sổ, trong phòng cũng nhiều ánh sáng.

Tể tướng Vương Giai đang ngồi trên chiếc ghế bên trái đại đường. Chiếc ghế bên phải vẫn để không. Chủ nhân của nó vẫn chưa tới. Người đó nhất định là hữu Tể tướng Thái Xác.

Trong hai hàng ghế hai bên, ghế đầu hàng bên trái vẫn trống. Ngồi nở ghế chính giữa là tả thừa Thượng thư Thái Biện, ngồi cuối cùng là hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý.

Ngồi ở ghế đầu bên phải là Xu Mật viện sứ Hàn Chuẩn, ghế chính giữa không có ai ngồi. Ngồi ở ghế cuối chính là phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi.

Vương Giai trông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào. Ông ta đứng dậy, khẽ cúi người chắp tay thi lễ nói: "Đỗ tướng quân tới".

Đỗ Văn Hạo vội vàng bước lên trước, chắp tay thi lễ nói: "Tể tướng đại nhân đến sớm".

"Ha ha. Mời tướng quân ngồi" Vương Giai ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo ngồi ở ghế chính giữa bên phải.

Người ngồi đầu tiên bên phải là Hàn Chuẩn. Ông ta là Viện sứ Xu Mật viện, tòng nhất phẩm. Đỗ Văn Hạo là Đô Kiểm Điểm, chính nhị phẩm, thấp hơn một bậc. Mặc dù tam nha và Xu Mật viện đều là hai nha môn lãnh đạo quân đội nhưng cấp bậc không giống nhau. Xu Mật viện cao hơn một bậc so với tam nha. Đỗ Văn Hạo trở thành tam nha Đô Kiểm Điềm, Thái Hoàng Thái Hậu coi trọng nhân tình nên mới nâng hắn lên một bậc, nếu không thì phải kém hai bậc. Lâm Hi tuy là phó sứ Xu Mật Viện, đồng cấp với Đỗ Văn Hạo đều là chính nhị phẩm nhưng Đỗ Văn Hạo là quan chủ sự, ông ta chỉ là tá quan nên đương nhiên phải xếp sau.

Đỗ Văn Hạo chắp tay thi lễ với tử thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý rồi mới ngồi xuống.

Không ai trên đại điện nói lời nào, đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không nói gì cả. Đợi một lát thì Môn hạ thị lang Chương Hoàng tới sau đó tới hữu Tể tướng Thái Xác cũng tới.

 Chương 408: Tiền nhiều cứ đốt 

Ngay khi hai người ngồi xuống. Tể tướng Vương Giai chắp tay về phía Hoàng cung, cất giọng khàn khàn nói: "Chư vị. Hôm qua tân đế kế vị. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm nhiếp chính, cũng đã qua thời gian xử lý việc tang của tiên đế và cao tổ Thái Hoàng Thái Hậu. Thái Hoàng Thái Hậu ý chỉ cho Thái đại nhân và bản tướng cùng giải quyết việc quân chính với nhị vị Vương gia. Tạm thời áp dụng biện pháp xử lý nhưng có rất nhiều sự tình không thể kịp thời xử lý vì vậy c rất nhiều chuyện xử lý chậm trễ. Vì vậy hôm nay mời các vị dự hội nghị này xử lý gấp gáp một số chuyện. Những chuyện còn lại sẽ xử lý ở hội nghị thường kỳ. Chương trình hôm nay..." Vương Giai nhìn lướt qua tờ giấy trên bàn nói tiếp: "Sẽ xử lý sáu công việc".

Hạng mục thảo luận thứ nhất là do bộ Hộ đưa ra. Tân Đế mới đăng cơ, đề nghị miễn trừ các khoản thuế ruộng trong sau năm, bày tỏ Hoàng ân. Hạng mục thảo luận thứ hai cũng do bộ Hộ đưa ra để cùng nhau thương nghị. Năm trước nạn đói ở Hà Đông, lũ lụt ở Hà Bắc, phá huỷ vô số nhà cửa tài sản của trăm họ. Lương thực cứu giúp thiên tai vẫn không đủ. Bộ Hộ đề nghị cấp thêm gạo tiền để cứu giúp nạn thiên tai.

Vương Giai nói: "Hãy gọi người bộ Hộ vào đi".

Viên ký lục (giống như thư ký) ngồi ở cạnh cửa trả lời rồi đứng dậy đi ra ngoài. Một lát sau Thượng thư bộ Hộ cùng hai viên quan tiến vào, thi lễ và ngồi xuống.

Tân Hoàng Đế mới đăng cơ, đại xá thiên hạ chỉ là một cách làm thông thường. Nội dung của đặc xá bao gồm đặc xá hay giảm bớt tội cho những người phạm tội, miễn cả thu thuê lao dịch vì vậy vấn đề thứ nhất không có gì cần phải thảo luận, nhanh chóng được thông qua.

Tiếp đó Thượng thư bộ Hộ trình bày đơn giản tình hình thiên tai sau đó hai viên quan đọc kế hoạch cứu giúp tiền và lương thực.

Sau khi nghe đọc xong Vương Giai nói: "Chư vị hãy cho ý kiến".

Chiếu theo quy củ, ngoại trừ hai vị Tể tướng, sau người còn lại phát biểu ý kiến không cần theo trình tự. Sau khi Thái Xác phát biểu xong, Vương Giai sẽ tổng kết lại các ý kiến. Đỗ Văn Hạo không muốn lên tiếng trước. Hắn nghĩ trước hết phải nghe xem những người khác nói gì.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi lên tiếng trước tiên. Sau một hồi xúc động, ông ta tỏ vẻ đồng ý. Sau đó tới tả thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý tất cả trước tiên lên giọng rồi cuối cùng tỏ vẻ đồng ý. Thượng thư bộ Hộ định lên tiếng, lúc này Đỗ Văn Hạo mới phát biểu. Hắn nói đơn giản, nông dân dựa vào ông trời kiếm miếng cơm, một khi bị đại nạn như vậy nên ít nhất một năm không có lương ăn, đương nhiên nên phải giúp đỡ nạn dân sau đó cũng theo những người trước, hắn lên giọng quan trên mấy câu rồi cũng đồng ý. Cuối cùng Thái Xác mới lên tiếng, Vương Giai tổng kết lại, nhất trí kế hoạch bổ sung cứu giúp nạn dân thiên tai.

Vấn đề thứ ba là Thượng thư bộ Lễ báo cáo, dự tính tổ chức "Khôn thành tiết" mừng sinh nhật của Thái Hoàng Thái Hậu. Vấn đề này tất nhiên không có bất kỳ dị nghị nào, nhanh chóng được thông qua.

Vấn đề thứ tư là bộ Lại đưa ra. Dự thảo lựa chọn người cho hai vị trí Công bộ thị lang và Hình bộ thị lang. Vấn đề này gây ra tranh luận rất lớn. Đỗ Văn Hạo thờ ơ lạnh nhạt, Vương Giai một phái, Thái Xác một phái. Nhưng vấn đề là phe Thái Xác chiếm đa số, phe Thái Xác đồng ý với ý viên do bộ Lại đưa ra. Cuối cùng số ít phục tùng đa số, đồng ý với lựa chọn cho hai vị trí mà bộ Lại đưa ra.

Vấn đề thứ năm là quân sự Hoàn Khánh Kinh lược ti báo cáo việc quân tình khẩn cấp. Kỵ binh Tây Hạ nhiều lần xâm chiếm vùng biên giới Hoàn Khánh, cướp phá, giết người cướp của, mấy ngàn dân chúng vùng biên giới bị giết, tuy bị quân Đại Tống đánh lui nhưng chúng rút rồi quay lại, binh lực của chúng lại đa số là kỵ binh. Quân Tống mấy lần bố trí mai phục nhưng đều không thể tiêu diệt, thỉnh triều đình phái đại quân đánh dẹp.

Nói đến quân sự cả Tể chấp đều trầm mặc, hoàn toàn khác với việc đỏ mặt tía tai tranh cãi với nhau về nhân sự của hai vị trí thị lang. Tất cả đều bưng ché trà, chậm rãi uống tựa hồ như đang suy nghĩ nhưng thật ra lại đang nhìn hướng gió.

Hai lần Vương Giai lên tiếng yêu cầu mọi người cho ý kiến nhưng không ai lên tiến, ông ta đành chỉ định: "Hàn đại nhân, Xu Mật viện của đại nhân trong coi việc quân sự. Trước tiên xin mời cao kiến của đại nhân".

Lúc này Hàn Chuẩn mới ho khan một tiếng nói: "Việc Tây Hạ xâm phạm biên giới chúng ta cũng không phải là chuyện hiếm có gì chỉ có điều lần này quy mô khá lớn, thiệt hại nghiêm trọng, giết hại mấy ngàn dân chúng vùng biên giới của ta. Nếu không đánh dẹp, dân chúng vùng biên không thể nào an cư lạc nghiệp, cũng làm Tây Hạ coi thường Đại Tống chúng ta. Nhưng sau trận chiến thành Vĩnh Nhạc, nguyên khí quân ta tổn thượng nặng nề, tới nay vẫn chưa hồi phục. Nếu như lúc này tuỳ tiện phái binh chinh phạt, chưa nói tới chuyện hoạ vô đơn chí, cũng khó có thể nói tới chuyện chắc thắng hay không. Chỉ e khi quân Tây Hạ nghe tin đại quân chúng ta tiến tới liền bỏ chạy. Chờ khi quân ta rút về, chúng lại quay lại tập kích quấy rối. Vòng đi vòng lại cuối cùng cũng thế mà thôi".

Phó Sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng phụ hoạ: "Không tới lúc vạn bất đắc dĩ không nên phát động can qua. Đại Tống ta cùng Tây Hạ chiến tranh mười năm, quân ta liên tiếp thất bại. Đặc biệt cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại tổn thương nguyên khí. Ty chức cho rằng với tình hình trước mắt của Đại Tống ta, thực sự không thể tái chiến".

Gương mặt Thái Xác lộ vẻ buồn bực nói: "Ý của nhị vị là Đại Tống chúng ta để mặc cho quân Tây Hạ cướp bóc giết người dân chúng vùng biên cương sao?"

Hàn Chuẩn, Lâm Hi liếc nhìn nhau. Hàn Chuẩn cười nói: "Ty chức không có ý này".

"Vậy theo ý kiến của Hàn đại nhân chúng ta phải làm thế nào?'

"Ty chức cho rằng. Đại Tống ta từ lúc khai quốc đã chinh chiến hai mươi năm với Đại Liêu, không thể đánh thắng. Chân Tông hoàng đế với hiệp ước Thiền Uyên, dùng hai mươi vạn tiền một năm đổi lấy sự bình an trên trăm năm của biên cương, cũng tiết kiệm được rất nhiều quân phí. Bốn mươi năm trước, Đại Tống cùng Tây Hạ cũng vốn kết chuyện Tần Tấn, tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình yên biên giới trong hơn hai mươi năm. Trước khi gây chiến lại, tại sao không thương nghị với Tây Hạ, dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an?"

Thái Xác cười âm trầm, ông ta nghiêm nghị nhìn lướt qua mấy văn thần bên trái hỏi: "Ý của ba vị thế nào?'

Môn hạ thị lang Chương Hoàng chắp tay nói: "Ty chức cho rằng Hàn Xu Mật cùng Lâm phó sứ nói tuy có uất nghẹn nhưng cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ. Nếu như có thể dùng hơn mười vạn bạc mỗi năm đổi lấy sự bình yên nơi biên cương, tránh việc phải động binh đao, đó chính là thượng sách".

"Ty chức cũng cho rằng ba vị đại nhân nói rất đúng" Tả thừa Thượng thư Thái Biện liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thản nhiên nói: "Quân ta yếu, không đánh lại kẻ thù vậy còn biện pháp nào không? Chỉ trách bản thân không có bản lãnh, quân đội không thể đánh trận thì không nên gây chiến tranh tránh cho việc tiêu hao một lượng lớn vật tư, mồ hôi và máu của dân chúng. Hãy để dùng cho việc khác".

Hoàng Lý nói: "Đúng vậy quốc khố hao tổn mà không giải quyết được việc gì. Hoạ nhũng binh, quân đội suy nhược lâu ngày".

Thái Xác cau mày nói: "Thương nghị chuyện có dụng binh hay không với Tây Hạ, kéo theo những chuyện kia làm gì?'

Hoàng Lý vội nói: "Dạ dạ. Ty chức cũng đồng ý với cao kiến của mấy vị đại nhân. Không đánh mà có thể khuất phục người khác chính là thiện chi thiện giả vậy (ý muốn nói đánh trăm trận, thắng cả trăm trận khuất phục người khác vẫn không được coi là cao minh nhất. Không đánh trận vẫn khuất phục được kẻ thù mới được coi là cao minh trong cao minh). Dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy việc lui binh của Tây Hạ, không hẳn đã là thượng sách. Có lẽ Tây Hạ không vừa lòng với số lượng hơn mười vạn lượng, muốn nhiều hơn số đó. Ty chức cho rằng chỉ cần làm cho Tây Hạ một lần nữa lui binh, dân chúng biên cương lại được an cư lạc nghiệp vậy cũng không thể không làm. Dù sao hơn mười vạn lượng đối với Đại Tống chúng ta mà nói chỉ như là chín trâu mất một sợi lông mà thôi. Hàng năm chinh chiến hao tổn lương tiền còn vượt xa số lượng này".

Thái Xác quay đầu lại nói với Vương Giai: "Vương Tể tướng, ý của bản tướng cũng như vậy. Không bằng chúng ta thỉnh Hoàng Thượng, không thỉnh Thái Hoàng Thái Hậu cử sứ thần sang hoà đàm, dùng hai, ba mươi vạn lạng đổi lấy việc Tây Hạ bãi binh".

Vương Giai nhìn Thái Xác cười nhạt nói: "Hình như Đỗ tướng quân còn chưa phát biểu cao kiến".

Thái Xác ngẩn người, lúc này ông ta mới nhớ ra Tể Chấp còn một vị tam nha Đô Kiểm Điểm. Từ trước tới giờ người này vẫn một mực không lên tiếng. Ông ta xấu hổ, cười áy náy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân, tướng quân có cao kiến gì không? Khụ khụ, đúng rồi. Tướng quân mới vào Tể chấp, năm nay tuổi nhược quán, chỉ e không hiểu nhiều lắm về mười năm chinh chiến trước đây giữa Đại Tống và Tây Hạ. Chắc tướng quân cũng hiểu phân tích lúc trước của mấy vị đại nhân. Hy vọng tướng quân cẩn thận cân nhắc, tránh hành động theo cảm tính. Tướng quân cho rằng Đại Tống chúng ta có nên dùng tiền tiến cống hàng năm để đổi lấy việc lui binh của quân Tây Hạ không?"

"Tiền nhiều cứ đốt" Đỗ Văn Hạo hừ nhạt một tiếng nói.

Lập tức sắc mặt mọi người có vẻ tức giận, lắp bắp kinh hãi.

Xu Mật viện Hàn Chuẩn lên tiếng chất vấn: "Đỗ tướng quân, chỉ e những lời này của tướng quân không ổn. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên chính là do Chân Tông hoàng đế là người mở đầu. Việc này đã duy trì sự bình an trăm năm của biên giới Tống Liêu. Nhân Tông hoàng đế cũng noi theo Chân Tông hoàng đế dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình an mấy chục năm của biên giới Tống Hạ. Chẳng lẽ hai tiên đế có nhiều tiền nên đốt sao?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Hôm qua, Thái Hoàng Thái Hậu truyền hỏi ty chức về chiến tranh Tống Liêu và chiến tranh Tống Hạ, có bình luận về việc tiến cống hàng năm đổi lấy hoà bình, người còn gọi đây là nỗi nhục của nước mất chủ quyền.

Thái Hoàng Thái Hậu từng chất vấn: Hai nước giao chiến. Hai bên đều cần hoà bình. Tại sao lần nào cũng là Đại Tống chúng ta dùng tiền đổi lấy hoà bình để đối phương bãi binh? Vì sao không phải bọn họ dùng tiền đổi lấy hoà bình để chúng ta bãi binh? Hay ít nhất cũng bình đẳng là hai bên cùng bãi binh. Hàng năm chúng ta dùng hai, ba mươi vạn lạng tiến cống cho chúng. Đây không phải là nhiều tiền đốt đi thì là cái gì? Điều ước đó có tính là ngang hàng không? Không phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền là gì?"

"Ngươi!" Môn hạ thị lang Chương Thận đứng dậy, chỉ tay vào Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi lại dám nói xấu Chân Tông, Nhân Tông ký hiệp ước với Liêu, Hạ. Đây là nỗi nhục nước mất chủ quyền sao? Hay hay hay. Bản quan không thể không vạch tội ngươi tội đại bất kính".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Tại hạ cho rằng Tể chấp là thảo luận chính sự. Mọi người vốn có thể thoải mái phát biểu ý iến của mình, thì ra vẫn còn có người núp ở đây, đánh bằng gậy, chụp mũ, bắt thóp người khác, nịnh bợ. Ha ha ha. Thật sự được mở rộng tầm mất. Ha ha ha".

Chương Hoàng tiến lên một bước, chỉ tay vào mặt Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Tể chấp thảo luận chính sự, tất nhiên có thể nói thoải mái nhưng không thể làm nhục tiên đế. Ngươi không phải mắc tội đại bất kính thì là cái gì?"

Đỗ Văn Hạo vẫn ung dung ngồi tại chỗ nói: "Chương đại nhân hãy bình tĩnh, chớ nóng vội. Đại nhân hãy nghe rõ những lời này không phải tại hạ nói, là Thái Hoàng Thái Hậu nói. Thái Hoàng Thái Hậu cũng chỉ nói hai hiệp ước này là nỗi nhục nước mất chủ quyền, chưa nói gì về tiên đế. Những lời tại hạ mới nói chẳng qua là truyền đạt lại lời của Thái Hoàng Thái Hậu mà thôi. Nếu như đại nhân không phục, muốn chất vấn, sao không tới chất vấn Thái Hoàng Thái Hậu?'

Lập tức Chương Hoàng hoảng sợ. Ông ta suy nghĩ một chút. Quả thực vừa rồi Đỗ Văn Hạo có nói đó là lời của Thái Hoàng Thái Hậu. Nhưng ông ta lại nghe như chính là Đỗ Văn Hạo nói ý kiến của mình. Chương Hoàng nóng lòng không lắng nghe cẩn thận, liền làm khó dễ nên bây giờ ở vào thế cưỡi lưng cọp.

"Chương đại nhân bớt giận. Có chuyện gì cứ từ từ nói" Hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý đứng dậy, kéo Chương Hoàng ngồi xuống ghế của mình, ông ta nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Thái Hoàng Thái Hậu nói đương nhiên là có lý. Việc nhục quốc thể hay không vẫn còn chưa nói được nhưng thật ra trong lòng mọi người đều hiểu rõ. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bãi binh ở một mức độ nào đó quả thật có làm tổn hại tới sự uy nghi của Đại Tống. Nhưng còn biện pháp nào khác không? Tướng quân muốn Đại Liêu và Tây Hạ xuất tiền ra sao? Đại Liêu và Tây Hạ là hai nước man di, cũng chỉ bởi vì nghèo hèn, không có tiền, thấy Đại Tống chúng ta phồng hoa thì tối mắt, xuất binh xuôi nam đánh cướp. Bọn chúng nguyện ý xưng đệ, nguyện ý xưng thần, ngược lại chúng ta bỏ ra một ít tiền, cũng không hẳn là không được. Cần gì phải phóng đại tới mức nỗi nhục nước mất chủ quyền?"

Tả thừa Thượng thư Thái Biện ở bên cạnh cười nhạt nói: "Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an quả thực là làm nhục sự uy nghiêm của Đại Tống. Nhưng vấn đề là trăm vạn đại quân chúng ta đánh không lại chúng. Không tốn tiền thì phải làm gì đây? Tiếp tục đánh sao? Tất cả quốc khố thu được đều ném vào đó để cho suy sụp sao? Tất cả tiền thuế đều là tiền mồ hôi nước mắt của dân chúng đều quẳng vào cái túi không đáy đó sao?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tại hạ đã được nghe nhiều chuyện hai nước giao chiến, thất bại đầu hàng, chuyện cắt đất, bồi thường tiền bạc cũng nghe rất nhiều. Trong lòng mọi người cũng hiểu rõ tiền tiến cống hàng năm chính là đền tiền. Lấy nỗi nhục quốc thể đổi lấy hoà bình, cũng chỉ như so với người vong quốc không còn nơi đi. Tại hạ nghĩ rằng đại đa số người trong hàng ngàn hàng vạn con dân Đại Tống chúng ta đều nguyện ý chết đứng còn hơn sống quỳ. Vấn đề chỉ là trong số đó có chư vị đại thần hay không?"

"Ngươi! Ngươi chỉ là một tiểu nhi hoàng mao sao dám ăn nói lỗ mãng?" Mấy người Thái Biện, Hoàng Lý giận tím mặt, đứng bật dậy như muốn gây sự.

Tể tướng Vương Giai đập tay xuống bàn quát: "Thôi được rồi. Ầm ĩ cái gì?"

Vương Giai là Tể tướng đầu triều, ai dám chống lại. Hai người Thái Biện lập tức phẫn nộ ngồi xuống ghế, cười nhạt, dáng vẻ lạnh nhạt.

Vương Giai liếc nhìn mọi người nói: "Chúng ta sẽ không thảo luận chuyện dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên có phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền hay không. Chuyện này Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, chúng ta vẫn còn nghị luận đúng sai thì chính là đang bất kính".

Vương Giai vừa mới nói mấy câu này,. Sắc mặt mấy người Thái Biện, Hoàng Lý đều thay đổi.

Vương Giai ho nhẹ hai tiếng, ông ta quay đầu nhìn Thái Xác nói: "Thái Tể tướng, Đỗ tướng quân đã nghĩ việc dùng tiền tiến cống hàng năm không ổn. Tại sao chúng ta không nghe cao kiến của Đỗ tướng quân?"

Thái Xác nói: "Đúng vậy. Nếu Đỗ tướng quân không đồng ý với ý kiến của chúng ta, tướng quân hãy nói cao kiến của mình".

Đỗ Văn Hạo không nóng mà cũng chẳng lạnh nhạt, hắn chắp tay nói: "Cao kiến thì không có, chỉ có thấp kiến. Tại hạ không nói đạo lý lớn. Dù sao Đại Tống chúng ta cũng là một nước lớn, cũng không nên phải chủ động cầu hoà với Tây Hạ. Không phải Tây Hạ dùng chiến du kích vận động chiến sao? Không phải chúng ta không thể đối phó với chiến thuật đó. Tại hạ nói có đúng không? Đại Tống ta dân giàu nước mạnh, muốn đối phó với loại xung đột biên giới quy mô nhỏ này, căn bản là không khó. Còn Tây Hạ thì sao? Cụ thể về năng lực nhân lực của Tây Hạ tại hạ không rõ lắm nhưng tại hạ dám khẳng định tuyệt đối Tây Hạ còn lâu mới bằng chúng ta. Đánh kéo dài nhất định chúng sẽ suy sụp, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta. Chiến thuật này gọi là đánh trường kỳ".

Lần đầu tiên mọi người nghe thấy cụm từ "đánh trường kỳ" nên ai cũng nhìn hắn vẻ dò xét.

Thái Biện ho khan rồi nói: "Đỗ tướng quân lại muốn dùng thời gian mấy chục năm chiến tranh cùng cảnh nhà tan cửa nát, chết chóc của dân chúng vùng biên để kiểm nghiệm việc Đại Tống có thể thắng Tây Hạ sao?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Chúng ta không chọn chiến tranh nhưng chúng ta tuyệt đối không e ngại chiến tranh. Nếu như người khác mang chiến tranh áp đặt cho chúng ta, chúng ta chỉ còn cách nghênh chiến, tuyệt đối không thể quỳ gối đầu hàng, cũng không thể cắt đất, đền tiền nhục quốc thể. Có một việc tại hạ muốn tiết lộ sớm cho chư vị đại nhân. Hôm qua Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho ty chức tiến hành điều tra kỹ lưỡng quân đội Đại Tống, tìm ra biện pháp cải cách chấn chỉnh quân đội. Thái Hoàng Thái Hậu cực kỳ thất vọng đối với tình trạng hiện nay của quân đội Đại Tống, người đã hạ quyết tâm chỉnh đốn".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cười nhạt một tiếng nói nhỏ: "Việc chỉnh đốn quân đội không phải hôm nay mới bắt đầu làm".

Ánh mắt Đỗ Văn Hạo sáng như điện, hắn nhìn chằm chằm vào Lâm Hi nói: "Hình như Lâm đại nhân không tán đồng với chủ kiến chỉnh đốn quân đội của Thái Hoàng Thái Hậu?"

"Không dám!" Lâm Hi xấu hổ, ông ta chắp tay nói: "Ty chức chỉ bàn luận về sự việc. Quân đội Đại Tống có không ít tật xấu, đương nhiên phải chỉnh đốn. Tiên đế đã làm, Thái Hoàng Thái Hậu lại tiếp tục thực hiện điều này. Đây đương nhiên là chuyện tốt. Tại hạ không có ý kiến gì. Tại hạ chỉ nói...".

Vương Giai nói: "Thế này đi. Trước hết xin mời Đỗ đại nhân nói ra ý kiến của mình. Các chư vị đại nhân sẽ phát biểu ý kiến của mình sau".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Ý kiến của tại hạ rất đơn giản. Địch nhân đang đè đầu cưỡi cổ chúng ta. Nếu chúng ta vẫn còn có thể nhẫn nhịn thì không còn là người. Nhất định phải đánh cuộc chiến này. Đây ót nhất là bày tỏ thái độ".

Hàn Chuẩn lạnh lùng nói: "Liên tiếp thất bại, còn muốn đánh sao? Đánh chỉ chuốc lấy nhục mà thôi".

Giọng nói của Đỗ Văn Hạo càng thêm lạnh như băng: "Làm một người lính, liên tiếp thất bại cũng không đáng sợ. Điều đáng sợ nhất là thất bại rồi không dám đánh tiếp. Từ thời thượng cổ tới nay không có thường thắng tướng quân. Bách chiến bách thắng chẳng qua chỉ là một lý tưởng. Nên biết chuyện thắng bại là chuyện thường nhà binh. Chỉ có người có ý chí chiến đấu ngoan cường, thắng không kiêu, bại không nản mới có thể có chiến thắng cuối cùng. Lưu Bang thắng Hạng Vũ cũng chính ở điểm này".

"Đã hiểu" Hàn Chuẩn vuốt chòm râu bạc của mình, ông ta thản nhiên nói: "Người tuổi trẻ còn không hiểu thời thế, ngạo mạn khinh người, khó tránh khỏi xúc động. Chờ khi tới tuổi của ta đây".

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo đập tay xuống bàn, hắn đứng bật dậy, lạnh lùng nói: "Nếu không chăm lo việc nước, chỉ sợ là bản thân ta không đợi được tới lúc râu hoa tóc bạc như đại nhân thì Đại Tống đã mất rồi".

Những lời này chẳng khác nào tiếng sấm. Tất cả mọi người đều sợ ngây người. "Mất nước" hai từ này không ai dám nói lung tung.

Nhưng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ bốn mươi năm sau Bắc Tống sẽ bị Đại Kim tiêu diệt. Thời gian còn lại của Bắc Tống không còn nhiều lắm. Bây giờ hắn nhìn thấy đám quan văn này sợ hãi rụt đầu rụt cổ khi phải đối mặt với một cuộc xung đột quy mô lớn ở biên giới, chỉ nghĩ tới việc dùng tiền mua yên bình thì không thể nhẫn nhịn được, rốt cuộc hắn đã phát tiết, hắn nói như liên thanh: "Giết một vạn kẻ thù, tổn thất ba nghìn. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại bại, chết hai mươi vạn quân. Điều này ai cũng biết. Nhưng Tây Hạ thì sao? Có ai biết chúng như thế nào không?"

Hàn Chuẩn cười nhạt nói: "Bọn chúng? Bọn chúng chiến thắng nên đương nhiên dương dương tự đắc".

"Sai rồi! Bọn chúng cũng phải liếm máu trên vết thương. Theo như tại hạ biết. Cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, tổng số chết của quân và dân Tây Hạ cũng tuyệt đối không ít hơn con số hai mươi vạn. Bởi vì ngay bên cạnh tại hạ có không ít tướng sĩ đã từng tây chinh Tây Hạ, kể cả tam nha phó Đô Chỉ Huy Sứ, Lý Phố Đại tướng quân, năm đó chính là tướng tiên phong đánh thẳng một mạch tới kinh thành Tây Hạ. Các vị có biết không? Năm đó quân ta tấn công đã sử dụng vũ khí truyền bá bệnh dịch. Loại vũ khí này có thể tạo thành dịch bệnh lưu hành trong phạm vi rộng vì thế quân dân Tây Hạ chết rất nhiều, thi thể ngổn ngang khắp nơi. Sau đó quân Tây Hạ chỉ có phòng thủ mà không chiến chính là vì lý do này. Quân ta có thể tấn công thần tốc tiến thẳng tới kinh thành Tây Hạ. Khi quân ta tiến tới một địa phương nào đó, cho dù là thành trấn hay nông thôn. Những gì có thể chở về thì đều chở về, những gì không thể chở về thì đều tiêu huỷ, đã tiêu huỷ rất nhiều thành trấn. Một nửa đất nước Tây Hạ vì trận chiến này mà bị phá huỷ tan hoang. Không biết chư vị đại nhân có biết điều này không?"

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Tất cả chỉ đều là quan văn, kể cả Viện sứ Xu Mật viện Hàn Chuẩn cùng phó sứ Lâm Hi, rất giỏi việc bẻ cong luật pháp làm bừa dối trá nhưng không hiểu gì về quân sự, chỉ biết là Đại Tống thảm bại, ngoại trừ việc theo Tống Thần Tông đám ngực khóc lóc, thoá mạ quân đội vô năng, đương nhiên không ngiên cứu những thảm hoạ chiến tranh bên ngoài nên cũng mờ mịt không biết điều này.

 Chương 409: Dùng sở trường khắc sở đoản. 

Quả thực mấy người Thái Xác chỉ là quan văn.

Tất cả đã bị những thất bại liên tiếp khi chinh chiến với Tây Hạ làm hoảng sợ.

Phản ứng đầu tiên chính là hoà đàm, cùng lắm cũng chỉ căm hận chửi mắng quân đội vô năng một trận. Dù có thể nghĩ ra cách nhưng vẫn muốn dùng tiền để dàn xếp ổn thoả vì vậy cổ nhân mới có câu:

"Tú tài tạo phản, ba năm không thành".

Đúng vậy. Đây là cách giải thích là cách tốt nhất đối với những người như vậy.

Đương nhiên cũng không thiếu những quan văn có chí khí, cứng cỏi

Nhưng bọn họ chỉ có nhiệt huyết, không hiểu thế nào là thống lãnh quân đội đánh địch nên cũng chỉ phí công.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tiếng gào thét bốn phía xung quanh nói: "Nguyên khí quân ta đại thương. Tại sao quân Tây Hạ không như vậy? Hai nước giao chiến với nhau, đánh tới cuối cùng vẫn chỉ là thực lực của quân đội, là thực lực của một đất nước hợp lại. Điều này giống như một gã mập và một người gầy đánh nhau. Cho dù gã mập trúng mấy quyền, nhưng rốt cuộc vì da dầy, mỡ nhiều nên vẫn chống lại được người gầy.

Người gầy sau khi trúng mấy quyền chỉ sợ xương cốt đã muốn gãy. Cuối cùng người gục ngã chỉ sợ chính là người gầy. Vì vậy trong cuộc chiến với Tây Hạ, chúng ta có thể đánh, phải đánh, hơn nữa nhất định có thể đánh thắng. Chỉ cần chúng ta chỉnh đốn tốt quân đội chúng ta, thành tinh binh, tương lai nhất định thắng lợi sẽ thuộc về chúng ta".

Chương Hoàng cười gượng nói: "Tại hạ không hiểu vì sao nhất định phải đánh với Tây Hạ?"

Thời đó kẻ thù chủ yếu của triều Tống chính là Đại Liêu và Tây Hạ. Bây giờ Đại Liêu và Đại Tống đã ký kết đồng minh.

Quan hệ của hai nước cũng khá tốt. Biên giới giữa hai nước cũng khá yên tĩnh.

Dựa vào sử sách Đỗ Văn Hạo đã biết trong tương lai không xa nước Đại Liêu sẽ bị nước Đại Kim tiêu diệt vì vậy hắn không cần hao tâm tổn trí đi đánh Đại Liêu. Hắn chỉ cần chờ Đại Kim quật khởi, chém giết Đại Liêu tới khi đó Đại Tống sẽ đóng vai ngư ông thủ lợi là được

Nhưng trước hết nhất định phải giải quyết Tây Hạ, giải trừ nỗi buồn phiền trong lòng, tập trung lực lượng đối phó với Đại Kim trong tương lai.

Mặc khác đánh Tây Hạ còn có một mục đích rất quan trọng. Đó chính là trường nuôi ngựa. Ở Trung Quốc cổ đại có hai nơi sở hữu cơ sở nuôi ngựa với quy mô lớn. Một nơi ở nước Liêu, một nơi chính là Đan sơn mã trường của Tây Hạ.

Sau khi trải qua một thánh chiến tranh với người Thổ Phiên, Đỗ Văn Hạo đã nhận thức một cách xâu sắc rằng ở thời cổ đại muốn thành lập một đội quân có sức mạnh tấn công thì không thể thiếu kỵ binh.

Con đường tiến tới binh cường của quân đội Đại Tống có một trở ngại. Đó là thiếu chiến mã.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo muốn đoạt lấy ít nhất một trong hai nơi nuôi ngựa này.

Nếu so sánh với nhau, trường nuôi ngựa của Tây Hạ tốt hơn nhiều so với trường nuôi ngựa của Đại Liêu.

Bởi vậy phải đánh cuộc chiến với Tây Hạ. Hơn nữa nhất định phải đánh sớm, giải quyết sớm.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không thể nói cho những người ở đây biết trong tương lai Đại Liêu sẽ bị Đại Kim tiêu diệt.

Đỗ Văn Hạo đường hoàng nói: "Mở rộng biên giới lãnh thổ quốc gia chính là bổn phận của chúng ta.

Nhìn vào bản đồ Đại Tống chúng ta chẳng lẽ chư vị đại nhân không thấy xấu hổ sao?

Hơn nữa bây giờ Tây Hạ tấn công chúng ta, không phải chúng ta chủ động tấn công, khơi mào chiến tranh. Đối mặt với cuộc tấn công của Tây Hạ, chúng ta còn có sự lựa chọn khác sao? Chúng ta chỉ còn cách hăm hở đánh một trận bảo vệ quốc gia".

"Đỗ tướng quân nói sai rồi" Hàn Chuẩn lúc lắc đầu giống như chiếc trống lắc, ông ta cười khẩy nói: "Có thể dùng tiền để giải quyết sự việc này, tại sao lại muốn hy sinh tính mạng của ngàn vạn tướng sĩ?"

"Câm miệng!" Đỗ Văn Hạo nghiêm nghị cắt ngang lời của Hàn Chuẩn. Hắn quay người nhìn chằm chằm vào Hàn Chuẩn, hai mắt trợn tròn, vung tay nói: "Tại hạ vừa mới nói Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho tại hạ định ra con đường xây dựng binh cường. Thái Hoàng Thái Hậu có nói người nhất quyết không thể tha thứ cho việc tiếp tục cống tiến hàng năm.

Nhất quyết không thể tiếp tục dùng tiền đổi lấy bình an. Thái Hoàng Thái Hậu nói tiền nhiều cầm đi nghịch nước cũng nhất định không mang đi mua lấy sỉ nhục. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói chỉ có loại người không có cốt khí nhuyễn đản mới đi khúm núm cầu hoà (ý mắng chửi là người không dám đứng thẳng người làm việc).

Một khi muốn cầu hoà thì phải làm cho chúng cầu hoà với chúng ta. Là bọn chúng phải tiến cống tiền hàng năm để chúng ta lui binh. Đây mới là vương đạo. Đây mới là quân uy, quốc y của một thượng quốc". Nếu luận về tranh luận, tài ăn nói, mỗi một quan văn đang ngồi ở đây đều trên cơ Đỗ Văn Hạo, đương nhiên là không phục lời nói của Đỗ Văn Hạo. Nhưng vấn đề là Đỗ Văn Hạo câu trước Thái Hoàng Thái Hậu, câu sau lại Thái Hoàng Thái Hậu.

Sau khi dựa vào lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, thêm mắm thêm muối nói một hơi, cuối cùng ngay chính Đỗ Văn Hạo cũng không biết câu nào là nguyên văn của Thái Hoàng Thái Hậu, câu nào chính là suy nghĩ của hắn.

Những câu nói của hắn khi người khác nghe vào tai mình lại trở thành của Thái Hoàng Thái Hậu.

Những viên quan này cũng biết Đỗ Văn Hạo là người tâm phúc bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, một bước tiến thẳng từ quan Đề Hình tứ phẩm lên tới tam nha Đô Kiểm Điểm, hơn nữa vì hắn mà Thái Hoàng Thái Hậu mở rộng Tể chấp, một tiền lệ chưa từng có.

Chỉ dựa vào điều này đã đủ hiểu phân lượng của Đỗ Văn Hạo trong con mắt Thái Hoàng Thái Hậu. Đương nhiên không một ai dám nghi ngờ những lời này không phải là của Thái Hoàng Thái Hậu, cho dù vẫn đoán rằng bên trong có một chút cường điệu.

Nhưng cơ bản là không sai nên ai nấy cũng lập tức trầm ngâm.

Đỗ Văn Hạo thuật lại lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, đã chỉ ra quan điểm cứng rắn của Thái Hoàng Thái Hậu trong việc chủ chiến hành động quân sự.

Ngày nay Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính. Ý chỉ của nàng chính là thánh chỉ. Đó là quyết định cuối cùng.

Cho dù có tài ăn nói đám quan văn này cũng không dám phân cao thấp với Thái Hoàng Thái Hậu.

Nhất là đối với biến pháp, Thái Hoàng Thái Hậu là thủ lĩnh của phái bảo thủ. Trong khi đó ngoại trừ Vương Giai và Đỗ Văn Hạo, tất cả những đại thần trong này đều thuộc phái biến pháp. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, những đại thần này còn có thể ngồi ngây ngốc ở đây hay không còn phải dựa vào sắc mặt của nàng.

Có ai dám làm trái lại ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu không? Trừ phi người đó không muốn cái mũ ô sa của mình.

Đối với những người trong này, chức vị lãnh đạo tối cao của Tể chấp vẫn là quan trọng nhất.

Không đáng vì một trận đánh với Tây Hạ ở biên giới mà làm cho Thái Hoàng Thái Hậu khó chịu hùng tâm binh cường của

Nhưng lúc trước lời nói của mấy người đều quá kiêu căng.

Đặc biệt là Chương Hoàng và Hoàng Lý còn phản đối gay gắt Đỗ Văn Hạo, lúc này đột nhiên muốn thay đổi thái độ, xuống thang khá nhiều.

Lúc này Vương Giai mới ho khen một tiếng nói: "Tuy Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu nhưng lại có ý chí kiên định không khoan nhượng của đấng mày râu. Lão hủ đã nhiều lần được thụ giáo hùng tâm tráng chí nước giàu binh cường của người.

Nếu chúng ta bẩm báo phương án hoà đàm nộp tiền tiến cống hàng năm, không nói việc có thể bị trả lại mà chỉ e còn khiến Thái Hoàng Thái Hậu nổi giận" Dù Vương Giai không có ra mặt trực tiếp ủng hộ Đỗ Văn Hạo nhưng những lời nói của ông ta trực tiếp tỏ thái độ đó một cách rõ ràng. Hơn nữa ông ta còn chỉ ra vấn đề mấu chốt, ý tứ rất rõ ràng. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu, bản tính mềm yếu nhưng đó chỉ là sự mềm yếu bề ngoài. Dù sao bây giờ Thái Hoàng Thái Hậu đang nắm quyền, muốn tạo nên một sự nghiệp, đang trong lúc tinh thần hứng khởi. Lúc này đừng có ai nghĩ tới chuyện gây phiền phức với Thái Hoàng Thái Hậu. Một khi như vậy thì đừng nghĩ tới ngồi ở vị trí này nữa. Nhất định Thái Hoàng Thái Hậu sẽ bỏ cũ thay mới.

Hữu Tể tướng Thái Xác chính là người nắm bắt tình hình nhanh nhất. Ông ta chắp tay nói: "Đỗ tướng quân nói rất đúng. Quân ta thiếu ý chí quyết thắng khi thất bại liên tiếp. Dân cư và quân đội Đại Tống chúng ta gấp vô số lân so với Tây Hạ. Gạo và tiền thuế thu được cũng nhiều hơn gấp mười lần. Chúng ta hao tổn nhiều, bọn chúng còn hao tổn tới mức không chịu nổi.

Chiến tranh là do chúng áp đặt lên chúng ta, không phải là sự lựa chọn của chúng ta. Chúng ta cũng không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ còn có thể đánh trận này.

Thà làm ngọc vỡ, không làm ngói lành. Bản tướng đồng ý với đề nghị xuất binh đánh dẹp của Đỗ tướng quân" Sự thay đổi của Thái Xác khiến mấy người Hàn Chuẩn có phần xấu hổ nhưng sở trường của những người này đều là a dua theo người khác, thấy gió trong đại điện đã đổi chiều, lập tức sắc mặt cũng thay đổi, thể hiện lòng căm phẫn tột độ.

Môn hạ thị lang Chương Hoàng nói vẻ căm hận: "Đúng vậy. Thà rằng chết vinh còn hơn sống quỳ. Có thể nhẫn cũng không thể nhẫn. Ty chức tán thành ý kiến của Đỗ tướng quân xuất binh tử chiến với Tây Hạ"

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên. Người này trở mặt thực sự còn nhanh hơn mở sách. Lúc trước ông ta còn chỉ thẳng vào mặt hắn bác bỏ ý kiến của hắn. Trong nháy mắt đã thay đổi đồng ý với hắn.

Rất am hiểu nghệ thuật làm quan, quả thực rất bội phục.

Hàn Chuẩn cũng thực sự quá quen thuộc với chuyện gió xoay chiều, cảm giác xấu hổ trong nháy mắt đã nhường chỗ cho một dáng vẻ căm hận, ông ta lên tiếng phụ hoạ: "Đúng vậy. Quân Tây Hạ xâm phạm biên giới của ta. Kế sách hoà đàm chỉ như là nuôi hổ trong nhà.

Bản quan vốn cho rằng quân ta suy yếu, chỉ e xuất binh không dễ đánh thắng nên mới đề nghị hoà đàm. Nhưng khi nghe Đỗ tướng quân nói Tây Hạ cũng bị nội thương chồng chất, càng không thể gánh chịu chiến tranh hơn so với chúng ta. Nếu một khi tiếp tục chiến tranh Tây Hạ tất không chịu nổi mà chủ động đề nghị đàm phán. Khi đó chúng ta không những huỷ bỏ được tiền tiến cống hàng năm mà có lẽ còn có thể đắc lợi cũng không chừng. Vì vậy bản quan cũng đồng ý với ý kiến của Đỗ tướng quân".

Ba người Thái Xác đã chuyển hướng, đương nhiên ba người còn lại cũng phải chạy theo. Tất cả đều căm phẫn mắng Tây Hạ, quyết tâm tử chiến với Tây Hạ.

Kết quả này có phần vượt qua dự đoán của Đỗ Văn Hạo nhưng lại làm hắncao hứng, hắn cười vui vẻ, chắp tay nói: "Chư vị đại nhân. Trên phương diện chiến lược chúng ta coi thường kẻ thù nhưng trên phương diện chiến thuật chúng ta nhất định phải coi trọng kẻ thù. Nói thật bây giờ chúng ta vẫn chưa có năng lực thực sự để đánh bại hoàn toàn Tây Hạ vì vậy bây giờ vẫn chưa phải là lúc tử chiến một trận với Tây Hạ, chưa cần phải mở rộng quy mô, cùng phạm vi xung đột. Chúng ta chỉ cần tiến hành phản kích ở những nơi quân Tây Hạ xâm lấn, không cần phải tiến hành phản kích trên diện rộng".

Vương Giai mỉm cười, gật đầu nói: "Theo ý kiến của tướng quân, trận chiến này chúng ta nên đánh thế nào?"

"Ty chức cho rằng quân Tây Hạ dùng kỵ binh tiến hành tập kích quấy rối, bắt người cướp của ở biên giới. Lúc trước quân ta chỉ muốn truy kích kỵ binh quân địch muốn tiêu diệt chúng nhưng dùng bộ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ thì quả là không thể tưởng tượng nổi. Đây chính là dùng sở đoán đấu với sở trường. Cũng giống như kiểu gậy ông lại đập lưng ông".

Hàn Chuẩn hỏi: "Ý của Đỗ tướng quân là dùng kỵ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ sao? Chỉ e là không thể làm được. Hiện tại kỵ binh chúng ta không thể nào bén gót kỵ binh Tây Hạ".

"Cũng không phải" Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Nếu dùng kỵ binh đấu kỵ binh chúng ta sẽ gặp bất lợi, cũng là dùng sở đoản đấu sở trường.

Nhưng bộ binh của chúng ta lại mạnh hơn quân Tây Hạ. Ít nhất chúng ta cũng nhiều quân hơn chúng. Đây chính là ưu thế của chúng ta. Trước kia chúng ta không tận dụng đầy đủ ưu thế này của mình. Khi tấn công luôn chia ra mấy đường cùng tiến.

Làm như vậy cũng có chỗ tốt chính là khắp núi đồi tràn ngập quân của chúng ta, trông rất hoành tráng nhưng hiệu quả thực sự thì sao?"

Những đại thần Tể chấp này gần như đều không có kinh nghiệm cầm quân tác chiến nên đều im lặng chăm chú lắng nghe.

Dù sao Đỗ Văn Hạo người ta tốt xấu gì cũng có một lần cầm quân đánh quân Thổ Phiên, hơn nữa còn là thắng lợi lấy ít địch nhiều nên kinh nghiệm tác chiến của hắn nói ra vẫn có sức thuyết phục.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tất cả mọi người trong đại điện rồi nói tiếp: "Hiệu quả đương nhiên là quá tệ.

Chúng ta chia quân ra mấy đường cùng tiến, bản thân sẽ lọt vào giữa kẻ thù. Tuy tổng binh lực của kẻ thù kém hơn nhiều so với chúng ta.

Nhưng mà đại bộ phận quân đội của chúng đều là kỵ binh, chúng có ưu thế tốc độ, có thể nhanh chóng tập trung binh lực, hình thành cục diện ưu thế về mặt binh lực, liên tiếp tấn công trên đường, tiến hành tiêu diệt từng bộ phận của chúng ta.

Cuộc chiến Kỳ Câu quan là một minh chứng tốt nhất. Lúc đó quân ta chia binh làm ba đường bắc tiến. Quân Liêu tập trung binh lực mạnh hơn đánh lộ quân phía đông trước, quân ta đại bại, làm toàn bộ phòng tuyến thất bại theo. Mặt khác cuộc chiến Linh Châu mấy năm trước với quân Tây Hạ cũng thế. Chúng ta chia binh ra làm năm đường. Quân Tây Hạ tập trung ưu thế binh lực, đánh từng đường một, tiêu diệt từng bộ phận quân ta".

Vào triều Tống khi dụng binh chú trọng "Tương tòng trung ngự'. Tất cả kế hoạch tác chiến đều do triều đình "bế môn tạo xa" (nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; đóng cửa làm xe không quan sát đường sá - ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cần biết đến thực tế khách quan) hoạch định trước, thậm chí còn cẩn thận lập ra bản đồ tác chiến.

Công việc này đôi khi còn do Hoàng Đế đích thân thảo ra.

Sau khi bản kế hoach tác chiến được lập ra, giao cho tướng chỉ huy để bọn họ mang tới tuyền tuyến chấp hành.

Vào thời cổ đại việc thông tin liên lạc vô cùng lạc hậu. Đối với loại hình bố trí chiến thuật, phương thức tác chiến tưởng tượng này giống như là mò trăng đáy nước. Trong khi đó thống soái ra trận lại chủ yếu là quan văn không hiểu quân sự, chỉ biết tuân theo kế hoạch tác chiến đó một cách mù quáng.

Khi quân đội hai bên tác chiến với nhau, xuất hiện vô số tình huống bất ngờ, quân tình thay đổi trong nháy mắt. Dù là thiên tài quân sự cũng không có khả năng dự đoán. Chỉ có thể căn cứ vào tình hình quân sự trước mắt để định ra kế hoạch tác chiến phù hợp vì vậy mới có câu ngạn ngữ: "Tướng ở bên ngoài có thể không tuân theo quân lệnh".

Nhưng bình thường những thống soái lãnh binh của Đại Tống không dám làm trái chiến thuật, kế hoạch tác chiến do đích thân Hoàng Đế định ra, tuân theo một cách cứng nhắc. Đây cũng chính là nguyên nhân quân Tống hễ ra trận là thất bại. Trong việc dụng binh với Tây Hạ, kế hoạch tác chiến với Tây Hạ thường do Xu Mật viện định ra.

Đối với cuộc chiến Linh Châu với Tây Hạ, khi đó Hàn Chuẩn mới nhậm chức Viện sứ Xu Mật viện ba tháng, đích thân chủ trì lập kế hoạch tác chiến.

Việc chia bnh thành năm lộ cũng là ý của ông ta. Ông ta thấy Đỗ Văn Hạo chê bai điều đó nên nóng mặt, cười gượng nói: "Thì ra Đỗ tướng quân cũng rất am hiểu binh pháp. Bội phục, bội phục! Chắc hẳn đã trải qua Võ Học sao? Đọc qua những binh thư tinh hoa nhất sao?"

"Võ Học" ở đây theo như lời Hàn Chuẩn nói chính là viện dạy tri thức quân sự do triều đình Bắc Tống thiết lập.

Đỗ Văn Hạo không vì bản thân mình chưa học qua quân sự mà không dám lãnh binh tác chiến. Triều Đại Thanh từng có rất nhiều tướng soái lừng danh không trải qua bất kỳ một hệ thống quân sự nào, càng không học qua binh pháp gì cả.

Chiến thuật bọn họ sử dụng phần lớn đến từ chính bộ sách "Tam Quốc Diễn Nghĩa', cũng như thu thập kinh nghiệm tác chiến trong quá trình chiến đấu lâu dài.

Vì thế tri thức tác chiến quân sự cũng không nhất thiết phải học tập qua sách vở, binh pháp ở trường, cũng có thể thu hoạch thông qua các cuốn truyện khác nhau.

Ở xã hội hiện đại, bùng nổ tri thức. Có thể học hỏi được bất kỳ tri thức quân sự nào. Ví dụ có thể thông qua các quyển sách về đề tài chiến tranh, các tin tức đưa trên ti vi, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới có quy mô toàn thế giới, có thể thu lượm được rất nhiều tri thức quân sự từ đó. Muốn tìm hiểu cũng không mấy khó khăn. Một khi tiếp xúc với những trận đánh điển hình nhiều lần, có thể hiểu rõ cách dùng binh.

Vì thế nói chỉ nói đơn thuần trong việc bàn luận về tri thức quân sự, Đỗ Văn Hạo tuyệt đối hiểu biết hơn rất nhiều so với bất kỳ vị Đại tướng nào của Đại Tống.

Vì vậy khi Đỗ Văn Hạo nghe Hàn Chuẩn nói mấy câu mỉa mai đó, hắn cũng không tức giận. Hắn thản nhiên nói: "Tại hạ chưa học qua Võ Học, cũng không hiểu binh pháp nhưng mà cũng không chưa ăn thịt heo cũng đã thấy lợn chạy qua (Đây là câu tục ngữ ý nói: Một người dù không tự mình trải qua một sự việc nhưng được nghe nói nên cũng hiểu chút ít)

Bên cạnh tại hạ có hơn mười tướng sĩ đã từng tác chiến với quân Tây Hạ. Tại hạ thường xuyên nghe bọn họ giảng giải kinh nghiệm tác chiến cũng có hiểu được một ít.

Khi Thái Hoàng Thái Hậu đề bạt tại hạ làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, vì để không làm nhục sứ mạng của mình, tại hạ đã rành thời gian một tháng cẩn thận nghiên cứu qua những trận đánh điển hình của quân ta cùng quân Đại Liêu và quân Tây Hạ.

Vì vậy tại hạ có hiểu được cái được cái mất của các b. Đây chỉ là một số kiến giải vụng về của tại hạ".

Tể tướng Vương Giai nói: "Đỗ tướng quân quá khiêm nhường. Bây giờ Đỗ tướng quân là Đại tướng nổi danh cả nước. Năm trước lãnh binh đã lấy ít thắng nhiều, tiêu diệt hoàn toàn hai vạn quân Thổ Phiên. Khi đó tin chiến thắng báo cề, cả nước chung vui".

Vương Giai quay đầu nhìn Hàn Chuẩn, vuốt chòm râu bạc trắng cười nhạt nói: "Vừa rôi nghe Hàn đại nhân nói mới biết thì ra Hàn đại nhân cũng đọc qua binh thư, am hiểu tường tận binh pháp. Không biết Hàn đại nhân đã từng lãnh binh đánh trận chưa? Tiêu diệt được bao nhiêu quân Tây Hạ?"

Lập tức gương mặt già nua của Hàn Chuẩn đỏ ửng lên, nhưng ông ta không dám phản ứng với Tể tướng Vương Giai, chỉ biết cười ngượng ngùng, thở dài nói: "Thật hổ thẹn. Ty chức chưa từng cầm quân. Ty chức luôn tán thưởng chiến công của Đỗ tướng quân. Khi nghe qua Đỗ tướng quân nói vậy, trong lòng lại càng kính nể Đỗ tướng quân".

"Ha ha ha" Vương Giai đã có ước định với Đỗ Văn Hạo, gả nữ nhi bảo bối của mình được xưng là đệ nhất mỹ nữ kinh thành cho Đỗ Văn Hạo.

Bây giờ chuyện này người trong toàn kinh thành cũng biết, giờ nhìn thấy nhạc phụ tương lai che chở cho con rể của mình, đương nhiên không ai dám ăn nói lỗ mãng với Đỗ Văn Hạo.

Vương Giai mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân, theo ý kiến của tướng quân, lần này xuất binh nên dùng cách gì để khác chế quân Tây Hạ?"

"Dùng sở trường của mình khắc sở đoản của địch".

"Cái gì là sở trường của quân ta? Sở đoản của quân Tây Hạ là gì?"

"Quân ta đông, số lượng vượt gấp nhiều lần tổng binh lực quân Tây Hạ, binh nhiều tướng mạnh.

Lương thảo của quân ta cũng nhiều, hậu cần đảm bảo hơn quân Tây Hạ.

Những ưu thế này của quân ta lại là những nhược điểm của quân Tây Hạ. Ngoại trừ việc số lượng binh lực của quân Tây Hạ thua xa rất nhiều quân ta. Đối với các tướng sĩ quân Tây Hạ tham gia tác chiến với quân ta, hậu cần quân Tây Hạ gần như không đảm bảo nổi. Kỵ binh cũng như bộ binh của chúng gần như đều không có cung cấp lương thảo. Trong quân của chúng có kỵ binh chuyên môn phụ trách việc toả ra bốn phía đánh cướp lương thảo, cỏ cho ngựa để cung ứng lương thảo cho đại quân.

Một khi gặp phải địch nhân dùng chiến thuật vườn không nhà trống, quân Tây Hạ sẽ không thể nào duy trì được việc tác chiến liên tục.

Vì vậy bình thường quân Tây Hạ đều chọn phương pháp dụ địch nhân xâm nhập để tiêu diệt mà không chủ động tiến quân thần tốc.

Đương nhiên sau khi thắng lợi chúng sẽ nhân cơ hội tiến vào nội địa nước ta, đánh cướp một hồi rồi mới ngang nhiên quay về".

'Ừ. Phân tích rất có lý. Bình thường quân Tây Hạ đánh cướp, chúng có xâm nhập sâu vào nội địa nước ta không?"

"Căn cứ vào việc phân tích những trận tác chiến điển hình của quân ta và quân Tây Hạ thì thấy chúng sẽ không xâm nhập vượt quá một trăm dặm.

Đây chính là giới hạn xâm nhập rành cho chiến mã của chúng.

Bởi vì một khi vượt qua giới hạn này, một khi không tìm thấy lương thảo, đồng thời bị quân địch quấy rối, không thể nào kịp thời thoát thân thì rất có thể sẽ mất sức chiến đấu vì mất lương thảo. Điều này quả thực rất nguy hiểm".

Tất cả mọi người đều gật đầu. Thật ra không phải tất cả mọi người ở đây đều không biết hai đặc điểm này.

Tể chấp chủ yếu là quan tâm tới yếu tố chiến lược. Bọn họ rất ít khi quan tâm tới những vấn đề nhỏ nhặt này.

Nghe Đỗ Văn Hạo nói bọn họ cảm thấy rất mới lạ.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Nhằm vào đặc điểm này của quân Tây Hạ. Nguyên tắc cơ bản của chiến thuật quân ta có hai điều: Thứ nhất là tư tưởng. Phải thông báo cho toàn thể tướng sĩ từ trên xuống dưới, tất cả đều phải hiểu rõ tư tưởng đánh lâu dài, ngăn chặn tư tưởng mạo hiểm tốc chiến tốc thắng nguy hiểm. Thứ hai thực hiện vườn không nhà trống. Di dời toàn bộ dân chúng dọc theo tuyến biên giới tác chiến trong phạm vi một trăm dặm vào nội địa. Tất cả những gì có thể ăn, có thể xử dụng đều phải chở đi khiến quân Tây Hạ tới mà không cướp được lương thảo. Điều thứ ba của chiến thuật là kiên quyết dùng chiến thuật thành luỹ như tằm ăn rỗi. Bức quân Tây Hạ không thể quyết chiến chính diện với chúng ta. Khi đó sẽ giống như ván cờ tàn.

Chiến thuật đánh ráp lá cà làm hao tổn thực lực, rơi vào thế phải liều mạng nhưng cuối cùng chúng tất phải đầu hàng chúng ta".

 Chương 410: Tân biến pháp. 

Đương nhiên mấy người Thái Xác không hiểu từ "chiến tranh thành luỹ" mà Đỗ Văn Hạo nói nên đều quay mặt nhìn hắn.

Thái Xác nói: "Đỗ tướng quân. Nếu như là chiến tranh kéo dài, chúng ta tổn thất nhiều quá chỉ e Thái Hoàng Thái Hậu sẽ không đồng ý".

Đỗ Văn Hạo nói: "Đó là đương nhiên. Chúng ta không e ngại lâm vào chiến tranh nhưng chúng ta cũng muốn tận dụng khả năng để tránh chiến tranh.

Bởi vì bây giờ chúng ta còn chưa nắm chắc sẽ thắng nên mới không mở rộng chiến tranh, muốn dùng chiến hoà. Có nghĩa là trong thời gian tác chiến nếu quân Tây Hạ đưa ra đề nghị hoà đàm, chúng ta có thể để chúng tới biên giới đàm phán, đồng thời lại dùng thắng lợi trên chiến trường, buộc chúng nhượng bộ. Điều này gọi là chiến hoà".

Chiêu này của Đỗ Văn Hạo đương nhiên học được qua chiến tranh Triều Tiên.

Nghe vậy mọi người đều gật đầu.

Hàn Chuẩn vuốt râu nói: "Đỗ tướng quân. Theo như lời tướng quân nói lúc trước.

Hai chiến thuật đó lúc trước chiến tranh với quân Tây Hạ và Đại Liêu, quân ta đã thử dùng qua. Tướng quân đã nghiên cứu qua các trận đánh điển hình hẳn cũng biết hiệu quả cũng tạm được".

"Đó là bởi vì không có điều thứ ba" Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Trước kia chúng ta sử dụng chiến thuật vườn không nhà trống, tư tưởng cũng cường điệu là đánh lâu dài. Nhưng một khi xảy ra chiến trận, trước khi xuất trận tướng soái lãnh binh cực kỳ tin tưởng, chia binh tấn công.

Tất cả đều liều lĩnh tham công, nhìn thấy quân địch dễ dàng sụp đổ liền diễu võ dương oai cho là mình vô địch thiên hạ, dẫn quân đánh sâu vào nội địa mà không biết là mình bị quân thù dẫn dụ xâm nhập.

Kết quả là bị kẻ thù tập trung ưu thế binh lực một trận tiêu diệt. Vấn đề mấu chốt của tại hạ chính là điều thứ ba. Chỉ có quán triệt thông suốt điều thứ ba, thực hiện tốt, kế sách vườn không nhà trống mới có tác dụng".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi nói: "Đỗ tướng quân. Hai điểm trước của tướng quân chúng ta đều có thể hiểu. Điểm cuối cùng chiến tranh thành luỹ là có ý gì?

Tướng quân có thể giải thích kỹ lưỡng cụ thể áp dụng điều này không?"

Chiến thuật thành luỹ tằm ăn rỗi là Đỗ Văn Hạo đã học được trong thời kỳ chiến tranh cách mạng ruộng đất. Quốc Dân Đảng đã áp dụng thành công chiến thuật này trong lần thứ năm tấn công các khu Xô - Viết.

Đỗ Văn Hạo đã nhiều lần nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của Đại Tống với Tây Hạ. Hắn đã nhiều lần tự hỏi nếu như mình chỉ huy tác chiến cùng Tây Hạ thì sẽ áp dụng chiến thuật tác chiến như thế nào.

Giờ đây khi hắn đã bước vào Tể chấp, có quyền quyết định, đương nhiên sẽ không khiêm nhường.

Hắn quyết tâm dùng chiến tranh cục bộ này để thử nghiệm tư tưởng chiến lược của mình có được tiến hành thông suốt hay không để chuẩn bị cho các chiến dịch quy mô lớn sau này.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Đồng thời với việc làm vườn không nhà trống ở khu vực biên giới, sẽ xây dựng chiến trại ở biên giới. Mỗi chiến trại có một đô nhân mã trú đóng (Tống binh biên chế mỗi đô là một trăm quân), dùng hàng rào cự mã vây quanh chiến trại. Bốn phía xung quanh đào hào cự mã cùng công sự phòng ngự. Bên trong chiến trại chủ yếu sử dụng sàng nỏ bắn xa, thần tí cung (Thần tí cung do Tống Thần Tông thời Bắc Tống phát minh, thân cung dài ba xích ba, dây cung dài hai xích năm, tầm bắn xa đạt tới hơn ba trăm bốn mươi thước, được mệnh danh là vũ khí không gì bì nổi, trở thành một trong những loại vũ khí trang bị cho quân cung nỏ của Đại Tống) và cường nỗ. Tất nhiên cũng chuẩn bị Phong hoả đài đốt lửa báo hiệu. Tích trữ lương thảo và nước uống để dùng lâu dài.

Trong khi đó các chiến trại phân bố theo hình tam giác, hỗ trợ, dựa vào nhau. Mỗi toà chiến trại cách nhau năm trăm bước. Bởi vì tầm bắn của thần tí cung chúng ta ước chừng là hai trăm năm mươi bước (chừng bă trăm tám mươi mét) như vậy khi quân địch tiến vào tầm bắn có thể dùng hoả lực đan xen tiêu diệt".

Hoàng Lý hỏi: "Điều này chỉ e không ổn. Quân địch có thể dùng máy bắn đá cự ly xa công kích hay tập trung binh lực tấn công chiếm trại thì sao? Khi đó thì cần phảo làm gì?"

"Không nên nóng vội! Tại hạ vẫn chưa nói xong.

Đại đội binh lực của chúng ta bố trí ở một chỗ cách không xa tuyến chiến trại của chúng ta. Đội kỵ binh bố trí ở phía trước để có thể nhanh chóng phối hợp tác chiến. Đóng ở sau chính là đại đội binh lực.

Như vậy một khi chiến trại có địch quân tẠcông, Phong hoả đầi đốt khói báo động làm hiệu.

Hậu quân sẽ lập tức tiếp viện, quyết chiến cùng quân địch.

Cần phải chú ý là hậu quân không được phân chia. Nhất định phải tập trung binh lực vào một chỗ. Nếu không rất có thể sẽ phạm phải sai lầm làm bừa.

Điểm chính của chiến thuật này chính là đánh bước nào củng cố bước ấy. Chiến trại như những chiếc vòi dài, vừa là thành luỹ tấn công, vừa là trạm gác tiền tiêu.

Đồng thời với sự hậu thuẫn của lực lượng bộ binh chiếm ưu thế, toàn tuyến chiến trại tấn công từng bước một, từng bước tiến mạnh về phía trước, bức quân địch không thể cùng quân ta quyết chiến chính diện, phát huy ưu thế binh nhiều tướng mạnh của quân ta, lấy nhiều đánh ít.

Nếu như quân địch bỏ chạy, tuyệt đối không thể tiến hành truy kích bởi vì chúng ta thận trọng tiến lên phía trước. Đối với những hạng người liều lĩnh tham công, bất luận là có lập công hay không đều xử trảm theo quân pháp".

Đối với mọi người đây là lần đầu tiên nghe thấy loại chiến thuật này. Lâm Hi hỏi: "Vậy làm thế nào có thể tiến lên phía trước giống như tằm ăn rỗi?"

Quả thực Đỗ Văn Hạo cảm thấy nhức đầu: "Điều này rất đơn giản.

Chiến trại không phải là thành trì mà chỉ là hàng rào kỵ mã hình thành tường rào chướng ngại vật tạm thời, có thể di chuyển.

Chiến tuyến hình tam giác phân ra làm ba hàng.

Một hàng ở đỉnh phía trước, hai hàng phía sau. Hàng phía sau đồng loạt dỡ xuống di chuyển lên trên ít nhất hai tầm tên bắt đầu đống trại. Đồng thời đại đội binh lực bố trí phía sau bắt đầu nhổ trại tiến theo sau. Như vậy gọi là luân chuyển tiến lên phía trước.

Đây chính là từng bước xâm chiếm".

Thái Biện cười ha hả nói: "Mỗi một chiến trại bố trí một trăm quân. Cứ mỗi khoảng cách năm trăm bước bố trí một chiến trại. Xin hỏi Đỗ tướng quân. Biên giới Tây Hạ và Đại Tống chúng ta kéo dài mấy ngàn dặm. Tướng quân định chuẩn bị bao nhiêu binh lực tác chiến? Chỉ e là một trăm vạn quân cũng không đủ? Ha ha. Tần Thuỷ Hoàng xây tường thành còn không vây hết Hoa Hạ lại"

"Chỉ cần thiết lập chiến trại ở các khu vực quan trọng là" Trong khoảng thời gian này Đỗ Văn Hạo chuyên tâm nghiên cứu tình hình tác chiến Tây Hạ nên hắn đã tương đối quen thuộc với các địa phương xung yếu ở biên giới hai nước. Đỗ Văn Hạo sai thân binh mang lên một tấm bản đồ biên giới Tống Hạ.

Đỗ Văn Hạo mở bản đồ ra, chỉ vào vùng Hoàn Châu nói: "Đây là chiến trường giao chiến chủ yếu của quân ta và quân Tây Hạ. Từ chỗ này khoảng cách tới kinh thành Tây Hạ là gần nhất.

Chỉ cách phủ Hưng Khánh, kinh thành Tây Hạ có mấy trăm dặm. Chỉ cần giục ngựa giơ rôi trong hai ba ngày là tới chân thành kinh đô Tây Hạ. Vì thế chúng ta dùng Hoàn Châu làm căn cứ tổng hậu cần, tập trung toàn bộ vật tư chiến tranh ở đây. Binh lực cũng tập trung chủ yếu ở vùng này, biến vùng này thành vườn không nhà trống. Bắt đầu kiến tạo chiến tuyến chiến trại đầu tiên sau đó thận trọng tiến lên như tằm ăn rỗi".

Hàn Chuẩn hỏi: "Nếu như đẩy quân địch lui về các thành trấn thì sao? Nên làm gì để ép chúng bỏ thành trì?"

"Dùng vũ lực ép chúng bỏ thành".

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, Lâm Hi lại hỏi: "Bức như thế nào?"

"Trước hết vây kín ba mặt, chỉ chừa đường lui ở cửa bắc, dùng đại pháo công thành và vũ khí công thành nhưng không được công thành.

Những nơi còn lại tiếp tục tiến lên phía trước.

Nếu như viện binh quân địch tới tiếp viện thì lại chính là vây điểm đánh viện binh.

Khi quân địch rút lui tuyệt đối không thể truy kích. Tiếp tục tiến lên phía trước như chiến thuật của quân ta.

Quân thủ thành nhìn thấy thành sắp bị bao vây chặt. Nhất định chúng sẽ chọn cách bỏ thành chạy trốn. Nếu chúng không bỏ trốn thì lập tức vây thành bốn xung quanh nhưng không được công thành.

Đến giây phút cuối cùng quân địch hoặc bị ép phải ra khỏi thành quyết chiến hay là đầu hàng. Thành thì bị phá".

Hàn Chuẩn suy nghĩ một lát rồi gật đầu nói: "Ta thấy phương án tiến lên trước từng bước có thể thực hiện được".

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Chiến tuyến của quân ta thận trọng tiến lên phía trước. Mỗi lần chúng ta tiến lên trước một bước là một bước tiến gần tới kinh thành Tây Hạ. Tây Hạ sẽ càng khẩn trương hơn, sớm muộn sẽ bức được chúng quyết chiến cùng với quân ta.

Trong khi đó một khi tiến hành quyết chiến quy mô lớn, quân ta có thể phát huy tối đa ưu thế binh lực của mình.

Một khi chúng ta có thể tiêu diệt đại bộ phận quân Tây Hạ hay chiếm được kinh thành Tây Hạ, toàn bộ phòng tuyến Tây Hạ sẽ sụp đổ".

Thái Xác nói: "Kế hoạch tác chiến này của Đỗ tướng quân nghe rất mê người. Ha ha ha. Nhưng loại chiến thuật này quân ta chưa từng áp dụng bao giờ, cũng không biết hiệu quả tới mức nào".

Vương Giai nói: "Ta lại cảm thấy có thể làm được. Thận trọng, tiến tới đâu ăn chắc tới đó. Chiến thuật thành luỹ cùng với chiến tranh tằm ăn rỗi. Điều này có thể chậm rãi, từng bước một tiến lên phía trước.

Ít nhất còn an tâm hơn nhiều so với việc triệu tập hơn mười vạn quân tấn công quy mô lớn.

Ta tán thành chiến pháp này" Vương Giai là quan Tể tướng đầu triều. Ông ta đã tỏ thái độ tán thành, trong lòng những người khác cũng bắt đầu thầm cân nhắc.

* Sàng nỏ Thần tí cung cường nỏ

Tuy chiến pháp này của Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên bọn họ nghe thấy. Nhưng tư tưởng cơ bản của chiến thuật này là lấy thủ làm công, thận trọng, chậm rãi tiến lên. Chiến thuật này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chiến thuật phòng ngự truyền thống của quân đội Đại Tống, cũng có thể phát huy ưu thế phòng thủ truyền thống của quân Đại Tống nên bọn họ dễ dàng chấp nhân nên ai nấy cũng chậm rãi gật đầu.

Thái Xác mỉm cười nói: "Chiến pháp này mới lạ như vậy, chỉ e nếu để người khác lại không nắm bắt được điểm mấu chốt. Bản tướng tiến cử Đỗ tướng quân là binh mã Đại nguyên soái, thống nhất chỉ huy. Chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?'

Đương nhiên tất cả mọi người đều lên tiếng đồng ý, kể cả Vương Giai cũng gật đầu nói: "Chi bằng hãy để Đỗ tướng quân toàn quyền phụ trách mới có thể đảm bảo chiến pháp này không bị biến dạng".

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Ty chức đa tạ chư vị đại nhân tín nhiệm. Ty chức cung kính không bằng tuân lệnh, đảm nhiệm chức binh mã Đại nguyên soái của chiến dịch lần này.

Nhưng vấn đề là Thái Hoàng Thái Hậu đã lệnh cho ty chức tiến hành chỉnh đốn quân đội vì thế ty chức không thể ra tuyền tuyến trực tiếp chỉ huy tác chiến. Hơn nữa cũng nói thật ty chức chưa quen thuộc binh pháp, trực tiếp chỉ huy tác chiến chỉ e rất khó giành thắng lợi.

Tốt hơn hết vẫn nên bổ nhiệm một vị tổng chỉ huy mặt trận, cụ thể là phụ trách chỉ huy tác chiến ở tuyền tuyến".

Thái Xác nói: "Điều này chỉ sợ người khác rất khó có thể hiểu hết ý nghĩa tác chiến của tướng quân, khi đó sẽ xảy ra sự cố không hay".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Chỉ cần vị tổng chỉ huy mặt trận này bố trí tác chiến hoàn toàn dựa theo sắp đặt của ty chức là được. Bởi vì ý nghĩa tác chiến đã định hình. Trước tiên thiết lập cảnh vườn không nhà trống trong phạm vi một trăm dặm ở biên giới sau đó bắt đầu tiến hành kiến tạo tuyến chiến trại ở tuyến đầu, dùng cường nỏ cự địch, Phong hoả đài cảnh báo. Tuyến hai bố trí kỵ binh nhanh chóng phối hợp tác chiến. Tuyến ba bố trí đại đội binh lực chiếm ưu thế, chuẩn bị quyết chiến với quân địch.

Những vấn đề này tổng chỉ huy mặt trận chỉ cần bố trí đúng theo kế hoạch. Nơi nào cần xây dựng chiến trại, tổ chức tuyến hai. Địa điểm bố tí binh lực tuyến ba, quân địch tấn công thì ứng chiến thế nào.

Chỉ cần nhớ kỹ những điều này là có thể đẩy mạnh chiến thuật chiến trại vững bước tiến lên phía trước. Toàn bộ chiến tuyến chỉ có thể phòng thủ bị động, không được chủ động tấn công ra bên ngoài.

Phàm người nào liều lĩnh cho dù có đánh bại tiêu diệt quân địch thì cũng phải xử trảm. Đây chính là sự nghiêm minh của quân luật.

Tác chiến như vậy, nhiệm vụ tác chiến của tổng chỉ huy mặt trận sẽ tương đối đơn giản. Bình thường sẽ không phạm phải sai lầm lớn".

"Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?" Vương Giai đã ước định hôn lễ của Đỗ Văn Hạo và nhi nữ bảo bối vào đầu tháng sáu. Đương nhiên lúc này ông ta không muốn để Đỗ Văn Hạo chạy ra tuyền tuyến chỉ huy tác chiến nên lập tức gật đầu nói: "Bản tướng cảm thấy Đỗ tướng quân nói rất đúng. Đỗ tướng quân phụ trách chỉnh đốn quân đội toàn diện. Đây chính là đại sự Thái Hoàng Thái Hậu quan tâm nhất.

Đặc điểm của chiến pháp này là thận trọng, vững chắc tiến lên trước, không liên quan tới chiến pháp phức tạp. Tướng soái bình thường cũng có thể đảm nhiệm được.

Nhưng cần phải có giám sát để tướng soái không thể liều lĩnh để tránh bị quân địch bao vây".

Thái Xác nói: "Chức vị tổng chỉ huy mặt trận này do ai đảm nhiệm?"

Vương Giai suy nghĩ một lát rồi nói: "Chức vụ tổng chỉ huy mặt trận hãy do Tư chính Đại học sĩ, Ngự sử trung thừa Lữ Công đẩm nhiệm, Tuyên Khánh sứ Lý Hiến làm giám quân".

Đỗ Văn Hạo chắp tay hỏi: "Tể tưướng đại nhân, xin hỏi Lữ Công đại nhân là quan văn hay là võ tướng?"

"Quan văn".

"Vậy còn Lý Hiến, người này đã từng cầm quân chưa?"

"Cũng đã từng cầm quân. Lần chinh chiến Tây Hạ trước đã từng đảm nhiệm chức giám quân".

Đỗ Văn Hạo cố gắn suy nghĩ để tìm ra từ diễn đạt phù hợp.

Hắn khom người nói: "Ty chức cho rằng khi đối địch dụng binh vẫn do võ tướng cầm quân thì tốt hơn.

Dù sao khi cầm quân tác chiến nhất định phải am hiểu binh pháp, quen thuộc quân sự. Chỉ có người tài năng hiểu được cách cầm quân mới có thể đảm nhiệm được".

Vương Giai và Thái Xác đưa mắt nhìn nhau. Thái Xác nói: "Đỗ tướng quân. Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ. Từ thời xưa đã vậy".

Đỗ Văn Hạo đã cẩn thận nghiên cứu qua cái được cái mất của chiến tranh Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu nên hắn hiểu rất rõ. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến quân Tống thất bại liên tiếp. Đúng vậy phần lớn các cuộc chiến của Đại Tống đều do quan văn không hiểu quân sự cầm quân.

Nhưng mà nếu nói thẳng ra như vậy nhất định sẽ đắc tội với các đại thần trong Tể chấp. Hắn mới đặt chân vào Tể chấp nên chưa muốn đắc tội với quá nhiều người. Dù sao thì Tể chấp cũng quyết định sự việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.

Vừa rồi những người này đã nhượng bộ, đồng ý với kế hoạch dụng binh của hắn.

Bọn họ còn đồng ý phương án tác chiến của hắn. Bây giờ giống như ngọn cờ no gió, hắn không thể vì việc này mà làm mối quan hệ thêm căng thẳng.

Hơn nữa kiến nghị vẫn chờ cha vợ tương lai là Vương Giai phát biểu.

Hắn lại càng không thể tranh cãi lại, chỉ có thể tìm đường khác giải quyết vấn đề này, nhất định phải tìm tới Thái Hoàng Thái Hậu để nàng thay đổi quyết định này.

Hàn Chuẩn lại nói: "Vậy cần phải xuất bao nhiêu binh lực?"

Tả thừa Thượng thư Thái Biện nói: "Đỗ tướng quân nói chiến thuật này chủ yếu dùng ưu thế binh lực làm hậu thuẫn. Vì vậy nếu xuất binh ít chỉ e không ổn. Ty chức cho rằng xuất năm vạn quân. Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?"

Hàn Chuẩn nói: "Lấy quân binh lộ nào?"

Thái Biện nói: "Chiến sự xảy ra ở chính lộ Hoàn Khánh, đương nhiên là phải dùng toàn bộ binh lực lộ Hoàn Khánh. Hình như binh lực lộ Hoàn Khánh có cửu tướng phải không Đỗ tướng quân?"

Bản thân Đỗ Văn Hạo là tam nha Đô Kiểm Điểm, sau khi nhậm chức việc cấp bách đầu tiên là phải tìm hiểu việc bố trí binh lực trong cả nước. Vì vậy trong một tháng qua hắn đã tìm hiểu rất rõ ràng các lộ binh lực bố trí trong cả nước. Hắn liền gật đầu nói: "Thái đại nhân nói không sai. Hiện tại quân đội bố trí ở lộ Hoàn Khánh có cửu tướng cùng với hơn bảy vạn người. Hơn tám ngàn chiến mã. Chỉ có điều trong số đó có chừng bốn phần là Sương quân.

Còn một phần là Phiên binh gì đó, hương binh địa phương cùng quân cung thủ nha môn địa phương".

Vốn Tống Thần Tông muốn thay đổi chế độ xã hội, tiến hành thay đổi chế độ xây dựng quân đội, thực hiện binh tướng pháp kết hợp đội pháp.

Cái gọi là nội quy quân đội "Tương" của ông ta giống như quân đoàn hỗn hợp của xã hội hiện đại.

Chủ yếu dùng cấm quân là chính.

Ngoài ra còn có Sương quân trú đóng ở địa phương, Phiên quân, Hương binh cùng quân cung thủ nha môn địa phương được sắp xếp trong biên chế.

Bởi vậy quân số của mỗi loại quân không giống nhau, chênh lệch rất lớn. Nhiều thì hơn một vạn, ít thì mấy ngàn.

Hàn Chuẩn hỏi: "Vậy chúng ta có bao nhiêu Cấm quân ở đó?"

"Nếu như tại hạ nhớ không lầm thì Cấm quân Hoàn Khánh có bốn vạn người".

Vương Giai cau mày nói: "Vẫn còn chưa đủ. Cũng không thể điều động toàn bộ binh lực của Kinh Lược Ti Hoàn Khánh lên trước".

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Theo như ty chức thấy. Đây là một trận chiến đánh lâu dài vì vậy không thể chỉ trông cậy vào binh mã của một lộ quân để giải quyết vấn đề. Lúc này hẳn nên tiến hành thay đổi pháp chế quân sự. Hãy lấy toàn bộ sáu lộ binh mã của Thiểm Tây lục lộ an phủ ti đưa vào phạm vi điều động cho chiến dịch lần này".

Hàn Chẩn kinh ngạc nói: "Tổng số nhân mã của sáu lộ này có bao nhiêu?"

Những con số này Đỗ Văn Hạo đã ghi nhớ hắn liền giơ ngón tay nói: "Hoàn Khánh Kinh Lược ti là quân tác chiến chính diện với quân Tây Hạ của chúng ta vì vậy nên bố trí tại đây số binh lực chiếm từ ba tới bốn phần tổng binh lực của cả nước. Tổng nhân số đại khái từ ba mươi tới bốn mươi vạn quân. Đương nhiên trong số này có tính cả Sương quân và các loại quân không thể tác chiến chỉ có thể vận lương cùng các công việc phụ trợ. Cấm quân chính thức tác chiến ở đây chừng hai mươi vạn".

Hàn chuẩn nói: "Hai mươi vạn sao? Vậy có nhiều quá không? Trong khoảng thời gian này quân Tây Hạ mỗi lần quấy nhiễu cũng không tới một vạn quân, chỉ khoảng bốn, năm ngàn quân gì đó.

Hai mươi vạn binh lực chúng ta xuất quân chinh phạt. Thứ nhất giết gà dùng dao mổ trâu. Thứ hai rút hết binh lực ở các địa phương khác có thể khiến cho không còn binh lực, quân địch sẽ thừa cơ tràn vào".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Quân ta bố trí dọc theo tuyến phía bắc Hoàn Châu, ở chỗ gần với kinh thành Tây Hạ nhất. Mỗi một bước tiến lên phía trước là một bước tới gần kinh thành quân Tây Hạ.

Nếu như quân địch tập kích gây rối ở địa phương khác, quân ta vẫn không thể chia binh, vẫn tiếp tục xâm nhập phía trước.

Trước tình huống kinh thành Tây Hạ bị uy hiếp, quân Tây Hạ tuyệt đối sẽ không dám rút binh lực bảo vệ kinh thành đi đánh lén nơi khác

Chúng tất sẽ tập trung binh lực ngăn cản tuyến đầu quân ta.

Chính vì vậy các địa phương khác sẽ không bị quân Tây Hạ xâm lấn quy mô lớn. Mặc dù có đi chăng nữa cũng chỉ là vây Nguỵ cứu Triệu mà thôi để phân tán binh lực chúng ta".

Hàn Chuẩn gật đầu nói: "Nói vậy cũng đúng".

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Lúc trước sở dĩ ty chức đề nghị dùng binh lực sáu lộ Thiểm Tây Lục lộ an phủ ti tham gia chiến dịch này, không phảo là mang tất cả binh lực tập trung ở đó mà chúng ta sẽ tiến hành chế độ thay phiên tác chiến.

Nói một cách đơn giản chính là binh mã của lục lộ an phủ ti đều thay nhau ra trận tác chiến cùng quân địch.

Mỗi lần thay phiên hai đạo nhân mã. Cấm quân trực tiếp tác chiến không thể ít hơn năm vạn quân. Sương quân phụ trách quân nhu có thể không theo giới hạn đó. Thời hạn thay phiên là nửa năm một.

Việc thay nhau ra trận như vây thứ nhất có thể tránh cho tướng sĩ tác chiến lâu dài quá mệt mỏi.

Thứ hai tướng sĩ của tất cả các lộ binh mã đều có thể thay nhau ra trận.

Tôi luyện sức chiến đấu, khảo nghiệm tướng sĩ, chuẩn bị cho sau này tác chiến quy mô lớn".

Vương Giai khen ngợi: "Chủ ý này rất hay! Thay nhau ra trận. Nửa năm một vòng. Mỗi lần đổi phiên năm vạn lập tức ra trận".

"Hay" Mọi người đều đồng ý. Tể tướng đầu triều đã tán đồng, mọi người cũng hiểu được vị Tể tướng này đã bao che cho con rể tương lai của mình.

Trong khi đó đây cũng không phải là vấn đề có tính nguyên tác gì cả.

Chủ yếu là phương pháp này phù hợp với đòi hỏi của chiến thuật đánh lâu dài nên tất cả đều đồng ý với đề nghị của Đỗ Văn Hạo.

 Chương 411: Hai lão sư của Hoàng Thượng. 

Keng keng keng

Tiếng kẻng đột nhiên vang lên. Vương Giai cười nói: "Vừa vặn tới lúc nghỉ trưa. Sáng nay tới đây thôi. Hai vấn đề còn lại, buổi chiều tiếp tục thảo luận. Ha ha ha. Bản tướng cảm thấy buổi thảo luận chính sự hôm nay là lần thành công nhất, có dũng khí đưa ra ý kiến phản đối, cố gắng tranh luận. Hay!"

Mọi người thấy ông ta không chỉ đích danh Đỗ Văn Hạo, chỉ phất tay áo cười nói thì cả đám cũng vuốt râu gật gù.

Tể chấp thảo luận chính sự luôn có tiệc rượu riêng.

Sau khi cùng ăn cơm trưa còn có một khoảng thời gian nghỉ trưa.

Đỗ Văn Hạo không có thói quen nghỉ trưa. Hơn nữa vẫn còn nhiều chuyện hắn cần giải quyết nên hắn không muốn lãng phí thời gian ngủ trưa.

Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào cung Duệ Tư của Tống Triết Tông.

Nội thị trực ở cửa ra vào vội vàng cúi đầu, khom lưng nghênh đón hắn vào trong. Một nội thị khác đang định đi vào trong thông báo đã bị Đỗ Văn Hạo giữ lại nói: "Hoàng Thượng đâu? Sáng nay làm gì?"

Một nội thị cười nói: "Sáng nay Hoàng Thượng chuyên tâm học bài, chuẩn bị cho buổi khảo khí chiều nay".

"Thật vậy sao? Ha ha. Nhị vị lão sư Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du đã tới đây chưa?"

"Đã tới. Buổi sáng đã tới rồi, đang giúp Hoàng Thượng học bài".

"Đề bài đã ra xong chưa?"

"Nhị vị lão sư nói đề bài đã ra xong".

"Ừ. Hoàng Thượng đang ở đâu?"

"Đang ở Ngự thư phòng".

Đỗ Văn Hạo đi tới Ngự thư phòng. Khi hắn còn chưa tới sân của Ngự thư phòng đã nghe thấy từ đó truyền ra tiếng cười khanh khách, cực kỳ khoái trá. Nghe giọng thì đúng là của vị Hoàng Đế trẻ con Tống Triết Tông.

Đỗ Văn Hạo sải bước đi vào trong. Vừa bước vào sân một cảnh tượng rở khóc dở cười đập vào mắt hắn. Hắn thấy Sơ mật trực Học sĩ Triệu Ngạn như đang quỳ trên mặt đất, chậm chạp bò xung quanh.

Tống Triết Tông đang ngồi trên cổ ông ta. Trong tay cầm một cành liễu nhỏ, làm tư thế cưỡi ngựa.

Miệng Tống Triết Tông không ngừng kêu "Giá! Giá! Giá!, hắn dùng cành liễu đánh vào mông Triệu Ngạn.

Ba đứa hài nhi đứng bên cạnh, hai nam một nữ đang ôm bụng cười khanh khách. Một đứa mập còn cầm cành liễu trợ giúp đánh vào mông Triệu Ngạn.

Ngự sử Phó Nghiêu Du đỏ mặt đứng bên cạnh, hai đầu gối ông ta dính đầy bụi bặm. Hiên nhiên ông ta cũng vừa mới quỳ bò.

Đỗ Văn Hạo hiểu rằng trước kia Tống Triết Tông cũng rất tinh nghịch.

Nhưng hắn không ngờ bây giờ đã trở thành Hoàng Đế lại dùng lão sư làm ngựa cưỡi. Đây không những là chuyện nhục mạ người khác mà còn không coi trọng bề tôi của mình.

Lập tức trong đầu Đỗ Văn Hạo bốc hoả nhưng hắn vẫn nhẫn nhịn vì dù sao Tống Triết Tông cũng là Hoàng Thượng, khi nói chuyện vẫn cần phải cung kính một chút.

Đỗ Văn Hạo nặng nề ho một tiếng rồi nghiêm nghị đi vào.

Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào thì cười hì hì nói: "Khanh tới rất đúng lúc. Hai người bọn họ không được nữa rồi, quá già rồi, chạy không nhanh. Khanh hãy mau quỳ xuống để Trẫm cưỡi, nhất định sẽ bò nhanh hơn bọn họ".

Đỗ Văn Hạo chắp tay, lạnh lùng nói: "Hoàng Thượng, vi thần là người, không nphải gia súc!"

Tống Triết Tông đang chơi đùa cao hứng, hắn vung bàn tay nhỏ bé nói: "Ta hiểu. Bây giờ là giờ nghỉ trưa. Chơi đùa với ta một lát có sao đâu. Bọn họ đều chơi với ta".

"Hoàng Thượng, hại vị đại thần dưới háng Hoàng Thượng đường đường là Đại học sĩ, đầy một bụng kinh thi và thư kinh. Đây là cách Hoàng Thượng chiêu hiền đãi sĩ sao?

Nếu Hoàng Thượng đối xử với bề tôi như này, coi bề tôi không phải là người, đối đãi như gia súc. Theo cương thường luân lý, tất nhiên bề tôi không dám không tuân theo nhưng điều này sẽ khiến các bề tôi thất vọng đau khổ. Khi đó sao bọn họ còn dốc sức, tận lực tận tâm phò tá Hoàng Thượng trị quốc?"

"Chỉ là chơi đùa thôi mà, không cần phải nói như vậy. Hơn nữa là do bọn họ tự nguyện. Hai người các ngươi tự nguyện để ta cưỡi, đúng không?"

"Dạ dạ! Là thần tự nguyện".

Hai lão sư người đầy bụi bặm lên tiếng trả lời, gương mặt cả hai đều đỏ ửng, thẹn thùng.

Đỗ Văn Hạo nói: "Dù là bọn họ tự nguyện Hoàng Thượng cũng không nên làm thế. Cái đó gọi là dùng kiệu hoa rước nhân sĩ.

Ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng Thượng một khi có được sự trợ giúp của mọi người mới trở nên vững như Thái Sơn. Nếu như Hoàng Thượng không coi bề tôi của mình là người, những người có tài học đều là những người trọng thể diện. Liệu có ai chịu nổi sự đối đãi như vậy của Hoàng Thượng không?

Một khi bọn họ nản lòng thoái chí, do dự thậm chí là kiếm cớ cáo quan bỏ đi, khi đó bên cạnh Hoàng Thượng chỉ còn lại một đám người chỉ biết tâng bốc nịnh bợ. Giang sơn xã tắc không thể chỉ dựa vào đám người nịnh bợ đó mà có thể duy trì được" Nụ cười trên gương mặt Tống Triết Tông biến mất. Hắn ngượng ngùng nói: "Đỗ tướng quân, không nên nghiêm trọng như vậy".

"Nghiêm trọng hay không chúng ta cứ hỏi Thái Hoàng Thái Hậu là biết liền. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu cũng cho rằng không có gì vậy Hoàng Thượng cứ tiếp tục trò chơi của mình".

Tống Triết Tông nghe nói tới Thái Hoàng Thái Hậu thì giống như Tôn Ngộ Không bị niệm chú kim cô, sắc mặt hắn lập tức thay đổi.

Tống Triết Tông vội vàng tụt xuống khỏi người Triệu Ngạn, ném cành liễu trong tay nói: "Đỗ tướng quân, khanh tuyệt đối đừng nói cho Thái Hoàng Thái Hậu biết. Ta nghe lời khanh sau này sẽ không bắt bọn họ làm ngựa cưỡi nữa".

Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm mặt nói: "Hoàng Thượng đã hiểu rõ làm như vậy là không đúng với lão sư của mình vậy hẳn phải biết nên làm gì?"

Tống Triết Tông cười ngượng ngùng, cúi đầu hành lễ với hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du: "Trẫm nhận lỗi với nhị vị sư phụ".

Triệu Ngạn mới vừa ngồi dậy, ông ta đang chuẩn bị phủi bụi trên người mình, thấy Tống Triết Tông làm như vậy lại cuống cuồng quỳ dạp xuống đất nói: "Hoàng Thượng tuyệt đối không thể, làm vậy là hại chết vi thần" Nói rồi ông ta dập đầu thình thịch.

Phó Nghiêu Du ở bên cạnh cũng cuống quýt quỳ xuống dập đầu, liên thanh nói không dám nhận.

Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hai lão phu tử này quả thật coi trọng nghi lễ quân thần hơn rất nhiều nghi lễ thầy trò.

Coi như là uổng phí một phen vất vả của hắn.

Đỗ Văn Hạo cười gượng, chuyển sang chủ đề khác: "Hoàng Thượng, vi thần muốn hỏi một chút về tình hình sở học trước kia của Hoàng Thượng. Liêu có thể vào trong phòng nói chuyện không?"

"Được!" Tống Triết Tông bước vào trong thư phòng, Đỗ Văn Hạo bước vào theo.

Bên trong thư phòng chỉ có bày Long án cùng Long ỷ cao, không có bục giảng, bàn học. Hắn cau mày nói: "Hoàng Thượng học ở chỗ này sao?"

Tống Triết Tông nói: "Không phải. Đây chỉ là Ngự thư phòng. Khi học thì ở Tư Thiện đường".

"Vậy chúng ta cùng tới Tư Thiện đường thôi".

"Tướng quân, sau khi dùng cơm trưa xong, theo lệ phải nghỉ trưa một canh giờ".

"Hôm nay huỷ bỏ nghỉ trưa bởi vì buổi chiều vi thần còn tới Chính Sự đường thảo luận quốc sự. Vi thần muốn tìm hiểu rõ ràng việc học tập của người sau đó buổi tối còn phải bẩm báo lên Thái Hoàng Thái Hậu để mọi người cùng nhau hiệp lực trợ giúp việc học của Hoàng Thượng".

Vừa nhắc tới Thái Hoàng Thái Hậu, Tống Triết Tông lại ỉu xìu, hắn cúi đầu nói: "Vậy được rồi".

Nói xong hắn bước ra ngoài thư phòng, mấy tiểu hài tử kia cũng ra theo.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du rồi nói nhỏ: "Nhị vị đại nhân, ba người chúng ta làm đế sư không thể quá nhân nhượng Hoàng Thượng. Chúng ta nhất định phải dạy bảo Hoàng Thượng trở thành một vị quân chủ tài đức sáng suốt mà không phải là một bạo quân không hiểu đạo lý".

Hai người Triệu Ngạn xấu hổ trả lời rồi ba người cùng nhau đi tới Tư Thiện đường.

Ở gian lớn chính giữa của Tứ Hợp Viện có treo một tấm biển viết "Tư Thiện đường". Bên trong có bày biện bốn bộ bàn ghế, trên mặt bàn có bày văn phòng tứ bảo.

Kên bên trong là một cái bàn dài. Đây hẳn là chỗ của sư phụ, trên bàn cũng bày biện giấy, bút và nghiên mực.

Tống Triết Tông và ba tiểu hài tử chia nhau ngồi xuống. Đỗ Văn Hạo đi tới chỗ chiếc bàn dài, vén áo bào ngồi xuống. Sau đó hắn sai nộ thị bên ngoài cửa mang vào hai cái ghế cho Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du cùng ngồi.

Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du thấy Đỗ Văn Hạo dám ngồi ở trước mặt Hoàng Thượng dù cả hai đã biết Đỗ Văn Hạo nói ba người bọn họ là lão sư có thể miễn trừ nghi lễ quần thần nhưng vẫn cảm thấy ngồi như vậy có vẻ không phù hợp với cương thường luân lý. Cả hai không khỏi thầm lắp bắp kinh hãi.

Ngay khi nội thị chuyển hai chiếc ghế tới cho hai người. Hai người Triệu Ngạn cũng không có gan lớn như Đỗ Văn Hạo nên vội vàng xấu hổ khoát tay nói đứng tốt hơn.

Đỗ Văn Hạo cũng không muốn cưỡng ép.

Đỗ Văn Hạo quét mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới, sắc mặt nghiêm nghị, hắn làm ra vẻ đạo mạo, cầm cái thước trên bàn, gõ hai cái vào lòng bàn tay, cao giọng nói: "Trước tiên chúng ta làm quen với nhau.

Ta tên là Đỗ Văn Hạo, tự là Vân Phàm, thừa long ân của tiên đế và Thái Hoàng Thái Hậu, ta là tam nha Đô Kiểm Điểm, Đề Cử Thái y cục, Ngự y. Thụ ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu phụ trách việc học tập của Hoàng Thượng. Đây là nhị vị đế sư là Thái Hoàng Thái Hậu khâm điểm (chỉ định). Cả hai người đều là Đại học sĩ uyên bác. Chắc hẳn vừa rồi mọi người đã làm quen với nhau. Được rồi, tam vị Hoàng tử và công chúa đang ngồi bên dưới có thể giới thiệu giới thiệu tục danh của mình để sau này tiện xưng hô không?"

"Tới ta giới thiệu".

Tống Triết Tông mỉm cười đứng lên nói.

Tống Triết Tông chỉ tay vào một Hoàng tử ngồi bên cạnh, thấp hơn mình một cái đầu nói: "Đây là nhị đệ Triệu Nhưng của ta. Đôi mắt của nhị đệ nhìn không tốt lắm. Đôi khi nhị đệ không nhìn vì vậy có lúc nào nhị đệ không chào hỏi mọi người thì không phải là hắn ngông nghênh mà là vì không nhìn thấy. Ha ha ha".

Mấy tiểu Hoàng tử, công chúa còn lại đều che miệng cười khúch khích.

Tuy Triệu Nhưng nhỏ hơn Tống Triết Tông một, hai tuổi nhưng trọng lượng thân thể lại to hơn Tống Triết Tông, béo húp.

Cổ Triệu Nhưng có mấy tầng, béo tới mức hai mắt híp lại. Hắn tươi cười hớn hở đứng dậy chắp tay nói: "Xin ra mắt Đỗ tướng quân".

Tổng cộng Tống Thần Tông sinh mười bốn con trai, trong đó có tám người chết ngay khi còn quấn tã lót.

Trong số những người con còn lại, Tống Triết Tông lớn tuổi nhất nên là Đại huynh. Cửu hoàng tử theo sắp xếp thứ hạng là lão Cửu nhưng tính những người con còn sống thì lại là lão Nhị.

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Không cần phải khách khí. Sau này cứ gọi ta là tiên sinh là được.

Thì ra là cửu hoàng tử. Ta biết trước đây hoàng tử đã từng bị bệnh nặng. Bệnh rất nặng. Đồ đệ của ta là Thái y Tiền Bất Thu đã dùng Hoàng thổ thang trị bệnh cho hoàng tử, đúng không?'

"Ừ. Thì ra Tiền Thái y chính là đồ đệ của tiên sinh".

"Đúng vậy".

"Ông ta già cả, râu tóc bạc phơ. Già như vậy mà còn chưa xuất sư (học thành nghề) chứng tỏ ông ấy ngày thường không chăm chỉ học bài".

"Ha ha ha" Mấy người Tống Triết Tông đều cười ha hả.

Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm nghị, hắn chờ mấy người cười xong mới lên tiếng: "Cửu hoàng tử, Tiền Bất Thu là ân nhân, người không biết báo đáp thì thôi, cũng không nên trêu cợt ân nhân của mình. Ít nhất điều đó là không biết lễ nghĩa".

Triệu Nhưng vội vàng nuốt nụ cười lại, hắn ngượng ngùng, chắp tay nói: "Thật sự xin lỗi. Ta chỉ buột miệng nói như vậy. Xin tiên sinh tha thứ".

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Liệt đồ Tiền Bất Thu chính là mang theo nghệ bái sư. Khi ông ấy bái ta làm thầy, tiếng tăm thần y của ông ấy đã trùm thiên hạ".

Tiểu công chúa ngồi ở phía sau, trợn tròn đôi mắt đen lay láy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ông ta là thần y sao lại còn bái tiên sinh làm thầy? Ông ta già như vậy, tiên sinh nhỏ như vậy".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Phải nói là ta sao trẻ tuổi như vậy, có phải là muốn nói tuổi ta không hơn tuổi mất người là mấy không?"

Tiểu công chúa cười khanh khách gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Thần kỹ phẫu thuật chữa thương của ta, trong thiên hạ này chỉ có mình ta biết, kể cả ông ấy cũng không biết. Hơn nữa ta còn rất nhiều tri thứ y thuật khác mà ông ấy cũng không biết. Ta có rất nhiều thứ có thể dạy ông ấy nên ông ấy không ngại học hỏi kẻ dưới, bái ta làm thầy".

Tống Triết Tông mỉm cười nói: "Đỗ tướng quân chuẩn bị dạy ta những gì? Là tứ thư ngũ kinh sao? Hay vẫn là thi từ ca phú? Lễ nghi cung đình sao?" Lập tức ba tiểu hoàng tử, công chúa kia lại lén cười.

Đỗ Văn Hạo thản nhiên nói: "Ta có thể dạy mọi người cái gì chờ lát nữa mọi người sẽ biết. Hoàng Thượng, xin thỉnh người tiếp tục giới thiệu với vi thần nhị vị còn lại".

Tống Triết Tông vỗ vỗ đầu nói: "Đúng rồi. Ta lại quên mất việc này".

"Hoàng ca ca, bây giờ người không thể nói: Ta, phải nói Trẫm".

Tiểu công chúa sau lưng Tống Triết Tông cười khanh khách nói.

Tống Triết Tông lại vỗ vỗ đầu nói: "Coi như trí nhớ của ta. A! Không, trí nhớ của Trẫm. Hì hì" Ba người kia lại cười vang.

Tống Triết Tông khoát tay ra hiệu cho ba người không cười, hắn chỉ vào tiểu Hoàng tử thấp hơn hắn một đầu ngồi ở sau nói: "Hắn là tam đệ Triệu Cát của ta".

Đỗ Văn Hạo thầm lắp bắp kinh hãi. Triệu Cát sao? Tống Huy Tông sao? Đây chính là một vị Hoàng Đế cực kỳ nổi danh của Bắc Tống, thậm chí trong lịch sử Trung Quốc.

Tống Huy Tông nổi danh không phải là vì những thành tựu về văn trị vũ công (thành tựu về mặt quân sự) mà là những chuyện lãng mạn phong hoa tuyết nguyệt của hắn, bút pháp thần kỳ, thư pháp thể Sấu kim, còn cả kinh nghiệm đau đớn của việc tin dùng gian thần, mất nước.

Nhưng bây giờ Tống Huy Tông mới chỉ là một đứa trẻ sáu bảy tuổi, gương mặt ngây thơ hồn nhiê, chưa từng nghĩ tới một quốc gia mất trong tay mình. Giờ đây Đỗ Văn Hạo chưa cảm thấy tạo hoá trêu ngươi khi hắn lại làm đế sư của hai vị Hoàng Đế Bắc Tống mà chỉ cảm thấy trọng trách ghê gớm trên vai mình.

Hắn không biết mình liệu có gánh vác được hết trách nhiệm này hay không?

Triệu Cát đứng dậy, chắp tay bập bẹ nói: "Xin ra mắt tiên sinh".

Nếu một khi muốn cứu vớt Bắc Tống, trước tiên phải cứu với vị Đại hôn quân của tương lai này vì vậy Đỗ Văn Hạo cũng không vì Triệu Cát là Hoàng đế tương lai mà biểu lộ cảm xúc hắn chỉ mỉm cười gật đầu ý bảo Triệu Cát ngồi xuống.

Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi: "Mẫu thân của người là vị nương nương nào?"

Lập tức sắc mặt Triệu Cát trở nên ảm đạm, vành mắt đỏ hoe, nước mắt tuôn rơi, cúi đầu xuống không nói.

Triệu Nhưng mập mạp chỉ ngón tay giữa vào miệng nói với Đỗ Văn Hạo: "Tiên sinh, những lời này không thể hỏi hắn. Nương nương của hắn vốn trước đây phát điên. Sau khi phụ hoàng băng hà đã uống thuốc độc tự vẫn chết theo phụ hoàng. Mỗi khi có ai nhắc tới hắn đều thương tâm khóc".

Lập tức Đỗ Văn Hạo hiểu ra. Nương nương của Triệu Cát thì ra là Trần mỹ nhân bị buộc uống thuốc độc chết thảm. Lúc này thật sự Đỗ Văn Hạo không biết nói gì.

Đỗ Văn Hạo đi tới vỗ nhẹ lên vai Triệu Cát nói: "Nam nhi không dễ rơi lệ! Hãy kiên cường lên"

Triệu Cát giơ bàn tay nhỏ bé lên lau nước mắt, hít hít mũi trịnh trọng gật đầu.

Sau đó Tống Triết Tông giới thiệu tới tiểu công chúa kia: "Đây là Hoàng muội, Phong từ quốc công chúa, chưa tới tuổi đặt tên, chỉ có một nhũ danh là Niệm Niệm. Nhưng mọi người gọi là Niêm Niêm".

Tiểu công chúa trừng mắt hạnh nói: "Tên của muội không phải Niêm trong niêm nhân mà là Niệm trong tưởng niệm. Hừ!"

Ba người còn lại đều cười vui vẻ.

Đỗ Văn Hạo quay lại ghế ngồi hỏi: "Thôi được rồi. Bây giờ chúng ta đều đã biết nhau. Ta sẽ trả lời câu hỏi của Hoàng Thượng. Rốt cuộc ta dạy mọi người cái gì? Trước tiên ta muốn biết mọi người đã học cái gì? Ai trả lời trước đây?"

Niệm Niệm giơ tay trước nói: "Ta nói!"

"Được! Tiểu công chúa nói đi".

"Chúng ta cùng Hoàng đế ca ca cùng học với nhau, thi từ ca phú, còn cả lịch sử các triều đại còn có cả các loại nghi lễ cung đình".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ điều này. Hắn liếc nhìn túi đựng tính trù để trên bàn liền cười hỏi: "Xem ra mọi người hẳn là có học qua cửu chương toán thuật đúng không?'

"Có học qua".

"Có biết tính không?"

"Đương nhiên biết"

"Trong mọi người ai là người tính nhanh nhất?"

"Hoàng đế ca ca"

Tống Triết Tông đắc ý nói: "Cửu chương toán thuật mà tiên sinh nói, tốc độ tính toán của Trẫm trên thế gian ít người sánh kịp, ngay cả tiên sinh cũng không thể so với".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Xin thỉnh Phó đại nhân ra một đầu đề. Năm người chúng ta thi tính toán xem ai là người nhanh nhất, được không?"

"Được" Lập tức sắc mặt Tống Triết Tông hiện lên vẻ phấn khích, xem ra hắn rất tự tin với tốc độ tính toán của chính mình, hắn cũng rất hy vọng thắng được người đế sư trẻ tuổi này.

Lập tức Tống Triết Tông cởi túi tính trú để trên bàn nói: "Phó thị, khanh hãy mau ra một đề bài. Ra khó một chút. Rất khó. Nếu không, hừ hừ. Mau lên đi" Ba hoàng tử công chúa còn lại cũng vội vàng lấy tính trù ra cầm trong tay.

Phó Nghiêu Du vội vàng trả lời, ông ta ngẩng đầu suy nghĩ một lát rồi nói: "Vi thần đã nghĩ kỹ. Sáu vạn..."

"Chờ một chút!" Tống Triết Tông khoát tay cản lại nói.

Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân khanh mau lấy tính trù ra, còn thất thần ngồi đó làm gì?"

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Hoàng Thượng, không cần phải quan tâm. Ha ha ha".

Tống Triết Tông trừng mắt nói: "Được, khanh tự cao nhỉ. Lát nữa thua khanh đứng trách Trẫm không báo trước. Phó khanh hãy ra đề đi".

"Dạ dạ!" Phó Nghiêu Du lau mồ hôi trán, ho khan một tiếng rồi nói: "Sau mươi từ nghìn hai trăm bảy mươi sáu nhân với bảy nghìn ba trăm năm mươi mốt bằng bao nhiêu?" Tiếng loạt xoạt bất chợt vang lên, bốn tiểu hài tử bắt đầu lay hoay tính toán.

Dù lúc ấy đã phát minh ra bàn tính nhưng còn lâu mới phổ cập (Vào triều Nguyên bàn tính mới phổ cập). Một nguyên nhân là lúc ấy bàn tính vẫn còn chưa hình thành đầy đủ hệ thống khẩu quyết tính toán, đặc biệt ở phương diện nhân chia, giải toán. Tốc độ giải toán còn chậm hơn cả tính trù (tính trù là phương pháp tính toán cổ đại, thực tế là những miếng gỗ nhỏ mịn, bình thường dài khoảng 13 - 14cm, dầy khoảng0,2 - 0,3cm, cũng có thể làm bằng trúc, răng thú, ngà voi, kim loại hay các vật liệu khác. Một bó ước chừng hai trăm bảy mươi miếng để trong bao bố hay giắt ở thắt lưng) Hơn nữa rất dễ mắc sai sót vì vậy mọi người vẫn có thói quen dùng tính trù để tính toán.

Tính trù là một phương pháp tính toán trước khi bàn tính được hoàn thiện, dùng các mảnh gỗ xếp đặt các hình dạng khác nhau để tính toán, phép tính toán nhân chia này phức tạp hơn so với giải toán số học.

Phải hình thành ba tầng tính toán thượng trung hạ, khi tính toán theo công thức phải liên tiếp cầm lên, di chuyển liên tục nói chung rất phiền phức.

Tốc độ giải toán tương đối chậm, phức tạp hơn so với số học, khi tính toán luôn phải đặt lên bàn.

Vì vậy mới có câu: "Tính trù doanh án" chính là chỉ việc này.

Ban đầu khi Đỗ Văn Hạo mới tới, hắn thấy Lâm Thanh Đại khi tính toán sổ sách thường dùng tính trù, hắn hiểu rõ cách tính này rất chậm. Hắn thầm nghĩ có lẽ đề này đưa ra sau thời gian ăn xong một bữa cơm mà vẫn chưa tính toán xong nên trong lòng vẫn ung dung không nóng vội.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy, chắp tay sau lưng đi tới bên cạnh mấy người Tống Triết Tông.

Hắn chăm chú quan sát giống như một giám thị vậy.

Tốc độ ngón tay của Tống Triết Tông di chuyển rất nhanh, thậm chí hắn còn không nhìn mặt bàn. Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo đi tới, vừa ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo vừa tính toán, cười nói: "Đỗ tướng quân, lão sư dạy tính toán của Trẫm được xưng là "Thần toán tử" Nếu khanh không mau chóng tính toán, nhất định sẽ thua trẫm. Ha ha".

Đỗ Văn Hạo vẫn chắp tay sau lưng, hắn buột miệng hỏi: "Vị lão sư Thần Toán Tử của Hoàng Thượng tên gọi là gì?"

"Tên là Thẩm Quát".

"Hả?" Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi: "Thẩm Quát? Thẩm Quát là lão sư tính toán của Hoàng Thượng sao?"

 Chương 412: Sự hấp dẫn của tri thức

Thẩm Quát chính là một nhân vật danh tiếng lẫy lừng trong giới khoa học cổ đại Trung Quốc, ông ta có trình độ rất uyên bác trong các lĩnh vực y học, sinh vật học, hoá học, địa lý, tính toán số học. Vào thời kỳ đó ông ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Ví dụ như "Mộng Khuê bút đàm" là một tác phẩm lớn lừng danh trong giới khoa học trong và ngoài nước.

Tống Triết Tông ngạc nhiên hỏi: "Đúng vậy, có chuyện gì vậy?" Vừa nói Tống Triết Tông vừa tiếp tục dùng tính trù tính toán.

"Ông ấy ở đâu?"

"Khanh hỏi điều này làm gì vậy?"

"Vi thần muốn gặp mặt vị Thần Toán Tử này".

Tống Triết Tông cười nói: "Vậy khanh không gặp may rồi. Trong cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, ông ta chỉ huy quân đội bị quân Tây Hạ đánh bại nên bị phụ hoàng giáng chức quan, làm Biên tu (sử quan thời xưa) đi về các châu huyện".

"Hả?" Bây giờ Đỗ Văn Hạo mới biết thì ra Thẩm Quát lại tham gia cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc với Tây Hạ.

Đỗ Văn Hạo có phần buồn lòng khi không được gặp nhà khoa học vĩ đại.

Tống Triết Tông cười nói: "Đỗ tướng quân, Trẫm đã tính toán xong hết rồi. Khanh lại vẫn chưa bắt đầu, khanh nhất định thua rồi".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Tốt lắm. Bây giờ thần bắt đầu đuổi theo người vẫn còn nhanh hơn" Nói xong Đỗ Văn Hạo chậm rãi quay về bàn. Hắn cầm bút dùng phép nhân tính toán.

Hắn dùng con số Ả rập cùng những ký hiệu tăng giảm thặng dư đơn giản, dùng phép tính nhân tính toán đề bài này. Tốc độ rõ ràng nhanh hơn rất nhiều so với dùng tính trù vì vậy Đỗ Văn Hạo không mất nhiều thời gian đã tính toán xong phép tính của mình. Sau khi kiểm tra lại một lần nữa, xác định rõ ràng không có sai sót, hắn mới đặt bút lông vào giá bút, liếc mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới vẫn còn đang loay hoay dùng tính trù tính toán. Đặc biệt là Tống Triết Tông, ngón tay di chuyển như bay, giống như phấn hoa bay vậy. Nếu chỉ nói về tốc độ tính toán tính trù, quả thực tính như vậy quá kinh khủng.

Đỗ Văn Hạo chắp tay sau lưng đi tới vạnh Tống Triết Tông hỏi: "Thế nào, Hoàng Thượng? Tính xong chưa?"

"Đừng quấy rối! Sắp xong rồi" Tống Triết Tông đã tới bước quan trọng nhất, không dám phân tâm, không cả dám ngẩng đầu, cau mày tiếp tục tính toán.

Đỗ Văn Hạo bình thản chắp tay sau lưng đứng nhìn mấy người. Sắc mặt Triệu Cát vẻ đau khổ, tay cầm tính trù, gắng sức tính toán. Triệu Nhưng béo mập càng gấp gáp tới độ trán toát mồ hôi. Khi Đỗ Văn Hạo đi tới bên cạnh Từ quốc công chúa thì thấy sắc mặt tiểu nha đầu này mày chau mặt ủ, hết bỏ tính trù xuống rồi lại cầm lên, chần chừ không quyết.

Hiển nhiên đã gặp vấn đề tính toán.

Đỗ Văn Hạo cúi đầu, ghé sát vào tai tiểu công chúa thì thầm nói kết quả. Niệm Niệm ngẩng đầu nhìn hắn gật đầu vẻ vừa mừng vừa sợ.

Đỗ Văn Hạo đi liếc nhìn một vòng rồi lại quay lại chỗ ngồi của mình. Hắn bưng chén trà nhỏ, chậm rãi thưởng thức trà. Tống Triết Tông ngẩng đầu nhìn hắn, kinh ngạc hỏi: "Khanh tính toán xong hết rồi sao?"

"Đã xong sớm rồi. Phép tính đơn giản như vậy làm gì phải lâu như vậy? Ôi!"

"Đơn giản? Hừ! Khanh đừng thổi phồng".

'Có thổi phồng hay không lát nữa Hoàng Thượng sẽ biết".

Tống Triết Tông lại cúi đầu tiếp tục loay hoay tính trù. Một lát sau cũng kêu lên: "Tính ra rồi" Nói xong Tống Triết Tông quay đầu lại nhìn thấy tiểu công chúa Niệm Niệm đang ngồi dương dương tự đắc thì liền hỏi: "Này, đồ theo đuôi, muội tính ra rồi hả?"

"Sớm tính ra rồi. Ca ca mới là đồ theo đuôi".

"Trẫm không tin, đưa cho Trẫm xem một chút" Nói xong Tống Triết Tông liền giơ tay cầm tờ giấy trong tay Niệm Niệm lên liếc mắt nhìn qua, hắn vô cùng kinh ngạc nói: "Tuyệt đối không thể nào. Dù khả năng tính toán của muội không tệ nhưng không thể nào nhanh hơn Trẫm".

"Muội đã tính toán ra đó, thế nào? Hì hì hì".

Tống Triết Tông quay mặt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Mới rồi Trẫm thấy Đỗ tướng quân đứng bên cạnh muội, còn lén lén lút lút nói cái gì đó. Nhất định Đỗ tướng quân đã nói đáp án cho muội. Tại sao Đỗ tướng quân có thể cho ra kết quả nhanh như vậy?"

Tống Triết Tông bước nhanh tới, cầm lấy tờ giấy trên bàn của Đỗ Văn Hạo nhìn, quả nhiên đáp án của Đỗ Văn Hạo và đáp án của hắn giống nhau. Tống Triết Tông kinh ngạc hỏi: "Không thể nào! Khanh không dùng tính trù sao? Tính thầm sao?"

"Không phải. Hoàng Thượng không nhận ra trên giấy có viết quá trình tính toán sao?"

Tống Triết Tông chăm chú nhìn thì thấy trên mặt giấy có những ký hiệu kỳ quái siêu siêu vẹo vẹo, căn bản hắn không hiểu đó là gì nên hỏi: "Khanh làm gì vậy?"

"Con số Ả rập và phép tính nhân. Ha ha".

"Cái gì?"

"Đây chính là một loại ký hiệu chuyên môn dùng để tính toán, đơn giản hơn rất nhiều so với tính trù của Hoàng Thượng nhiều".

Tống Triết Tông nào tin tưởng vào điều đó. Hắn quay đầu nhìn chằm chằm vào Phó Nghiêu Du, hung tợn nói: "Khanh giúp hắn dối trá phải không? Trước đó khanh đã nói đề bài cho hắn biết phải không?"

Phó Nghiêu Du vội vàng quỳ dạp xuống dập đầu nói: "Không có, Hoàng Thượng. Vi thần tuyệt đối không dám phạm tội khi quân. Quả thực đề bài này là vi thần mới nghĩ ra, không nói cho Đỗ tướng quân biết trước".

"Trẫm không tin!"

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Nếu như Hoàng Thượng không tin. Thế này đi, Hoàng Thượng hãy tự mình ra một đề bài, hai chúng ta cùng tính lại".

"Được" Tống Triết Tông suy nghĩ một lát rồi nói ra đề bài là một phép nhân sáu chữ số sau đó hắn nhanh chóng tính toán như thoi đưa.

Lúc này Đỗ Văn Hạo chủ định là mất nhuệ khí của Tống Triết Tông. Hắn cầm bút tính toán rất nhanh, sau khi kiểm tra lại một lần hắn viết đáp án ra, đặt bút vào giá bút, vỗ tay nói: "Vi thần đã tính xong rồi".

Tống Triết Tông líu lưỡi nói: "Không thể nào!"

"Hoàng Thượng" Đỗ Văn Hạo chậm rãi nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp: "Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra".

"Nhất định đáp án của khanh sai. Đợi ta tính toán đã" Tống Triết Tông không để ý tới Đỗ Văn Hạo, nghiêm mặt tiếp tục dùng tính trù tính toán. Lúc này Triệu Nhưng và Triệu Cát đã dừng lại, vây quanh xem náo nhiệt.

Tống Triết Tông càng sốt ruột lại càng chậm. Sau khi hết thời gian khoảng chừng một nén nhanh hắn mới tính toán xong. Sau khi cầm đáp án của Đỗ Văn Hạo thấy giống hệt với đáp án của mình, lập tức Tống Triết Tông trợn mắt há hốc mồm.

Lần này chính là đề bài do chính Tống Triết Tông nghĩ ra, tính toán ngay tại chỗ, tuyệt đối không có khả năng dối trá. Lúc này Tống Triết Tông mới tin tưởng phương pháp tính toán thần kỳ của Đỗ Văn Hạo. Hắn bỏ tờ giấy xuống gật đầu nói: "Ừ. Thuật tính toán của khanh rất lợi hại. Thế nhưng Trẫm muốn biết, thuật tính toán này rốt cuộc có lợi ích gì?"

"Có thể giải quyết rất nhiều vấn đề thực tế" Đỗ Văn Hạo nói: "Ví dụ như kho lương của một nha môn nào đó là hình trụ, có tổng cộng bảy mươi hai kho lương giống nhau như thế, kích thước như nhau. Đường kính bên trong hai trượng, cao một trượng năm thước, hỏi bảy mươi hai kho lương này có thể chứa được bao nhiêu thạch lúa gạo?"

Căn bản Tống Triết Tông không học qua hình học nên đương nhiên hắn không biết tính toán thể tích hình trụ như thế nào. Hắn ngơ ngác lắc đầu nói: "Tiên sinh còn có cái gì có thể dạy Trẫm?"

Đỗ Văn Hạo cầm chén nước trắng đặt lên bàn. Hắn lấy một cái bút lông nhúng vào trong chén nước rồi đặt trước bốn tiểu hài tử và hỏi: "Có ai nói cho ta biết vì sao phần bút nhúng trong nước lại uốn lượn vậy không?"

Hiện tượng này rất bình thường, mấy tiểu hài tử này cũng đã sớm biết nhưng nếu giải thích lý do vì sao nó lại uốn lượn thì lại không thể nên ai cũng nhìn hắn lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đây là hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Sau này khi ta dạy cho mọi người kiến thức về ánh sáng mọi người sẽ hiểu ngay thôi".

Đỗ Văn Hạo lại cầm lên một chiếc chén không và nói: "Nếu như Hoàng Thượng chuẩn bị chế tạo một chiếc chén vàng. Thử hỏi Hoàng Thượng sẽ cần bao nhiêu vàng?"

Hiển nhiên bốn người Tống Triết Tông lại lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: "Có ai biết tại sao có động đất không? Tại sạo trời lại mưa? Tại sao trời lại sinh ra sấm chớp? Tại sao mặt trời luôn mọc ở phía đông, lặn ở phía tây? Tại sao lại có hiện tượng chó ăn trăng (nhật thực)? Tại sao lại có lúc trăng tròn, trăng khuyết? Tại sao lại có chớp mắt? Rốt cuộc chúng ta là ai? Chúng ta từ đâu tới? Đi tới đâu? Vị trí của ngũ tạng lục phủ của con người là gì, có tác dụng gì? Trên thế giới này ngoại trừ Đại Tống, Đại Liêu và Tây Hạ thì còn những quốc gia nào nữa? Bọn họ ở chỗ nào? Làm thế nào mới có thể tới chỗ bọn họ?"

Mấy người Tống Triết Tông lại càng ngơ ngác lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Tất cả những điều này khi nào mọi người học xong bài giảng của ta thì cũng sẽ biết".

Tiểu công chúa Niệm Niệm vỗ tay nói: "Hay! Bây giờ nta đã muốn nghe tiên sinh giảng bài".

Triệu Nhưng cũng há miệng béo mập cười toe toét nói: "Đúng vậy, nghe rất thích. Ta cũng muốn nghe".

Tống Triết Tông nhìn thấy vẻ mặt hưng phấn chảy nước miếng của hai người đó, kỳ thật trong lòng hắn cũng rất ngứa ngáy, hắn mỉm cười nói: "Quả thực bài giản của Đỗ tiên sinh rất hấp dẫn. Quả thật Trẫm không ngờ Đỗ tiên sinh là người thông mi uyên bác nghe rộng biết nhiều. Thảo nào Hoàng tổ mẫu muốn tiên sinh phụ trách việc học của Trẫm".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, hắn thoáng nhìn thấy Triệu Cát vẫn ngồi yên, không có vẻ hưng phấn như ba huynh muội của mình thì kinh ngạc hỏi: "Thập nhất hoàng tử, có chuyện gì vậy?"

"Tiên sinh có thể dạy ta vẽ tranh không?" Triệu Cát hỏi.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới nhớ tới vị Hoàng đế tình tình phong lưu này còn là một đại danh hoạ có bút pháp thần kỳ trong lịch sử. Đó chính là niềm đam mê nhất của Triệu Cát. Đối với hội hoạ Đỗ Văn Hạo lại không có gì đặc biệt. Làm sao bây giờ?

Ánh mắt hắn đảo qua, lập tức xuất hiện chủ ý. Không phải chính mình đã học qua cách phác hoạ vật thực sao. Mặc dù kỹ thuật của hắn còn không có gì cao siêu nhưng ít ra hắn có thể dạy một số kiến thức về quan sát cùng kiến thức về ánh sáng, màu sắc. Bởi vì thuật vẽ tranh truyền thống của Trung Quốc không nói tới thuật quan sát, lại càng không chú trọng tới hiệu quả của ánh sáng màu sắc. Bây giờ bản thân hắn có thể dạy Triệu Cát vấn đề này. Thế nhưng nhất định phải chú trọng một vấn đề là không thể dùng tri thức về màu sắc và ánh sáng vào vẽ tranh chân dung nếu không thì sẽ gây ra hoạ.

Về chuyện này, trong lịch sử đã từng xảy ra một chuyện nhỏ. Số là vào triều Thanh, có một hoạ sĩ hội hoạ phương tây dương dương tự đắc muốn thể hiện một chút trước mặt lão Phật gia. Người đó dùng hiệu quả ánh sáng màu sắc trong vẽ tranh phương tây áp dụng vào bức tranh vẽ lão Phật gia, quả thực có cảm giác rất nổi nhưng khi bức tranh được dâng lên lão Phật gia, lão Phật gia đột nhiên giận dữ, suýt chút nữa cho chém đầu người đó bởi vì trong con mắt lão Phật gia, hiệu quả lập thể này toạ nên trên mặt như có bóng tối. Trong khi đó người Trung Quốc rất kiêng kỵ "Âm Dương mặt" là một điềm gở. Nhà hoạ sĩ vẻ tranh phương tây đó sợ tới mức vội vàng sửa đổi, đổi khuôn mặt của lão Phật gia thành ánh sáng chói lọi, khi đó lão Phật gia mới đổi giận làm vui tha mạng cho người đó.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói với Triệu Cát: "Ta không biết dùng bút lông vẽ tranh sơn thuỷ, hoa chim người. Nhưng ta có thể dạy cách hoàng tử cách dùng than chì vẽ tranh, cũng có thể dạy hoàng tử cách thưởng thức hội hoạ đúng đắn, có thể làm cho bức tranh của người vẽ ra giống như thật".

"Thật vậy sao?" Triệu Cát hỏi.

Ba người kia cũng bắt đầu kêu gào bắt Đỗ Văn Hạo bắt đầu dạy những kiến thức mà hắn vừa nói.

Đỗ Văn Hạo nói: "Bây giờ không còn kịp rồi. Ta phải lập tức tới nha môn Tể tướng họp. Buổi chiều nhị vị đại nhân sẽ khảo sát sở học trước kia của Hoàng Thượng và ba người. Ngày mai ta sẽ tới dạy mấy người".

Đỗ Văn Hạo dặn dò hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du mấy câu rồi mới rời khỏi Tư Thiện đường đi tới Chính Sự đường ở nha môn Tể tướng.

 Chương 413: Quay về Chính Sự đường

Khi Đỗ Văn Hạo quay về Chính Sự đường, các đại thần Tể chấp đã tới đông đủ. Thái Xác, Vương Giai không nói gì. Sau khi tuyên bố tiếp tục họp, Vương Giai cầm danh sách thảo luận của hội nghị nói: "Chủ đề thảo luận thứ năm là bộ Binh báo cáo. Thực tế là cùng với việc thỉnh cầu xuất chinh chinh phạt Tây Hạ của Kinh lược ti Hoàn Khánh, bộ Binh cũng thỉnh cầu gia tăng số lượng Sương quân của Kinh lược ti Hoàn Khánh. Hãy mời Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ vào báo cáo đi".

Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ mang theo hai tá quan, cầm một chồng sổ sách vào trong đường. Sau khi thi lễ ông ta ngồi xuống chiếc ghế ở cạnh cửa.

Vương Giai nói: "Đặng đại nhân hãy nói đề nghị của mình đi".

Đặng Nhuận Phủ vội vàng trả lời rồi đứng lên báo cáo. Đầu tiên ông ta nói thao thao bất tuyệt về tầm quan trọng của Sương quân, trong tác chiến với quân Tây Hạ không thể thiếu tác dụng của Sương quân sau đó ông ta nói về tình hình thiếu vũ khí binh lính của Sương quân Kinh lược ti Hoàn Khánh. Bước tiếp theo ông ta trình bày ý định tăng cường quân bị, binh lính, tăng quân số lên tới mức chín mươi hai doanh.

Trong quy định quân đội triều Tống. Một doanh có trong biên chế của mình năm trăm người, chín mươi hai doanh chính là bốn vạn sáu ngàn quân. Sau khi Đỗ Văn Hạo nghe xong hắn không khỏi biến sắc nhưng hắn vẫn âm thầm nhẫn nhịn, hắn muốn trước tiên lắng nghe ý kiến của những người khác.

Lúc này Hàn Chuẩn không nhún nhường nữa, ông ta lên tiếng trước: Nếu đã quyết định xuất chinh Tây Hạ, lại sử dụng binh mã Hoàn Khánh cùng lục lộ Thiểm Tây thay nhau ra trận. Vì binh mã chưa tiến, lương thảo đã đi trước. Lương thảo này cần phải có người vận chuyển. Lần xuất chính này là trường chinh, chậm thì năm ba năm, lâu thì tới vài chục năm. Nếu chỉ dựa vào dân phu khuân vác tạm thời thì không phải cách hay, còn phải dựa vào cả Sương quân. Trong khi đó Sương quân vùng Kinh lược ti Hoàn Khánh sau hơn mười năm chiến tranh với Tây Hạ, đặc biệt là sau trận đánh thành Vĩnh Nhạc đã bị tổn thất gần như không còn. Khi tác chiến không thể nào không có Sương quân vì vậy cần phải tăng cườn binh lính. Vấn đề là một lúc có cần phải tăng lên nhiều như vậy không thì nên thương thảo lại".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng cười nói: "Hàn đại nhân nói rất đúng. Kinh lược ti Hoàn Khánh là nơi xa xôi, lại liên tục xảy ra chiến tranh với Tây Hạ. Đa số trai tráng trong dân chúng cũng đều chết trong chiến tranh, rất khó tìm kiếm dân phu, chỉ có thể dựa vào Sương quân. Một Sương quân có thể tương ứng với một trăn phu dịch. Xây dựng chiến trại, vận chuyển quân lương, kiến tạo cầu đường những hạng mục này không thể thoát khỏi tay Sương quân. Bây giờ đã quyết định xuất chinh, dùng trường kỳ chiến tranh đối phó với Tây Hạ, lại càng không thể thiếu Sương quân, tăng biên chế Sương quân là việc làm rất cần thiết".

Những người còn lại cũng lên tiếng phụ hoạ.

Thái Xác cũng mỉm cười nói: "Chư vị đại nhân nói rất đúng. Xuất chinh Tây Hạ nhất định phải tăng cường biên chế Sương quân Kinh lược ti Hoàn Khánh. Về số lượng, trước tiên tăng lên một nửa sau đó xét theo tình hình thực tế tiếp tục gia tăng. Chư vị nghĩ thế nào?"

Mọi người đều gật đầu đồng ý chỉ duy có Đỗ Văn Hạo vẫn cười nhạt không nói câu nào.

Lần này Thái Xác không còn dám phớt lờ Đỗ Văn Hạo, ông ta vuốt chòm râu hoa dâm hỏi: "Đỗ tướng quân, ý của tướng quân thế nào?"

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Ban sáng thương nghị, ty chức nhớ buổi sáng chư vị đại nhân ngồi thảo luận về nhũng binh ai cũng bừng bừng căm phẫn, thậm chí còn nói nhũng binh chính là tai hoạ của quốc gia. Tại sao khi động vào vấn đề thực tế này lại không chú tới tai hoạ này mà ngược lại còn làm tai họa gia tăng?"

Sắc mặt mọi người đột nhiên thay đổi, Đỗ Văn Hạo nói cho cùng thì vẫn còn trẻ tuổi, vốn định nói cho hẳn hoi, nhưng khi vừa thốt ra thì lại không kìm được nữa, có gì thì nói toẹt hết ra.

Chương Hoàng lúng túng nói: "Điều này không giống với cái đó. Nhũng binh không có nghĩa là không thể tăng biên chế Sương quân. Lúc này cần thiết phải tăng biên chế nếu không khi xuất chinh Tây Hạ lấy ai là người làm các công việc tạp dịch?"

Tất cả lại gật đầu.

Đỗ Văn Hạo không để ý tới Chương Hoàng. Hắn nhìn Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ hỏi: "Đặng đại nhân, tại hạ muốn biết, trước mắt tổng chi phí quân phí của quân ta là bao nhiêu? Trong đó tỷ lệ dành cho Cấm quân, Sương quân là bao nhiêu?"

Đương nhiên Thượng thư bộ Binh phải nắm được con số này, không cần phải mở sổ sách, ông ta chắp tay nói: "Hồi bẩm tướng quân. Năm ngoái, quân phí cho Cấm quân là ba nghìn năm trăm vạn, sương quân một ngàn năm trăm vạn. Tổng cộng hai loại quân tốn năm nghìn vạn hôn (một hôn là một chuỗi, tương đương với một ngàn văn, tương đương với một ngàn nhân dân tệ. Vì vậy quân phí của triều tống một năm là năm mươi tỷ nhân dân tệ)

"Năm ngoái tổng thu ngân khố của Đại Tống chúng ta là bao nhiêu? Đại nhân có biết không?"

Đây là chuyện cơ mật quốc gia. Đương nhiên Đặng Nhuận Phủ không biết, ông ta ngơ ngác lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nhìn Tể tướng Vương Giai. Vương Giai nói: "Năm ngoái tổng tài chính thu vào là sáu ngàn vạn hôn (tương đương với sáu mươi tỷ nhân dân tệ)

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nói: "Tổng cộng mới có sáu ngàn vạn hôn. Quân phí đã chiếm mất năm ngàn vạn hôn sao'.

Đặng Nhuận Phủ nói: "Đúng vậy. Đây mới chỉ tính chi phí nuôi quân, còn chưa tính tới chi phí cho cung nỏ, đao kiếm cùng với áo giáp hao tổn cần bổ sung".

"Hả? Vậy những chi phí cho trang bị đó mất bao nhiêu tiền?'

"Hơn bảy trăm vạn".

"Vậy tổng thu của một đất nước dùng để chi phí gần như hết cho quân đội sao?"

Vương Giai cười nói: "Đỗ tướng quân, có một sự hiểu làm trong chuyện này. Có một phần tiền rất lớn chi cho quân phí không phải từ ngân khố quốc gia".

"Ồ. Chẳng lẽ quân đội còn có cách kiếm tiền sao?"

"Đúng. Nếu không thì lấy đâu ra tiền nuôi quân".

Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hắn mới tiếp xúc với quân đội hơn một tháng mặc dù hắn đã là thống soái tối cao của quân đội nhưng đối với quân đội có thể nói là khổng lồ nhất thế giới này thì vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết. Hắn thầm nghĩ quân đội còn làm ăn buôn bán thì là quân đội kiểu gì đây nên hắn vội hỏi: "Quân đội cũng tổ chức làm ăn sao?"

"Ha ha. Đương nhiên cái gì có thể kiếm tiền thì làm. Ví dụ như hồi dịch (Đầu cơ tích trữ), mở tửu quán, cho vay lấy lãi".

"Lợi nhuận thế nào?"

"Đương nhiên là lợi nhuận thu vào rất khá".

"Cụ thể là bao nhiêu?" Đỗ Văn Hạo âm trầm hỏi.

Vương Giai nói: "Tất cả những điều này bên quân đội đều bí mật nên bản tướng cũng không hiểu rõ".

"Vậy tiền lợi nhuận này không nộp vào quốc khố sao?"

"Không nộp. Khoản tiền này để cho bên quân đội chi dùng chung. Thế nhưng những lúc quốc khố trống rỗng có thể sang bên quân đội giàu có vay tiền bổ sung vào quốc khố".

"Triều đình phải vay tiền bên quân đội sao?" Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh hãi, hắn trầm giọng nói: "Rốt cuộc một năm quân đội làm ăn buôn bán ra bao nhiêu tiền? Hãy cho một con số phỏng chừng đi".

"Điều này" Vương Giai vuốt chòm râu trắng như tuyết. Hình như ông ta hiểu rõ dụng ý của con rể tương lai khi vẫn cố tình hỏi vấn đề này. Vương Giai quay sang nói với Thượng thư bộ binh Đặng Nhuận Phủ: "Đặng đại nhân, bộ binh của đại nhân quản lý Sương quân. Sương quân có không ít sự tình có liên quan tới bộ Binh. Bộ Binh cũng phụ trách tiền trả lương cho Sương quân. Đại nhân hẳn nắm được nhiều thông tin về chuyện này. Đại nhân biết gì thì cứ nói. Đỗ tướng quân đang có dự định chỉnh đốn quân đội, muốn hiểu rõ số lượng là bao nhiêu. Đại nhân hãy cứ bẩm báo con số thực. Tương lai Đỗ tướng quân sẽ đi xác minh".

"Dạ" Đặng Nhuận Phủ suy nghĩ một lát rồi nói: "Tiền lợi nhuận của Sương quân ở các địa phương chênh lệch với nhau rất lớn. Ví dụ như vùng Giang Tích giàu có ở tây bắc thu lợi gấp mấy chục lần Sương quân ở vùng tây nam (chỉ vùng Tây Nam, Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Tây Tạng.)

Mấy ngày trước, Đô thống chế Sương quân lưỡng tích lộ Tô Châu là Vương Bảo, Vương đại nhân có tới bộ Binh làm việc, trong lúc tào lao có từng tiết lộ rằng lợi nhuận thu được của Sương quân bọn họ trong năm ngoái là tám vạn sáu ngàn quan".

Tám vạn sáu ngàn quan tương đương với sáu trăm vạn nhân dân tệ.

Các đại thần Tể chấp trong đường sớm đã biết chuỵên quân đội làm ăn kiếm tiền nên không thấy ngạc nhiên nhưng khi nghe nói chỉ một lộ quân mà một năm thu lợi nhuận coa tới tám vạn sáu ngàn quán thì cũng không khỏi giật.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Một quân có bao nhiêu người?"

"Biên chế ấn định là hai ngàn năm trăm người nhưng trên thực tế không nhiều như vậy. Đại khái chỉ có chừng một ngàn năm trăm người".

"Thiếu gần một nửa so với biên chế? ' Đỗ Văn Hạo trừng mắt hỏi.

Đặng Nhuận Phủ gật đầu nói: "Biên chế của bọn họ cũng đã coi là tương đối nhiều. Có nơi Sương quân thiếu biên chế tới bảy phần".

Bây giờ Đỗ Văn Hạo không muốn tập trung vào tìm hiểu vì sao Sương quân lại thiếu nhiều biên chế như vậy. Hắn muốn tập trung vào chủ đề quân phí của quân đội: "Tới tám vạn sáu ngàn quan lợi nhuận. Bọn họ giữ lại hết dùng cho mình. Bao nhiêu tiền dùng cho quân phí, số tiền còn lại chạy đi đâu?'

"Điều này. Khụ khụ" Đặng Nhuận Phủ ho khan hai tiếng, không nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các đại thần trong đại đường nói: "Một đội quân một ngàn năm trăm người, buôn bán hàng năm kiếm lợi nhuận tới tám vạn sáu ngàn quan. Chi ra bình quân mỗi người được năm mươi quan (tương đương với năm vạn nhân dân tệ). Đây là thu nhập bên ngoài quân phí. Hơn nữa ngoại trừ quân phí, mỗi năm thu được bảy tám mươi quan tiền. Thật sự rất giàu có".

Đặng Nhuận Phủ cười gượng nói: "Đỗ tướng quân. Đây chỉ là thu nhập của Sương quân ở những vùng giàu có. Những nơi như này chiếm không tới một phần mười Sương quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân ở những nơi xa xôi lợi nhuận thu vào ít hơn số này rất nhiều. Ví dụ như Sương quân tây bắc mỗi năm chỉ thu lợi nhuận có mấy trăm quan tiền mà thôi".

Đỗ Văn Hạo hỏi" Việc làm ăn buôn bán của Sương quân rất phổ biến sao?"

"Gần như cũng chỉ là làm ăn nhỏ mà thôi".

"Cấm quân thì sao?"

"Cấm quân thì càng nhiều hơn nữa. Cấm quân có nhân tài vật lực phong phú. Tiền vốn cao hơn Sương quân. Lợi nhuận đương nhiên nhiều hơn so với Sương quân".

Đỗ Văn Hạo nhìn Vương Giai nói: "Quân đội lại đi làm ăn buôn bán, vậy còn việc huấn luyện thì thế nào? Sao có thể phòng thủ biên cương? Tại sao triều đình lại cho phép bọn họ làm như vậy?"

Vương Giai cười gượng nói: "Làm gì có chuyện cho phép như vậy. Từ Thái Tổ hoàng đế đến nay đều ra chỉ lệnh cấm quân đội không được tiến hành đầu cơ tích trữ, sai binh lính làm kinh doanh buôn bán kiếm lời, chủ tướng sẽ bị bắt trị tội".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy tại sao quân đội vẫn còn làm ăn buôn bán như vậy?"

"Điều này cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Tướng quân cũng vừa mới nghe rồi đó. Dùng ngân khố cả nước mới đủ miễn cưỡng chi dùng cho quân đội. Nếu tất cả ngân khố đều chi dùng cho quân đội, vậy triều đình lấy tiền đâu ra?

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: "Đây chính là lý do tại hạ phản đối việc mở rộng Sương quân. Sương quân là gì? Quân tạo dịch! Nói một cách dễ nghe chính là dân phu mặc quân trang. Những dân phu này hàng năm triều đình phải trả quân phí tới ba phần ngân khố để nuôi dưỡng bọn họ. Nếu như trong thời chiến thì còn chấp nhận được nhưng bây giờ ngoại trừ biên giới, tất cả hai mươi vạn Sương quân các lộ không thực hiện bất kỳ nhiệm vụ quân sự nào. Bọn họ đang làm gì vậy? Thứ nhất là bị quan phu sai làm tạp dịch, bị tướng lĩnh Sương quân coi như là công cụ kiếm tiền. Chắc chắn là mất nhiều tiền nuôi dưỡng mà không có tác dụng gì lớn. Hãy thử hỏi một lần xem? Tại sao triều đình phải bỏ ra số lượng tiền lớn như vậy để nuôi dưỡng hơn mười vạn dân phu? Thật sự có cần thiết như vậy không?"

 Chương 414: Nghe Mưa Giửa Hồ

Xu Mật viện Hàn Chuẩn cười khẩy nói: "Theo Đỗ tướng quân thì cần phải làm thế nào?"

"Giải giáp toàn bộ Sương quân về làm ruộng".

"Cái gì?" Tất cả các đại thần Tể chấp kinh hãi kêu lên. Xu Mật viện Hàn Chuẩn cười châm chọc nói: "Nếu là như thế, xin hỏi Đỗ tướng quân, việc phục dịch của Sương quân do ai gánh vác? Cấm quân sao?"

"Tại hạ vẫn còn chưa suy xét kỹ điều này. Thế nhưng dùng tiền thuê dân phu cũng không hẳn là cách tồi" Đỗ Văn Hạo buột miệng nói.

"Thuê dân phu đảm nhiệm sao?"

"Đúng" Nói xong Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy đây là một ý tưởng rất hay. Hắn vừa nghĩ vừa nói: "Cả nước có tổng cộng hai mươi vạn Sương quân, giải giáp hết những người này quy điền (về quê làm ruộng). À không, chuyển bọn họ từ quân sang dân, khai khẩn đất hoang tập thể. Không biết cả nưpỠcó nhiều đất hoang như vậy không?"

Thái Xác nói: "Đất hoang sao? Vùng Giang Tích và phụ cận kinh thành là đất giàu lắm cá nhiều thóc, dân cư giàu có thịnh vượng chỉ e là không co. Ở vùng tây bắc và tây nam cũng có. Nhưng tất cả đều là vùng chướng khí man di. Nếu chỉ chuyển hai mươi vạn Sương quân này cùng người nhà tới vùng chướng khí man di đó khai khẩn đất hoang chỉ e bọn họ sẽ không chịu đi".

"Điều này thì có thể áp dụng một số biện pháp khích lệ. Hơn nữa còn có thể lưu lại một bộ phận tới làm việc ở các phương thị. Bây giờ đang mở rộng kỹ nghệ, thiếu rất nhiều sức lao động. Nhất cử tam tiện. Vừa có thể giảm nhũng binh, vừa có thể khai khẩn rất nhiều đất hoang vừa lại có thể tăng cường lao động cho các phường thị. Thế nào?"

Chương Hoàng nói: "Suy nghĩ này đương nhiên hay. Bất kỳ ai cũng muốn giảm nhũng binh. Ai cũng biết nhũng binh chủ yếu trong Sương quân, Sương quân alị hình thành từ những người già yếu không thể làm binh sĩ đánh trận, còn có cả một ít tội phạm sung quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân là bị cưỡng bức nhận nhiệm vụ trong quân đội. Nếu bây giờ cắ giảm toàn bộ Sương quân theo như tướng quân vừa nói, bây giờ thuê dân phu để giải quyết những công việc cưỡng bức tron quân đội này, tại hạ muốn biết có thể thuê ở đâu nhiều dân phu như vậy?"

Hoàng Lý cũng nói: "Đúng vậy. Nếu như giải giáp tất cả Sương quân về làm ruộng, công việc sai dịch ở các địa phương lại đổ lên đầu dân chúng. Ban đầu khi Thái Tổ thành lập Sương quân với mục đích giảm bớt gánh nặng cho dân chúng. Nếu như vậy nhất định sẽ làm gia tăng việc phu dịch của dân chúng. Thay đổi như vậy cuối cùng là có lợi hay hại cho dân chúng?"

Những quan văn này khi tranh luận rất gay gắt. Đỗ Văn Hạo nhất thời không biết phải phản kích thế nào. Hắn không muốn tranh cãi bởi vì bản thân hắn cũng chưa nghĩ ra giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào. Nguyên nhân chủ yếu là hắn vẫn chưa xâm nhập điều tra nghiên cứu, chưa nghĩ ra một biện pháp hữu hiệu giải quyết nhũng binh Sương quân.

Vương Giai thấy Đỗ Văn Hạo há hốc mồm, cứng họng. Hiển nhiên ông ta không muốn con rể tương lai của mình khó xử nên vuốt chòm râu trắng như tuyết nói: "Bản tướng cho rằng điều Đỗ tướng quân không hẳn là vấn đề khó. Trước đây tiên đế cũng hiểu Sương quân chi nhũng. Khi tiên đế còn tại vị cũng đã cắt giảm rất nhiều Sương quân. Tiên đế cũng đã nhiều lần nói: Quốc khố hao tổn rất nhiều tiền bạc nuôi dưỡng tẩm bổ Sương quân chính là nguyên nhân của nhũng binh, cần phải sửa trị, cắt giảm. Bây giờ tân đế mới tức vị đã lập tức tăng biên chế Sương quân, điều này không khỏi đi ngược lại di nguyện của tiên đế vì vậy bản tướng nghĩ rằng bây giờ phải thận trọng".

Vương Giai nói ra cách làm của tiên đế đương nhiên không ai dám phản đối lung tung. Công phu gió xoay chiều của Chương Hoàng rất khá. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, đương nhiên sẽ trọng dụng Vương Giai cũng như phái bảo thủ. Muốn ngồi yên ổn ở vị trí của mình đương nhiên phải thiết lập mối quan hệ tốt với Vương Giai vì vậy lập tức giọng điệu của Chương Hoàng cũng thay đổi. Ông ta mỉm cười nói: "Đúng vậy, Tể tướng đại nhân nói rất đúng. Việc này vẫn cần phải bàn bạc kỹ hơn. Việc thiếu Sương quân làm lao dịch rất dễ xử lý. Chúng ta đã xác định sáu lộ quân Thiểm Tây thay nhau ra trận. Điều đó chính là phái tất cả sáu lộ quân Thiểm Tây lên trước, cũng có thể phái thêm quân ở địa phương khác cùng với sáu lộ quân Thiểm Tây".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng nói: "Đúng vậy. Ty chức cũng cho rằng nhất định ý kiến của Đỗ tướng quân có đạo lý. Một khi Sương quân chính là nhũng binh, việc tăng cường quân bị phải rất thận trọng, nếu không lại rơi vào tình cảnh hoạ vô đơn chí. Dù sao đại bộ phận Sương quân của lục lộ Thiểm Tây ở các địa phương đều đang có dính dáng tới những công việc làm ăn. Các địa phương thiếu đi một ít sai dịch hẳn cũng không có vần đề gì lớn. Có thể rút một số Sương quân ở các lộ bổ sung cho Hoàn Khánh, cũng có thể giống như Cấm quân, thay nhau tới Hoàn Khánh phục dịch. Quan phủ nha môn cũng sẽ thông cảm với triều đình, cực lực ủng hộ".

Thái Xác cũng gật đầu nói: "Đúng. Vấn đề này nhất định là phải thận trọng. Bản tướng cảm thấy đề nghị của Lâm phó sứ rất hay. Trước tiên hãy điều động Sương quân của lục lộ Thiểm Tây cho tiền tuyến Hoàn Khánh. Còn những chuyện khác chúng ta sẽ thương nghị sau".

Kết quả này Vương Giai rất hài lòng. Thế nhưng điều ông ta quan tâm chính là Đỗ Văn Hạo có hài lòng hay không: "Đỗn tướng quân, ý của tướng quân thế nào?"

Đỗ Văn Hạo còn có thể nói gì đây? Hắn vẫn chưa nghĩ ra cách sửa trị nhũng binh. Bây giờ nếu kết quả không tiếp tục diễn biến xấu đã là thành công. Hắn vội vàng chắp tay nói: "Các vị đại nhân nói rất hay. Trước tiên nên điều động Sương quân ở các địa phương khác bổ sung cho Sương quân ở tiền tuyến. Chủ ý này rất hay. Còn về chuyện cắt giảm, chỉnh đốn Sương quân đợi sau này thương nghị lại. Bất ký biến pháp nào cũng không thể vội vàng".

Đỗ Văn Hạo nhắc tới biến pháp làm mấy người Thái Xác của phái biến pháp cũng hứng thú, mỉm cười.

Cuối cùng vấn đề này cũng được thông qua. Vấn đề cuối cùng là một đề tài đơn giản. Đó là thông báo với minh Đại Liêu chuyện tân đế kế vị, kể cả việc tặng Đại Liêu một số đồ vật quý giá tiên đế Tống Thần Tông từng sử dụng làm kỷ niệm.

Khi thương nghị chấm dứt, thời gian vẫn còn sớm, Đỗ Văn Hạo quyết định đi tìm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Hắn muốn sửa đổi việc cử quan văn làm tổng chỉ huy chiến dịch đánh Tây Hạ nếu không chỉ e hậu quả của trận chiến này là không thể tưởng tượng nổi.

Đỗ Văn Hạo đi tới Phúc Ninh cung. Nội thị nói với Đỗ Văn Hạo, Thái Hoàng Thái Hậu đang ở trong ngự hoa trong Ngự hoa viên. Thái Hoàng Thái Hậu đã có chỉ, Đỗ Văn Hạo tới gặp thì trực tiếp dẫn vào, không cần phải thông báo vì vậy nội thị đã dẫn Đỗ Văn Hạo vào Ngự hoa viên. Từ xa hắn đã thấy Cao Thao Thao đang đứng chỉ trỏ trên một ngọn núi nhỏ giữa một đám người vây quanh. Trong số đó có mấy người mặc quan bào.

Sau khi Đỗ Văn Hạo leo lên ngọn núi nhỏ hắn mới nhìn rõ mấy người mặc quan bào trên núi. Trong những người đó có một lão giả, đó là Thượng thư bộ công, mấy người còn lại là quan lại bộ Công cùng thợ thủ công. Đỗ Văn Hạo đi tới sau Thái Hoàng Thái Hậu, chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu!"

Cao Thao Thao nghe giọng nói của Đỗ Văn Hạo thì vui mừng quay đầu lại hỏi: "Khanh đã tới rồi! Thương nghị đã xong rồi sao?"

"Đã xong hết rồi. Vi thần định bẩm báo với Thái Hoàng Thái Hậu về một số tình hình của hội nghị Tể chấp".

"Hay. Thế nhưng trước tiên khanh hãy giúp Ai gia xem nên tu sửa đình ngắm mưa này như thế nào? ' Cao Thao Thao giơ tay chỉ về phía trước.

Đỗ Văn Hạo không chú tới hướng chỉ tay của Cao Thao Thao. Hắn tưởng rằng nàng muốn xây dựng ngay ở dưới chân hắn liền quan sát xung quanh. Trên ngọn núi nhỏ này có đủ các loại hoa cỏ, trên sườn núi có trồng mấy cây tùng. Phía trước có một hồ nước, nước hồ xanh biếc.

Trong Ngự hoa viên có một con sông nhân tạo, dẫn nước từ sông bên ngoài thành vào trong. Nước chảy vòng quanh hậu hoa viên rồi ra ngoài Hoàng thành vì vậy nước trong hồ này luôn lưu thông. Cảnh non nước thanh tịnh và đẹp đẽ. Một hành lang cửu khúc uốn lượn trên mặt hồ. Đối diện với mặt nước xanh biếc bên dưới ngọn núi là đình đài lầu các ở xa xa, có thể nhìn thấy cả ngói Lưu ly trên các mái nhà.

Phía sau ngọn núi nhỏ là một am ni cô nhỏ xinh. Đây có lẽ là am của Thái Hoàng Thái Hậu Tào thị khi còn sống thườn ăn chay niệm phật ở đây. Trong am chỉ có hai nữ ni, Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao đều giữ lại, ban thưởng tiền và vàng bạc.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đình hóng mưa ở đây thì không còn chỗ nào tốt hơn. Bên dưới là hồ nước hoa sen, non xanh nước biết, thanh tĩnh lại ưu nhã, cũng không cần lo lắng muỗi nhỏ của hồ nước làm mất hứng. Rất hợp!"

Cao Thao Thao trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ta không nói ở chỗ này. Ý của ta là ở phía trước kia".

Đỗ Văn Hạo hoảng hốt nói: "Ở phía trước?"

"Đúng vây. Trước tiên khanh hãy xem bản vẽ đi. Bản vẽ này Ai gia đã lệnh cho bộ Công vẽ ra cả đêm hôm qua bản phác thảo này. Khanh hãy nhìn xem thế nào?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Thái Hoàng Thái Hậu làm việc rất nhanh chóng nghiêm túc. Tối hôm qua quyết định, hôm nay đã có bản vẽ lại còn khởi công ngay lập tức".

Cao Thao Thao cười nói: "Ai gia vốn tính nóng vội, không chấp nhận những chuyện chậm chạp. Trước tiên khanh hãy xem bản vẽ".

"Được!" Đỗ Văn Hạo nhận bản vẽ, mở ra xem. Tất cả đều là bản vẽ hoàn chỉnh. Tờ thứ nhất vẽ toàn cảnh. Những tờ sau vẽ bố cục của từng phần.

Đỗ Văn Hạo giật mình kinh hãi khi nhìn vào bản vẽ.

Hoàng cung của Bắc Tống không lớn. Ngự hoa viên cũng chỉ rộng bằng hai, ba sân bóng mà thôi. Trong đó vườn Ngư hoa hậu uyển của cao tằng Thái Hoàng Thái Hậu Tào thị đã chiếm mất hơn một nửa. Tất cả đều trông hoa. Ngoại trừ chùa miếu và mấy ngôi đình hóng mát, tất cả là một vườn hoa trông như gấm.

Hiện tại nhìn trên bản vẽ, vườn Ngự hoa hậu uyển đã vượt qua ra bên ngoài Hoàng cung, mở rộng hẳn về phía tây khiến cho bây giờ Hoàng cung có diện tích gần gấp đôi so với ban đầu.

Hiện trên bản đồ là một mảnh đất rộng lớn vẫn còn trống không. Ở giữa trung tâm mảnh đất là một cái hồ nước. Hồ nước này có nối liền với hồ sen của Ngự hoa viên. Ở giữa hồ có một hòn đảo nhỏ, hình chữ nhật, lớn hơn sân bóng đá một chút.

Dựa theo kiến trúc hiện lên trên bản vẽ thì thấy đó là một ngôi lầu ba tầng, chạm trổ bạch ngọc xung quanh. Trên mái của tầng lầu thứ ba có lợp ngói. Bốn mặt có mười sáu đường lan can đối xứng nhau uốn lượn như mây, cao đến ngang hông, hiển nhiên là nơi dùng để đàn ca, thi họa, múa kiếm giải trí cùng với ngắm cảnh. Bốn phía xung quanh của lầu hai và lầu một đều là cửa sổ nhỏ nhắn xinh xắn, chạm khắc. Mỗi cánh cửa sổ to đều có thể đẩy ra được. Các phòng được thiết kế đồng bộ có đầy đủ vật dụng.

Bốn phía xung quanh hòn đảo nhỏ trồng rất nhiều chuối ba tiêu. Trên mặt chuối ba tiêu có kẹp những thanh trúc. Một đầu thành trúc có giọt nước nhỏ xuống. Một guồng nước kiểu cổ dẫn nước từ hồ chảy vào thanh trúc, quanh quẩn quanh núi nhỏ. Trên thanh trúc có những lổ nhỏ chảy nhỏ giọt xuống những cây chuối ba tiêu như thế ngay cả những ngày không mưa vẫn có thể nghe thấy tiếng mưa rơi, đồng thời còn có thể tưới nước cho hoa cỏ trên núi.

Đỗ Văn Hạo nói: "Thái Thái Hoàng Thái Hậu, toà tiểu lâu giữa hồ này không có cầu. Có phải là định dùng thuyền bơi ra đó không?'

Cao Thao Thao mỉm cười gật đầu. Nàng dùng mắt ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo. Hai người bước ra một chỗ cách hơi xa các quan viên cùng thợ thủ công bộ công rồi mới thì thào nói: "Không sai vậy chúng ta có thể ở trên đảo giữ hồ nghe mưa. Bốn phía xung quanh chỉ có nước cùng tiếng mưa rơi. Không lo nghĩ gì, ung dung tự tại".

"Đúng vậy. Chỉ cần nghe nàng nói ta cũng cảm giác như tâm tình mình rất thong dong. Suy nghĩ rất hay, rất tinh tế".

Cao Thao Thao cười có vẻ đắc ý nói: "Chỉ cần ngươi thích là được".

 Chương 415: Tiểu kim khố Hoàng gia

Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn bản vẽ. Hắn thấy chỗ hồ nước chỉ có một con kênh đào nối với hồ nước ở vườn Ngự uyển thì ngạc nhiên nói: "Có phải bản vẽ này sai rồi không? Tại sao hồ nước này chỉ có kênh dẫn nước vào mà không có kênh dẫn nước ra?"

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Đây là đường dẫn nước ra, không phải là đường dẫn nước vào".

Đỗ Văn Hạo càng ngạc nhiên: "Đường dẫn nước ra sao? Vậy còn đường dẫn nước vào?"

"Ngươi đoán đi" Cao Thao Thao chớp chớp mắt, đắc ý nhìn Đỗ Văn Hạo.

"Vậy dùng nước mưa trên trời sao? Không phải. Nước mưa không đủ để duy trì liên tục. Hơn nữa nếu như trời hạn không mưa thì làm thế nào?"

"Ừ. Nước mưa chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đó. Hãy đoán lại đi. Đừng nhìn lên trời đoán. Hãy nhìn dưới đất mà đoán".

"Dưới đất sao? Nước ngầm dưới đất? Nước suѩ?"

"Đúng rồi" Cao Thao Thao có chút đắc ý với lối suy nghĩ tinh tế của mình: "Ta đã nghĩ qua có thể dẫn nước sông từ hào bảo vệ bên ngoài thành vào hồ nước như bây giờ nhưng vấn đề là trong tương lai chúng ta lại muốn bơi lội tắm rửa trong hồ nước này. Nhưng nước sông ở hào bảo vệ ngoài thành là dẫn từ nước sông Biện vào. Trên đường dẫn nước nông phụ giặt giũ quần áo, rửa chân, giặt tã, vo gạo, rửa thức ăn, giết gà mổ ngỗng. Tiểu hài tử bơi lội, đại tiện trên sông, đi tiểu trên sông, xác trâu bò, lợn dê chết trôi, thối dữa trên sông. Chỉ cầng nghĩ tới đã thấy buồn nôn".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Nghe nàng nói như vậy. Ta cũng không còn hào hứng nữa".

"Ừ, đúng vậy vì vậy ta mới tìm cách dẫn nguồn nước vào hồ này từ một nơi sạch sẽ. Ngay đêm hôm qua ta đã triệu phủ doãn phủ Khai Phong, Thái Kinh tới, lệnh cho ông ta điều tra xem nơi chúng ta xây dựng hồ này có bao nhiêu con suối. Thái Kinh làm việc này cũng rất nhanh chóng. Sáng sớm hôm nay ông ta đã báo cáo kết quả. Lớn nhỏ có tất cả ba mươi sáu suối nguồn khác nhau. Tất cả đều ùa suối nguồn nước ngọt quanh năm không khô cạn. Trong đó có hai con suối nguồn rất lớn, nước chảy tạo thành dòng suối nhỏ, chảy vào sông Biện. Hai con suối nhỏ này có tên là "Dao Bích khê. Sở dĩ có tên này là vì nước suối của hai con suối này ngọt như nước Cam lộ, trong xanh. Bên công bộ còn nói nếu như mở rộng miệng thì lượng nước còn nhiều hơn nữa".

"Thật vậy sao? Vậy tổng lượng nước là bao nhiêu?"

"Bên bộ Công đã tính toán qua. Ba mươi sáu suối nguồn này. Đặc biệt hai suối nguồn chảy thành suối, với lượng nước không dùng trong một tháng là có thể rót đầy hồ. Hơn nữa còn cam đoan nước trong hồ có thể lưu thông.

"Vậy quá hay. Chúng ta lấy nước đầu nguồn, lại vô cùng sạch sẽ. Chúng ta có thể bơi lội trong nước hồ".

Ánh mắt Cao Thao Thao chợt loé lên. Nàng hỏi Đỗ Văn Hạo: "Khanh biết bơi sao?"

"Đương nhiên khi còn bé ta thường xuyên đội quần áo lên đầu, bơi qua con sông trước nhà đi chơi".

"Thật sư? Vậy tới lúc đó ngươi sẽ dạy ta bơi. Ta không biết bơi".

"Được. Chúng ta có thể phân chia hồ này thành khu nước cạn, khu nước sâu như vậy chúng ta vẫn có thể bơi ở khu nước cạn mà vẫn an toàn".

"Không" Cao Thao Thao lắc đầu nói: "Hồ này phải đào sâu, không có khu nước cạn. Ta muốn bơi ở khu nước sâu. Ngươi hãy dạy ta. Chỉ cần có ngươi ở bên cạnh ta, ta không sợ gì cả".

Bản tính Cao Thao Thao vốn nhu nhược. Một khi nàng có thể nói câu này chính là đã có can đảm mạo hiểm tính mạng của mình. Chứng mình trong lòng nàng đã hoàn toàn tin tưởng Đỗ Văn Hạo. Trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi thấy vô cùng ấm áp khi hắn thấy mình được tin tưởng như vậy.

Đỗ Văn Hạo rất muốn "âu yếm" Cao Thao Thao một lát nhưng hắn biết không thể được, đành phải đứng quay lưng lại phía các quan lại và thợ thủ công ở phía xa xa gửi Cao Thao Thao một chiếc hôn gió.

Người cổ đại không cởi mở trong việc biểu lộ tính cách và tình yêu như người hiện đại. Đặc biệt là với người trong Hoàng cung, chỉ cần một cái giơ tay nhấc chân cũng phải chú ý lễ nghi cung đình. Cao Thao Thao chưa từng thấy ánh mắt biểu hiện tìng cảm dạt dào như vậy, nhất thời cả người nàng khô nóng bỏng, hai má đỏ như ráng mấy chiều, sóng mắt dịu dàng giống như hai giọt nước vậy. Nàng cũng học dáng vẻ của Đỗ Văn Hạo, ngón tay mân mê đôi môi mọng đỏ như muốn tiến tới đón nhận nụ hôn của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy Cao Thao Thao đã nảy sinh cảm xúc nhưng những quan lại bộ Công đang ở phía sau nên hắn cũng không dám làm xằng bậy. Một khi hắn để người khác nhận ra đầu mối của sự việc thì sẽ cực kỳ nghiêm trọng. Hắn vội vàng ho khan một tiếng rồi nói to: "Thái Hoàng Thái Hậu, những chỗ trống này người chuẩn bị xây dựng cái gì?"

Một câu gọi Thái Hoàng Thái Hậu làm Cao Thao Thao bừng tỉnh. Hiển nhiên nàg biết dụng ý của Đỗ Văn Hạo liền nhìn hắn cười khẽ nói: "Ta vẫn chưa nghĩ ra. Ngươi có ý tưởng gì không?"

"Ta?" Đỗ Văn Hạo cười gượng nói nhỏ: "Người xem trên người ta có chút tao nhã nào không? Xem bệnh ta còn làm được, để thần suy nghĩ bố cục kiến trúc thì không khác gì không trâu bắt chó đi cày".

Cao Thao Thao cười khanh khách nói: "Đừng khách khí. Hiểu biết của ngươi còn nhiều hơn rất nhiều so với mấy con mọt sách chỉ biết khoe chữ kia".

"Đa tạ Thái Hoàng Thái Hậu quá khen" Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua thấy trên bản vẽ thi công lớp lớp các ban công, mái hiên đình hóng mát chi chít như sao trên trời, tùng bách cùng trúc xanh, kỳ sơn, dị thạch trang trí ở giữa thì không khỏi lên tiếng hỏi: "Thao Thao, nàng chuẩn bị xây dựng rầm rộ là có ý định biến cả Ngự hoa hậu uyển này cải tạo thành một đại quan viên à?"

Cao Thao Thao ngạc nhiên hỏi: "Đại quan viên? Cái vườn đó là của triều đại nào xây dựng nên?"

Đỗ Văn Hạo vội vàng bịa ra: "Ý của Đại quan viên chính là mênh mông, lộng lẫy rất có phong thái, không phải vườn của triều đại nào xây dựng nên".

"Ồ, ngươi cảm thấy không tốt sao?"

"Không không, rất tốt. Ta chỉ cảm thấy xây dựng một cái vườn lớn như vậy cần rất nhiều hoa".

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo, trong mắt nàng ngập tràn sự yêu thương: "Ngươi đừng quan tâm tới tiền. Vườn này được xây dựng đặc biệt rành riêng cho hai chúng ta. Hiện tại sẽ được ngăn cách với Ngự hoa hậu uyển. Ngươi chỉ cần nói cho ta ngươi có thích hay không?"

"Đương nhiên là thích".

"Thật vậy sao?"

Cao Thao Thao nhìn thẳng vào hai mắt Đỗ Văn Hạo, nàng nhìn thấy sự chân thành trong mắt hắn, lập tức nàng cười tươi như hoa nở: "Tối hôm qua sau khi ngươi rời đi, ta không ngủ được, ta liền tới ngọn núi nhỏ này muốn tìm một nơi đẹp để dựng ngôi đình ngắm mưa.

Ta quan sát hồi lâu cũng không tìm thấy vị trí phù hợp. Sau khi mưa ngớt, nhìn về phía kinh thành xa xa, hàng vạn ngọn đèn dầu. Bóng đêm bao phủ, ngọn núi nhỏ này lại rất thấp, không thể nhìn thấy cảnh vật. Ta đã nghĩ nếu có thể dựng một cái đài cao dù không hy vọng cao như đài Đồng Tước chỉ cần có thể đứng trên cao nhìn về phương trời xa xa, có thể tĩnh tâm nghe tiếng mưa rơi vậy là tốt rồi. Lúc đó ta chỉ muốn dựng một chiếc đài cao".

Đỗ Văn Hạo nói: "Chủ ý này rất hay! Trên đài cao dõi mắt nhìn phương xa, cảm giác thật sự vui vẻ thoải mái. Khi ta còn đi học vẫn thường xuyên leo núi. Loại cảm giác "Hội đương lăng tuyệt đính, nhất lãm chúng sơn tiểu*" thật sự là không ngòi bút nào có thể tả".

Cao Thao Thao thấy Đỗ Văn Hạo đồng ý với tâm tư của nàng thì càng vui mừng nói tiếp: "Ta vốn dựng chiếc đài cao ở, phía dưới chính là hồ sen. Xung quanh là trồng chuối ba tiêu. Như vậy có thể nghe tiếng ếch kêu dưới hồ sen, tiếng mưa đạp vào cây chuối tây, và cả tiếng mưa rơi tý tách xuống hồ nước, trong lòng sẽ vô cùng mãn ý. Nhưng vấn đề là chỗ hồ nước ở Ngự hoa hậu uyển này quá nhỏ, không hợp với ý ta. Đặc biệt không có một cảm giác mênh mông cô tịch. Khe nghe tiếng mưa rơi muốn có cảm giác này tốt nhất là bơi thuyền trên mặt hồ, buông neo giữa hồ, bốn phía xung quanh chỉ có tiếng mưa rơi như vậy mới thú vị. Nghĩ vậy đột nhiên ta muốn kiến tạo một chiếc hồ, một chiếc hồ nhân tạo rất lớn, giữa hồ có một toà cô đảo. Chúng ta sẽ dựng đình nghe mưa trên cô đảo này".

"Thì ra là như vậy. Ha ha vì vậy nàng mới ngay trong đêm triệu Thượng thư bộ Công tới để thương nghị ý tưởng của nàng hả?'

"Người biết nhân gia ta nóng lòng mà" Mặt Cao Thao Thao phớt hồng, tươi như hoa đào, e thẹn nàng cười khúc khích nói: "Lần trước chúng ta đã thống nhất với nhau sau khi chuyện bận rộn qua đi chúng ta sẽ tìm một nơi nào đó tốt tĩnh dưỡng một thời gian nhưng bây giờ ta buồng rèm chấp chính, mọi sự phải gá lại, chỉ sợ không rảnh để xuất kinh nhàn rỗi du ngoạn. Ta liền nghĩ tới nếu muốn có một chỗ như vậy ở bên cạnh để tĩnh dưỡng lại tiện xử lý việc chính sự, cũng có thể để cho hai ta dắt tay nhau vui chơi sơn thuỷ vì vậy ta mới hạ quyết tâm không chỉ dựng một đài ngắm mưa mà còn muốn dựng một đại lâm viên như ý muốn. Hai ta có thể tranh thủ lúc rảnh rỗi, qua đây hưởng chút thời gian thanh tịnh, cuộc sống nhàn tản, thoát ly thế tục".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động. Cao Thao Thao đã vì chính hắn mà rầm rộ xây dựng, đặc biệt dựng một lâm viên Hoàng gia đại quy mô. Xem ra Cao Thao Thao đã thực sự mắc vào lưới tình. Một khi bị cuốn vào tình ái sẽ nảy sinh yêu thương đắm say. Đỗ Văn Hạo cảm thấy điều này hoàn toàn thật. Nếu như không phải bây giờ đang có người bên cạnh, Đỗ Văn Hạo sẽ bước tới ôm hôn nàng, nói cho nàng biết cảm nhận của lòng mình.

Dù là như thế nhưng Cao Thao Thao là người thông minh, nàng đã nhận ra sự yêu thương chân thành trong ánh mắt Đỗ Văn Hạo, lòng nàng lại như rót mật. Nàng nói tiếp: "Ngươi cũng đừng lo lắng chuyện tiền bạc. Trước khi ta triệu Thượng thư bộ Công tới tối hôm qua, ta đã triệu Thượng thư bộ Hộ tới hỏi xem rốt cuộc ngân khố triều đình còn bao nhiêu ngân lượng để tuỳ cơ ứng biến, có thể quyết định quy mô của lâm viên. Ngươi đoán xem rốt cuộc chúng ta có bao nhiêu ngân lượng còn tồn?"

"Không đoán được" Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Thế nhưng lúc xế chiều có nghe Tể tướng Vương Giai nói một năm ngân khố triều đình thu vào sáu ngàn vạn hôn. Trong số đó đại bộ phận là dùng cho quân khí nuôi quân. Hẳn là không còn đáng kể?"

"Đúng. Thượng thư bộ Hộ nói trước mắt quốc khố cơ bản đã cân đối thu chi, ngân lượng còn tồn không tới ba trăm vạn (tương đương với ba trăm triệu nhân dân tệ).

"Tiền còn ít như vậy chỉ e là không đủ để xây dựng lâm viên".

"Lúc ấy ta rất thất vọng. Tiểu Tiêu tử đã nhắc nhở ta, nhắc ta kiểm tra ngân khố Hoàng cung, có lẽ có bạc. Ta lập tức gọi tổng quản ngân khố Hoàng cung tới tra hỏi. Ngay khi mới tra hỏi thông tin biết được làm ta vừa mừng vừa sợ. Ngươi lại đoán xem ngân khố Hoàng cung có bao nhiêu tiền?"

Quốc khố thời cổ đại chia ra làm hai bộ phận. Một là cả quốc gia chính là quốc khố. Một là ngân khố Hoàng cung, là kho bạc riêng của Hoàng Thượng. Đương nhiên ngân khố Hoàng cung của Hoàng Đế cũng là nơi cất giữ tiền, ngoại trừ cống phẩm trong và ngoài nước còn tuyệt đại cũng chỉ là tiền dư của quốc khố. Những khoản tiền còn dư của quốc khố được chuyển tới ngân khố Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo nói: "Quốc khố trống rỗng. Ngân khố hoàng cung nhất định cũng có rất ít ngân lượng".

'Ta vốn cũng nghĩ như vậy nhưng khi tổng quản mở sổ sách ra tra tìm. Hì hì, ngân khố Hoàng cung chúng ta còn tồn kho một trăm bảy mươi triệu quan tiền".

Một trăm bảy mươi vạn quan tiền tương đương với một trăm bảy mươi tỷ nhân dân tệ. Ở triều Tống con số này nhất định làm người khác trợn mắt há hốc mồm.

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ hỏi: "Không thể nào. Tại sao lại có nhiều tiền còn tồn lại vậy?'

"Ta cũng rất nghi ngờ, ta bắt tổng quản dẫn ta tới ngẩn khố. Vừa mới mở cửa ra ta biết đó chính là sự thật. Tiền bạc trong ngân khố hoàng cung chúng ta xếp như toà núi nhỏ. Dây buộc xâu tiền đã mục nát, những đồng tiền chất cao như núi rơi lả tả xung quanh. Bên cạnh tiền bạc còn phải kể tới không biết bao nhiêu các loại kỳ trân dị bảo vô giá".

* Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu

Hai câu này được trích trong bài: "Vọng nhạc" của Đỗ Phủ, miêu tả sự hùng vĩ của núi Thái Sơn, một trong năm ngọn núi của Ngũ nhạc, gồm Hằng Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn

望岳 Vọng nhạc

岱宗夫如何,

齊魯青未了。

造化鍾神秀,

陰陽割昏曉。

盪胸生層雲,

決眥入歸鳥。

會當凌絕頂,

一覽眾山小。

Ðại Tông phù như hà?

Tề Lỗ thanh vị liễu.

Tạo hóa chung thần tú,

Âm dương cát hôn hiểu.

Ðãng hung sinh tằng vân,

Quyết tí nhập quy điểu.

Hội đương lăng tuyệt đính,

Nhất lãm chúng sơn tiểu.

Dịch nghĩa:

Thái Sơn trông thế nào?

Tề, Lỗ xanh liền giải.

Trời đất dồn xinh tươi,

Âm dương chia sớm tối.

Lòng ùn với lớp mây,

Mắt hút theo chim núi.

Lên chóp đỉnh mà trông,

Lè tè muôn núi dưới.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Núi Ðại Tông như thế nào?

Ðất Tề, đất Lỗ màu xanh không ngớt.

Tạo hóa hun đúc nét đẹp khí thiêng ở đó.

Sườn núi bắc (âm), nam (dương) phân chia chiều sớm

Lòng (ngực) núi dao động phát sinh lớp lớp khói mây

Giương mắt đắm vào bầy chim về tổ.

Ðược dịp lên tận đỉnh cao chót vót,

Ngắm nhìn mới thấy núi non chung quanh đều

Nhỏ bé

 Chương 416: Cải tiến biến pháp

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi: "Ở đâu ra nhiều tiền vậy chứ?"

Cao Thao Thao nói: "Đúng vậy. Ta cũng hỏi tổng quản như vậy. Sau khi hắn giải thích một hồi ta mới hiểu. Tiên đế dùng biến pháp của Vương An Thạch. Tiền phu dịch, tiền Thanh Miêu Pháp, tiền phường chợ vân vân ùn ùn đổ vào quốc khố. Trong đó tiền Thanh Miêu pháp là nhiều nhất, mỗi năm lên tới năm trăm nghìn quan. Hơn mười năm qua, hàng năm đều còn dư mà năm sau tăng nhiều hơn năm trước. Hàng năm tiên đế chuyển đại bộ phận tiền dư của quốc khố vào ngân khố Hoàng cung vì vậy mới tích luỹ tiền dư trong bằng ấy năm nhiều như vậy".

Bỗng nhiên Đỗ Văn Hạo tỉnh ngộ, hắn nói: "Thật không ngờ biến pháp của Vương An Thạch rất kém cỏi nhưng khả năng vơ vét của ông ta không nhỏ chút nào".

"Đúng vậy. Thời gian trị vì của Nhân Tông và Anh Tông hoàng đế ta biết, thường xuyên nhập vào không bù xuất ra. Quốc khố gần như không có ngân lượng dư tồn. Ngân khố Hoàng cung cũng có rất ít tiền bạc. Không ngờ hơn mười năm tiên đế lại dự trữ được lượng ngân lượng kếch sù như vậy. Quả thực làm người khác phải than thầm kinh hãi".

Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng khi hắn nghe thấy nói có rất nhiều tiền: "Vậy chúng ta xây dưng lâm viên này đại khái hết bao nhiêu tiền?"

"Khu vườn này của chúng ta chủ yếu là nhân công đào đắp, chi phí không nhiều lắm. Ta chỉ muốn phong cảnh sơn thuỷ, không xây lầu cao nên không tốn quá nhiều tiền. Bộ công đã tính toán đại khái hết khoảng bốn ngàn ba trăm vạn quan tiền".

Bốn ngàn ba trăm vạn quan tiền tương đương với bốn mươi ba triệu nhân dân tệ. Gần như là chiếm hơn một nửa tổng ngân khố của Bắc Tống.

Đỗ Văn Hạo líu lưỡi nói: "Nhiều vậy sao? Thao Thao, nàng mới buông rèm nhiếp chính đã xây dựng rầm rộ lầu gác, cung điện nay lại bỏ ra nhiều tiền như vậy để xây dựng lâm viên, chỉ e các đại thần sẽ có dị nghị".

"Khôgn sao. Tiền để xây dựng vườn hoa chính là của ngân khố Hoàng cung chúng ta, không phải tiền trong ngân khố quốc gia. Tiền trong ngân khố Hoàng cung số lượng cụ thể bao nhiêu các đại thần trong triều cũng không biết. Tất cả số tiền này chỉ là tiền phụ chi mua hoa nên bọn họ cũng không biết. Hơn nữa số tiền này chất đống trong ngân khố Hoàng cung mấy chục năm, dây buộc cũng đã mục nát, bỏ đi cũng lãng phí không bằng chúng ta dùng. Ngân khố Hoàng cung còn tồn một ngàn bảy trăm triệu quan. Chúng ta mới chỉ dùng chưa tới một phần tư số đó, cũng không tính là dùng hao tốn quá nhiều. Cứ dùng hết rồi lại kiếm được mà'.

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Sau khi Vương Anh Thạch bị bãi chức Tể tướng, chỉ sợ cũng rất khó tìm ra người có bản lĩnh vơ vét như ông ta".

Cao Thao Thao trầm ngâm một lát rồi chậm rãi gật đầu nói: "Đúng. Ông ta rất biết cách quản lý tiền bạc. Điều này trong triều từ trên xuống dưới đều công nhận. Ngân khố Hoàng cung có một ngàn bảy mươi vạn quan cũng đủ để chứng minh điều này. Ta vẫn muốn dùng ông ta làm Thương thư bộ hộ quả lý tài sản tiền bạc nhưng biến pháp của ông ta không thể tiếp tục được nữa".

Giai đoạn ban đầu của triều Tống có thành lập tam ti quả lý việc thu chi tiền bạc trong cả nước. Sau đó quyền lực của tam ti được mở rộng cực lớn, xâm chiếm rất nhiều chức năng của nha môn lục bộ triều đình, thậm chí còn xâm phạm quyền giám sát, hơn nữa cơ cấu rất cồng kềnh. Hơn nữa phân chia quyền lực không hợp lý. Khi Tống Thần Tông bắt đầu cải cách chế độ xã hội, đem trả lại tất cả các quyền hạn mà tam ti chiếm đoạt của các bộ. Trong đó có quyền tài chính trả lại cho bộ hộ. Bộ hộ quản lý tất cả tiền gạo, trưng thu thuế cùng với các công việc hộkhẩu trong cả nước. Bây giờ tương đương với bộ tài chính và bộ dân chính.

Đỗ Văn Hạo biết Cao Thao Thao ghét cay ghét đắng biến pháp. Hắn cũng đã nghĩ tới kết quả này nhưng vẫn hỏi lại một câu: "Nàng muốn bãi bỏ toàn bộ biến pháp sao?"

"Đúng!" Cao Thao Thao xua tay nói: "Biến pháp hại dân hại nước nếu không bãi bỏ cứ thế mãi nhất định dân chúng sẽ sinh biến".

"Nếu như muốn bãi bỏ chỉ e là Vương An Thạch sẽ không đồng ý tới giúp chúng ta quản lý tiền bạc. Cho dù có tới ông ta cũng thay đổi phương pháp quản lý tiền bạc, coi như vẫn là tranh quyền lợi với dân chúng. Nếu như bãi bỏ toàn bộ, chỉ e ông ta cũng theo kẻ khác, không muốn làm việc".

"Không giúp cũng chẳng sao" Nói xong Cao Thao Thao cảm thấy câu này của mình quá ngang ngược. Nàng cúi đầu suy nghĩ một chút rồi thở dài nói: "Đáng tiếc nếu biến pháp có thể không làm hại dân chúng mà lại có thể khiến quốc khố tràn đầy thì tốt biết bao".

"Vẫn có cách" Đỗ Văn Hạo nói: "Lần trước ta theo tiên đế cải trang vi hành điều tra hiệu quả của biến pháp. Ngay lúc đó phát hiện ra rất nhiều vấn đề. Thật ra phần lớn biến pháp của Vương An Thạch bản thân nó không có vấn đề gì nhưng vấn đề ở đây chính là tiến hành quá nhanh, không tiến hành theo trình tự, khiến cho cả xã hội không thể thích ứng kịp với tiến trình của biến pháp, không làm cho dân chúng nhận ra chỗ lợi ích của biến pháp. Biến pháp thiếu hẳn một người làm mẫu, một mô hình mà đã thi hành trong khắp cả nước, đương nhiên sẽ vấp phải thành kiến. Biến pháp của ông ta có địa phương có thể áp dụng được nhưng có địa phương rất khó áp dụng. Càng gia tăng chấp hành nghiêm chỉnh biến pháp quan lại càng lạm dụng quyền lực ức hiếp dân chúng, khiến biến pháp càng bị thay đổi bản chất".

Nói tới biến pháp, tâm tình của Cao Thao Thao rất mâu thuẫn. Nếu là người khác nói chỉ e nàng đã cắt ngang không cho nói nhưng người đang nói là tình nhân của nàng, nàng lại muốn nghe không phải chỉ là nghe căn nguyên của sự việc mà còn muốn lĩnh hội cả tình cảm trong đó vì vậy nàng không ngắt lời Đỗ Văn Hạo, chỉ ngẩng đầu cười nhìn hắn.

Thấy thế Đỗ Văn Hạo quyết định thừa dịp này tranh thủ thời cơ khi còn kịp nói chuyện biến pháp: "Thật ra biến pháp của Vương An Thạch, đại bộ phận có mục đích rất tốt, lợi nước, an dân, quan tâm tới lợi ích của hai bên. Chỉ cần chúng ta vận dụng đúng phương pháp vẫn có thể đạt được mục đích này".

"Có đúng không?" Cao Thao Thao buột miệng hỏi một câu.

Đỗ Văn Hạo thấy nàng hỏi chiếu lệ như vậy hiểu trong lòng nàng không thích nghe nhưng đã nói tới ddaay rồi thì vẫn phải tiếp tục nói nên hắn nói tiếp: "Ví dụ như Thanh Miêu pháp bị phán đối dữ dội nhất. Mục đích ban đầu của Thanh Miêu pháp chính là người dân khi vào lúc giáp hạt có thể mượn tiền từ nha môn để tạm duy trì cuộc sống mà triều đình cũng được hưởng lợi từ chính điều này

Khởi đầu của biến pháp này rất đúng nhưng vấn đề là những quan phủ nha môn trực tiếp biến thành công việc kinh doanh, làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa ban đầu của biến pháp. Quan phủ có công quyền trong khi đó bọn quan lại đó đã có thói quen dùng quyền lực ức hiếp người dân. Trong quá trình thực hiện đương nhiên sẽ xuất hiện chuyện lạm dụng quyền lực làm cho biến pháp biến dạng.

"Khi ta ở phủ Thành Đô lộ Nhã Châu thực thi biến pháp này, tiến hành điều chỉnh quy định vốn để an dân này, thực hiện việc sửa đổi thành hình thức góp vốn đầu tư. Hiệu quả cũng không tệ lắm".

Cao Thao Thao biết người trong lòng nàng sẽ không bao giờ lừa gạt nàng. Đỗ Văn Hạo đã nói hiệu quả khá tốt thì nhất định là hiệu quả khá tốt. Nàng có ấn tượng rất sâu sắc với một ngàn bảy trăm triệu quan tiền trong ngân khố Hoàng cung, trong một chừng mực nào đó đã làm thay đổi sự ác cảm tới cùng cực của nàng đối với biến pháp.

Trước kia Cao Thao Thao chỉ biết biến pháp là tai hoạ của dân chúng, có ý định bệnh vực kẻ yếu. Nàng hoàn toàn không hay biết việc biến pháp đã thu được một lượng tiền bạc khổng lồ cho ngân khố. Chính vì cái gọi là không lo việc nhà nên không biét củi gạo quý hiếm. Bây giờ nàng buông rèm chấp chính sẽ phải lo nghĩ cho cả đất nước. Nàng đang âu sầu không biết làm thế nào để ngân khố luôn tràn đầy.

Lần này Cao Thao Thao chuẩn bị xây dựng Ngự hoa hậu uyển vì cái gọi là cuộc sống già nhân ngãi non vợ chồng của nàng và Đỗ Văn Hạo. Nàng muốn đầu tư bốn trăm ngàn vạn quan tiền (tương đương với bốn mươi triệu nhân dân tệ). May mắn thay tiên đế đã để lại ngân khố Hoàng cung kết quả của hơn mười năm biến pháp cho nàng xử dụng. Bằng không nàng chỉ có thể ngồi mà than ngắn thở dài. Lúc này trong lòng nàng thực sự coi trọng phương pháp làm quốc khố luôn đầy chặt.

Vì vậy Cao Thao Thao hứng thú hỏi Đỗ Văn Hạo: "Ngươi tiến hành điều chỉnh Thanh Miêu pháp như thế nào?"

Đỗ Văn Hạo liền nói tất cả những thay đổi của hắn đối với Thanh Miêu Pháp, sau cùng hắn nói: "Khi ta rời khỏi đó, sau khi Thanh Miêu pháp được sửa đổi, không còn xuất hiện các tai hoạ gây ra bởi Thanh Miêu pháp. Dân chúng phản ứng rất tốt đẹp. Khi ta đi đã giao lại cho Tô Thức tiếp tục áp dụng. Không biết trong một năm qua tình hình như thế nào?"

Cao Thao Thao trầm ngâm nói: "Tô Thức là người có tài văn chương, đồng cảm với dân chúng. Nếu như biến pháp đó thật sự lợi nước an dân, ông ta sẽ tích cực áp dụng. Thế này đi. Ta sẽ ra chỉ lệnh cho Tô Thức quay về kinh thành, ta muốn hỏi ông ta một số chuyện về biếp pháp đó. Nếu như biến pháp thực sự hữu hiệu, ta có thể cân nhắc giữ lại Thanh Miêu pháp, không phải nói là Thanh Miêu pháp cải tiến của ngươi".

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Vậy tốt quá. Cứ vậy đi. Khoảng cách từ kinh thành tới phủ Thành Đô không quá xa. Hiệu quả hay không cứ cho người đi khảo sát. Nếu không chờ sau khi Tô Thức tới, bẩm báo cho nàng. Nếu như nàng quyết định giữ lại Thanh Miêu pháp cải tiến này, chúng ta sẽ ở kinh thành tuyển chọn một hai phủ, huyện tiến hành thí điểm, tích luỹ kinh nghiệm, quan sát hiệu quả. Nàng thấy thế nào?"

Cao Thao Thao khẽ cười, nói nhỏ: "Ta đã bao giờ phản đối đề nghị của ngươi chưa?"

"Hì hì. Thao Thao của ta là người ngoan ngoãn biết nghe lời nhất" Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói.

Cao Thao Thao vui mừng liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Chỉ mong sau này khi ngươi chính thức áp dụng Thanh Miêu pháp có thể làm lợi nước an dân, sau này có tiền bạc thu vào, chúng ta sử dụng ngân khố có tiên đế mới cảm thấy an lòng một chút".

"Đúng vậy. Những biến pháp khác của Vương An Thạch cũng rất hay. Liệu có cần cân nhắc giữ lại rồi thay đổi không?"

"Tham lam tất nhai không kỹ. Ngươi cũng vừa mới nói biến pháp phải tuần tự tiến hành, theo trình tự thực hiện dần dần".

"Đúng đúng. Hì hì" Đỗ Văn Hạo vội vàng trả lời. Hắn biết trong lòng Cao Thao Thao vẫn chưa hoàn toàn thay đổi ác cảm với biến pháp. Nếu không phải biến pháp cải tiến đó là thành tựu của người trong lòng, nàng nhất định sẽ không cân nhắc giữ lại. Cho dù bất kỳ ai có nói biến pháp này có thể lợi nước an dâm nàng cũng không suy nghĩ. Việc giữ lại Thanh Miêu pháp là nàng đã có thể tiếp nhận vấn đề. Nếu muốn nàng tiếp tục giữ lại, nàng sẽ không đồng ý. Mọi việc chỉ có thể bước từ từ. Hơn nữa nói như Cao Thao Thao bản thân hắn chỉ có thể chậm rãi tiến hành cải cách từng bước một. Nếu lại liều lĩnh áp dụng nhất định sẽ phạm sai lầm. Có thể giữ lại Thanh Miêu pháp cải tiến làm thí điểm đã là rất tốt rồi.

"Chúng ta hãy quay lại việc xây dựng lâm viên" Cao Thao Thao chỉ tay về khu đất rộng mênh mông phía trước dự tính xây dựng lâm viên nói: "Ta chỉ muốn ra đảo giữa hồ ngắm mưa, xây dựng những cái khác ta thực sự không nghĩ ra. Ngươi có chủ ý nào không?"

"Nhưng ta thực sự không biết gì về kiến trúc".

"Ta không muốn biết ngươi muốn xây dựng như thế nào. Hãy nói ta biết ngươi thích phong cảnh như nào là được, đương nhiên sẽ có người của bộ công căn cứ vào suy nghĩ của ngươi mà sắp đặt".

"Vậy hả? Muốn ta nghĩ thế nào thôi sao?" Đỗ Văn Hạo chỉ về phía xa xa nói: "Ta chỉ hy vọng đài sẽ cao hơn một chút. Tốt nhất là có thể cao hơn tất cả các công trình ở kinh thành. Như vây lên cào nhìn mọi núi nhỏ phía dưới cảm giác mới mạnh mẽ".

"Ta vốn cũng nghĩ tới điều này. Ta vốn cũng muốn cao hơn một chút. Ít nhất có thể cao hơn tháp của tướng quốc tự. Nhưng người của bộ công nói. Nếu một khi caosẽ bị ông trời nghi kỵ, sẽ đánh sét, tia chớp. Sét đánh đài cao. Trước kia tháp của tướng quốc tự vốn cao bảy tầng nhưng sau khi xây dựng xong một năm bị sét đánh sập một tầng, một tăng lữ trên tháp còn bị sét đánh chết. Sau này tướng quốc tự bói quẻ nói tháp cao tất bị trời nghi kỵ nên mới vội vàng sửa thành tháp năm tầng. Sau khi sửa lại, tháp không bị sét đánh nữa".

 Chương 417: Lựa chọn chủ soái

Hết Tiền

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Ôi, đó chỉ là mê tín" Bản thân hắn là người hiện đại nên có thể giải thích được nhận thức sai lầm đó. "Không tồn tại cái gọi là tháp cao bị ông trời nghi kỵ. Vì không muốn tháp cao nên ông trời mới giáng sét xuống sao? Vậy sao núi cũng cao mà ông trời không đánh xuống đi?"

Cao Thao Thao che miệng cười nói: "Đúng vậy. Ta cũng hiểu lý do này có chút gượng ép. Nhưng quả thực Tướng quốc tự bị sét đánh gẫy một tầng lầu. Hôm đó ta còn đích thân tới đó xem".

"Ta sẽ có cách phòng ngừa sét đánh rất tốt. Nàng cứ yên tâm, không có vấn đề gì hết. Thế này đi, để đề phòng vạn nhất chúng ta chỉ dùng cái tháp cao này ngắm phong cảnh, không để ngắm mưa. Hơn nữa chúng ta không nên xây dựng trên đảo giữa hồ. Chúng ta nên tìm một chỗ đất cao để xây dựng. Những khi có mưa chúng ta cũng không cần trèo lên đó nghe tiếng mưa rơi mà ngắm mưa ở Thính vũ hiên. Thính vũ hiên chỉ cần cao ba tầng là đủ. Nếu cao quá sẽ không nghe thấy tiếng mưa rơi trên mặt hồ thì sẽ không cảm thấy sự kỳ diệu".

"Chủ ý này của người rất hay. Ngươi đã nghĩ ra cách đề phòng sét đánh vậy cứ để bọn họ xây một cái tháp ngắm cảnh khác. Ngươi cảm thấy tháp đó cao bao nhiêu thì phù hợp?"

"Đương nhiên càng cao càng tốt nhưng cao quá lại không an toàn, cũng khó có thể trèo lên được. Chỉ cần chín tầng thôi. Kể ra chín tầng là cực hạn rồi, lên đó nhìn cũng rất xa rồi".

Cao Thao Thao suy nghĩ một lát rồi nói: "Dù sao chúng ta cũng phải đào hồ, đất bùn đào lên sẽ đắp thành một quả núi nhỏ, nhất định sẽ cao hơn ngọn núi này. Sau đó chúng ta sẽ xây dựng một cái tháp trên đỉnh ngọn núi đó. Không phải như vậy sẽ càng cao hơn sao?"

"Ý tưởng rất hay. Có thể đỡ được công chuyên chở bùn đất đào lên, ngược lại còn làm giảm chi phí cho của công trình".

"Đúng vậy. Người nói đi ngươi muốn xây dựng cái gì nữa?"

"Lấy đá Thái Hồ làm hòn non bộ thì không còn gì đẹp hơn". (đá Thái Hồ (loại đá ở Thái Hồ tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, thường dùng làm hòn non bộ)

"Điều này ta cũng đã nghĩ tới. Ta sẽ an bài để bọn họ vận chuyển tới. Còn gì nữa không?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: "Từ bản vẽ này có thể thấy cái hồ này rất rộng lớn, hơn nữa lại gần như hình chữ nhật. Ngoại trừ Thính vũ hiên của chúng ta ở đảo giữa hồ, toàn bộ mặt hồ trống rỗng. Ta đang suy nghĩ nếu cứ để trống như vậy nhìn lâu sẽ thấy đơn điệu. Chúng ta có thể từ đảo xây dựng một chiếc cầu dài hình vòm hơn nữa còn uốn lượn ngang hai bên bờ hồ. Như vậy chúng ta có thể từ xa nhìn Thính vũ hiên ở giữa hồ sẽ trông giống như một chuỗi hạt ngọc lơ lửng trên mặt nước".

Cao Thao Thao vỗ tay nói: "Chủ ý này rất hay. Ta nhớ rồi. Còn gì nữa không?"

"Còn nữa. Khu vườn của chúng ta rất rộng, hơi trống trải. Sao chúng ta không dựng một số hòn non bộ, trong vườn cũng nuôi một ít hươu sao, chim uyên ương, tiên hạc và các loại động vật ngoan hiền để bầu bạn với chúng ta?"

"Đúng đúng. Như vậy cả khu vườn sẽ tràn đầy sự sống, đúng không?"

"Ừ. Chúng ta đào hồ nhân tạo. Đáy hồ nhất định là bùn, một khi chúng ta dẫn nước vào, nhất định sẽ trở thành hồ bùn nhão nên phải cẩn thận đề phòng. Tốt nhất là hãy rải dưới đáy hồ một lớp đá cuộc mỏng, điều này cũng thể giúp loại bỏ tạp chất trong nước hồ".

"Hay. Ta sẽ nhắc nhở ngwoif của bộ công. Bọn họ rất có kinh nghiệm đào hồ. Cái hồ chúng ta sắp làm là do bộ công chịu trách nhiệm tổ chức đào. Chất lượng nước cực kỳ tốt. Ban đầu bọn họ sẽ trải một lớp cá mỏng và đá cuội dưới đáy hồ. Bọn họ còn làm vệ sinh chất lượng nước. Ta cũng không cần phải nói. Dù gì việc này giao cho bọn họ làm rất tốt. Ngươi chỉ cần muốn phong cảnh thế nào là được".

'Điều nàng nói nhất thời ta vẫn chưa nghĩ ra. Sau này nghĩ ra chậm rãi tu sửa cũng chẳng sao. Dù sao thì công trình đào hồ nhân tạo lớn như vậy, nhất định phải hết một năm rưỡi mới có thể đào xong. Hãy cứ lắng nghe ý kiến của những thợ thủ công của bộ công. Dù gì bọn họ thường làm những việc này nên ý kiến của bọn họ sẽ tốt hơn ý kiến của ta".

"Ý kiến của bọn họ cũng nghe nhưng vẫn chủ yếu là ý kiến của hai chúng ta. Khu vườn này được xây rành riêng cho hai chúng ta. Hiển nhiên phải hợp ý chúng ta, chúng ta phải thấy thoải mái".

"Điều này cũng đúng. Nàng cứ quyết định là được. Nàng thích là ta cũng thích".

"Ừ. Vậy được rồi. Trước tiên ta dựa theo ý kiến của người cùng suy nghĩ của ta để cho bọn họ làm. Ngươi hãy bớt chút thời gian đến xem, có điểm nào hay hoặc có chỗ nào không hài lòng hãy kịp thời nói ra. Trước nay ngươi vẫn bận rộn chuyện nhũng binh, nhân tiện hãy để chuyện này giúp ngươi có chút tiêu khiển".

Cao Thao Thao đã nhắc tới chuyện nhũng binh, Đỗ Văn Hạo càng nhân cơ hội bám lấy. Hắn nói: "Hôm nay Tể chấp thương nghị chính sự còn nói tới cả chuyện nhũng binh.

Đúng rồi Tây Hạ đã nhiều lần hưng binh xâm phạm biên giới chúng ta. Tể chấp đã thương nghị và quyết định xuất chinh đánh Tây Hạ. Có lẽ chuyện này đã được bẩm báo với nàng".

'Bẩm báo rồi. Ngay giữa trưa đã bẩm báo. Ta đã xem qua Tây Hạ quá càn rỡ, khinh thường Đại Tống ta không có người. Nhất định phải giáo huấn cho chúng một trận. Đề nghị của ngươi rất tốt, làm từng bước một, tiến chắc từng bước, đánh lâu dài, lấy sở trường của mình khắc sở đoản của chúng. Bọn họ đề nghị cử người làm binh mã Đại nguyên soái để ngươi ở lại kinh thành toạ trấn chỉ huy, cử một tổng chỉ huy mặt trận nghênh địch ở Hoàn Khánh. Đề nghị này ta cũng đồng ý".

Đỗ Văn Hạo rất sốt ruột, hắn vội vàng hỏi: "Vậy nàng đã hạ chỉ phê chuẩn chưa?"

"Vẫn chưa. Gấp gì mà không thể lùi lại nửa ngày sao? Bọn họ nói là cuối buổi chiều còn một tấu chương về việc tăng biên chế Sương quân cần phê duyệt nên ta đã để lại. Bây giờ các ngươi đã thương nghị xong ta sẽ quay về phê duyệt".

"Không không" Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: "Ta tới tìm nàng chính là muốn thương lượng với nàng về chuyện chọn quan chỉ huy nghênh địch. Nói chuyện ở chỗ này không tiện. Hay chúng ta nên quay về cung nói chuyện?"

Cao Thao Thao liếc nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, gương mặt nàng thoảng ửng hồng, nàng nói nhỏ: "Ừ. Đi thôi".

Sau khi Cao Thao Thao căn dặn Thượng thư bộ công tiếp tục khảo sát thiết kế khu vườn nàng cùng Đỗ Văn Hạo xuống núi, rời khỏi vườn Ngự uyển đi về tẩm cung. Nàng vẫy tay cho mấy người Tiêu công công lui ra ngoài, khép cửa lại.

Cánh cửa vừa mới khép lại thì lập tức hai người như dính lại với nhau, cùng ngã xuống giường. Liệt hoả bừng bừng nổi lên, quần áo của hai người bị lột ra hơn một nửa. Sau một hồi hai người sục sôi, Cao Thao Thao yêu kiều thở hổn hển, lúc này nàng gần như phải tự đè nén bản thân vì hai nước đã có ước định chịu tang một năm. Hai người nén ngừng lại ôm nhau nằm trên giường nói chuyện.

Cao Thao Thao dùng ngón tay thon dài của mình vẽ vẽ trên lồng ngực của Đỗ Văn Hạo, nhỏ nhẹ nói: "Nếu ngươi không thích Lữ Công đảm nhiệm chức tổng chỉ huy mặt trận thì hãy đổi người đi. Ngươi muốn người nào ta cũng đồng ý".

"Thật sao?" Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Hắn đã sớm chọn được người đảm nhiệm chức quan tổng chỉ huy chiến dịch nên nói ngay: "Hãy để cho Khúc Chẩn đảm nhiệm chức vụ này, được không?"

"Khúc Chẩn? Là ai vậy? ' Trước kia Cao Thao Thao không để ý tới chuyện chính trị và quân sự nên nàng không biết danh tiếng lẫy lừng của Đại tướng Bắc Tống Khúc Chẩn.

Đỗ Văn Hạo đã nghiên cứu lịch sử chiến tranh giữa Đại Tống và Tây Hạ. Thường ngày hắn cũng được nghe nhiều chuyện cũ của đám người Lý Phố vì vậy có hiểu biết rõ ràng về Khúc Chẩn: "Khúc Chẩn là Đại tướng của chúng ta, ông ta vốn là phó Tổng quản lộ Đường Duyên, chinh chiến hơn mười năm với Tây Hạ, đã nhiều lần cầm quân đánh bại quân Tây Hạ trong các chiến dịch lớn nhỏ, là một viên hổ tướng. Đáng tiếc trong trận đánh thành Vĩnh Nhạc, chủ soái của quân ta quyết định sai lầm, binh bại thành Vĩnh Nhạc. Khúc Chẩn chỉ huy tàn quân huyết chiến đánh giết giữa vòng vây, thoát được một mạng nhưng sau đó lại bị hạch tội, nói ông ta bại trận bỏ trốn nên bị biếm coi cổng thành, hiện nay ông ta đang ở kinh thành. Trận chiến đó ông ta bị trọng thương nên vẫn cáo bệnh ở nhà dưỡng thương nên nàng vẫn chưa từng gặp qua".

"Ông ta là võ tướng?"

"Đúng vậy".

Cao Thao Thao cười áy náy nói: "Thái Tổ hoàng đế đã có di chiếu triều Tống ta chỉ dùng quan văn cầm quân. Đây chính là chế định vạn năm không được thay đổi. Cho dù ta có đồng ý với ngươi thì đại thần trong triều cũng không đồng ý. Khi đó tấu chương can gián sẽ bay tới như tuyết rơi, chúng ta sẽ không sao chịu nổi".

"Không để ý tới bọn họ không được sao?" Nói xong câu này Đỗ Văn Hạo cảm thấy lời nói của mình không ổn lắm. Dù sao Cao Thao Thao mới buông rèm chấp chính. Lúc này nàng cần nhất là sự ủng hộ mà không phải là làm cho các đại thần bất mãn và phản đối để làm mất uy tín.

Đỗ Văn Hạo thấy sắc mặt vô cùng khó xử của Cao Thao Thao. Hắn biết nàng không đành lòng phản đối làm mất mặt hắn nhưng nàng cũng không có cách nào đồng ý với đề nghị của hắn nên hắn ôm nàng hôn và nói: "Nếu như đây là di chiếu của Thái Tổ cũng chỉ còn cách tuân theo. Vậy cứ dùng Lữ Công làm chủ soái. Khúc Chẩn làm phó soái, được không?'

Cao Thao Thao thở nhẹ một hơi, nàng mỉm cười gật đầu, hôn Đỗ Văn Hạo nói: "Điều này thì không thành vấn đề. Quân ta khi xuất binh, phó soái thường là võ tướng. Khúc Chẩn vốn là bại tướng, đáng không nên trọng dụng nhưng do ngươi đề cử, hơn nữa trước kia ông ta lại lập nhiều chiến công nên cứ để ông ta làm phó tổng chỉ huy mặt trận".

"Vậy tốt quá. Ta thay mặt Khúc Chẩn cám ơn nàng cho ông ta một cơ hội nữa lập công vì đất nước, ta cũng thay mặt tướng sĩ ở tiền tuyến cám ơn nàng".

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: "Vì sao tướng sĩ ở tiền tuyến phải cám ơn ta?"

"Đi theo một chủ soát tài giỏi nói không chừng sẽ đánh thắng trận. Nếu đi theo một chủ soái bình thường nói không chừng sẽ mất mạng. Nàng đồng ý cử một viên tướng xuất sắc như Khúc Trân ra tiền tuyến cho dù chỉ là một phó soái nhưng ít nhất cũng có thể có thể làm cho binh sĩ có thể không mất mạng nên bọn họ đương nhiên muốn cám ơn nàng".

Cao Thao Thao buồn bực vô cớ nói: "Quan văn làm chủ soái lại thực sự kém cỏi như vậy sao?"

"Đương nhiên không phải toàn bộ đều kém cỏi. Ví dụ như Phạm Trọng Yêm, ông ấy xuất binh đánh thắng rất nhiều trận nhưng xét một cách tổng thể quan văn rất kém cỏi. Từ cổ đại tới giờ chỉ có Tống triều chúng ta mới dùng quan văn làm thống soái cầm quân như vậy không thể nói đây là chuyện sáng suốt".

Cao Thao Thao u oán trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Cái gì mà không sáng suốt? Đừng ăn nói lung tung. Đây chính là quy định do Thái Tổ định ra".

Đỗ Văn Hạo cười hì hì. Hắn vuốt ve ngực nàng nói: "Khi có hai chúng ta, ta mới nói. Khi có người khác ở trước mặt ta, ta sẽ không bao giờ nói như vậy".

Hai hàng mi dài của Cao Thao Thao chớp chớp, nàng thở dài nói: "Đúng vậy. Thắng trận có thể bảo toàn tính mạnh, thua trận đương nhiên là chết. Các tướng sĩ hiển nhiên thích đi theo chủ soái đánh thắng trận. Vậy làm như nào mới thắng trận. Cho dù không thắng cũng tuyệt đối không thể thất bại. Ta nghĩ ta muốn...hay là như này, trước khi xuất binh ta sẽ căn dặn Lữ Công, ta muốn ông ta lắng nghe cẩn thận ý kiến của Khúc Trân. Nếu ý kiến hợp lý nhất định phải dùng. Nếu như Khúc Trân phản đối quyết liệt kế hoạch tác chiến thì chỉ cần không phải là việc quân khẩn cấp nguy hiểm cho quân ta, cũng không cần được thực hiện, phải báo cáo cho ngươi. Cũng bắt bọn họ là cam đoan không để thua trận, cũng bắt bọn họ nghiêm khắc thực hiện theo từng bước kế hoạch tác chiến ngươi đã định ra, không được phép sửa đổi theo ý mình".

Đỗ Văn Hạo vui mừng hắn hôn lên gương mặt mềm mại của Cao Thao Thao nói: "Thao Thao, nàng thật tốt. Ta thấy hành động này không đi ngược với di huấn của tổ tông, cũng có thể chú ý tới thực tế đòi hỏi của chiến sự. Thao Thao, ta vẫn còn một biện pháp nữa".

 Chương 418: Ba đạo thánh chỉ.

Cao Thao Thao nói: "Ngươi nói với ta về đủ các loại tai hại của thống soái cầm quân không có tài năng, cứ xuất binh là bại trận. Một trong những nguyên nhân đó là quan văn cầm quân. Những điều này trước kia ta cũng được nghe rất nhiều từ các đại thần. Kỳ thật trong lòng ta cũng hiểu quan văn cầm quân quả thực không hợp lý. Văn thần an bang, võ tướng định quốc. Việc cầm quân đánh trận cùng với việc cầm bút viết văn chương là hai điều khác nhau. Chưa từng cầm quân, lại không biết binh pháp, cũng giống như một nông phu không biết chữ nhưng lại muốn hắn cầm bút viết chữ, vẽ tranh vậy. Sao có thể vẽ ra bức tranh đẹp được đây?"

Đỗ Văn Hạo vừa vui mừng vừa kinh ngạc, hắn quay người ôm Cao Thao Thao, hôn nàng một nụ hôn dài nói: "Hay, Thao Thao. Nàng quả thực là người hiểu rõ đại cục. Lúc này đây quốc gia có bậc quân vương nhìn xa trông rộng như nàng chính là điều mmay mắn của ba quân tướng sĩ cùng với lê dân bách tính".

"Được rồi" Cao Thao Thao gắt lên: "Trước mặt ta bớt nói những lời nịnh nọt, không cần thiết".

"Nói thật lúc này không phải ta nói những lời nịnh nọt. Đây chính là những lời tâm huyết. Là một người bình thường thì không cần phải có lối suy nghĩ đo nhưng là người đứng đầu một đất nước nhất định phải có tài năng. Đại Tống ta thật sự có hy vọng".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Ta vốn nghĩ như vậy nhưng lại không thể thay đổi quy định của tổ tông. Rất khó khăn".

"Tổ tông đã chết. Người vẫn còn sống. Thời thế thay đổi, không thể cũng khăng khăng tuân theo cái cũ. Cũng cần phải căn cứ vào thời cuộc để điều chỉnh các quy định. Cái này gọi là thực sự cầu thị".

Cao Thao Thao cười khì một tiếng nói: "Thật sự phải như vậy sao?"

"Vốn phải như vậy. Thế nhưng biến pháp cũng chỉ thay đổi từng bước một, không thể nóng lòng thực hiện. Ví dụ như quy định quan văn cầm quân. Chính ngươi cũng biết là không ổn, thực tế đây chính là một trong những nguyên nhân khiến chúng ta cứ xuất quân là thất bại, đương nhiên cần phải thay đổi. Nhưng vấn đề này đã ăn sâu vào trong đầu các đại thần trong triều, chúng ta nhất định phải cẩn thận".

"Ừ. Ngươi nói rất có đạo lý. Ngươi cảm thấy cần phải thay đổi như thế nào?'

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: "Phương pháp lúc trước của nàng rất hay. Trước tiên gia tăng quyền lực cầm quân của các võ tướng, chỉ cần không phải trong tình trạng quân tình khẩn cấp, võ tướng phó soái không cần đồng ý với kế hoạch tác chiến. Quan văn chủ soái không được thực hiện phải bẩm báo về triều đình. Mặc dù như vậy có thể làm mất đi một số cơ hội chiến trận nhưng có thể giảm bớt tới mức thấp nhất thất bại".

Biện pháp này của Cao Thao Thao vốn chỉ đặc biệt ưu đãi cho Đỗ Văn Hạo. Nay nàng nghe nói quy định này có thể mở rộng, lúc nàng mới chăm chú cân nhắc một hồi rồi nói: "Ta cũng không biết biện pháp này có được thông suốt. Hay thế này, trước tiên chúng ta cứ xem hiệu quả lần này thế nào rồi ta mới quyết định, được không?" Sự thật thắng hùng biện. Dù sao việc này có liên quan tới việc sửa đổi di huấn của tô tông, nếu không nhìn thấy hiệu quả, Cao Thao Thao sẽ không đồng ý, Đỗ Văn Hạo đương nhiên hiểu rõ điểm này, hắn hôn nàng nói: "Được được. Kỳ thật ta cũng biết làm như vậy có thông suốt không nhưng thực tế kiểm nghiệm chân lý chính là tiểu chuẩn duy nhất. Bất kỳ thay đổi nào chỉ có áp dụng thực tế mới biết có hiệu quả hay không. Cũng chỉ dựa vào thực tiễn sửa chữa hoàn thiện từng bước một thì mới tốt lên được".

"Ừ. Được rồi. Ta nghe nói giữa trưa nay ngươi tới dạy học cho mấy người Hoàng Thượng?"

"Đúng vậy. Không phải nàng để ta phụ trách việc học của Hoàng Thượng sao?'

"Đúng vậy. Buổi tối hôm qua ta sốt ruột quá đâm quên mất chuyện này. Ta cảm thấy ngươi có rất nhiều thứ mà người khác không có. Ngươi có rất nhiều sáng tạo không giống với người bình thường.

Mặc dù ta hy vọng sau này Hoàng Thượng kiên quyết theo biến pháp, nhưng ta cũng không hy vọng Hoàng Thượng là một người thủ cựu vì vậy ngươi phụ trách việc học của Hoàng Thượng, trong kh đó sớm muộn gì Hoàng Thượng cũng tự mình chấp chính nên ta hy vọng ngươi sẽ dạy Hoàng Thượng trở thành một quân vương chân chính".

"Ta sẽ cố gắng hết sức. Thế nhưng dường như Hoàng Thượng quá tinh nghịch, ta quản lý rất nghiêm, nàng cũng đừng đau lòng".

"Nghiêm sư xuất cao đò. Ngươi không cần lo lắng, ngươi cứ việc mạnh tay dạy bảo. Nếu Hoàng Thượng không nghe lời ngươi, ngươi cứ việc nói cho ta biết".

"Được".

Sau khi hai người thân mật với nhau một lúc lâu, tới tận khi trời tối đen, Đỗ Văn Hạo mới cáo từ rời khỏi Hoàng cung, quay về Ngũ Vị đường.

Chúng nữ thấy Đỗ Văn Hạo quay về tức thì líu ríu vây quanh hắn. Kha Nghiêu nhanh mồm nhanh miệng, cười vui vẻ nói: "Ca, Thái Hoàng Thái Hậu ban cho chúng ta một phủ đệ rất lớn. Bọn muội đã đi cả một canh giờ mới hết một vòng".

Tuyết Phi Nhi cũng nói: "Đúng vậy. Bên trong rường cột chạm trổ, kỳ sơn dị thạch, vô cùng khéo léo".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đó là đương nhiên. Toà phủ đệ này vốn định cấp cho Ung Vương gia, tất phải xa hoa. Mọi người hài lòng là được".

Bàng Vũ Cầm cũng nói: "Rất hài lòng. Thiếp không thấy có chỗ nào cần tu sửa. Hì hì".

'Khi nào sẽ xây dựng xong?"

'Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để bọn họ ngày đêm tăng cường xây dựng để đại khái khoảng nửa tháng nữa là hoàn thành, không được chậm trễ đón dâu".

Đỗ Văn Hạo xấu hổ hỏi: "Hì hì, đón dâu ở phủ đệ mới sao?"

"Đương nhiên, tân phủ đệ nghênh đón tân nương tử như vậy mới tốt".

Anh Tử nói: "Thiếu gia, trên đường về phu nhân đã nói bây giờ thiếu gia phải cầm quân, không đọc binh thư không thể cầm quân vì vậy mới đặc biệt đi tới thư viện của võ viện mua cho người mấy cuốn binh thư. Đề Cử võ viện nghe thấy chạy tới tự mình chọn giúp cho thiếu gia rất nhiều cuốn binh thư".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Vậy tốt quá. Binh thư ở đâu?"

"Để ở cả thư phòng".

"Hay quá. Ngày mai ta chính thức bắt đầu khảo sát quân tình của quân đội. Nhân dịp bây giờ rỗi rãi ta tới xem qua một lát".

Đỗ Văn Hạo đi tới thư phòng. Quả nhiên trong thư phòng có thêm một cái giá sách. Trên giá sách tất cả đều là binh thư.

Đỗ Văn Hạo rút một quyển ngồi xuống đọc. Cuốn binh thư này viết bằng cổ văn. Hắn đã cố hết sức mà có rất nhiều đoạn xem không hiểu. Chỉ đọc được nửa canh giờ, hắn đã thấy choáng váng hoa mắt.

Đỗ Văn Hạo ném cuốn binh thứ xuống, nhắm mắt dưỡng thần. Nhớ lại một chút nhưng hắn không chút ấn tượng với những gì vừa đọc, cũng không nhở nổi vừa đọc những gì, đành thở dài nghĩ: "Ôi. Nếu như có một sư phụ giảng giải cho thì tốt. Xem ra cần phải có một sư phụ chỉ dạy binh pháp mới được.

Ngày mai giảng bài cho Hoàng Thượng, Đỗ Văn Hạo quyết định suy nghĩ một chút về nội dung nhưng tóm lại hắn cũng hông nghĩ ra cần nói cái gì.

Thế nhưng việc cấp bách nhất vẫn không phải là vấn đề dạy học cho Hoàng Thượng. Vì giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời. Nếu hắn muốn dạy Hoàng Thượng thành một người hợp với lý tưởng của hắn cũng không phải một việc có thể nhanh chóng làm được. Gần vua như gần hổ. Con hổ có thể quay đầu nuốt sống người đang nuôi dưỡng mình.

Đỗ Văn Hạo quyết định tập trung sức lực cải cách quân đội, việc dạy học cho Hoàng Thượng chỉ là việc thứ yếu. Năm ngày chỉ dạy một lần, mỗi lần chỉ nửa ngày còn lại để cho những bậc đại nho kia chủ yếu dạy cho Hoàng Thượng những điều mơ hồ cùng với những phương pháp trị quốc an dân. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của các đại thần trong triều.

Một khi đã như vậy cũng sẽ không cần phải nóng vội dạy Hoàng Thượng này tất cả các tri thức hiện đại. Trước tiên hãy chỉ dạy Hoàng Thương những kiến thức bình thường tương đối thú vị là được, còn nhưng tri thức khoa học có tính thực dụng thì còn phải chờ tình hình sau này rồi mới tính tiếp.

Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Đỗ Văn Hạo đã vạch ra một đề cương sơ bộ của một số tri thức hiện đại như: Thiên văn, địa lý cùng một ít lý hoá, xác định trình tự truyền thụ trước sau. Dù chỉ viết đề cương nhưng hắn vẫn bận rộn gần hết một đêm.

Sau khi viết xong tất cả, Đỗ Văn Hạo mới đi ngủ. Hôm nay tới lượt Tuyết Phi Nhi hầu hạ. Sau khi hai người trải qua một cơn giông bão điên cuồng, Tuyết Phi Nhi mệt mỏi nhanh chóng ngủ thiếp đi nhưng trong đầu Đỗ Văn Hạo lại không tĩnh tâm được giống như gió to sóng cả.

Bánh xe lịch sử bây giờ đang nằm trong tay hắn. Hắn nên điều khiển bánh xe này chạy như thế nào không để tới mức hơn bốn mươi năm sau phải nằm dưới gót sắt của Đại Kim. Đối mặt với khung xe ngựa già nua của Đại Tống, giống như một lão nhân mà bệnh đã ăn vào cao hoan, Đỗ Văn Hạo thật sự không biết phải ra tay chữ trị từ chỗ nào.

Hắn cứ suy nghĩ miên man, hỗn loạn cho tới tận gà gáy mới ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau Đỗ Văn Hạo rời khỏi giường làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng thì người gác cổng chạy vào báo ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu tới, muốn Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ.

Đỗ Văn Hạo vội vàng bày hương án. Người đến tuyên chỉ đương nhiên là thái giám thân cận của Thái Hoàng Thái Hậu, Tiêu công công. Liên tục có ba đạo thánh chỉ tốt. Nội dung Đỗ Văn Hạo cũng đã biết trước. Đạo thánh chỉ thứ nhất bổ nhiệm hắn làm Chinh thảo Tây Hạ Chiêu Thảo Sứ, thống lĩnh năm vạn cấm quân sáu lộ Thiểm Tây chinh phạt Tây Hạ, đồng thời cũng bổ nhiệm Lữ Công làm thống soái chỉ huy mặt trận. Đại tướng Khúc Trân làm phó thống soái.

Hai đạo thánh chỉ còn lại là bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm Đề Cử Thái y cục và ban thưởng toà phủ đệ cho hắn. Cuối cùng Tiêu công công nói với Đỗ Văn Hạo rằng Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ tuyên cáo thiên hạ Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo được ngự định là cửa hiệu lâu đời, coi đây là nhãn hiệu sản xuất dược phẩm và khí tài, không ai được phép mạo danh nếu không sẽ bị xử theo tội cường đạo.

Nghe xong Đỗ Văn Hạo lại càng hoảng sợ. Đạo thánh chỉ này bảo vệ quyền sản phẩm e rằng còn mạnh mẽ hơn xã hội hiện đại. Trung Quốc hiện đại quy định tội xâm phạm bản quyền tri thức cao nhất cũng chỉ có bảy năm tù. Cao Thao Thao ban hành thánh chỉ nói xâm phạm nhãn hiệu độc quyền Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo bị luận tội xử theo tội cường đạo. Tội cường đạo cùng tội với tội cướp bóc của xã hội hiện đại. Triều Tống xử phạt tội cường đạo cực kỳ nặng, có quy định: Cường đạo bất luận là cướp được hay không cướp được, có tang vật hay không có tang vật cũng đều bị xử tử. Nói cách khác chỉ cần có người giả mạo Ngũ Vị đường sản xuất dược liệu và khí tài thì sẽ bị xử tử.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo biết điều này Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vốn không phải có ý thức bảo vệ bản quyền tri thức mà chỉ do là tình cảm đối với hắn. Yêu ai yêu cả đường đi. Trong lòng Đỗ Văn Hạo cảm thấy xử vậy hơi nặng một chút nhưng như vậy cũng tốt. Ít nhất có thể làm người dân coi trọng bảo vệ bản quyền tri thức. Việc bảo vệ bản quyền tri thức có sự mở đầu rất tốt.

Sau khi Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ, Tiêu công công cáo từ, Đỗ Văn Hạo quyết định buổi sáng đi điều tra tình hình quân đội. Buổi chiều tới Hoàng cung dạy Hoàng Thượng học.

Anh tử và Tuyết Phi Nhi giúp Đỗ Văn Hạo mặc nhung trang. Đỗ Văn Hạo cúi đầu nhìn hắn cảm thấy bộ nhung trang cũng không tệ lắm. Bởi vì bây giờ không phải là thời chiến nên áo giáp của nhung trang đều là da thuộc, mặc vào người cũng không cảm thấy nặng. Đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường dựa theo căn dặn của Đỗ Văn Hạo hôm qua đã chuẩn bị cho hắn một con chiến mã. Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, hắn đang định giục cương lên đường thì bất chợt thấy như thiếu gì đó. Hắn ngừng lại suy nghĩ một chút rồi quay đầu hỏi Hứa Văn Cường: Ta có cần phải xử một cây trường thương hay đại đao gì đó không? Như vậy mới đầy đủ đồng bộ, phải không?"

 Chương 419: Sở quân khí.

Hứa Văn Cường nói: "Đây là điều đương nhiên. Nhưng vì không biết tướng quân dùng binh khí gì nên chưa chuẩn bị".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta không có sức mạnh, dùng chuỳ chỉ e không thể cử lên được. Dùng đại đao cũng có thể múa được nhưng cũng chỉ múa được mấy đường là không còn sức. Dùng trường thương vẫn tốt hơn, trường thương chủ yếu là đâm, lại cũng tàn nhẫn, không cần dùng quá nhiều sức. Trường thươnbg cũng hay lắm. Trước kia xem tam quốc, ta cảm thấy Bạch Mã Ngân Thương của Triệu Tử Long rất uy phong. Ta cũng muốn học thương. Ha ha ha".

"Được. Tướng quân sử thương sẽ uy phong lẫm liệt. Không biết tướng quân muốn thương của mình nặng bao nhiêu?"

"Điều này" Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: "Quan Công sử Thanh Long Yển Nguyệt đao nặng tám mươi hai cân, bản thân mình không thể nâng được chứ chưa nói tới việc sử đao. Cây Lê Hoa thương của Triệu Tử Long dù không biết nặng bao nhiêu cân nhưng nhất định mình cũng không thể nâng được. Rốt cuộc Đỗ Văn Hạo vẫn chần chừ không biết bao nhiêu cân thì hợp với hắn.

Hứa Văn Cường thấy Đỗ Văn Hạo chần chừ thì buột miệng nói: "Nếu không tướng quân hãy đi tới sở quân khí ở Đông tác phường, đặt làm một cây trường thương theo ý mình. Có được không?"

"Chủ ý rất hay! Ta đang định xem qua một chút về tình hình trang bị của quân ta. Thế nhưng Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để ta lãnh binh tây chinh, dù ta chỉ toạ trấn ở kinh thành chỉ huy nhưng trước khi làm việc này, ta cần phải tới Xu Mật viện lĩnh lệnh phù, còn phải tới bộ hộ phân phối lương thảo, còn phải tới bộ Binh lãnh danh sách Sương quân, còn phải tới tam nha thương nghị việc điều động sáu lộ cấm quân Thiểm Tây. Được rồi, còn cả việc tới dạy Hoàng Thượng học. Còn nữa ta còn phải tới xem xét Thái y cục một chút. Ta mới được bổ nhiệm làm Đề Cử Thái y cục, phải tới nhậm chức, gặp gỡ quan lại, còn phải xem có đệ tử nào không thể đào tạo. Kiến thức ngoại khoa cần phải được đẩy mạnh nhanh hơn một chút. Ta còn muốn đặc biệt đào tạo một đội ngũ quân y trong quân. Cuộc chiến sắp xảy ra, điều trị thương là một vấn đề rất lớn. Nhiều chuyện như vậy, việc nào cũng gấp gáp. Rốt cuộc ta nên tới chỗ nào trước đây?"

Hứa Văn Cường cười hì hì nói: "Tướng quân là trọng thần của triều đình. Thái Hoàng Thái Hậu giao cho tướng quân nhiều trọng trách, đương nhiên tướng quân phải rất bận rộn. Hay trước tiên chúng ta tới Xu Mật viện lệnh phù lĩnh binh và phái binh sau đó chúng ta tới sở quân khí chế tạo binh khí?"

"Không" Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ yên ngựa nói: "Bản tướng quân tay không, sao có thể cầm quân ra trận giết giặc? Binh khí phải làm trước. Đặc biệt ta muốn phải đích thân tới xem binh khí của sở quân khí như thế nào? Tốt nhất là đừng có một đống sắt vụn, giáp nát, hy sinh tính mạng những nam nhi tốt trong quân ta. Chuyện binh khí này không thể làm qua loa được. Đi, đi, tướng quân ta muốn tới xem sở quân khí trước sau đó hẵng tới Xu Mật viện. Không thể chậm trễ".

Sở quân khí chính là công binh xưởng của triều Tống, chuyên biệt sản xuất các loại vũ khí trạng bị. Sở quân khí độc lập với sự quản lý của tam nha. Dù tam nha của Đỗ Văn Hạo không quản sở quân khí nhưng tam nha có quyền đưa ra các ý kiến đối với tình hình trang bị binh khí của binh lính vì vậy có quyền tới thị sát sở quân khí. Huống chi bây giờ hắn là một Tể chấp lại càng có quyền lực trong lĩnh vực này.

Đỗ Văn Hạo mang theo đội thân binh hộ vệ tới sở quân khí. Quan đứng đầu sở quân khí gọi là quân khí giám. Đó là một viên quan hàm chính tứ phẩm, ông ta vừa nghe quan Tể chấp Đỗ Văn Hạo tới vội vàng dẫn theo các tá quan ra đón.

Quân khí giám này họ Thích, là một lão đầu nhanh nhẹn, cung kính với Đỗ Văn Hạo một cách quá mức: "Ty chức xin ra mắt Tể chấp Đỗ đại nhân. Không biết Đỗ đại nhân quang lâm, không đón tiếp từ xa. Xin đại nhân thứ tội".

"Không cần khách khí. Bản quan tới đây là muốn đặt làm một món binh khí, nhân tiện xem qua sở quân khí một chút. Cho tới giờ ta vẫn chưa tới đây nên muốn tìm hiểu tình hình một chút. Được không?'

"Chào mừng đại nhân. Xin mời đại nhân".

Đỗ Văn Hạo đi theo quân khí giám bắt đầu quan sát xung quanh. Sở quân khí phân chia làm ba môn. Theo thứ tự là viện cung nỏ đặc biệt phụ trách sản xuất các loại tên, cung nỏ. Đông tác phường phụ trách việc sản xuất các loại binh khí khẹ và áo giáp cho binh lính. Tây tác phường phụ trách việc chế tạo các trang bị công thành lớn.

Đầu tiên Đỗ Văn Hạo đi tới viện cung nỏ.

Quân Tống chủ yếu dùng quân cung nỏ vì vậy trong sở quân khí có viện cung nỏ chuyên chế tạo cung nỏ. Nguyên nhân của việc này là do quân Tống thiếu chiến mã, chỉ có thể dùng bộ binh đối phó với kjy binh của Đại Liêu và Tây Hạ. Bất đắc dĩ phải lựa chọn chiến thuật này với ý đồ dùng cung nỏ, loại vũ khí bắn xa loại trừ tốc độ của kỵ binh. Cho dù quân Tống chủ yếu dùng quân cung nỏ trong bộ binh nhưng vẫn bị rơi vào thế yếu.

Khu nhà của viện cung nỏ rất rộng. Ngay khi bước vào cửa đã nghe thấy những tiếng gào thảm thiết vang lên bên trong. Đỗ Văn Hạo rất ngạc nhiên, bước chân hắn không khỏi nhanh hơn. Khi đi vào bên trong hắn thấy. Phần lớn nhà trong viện cung nỏ là nhà một tầng. Phía trước dãy nhà là một khoảng sân rộng, ở đó có một dãy cột cờ. Mấy người quần áo tơi tả bị trói vào những cái cọc đó. Mấy binh sĩ đang hung hăng vung roi da quất những người đó. Những tiếng la hét thảm thiết là của mấy người đó.

Những binh lính đó nhìn thấy Đỗ Văn Hạo mặc quan bào võ tướng hàm nhị phẩm, tuổi lại rất trẻ, bên cạnh hắn lại có quân khí giám đi cùng nên biết ngay là tân quan Đô Kiểm Điểm mới nhậm chức, Tể chấp Đỗ Văn Hạo thì vội vàng ném roi, quỳ xuống ôm quyền thi lễ.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Đã xảy ra chuyện gì?"

Một đô đầu nói: "Hồi bẩm Đại tướng quân bọn này là những binh tượng (thợ thủ công trong quân), tự ý rời bỏ công việc, mưu đồ chạy trốn, bị bắt trở lại, theo luật phải đánh năm mươi roi".

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: "Bọn họ là thợ chế tạo cung nỏ sao?"

"Dạ".

"Vậy bọn họ là những công nhân kỹ thuật là bảo bối của đất nước. Việc làm ra binh khí tốt hay không hoàn toàn dựa vào bọn họ. Tại sao lại trách phạt bọn họ? Một binh tượng không thể ra ngoài sao?"

Đô đầu nghe thấy giọng nói không có thiện ý của Đỗ Văn Hạo tức thì lo sợ không biết sai chỗ nào, trán toát mồ hôi lạnh, lắp bắp nói: "Không, không thể".

"Tại sao? Bọn họ là phạm nhân sao?"

"Không, không phải".

"Vậy vì sao phải cấm bọn họ xuất nhập? Tại sao phải phạt roi bọn họ?"

Đô đầu sợ tới mức gần phát khóc, hắn tội nghiệp liếc nhìn quân khí giám ở bên cạnh.

Quả thực quân khí giám không muốn xuất hiện lúc này nhưng nếu ông ta không ra mặt thì sẽ không có ai ra mặt, ông ta đình phải cười giả lả nói: "Đại tướng quân, đây là quy định của quân pháp. Bọn họ chỉ làm việc tuân theo luật".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn quân khí giám. Hắn hừ một tiếng đi tới trước mặt mây tên binh tượng. Hắn hỏi một binh tượng già trong số đó: "Lão nhân gia, tại sao ông lại bỏ trốn?"

Lão binh tượng kia khốn khổ ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, đôi môi giật giật nhưng khi liếc nhìn hung thần ác sát đô đầu ở bên cạnh thì lại cúi đầu rên rỉ không dám nói.

Tên đô đầu ở bên cạnh lại quát to: "Lý Hoành, Tể chấp đại nhân hỏi ngươi. Vì sao ngươi không trả lời?"

Lão binh tượng đó là Lý Hoành nghe mấy câu đó vẫn không lên tiếng.

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trên trán Lý Hoành có khắc bốn chữ: "Quân khí sở binh".

Đỗ Văn Hạo lại nhìn mấy binh tượng khác, hắn thấy trên trán mấy người đó cũng có mấy chữ như vậy. Trong lòng Đỗ Văn Hạo đã hiểu tới bảy, tám phần. Quân đội triều Tống theo chế độ mộ lính. Trên trán binh lính triều Tống đều có chữ viết.

Binh tượng sở quân khí cũng là binh lính. Quân pháp triều Tống xử phạt cực kỳ hà khắc với binh lính đào ngũ, dùng roi đánh đã là nhẹ.

Nhưng Đỗ Văn Hạo không thể chấp nhận điều này. Trong mắt hắn binh tượng sở quân khí đều là bảo bối, nhất định phải đãi ngộ lương cao để bọn họ phát huy đầy đủ kỹ thuật của mình mới có cơ sở chế tạo ra vũ khí tốt.

Nếu đã là binh lính, Đỗ Văn Hạo rốt cuộc cũng là người cầm quân, hắn cũng biết nguyên nhân chủ yếu của việc đào binh. Cứ nhìn dáng vẻ hùng hổ của tên đô đầu lúc trước, nhất định những binh tượng này đã không được đãi ngộ tốt. Trong thời kỳ hòa bình, nguyên nhân chủ yếu khiến binh lính đào ngũ chính là bị ngược đãi trong quân đội. Điều này không cần hỏi cũng biết.

Đỗ Văn Hạo tự mình bước tới cởi dây trói cho mấy binh tượng và nói: "Nếu đã là binh lính tại ngũ nhất định không được sợ khổ. Thôi được rồi, trước tiên hãy quay về dưỡng thương. Khi nào bình phục quay lại làm việc".

Lý Hoành và mấy binh tượng nhìn Đỗ Văn Hạo rồi lại liếc nhìn quân khí giám, tựa hồ như mấy người không dám tin vào lỗ tai mình.

Quân khí giám vội nói: "Tể chấp đại nhân đã cho phép các ngươi về dưỡng thương, khi nào khoẻ mới quay lại làm việc. Các ngươi còn chờ cái gì?"

Lúc này mấy người Lý Hoành mới tin đây là sự thật, vội vàng quỳ xuống dập đầu tạ ơn rồi dìu nhau rời khỏi sân viện.

Chờ mấy người đó đi khỏi, Đỗ Văn Hạo mới nói với quân khí giám: "Quân ta tác chiến không thể không có vũ khí trang bị tốt mà những thứ đó phải dựa vào những binh tượng đó chế tạo. Bọn họ không thể bị xử phạt như những binh lính bình thường. Đương nhiên đối với binh lính bình thường cũng không tuỳ tiện xử phạt. Đối với những binh tượng bỏ trốn cũng không nên dùng hình phạt mà phải dùng tình cảm đề giữ người, phải để bọn họ thấy được làm việc ở sở quân khí rất quang vinh, có cảm giác vinh dự tập thể, có cảm giác bọn họ thuộc về nơi này thì mới có thể phát huy hết sự thông minh tài trí của mình, mới có thể làm ra những binh khí trang bị tốt cho quân đội".

Đỗ Văn Hạo nói câu nào, quân khí giám gật đầu đồng ý câu đó, mái đầu hoa râm của ông ta gật gù như gà mổ thóc. Thế nhưng Đỗ Văn Hạo đã nhìn ra ông ta hoàn toàn không nghe ý kiến của hắn. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng biết nguyên nhân trong đó. Không phải viên quan quân khí giám không muốn nghe theo đề nghị của Đỗ Văn Hạo nhưng mà dựa theo quân pháp, lính đào ngũ nhất định phải xử phạt như vậy. Nói nhiều cũng vô dụng.

Đỗ Văn Hạo khẽ thở dài rồi chuyển sang đề tài khác: "Viện cung nỏ có ba nhiêu binh tượng?'

"Điều này..." viên quan quân khí giám ấp úng không trả lời được.

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: "Có bao nhiêu người mà ngươi cũng không biết sao? Ngươi làm chủ trì kiểu gì vậy?"

Gương mặt già nua của quân khí giám đỏ ửng, ông ta quay đầu lại nhìn viên phó quân khí giám. Viên phó quân khí giám vội vàng nói nhỏ: "Ba nghìn bảy trăm người".

"Đúng, đúng" Quân khí giám vội vàng chắp tay cười xoà nói: "Hồi bẩm Đại tướng quân, bỉ sở có ba ngàn bảy trăm người".

"Ồ, cũng không ít người. Những dãy nhà này có phải là tác phường sản xuất cung nỏ không?"

"Dạ dạ'.

Đỗ Văn Hạo đi vào từng gian xưởng một. Tất cả đều có chuyên môn riêng biệt. Có xưởng gia công thô, có xưởng sản xuất các loại cung, có xưởng sản xuất nỏ, còn có xưởng sản xuất dây cung và xưởng sản xuất các loại tên. Đỗ Văn Hạo đi tới gian kiểm nghiệm sản phẩm, hắn thấy binh tượng ở đây đang kiểm tra từng loại bộ phận xem có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không, kiểm tra tầm bắn cùng độ chính xác.

Cung nỏ đủ tư cách phải vượt qua tầm bắn tối đa, có yêu cầu chặt chẽ về tính chính xác, số mũi tên trúng đích trong tầm sát thương, số mũi tên không trúng đích không được vượt qua giới hạn cuối cùng.

Những binh tượng ở đây nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào liền quỳ xuống nghênh đón, Đỗ Văn Hạo bảo bọn họ tiếp tục kiểm nghiệm.

Những binh tượng đó tiếp tục kiểm nghiệm cung tên. Đỗ Văn Hạo nhìn qua một lát rồi lắc đầu cười gượng. Hắn quay đầu phân phó Hứa Văn Cường cùng mấy cận vệ đi theo mình đi lấy mấy chiếc cung nỏ đã qua kiểm nghiệm mang tới, giao cho binh tượng kiểm nghiệm, bảo kiểm nghiệm lại những cũng nỏ đó.

Khi mấy chiếc cung nỏ được đặt lên bàn, mấy binh tượng phụ trách kiểm nghiệm trợn tròn mắt, ngơ ngác nhìn quân khí giám.

 Chương 420: Dùng đúng người.

Quân khí giám cũng toát mồ hôi, nói nhỏ: "Đại tướng quân, chúng ta hãy tới khách sảnh, ty chức sẽ báo cáo với ngài tình hình của sở quân khí".

Đỗ Văn Hạo nói: "Không cần nóng vội, trước tiên hãy xem chất lượng của mấy chiếc cung nỏ này. Sáng sớm hôm nay Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ bổ nhiệm bản quan là Tây chinh Tây Hạ Chiêu Thảo Sứ, thống lĩnh năm vạn binh mã tấn công tiêu diệt Tây Hạ.

Lần này bản quan tới sở quân khí. Thứ nhất là muốn đặt làm một món binh khí. Thứ hai muốn xem rốt cuộc tình hình binh khí của chúng ta như thế nào. Dù sao những vật này là để bảo vệ tính mạng của tướng sĩ xông lên giết định. Nếu làm kém đầu của tướng sĩ sẽ rơi xuống, không thể làm qua loa được".

"Dạ dạ".

Viên quân khí giám lau mồ hôi trán nói: "Điều này, trời nóng quá. Đại tướng quân, hay chúng ta tới khách sảnh, ty chức có chút đồ chơi muốn thỉnh đại nhân giám định và thưởng thức. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo biết "giám định và thưởng thức" này chính là hối lộ. Ý tứ đã rất rõ ràng nhưng Đỗ Văn Hạo lại làm như không hiểu, hắn quay đầu nhìn Hứa Văn Cường nói: "Mấy người các ngươi vừa rồi đã thấy bọn họ kiểm nghiệm như thế nào rồi. Xem ra bây giờ bọn họ cũng mệt mỏi rồi. Các ngươi tới giúp bọn họ kiểm nghiệm một chút đi".

Hứa Văn Cường cùng mấy thị vệ trả lời rồi bước tới cầm cung nỏ bắn.

Trán viên quân khí giám lại toát mồ hôi.

Cuộc kiểm nghiệm bắn kết thúc rất nhanh. Cho dù không nhìn xem thì viên quân khí giám đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, tràn đầm đìa mồ hôi lanh cũng biết được kết quả.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt. Hắn cầm một mũi tên trong đám tên, sờ đầu ngón tay vào đầu tên sau đó hắn ấn đầu nũi tên vào lòng bàn tay mình và nói với quân khí giám: "Thích đại nhân, bắn thử bốn trường cung thì có một không đủ tiêu chuẩn, ba nỏ thì có một cũng không đạt tiểu chuẩn. Nói cách khác những cung nỏ đó là thứ phẩm. Ngay cả đầu của mũi tên này cũng không đâm thủng lòng bàn tay ta thì sao chúng có thể xuyên qua áo trọng giáp dày cộm của kẻ thù? Cung nỏ như này bàn giao cho các tướng sĩ ở tiền tuyến, ngươi thấy có phù hợp không?"

Hai chân viên quân khí giám mềm nhũn, ông ta quỳ dạp xuống, dập đầu nói: "Đại tướng quân, ty chức cũng chỉ là bất đắc dĩ".

"Hãy nói tình thế bất đắc dĩ này là gì. Nếu không nói được, không nói ngươi không cần làm quan nữa mà chỉ e cái đầu ngươi cũng không giữ được"

Viên quân khí giám đương nhiên biết Tể chấp Đỗ Văn Hạo nói những câu này tuyệt đối không phải là để đe doạ. Ông ta lập tức sợ tới hồn phi phách tán.

Viên quân khí giám sợ hãi run rẩy nói: "Đại tướng quân tha mạng. Là như thế này...".

Viên quân khí giám cố sức nuốt nước miếng rồi lại run rẩy nói tiếp: 'Mỗi một binh tượng ở đây đều có hạn ngạch lao động. Số lượng này do tiên đế quy định, chia đều ra. Mỗi một binh tượng một ngày ít nhất phải làm ra một trường cung, hai ngày ít nhất phải làm ra một chiếc nỏ. Một ngày ít nhất phải làm ra một trăm năm mươi mũi tên. Những người đủ tiêu chuẩn là mười phần không thể làm ít hơn chín phần. Thế nhưng kỹ thuật của những binh tượng cao thấp không đều nhau. Nếu có quá ít người đạt tiêu chuẩn thì cũng sẽ bị xử phạt. Bất đắc dĩ ty chức đành buông lỏng tiêu chuẩn".

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát. Hắn biết tiên đế Tống Thần Tông khi đó dụng binh quy mô lớn với Tây Hạ nên đương nhiên cần một lượng lớn vũ khí trang bị. Viên quân khí giám nói cũng chính là sự thật nên giọng nói của hắn hoà hoãn hơn nhiều: "Bắt đầu từ bây giờ toàn bộ số vũ khí chưa xuất sở phải chấp hành quy định kiểm nghiệm nghiêm khắc. Ta cũng muốn kiểm nghiệm lại toàn bộ số binh khí đang tồn kho. Hơn nữa số binh khí không đủ tiêu chuẩn sẽ bị loại. Ta cũng muốn thực hiện chế độ trách nhiệm nghiêm khắc, đánh số trên binh khí được làm ra. Người nào làm ra binh khí có vấn đề chất lượng sẽ dựa vào đó truy cứu trách nhiệm".

Viên quân khí giám đau khổ liên tiếp gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Còn về phần số lượng quy định ta sẽ đề nghị Thái Hoàng Thái Hậu châm chước sửa đổi. Bây giờ chúng ta không xuất binh quy mô lớn đánh Tây Hạ, tạm thời không cần nhiều binh khí kém chất lượng như vậy. Bây giờ binh khí trang bị phải tuân thủ quy định chất lượng tốt sau đó mới nói tới số lượng.

Một đống lớn phế liệu vô dụng không bằng chỉ một ít binh khí tinh nhuệ. Trong tương lai chúng ta sẽ thành lập một đội quân tinh nhuệ mà không phải đám nhũng binh hỗn tạp vì vậy số lượng binh khí có thể không cần thiết lắm nhưng chất lượng phải tinh xảo và tinh xảo. Tốt nhất có thể chế tạo cho ta một ít binh khí tiên tiến. Vũ khí tiên tiến nhất của quân ta là gì?"

Viên quân khí giám lại sợ hãi nhìn viên quan phó quân khí giám. Hiển nhiên viên quân khí giám này cũng không biết nhưng không biết vì sao ông ta lại được đảm nhiệm chức quan này.

Viên phó quân khí giám vội vàng nói: "Nói về cung tên, chúng ta có Thần tí cung thiên hạ vô song. Quân Tây Hạ và quân Liêu chưa hề có. Đây chính là vũ khí tiên tiến nhất. Tầm bắn có thể đạt tới hai trăm bốn mươi thước (ba trăm bảy mươi mét). Một người bắn bình thường có thể dễ dàng bắn xuyên qua một tấm gỗ. Trong tầm bắn, cũng có thể dễ dàng bắn xuyên qua áo giáp cứng rắn của trọng giáp kỵ binh Tây Hạ. Đáng tiếc trong cuộc chiến thành Vinh Nhạc chưa chế tạo ra số lượng lớn tran bị này bằng không cũng không thất bại như vậy".

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Lợi hại như vậy sao? Ta đã nghe nói về Thần tí cung này nhưng ta chưa nhìn thấy bao giờ. Chúng ở đâu?"

Viên phó quân khí giám đi tới chỗ một chiếc hồm, mở ra rồi hắn lấy ra một chiếc nỏ đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhận lấy, hắn hỏi vẻ khó hiểu: "Thần tí cung thì nhất định phải là cung chứ, tại sao lại là nỏ?"

"Hồi bẩm tướng quân, chỉ gọi là Thần tí cung thôi còn chính là nỏ".

"Ồ, thực sự lợi hại như vậy sao? Tới đây, chúng ta kiểm nghiệm một chút. Hãy cầm thêm mấy cung nỏ tới đây".

Để kiểm nghiệm kết quả, Đỗ Văn Hạo cầm Thần tí cing quay lại xưởng kiểm nghiệm của viện cung nỏ.

Hắn tự mình tiến hành, nâng Thần tí cung làm thành một góc bốn mươi lăm độ bắn một mũi tên. Quả nhiên mũi tên rơi xuống tận cùng sân khí nghiệm.

Khoảng cách từ chỗ hắn và mục tiêu cũng phải chừng hai trăm năm mươi bước. Đỗ Văn Hạo lại dùng chân đạp vào nỏ, đích thân lên tên. Hắn cảm thấy thao tác rất đơn giản chỉ là có chậm hơn một chút so với cung tên. Dù sao thì cũng là nỏ phải dùng cả tay chân mới có thể nạp tên được.

Sau khi bắn thử mũi tên đầu, Đỗ Văn Hạo cho người mang tới một bộ trọng giáp khoác lên cọc gỗ hình người ở khoảng cách trăm bước. Hắn lại giơ Thần tí cung bắn ngay năm mũi tên. Toàn bộ các mũi tên đều trúng đích.

Đỗ Văn Hạo tới gần kiểm tra kết quả. Toàn bộ năm mũi tên đều xuyên qua trọng giáp, cũng dâm xuyên ra phía sau cọc gỗ. Đỗ Văn Hạo liên tục gật đầu. Hắn bỏ Thần tí cung thay bằng Hoàng hoa cung và Hắc tất cung cùng với Khiêu đăng nỏ bắn thí điểm.

Tầm bắn xa nhất của chúng chưa tới hai trăm bước, rõ ràng không bằng Thần tí cung.

Hơn nữa hai cây trường cung đó ở khoảng cách một trăm bước cũng không thể xuyên thủng trọng giáp, còn nỏ thì có thể miễn cưỡng bắn thủng nhưng lực đạo đã yếu không thể xuyên ra sau cọc gỗ.

Cho dù là tầm bắn xa hay lực xuyên thì tất cả đều không bằng Thần tí cung.

Đỗ Văn Hạo khấp khởi vui mừng, hắn cầm Thần tí cung hỏi: "Đồ chơi này rất tốt. Ai đã làm ra cái này?"

"Là Lý Hoành, là lão binh tượng vừa mới bị phạt roi".

"Là người đó sao? ' Đỗ Văn Hạo kinh ngạc hỏi: "Ông ta giữ chức gì trong sở quân ?"

"Không có chức gì, chỉ làm việc ở tác phương chế tạo Thần tí cung".

Quả thực Đỗ Văn Hạo giở khóc giở cười. Một chuyên gia vũ khí quân sự như vậy mà chỉ được sử dụng như một binh tượng bình thường trong sở quân khí. Hắn tức giận nói: "Người ta đã làm ra thứ vũ khí tốt như vậy, đáng phải được thăng quan, xứng đáng được ban thưởng. Các ngươi không đề bạt ông ta làm quan cũng không nói làm gì, các ngươi lại còn đánh ông ta. Các ngươi không thấy như vậy là quá lắm sao?"

Viên quân khí giám vội vàng cười nói: "Đại tướng quân vẫn không biết chứ ông già này tính cách ngang ngược, không phục quản lý. Lần trước ông ta làm ra Thần tí cung, Hoàng Thượng rất tán thưởng, đã ban thưởng cho ông ta rất nhiều ngân lượng gấm vóc. Sau đó ông ta bắt đầu dựa vào công lao, gây chuyện ở tác phường, yêu cầu tăng tiền lương cho binh tượng, yêu cầu giảm bớt thời gian sản xuất, hết yêu sách này tới yêu sách kia. Không đồng ý ông ta xúi giục binh tượng bãi công, mấy lần có ý định bỏ trốn vì vậy mới dụng hình với ông ta".

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng hỏi: "Tiền lương của binh tượng bao nhiêu?"

Đỗ Văn Hạo biết vấn đề này viên quân khí giám càng không trả lời được nên hắn hỏi trực tiếp viên phó quân khí giám.

Phó quân khí giám vội vàng đáp: "Binh tượng đều lĩnh lương như nhau. Tiền lương năm văn, lương thảo năm thạch một tháng. Hàng năm mùa xuân, đông đều có quần áo. Tơ lụa năm thất, vải bông một cân".

Chế độ đãi ngộ này tương đương với binh sĩ Cấm quân cấp thấp, ít hơn một bậc so với quân nhân cấp trung.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo không ngừng cảm thán, hắn lại hỏi: "Hàng ngày bọn họ làm việc như thế nào?"

"Buổi sáng bắt đầu từ giờ thìn hai khắc đến tối giờ tuất hai khắc (tức từ tám giờ sáng tới tám giờ tối). Giữa trưa nghỉ nửa canh giờ ăn cơm".

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Đòi hỏi mỗi một ngày làm việc chỉ nghỉ có nửa canh giờ (mười một tiếng), số lượng công việc nhiều như vậy, chế độ đãi ngộ thấp, lại còn không được tự do ra vào, làm việc không tốt còn bị phạt roi da. Điều nay so với chế độ nô lệ lại còn độc ác hơn. Theo như ta thấy, ngươi ta bỏ trốn là bình thường. Bọn họ không khởi nghĩa chính là đã không phụ lòng các ngươi" Một Tể chấp nói ra những lời này thì có thể thấy vị Tể chấp này đã bất mãn cực điểm với công việc của sở quân khí.

Lập tức viên quân khí giam biến sắc, trán ông ta càng toát mồ hôi lạnh như mưa vậy.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Theo ta thấy Lý Hoành cũng là người rất trượng nghĩa. Ông ta yêu cầu tăng lương tháng, giảm bớt công việc là hoàn toàn đúng. Hơn nữa ông ta lên tiếng là vì mọi người. Ông ta làm ra cung nỏ tốt như vậy, chính là công thần cảu Đại Tống, ngay cả tiên đế cũng không ngớt khen ngợi ông ra. Ngược lại các ngươi đem trói người ta lại, dùng roi da đánh người ta. Các ngươi đối đãi với công thần như vậy sao? Hừ".

Viên quân khí giám sợ hãi tột cùng nói: "Ty chức biết tội".

"Biết tội? Cũng chưa hẳn. Ngươi biết ngươi có tội gì không?"

"Ty chức, ty chức không nên trách phạt Lý Hoành"

"Hừ. Trước đây ông ta làm việc ở chỗ nào?"

"Ở tác phường Thần tí cung".

"Đây mới là tội của ngươi" Đỗ Văn Hạo chỉ tay vào viên quân khí giám nói: "Phải biết dùng người đúng vào mục đích. Ngươi là người phụ trách quan trọng nhất của sở quân khí mà ngươi lại không biết dùng nhân tài của mình. Lý Hoành sáng tạo ta Thần tí cung tân tiến, uy lực như vậy, rõ ràng ông ta có kinh nghiệm nghiên cứu chế tạo vũ khí, nên đặt ông ta vào chỗ nghiên cứu trong sở để ông ta nghiên cứu ra càng nhiều vũ khí tốt càng tốt. Ngươi ngược lại coi ông ta chỉ như một binh tượng khiến cho tài trí của ông ta bị một công việc bình thường làm lãng phí. Đây chính là sự đáng trách của ngươi".

"Dạ dạ" Viên quân khí giám khom người chắp tay thi lễ, sắc mặt ông ta trắng bệch.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Sở quân khí của chúng ta có chuyên ngành chuyên môn nghiên cứu chế tạo vũ khí mới không?"

"Điều này" Viên quân khí không biết hay là sợ hãi, khẩn trương theo thói quen ông ta lại quay đầu nhìn viên phó quân khí giám.

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: "Rốt cuộc ngươi làm gì vậy? Ngay cả sở quân khí có bộ phận nghiên cứu chế tạo vũ khí hay không ngươi cũng không biết sao?"

"Ty chức, ty chức" Hai chân viên quân khí giám run rẩy, ông ta định quỳ xuống dập đầu.

Viên phó quân khí giám vội vàng chắp tay thi lễ đáp: "Hồi bẩm Đại tướng quân, bỉ sở vẫn chưa thành lập tác phường nghiên cứu chế tạo binh khí".

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một lát rồi hắn nói với viên phó quân khí giám: "Một lát nữa ngươi phái người tới Ngũ Vị đường của ta, lấy Kim sang dược của Ngũ Vị đường về cho Lý Hoành. Mặc khác ngươi hãy đưa cho ông ta năm mươi lạng bạc, xem như là sở quân khí bồi thường cho ông ta. Hãy nhận lỗi với ông ta, nói cho ông ta biết sau khi ông ta dưỡng thương xong bản tướng quân sẽ có việc trọng dụng ông ta".

Viên phó quân khí giám vội khom người trả lời.

Sau đó Đỗ Văn Hạo tiếp tục kiểm tra. Hắn đi tới kho để cung nỏ. Ở đây có từng hòm cung nỏ đã sắp sẵn, chuẩn bị vận chuyển rới tiền tuyến cùng các địa phương khác.

Hơn mười binh tượng đang đóng gói cung nỏ và tên.

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các thành phẩm trong kho vũ khí rồi buồn bực hỏi: "Các ngươi không có hoả thương sao?"

 Chương 421: Sự trống trải của trái tim rung động.

Bọn Đỗ Văn Hạo bàng hoàng, lại nói thêm: "Chính là dùng thuốc súng để chế...loại vũ khí đó"

Quân khi giám lườm quân khi thiếu giám sau lưng, tên thiếu giám đo ấp úng nói: "Dạ dạ, ở Tây tác phường có"

"Ừ, có là được rồi, đợi ta đi xem Đong tác phường rồi mới đến Tây tác phường"

Sau khi xem xét xong Cung nỏ viện, hắn đến Đông tác phường, ở đây chế tạo cung nỏ và các binh khí nhẹ cùng các đồ dùng đi kèm khác, Đỗ Văn Hạo lại tiến hành kiểm tra 1 lần nữa, ít nhất 30% số đó là sản phẩm không đảm bảo.

Trong đầu hắn đã có kế hoạch, liền không vặn vẹo tên quân khí giám khù khờ kia nữa.

Tây tác phường là nơi chế tạo khí giới lớn, các sản phẩm không đạt chất lượng ở đây tuy ít hơn, nhưng cũng phải đến 20%.

Đỗ Văn Hạo xem xét toàn bộ tác phòng, rồi hỏi thiếu giám kia: "Hỏa thương thì sao? Không phải ngươi nói Tây tác phòng có sao? Ở đâu?"

Thiếu giám vội quỳ xuống, mở một chiếc rương, lấy quả cầu bằng đất nung ra: "Chính là đây, tướng quân, cái này gọi đùa là Độc dược yên cầu (bom khói độc), bên trong là thuốc súng, đốt dây dẫn, rồi ném vào trận địa của địch, hoặc trong lúc phòng thủ có thể chôn dưới thành, sau khi nổ sẽ nhả ra khói độc, làm quân địch đổ máu mũi, thậm chí trúng độc mà chết!"

Bom khí độc? Đỗ Văn Hạo xoay đi xoay lại hiếu kì xem: "Có thể thử không?"

"Vâng! Mời tướng quân qua bên này" quân khi giám dẫn Đỗ Văn Hạo đến khu thử nghiệm đằng hậu viện, đặt vài lồng gà ra đất, sau đó nèm 1 lựu đạn vào đó, quả nhiên nổ thật, nhả ra khói mịt mù, mấy con gà trong lồng bắt dầu lảo đảo, được một lúc thì ngã khụy. Có điều, khói tan rất nhanh mấy con gà ngã ra lại dần tỉnh lại, đứng lên bình thường.

Đỗ Văn Hạo hỏi quân khi giám: "Thế này là thế nào?"

Quân khí giám mặt đỏ lựng, cũng không biết tại làm sao, hắn luống cuống quay sang nhìn thiếu giám bên cạnh.

Thiếu giám cũng rất khó xử, rụt rè nói: "Bình thường...phải nổ mấy cái rồi mới...mới có hiệu quả, có cần thử thêm vài quả nữa không ạ?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt: "Đối phó với mấy con gà còn khó khăn như vậy, vậy với người to gấp mấy lần gà, rồi chiến trường là nơi rộng lớn như vậy, hiệu quả có thể lớn đến đâu đây? Các ngươi hi vọng kẻ địch sẽ nằm yên đó đợi các ngươi ném lựu đạn khói độc à?"

Tên thiếu giám đỏ lựng mặt nói: "Loại này chỉ có thể làm đổ máu mũi, tiêu hao khả năng tấn công, nhưng không thể làm người chết ngay được"

"Cách trộn thuốc như thế nào?"

"Bên trong là lưu huỳnh 15 lạng, thảo ô đầu 5 lạng, diễm tiêu một cân tư, ba đậu 5 lạng, lang độc 5 lạng, đồng dầu 2 lạng rưỡi, tiểu dầu 2 lạng rưỡi, mạt than củi 2 lạng rưỡi, lệ thanh 2 lạng rưỡi, thạch tín 2 lạng, sáp ong 1 lạng, trúc như 1 lạng mốt, nấm 1 lạng mốt. Bên ngoài giấy dùng 12 lạng rưỡi, ma bì 2 lạng, lệ thanh 2 lạng rưỡi, sáp ong 2 lạng rưỡi, hoàng đan 1 lạng mốt, muội than nửa cân, trộn vào dán bên ngoài."

Đỗ Văn Hạo nghe mà mỉa mai: "Cái này chỉ khiến người ta khó chịu mà thôi, còn việc là đổ máu cam đúng là khoa trương, chứ đừng nói là giết người"

Có điều cách nghĩ này đã nhắc nhở hắn, rộm nghĩ với những kiến thức hóa học của mình, chế độc khí không thành vấn đề, quan trọng là chết tạo trên quy mô lớn, làm thế nào để nén khí, làm thế nào để phát ra, dẫn nổ thế nào, hàng loạt vấn đề kĩ thuật như thế nào, lại còn phải thí nghiệm nhiều lần nữa chứ

Nhưng nói chung, chiến tranh xưa nay, khi các loiaj vũ khí mới xuất hiện, chỉ có thể thắng thế giai đoạn đầu, sau đó quân địch học được thì ưu thế không còn nữa. Khi nước Tống chế tạo được thuốc nổ, nước Kim đã học làm được rất nhanh, trong chiến tranh hiện đại, nước Đức chế tạo ra bom nổ chậm đầu tiên, đến sau chiến tranh thế giới thứ hai thì hầu hêt các quốc gia đã học và sử dụng đươck kĩ thuật bom nổ chậm.

Các hiện tượng làm theo vũ khí của đối phương trong xã hội đương đại quá nhiều, đến thứ như bom nguyên tử mà còn được làm theo rất nhanh, chứ đừng nói là nhưng trang thiết bị đơn giản.

Mao chủ tịch nói rất hay, cái quyết định thành bại trong chiến tranh là con người, chứ không phải vũ khí mới. Câu nói này càng đúng với những vũ khí thời cổ đại...Vì vậy, mình cần chế tác ra những vũ khí mới, nhưng chủ yếu là con người, cần phải tạo ra một đội quân tinh nhuệ mới đúng.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Còn có loại vũ khí gì nữa, lấy ra biểu diễn ta xem"

Quân khí giám vâng vâng dạ dạ, biểu diến loại tên có đầu dây để trói người, hầu như là loại có tính đốt cháy, còn hiệu quả đều không được như ý muốn.

Đỗ Văn Hạo xem hết các loại vũ khí, nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng của Hỏa thương, hắn cảm thấy rất kì lạ: "Không phái còn có hỏa thương sao? Ở đâu vậy?"

"Chỉ có thế thôi ạ, khoong còn gì nữa" quân khí giám sợ hãi đáp, hắn không hiểu hỏa thương mà Đỗ Văn Hạo nói đến là gì.

Đỗ Văn Hạo lấy giấy vẽ minh họa một cơ phát thương: "Chính là cái có hình dáng thế này, cho thuốc súng vào mà bắn"

Tên thiếu giám đó ấp úng: "Cái này...tì chức chưa từng nhìn thấy ạ!"

Quân đội Bắc Tống đã bắt đầu biết đưa thuốc súng vào trong chế tạo vũ khí rồi, nhưng hỏa thương phải vài chục năm sau, trong chiến tranh với Kim, mới xuất hiện, ban đầu là làm bằng trúc, sau khi nhét thuốc súng vào thì đốt bắn vào kẻ địch.

Vì vậy thời điếm này chưa xuất hiện hỏa thương.

Đỗ Văn Hạo nghi ngờ, đến quân khí mà còn chưa có, thì có nghĩa quân đội chưa được trang bị loại vũ khí này.

Sáng chế hỏa thương, pháo!

Đỗ Văn Hạo bị kích động, đáng tiếc, bản thân không nhớ chút nào về cấu tạo súng, nhưng lại biết chút về súng lục và súng đánh bộ vì chúng đơn giản hơn, có thể vừa chế tạo vừa thí nghiệm. Còn pháo, nhưng lo là kĩ thuật của Bắc Tống không theo kịp được. Hơn nữa, quan trọng hơn là mình không biết chế tạo đạn, chính xác hơn là ngòi đạn, cũng không biết chế tạo thuốc súng không khói như thế nào. Đương nhiên càng không biết cách châm ngòi, pháo phát minh ra chỉ có thể bắn ra thuốc súng đen, công hiệu giảm rất nhiều, hoặc chỉ có thể bắn ra đạn lõi sắt, lõi đá, nếu để lại tấn công thành hay chỗ đông người thì cũng không tồi.

Đỗ Văn Hạo thấy hối hận, hồi ĐH chỉ nghiên cứu súng đạn làm thương, hiểu hết những vết thương do súng đạn gây ra, nhưng lại không biết gfi về cacah chế tạo súng, thật hảm hại! Xem ra, vẫn phải sáng chế súng với yêu cầu thấp thôi, nếu không được thì làm súng mồi lửa cũng được.

Thấy bên hỏa khí trống rỗng, Đỗ Văn Hạo rất vui, nếu thành lập một đội hỏa thương thì tốt quá, lại phát minh được ra pháo, bí mật lắp đặt trước, thành lập một sư đoàn bí mật, đến trận chiến quan trọng thì đem ra dùng, giáng cho địch 1 đòn chí mạng mới có được hiệu quả cao!

Hắn giữ sắc mặt thật tốt rồi nói

Đến kho vũ khí Đông tác phường, ở đây có các loại súng ống, Đỗ Văn Hạo kiểm tra trọng lượng, rồi kiểu dáng, đều cảm thấy bình thường, không có gì mới lạ cả.

Hắn cầm một khẩu hoa thương lên, thử một chút, cảm thấy cần phải luyện võ công, bản thân đâu có phải là đối thủ của mấy tay khỏ luyện từ nhỏ được, phải là kì tích mới được, nhất thời không nghĩ ra ý nào hay. Hơn nữa, cũng không thích chuyện binh đao, việc này cần suy nghĩ thật kĩ, tiện tay cầm một lan ngân thương làm vì.

Hắn căn cứ vào số vũ khí cần cho chuyến xuất chinh Tây Hạ lần này, làm một danh sách đưa cho quân giám khí, sau đó rời khỏi quân khí sở, cùng đám hộ vệ đến khu mật viện truyền ý chỉ của Hoàng Thái Hậu lấy binh phù lệnh tiễn, rồi lại đến bộ hộ phát lương thảo.

Xong công chuyện thì đã xế trưa.

Đỗ Văn Hạo sai người đi thông báo cho tổng chi huy tiền địch trong lần xuất chinh này Bộ Thử Lã Công Trứ, phó tổng chỉ huy là Đại tướng bộ thử Khúc Trân, và giám quân tuyên khánh sử Lý Hiến đến họp tại Tam Nha, bàn luận chuyện xuất binh, được biết 3 người bị Hoàng Thái Hậu gọi vào cung rồi.

Đỗ Văn Hạo biết, Cao Thao Thao chắc chắn muốn dặn dò bọn họ quán triệt chiến lược của mình, và dặn dò phó soái không được chấp hành phương án tác chiến mà bà không đồng ý, bắt buộc phải báo cáo để bà quyết định quân pháp mới. Hắn cũng kiên nhẫn chờ đợi, ăn bữa trưa tạ Tam Nha, gọi tất cả quân bộ chỉ huy sở lại, một đội người ngựa đến doanh trại quân số 1 của bộ binh Quảng Đức huyện Dương Vũ ngoài thủ phủ Khai Phong kinh thành để thị sát.

Doanh đội số 1 doanh đội Quảng Đức huyện Dương Vũ.

Chỉ huy doanh trại Quách Sách đang ở thương khố dọn dẹp, hồi dịch sắp xếp của quân chỉ quân sai rất nặng, bây giờ sắp đến tháng chín rồi, mà chỉ tiêu mới hoàn thành một nửa, nếu cứ với tốc độ này thì đến cuối năm không đạt nổi chỉ tiêu mất, đến lúc đó,...

Nghĩ đến đây mà lòng hắn nóng như lửa đốt, nghĩ phải nhất định hoàn thành nhiệm vụ, nhưng binh lựa của quân doanh mới có 500 người, bây giờ không có đến một nửa có mặt tại đây! Thật không ổn, phải tăng binh sĩ tham gia Hồi dịch, mong sao lúc này đừng có chuyện gì phải động đến binh đao!

Đang suy nghĩ xem cử những ai tham gia hồi dịch thì tên gác cửa trại hồng hộc chạy vào thông báo, quỳ một gối xuống bẩm: "Cấp báo, Tam Nha đến kiểm tra, Đỗ tướng quân cùng các quan binh đến bản doanh thị sát!"

"Cái gì?" Quách Sách không dám tin vào tai mình, lúc này mà lại có người đến kiểm tra, đây chẳng phải tin gì hay ho, đúng là sợ gì thì cái đó đến, hắn gọi tất cả ra đón người trước đã.

Trước cửa doanh trại, thấy có mấy chục người đến kiểm tra, ai ai sắc mặt cũng tái mét.

Chưa nghe mấy lời sáo rỗng, Đỗ Văn Hạo liền mở cửa nói: "Bản quan muốn gặp toàn bộ binh sĩ nói chuyện, xem các huynh đệ luyện tập thế nào, tập hợp mọi người đến thao trường ngay"

Quách Sách sợ hãi nói: "Đại tướng quân, chư vị tướng quân, hãy đến đại trướng ngồi nghỉ, tì chức lập tức đi ra lệnh chuẩn bị tiệc rượu, dùng bữa xong rồi mới gặp các binh sĩ nói chuyện, như vậy được không ạ?"

 Chương 422: Lũ ô hợp.

Đỗ Văn Hạo lần trước sau khi nhận sự tiếp đón của Nhị Nha, đã từng làm Huyệt Lược cho tướng lĩnh cấp cao, suýt nữa đã biến thành người của mình, nhưng quan quân cấp trung hạ dường như vẫn như cũ. Đây cũng vốn là tướng quan của Quách Sách, Đỗ Văn Hạo nghư những lời đó của hắn liền biết là có mèo mỡ gì đây, hắn ban đầu chỉ muốn thị sát một doanh trại ở ngoại ô gần thành nhất để tìm hiểu tình hình, không ngờ điểm dừng chân đầu tiên đã gặp trắc trở rồi.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Ngươi có thời gian uống rượu, bản quan lại không có thời gian để hầu người rồi, lập tức triệu tập toàn bộ binh sĩ đến thao trường, quân sĩ nào đến muộn một khắc, phạt ngươi mười quân trượng, ngươi hãy lo cho bản thân mình đi, quân luật quan, ngươi hãy tính giờ đi!"

Quân luật quan "dạ" rồi lây đồng hồ cát ra bắt đầu tính giờ.

Nơi đây chỉ có một quân doanh, theo biên chế, một quân doanh là 500 người, quân doanh lại không lớn, một khắc (15 phút) là đủ rồi.

Chỉ huy sử Quách Sách bị dọa cho sợ quá, vội vàng giơ tay, bảo binh sĩ bên cạnh lầm hiệu lệnh trống tập hợp quân sĩ.

Hiệu lệnh vang lên, với thời gian một tuần trà, chỉ có hai ba mươi người đến, Quách Sách tức phát ngất, cầm roi chạy về phía các trướng, vừa chạy vừa vụt và hét: "Dậy! Dậy ngay! Quan trên đến thị sát! Đến muộn ta sẽ lấy cái mạng của các ngươi!"

Đây là câu cửa miệng của hắn, lúc này mới có vài người lục tục đi ra, tất cả đều luộm thuộm, mấy người miệng vẫn còn lảm nhảm chuyện thắng thua gì đó, rõ là đang đánh bài, thậm chí có người còn đang ngủ chưa dậy, cho đến khi roi quất vào người mới nửa mê nửa tỉnh lồm cồm bò dậy.

Khi quân binh tập trung đầy đủ thì đã 3 khắc trôi qua.

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt hỏi Quách Sách: "Quân doanh này có bao nhiêu người?"

Quách Sách rụt rè nói: "Bẩm tướng quân, 500 người ạ"

"500?" Đỗ Văn Hạo nhìn khắp thao trường "Ở đây có đủ 500 không? Báo cáo sĩ số cho ta!"

Các binh sĩ lần lượt báo cáo, con số cuối cùng chỉ là 226 người, chưa đến một nửa!

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: "Những người còn lạ đâu? Đi đâu hết cả rồi?"

Quách Sách sợ hãi đáp: "Dạ...dạ, ra ngoài hết rồi ạ!"

"Nói thừa, không ra ngoài chẳng nhẽ bốc hơi hay chui xuống đất? Bản quan muốn hỏi là bọn họ đi đâu? Đừng nói là ngươi không biết đấy!"

Quách Sách lau mồ hôi trán: "Đa số hồi dịch rồi ạ, một số nhỏ khác ở quán rượu và canh bạc trong thành ạ.

Đỗ Văn Hạo sớm đã biết những chuyện hồi dịch này, nhưng lúc đó chỉ là quân trại bình thường, không ngờ cấm quân cũng hoạt động kiểu này, hơn nữa còn huy động hơn một nửa quân số, thậm chí còn đánh bạc, bèn hỏi thêm: "Triều đình cho phép các ngươi làm thế này sao?"

Quân đội kinh thương, dĩ nhiên là triều đình cấm chỉ, nhưng đối mặt với khó khăn, đành phải mắt nhắm mắt mở cho qua, vì vậy Quách Sách không căng thẳng lắm, dù gì mọi người đều làm vậy

Hắn cười trừ: "Tướng quân, triều đình không cho phép, nhưng, các anh em cũng cần ăn cơm ạ"

Đỗ Văn Hạo biết đây là vấn đề không chỉ của doanh trại này, mà là vấn đề của cả quân đội, hắn giờ không muốn truy cứu thêm nữa, vốn muốn đánh tên chi huy sứ này vài gậy, nhưng phải xem hắn luyện binh thế nào đã, bèn nói: "Ngươi quá giờ 2 khắc, 20 mươi quân trượng tạm nhớ đấy đã, bản quan muốn xem diễn binh, nếu làm tốt, bản quan miễn tội, nếu không sẽ tính cả vỗn lẫn lãi đó!"

Quách Sách vội dạ dạ vâng vâng, cùng xem duyệt binh với mấy vị quan quân trên khán đài, Đỗ Văn Hạo ngồi ngay trung tâm, các vị tướng quân khác ngồi ở hai bên.

Quách Sách đứng trên cao, sử dụng chiếc cờ trong tay để ra lệnh "Bộ số 1, tiến lên phía trước! Lên cung! Chuẩn bị! Bắn!

Thực ra 1 bộ bin có 100 người, nhưng hơn nửa trong đó đã ra ngoài "làm ăn" rồi, vì vậy vào vị trí cung thủ chỉ có chưa đến 50 người.

50 mũi tên bay ra, đều bay loạn xạ, Đỗ Văn Hạo nhìn theo, suýt nữa thì ngã ngửa từ ghế xuống đất, thấy đám hình nhân bằng cỏ có hơn 10 mũi là bị tên bắn phải! Số tên còn lại đều cắm trên bãi cỏ dày đằng sau! Thậm chí một số người còn không căng nổi cung, bắn tên không đi, đứng cúi đầu ở đó

Quách Sách đưa mắt nhìn phản ứng của Đỗ Văn Hạo, hắn căng thẳng dằn giọng nói: "Tập trung vào cho ta! Lên cung! Chuẩn bị, bắn!"

Lần này, có lẽ do quá căng thẳng, số tên trượt còn nhiều hơn.

"Căng cung lên tên..."

Quách Sách đang định gào tiếp, Đỗ Văn Hạo đột nhiên nói: "Được rồi! Đội tiếp theo"

Quách Sách vội tuân lệnh, đổi đội khác, đây cũng là đội cung, thành tích cũng không khác đội trước là bao, hai đội sau là đội nỏ, thành tích càng tệ hơn, thậm chí có một số không không kéo nổi dây cung.

Đội cuối cùng là đội súng, tay giữ súng, đề phòng quân địch cưỡi ngựa xông lên, luyện tán kích thuật.

Kĩ thuật này là động tác bắt buộc, quân thể quyền tương tự của quân đội hiện đại thực dụng hơn, cự mã thương cần tối thiểu phải kị binh tấn công, súng phải cầm nghiêm chỉnh, nếu không sẽ thất bại và sẽ trở thành vũ khí của địch.

Việc này tương đối nguy hiểm.

Nhưng diễn hết một lượt tán thích thuật, Đỗ Văn Hạo dở khóc dở cười, không chỉ các bước đều loạn, một số người không biết làm gì với khẩu súng trong tay nữa, dường như đã quên cách sử dụng rồi.

Đây có phải là cấm quân bảo vệ kinh thành không! Là tấm bình phong chính phòng ngự kinh thành, trình độ như thế này đây, đừng nói là tinh nhuệ, đến cung thủ bảo vệ nha môn mà hắn biết còn mạnh hơn quân doanh này!

Đỗ Văn Hạo đã nắm binh quyền một thời gian rồi, cũng từng nhiều lần được xem diễn binh, lúc đó còn thấy được, tuy có bắn trượt, nhưng không như thế này, không ngờ cách một bức tường thành mà đã như trên trời dưới đất thế này rồi.

Đỗ Văn Hạo hạ giọng nói: "Gọi từng cung thủ ra bắn, ta muốn xem năng lực từng người đến đâu!"

"Dạ" Quách Sách vội vâng lện rồi triệu tập cung thủ lại.

Sau khi trắc liên, 60% có thể giương cung 8 đấu, nỏ hai thạch 4 đấu, đạt trình độ trung bình, trong đó có 20% khá tốt.

Đỗ Văn Hạo lấy đó làm vui, trong khoảng 200 người, 80% thể chất tốt, chỉ cần chịu khó luyện tập thì có hi vọng, còn về bắn tên trượt, tán thích thuật phối hợp không tốt, nguyên nhân chủ yếu là do lười luyện tập, có thể hiểu được. Cả quân doanh doanh bận làm ăn, làm gì có thời gian luyện tập.

Đỗ Văn Hạo còn muốn xem diễn trận tổng hợp, lại nói: "Đánh trống, xếp hàng tập luyện!"

Quách Sách vâng lệnh, ra cờ hiệu, trống nổi lên, các binh sĩ cầm cung sẵn sàng, vác súng và cờ, bắt đầu dàn hàng, tìm đến vị trí của mình trong đội hình chiến đấu, qua một tuần trà mà đội hình vẫn chưa hình thành, vì có một số ít thậm chí còn không biết vị trí chiến đấu của mình ở đâu, vẫn chạy lung tung trong đội hình.

Đỗ Văn Hạo "mặt sắt" đi đến phía trước khán đài, không thèm nhìn Quách Sách, lạnh lùng nói: "Đây chính là đội quân mà ngươi dẫn dắt? Đến đội hình còn không xếp được thì chiến đấu kiểu gì đây?"

Quách Sách đỏ mặt lí nhí: "Tì chức đang chết, xin tướng quân giáng tội, tì chức về sau nhất định sẽ chú trọng chuyện luyện tập"

"Hừ, ta cho ngươi một khắc, hãy chấn chỉnh lại đội hình ngay, phía sau cần xung phong, phòng thủ, chuyển quân doanh. Ta hi vọng không nhìn thấy đám ô hợp này nữa!"

"Vâng!" Quách Sách phất cờ lệnh, phải khó khăn lắm mấy binh sĩ kia mới tìm được vị trí của mình, chẩn chỉnh được đội hình, hắn lạ hò hét mấy lần quân lệnh, thấy đã hết giờ mới chạy về khán đài, ra hiệu bằng cờ, trống nổi lên bắt đầu cho thao luyện.

Tiếc là gần trăm năm nay không có chiến sự, quân bị lỏng lẻo, quân đội của hắn lâu lắm rồi chưa được luyện tập chính quy, làm sao trong một tuần trà có thể chỉnh đốn hàng ngũ cơ chứ.

Ngay động tác đầu tiên đã có vấn đề rồi, đáng nhẽ cần làm các động tác khác nhau dựa vào màu cờ và tín hiệu trống, kết quả lại toàn làm ngược lại, đến nỗi dẫm đạp lên nhau.

Các binh sĩ phía sau kêu toáng lên, úp mặt ngồi xổm trên đất, máu vây đầy trên các đầu ngón tay!

Các binh sĩ khác bắt đầu hoảng, tất cả vây lại.

Đỗ Văn Hạo dằn giọng: "Các binh sĩ bị thương sẽ có quân y lo liệu, không có quân lệnh mà đã tự ý rời bỏ vị trí thì làm sao mà thắng địch đcượ chứ!"

Các binh sĩ lập tức như bị đông cứng lại.

Đỗ Văn Hạo hét lớn: "Quân y! Mang người đi cho ta! Quân y? Quân y đâu? Quân y đâu hết rồi?"

Quách Sách sợ hãi đáp: "Quân y...quân y vào tiệm quân dược trong thành hành nghề trong đó rồi"

Quân đội đã đi làm ăn ở tất cả các bộ phận rồi, thậm chí còn xen cả vào việc làm ăn của quân dược rồi, thật khiến cho Đỗ Văn Hạo không còn gì để nói.

Hắn lớn giọng: "Dừng thao luyện, ta sẽ chữa trị cho họ!" nói rồi nhảy xuống khỏi khán đài.

Mọi binh sĩ đều nghe thấy giọng của Đỗ Văn Hạo, ai cũng biết trước kia đại tiếng quân là ngự y, có đại nhân lo liệu thì yên tâm rồi, thấy đại nhân xuống, mọi người lập tức quay ề vị trí.

Hứa Văn Cường và bọn hộ vệ cũng đi theo, Đỗ Văn Hạo dặn dò bọn hộ vệ đưa binh sĩ bị thương về mấy cái ghế cạnh thao trường, để cầm máu hai tay cho họ, phát hiện ra hàng lông mày của họ bị cứa một đường dài, xém nữa thì đi đôi mắt rồi, thật là trong cái rủi có cái may.

 Chương 423: Tiền bạc và sinh mạng.

Trong túi cưu thương có băng chuyên dùng để băng vết thương ngoài ra, nhưng không có chất sát trùng và giảm đau, không có loại đặc trị mà mình thêm bột điền thất vào. Nếu không giảm đau, sát trùng đúng cách thì sẽ bị nhiễm trùng, khó liền hoặc không cầm được máu.

Đỗ Văn Hạo dùng nước sạch rửa vết thương, sơ cứu đơn giản, sau đó đắp thuốc kim sáng bình thường lên, dùng vải chuyên dùng để băng vào, dặn dò mấy binh sĩ làm theo lời mình dặn, lập tức đến Ngũ Vị Đường trong thành, tìm Diệm Diệu thủ xử lí vết thương lại cho tử tế

Các binh sĩ thấy đường đường là đại nhân Tam Nha nhiệt tình cẩn thật băng bó cho mọi người, trong lòng cảm thấy rất ấm áp, lập tức đứng thẳng dậy, ánh mắt hương về Đỗ Văn Hạo vừa kings trọng vừa thân thiết.

Tiễn mấy binh sĩ bị thương ra khỏi quân doanh, Đỗ Văn Hạo quay trở lại khán đài, bảo Quách Sách dặn dò binh sĩ mang mặt nạ tác chiến, mang theo vũ khí và lương khô, bắt đầu chạy việt dã quanh quân doanh 10 vòng, độ dài cũng phải đến 6 dặm.

Các binh sĩ chuẩn bị xong, bắt đầu chạy.

Điều làm cho Đỗ Văn Hạo hài lòng là mấy binh sĩ này dù đã lâu không luyện tập nhưng thể chất vẫn rất tốt, qua 10 vòng chạy, chỉ có hơn mười người bị tụt lại, còn lại đều chạy được hết vòng, tốc độ cũng được.

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn Quách Sách, nói: "Sĩ binh thể lực tốt, tốc độ được, cũng phục tùng mệnh lệnh, chỉ có điều người làm quan mà không cho luyện tập tốt! Ngươi xem ngươi dẫn dắt một đội quân tốt như vậy đến mức độ nào rồi? Tên bắn không nổi, đội hình không biết cách xếp, đến quân hiệu cũng không nắm rõ, chỉ có sức khỏe không thì làm nên tích sự gì! Hai quân tác chiến, không phải là đánh nhau tập thể, mà là sự phối hợp của tập thể, phát huy ưu thế của tập thể. Đội quân này của ngươi lên tiền tuyến kiểu gì? Lại còn là cấm quân của kinh thành nữa chứ. Cấm quân như vậy thì gánh vác trọng trách bảo vệ kinh thành thế nào được?"

Quách Sách hai đầu gối mềm nhũn, quỳ phục xuống đất, dập đầu nói: "Tì chức sai rồi, mong đại nhân trách tội"

"Lát nữa ta nhất định sẽ trừng phạt ngươi. Có điều ta còn một chuyện muốn làm rõ, nhưng quân sĩ ngươi điều đi "làm ăn", rút cuộc là có bao nhiêu người?...Ta cảnh cáo ngươi, ta sẽ điều tra, nếu giấu trên lừa dưới, người biết quân pháp xử tội đó thế nào chứ!"

Quân pháp triều Tống quy định tương đối nghiêm khắc, giấu giếm quân tình bị xử trảm, có điều thời bình không cân phải nghiêm khắc chấp hành đến vậy.

Nhưng Quách Sách vẫn sợ tím mặt mũi, sợ là sợ hai chữ nói thật.

Không nói thật mọi người đều được yên, nếu nói thật hết ra thì toi rồi. Quách Sách dập đầu, lắp bắp: "Đại tướng quân, có tất cả 116 người bị hạ thần điều đi thôi"

"Không đúng!" Đỗ Văn Hạo dằn giọng, "Biên chế của một quân doanh là 500 người, lúc nãy báo cáo sĩ số chỉ có 226 người có mặt, cả ngươi nữa mới là 227, thêm 116 người ra ngoài làm ăn thì tổng cộng mới có 343 người, còn thiếu 157 người nữa, đi đâu hết cả rồi?"

"Cái này..." Quách Sách ấp úng không biết nên trả lời thế nào.

Đỗ Văn Hạo tức giận: "Ngươi dám giấu bản quan?"

"Tì chức không dám!"

"Vậy ngươi nói xem!"

Quách Sách cúi đầu không nói.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu tức đến mức không kiềm chế nổi, hướng xuống dưới khán đài nói: "Phó chỉ huy sứ đâu?"

"Có mạt tướng!" Một thanh niên chạy đến, quỳ một gối dưới khán đài, chắp tay nói: "Mạt tướng Nghiêm Bỉnh, phó chỉ huy sứ quân doanh số 1 Quảng Đức huyện Dương Vũ, xin nghe theo sự sắp xếp của đại tướng quân!"

"Mang danh sách binh sĩ lại đây!"

"Tuân lệnh!" Nghiêm Bỉnh vội vàng chạy đến trướng lớn, nhanh chóng mang danh sách đến quỳ xuống trình lên Đỗ Văn Hạo

Đỗ Văn Hạo không cầm lấy, lạnh nhạt nói: "Ngươi khoanh tròn tên những ai đi hồi dịch lại, ta muốn kiểm tra"

"Rõ! Không dám giấu tướng quân!"

Nghiêm Bỉnh lúc nãy chạy việt dã, người toàn mồ hôi, thậm chí còn chưa kịp lau, cầm bút lên bắt đầu khoanh, đều là binh sĩ kiến chế, tất cả có hai đội, thêm số quân thường niên coi quản binh sĩ hồi dịch, việc này xong rất nhanh, Đỗ Văn Hạo xem một lượt, quả nhiên là 116 người.

Đỗ Văn Hạo nói với Nghiêm Bỉnh: "Bây giờ ngươi điểm danh đi, điểm danh đến đâu đánh dấu đến đó, đứng sang một bên đi!"

"Vâng!" Nghiêm Bỉnh chần chừ rồi xoay người bắt đầu điểm danh.

Việc điểm danh cũng chẳng tốn mấy thời gian.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy danh sách, điểm nhanh đã thấy đúng là không có 157 người, hắn hỏi Quách Sách: "Nói đi, những người này đi đâu cả rồi?"

Quách Sách vẫn im lặng không nói. Đỗ Văn Hạo quay sang Nghiêm Bỉnh thì tên đó cũng cúi đầu né tránh ánh mắt của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cười khẩy: "Đừng cho rằng các ngươi không nói thì ta không biết! Mang sổ sách trợ cấp hàng tháng của các binh sĩ ra đây! Bản quan muốn xem một tháng có bao nhiêu người nhận trợ cấp!"

Quách Sách và Nghiêm Bỉnh mặt mũi tái mét, Nghiêm Bỉnh chạy đi lấy một cuốn sổ trình lên Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo giở ra kiểm tra những người được trợ cấp tháng trước, mặt u ám cười nói: "Ở đây có đủ 500 người nhận trợ cấp, đều có tên họ rõ ràng, thế người đâu? Đừng bảo họ là ma đấy!"

Hai người vẫn cúi đầu không h he gì.

Đỗ Văn Hạo giận quá cười mỉa mai: "Được, ha ha, được lắm! Các ngươi dám giễu cợt ta? Được thôi! Chúng ta tính nợ cũ trước, Quách chỉ huy sứ, lúc nãy ta nói, binh sĩ đến muộn một khắc, phạt ngươi mười quân trượng! Binh sĩ đến muộn mấy khắc?"

"Hai khắc!"

"Được! Ngươi cầm quân không nghiêm, không tập hợp được cả đội đúng giờ, người đâu, phạt thật nặng, hai mươi quân trượng!"

Lần này hắn xuống trực tiếp kiểm tra, không mang theo đội hộ vệ, Hứa Văn Cường đội trưởng đội hộ vệ giơ tay, bên trên có mấy hộ vệ xuống, bắt lấy Quách Sách ấn hắn nằm xuống đất, bọ họ cũng chẳng mang quân trượng, một hộ vệ nhìn thấy cạnh thao trường có môt giá vũ khí, trên đó có vài cây gậy, bèn cầm lấy hai cây, hai hộ vệ đứng xung quanh, bắt đầu ra tay với Quách Sách.

Tướng sĩ trên dưới khán đài thì chỉ huy sứ bị đánh phạt thị chúng, ai ai cũng run lẩy bẩy, cúi đầu không dám ho he gì.

Tên Quách Sách này đúng là không chịu được đòn roi, đanh hết 20 trượng là chân hắn đã đầm đìa máu, không nói năng được gì nữa.

Đỗ Văn Hạo thầm mừng, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị: "Ngươi cầm quân không nghiêm, để quân sĩ hồi dịch, bỏ bê luyện tập, quan quân luật, nên xử lí thế nào đây?"

"Đối với kẻ chủ mưu, thì kế tạng tọa tội, toàn bộ tài sản hồi dịch sẽ bị tịch thu"

"Ừm, kế tạng tọa tội, cụ thể là thế nào?"

"Doanh lợi 20 lần trở lên, 100 trượng"

"Cái gì?" Đỗ Văn Hạo trợn mắt nhìn quân luật quan: "Không tử hình sao?"

"Dạ, thưa tướng quân, chỉ có vật ăn cắp tế thần, hối lộ, ăn cắp bảo vật là xử trảm. Người ngoài quân doanh ăn cắp tròn 20 quán, 60 trượng, thích phối bản châu, người trong quân doanh ăn cắp tròn 20 quán, 100 trượng, không thích phối.

"Ngươi có nhầm không? Ăn cắp 1 vạn quán cũng không chặt đầu sao?"

"Vâng, thưa tướng quân"

Xử phạt tội ăn cắp luôn ngược hẳn với sự phồn thịnh của nền kinh tế, kinh tế càng phát triển, xử phạt tội ăn cắp càng nhẹ, triều Tống khi mới khai quốc, đất nước rất nghèo nàn. Khi đó xử phạt tội ăn cắp rất nặng, sau đó đất nước ngày càng phồn vinh, hình phạt càng nhẹ dần.

Càng về sau hoàng đế càng nhân nhượng, tha được thì tha, khoan hồng dần với tội ăn cắp, cuối cùng dở bỏ tử hình với với tội ăn trộm. Thời Đường là thời kì phồn thịnh nhất, tội ăn cắp cũng không có mức phạt tử hình.

Đỗ Văn Hạo không am hiểu lắm hệ thống luật pháp đời Tống, vì vậy rất kinh ngạc, lại hỏi: "Ai chịu trách nhiệm việc xử phạt trị tội tướng sĩ?"

Quan quân luật đáp: "Thời bình, với binh sĩ bình thường, trượng hình do các quan quân luật trình doanh chỉ huy xử lí, đội đầu trở lên doanh chỉ huy sứ trở xuống phạm quân hình cần xử khoa hình, do Tam Nha xử lí. Tử hình phải do Tam Nha trình Hoàng thượng quyết. Thời chiến, do chủ soái và đốc chiến quan xử tại chỗ"

Đỗ Văn Hạo gật đầu, nói với Quách Sách: "Ngươi doanh chỉ huy sứ, bản quan là Tam Nha đô điểm kiểm, có quyền xử trượng hình với ngươi, trượng 100, thế cũng đủ răn rồi...Đúng rồi, quân luật quan, nếu lúc hành hình đánh chết thì làm thế nào?"

"Thụ hình mà chết, không luận"

"Vậy là có đánh chết ngươi cũng không trách được ta rồi. Người đâu! Cho dù hắn có van xin thế nào cũng không được nương tay, đánh hắn 100 trượng, đánh cho đến chết! Chết ta chịu trách nhiệm!"

Mấy hộ vệ tiến lên, giơ gậy lên bắt đầu đánh.

Quách Sách biết là cùng đường rồi, nhắm mắt đợi chết.

Quân trượng vun vút đập vào người Quách Sách, chỉ một thoáng thôi đã khiến lưng hắn đầm đìa máu. Quách Sách vẫn im lặng chịu đựng, giống như không phải đang đánh hắn vậy.

Phó chỉ huy sứ lên tiếng, dập đầu nói: "Đại tướng quân, chuyện này không trách chỉ huy sứ được, lúc chỉ huy sứ được điều đến đây, đã thiếu mấy quân sĩ đó rồi"

"Cứ cho không phải lỗi của các ngươi thì không thể tiếp tục tham ô được, bản quan bây giờ không truy cứu ai là người có lỗi, mà là bổng lộc của hơn 150 người đó rơi vào túi ai?"

Hai người im lặng.

Đỗ Văn Hạo nổi giận, chỉ thẳng bào mặt hai tên đó nói: "Được lắm, ta muốn xem xem miệng lưỡi các ngươi cứng hay quân trượng cứng!" không thèm quay đầu lại, Đỗ Văn Hạo ra lệnh: "Quân luật quan, tham ô công quỹ, trị thế nào?"

 Chương 424: Ưu thế không ưu thế.

Quan quân luật gao giọng đáp: "Kẻ tham ô thành tội, 10 thất trở lên, phạt 100 trượng và 1 năm bổng lộc"

Đỗ Văn Hạo đi hết tử bất ngờ ny đến bất ngờ khác: "Đến tham ô mà cũng không bị tử hình sao? Luật kiểu gì vậy?"

"Khởi bẩm tướng quân, tham ô không bị, nhưng nhận hối lộ thì bị, một thước 100 trượng, 1 thất thêm một bậc, 15 thất treo cổ"

"Thế còn được, Quách chỉ huy sứ, ngươi tự ý cho quân binh hồi dịch, theo luật phạt trăm trượng, thêm vào đó mạo nhận quân số ăn bớt trợ cấp, tổng cộng hai trăm trượng, xem ra xương sống ngươi toi rồi, còn nội tạng thì đừng mong còn nguyên vẹn, ngươi tự lo liệu xem nên nói hay không?"

Quách Sách run lẩy bẩy không nói.

Đỗ Văn Hạo đảo mắt nói: "Quách chỉ huy sứ, bản quan biết ngươi có chỗ khó, số binh sĩ bị khai khống này, và số trợ cấp tham ô, mỗi tội 100 trượng, hai tội cộng lại, dù gì cũng không sống nổi, không biết thí tốt giữ xe, chết không chịu nói, người khác liệu có lo cho người nhà của ngươi không, ngươi nói xem đúng không?"

Quách Sách rùng mình, chầm chậm ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, trong lòng kinh ngạc vì sự sắc sảo trong đôi mắt của vị tướng quân trẻ tuổi, đây chính là bàn tính lớn trong lòng hắn.

Đỗ Văn Hạo nói: "Nếu ngươi nói ra nội tình thì ta có thể bảo bọn họ nhẹ tay, cho ngươi con đường sống"

Ánh mắt chỉ huy sứ lóe lên một tia vui mừng: "Đại tướng quân nói thật chứ ạ?"

"Quân đội không có lời nói đùa!"

"Vâng! Tì chức tin tướng quân, tì chức nói"

Quách Sách than dài: "Khi tại được điều đến đây, chỉ huy sứ tiền nhiệm đã đưa cho danh sách bị thiếu này rồi, thiếu hơn 150 người, nhưng cũng không báo lên trên để bổ sung, vẫn nhận trợ cấp theo sĩ số 500 người, số còn dư được chia làm 3 phần, một phàn cho Đại nhân quân bộ đô chỉ huy sứ, một phần chia cho anh em toàn quân doanh. Phần còn lại lại được chia làm 3 phần, tại hạ và phó chỉ huy sứ 1 phần, các đô đầu, đội đầu được chia một phần, chia theo đầu người"

"Ha ha, thật công bằng, khai khống quân số, tham ô trợ cấp, to gan! Các ngươi không biết sợ vương pháp sao?"

Quách Sách cúi đầu nói: "Tì chức biết chuyện này sớm muộn gì cũng bị lộ, hơn nữa mọi người đều làm thế, không đến mức một mình bản thân mình chịu, không ngờ lại như thế này"

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên: "Ngươi nói gì? Mọi người đều làm như vậy sao? Vậy là ý gì? Ngươi nói các quân doanh khác cũng như vậy sao?

Quách Sách gật đầu nói: "Đại tướng quân nếu không tin có thể tự mình đi điều tra xác thực, có quân doanh còn khai không nhiều hơn bên tì chức! Mấy chục năm nay đều như vậy!"

Đỗ Văn Hạo thấy đầu óc lùng bùng, 1 số chuyện rõ thật không thể nghĩ thông, trong phút chốc đã thông suốt rồi! Tại sao đội quân Tống xưa nay tập trung nhiều ưu thế vậy, tại sao bao nhiêu lần giao đấu với quân Tây Hạ lần nào cũng thua, thì ra ưu thế của quân Tống chỉ là ưu thế ảo về quân số, còn thực tế, thậm chí còn không đủ sĩ số, con số ảo về sĩ số thiếu quá trầm trọng, số lượng thực sự không hề hơn quân Tây Hạ.

Nhưng ngay sau đó hắn lại thấy không ổn, bản thân hắn vừa tiếp xúc với quân đội, chuyện như vậy chẳng nhẽ hoàng thượng không biết sao? Hơn nữa, lần trước mình dẫn năm nghìn cấm quân Tây chinh, rõ ràng là năm nghìn, không hề thiếu ai, như vậy là sao?

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn đội trưởng thân binh hộ vệ Hứa Văn Cường hỏi; "Phải như vậy không?"

Hứa Văn Cường gật đầu: "Đại tướng quân, nói chung là như vậy"

"Vậy tại sao lần trước ta dẫn quân Tây chinh, năm nghìn người không thiếu ai?"

Hứa Văn Cường cười hì hì đáp: "Tướng quân không biết kiểm kê từng người thì làm thế nào mà biết có thiếu hay không? Đều là nghe kẻ dưới báo cáo sĩ số, thiếu là thiếu. Có điều đội của họ hơi thái quá thôi. Vì khi tiên đế còn tại vị đã từng bổ sung đối với quân doanh thiếu, đội quân mà chúng ta dẫn đi xuất chinh khi đó là đã được bổ sung cách đó không lâu, vì vậy sĩ số mới chưa được báo cáo, nhưng việc thiếu người cũng không quá nghiêm trọng."

"Thực tế là thiếu bao nhiêu?"

"Cái này tì chức cũng không rõ, lúc đó hai quân, có tất cả năm nghìn người, tì chức chỉ biết lúc đó doanh chúng ta chỉ thiếu có mười mấy người"

"Ngươi là doanh chỉ huy, cũng ăn tiền trợ cấp thiếu quân số như bọn chúng sao?"

Hứa Văn Cường có vẻ ngại, quỳ một gối xuống chắp tay đáp: "Xin đại tướng quân thứ lỗi, tì chức sai rồi, có điều, đây là cách làm thông dụng trong quân ngũ, trên tì chức còn có quân đô chỉ huy sứ, tì chức mà không làm theo lệ thì sớm đã bị đào thải rồi. Nhưng đại tướng quân có thể điều tra, toàn bộ số tiền trợ cấp dư ra được dùng để bổ sung quân phí và gia quyến binh sĩ bị thương vong ngoài quy chế. Những việc này đều có chứng cứ, mạt tướng không hề có chuyện tham ô bỏ túi riêng!"

Đỗ Văn Hạo gật đầu: "Ta tin ngươi, ngươi đi theo ta chinh chiến ở Tây Vực, tận mắt nhìn thấy sự trung thành của ngươi, tuyệt đối không vì chút lợi nhỏ mà quên đại nghĩa. Đứng dậy đi"

"Đa tạ đại tướng quân" Hứa Văn Cường đứng dậy về lại vị trí cũ.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi từng đô chỉ huy sứ của các quân Tam Nha, bọn họ đều thừa nhận chuyện nhận tiền và khai khống sĩ số, nhưng số lượng khác nhau, cách thức tiêu khác nhau, đa số là trưng dụng bổ sung quân phí, có sổ sách để đối chiếu, chỉ có số ít là tư lợi thôi.

Nghe vậy, tuy chỉ là tăng phúc lợi cho quân binh, nhưng cũng có thể chấp nhận được.

Tuy đây là hiện tượng phổ biến, cái được gọi là phép vua thua lệ làng, chỉ có thể thay đổi từ chế độ, không thể trách phạt quá nặng một cá nhân nào được, như vậy thì không công bằng. Đỗ Văn Hạo thở dài, nói với Quách Sách và Nghiêm Bỉnh lúc này vẫn còn quỳ dưới kia: "Được rồi, hai ngươi cứ đứng lên đã!"

Đợi hai người đó đứng dậy, Đỗ Văn Hạo nhìn quanh tướng lĩnh cao cấp của Tam Nha, trầm giọng nói: "Một phần lớn tướng sĩ bị điều đi làm ăn, hiện tượng thiếu sĩ số quá nghiêm trọng, vấn đề khai không lĩnh khống trợ cấp quá nổi cộm. Quân đội thiếu rèn luyện, khả năng chiến đấu bị giảm sút đáng kể. Quân đội như vậy thì thắng trận sao được? Nhất định phải chấn chỉnh! Đây là nhiệm vụ mà Hoàng Thái Hậu giao cho ta, cũng là trách nhiệm của bản tướng. Nhưng giải quyết vấn đề này như thế nào cần sự đồng tâm hiệp lực của tất cả mọi người. Còn làm như thế nào thì các ngươi cho cái đầu của ta suy nghĩ đã, cho các ngươi ba ngày, viết lại những đề đạt của các ngươi rồi trình lên ta. 3 ngày sau ta sẽ triệu tập hội nghị chỉ huy sứ các quân để thảo luận các vấn đề đó. Nghe rõ chưa?"

"Mạt tướng tuân lệnh!" các tướng lĩnh quỳ xuống đáp, nghe ra thì chưa có tinh thần lắm, rất hiển nhiên, ban đầu Tống Thần Tông quyết tâm chỉnh đốn quân đội, hiệu quả vẫn chưa được như ý, bọn họ nghi ngờ đại tướng quân trẻ tuổi này, đó là chuyện dễ hiểu.

Đỗ Văn Hạo tất nhiên nghe ra điểm này, trong lòng thấy không vui, tiếp tục thị sát trạm tiếp theo.

Trạm thứ hai là quân doanh sương quân, kiều đạo quân của huyện này

Do bọn họ đi thị sát đột xuất, vì vậy khi một hàng người cưỡi ngựa đến cửa doanh phòng, lại không thấy có binh sĩ gác cửa. Cưỡi thẳng ngựa xông vào, một quân doanh lớn thế này mà ảm đạm, chỉ có một vài người đang ngồi tránh nắng dưới bóng cây ở góc tường xa xa.

Đỗ Văn Hạo thúc ngựa đi vào, nhìn rõ mấy binh sĩ tóc đã bạc phơ, còn cả lưng xuống, đang ngồi trên các phiến đá uống trà nói chuyện phiếm. Thấy bọn Đỗ Văn Hạo đi vào, tuy không biết, nhưng thấy Đỗ Văn Hạo mặc trang phục võ tướng bằng nhung nhị phẩm, chắc cũng là tướng quân cao cấp, bọn họ đều sợ hãi, lẩy bẩy đứng dậy hành lễ: "Tham kiến chư vị tướng quân"

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Chỉ huy sứ của các ngươi đâu?"

"Chỉ huy sứ đại nhân..., chỉ huy sứ đại nhân đâu rồi?" ông già quay đầu hỏi những lão binh tốt bên cạnh.

Một người trong trẻ nhất đám đó trả lời: "Đi huyện nha bàn chuyện dọn dẹp lòng sông rồi ạ"

"Đúng đúng!" mấy ông già cùng gật đầu.

Đỗ Văn Hạo chau mày: "Phó chỉ huy sứ? Các bộ đầu đâu, đô đầu đâu?"

Mấy lão già chụm đầu lại với nhau rồi đáp: "Phó chỉ huy sứ đã lãnh hai đô binh hồi dịch lâu rồi, khoảng mười ngày nửa tháng nữa sẽ quay về, 3 đô còn lại, có 1 đô đi nạo vét lòng sông, 1 đô đi sửa kênh mương, còn 1 đô đi công tác trên Nha môn"

Đỗ Văn Hạo giở khóc giở cười: "Đi công tác trên Nha môn? Nha môn không phải có nha dịch rồi sao! Lại còn kêu binh lên làm gì?"

"Ha ha, tướng quân nói rất đúng, có điều lão gia trên Nha môn nói bận quá, vì vậy kêu lên tạm dùng, việc này được gọi luôn phiên, không có kết thúc luôn. Tiền Hồi tử phủ doãn phủ Khai Phong đến còn điều 3 đô người ngựa đến hầu hạ nữa cơ"

Đỗ Văn Hạo nhìn thao trường cỏ mọc rậm rạp, thậm chí có nhiều vật lạ, hỏi: "Các ngươi bình thường không luyện tập sao?"

Ông lão binh đó cười trừ: "Tướng quân, người ngựa quân doanh chúng tôi bận chuyện này chuyện kia, đến thời gian tập hợp còn không có, thao luyện sao được? Hơn nữa, sương quân tạp dịch, chúng tôi đều ra trận thì cấm quân dùng làm gì?"

Lão binh này tuy đã già, nhưng dám lên tiếng trả lời, Đỗ Văn Hạo lại hỏi: "Quân doanh các ngươi có bao nhiêu người? Ý ta là con số thực tế ấy"

Lão binh đó không có ý giấu giếm: "Tổng số biên chế 500, thực tế là 300 có lẻ"

"Vậy số 200 kia có lãnh trợ cấp không?"

Lão binh liếc Đỗ Văn Hạo một cái, rồi quay đầu nhìn mấy người bạn phía sau, thấy bọn họ đều thản nhiên bèn đáp: "Dạ có lĩnh, đều là phần của đương quan ạ"

Đỗ Văn Hạo gật đầu: "Đa tạ các vị cao niên trượng nghĩa đã thẳng thắn nói chuyện"

Rời sương quân binh doanh, Đỗ Văn Hạo lại đi thị sát kiểu cưỡi ngựa xem hoa mấy doanh phòng cấm quân xung quanh, kết quả cũng không khác là bao.

Trời đã nhá nhem tối, hắn lòng nặng trĩu về kinh.

Về đến nhà, hắn rầu rĩ nằm lên giường, Anh Tử gọi hắn ăn cơm hắn cũng không màng.

Bàng Vũ Cầm đến, ngồi xuống bên hắn nói: "Tướng công, có chuyện gì không vui sao?"

"Ừ"

"Có thể nói ra được không? Nói ra cùng nghĩ cách, có lẽ sẽ giải quyết được"

"Có nói nàng cũng không hiểu!" Đỗ Văn Hạo vừa dứt lời liền hối hận, ngẩng đầu nhìn Bàng Vũ Cầm, quả nhiên thần sắc thay đổi, vội vàng sửa lỗi, hắn ôm nàng vào lòng, nhẹ nhàng kể chuyện hôm nay đi thi sát rồi nói: "Quân đội Đại Tống ta như vậy, ta là người đứng đầu Tam Nha, trong lòng không vui chút nào, lại không biết phải giải quyết từ đâu. Sắp tới cần giao tranh với Tây Hạ, trong tay không có một chút binh lực nào, vì vậy cảm thấy rất khó chịu"

 Chương 425: Thống nhất tư tưởng.

Bàng Vũ Cầm gật đầu: "Tướng công xưa nay chỉ nghiên cứu y thuật, nay lãnh binh đánh trận cũng là chuyện quá gấp gáp, mà căn bệnh này của quân ta không phải ngày một ngày hai, hơn nữa sự rệu rão cục bộ dễ khiến cả bộ máy ngưng trệ, phải thật cẩn trọng. Nếu không tướng công đi hỏi mấy vị danh tiếng cầm quân thành công, để họ chỉ giáo cho chút đạo cầm quân, biết đâu lại có được lời khuyên hay cũng nên"

Đúng là câu nói làm người khác tỉnh mộng, Đỗ Văn Hạo gật gù nói: "Nàng nói rất đúng! Ta không phải người trong nghề, phải đi xin người ta chỉ giáo, không thể làm bừa được, dan tướng triều ta rất nhiều, nhưng ai mới là người có uy tín nhất đây?"

"Vẫn nghe tướng công khen Dương gia tướng lợi hại thế này, lợi hại thế kia, tại sao không đến đó nhờ họ chỉ giáo?"

"Đúng! Dương gia tướng! Đúng rồi! Đã bảo là phải đi thăm hỏi họ, ban đầu chỉ vì lòng ngưỡng mộ, nay lại có chuyện phải cầu đến họ thật rồi. Được rồi, sớm ngày mai đến Dương phủ bái kiến! Vẫn là phu nhân nhiều cao kiến, chứ cái đầu cá gỗ của ta sao mà nghĩ ra được"

Bàng Vũ Cầm cười tinh nghịch: "Chẳng qua tướng công phức tạp hóa vấn đề nên nhất thời không nghĩ ra đó thôi, bình thướng tướng công rất hay nhắc đến Dương gia, thiếp không nhắc thì tướng quân khắc nhớ ra thôi"

Đỗ Văn Hạo ôm chặt lấy Bàng Vũ Cầm đè nàng ra: "Hì hì, tướng công giờ chỉ muốn kiều thiếp vừa nói vừa cởi áo ra thôi"

Bàng Vũ Cầm cầm lấy tay ngăn Đỗ Văn Hạo lại: "Tướng công, đừng!"

"Sao? Hôm nay không hải đến lượt nàng sao?"

"Đúng, chỉ là...thiếp hình như...hình như lại mang bầu rồi"

"Thật sao?" Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nắm lấy tay Bàng Vũ Cầm bắt mạch, "Để ta xem nào!"

Được một lúc lại reo lên: "Ha ha, đúng là lại có rồi! Vẫn chỉ có phu nhân Bàng Vũ Cầm lợi hại! Liên tục có bầu! Lần này phải giữ cho tốt, không thể để xảy nữa đấy!"

Bàng Vũ Cầm ra vẻ xấu hổ nép vào ngực Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Thiếp cũng nghĩ vậy, tốt hơn vẫn nên cẩn thận. Tướng công một thê ba thiếp, nhưng không ai có con, chuyện hương hỏa phải có người lo liệu thì mọi người mới yên tâm"

Đỗ Văn Hạo cười hì hì nói: "Chuyện này có gì đâu, nàng mang thai nhưng lại xảy, Thanh Đại tuy đã đến lúc nhưng 3 năm chưa hết tang, đến nay vẫn chưa động phòng, cũng không có cách nào cả, Liên Nhi và Phi Phi còn nhỏ, mới 15 16 tuổi, chưa phát triển đầy đủ, qua vài năm nữa thì sẽ ổn thôi mà"

"Vâng, nhưng thiếp là nguyên phối, nên là người đầu tiên mang thai"

"Nàng nói rất đúng, bây giờ mang thai là tốt rồi, để ta nghe xem là con trai hay con gái!" Nói rồi hắn áp tai vào bụng Bàng Vũ Cầm nghe thử.

Bàng Vũ Cầm nhột quá cười: "Mới có hai tháng thì nghe thấy gì được!"

Chuyện này Đỗ Văn Hạo thừa biết, nhưng niềm vui được làm cha khiến hắn quên tất, hắn oomg chặt Bàng Vũ Cầm nói: "Hôm nay nàng ngủ lại đây, ta muốn ôm nàng ngủ!"

Tuy đã thành thân hơn 1 năm nhưng nghe tướng quân nói câu đó nàng vẫn rất xấu hổ, chỉ gật đầu không nói.

Sáng sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo luyện kiếm với Lâm Thanh Đại như mọi khi, 3 ngày nay, với sự chỉ dẫn của Lâm Thanh Đại, kiếm pháp của hắn đã khá hơn nhiều, chỉ cần chịu khó luyện tập là được.

Dùng xong bữa sáng, Bàng Vũ Cầm đã chuẩn bị một hậu lễ, sai người hầu bưng đi theo Đỗ Văn Hạo sang Dương phủ bái kiến.

Đỗ Văn Hạo mang theo hộ vệ ra ngoài, nhưng người đưa tin của Tam Nha cấp báo, Quân đô bộ thử Lã Công Trứ và phó đô bộ thử Khúc Trân và giám quân Lí Hiến của chuyến Tây chinh đang đợi trước cửa Tam Nha.

Đỗ Văn Hạo thân là đại nguyên soái của Tây chinh thảo phạt, phải đưa ra kế sách xuất chinh lần này, phải chỉ dẫn cho binh lính ở tiền tuyến, theo quy định, sau khi ban bố chiếu thư xuất chinh, muộn nhất trong 3 ngày phải xuất phát, quân tình gấp rút, phải hạ chiếu hôm đó xuất phát, không được chậm trễ. Đỗ Văn Hạo quyết định phải giải quyết chuyện này trước.

Hắn cùng các hộ vê đến trước điện nghị sự đường.

3 người thấy hắn đến đều đứng dậy hành lễ, Đỗ Văn Hạo vội phẩy tay áo đáp lễ, rồi ngồi vào vị trí chính giữa, hắn không quen biết 3 người này, Lã Công Trứ và Lý Hiến lại là người quen, Lý Hiến đã từng nhiều lần làm giám quân, đã từng làm đến kinh lược sử, vì tác chiến thất bại nên bị chuyển về Khánh sứ Nhậm tuyên ở kinh thành, vì vậy quen biết đại tướng Khúc Trân, nhưng chỉ là xã giao thông thường, Khúc Trân luôn ở biên giới Tây Hạ tác chiến, lại cỉ là phó tổng quản, vì vậy không có duyên quen biết với quyền thần trong triều Lã Công Trứ, vì vậy hai người không quen nhau.

Khi 3 người giới thiệu, Đỗ Văn Hạo cũng giới thiệu bản thân mình, rồi lại là màn xã giao thường gặp, Đỗ Văn Hạo thấy Khúc Trân tóc đã bạc phơ, do khoảng cách khá xa nên không nhìn rõ là nếp nhăn hay là sẹo đầy trên mặt, cho dù có cao to, tráng kiện, nhưng sức khỏe có phần không còn tốt lắm, nhưng hai mắt lanh lợi rất có thần, hắn bèn nói: "Khúc tướng quân, tôi ngưỡng mộ đại danh của tướng quân đã lâu, thường nghe Lý Phổ kể chuyện mọi người tác chiến ở Tây Hạ, rất ngưỡng mộ tài cầm quân của ngài"

Khúc Trân vội đứng dậy hành lễ: "Mạt tướng đâu dám, xin cám ơn sự đề cao của đại tướng quân!"

Lã Công Trứ là một nhân vật nguyên lão trong triều, đến Vương An Thạch do ông ta tiến cử cũng phải kính nể, thấy Đỗ Văn Hạo trẻ tuổi đã leo lên chức vị cao như vậy, thực tình không nhìn ra có chỗ nào hơn người, trong lòng có vẻ khinh thường. Hoàng Thái Hậu cho ông ta nhận chức đô bộ thử, Khúc Trân chỉ là phó soái, Đỗ Văn Hạo không xưng hô đại nguyên soái ngay mà khen ngợi phó soái trước khiến hắn không vui chút nào, hắn chỉ nói nhạt một câu: "Khúc tướng quân nên cám ở sự đề cao của Đỗ tướng quân, ì Đỗ tướng quân còn trẻ tuổi, nếu đổi lại là một lão thần thì sẽ không đề cao một bại tướng như ông đâu"

Vừa nghe thấy câu đó là mặt Khúc Trân đỏ hết lên, gương mặt tươi cười của Đỗ Văn Hạo như đông lại một lúc, hắn đưa mắt nhìn Lã Công Trứ, trộm nghĩ lão này thật vô lí, vốn nghĩ bật lãi mỉa mai vài câu, nhưng việc còn chưa xuất chinh mà nội bộ đã lục đục thì không hay, bèn giả bộ không nghe thấy, lái sang chủ đề khác, nói huyên thuyên về kế sách của mình.

Nghe hết ý tưởng của Đỗ Văn Hạo, Khúc Trân gật đầu nói: "Kế hoạch tác chiến của đại tướng quân rất tốt, từng bước rõ ràng, buộc ta và địch phải giáp chiến quyết đấu, làm tiêu hao sức chiến đấu của địch, phát huy ưu thế về quân số của ta, chỉ cần kế hoạch có thể nghiêm túc thực hiện, nhất định sẽ thành công!"

Lã Công Trứ điềm nhiên nói: "Lão già chỉ sợ không sống nhìn thấy hiệu quả thôi!"

Đỗ Văn Hạo nhìn Lã Công Trứ nói: "Nghe câu này của đô bộ thử thì hình như chiến thuật này kéo dài quá đúng không?"

"Đúng vậy"

"Vậy theo cao kiến của bộ thử thì trận này nên đánh thế nào?"

"Rất đơn giản, chia binh ra nhiều hướng, đánh xuyên tâm và bao vây, cắt đứt đường rút lui của địch, lợi dụng ưu thế binh lực để đánh lui địch"

Đỗ Văn Hạo chỉ cười nói: "Đô bộ thử, quân ta gặp quá nhiều trận như thế rồi, không thể để bi kịch tái diễn nữa!"

Lã Công Trứ nhếch đôi mày đậm đã bạc trắng: "Đại tướng quân, chiến thuật là chết, người là sống, chiến thuật có thể tạo ra kì tích, cũng khiến đội quân chiến bại, chỉ cần biết dùng là phát huy tác dụng"

Đỗ Văn Hạo nói: "Ngài nói không sai, nếu quân ta có thể nhanh chóng tiến công, lại có nghị lực và sức chiến đấu dẻo dai, đánh xuyên tâm rồi bao vậy sẽ tiêu diệt được địch. Thế nhưng, quân ta đang phải đối diện với quân Tây Hạ với kị binh là chủ lực, người có hai chân sao nhanh được bằng ngựa có 4 cẳng, hơn nữa quân địch là trọng giáp kị binh, quân ta muốn đánh xuyên tâm lại không mang theo trọng giáp được, cứ cho là bao vây được quân địch, thì quân địch với ưu thế trọng giáp kị binh sẽ sớm phá vỡ vòng vây của chúng ta thôi. Vì vậy chúng ta bao vây được địch nhưng chưa chắc thắng được chúng. Điều này đã được chứng minh qua rất nhiều chiến dịch rồi"

"Vậy là chủ soái chỉ huy bất lực rồi!" Lã Công Trứ lanh đạm nói.

"Nói vậy, đô bộ thử rất tự tin vào tài chỉ huy quân sự của bản thân phải không?"

"Không phải lão già ngông cuồng, cho dù lão chưa từng cầm binh đánh trận, sự tự tin vẫn có. Nếu lần này lão lãnh 5 vạn binh mã, có thể thảo phạt theo ý lão, bảo đảm thành Vĩnh Lạc chiến bại ê chề!"

Đỗ Văn Hạo nói: "Quân ta hiện nay không thích hợp với chiến thuật đó"

"Đại tướng quân lo thừa rồi, cầm binh đánh trận, bắt buộc phải gan lớn, tướng quân như vậy thì chỉ có chiến bại mà thôi"

Đỗ Văn Hạo lúc này quá tức giận rồi, nhưng vẫn cố kiềm chế, cố gắng giữ cho mình bình tĩnh: "Lã đại nhân, tác chiến chậm chắc, kế hoạch này do tể tướng quyết định, kế hoạch này..."

"Kế hoạch này không được! Quá bảo thủ!" Lã Công Trứ sầm mặt vào không bằng lòng, "đánh như vậy đến bao giờ mới thắng được Tây Hạ? Ta đường đường là nước lớn đi 'dạy bảo' nước nhỏ, chỉ cần uy thế hùng hậu xuất chinh, không có chuyện không thắng được. Đánh như tướng quân thì phải đợi đến 50 năm hay 100 năm?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Quân ta bây giờ mà so với quân của Tây Hạ, trừ ưu thế về số lượng, còn lại đều không bằng, tư tưởng khinh địch và nhanh chóng thắng lợi mới là kẻ địch lớn nhất của chúng ta!"

"Tướng quân như thế là rùa rụt cổ đó!"

Đỗ Văn Hạo phát hiện ra mình nhẫn nhịn lão già này đúng là thất sách, bây giờ thánh chỉ đã giáng xuống, không thay đổi được, chỉ có thể thuyết phục lão ta không tiến công. Hắn cố gắng nuốt nước miếng, chậm rãi nói: "Lã đại nhân, chúng ta không tranh cãi nữa, kế hoạch của tôi đã được Hoang Thái Hậu thông qua rồi"

"Thông qua rồi thì sao? Sai thì nên sửa!" Lã Công Trứ liếc Đỗ Văn Hạo, "Chiều hôm qua Hoàng Thái Hậu triệu kiến dặn dò tôi nên nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh của đại tướng quân, còn bảo tôi chịu khó lắng nghe ý kiến của phó soái Khúc Trân, nói kế hoạch ông ấy phản đối tôi không được thực hiện. Lão lúc đó đã nói với Hoàng Thái Hậu, có cái gọi là 'tướng tại ngoại quân lệnh hữu sở bất thụ', chiến trường biến hóa vô cùng, chiến thuật cũng phải thay đổi theo, chỉ có thể tùy cơ ứng biến! Phó soái có thể nêu ý kiến, nhưng phải tuân theo lệnh của chủ soái! Nếu không chuyến xuất xhinh này không có cách nào đánh cả!"

"Vậy ông muốn như thế nào?"

"Là đô bộ thử, lão cầu xin tướng quân cho phép lão có quyền tự quyết kế hoạch tác chiến!"

 Chương 426: Không rét mà run.

"Tuyệt đối không được!" Đỗ Văn Hạo rũ hai tay áo, hằn giọng nói, "ta lần này xuất chinh thảo phạt, là đại nguyên soái, ta không có quyền giao tính mạng của hơn 5 nghin binh sĩ cho ông làm loạn được! Chiến thuật chậm chắc được hội nghị tể chấp quyết định, được Thái Hoàng Thái Hậu ngự chuẩn, toàn quân phải phục tùng! Tuyệt đối không được thay đổi! Ta nói lời khó nghe trước, nếu ai vi phạm, đến lúc đó đừng trách ta không nể mặt làm theo quân pháp!"

Triều Tống coi trọng "tướng tòng trung ngự", kế hoạch tác chiến trọng đại sau khi được hội nghị tể chấp xem xét, trình lên Hoàng Thượng chuẩn tấu, rồi giao cho chủ soái quán triệt làm theo. Đây là thông lệ, chuyện Lã Công Trứ muốn đứng lên tự mình quyết định kế hoạch tác chiến, rõ ràng là không khả thi, vì vậy, hắn dù có tức đến đâu cũng không dám đấu tranh đến cùng.

Đỗ Văn Hạo thấy hắn không ho he gì nữa cũng kiềm chế tức giận lại, ôn tồn nói: "Lúc nãy tôi đã giải thích rõ kế hoạch tác chiến rồi, đây chỉ là suy nghĩ, chúng ta ra chiến tuyến, phải căn cứ vào tình hình thực tế mà hành động. Nhưng bất kì thay đổi chiến thuật nào cũng phải xoay quanh chiến thuật này, tuyệt đối không được chia nhỏ mạo hiểm tấn công, cũng không cho phép truy đuổi địch. Kẻ vi phạm, dù có công vẫn bị xử theo quân pháp! Đây là kỉ luật thép! Các doanh các quân chỉ huy sứ phạm phải điều này, bản tướng sẽ dùng bảo kiểm do Hoàng Thái Hậu ban cho để xử trảm! Quân lệnh như sơn, kính mong 3 vị hiểu cho!"

Khúc Trân và Lý Hiến đều cúi người tuân mệnh, chỉ có Lã Công Trứ không có phản ứng gì, vẫn ngồi đó có vẻ ấm ức.

Đỗ Văn Hạo đã nói rất rõ ràng, thấy ông ta như vậy cũng yên tâm phần nào, bèn nói với Khúc Trân: "Khúc tướng quân, Thái Hoàng Thái Hậu đã giao cho ngài quyền phản đối kế hoạch tác chiến, nếu ngài thấy có gì không ổn, phải kiên quyết thực hiện nhiệm vụ của mình, báo để tôi sửa đổi. Không sợ đắc tội với tôi, ngài phải làm người tốt, đừng để hàng ngàn binh sĩ đổ máu vô nghĩa! Rõ chưa?"

"Mạt tướng tuân mệnh!" Khúc Trân cung kính chắp tay đáp.

Lã Công Trứ biết mấy câu đó là nhằm vào mình, mặt đanh lại không nói gì.

Đỗ Văn Hạo nhìn Lý Hiến nãy giờ im lặng: "Lý tướng quân, ngài có ý kiến gì không?"

Lý Hiến cười trừ nói: "Đây là quyết định của Tể chấp, Thái Hoàng Thái Hậu đã ngự chuẩn rồi, tôi dĩ nhiên phải tuân theo. Nhưng Lã đại nhân nói không phải không có lý, khi lâm trận, bất kì điều gì cũng có thể xảy ra, quá câu nệ kế hoạch tác chiến rất dễ bỏ lỡ thời cơ"

Đỗ Văn Hạo khoát tay nói: "Cho dù là thời cơ cũng tuyệt đối không nên tham công to mà mạo hiểm! Nhất định phải quán triệt kế hoạch. Còn về binh lực cụ thể, khi địch đến sẽ ứng chiến thế nào, chúng ta có thể quyết định theo tình hình. Tôi chỉ có 1 yêu cầu, có thể đợi quân địch tiến sâu vào mới đánh, nhưng chúng ta tuyệt đối không thể tấn công đột ngột! Tốc độ tiến thoái của chiến trại phải phù hợp, phải cẩn trọng, không được hỗn loạn! Đó chính là tinh thần chính của chiến thuật này! Ngài là giám quân, cũng phải có trách nhiệm giám sát việc thực hiện chiến thuật"

Lý Hiến cười khan, chắp tay đáp: "Tại hạ đã rõ"

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Lần này đến Thiểm Tây có 5 vạn binh mã, nhớ, là sĩ sỗ thực, rất nhiều đội thiếu binh trầm trọng, nếu điều binh theo danh sách thì sẽ không có đủ 5 vạn người, như vậy sẽ không phát huy hết ưu thế về binh lực của quân ta"

Đỗ Văn Hạo nhìn Lã Công Trứ giờ vẫn đang tức tối, lạnh nhạt hỏi 1 câu: "Lã đại nhân, ông nghe rõ những gì bản quan vừa nói chưa?"

Đỗ Văn Hạo trong lần Tây chinh này là đại nguyên soái, lại là tể chấp, Lã Công Trứ phải phục tùng hắn, ông ta đành chắp tay đáp: "Nghe rõ rồi ạ"

"Vậy thì tốt, mọi người lui về chuẩn bị để nhanh chóng xuất phát"

3 người lúc này mới cáo từ ra về.

Đợi 3 người đi khỏi, Đỗ Văn Hạo cũng về nhà, mang theo quà, hộ vệ đến Dương phủ bái kiến.

Cao Thao Thao ban cho hắn phủ chỗ ngay gần Dương phủ, phía bên kia là phủ tể tướng Vương Quế, Đỗ Văn Hạo đến cửa phủ đệ của mình trước, ngắm nhìn một chút, quả là rất hoành tráng, đúng là một trong 3 phủ đệ lớn nhất, và cũng là lớn nhất trong 3 phủ. Dù gì ban đầu cũng là định xây cho vương gia ở. Bên trong kiến trúc chính đã xong, chỉ còn trang trí và nội thất nữa là xong.

Đỗ Văn Hạo chưa kịp nhìn kĩ, thúc ngựa đến cửa Dương phủ.

Phủ đệ này tuy nhỏ hơn của hắn, nhưng vẫn là ngôi nhà lớn danh tiếng trong kinh thành.

Đỗ Văn Hạo đưa giấy xin bái kiến, rất nhanh, cửa phủ mở rộng, một ông lão tóc bạc phơ, đi cùng có hai người hầu đỡ đón ở cửa. Giới thiệu qua loa, Đỗ Văn Hạo mới biết đó là con trai trưởng của Dương Diêm Thiệu Dương Truyền Vĩnh.

Trước đó, để tránh gây chuyện cười vì những hư cấu qua điện ảnh sách bảo, Đỗ Văn Hạo đã tìm hiểu tình hình thực tế nhà họ Dương, được biết trong tiểu thuyết thì Dương Diêm Thiệu là con trai thứ 6 trong 7 người con trai của Dương Kế Nghiệp, trên thực tế lại là con cả. Sau khi Dương Kế Nghiệp chết trận đã được Hoàng Thượng truy phong Thái Úy, chức Thái Úy thời Tống là đứng đầu trong 60 bậc quan võ! Dương Truyền Vĩnh này là anh ruột của Dương Văn Quảng, là con trai cả trong nhà, kế tục huân vị của ông nội Dương Kế Nghiệp.

Đỗ Văn Hạo thân đứng đầu Tam Nha, đích thân đến phủ bái kiến, nên Dương Truyền Vĩnh ra đón.

Dương Truyền Vĩnh đưa Đỗ Văn Hạo vào chính đường, ngồi theo địa vị chủ khách, sau vài câu xã giao thông thường, Đỗ Văn Hạo nói: "Dương Thái Úy có lẽ đã nghe qua, Thái Hoàng Thái Hậu hạ chỉ tôi nhậm chức chiêu thảo sứ Tây chinh Tây Hạ, nhưng tôi cầm binh chưa lâu, thực sự có phần lo lắng. Lo phụ hoàng ân, tôi tự nhỏ đã được nghe về những tấm gương của Dương gia, trong lòng cảm thấy vô cùng ngưỡng mộ, nay mạo muội đến đây, xin Thái Úy chỉ giáo cho về đạo cầm quân, để tỏ thành ý, xin Thái Úy nhận của tôi một lễ"

Dương Truyền Vĩnh run run đứng dậy đáp lễ: "Không dám, đại tướng quân quá khen rồi". Sau khi ngồi xuống, vuốt vuốt bộ râu trắng muốt trầm ngâm một lúc rồi nói: "Không dám giấu ngài, lão tuy người nhà họ Dương, thừa kế huân vị, nhưng từ nhỏ từ thích thơ từ ca phú, không biết chút gì về binh nghiệp, đều là do vợ chồng Văn Quảng cả. Tuy đại tướng quân đã không ngịa ngần hỏi, tiếc là tam đệ sớm đã qua đời, nhưng em dâu thì vẫn còn sống, để lão sia người mời bà ấy tới đây. Bà ấy theo Văn Quảng chinh chiến nhiều năm, hiểu rất rõ về binh nghiệp."

Đỗ Văn Hạo đáp: "Như vậy thì còn gì bằng!"

Dương Truyền Vĩnh dặn dò quản gia, không lâu sau trở lại cùng với một phụ nữ trung niên, đầu tóc búi gọn, ăn mặc tao nhã, gương mặt thanh thoát, mắt sáng ngời. Người phụ nữ đó tiền đến gần hành lễ: "Thiếp Mộ Dung Quế Anh, xin bái kiến đại tướng quân!"

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc vui mừng thốt lên: "Mục Quế Anh? Phu nhân là Mục Quế Anh?"

Mục Quế Anh đáp: "Vâng, Mục Quế Anh là tên tự Hán, cho phu quân đặt cho thiếp, thiếp là người dân tộc Tiên Bi, họ kép Mộ Dung"

Mục Quế Anh trong Dương gia tướng là vợ của Dương Tông Bảo, nhưng trong lịch sử lại không có nhân vật này, chỉ là hư cấu, những chuyện liên quan đến Dương Tông Bảo kì thực là nói về Dương Văn Quảng và phu nhân của ông, sử cũ có ghi: "Dương Văn Quảng lấy Mộ Dung thị, thiện chiến"

Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nói: "Quải soái Mục Quế Anh, thì ra phu nhân vẫn còn sống? Ôi, thất lễ, tôi vui quá nên nói sai, xin phu nhân thứ tội. Tại hạ nghe danh phu nhân đã lâu, nghe nói phu nhân rất thiện chiến, năm đó khi đang đánh trận đã bắt được phu quân phải không?"

Mục Quế Anh mỉm cười nói: "Tướng quân quả là biết nhiều mà nhớ lâu, đến cả chuyện đó cũng biết"

Mục Quế Anh là vọng tộc Tiên Bi, từ nhỏ đã luyện binh đao, được dnah sư chỉ dạy. Năm đó Dương Văn Quảng Tây chinh Tây Hạ, bộ lạc mà gia tộc Mục Quế Anh sinh sống lúc đó bị lệ thuộc Tây Hạ, cũng hiệp đồng chống lại quân Tống, lúc lâm trận gặp Dương Văn Quảng đã nảy sinh tình cảm, Mục Quế Anh bắt sống được Dương Văn Quảng, đã thổ lộ tại sơn trại, Mục Quế Anh đã dẫn bộ lạc quy thuận Dương Văn Quảng, về sau cùng với Dương Văn Quảng chinh chiến nhiều nơi, cho đến khi phu quân trọng bệnh qua đời.

Đỗ Văn Hạo nghe được chuyện này từ sách bình Dương gia, không ngờ có chuyện này thật, vội vàng chắp tay nói: "Có thể được phu nhân chỉ giáo là niềm vinh hạnh của tại hạ"

"Đại tướng quân khách khí rồi, tướng quân lãnh binh lấy ít thắng nhiều, đánh bại quân Thổ Phạn, vốn đã là người giỏi cầm quân rồi, nếu không làm gì có chiến công hiển hách như vậy. Thiếp còn phải học tập tướng quân nhiều"

Đỗ Văn Hạo lắc đầu đáp: "Không giấu gì phu nhân, trận đó tại hạ dùng mưu hạ độc, để quân địch tiêu chảy mới giành được phần thắng đó"

Mục Quế Anh cười tán thưởng: "Biết mình biết ta, tránh được mũi nhọn, kế hạ độc, đây mới là bản lĩnh. Nếu quyết chiến tới cùng thì chắc gì đã có người kính phục"

"Nghe phu nhân nói vậy, tại hạ cũng có phần kính phục chính bản thân mình"

Nói rồi hai người ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo hỏi về những chiến tích chinh phạt Tây Hạ năm xưa, đặc biệt là đặc điểm tác chiến của quân Tây Hạ.

Nói loanh quanh một hồi mới trở về mục địch chính Đỗ Văn Hạo đến bái kiến hôm nay: "Thái Hoàng Thái Hậu rất không bằng lòng với hiện trạng của quân ta hiện nay, hạ lệnh cho tại hạ chỉnh đốn, nhưng tại hạ chưa cầm quân lâu, không hiểu biết nhiều về quân đội. Quân Tống ta ồn tại quá nhiều vấn đề thâm căn cố đế, nhưng không biết ngọn nguồng thế nào. Vì vậy mới đến đây xin thỉnh giáo. Theo ý kiến phu nhân, quân ta hiện nay đang có những vấn đề gì? Nên giải quyết thế nào?"

Mục Quế Anh lại không khách khí nữa, suy nghĩ rồi mới nói: "Vấn đề của quân ta, thiếp và phu quân từng chính chiến nhiều năm, cũng có biết đến, nay tướng quân đã hỏi thì thiếp xin nêu ra một số chuyện sau"

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Hạo mỗ xin rửa tai cung kính lắng nghe"

Mục Quế Anh thao thao bất tuyệt về kinh nghiệm của mình với phu quân về quân Tống trong chiến tranh, tất cả đều nói cho Đỗ Văn Hạo hết.

Thật đúng là nghe quân tử nói bằng mười năm đọc sách, Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Mục Quế Anh nói xong đã thống suốt hơn rất nhiều. Mục Quế Anh không chỉ nói về những thiếu sót bên ngoài của quân tình, mà còn phân tích kĩ càng nguyên nhân nội tại, và nêu ra cả biện pháp chỉnh đốn.

Đến trưa, Dương gia bày tiệc khoản đãi, Đỗ Văn Hạo vẫn muốn xin chỉ giáo thêm một số vấn đề nữa, vào bàn tiệc rồi vẫn tiếp tục bàn luận với Mục Quế Anh.

Đỗ Văn Hạo kính rượu Mục Quế Anh: "Dương u nhân, Hạo mỗ vẫn còn có chuyện nghĩ chưa ra, phu nhân liệu có thể lại khoác bào quải soái xuất chinh Tây Hạ không?"

Mục Quế Anh mặc nhiên lắc đầu: "Đa tại đại tướng quân tin tưởng, trước kia khi phu quân còn sống, thiếp theo phu quân chinh chiến là đủ rồi, bây giờ chỉ muốn sống một cuộc sống bình thường, xin tướng quân hiểu cho"

Đỗ Văn Hạo nghĩ cũng thấy đúng, lại nói: "Thương pháo Dương gia lợi hại vô cùng, không biết phu nhân có biết không? Có điều, phu nhân có thể bắt sống Dương gia tướng, công phu chắc hơn hẳn mọi người, đâu cần phải học thương pháp Dương gia"

"Dương gia thương pháp quả là có chỗ hơn người, phu quân đã truyền dạy hết thương pháp cho thiếp rồi"

"Vậy sao? Đáng tiếc, nếu tại hạ muốn học thưng pháp thì tốt rồi, tại hạ tuy thiếp thất võ công rất mạnh, nhưng binh đao công phu không ổn lắm. Tại hạ đang muốn tìm sư phụ về mảng này đây, còn sư phụ binh pháp nữa, tiện thì dạy binh pháp luôn, không biết Dương phu nhân có biết ai để tiến cử cho tại hạ không?"

Hắn rất hi vọng Mục Quế Anh nhận lời chỉ giáo binh pháp và công phu binh đao cho mình.

Mục Quế Anh mỉm cười đáp: "Đâu cần phải tìm đâu xa, trong nhà tướng quân có đó"

"Ai vậy?"

"Là thiếp yêu mà đại tướng quân vừa đón về, thiên kim của Vương tể tướng, mĩ nhân đệ nhất kinh thành Vương Nhuận Tuyết!"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Phu nhân nói đùa gì vậy, Nhuận Tuyết là khuê nữ, nếu nàng ấy viết thư pháp đẹp hay vẽ tranh thi tại hạ còn tin. Nhưng nói nàng ấy có công phu binh đao thì không tin nổi, chỉ sợ còn chưa từng học qua võ công"

Đỗ Văn Hạo nói chắc như đinh đóng cột, là vì hắn thấy nàng liễu yếu đào tơ như vậy thì múa thương sao được?

Mục Quế Anh cười nói: "Tướng quân nếu không tin thì về hỏi sẽ biết"

Đỗ Văn Hạo thấy Mục Quế Anh không giống như đang nói đùa, bán tín bán nghi hỏi: "Nếu thực sự biết công phu thì sao?"

"Có lẽ tướng quân không biết, hai nhà chúng tôi có mối thâm giao lâu năm, lúc còn nhỏ cô ấy thường đến phủ chúng tôi chơi, thấy trẻ con trong phủ múa thương luyện võ cũng đòi học theo. Ban đầu chỉ dạy cô ấy mấy chiêu để rèn luyện thân thể, ai ngờ cô ấy có tư chất, cái gì cũng chỉ nói đến lần thứ hai là đã lĩnh hội được rồi. Có lẽ cô ấy giống thiếp hồi nhỏ, khiến thiếp nhớ đến tuổi thơ của mình, vì vậy hai người rất hợp nhau, tuy chưa bái sư, nhưng thiếp đã truyền lại cho cô ấy toàn bộ bản lĩnh của thiếp, cô ấy đã học hết, chỉ cần chịu khó luyện tập thôi"

Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nhìn Mục Quế Anh, thầm nghĩ Mục Quế Anh trông cũng mảnh mai yếu ớt, đâu có giống con nhà võ, ai mà biết đây là anh hùng danh tiếng lừng lẫy? Đúng là không thể phán xét theo vẻ bề ngoài, thì ra nhị phu nhân tương lai của mình lại là một nữ tướng, hơn nữa còn là học trò của Mục Quế Anh, chuyến đi này quả không vô ích!

"Dương gia thương cũng truyền cho người ngoài sao?"

"Đương nhiên, thương pháp là để đánh giặc, phu quân trước kia cũng đã truyền dạy cho rất nhiều người, chỉ cần họ muốn học thì sẽ truyền thụ hết, không giấu giếm chút gì"

'Thì ra là vậy! Vậy binh pháp của Nhuận Tuyết thế nào?"

"Binh pháp thì khỏi nói, cô ấy tư chất thông minh, toàn bộ binh thư trong Dương phủ cô ấy đã thuộc lòng, thậm chí còn ghi nhớ cả những câu chuyện nhà binh mà chúng tôi hay bàn luận với nhau. Chỉ là cô ấy chưa từng chính thức ra trận, suy cho cùng cũng chỉ là lí thuyết, muốn biết thì chỉ có thực tế mới chứng minh được"

"Tốt quá rồi! Sau này đi Tây chinh tôi nhất định sẽ mang theo cô ấy, để cô ấy trở thành một nữ anh hùng giống như phu nhân!"

"Tất nhiên!"

Sau khi tình cờ biết được chuyện này, Đỗ Văn Hạo mừng như mở cờ trong lòng, rời khỏi Dương phủ, hắn mượn rượu đến phủ tể tướng thăm phu nhân tương lai! Đến cửa lại dừng lại, chưa lên kiệu hao thì tân nương không được thấy mặt phu quân, hơn nữa giờ có nhiều chuyện gấp hơn phải giải quyết, Mục Quế Anh nói rất đúng, đợi lấy về rồi hỏi cũng được.

Hắn đến Duệ Tư cung của Hoàng Thượng, hỏi nội thị thì biết Hoàng Thượng đang ở Tư Thiện Đường.

Tư Thiện Đường là nơi Hoàng Thượng học tập, xem ra tiểu Hoàng đế rất chuyên cần, thậm chí còn không nghỉ trưa.

Đỗ Văn Hạo vui vẻ đến Tư Thiện Đường, vừa đến cửa thì một nội thị phụ trách hầu hạ đã lớn tiếng nói: "Ay da! Đỗ đại tướng quân đến! Có phải ngài đến thăm Hoàng Thượng lên lớp phảiạ? Hoàng Thượng đang ở bên trong đó ạ!"

Đỗ Văn Hạo trợn mắt nói: "Ngươi gào cái gì? Lỗ tai ta sắp bị người làm cho điếc rồi đấy!" nói rồi xông thẳng vào, qua Thiên Tỉnh, đến phòng lớn hướng chính Bắc.

Cửa lớn đang đóng, Đỗ Văn Hạo giật cửa ra, thấy 4 đứa trẻ trong phòng mỗi đứa một quyển sách, tập trung xem, thầy dạy Triệu đang ủ rũ ngồi đó, nhìn Đỗ Văn Hạo định nói lại thôi. Đỗ Văn Hạo tiến lại gần Tống Triết Tông hỏi: "Hoàng Thường, người đang xem sách gì vậy?"

"Luận Tướng!"

""Hình như người cầm ngược sách rồi ạ!"

"Vậy sao? Hì hì" Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo cười trừ rồi quay sách lại, "Trẫm vừa xem xong <Trung Dung>, đang chuẩn bị xem <Luận ngữ> thì người đến, vì vậy cầm lộn...Ấy! Sao lại ngược thế này? Trẫm lúc nãy đâu có cầm ngược!" Tống Triết Tông lại lật lại xem.

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Hoàng Thượng, lúc nãy người đâu có đọc sách, đến sách cầm ngược hay không cũng không biết, thần chỉ muốn thử người thôi"

"Đỗ tiên sinh! Người dám trào lộng trẫm?"

Đỗ Văn Hạo không để ý đến nó, đến gần thầy Triệu lúc này đang gà gật: "Hừ, lúc nãy ngươi không cầm ngược sách, nhưng mấy con dế dưới gầm bàn đang bò lên đó"

"Hả" Thầy Triệu vứt vội quyển sách cúi xuống xem, nhưng đâu có gì

Đỗ Văn Hạo cười lớn nói: "Sau bữa trưa được nghỉ 1 giờ, đó là quy định, bây giờ chưa đến giờ học chiều, mầy người cứ chơi đi, ta cần thành tích học thật, chứ không phải trò giả tạo này, rõ chưa?"

Công công thở phào, vứt quyển sách trên tay xuống: "Đều là chủ ý của tiểu hoàng thượng!"

Tống Triết Tông xấu hổ nói: "Là trẫm sợ tiên sinh thấy trẫm chơi, nên bảo bọ họ đến"

 Chương 427: Quân sự biến cách.

Đỗ Văn Hạo nói: "Các con còn nhỏ, đang là lúc còn ham chơi, lúc ta ở tuổi các con ta còn nghịch gấp mấy!"

"Thật sao? Vậy người thích chơi gì? Có phải chọi dế không?"

Đỗ Văn Hạo hồi nhỏ thích trò chơi điện tử cơ, lúc đó không thịnh hành đấu dế, lắn đầu nói: "Không, lúc nãy các con chọi dế đúng không?"

"Vâng ạ"

"Vậy mang ra chọi ta xem nào!"

"Vâng ạ!" Tống Triết Tông cúi xuống gầm bàn lấy hộp chọi dế ra đặt lên bàn, nhìn 3 đứa kia nói: "Nhanh lên!"

3 đứa lấy hộp dế ra đặt lên bàn, Tống Triết Tông bỏ dế vào hộp to trước, Triệu Nhân cũng bỏ vào, hai người lấy cọng cỏ ghẹo cho chúng đánh nhau. Chẳng bao lâu sau, hai con dế bắt đầu chọi.

Đấu được một lúc, con dế của hoàng thượng bị thua, chạy loạn trong chiếc hộp.

Triệu Nhân vui cười hở lợi, chỉ Tống Triết Tông nói: "Hoàng huynh, huynh thua rồi, mau trả tiền đi!"

Tống Triết Tông hậm hực rút tiền ra ấn vào tay Triệu Nhân: "Đây! Hừ! Để rồi xem, ván sau ta nhất định thắng!"

"Hi hi, huynh đã thua 3 ván liên tiếp rồi!"

Đỗ Văn Hạo hoảng, thì ra hoàng thượng dùng dế để đánh bạc với các huynh muội! Mỗi lần thắng thua là một xâu tiền vàng!

Hắn quay đầu nhìn thầy Triều Nhan Nhược, muốn hỏi ông ta tại sao không quản, chỉ thấy ông ta giở khóc giở cười nhìn mình, hắn liền biết ông ta không có cái gan đó.

Đỗ Văn Hạo đang định bảo bọn trẻ con thôi, thì chuyện xảy ra sau đó càng làm hắn ngạc nhiên.

Thấy Tống Triết Tông thò tay ra lấy con dế chiến bại ra khỏi hộp, rồi quay cho khuất mắt người khác rồi dẫm chết nó.

Và rồi trên đất chỉ còn xác con dễ tan nát!

Đỗ Văn Hạo còn kinh ngạc hơn cả lúc thấy hoàng thượng đánh bạc, mới nhỏ mà đã vậy thì lớn lên sẽ thế nào đây.

Tống Triết Tông hét lớn: "Lại! Trẫm nhất định sẽ thắng!" rồi thò tay ra bắt dế.

"Khoan!" Đỗ Văn Hạo cố gắng kiềm chế sự giận giữ, chậm rãi nói: "Hoàng Thượng, khi Thái Tổ đánh cờ với Trần Truyền lão tổ đánh cược Hoa Sơn, đã thua mất Hoa Sơn, bèn lập ra quy định con cháu về sau không được đánh bạc, hôm nay hoàng thượng lấy dế đánh bạc, chỉ sợ vị phạm quy định của tổ tiên thôi"

Tống Triết Tông châm chọc: "Chỉ là chơi cho vui thôi mà, không sao đâu"

"Hoàng Thượng, đừng coi thường những chuyện nhỏ! Hôm nay thua chọi dế, ngày sau sợ rằng sẽ mất cả giang sơn! Thần hi vọng haongf thượng tuân thủ quy định của tiên đế, không làm như thế này nữa. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu mà biết thì sẽ không hay đâu ạ"

Đỗ Văn Hạo đưa Thái Hoàng Thái Hậu ra đã điểm trúng tử huyệt của Tống Triết Tông, Tống Triết Tông đành ngoan ngoãn bỏ con dế vào hộp: "Thôi, dù gì cũng không thú vị, không đánh thì không đánh!" nói rồi ngồi phịch xuống.

Đỗ Văn Hạo đến bên hoàng thượng, vỗ lưng nói: "Lúc nãy, hoàng thượng dẫm nát con dế, chắc là muốn xả giận, nhưng hoàng thượng đã từng nghĩ, làm như thế có hợp với thân phận của mình không"

"Chuyện con dế này trẫm cũng sai sao?" Tống Triết Tông bất mãn hỏi Đỗ Văn Hạo.

"Hãy nhớ, khi Thái Hoàng Thái Hậu chọn người kế vị đã từng nói, hi vọng người về sau có thể noi gương tiên đế nhân trị thiên hạ, trở thành bậc minh quân, dùng cách này để đối phó với một sinh mạng nhỏ bé thì đâu phải là nhân nghĩa?"

Tông Triết Tông lại tròn mắt, cúi đầu nói: "Trẫm biết sai rồi, tiên sinh đừng kể với Thái Hoàng Thái Hậu nhé"

"Biết sai là có thể sửa, vi thần lại đâu phải là người hay xét nét lỗi nhỏ của người khác? Sắp đến giờ người phải học rồi"

Triệu Nhân lập tức vui vẻ gọi: "Tiên sinh, hôm nay hãy giảu thích tại sao cái đũa ở trong nước lại biến hình đi?"

Tiểu công chúa phản bác: "Không, hãy giải thích tại sao ngôi sao biết chớp mắt đi!"

Triệu Cổ cũng chen vào: "Không, dạy vẽ sao cho giống trước đi!"

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Không, hôm nay dạy toán!"

Tống Triết Tông lập tức vỗ tay: "Đúng rồi, cái này hay, dạy cái này trước đi!"

Bây giờ thằng nhóc này là hoàng thượng, ai dám phản kháng quyết định của nó chứ, hơn nữa nó rất thích môn này.

Chiều hôm nay, Đỗ Văn Hạo dạy chúng cách viết chữ số Arap, và dùng những con số đó để biểu diễn số lượng và cả cách tính toán nữa.

Tống Triết Tông phát hiện ra phương pháp này hay và tiện hơn rất nhiều, vì vậy rất hứng thú, tự nhỏ nó đã tự ra đề toán cho mình, làm không biết chán, Triệu Nhân thì không nhanh nhẹn bằng, không nhớ nổi các chữ số Arap, luôn nhầm lẫn, chứ đừng nói đến việc vận dụng để làm toán. Niệm Niệm là người học chăm nhất, viết tuy chậm nhưng cẩn thận, chỉ có Triệu Cổ vận dụng linh hoạt nhất, cũng rất chăm chỉ nữa.

Dạy xong thì trời đã tối, Đỗ Văn Hạo quay về Ngũ Vị Đường.

Tiền Bất Thụ và Diêm Diệu đến bẩm Thái Y tình hình học tập nội dung mới của ngoại khoa, hỏi Đỗ Văn Hạo lúc nào có thời gian thì đến Thái y viện để truyền dạy, Đỗ Văn Hạo nói đợi qua đợt này mới biết, Đồng thời bảo Diêm Diệu chuẩn bị quân y cho quân đội.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo lên kế hoạch bồi dưỡng quân y, bắt đầu truyền thụ kiến thức ngoại khoa kim sáng cho quân y toàn quốc. Đương nhiên đầu tiên là Thiểm Tây rồi.

Hai ngày nay, các quân đô chỉ huy sứ ở Tam Nha theo sự bố trí của Đỗ Văn Hạo, viết lại toàn bộ những vấn đề mà họ cho là nghiêm trọng của quân đội hiện nay, rồi trình lên Đỗ Văn Hạo.

Sau khi xem xong những báo cáo này, hắn phát hiện ra đại bộ phận đều viết nhằm vào những vấn đền lặt vặt, chắc là sợ nói quá nhiều sẽ rước họa vào thân. May thay vẫn có một số ít vẫn dũng cảm nói ra sự thật, trong đó có những vẫn đề trầm kha đã tồn tại nhiều năm nay, Đỗ Văn Hạo đã nghe Mục Quế Anh nói. Cũng có một số vấn đề năm nay mới phát sinh, sau khi Mục Quế Anh rời quân ngũ, không tiếp xúc nên không biết. Và cách giải quyết họ nêu ra rất hữu ích, Đỗ Văn Hạo xem xong cảm thấy thông ra rất nhiều.

Mấy ngày sau, Đỗ Văn Hạo triệu tập mấy tướng quan trượng nghĩa nói thẳng lại, trực tiếp hỏi, đồng thời xác nhận một số chuyện trong quân đội, từng bước nắm chắc một số tình hình thực tế.

Thời gian này, sư gia Thẩm Thăng Bình căn cứ vào yêu cầu của Đỗ Văn Hạo mà thu thập chỉnh lí số liệu, cơ bản là đã xong, Đỗ Văn Hạo căn cứ vào số liệu điều ra gần đây mà tìm cách chẩn chỉnh trên quy mô lớn quân Tống.

Phó đô chỉ huy sứ Lý Phố đã hoàn thành nhiệm vụ đưa linh cữu Thái Hoàng Thái Hậu về Hoàng lăng và quay về kinh thành. Đỗ Văn Hạo triệu tập Lý Phổ và các tướng lĩnh cao cấp tâm phúc tham gia cuộc Tây chinh lần này, bàn về việc chấn chỉnh quân đội, mọi người nếu ý kiến đánh giá, rồi Đỗ Văn Hạo thu thập lại sửa đổi, cho đến khi nào mọi người thấy dược mới thôi.

Chiều hôm đó, Đỗ Văn Hạo đến tham kiến Thái Hoàng Thái Hậu tại tẩm cung Phúc Ninh, Cao Thao Thao đang chiếu lệ kiểm tra việc tu sửa hồ.

Mấy ngày nay, việc di dời đã hoàn thành, xưa việc thu hồi đất không giống bây giờ, đặc biệt là hoàng cung, đó là phục tùng vô điều kiện.

Việc di dời đã cơ bản hoàn tất, đang dỡ nhà, Cao Thao Thao và thượng thư, thị lang, và quan thiết kế đang bàn về bố cục công trình.

Theo chỉ dụ của Cao Thao Thao, Đỗ Văn Hạo vào tẩm cung không cần thông báo, nhưng khi biết Cao Thao Thao đang bận ngoài công trường, bèn cho người đi thông báo, Cao Thao Thao lập tức kết thúc hội nghị để mọi người về tiếp tục nghiên cứu phương án cải tạo.

Cao Thao Thao đi thẳng về tẩm cung, cho mọi người lui hết, rồi nhìn Đỗ Văn Hạo, xà vào lòng hắn, ôm hôn thắm thiết, Cao Thao Thao nói: "Sao rồi? Có kế hoạch chấn chỉnh quân đội rồi sao?"

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói, lấy báo cáo ra đưa cho Cao Thao Thao: "Xong rồi, chia các vấn đề và phương pháp, nội dung có thể có chừng này"

Cao Thao Thao nhận lấy nhưng không mở ra xem, mỉm cười nói: "Ngươi nói cho ta nghe đi"

"Được thôi"

"Đợi đã, để ta bảo người làm vài món ngon, chúng ta uống rượu rồi nói, được không?"

"Được"

Cao Thao Thao bảo Tiêu công công xuống ngự thiện phòng làm cơm, rồi hâm nóng một bình rượu, hai người ngồi xuống uống rượu trước.

Đỗ Văn Hạo nói: "Sức chiến đấu của quân ta rất yếu, nguyên nhân rất phức tạp, chủ quan có, khách quan có, mỗi lần chiến bại đều có cá biệt mà cũng có điểm chung, để tiện cho nàng, ta đã chia ra làm 3 loại, từ trên xuống, nguyên nhân từ triều đình, từ quân quan, và binh sĩ"

"Cách phân loại mới quá, chính là 3 loại này sao?"

"Nói chung là có 3 loại, mỗi loại lại được chia nhỏ ra. Cụ thể nguyên nhân do triều đình thì lại được chia ra nguyên nhân di tư tưởng xây dừng quân đội, địa vị của quân đội và quân nhân, sự phân tán của binh quyền, lấy văn trị võ, coi nhẹ việc xây dựng kị binh, quân đội coi trọng kinh doanh chạy theo doanh lợi,...Thứ hai, nguyên nhân do quân quan lại được chia ra quân pháp lỏng lẻo, quân chính hủ bại, quân kỉ bại hoại, việc tuyển dụng ghi chép sĩ số của các cấp. Nguyên nhân do binh sĩ gồm có quá lạm dụng chiêu thức, luyện tập không thực hành, luyện tập hoang phí,..."

"Nhiều vấn đề đến thế sao?" Cao Thao Thao cười có vẻ miễn cưỡng, "Ngươi nói từng nguyên nhân ta nghe xem"

"Được, có điều, những phân tích này của ta đề cập đến những di quy, quốc sách, bình thuyết của tiên đế và tổ tông, vì vậy nàng phải cho phép ta mới dám nói"

Cao Thao Thao nghiêng người ôm cổ Đỗ Văn Hạo, hôn hắn ta: "Ta biết ngươi nói có cái lí của ngươi, cho dù ngươi nói gì, cho dù ngươi nói tục ta cũng tha tội cho"

"Cám ơn nàng!" Đỗ Văn Hạo đáp tạ.

Cao Thao Thao dí mắt vào hắn, đùa cợt: "Thực ra đâu cần cẩn thận như vậy, ta là người của ngươi mà, còn trách tội gì nữa chứ?"

Nghe vậy Đỗ Văn Hạo thấy yên tâm, ôm bà ta hồi lâu mới buông ra: "Có câu này của nàng, sua này ta không cần phải lo nữa, ta sẽ chuyên tâm phò tá nàng, trị vì thật tốt giang sơn này"

"Có ngươi giúp ta, ta cũng yên tâm lắm. Ngươi nói đi"

"Nói nguyên nhân thứ nhất trước. Tư tưởng kiến thiết quân đội của quân ta có vấn đề. Một là sương quân, đây là nơi tạp dịch, nguồn ngoài tù binh ra chủ yếu là những binh sĩ tuổi cao già yếu; mà nhiệm vụ của sương quân lại là xây thành đắp trì, chế tạo vũ khí, sửa đường, nhận nhiệm vụ vận chuyển, đào kênh rạch,...; từ đó có thể thấy, mục địch và nhiệm vụ của sương quân là tạp dịch, không trực tiếp tham gia chiến đấu, chỉ làm công tác phụ giúp, tuy gọi là quân nhưng lại không làm việc quân; thế nhưng sương quân quân phí lại cao hơn hẳn các bộ phận khác"

"Thật sao? Sương quân quân phí chiếm bao nhiêu?"

"Riêng cả năm ngoái, toàn quân quân phí là 5 vạn 5 mân (1 xâu tiền xưa), sương quân đã chiếm 1 nghìn 5 trăm vạn mân! Cũng tức là 1/3 quân phí lại không dùng vào xây dựng quân đội mà lại để nuôi sống mấy chục vạn sương quân dân công!"

Cao Thao Thao gật gù, sương quân đúng là nguồn nhũng quân, chuyện này bà ta đã từng nghe phu quân và con trai nhiều lần nhắc đến, Tống Thần Tông cũng từng chấn chính sương quân nhưng hiệu quả không cao. Không chỉ lo lắng, bèn hỏi: "Họa tự sương quân, người không cần nói nhiều ta cũng biết, chỉ cần nói người chuẩn bị giải quyết vấn đề này như thế nào thôi?"

"Đây là vấn đề nan giải, nếu động chạm quá nhiều thì sẽ thất bại, sẽ dẫn đến sự phản đối rất ghê gớm, vì vậy phải có kế hoạch cụ thể từng bước một, dùng cách nước ấm hầm ếch xanh"

"Nước ấm hầm ếch xanh?"

"Đúng, nếu bỏ con ếch vào nước nóng nó sẽ nhảy tanh tách, nhưng nếu bỏ vào nước lạnh rồi nâng dần nhiệt độ, cho đến khi nó bị nấu chín, nó cũng sẽ không nhảy ra ngoài"

Cao Thao Thao nói: "Ta hiểu rồi, đó gọi là tuần tự dần dần"

"Chính xác! Quân số sương quân rất lớn, phải cắt giảm thay đổi dần dần, không thể sửa ngay một lúc được"

"Ngươi nói cụ thể hơn xem"

"Đầu tiên cần chỉnh lại biên chế, việc này không khó, sương quân ban đầu chỉ có hơn 50 vạn quân, cắt giảm đến bây giờ có 22 vạn, rồi phân hiệu từ 280 xuống 120, cả quân đội không hề có bất kì phản ứng gì, chúng ta có thể tiếp tục lộ trình cắt giảm đó của tiên đế. Trước ngăn ngừa cửa vào, về sau, vĩnh viễn xóa bỏ chế độ sương quân. Chặn ngay từ đầu, sau đó cắt giảm theo lộ trình đề ra, mỗi năm cắt 3 vạn, trong 7 năm có thể cắt giảm hoàn toàn!"

"Vậy cắt giảm những ai?"

"Sương quân cao niên, bệnh, tàn phế, được triều đình nhận dưỡng lão; binh sĩ ki thuật được lựa chọn giữ lại, còn các sương quân khác, sẽ cắt giảm theo tuổi tác và chính sách"

Cao Thao Thao thấy hơi choáng: "Là ý gì vậy?"

"Sương quân trên 60, bệnh trọng, hay bị thương mất sức lao động, sẽ nhận trợ cấp theo tháng tiếp cho đến cuối đời. Số sương quân này không nhiều lắm, quốc khố chi tiền dưỡng lão họ, vừa thể hiện nhân chính, vừa là khẩu hiệu tốt để cắt giảm"

"Rất hay, ta hoàn toàn đồng ý, ngươi nói tiếp xem"

Vậy là mục đầu tiên đã có sự ủng hộ của Cao Thao Thao, điều này khiến Đỗ Văn Hạo có thêm niềm tin, nói: "Đối với các sương quân kĩ thuật, chỉ cần còn trẻ đều có thể giữ lại, điều chỉnh lại binh sĩ trên công trường, hậu cần, và binh sĩ chuyên môn trên công trình. Ta tính rồi, binh sĩ kĩ thuật chiếm 3 phần quân số, tức 7 vạn, trong thời bình thế là đủ rồi. Nhưng quản lí không nên giao cho các nha môn địa phương nữa, nếu không sẽ lại thành chân sai vặt cho họ"

Sương quân triều Tống có 2 lớp lãnh đạo, một là nha môn, hai là các soái thần như An vũ sứ hay kinh lược sứ, mà những người này hầu như là tri phủ kiêm nhiệm.

Cao Thao Thao nói: "Có lí, người cho là nên quản lí thế nào?"

"Hủy bỏ chế độ qua nhiều tầng lãnh đạo đi, tập trung quyền vào triều đình, khi có chiến tranh thì cần thống nhất việc điều phối các nhiệm vụ phụ trợ, thời bình, các sương quân có thể đến các công trình để kiếm tiền, nộp thuế là được, binh hậu cần có thể hồi dịch, sửa chữa quân dụng, nhưng chỉ có binh hậu cần thôi, còn binh tác chiến, nghiêm cấm bất kì hình thức kiếm tiền nào"

"Cái này có cần làm theo từng bước không?"

"Có, tất cả những gì ta đề cập đến, trừ trường hợp thân minh đặc biết đều làm theo từng bước, thí điểm cục bộ trước, rút kinh nghiệm, sau đó dần mở rộng, tạo thành phong trào trong xã hội"

"Vậy còn 6 phần còn lại làm thế nào?"

"6 phần còn lại là sương quân chuyển nghiệp, có thể giải quyết theo hai hướng, một là triều đình chi tiền 1 lần để nghỉ hẳn, sau đó muốn làm gì thì làm, hia là triều đình sẽ xắp xếp công việc cho"

"Chi tiền 1 lần? Thế là sao?"

Đỗ Văn Hạo đáp: "Đối với tướng lĩnh bậc 1, điều đến các nha mon làm việc, đãi ngộ không đổi, với cấp chỉ huy, tính theo năm phục dịch mà cung cấp tiền xuất ngũ, ngoài ra mỗi tháng nhận được 70% lương bổng cũ làm sinh hoạt phí, đối với cấp đô, cũng tính theo tuổi, nhưng không được hưởng đãi ngộ nhận lại lương bổng hàng tháng nữa"

"Ùm" Cao Thao Thao trầm ngâm một lúc rồi nói: "Ta thấy xử lí như vậy rất ổn thỏa, mà hi dụng không lớn lắm, mà lại khiến cho họ vừa lòng, đảm bảo được cuộc sống"

"Vậy còn sĩ binh sương quân?"

 Chương 428: Địa vị của quân nhân.

Đỗ Văn Hạo nói: "Sĩ binh sương quân có thể cắt giảm theo nguyên tắc cắt giảm và chính sách, việc tính theo tuổi giống như quân quan, tính theo năm phục dịch. Về chính sách có thể có hai cách xử lí, một là mở nhiều tác phường, tiến hành sản xuất, có thể vào tác phường làm công nhân, tuy không có trợ cấp nhưng lại có lương. Số khác giải giáp về vườn, triều đình ban cho chính sách ưu đãi. Người đi khai hoang lập địa thì sẽ miễn thuế, hơn nữa triều đình có thể cho vay tiền để làm."

"Vay?" Cao Thao Thao ngạc nhiên hỏi

"Ừ, giống như cho vay mạ vậy, do công ty cổ phần đứng ra, sau này chúng ta có thể mở ngân hàng để cho vay, nhưng đợi chế độ công ty ra đời đã"

"Được" Cao Thao Thao cũng không hỏi nhiều, tránh lan man công chuyện, tiếp tục câu hỏi vừa nãy: "Ta thấy kế hoạch của ngươi rất mới lạ mà lại hợp lí, nhưng ta muốn biết, công việc ban đầu của sương quân do ai phụ trách?"

"Cái này cần phải phân tích công việc của sương quân, lúc nãy đã nói rồi, tráng thành quân, kiều đạo quân có thể hợp nhất thành đội công trình. Mà trang phát quân trở thành quân hậu cần, với tác viện quân thì chuyển toàn bộ thành công nhân công trường"

"Binh công trường?"

"Chính là đại khí sở, ta chuyên thi sát đại khí sở, ta không bằng lòng với hiện trạng ở đó, nhất định phải thay đổi"

"Thay đổi thế nào?"

"Đầu tiên cần xây dựng lòng tôn trọng với nhân tài và tri thức, triều ta rất coi trọng bậc văn nhân mặc khách, nhưng lại coi nhẹ nhân tài kĩ thuật. Ta đã tận mắt chứng kiến một nhân tài kĩ thuật cao cấp bị đòn roi rât thảm hại. Người đó phát minh ra một loại cung nỏ gọi là "Thần tí cung", có thể bắn xa hơn nhiều so với loại quân ta hiện đang sử dụng, nhẹ nhàng dễ di chuyển! Nhưng vì tranh đấu phúc lợi cho một thờ rèn mà bị quan quân đánh cho rất thảm. Điều đó đã chứng minh sự thiếu tôn trọng vủa triều ta với họ"

"Ngươi nói đúng, nên trân trọng những nhân tài kĩ thuật, có cách gì hay không ngươi nói ta nghe đi"

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Nên tập hợp những nhân tài kĩ thuật trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế, và các ngành khác nữa lại, thành lập một sở nghiên cứu, độc lập với quân sở khí, trực thuộc triều đình quản lí. Những người này sẽ làm giàu cho giang sơn, nên có đãi ngộ tốt và đảm bảo an toàn, đồng thời phải có sự tôn vinh chí cao"

"Tốt, ta đồng ý, cái sở này, ngươi lo nhé, ta sẽ đề bạt"

Đỗ Văn Hạo giờ đã kiêm quá nhiều chức vụ rồi, nhưng chức vụ này không thể từ chối được, hắn gật đầu đồng ý: "Được, ta sẽ đảm nhận. Thầy dạy toán của hoàng thượng là Thẩm Khoát, do thất bại trong tác chiến Tây Hạ, nay đang ở địa phương vẻ bản đồ. Nghe đâu công việc đã tương đối. Con người này là kì tài, ta nghĩ nên điều người này về kinh thành, đảm nhiệm cục phán (phó sở trưởng) sở nghiên cứu khoa học"

"Không vấn đề gì, ngay ngày mai ta sẽ hạ chỉ triệu ông ta về kinh, cụ thể thế nào ngươi quyết"

"Ngoài ra cần nâng cao đãi ngộ với thợ rèn ở sở quân khí, công việc của họ nặng nhọc, nên giảm đi chút ít, và cho họ quyền tự do nhất định, cần phải quan tâm đến họ nhiều hơn thì họ mới có thể hết sức cống hiến cho đất nước được"

"Được, cứ làm vậy đi", Cao Thao Thao nghĩ gì đó lại nói tiếp, "Ta chỉ lo người bên hậu cần lo vận chuyển quá ít, sợ không đủ người"

Sương quân sau khi cải biên, tuy chỉ còn khoảng 7 vạn người, nhưng lúc cao điểm quân số cũng chỉ là 10 vạn, vì vậy thế là đủ cho phục vụ quân dịch bình thường rồi. Nếu phát động chiến dịch quy mô lớn, khi không đủ có thể điều động dân phu, bách tính cũng có cơ hội kiếm thêm tiền. Đương nhiên khi có chiến tranh toàn diện, chỉ dựa vào đội quân chính quy thì không đủ, khi đó cần tổng động viên chiến tranh, số lương quân hậu cần cũng phải tăng theo nhu cầu, đó là ngoại lệ"

Cao Thao Thao cười nói: "Ý ta không phải như vậy, trước kia cá nha môn sai khiến sương quân quen rồi, một khi bị cắt giảm họ sẽ phản đối dữ lắm, cả các cấp quân quan nữa, điều này ngươi tính đến chưa?"

"Đương nhiên là đã từng nghĩ đến, ta và các chỉ huy sứ khi bàn đã tính cả rồi. Mọi người cho rằng khi cải cách nhất định sẽ động chạm đến quyền lợi của 1 số người, những lợi ích này là phi pháp, không nên có. Ví dụ, nha môn sử dụng sương quân, nhưng họ đâu có chi quân phí, sương quân do triều đình nuôi, họ dựa vào gì mà sai khiến? Còn các quan quân thì khỏi nói. Vì vậy về mặt lí luận, chúng ta làm vậy là đúng"

"Nói là vậy, nhưng..."

"Cái này không cần lo lắng, Thao Thao, theo như ta biết, khi tiên đế cắt giảm một nửa sĩ số sương quân, tuy có người phản đối nhưng so kiên quyết nên cuối cùng cũng hoàn thành việc giảm biên, chưa nói đến khi đó cắt giảm tiên đế không chi một hào nào. Lần này chúng ta đã tính đến các trở ngại, thực hiện chế độ tốt, chỉ còn phía nha môn thì bọn họ không có quyền phản đối. Ngoài ra chúng ta làm dần dần, các bước rõ ràng, sự phản đối sẽ bị phân tán, trở lực sẽ nhỏ đi rất nhiều, có thành công hay không chỉ còn phụ thuộc vào quyết tâm của chúng ta, đừng có nghĩ tởi nghĩ lui, như vậy rất dễ thất bại"

Cao Thao Thao bật cười, đánh hắn một cái: "Ngươi đang bảo ta nhu nhược không quyết đoán đúng không?"

Đỗ Văn Hạo nâng mặt Thái Hoàng Thái Hậu lên: "Thao Thao, nay nàng đang trên đỉnh cao của quyền lực, bách tính đang trông cậy vào nàng, dõi theo nàng, nàng muốn nước giàu binh mạnh thì phải dùng chính sách cứng rắn, nhớ, cường quyền là chân lí"

"Ừm, ta nghe ngươi!" Cao Thao Thao ôn hòa độ lượng, không giỏi mưu lược, nhưng lại bị bánh xe lịch sử đưa lên đỉnh cao quyền lực, ban đầu chỉ muốn đợi con trai lớn lên thì giao lại toàn bộ quyền lực, nhưng phẫn nộ khi Đỗ Văn Hạo liệt kê những chiến bại của quân Tống, để cho Đỗ Văn Hạo cải cách quâ đội. Đợi sau khi Đỗ Văn Hạo có được kế sách, bà ta cũng không biết có khả thi không, chỉ dựa vào cảm tính, tin Đỗ Văn Hạo "Chuyện gì cũng nghe Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nâng ly: "Nào! Vì một Thái Hoàng Thái Hậu sắt đá, cạn"

Cao Thao Thao cười nâng ly lên, học Đỗ Văn Hạo cạch một cái: "Được, cũng vì một đại tướng quân sắt đá"

"Vậy chúng ta không phải trở thành một đôi sắt đã sao?"

Cao Thao Thao hơi đỏ mặt, rồi hôn vào mặt hắn: "Mong đời đời kiếp kiếp được như ngày hôm nay!"

Hai người uống cạn ly rượu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta nói tiếp, vấn đề thứ hai là địa vị của quân nhân và quân đội. Mọi người đều biết, địa vị quân nhân trong triều ta rất thấp, đối với võ tướng trong triều, trong 60 cấp bậc, cao nhất là Thái Úy cũng chỉ là quan Nhị phẩm, thấp hơn hai bậc so với quan văn. Hai vị quan cấp bậc khác nhau, khi gặp mắt, quan võ phải cung kính nhường nhịn hành lễ, họ đâu có can tâm? Điều đó đã tạo nên sự phân biệt giữa hai chức quan, như vậy làm sao mà xây dựng được quân đội vững mạnh?"

Cao Thao Thao nghĩ ngợi rồi nói: "Quan niệm của mọi người về quân nhân không tệ đến thế chứ?"

"Xấu hay không, nhìn đãi ngộ là biết liền, cấp bậc thấp hơn, còn đi lính thì bị đánh dấu, khắc phan hiều trên mặt, đương nhiên là để tránh đào ngũ, nhưng quy định này đã đặt binh sĩ vào tình trạng khó xử! Muốn biết, chỉ có nô tỳ và người trong phủ quan phạm tội mới bị khắc chữ, như vậy và binh sĩ như nhau? Trên thực tế, binh sĩ trong sương quân cũng tương đương với tộ phạm. Đi lính bảo vệ tổ quốc là một việc vinh quang, lại trở thành một nghề đáng xấu hổ. Chỉ điều này thôi đã đủ thấy địa vị của quân nhân rồi! Quân nhân là vị quốc gia, đổ máu mất mạng, mà địa vị thấp thế thì ai dám hi sinh cho giang sơn nữa? Làm sao mà tuyển được binh sĩ tốt đây?"

Cao Thao Thao ngớ ra: "Trọng văn khinh võ, lấy ăn trị võ, hậu quả nghiêm trọng như vậy sao?"

"Đúng vậy, đây là sự đánh giá thấp đối với quân nhân, ảnh hưởng trực tiếp đến sức chiến đấu, mà cách nghĩ này đã dẫn đến sự không tín nhiệm đối với võ tướng, nghĩ đỉ mọi cách để cân bằng. Biểu hiện rõ nhất ở chỗ, 'quan văn cầm quân', 'phân quyền', tướng tòng trung ngự'. Việc này làm ảnh hưởng đến sức chiến đấu của quân ta"

"Ta đã biết tác hại của việc quan văn cầm quân, còn hai điểm sau?"

"Phân quyền là chia nhiều đội quân ra cho các tướng lĩnh quản lí, như vậy sẽ khó tạo phản, nhưng lại gây phân binh. Đáng nhẽ ra binh lực của ta hơn hẳn Đại Liễu và Tây Hạ, nhưng khi lâm trận lại chia làm nhiều ngả, làm giảm khả năng chiến thắng"

"Ta hiểu rồi, thế còn tướng òng trung ngự?"

"Bày mưu tính kế cách chiến trường nghìn dặm mà vẫn thắng chỉ là điều lí tưởng, thực tế không bao giờ làm được, chiến trường thiên biến vạn hóa, mà hoàng cung và chiến trường cách nhau quá xa, quan văn làm sao có thể dự đoán được tình hình, làm sao mà bày mưu tính kế? Chỉ là khắc thuyền tìm kiếm, sao mà thắng được. Còn về quan văn cầm quân ra tiền tuyến, bọn họ đương nhiên hoan nghênh tướng tòng trung ngự, vì bọn họ vốn không hiểu việc quân, chấp hành theo mệnh lệnh của bề trên, bại trận bản thân cũng không bị trách tội, vì bản thân không trực tiếp chỉ huy. Không may thay, đa phần quan binh đều là vật hi sinh của kiểu cầm quân này"

Câu này của Đỗ Văn Hạo có phần khó nghe, làm cho Thái Hoàng Thái Hậu giật mình, bà ta cúi đầu nói: "Như vậy thì phải thay đổi, theo ngươi nên làm thế nào?"

"Thay đổi trên hai phương diện: 1 mặt nâng cao địa vị của quân đội và quân nhân, lập tức bỏ lệ thích tự, để nhân cách của quân nhân được coi trọng, nâng cấp bậc của quan võ để đạt tới sự cân bằng, quảng bá rộng rãi các chiến tích và sự hi sinh của quân nhân, xây dựng hình ảnh anh hùng, tuyên truyền tinh thần thượng võ và quan niệm tòng quân là vinh quang trong đời sống nhân dân, để quân nhân tình nguyện hi sinh cho giang sơn. Chỉ có sự tôn trọng của xã hội mới làm tăng sức chiến đấu cho quân đội"

"Nói hay lắm! Nên như vậy! Ta hoàn toàn đồng ý, quân nhân hi sinh tính mạng vì tổ quốc, cống hiến không nhỏ, không thể xem nhẹ! Còn mặt nữa?"

"Hủy bỏ chế độ tường tòng trung ngự và quan văn cầm quân, giao phó cho quan võ, đã nghi thì đừng dùng, mà đã dùng thi không nghi"

"Ồ, tướng tòng trung ngự còn dễ, nhưng quan văn cầm quân thì hơi khó. Vì đây là căn bệnh thâm căn cố đế của triều ta rồi"

Đỗ Văn Hạo nói: "Đúng vậy, việc này cần có thời gian, theo như ta thấy nên tăng quyền quyết đoán cho phó soái, không được phó soái chủ động tác chiến, cố gắng đừng để bại trận đã, thông qua đó khuyến khích chiến tích của các binh sĩ, công khai trừng phạt những văn thần bại chiến, để mọi người đều cảm thấy niềm vui của thắng trận, nhận định khả năng của võ tướng"

"Ta hoàn toàn đồng ý" nói đến đây thì Cao Thao Thao dừng lại: "Nhưng liệu có xảy ra chuyện quân nhân Nam Bắc triều chuyên chính không?

 Chương 429: Võ trang chính quy.

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Ta biết, chế độ trọng văn khinh võ của Thái tổ hoàng đế là vì lo sợ quân nhân chuyên quyền. Điều này là có nguyên do của nó, nên có cách để ngăn ngừa đảo chính, có điều có cần phải trọng văn khinh võ như vậy không? Nói cách khác đâu chỉ mỗi cách này đúng không?"

Cao Thao Thao xưa nay chỉ ở trong thâm cung, đâu có nghĩ được sâu sắc như vậy, bà ta hoang mang nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: "Theo như kinh nghiệm từ hơn 100 năm lịch sử gần đây, sách lược này dùng để phòng tránh quân nhân chuyên quyền, kết quả là hình thành quân phiệt cát cứ, nhưng, nếu cứ như vậy, lại làm giảm sức chiến đấu của quân đội, trận nào cũng bại là điều không thể chấp nhận được với 1 quốc gia! Thực ra, có rất nhiều cách để ngăn ngừa quân nhân chuyên cần và quân phiệt cát cứ, không cần phải dùng cách làm giảm sức chiến đấu này"

Cao Thao Thao vui ra mặt: "Có cách gì vậy?"

"Đơn giản nhất là tăng cường tập quyền trung ương, không thực hiện chế độ phân phong nữa"

"Nói cụ thể hơn đi!"

"Được, có thể có hai trường hợp sau, là thời chiến và thời bình, cách thức không giống nhau. Hoàng thượng lo nhất là tướng lĩnh tạo phản, thực ra hoàng thượng là thống soái cao nhất, binh mã thiên hạ đều là của hoàng thượng, binh phái đi cũng vậy, có gì mà phải lo lắng? Tướng soái muốn tạo phản, nhưng binh lính thì chưa chắc, vì vậy phải đặt niềm tin với tướng lĩnh xuất quân. Quân đội xuất chinh không được vượt quá 30% toàn quân số. Như vậy thống soái muốn mưu phản chỉ có 10% binh lực, trong khi hoàng thượng có 70% còn lại, thừa đủ để đàn áp phản loạn. Nếu cuộc chiến cần nhiều hơn số đó thì hoàng thượng đích thân xuất chinh, tự làm tổng chỉ huy, về mặt tư tướng có thể tạo cho thống soái sự tin tưởng, về mặt cách thức có thể ngừa tạo phản, lại có thể đảm bảo sự chỉ huy độc lập của thống soái"

"Ừm, vậy thời bình phòng thế nào?"

"Hiện toàn quốc đang đóng quân theo đơn vị, đây là nguy cơ chia nhỏ quân nhân lớn nhất, nên duy trì chế độ này. Thông qua thương nghị, mọi người cho rằng, lúc tác chiến thường tướng không biết binh, đó là bởi vì do quân quan trung hạ cấp bị luân chuyển quá thường xuyên. Không cần phải luân chuyển thường xuyên như vậy, phải có được sự ổn định tương đối, để quân quan nắm vững tình hình binh sĩ, binh sĩ cũng quen với sự chỉ huy của quân quan, như vậy mới có thể phát huy sức chiến đấu, còn đối với tướng lĩnh cấp 1, có thể thay đổi nhiều cũng được, đề phòng ngồi lâu ấm chỗ. Tuyệt đối không thể phân phong cho vị vương gia nào quản lí được, rất dễ sainh ra địa phương cát cứ"

"Được, ta biết rồi, người nói tiếp đi"

"Ừm, triều đình còn 1 vấn đề nữa trong xây dựng quân đội, đó là coi nhẹ kỵ binh và dung túng cho các binh sĩ ra ngoài làm ăn. Kị binh là đội quân phản ứng nhanh, chúng ta quá thua thiệt về mặt này so với Tây Hạ và Đại Liêu, ta đã nói rất kĩ khi nói về chiến sử cho nàng rồi, không cần nhắc lại nữa. Muốn xây dựng đội quân lớn mạnh, không có chiến mã không được. Do nước ta hiện không có khu chăn nuôi ngựa và loại ngựa nào tốt, nên chỉ ó một cách để có được chiến mã, đó là đoạt lấy từ Tây Hạ hoặc Đại Liêu, so ra, thì lấy từ bên Tây Hạ vẫn dễ hơn. Đó là một trong những nguyên nhân ta muốn nhanh chóng phát động chiến tranh với Tây Hạ!"

Cao Thao Thao nói: "Ta cũng thường nghe tiên đế than thở về chuyện chiến mã này, đây đúng là chuyện tốt"

"Chuyện quân lính đi làm ăn ta đã từng nói với nàng rồi, quân đội và nhà nước tuyệt đối không được kinh doanh, nếu không sẽ làm giảm sức mạnh nội bộ, ta không cần nói chắc nàng biết, chỉ nói cách giải quyết thôi"

"Đúng vậy, chuyện này làm tiên đế rất đâu đầu, ngươi nghĩ ra cách gì hay không?"

"Đối phí với quân nhân kinh thương, cần phải tốn rất nhiều công sức. Đầu tiên cần đảm bảo chi tiêu quân phí, như vậy mới không có lí do kinh thương; thứ hai, cần phải gia hạn để quân binh cắt đứt với kinh thương, phải có giám quân đi đốc thúc, đối với người không chấp hành thì xử theo quân lệnh; thứ 3 phải nâng cao đãi ngộ với quân nhân, đặc biệt là với tướng quan; thứ 4 tăng cường đổi quân doanh để bọn họ không chuồn ra ngoài kinh thương được nữa, đâu tiên là nơi tệ hồi dịch diễn ra trầm trọng nhất, rồi từng bước làm với các nơi khác. Tóm lại về chế độ cần đảm bảo quân nhân không làm 4 việc: 'bất tất vi, bất nguyện vi, bất năng vi và bất cản vi', thì có thể triệt để dập tắt việc kinh thương. Đương nhiên việc này cần thời gian, quan trọng là sự kiên quyết của nàng"

"Được, ta nghe ngươi, ta nhất định kiên quyết chấn chỉnh chuyện này" Cao Thao Thao nắm chắt tay lại như muốn nắm nát mấy binh sĩ kinh thương kia.

Đỗ Văn Hạo nói: "Phương diện thứ hai và thứ 3 cũng là những tồn tại trong quân pháp, quân chính, quân kỉ, và việc ghi chép theo dõi sĩ số; cùng với vấn đền liên quan đến tuyển chọn và quản lí binh lính như lạm dụng chiêu thức, luyện tâp không chăm chỉ, luyện tập làm vì,...Chuyện này không phải ngày một ngày hia là giải quyết được, ta đã có cách, ta đã viết rất cụ thể rồi, nàng cứ từ từ xem"

"Người ta vẫn nói giang sơn dễ đổi bản tánh khó dời mà, việc này sẽ rất mất thời gian, ngươi hẳn bận rộn lắm"

"Việc nên làm mà, đúng rồi, nói đến ta mới nhớ có chuyện mới tham khảo ý của nàng, nàng xem được không"

"Nói đi"

"Ta muốn thành lập một đội quân hoàn toàn mới, do ta trực tiếp thống lĩnh điều động, được trang bị vũ khí mới nhất, luyện tập theo chỉ đạo của ta, quân số 5 nghìn người, chia làm hai quân, nhiệm vụ chủ yếu là đi trinh sát tình hình quân địch và phá hoại chiến lược hậu địch, đồng thời giải cứu con tin cho triều đình, xử lý những vấn đề phát sinh đột ngột. Ngoài ra ta còn muốn thành lập một tổ chức chuyên bảo vệ an toàn quốc gia, cũng do ta thống lĩnh, nhiệm vụ gồm đối ngoại, đào tạo gián điệp, ám sát, phá hoại, trinh thám ngầm xử mưu phản. Những vụ án do họ thẩm tra độc lập với bộ Hình, các bộ viện đều không được hỏi đến. Đây là lực lượng võ trang chính quy của riêng hai chúng ta"

Đỗ Văn Hạo thiết nghĩ, đội quân này sẽ tương tự như cẩm y vệ thời Minh vậy.

Cao Thao Thao vẫn chưa hiểu lắm, nhưng Đỗ Văn Hạo muốn thành lập thì nàng cũng không phản đối, đặc biệt khi Đỗ Văn Hạo cường điệu đoạn 'lực lượng vũ trang của riêng hai chúng ta', cảm giác thân thiết này làm nàng rất vui, liền đáp: "Được, cần làm gì, người cứ nói để ta hạ chỉ"

Đỗ Văn Hạo rất vui mừng, trong tay đã có hai tấm bài chốt, hắn yên tâm hơn nhiều, ôm chặt lấy Cao Thao Thao.

Cao Thao Thao nói: "Nãy giờ ngươi nói nhiều vậy ta không nhớ đươc, ta nên làm gì trước, làm gì sau?"

Đỗ Văn Hạo chỉ vào tập báo cáo nói: "Ta viết hết trong này rồi, nàng chỉ cần hạ chỉ lần lượt như trong này là được"

"Thật sao, chỉ là ta lười không muốn nghĩ nhiều, cũng không thích tốn thời gian xem, ngươi nghĩ, ta làm. Ha ha, ngươi hãy nói cho ta công việc cần triểu khia đi, kẻo cái đầu của ta to lên mất"

"Tuân lệnh, con mèo lười của ta" Đỗ Văn Hạo mở báo cáo, giảng giải lại một hồi, hai người sau khi thương ghị không thấy vấn đề gì nữa, bèn quay ra ăn uống, qua trưa, Cao Thao Thao chuẩn bị nghỉ trưa, Đỗ Văn Hạo mới từ biệt ra về.

Đỗ Văn Hạo không cưỡi ngựa trong cung, có việc gấp thì ngồi kiệu, giờ đang rảnh nên hắn quyết định đi bộ, tiện thì suy nghĩ chút chuyện, xem mình lúc nãy nói có gì sai không, rồi việc thành lập các đội quân, dùng ai, huấn luyện như thế nào, sắp xếp gián điệp thế nào.

Hắn vừa đi vừa nghĩ, đột nhiên có người gọi lớn tên hắn: "Đại tướng quân"

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn, thấy sau hòn non bộ có một thiếu nữ, chính là Du Cáp Nhi, liền cười đáp: "Thì ra là Du nương nương. Người ở đây làm gì vậy? Chơi trốn tìm sao?"

"Ta đang đợi ngươi"

"Đợi thần? Có chuyện gì sao?"

"Không có chuyện gì thì không gặp ngươi được sao?" Du Cáp Nhi tiến lại gần, không có thị nữ, không biết định làm gì đây: D

Đỗ Văn Hạo mỉm cười: "Nương nương nói gì vậy, nương nương lúc nào cũng triệu tập được thần mà"

"Ấy, ta đâu dám, chưa nói ngươi là ân nhân cứu mạng ta, chỉ với thân phận ngươi bây giờ ai dám sai khiến ngươi nữa?"

"Thần làm gì có thân phận đó" Đỗ Văn Hạo nói, "nương nương hôm nay thật có hứng"

"Điều đó là tất nhiên, thoát chết thì phải biết quý trong sinh mạng hơn, lần trước nếu không có đại tướng quân, ta đã chết rồi, tưởng thật làm ta sợ hết hồn, giờ nghĩ lại vẫn thấy tim đập thình thịch!"

"Nương nương phúc lớn mạng lớn, gặp dữ hóa lành"

"Ngươi thật dẻo miệng! Đúng rồi, hôm nay ngươi rảnh không?"

"Dạ có, giữa trưa thế này thần có thể có việc gì cơ chứ, cứ cho là có chuyện thì phải giải quyết chuyện của nương nương trước mới đúng"

"Xem cái miệng của ngươi kìa, thảo nào Thái Hoàng Thái Hậu thích ngươi như vậy" Du Cáp Nhi cười lớn.

"Dạ, cũng đâu có cách khác, con người thần chỉ biết nói thật. Lâu ngày không gặp, nương nương ngày càng xinh đẹp"

"Ngươi thật viết nói chuyện, được rồi, trưa thế này không đứng phơi nắng nói chuyện phiếm nữa, ta và Đức Phi nương nương bày tiệc rượu, muốn mời người qua đó, không biết ngươi có nể mặt không?"

Đỗ Văn Hạo nghe đến Châu Đức Phi liền nhớ đến ngay vẻ mặt ngô ngố của vị nương nương này, dạo này bận việc công, không có thời gian đi thăm nương nương, giờ đúng là cơ hội tốt: "Nương nương thiết tiệc khoản đãi, dù thần đã rất no nhưng không dám chối từ. Uống một hai ly rượu chắc cũng tốt"

"Tốt lắm, vậy...mời"

Đỗ Văn Hạo theo chân Du Cáp Nhi đến tẩm cung của Châu Đức Phi, đến mới biết không chỉ hai người mà còn có cháu gái của Tô Đông Pha, Lâm Tiệp Hạo, còn có công chúa nước Tần nữa!

Đỗ Văn Hạo thấy Trưởng công chúa nước Tần lại nhớ đến lúc ở hồ băng, nghĩ đến đó mà đỏ mặt, thấy công chúa làm như không có chuyện gì, trộm nghĩ tiểu công chúa này thật điềm tĩnh.

Tô thị đứng dậy chào hỏi trước: "Đại tướng quân, ngài đã đến"

Đỗ Văn Hạo vội vàng đáp lễ. Châu Đức Phi cười gượng: "Đỗ Văn Hạo, ngồi đi. Hôm nay bọn họ muốn cám ơn ngươi đã cứu mạng, nói không chuốc say ngươi không cho ngươi về"

Đỗ Văn Hạo cười hi hi hỏi: "Nương nương dạo này khỏe không?"

"Vẫn ổn, hay ngươi bắt mạch cho ta xem, ta luôn cảm thấy bất an"

Đỗ Văn Hạo thấy nàng thần trí đã minh mẫn, ngẫm thấy thời gian quả là phương thuốc hữu hiệu nhất, Đức Phi đã dần dần hồi phục từ đau khổ tột cùng, vội vàng hỏi thăm sức khỏe bắt mạch, quả nhiên không còn gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng một thời gian là ổn.

Đức Phi nghe vậy cũng yên lòng hơn.

Sau khi tất cả đã yên vị bên bàn tiệc, Du Cáp Nhi và Tô Thị kính Đỗ Văn Hạo một ly để tỏ lòng cám ơn.

Du Cáp Nhi nói: "Tướng quân cứu cái mạng nhỏ của ta, ta không có gì để báo đáp, đây là chuỗi ngọc hoàng thượng tặng cho ta, là cống phẩm, cái này tặng cho ngươi, để đáp tạ ơn cứu mạng"

Đỗ Văn Hạo khách khí vài câu, rồi nhận lấy, mở ra xem, quả là một báo vật, 1 hại ngọc to bằng quả trứng gà, phát ra ánh sáng dịu nhẹ, rất ưa nhìn.

Trong nhà Đỗ Văn Hạo giờ không thiếu vàng bạc châu báu, không còn thấy lạ lẫm với mấy thứ này nữa, thấy viên ngọc đẹp thì cảm ơn rồi bỏ vô túi.

Tô thị cũng mỉm cười nói: "Đại tướng quân, cái mạng ta là do ngươi cứu, nói thật, ngày đó ngươi dọa ta sợ phát khiếp, nếu không giờ ta đã là cô hồn rồi, cho đến bây giờ ta vẫn mơ thấy ác mộng, càng cảm thấy cảm kích với ân đức của đại tướng quân. Ta cũng không có gì đáng tiền, chỉ có vật này" nói rồi đưa cho Đỗ Văn Hạo một chiếc quạt màu đen tuyền.

Đỗ Văn Hạo vội cảm tạ, nhận lấy nhìn một cái, trên quạt có thêu hình một mĩ nữ mang vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, thấy quen quen, hóa ra là tân nương mới của mình!

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Cái này...Cái này ai thêu vậy?"

"Là ta, thêu không đẹp lắm, để tướng quân chê cười rồi"

"Đẹp lắm! Cô gái này có phải thiên kim của Vương tể tướng không?"

"Đúng vậy, ta và cô ấy là bạn thân, nghe tin hai người đính hôn, sắp thành thân rồi, ta bèn thêu hình cô ấy để tặng ngươi, biết đâu ngươi lại thích"

"Thần thích lắm!"

Tô thị thấy vậy, trong lòng cũng vui lây, lại nói: "Đại tướng quân, chiếc quạt này vốn cũng là một bảo bối, là tiên đế tặng ta, ta bóc lớp vải đi thay bằng lớp khác rồi thêu lên"

Tô thị ấn cán chiếc quạt rồi mở ra, rồi quạt phe phẩy trước mặt Đỗ Văn Hạo, hắn lập tức ngửi thấy một hương thơm, giống như đang trong tiên cảnh vậy "Oa, thơm thật đấy, sao lúc nãy không có?"

Tô thị cười đáp: "Là của chiếc quạt này đây", rồi quay ngược cán quạt lại, chỉ vào một cái lỗ nhỏ, "Bỏ phấn thơm vào đây, đóng lại, lúc dùng thì ấn cái nút này, hương thơm sẽ bay ra"

"Thật tinh xảo!" Đỗ Văn Hạo khen không ngớt lời, nếu thay bằng bột độc thì đúng là mộ thứ ám khí tuyệt vời!

Đỗ Văn Hạo thử thao tác vài lần, rất thuận tay, lại hỏi: "Cái quạt này làm từ gì mà sao nặng vậy?"

"Huyền thiết ô kim!"

"Ồ? Cứng thật?'

"Đúng vậy, dùng búa chặt cũng không đứt"

"Đúng là bảo bối, lúc cần có thể làm gậy được đó, xin đa tạ!"

Đỗ Văn Hạo ngắm nghía rồi đặt chiếc quạt xuống, kính rượu hai cô gái "Không biết công chúa chuẩn bị gì cho tôi?"

"Ta đâu cần tặng gì ngài, ngài đâu có cứu ta" Vị công chúa nói rồi nghĩ lại chuyện trước kia được Đỗ Văn Hạo cứu, nhưng mọi người đều không biết chuyện này, bèn nâng ly lên: "Tuy ngài không cứu ta, nhưng ngài đối với ta rất tốt! Nào, đại tướng quân, ta kính ngài một ly"

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười nói: "Đa tạ công chúa!"

 Chương 430: Hôn trộm.

Đức Phi cũng nâng ly lên: "Hoàng Thượng nói đệ làm gia sư cho người, dạy người nhiều điều mới lạ, người rất vui. Còn nói đệ dám phê bình người, dám nói thật, người rất phục đệ, người cũng biết đệ cũng chỉ muốn tốt cho người, vì vậy rất cảm kích, chiều nay người phải học, không thể đến kính đệ được, ta thay người kính đệ một ly!"

Đỗ Văn Hạo vội đáp: "Đa tạ người đã tín nhiệm, đệ chỉ lo đệ quá nghiêm khắc thôi"

"Thầy nghiêm mới có trò giỏi mà, cần nghiêm thì phải nghiêm"

Lâm Tiệp Hạo mỉm cười nói: "Các vị đều uống rồi, ta không uống thì không hợp đàn, chúng ta cùng uống một ly!"

"Vậy cũng phải có lí do gì chứ?" Đỗ Văn Hạo nháy mắt nói

"Lí do..." Lâm Tiệp Hạo nghiêng đầu nghĩ, "Để chúc mừng ước mơ của ngài đã thành hiện thực"

"Ước mơ thành hiện thực?"

"Đúng vậy, khi đặt tên cho ngài đã dùng hai tự "Vân Phàm" là dự đoán ngài sẽ tung hoành thiên hạ, bây giờ ngài đã là tể chấp, lại được Thái Hoàng Thái Hậu trọng dụng, vậy không phải ước mơ thành hiện thực sao?"

Đỗ Văn Hạo cười đáp: "Câu này rất đúng. Xem ra, ta có được ngày hôm nay phải cảm ơn nàng đặt tên cho, nào, chúng ta cạn một ly"

Tất cả đều tìm được lý do để chúc Đỗ Văn Hạo, đến ly này thì dường như đã hết lí do, nhìn những món ăn do họ bày ra, quả là rất hấp dẫn, uống đến mức thấy đầu ngà ngà, Tô thị và Lâm Tiệp Hạo đều đã say gục xuống bàn, Du Cáp Nhi và Đức phi cũng đã lơ mơ, nâng ly lượu lên cũng không đưa được vào miệng.

Thoáng cái mặt trời đã ngả bóng về Tây, Đỗ Văn Hạo đứng dậy cáo từ, loạng choạng vài bước, chân mềm nhũn, hắn ta ngã ra đất, không them đứng dậy nữa, ngủ luôn trên đất.

Không biết đã bao lâu, Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng tỉnh, thấy miệng đắng ngắt, từ từ mở mắt, thấy trong phòng tối đen, thấy ánh trăng chiếu rọi vào phòng mới phát hiện cũng đều nằm trên đất ngủ.

Trước khi uống rượu, Đức Phi đã dặn thị nữ không gọi không được vào, vì vậy trong phòng tối đen cũng không ai vào thắp đèn.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy bên ngoài có tiếng mưa tí tách, không biết tự lúc nào, hắn lồm cồm bò dậy, thấy tay mình gò bó, ngó sang thì hóa ra Đức Phi ôm chặt tay mình đắt lên ngực không chịu buông ra.

Đỗ Văn Hạo vội vàng thu tay, nói: "Xin...xin lỗi!"

Đức Phi ậm ừ gì đó, quay ngườingủ đối mặt với hắn.

"Tỉ tỉ! Không được ngủ trên đất, kẻo bị nhiễm lạnh bây giờ!" Đỗ Văn Hạo định dìu Đức Phi đứng dậy nhưng người nàng đã mềm oặt, không đứng dậy nổi.

Đỗ Văn Hạo còn không đứng vững, mất công lắm mới đỡ được Đức Phi dậy, nhờ ánh trăng gương mặt Đức Phi hiện ra trắng mịn như ngọc, Đỗ Văn Hạo mượn hứng rượu, hôn lên mặt nàng.

Đức Phi vẫn chưa tỉnh, vẫn ngủ mê man như trước, Đỗ Văn Hạo thấy môi nàng căng mọng, bèn hôn nhẹ lên môi nàng.

Đức Phi như nói gì đó, giống như sắp tỉnh, Đỗ Văn Hạo sợ quá, vội đặt nàng dựa vào ghế, rồi buông ra.

Hắn vừa ngồi thẳng dậy thì Đức Phi tỉnh lại: "Ôi, cái đầu của mình...Văn Hạo! Đệ vẫn chưa đi sao?"

"Đệ...đệ uống say, cũng vừa tỉnh, đang chuẩn bị đi. Nào! Đứng dậy thôi! Trên đất lạnh lắm!" Đỗ Văn Hạo đứng dậy, đỡ Đức Phi dậy, nàng đã tỉnh nên cũng từ từ ngồi được lên ghế.

Đức Phi dựa vào ghế, nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đệ cũng ngồi đi!"

Đỗ Văn Hạo thấy thần sắc nàng như vậy nào dám làm, chỉ sợ ngồi xuống là có chuyện xảy ra thôi, bèn đáp: "Mọi người đều say rồi, đệ phải đi thôi!"

"Chúng ta đã uống đủ đâu, đi là đi thế nào?" Đức Phi bám vào ghế, cúi xuống lay lay Du Cáp Nhi, Lâm Tiêp Hạo, Tô thị: "Dậy đi nào! Uống tiếp thôi"

3 cô gái say mèm, khong nhúc nhích gì, tiếp tục ngủ.

Đỗ Văn Hạo vội nói: "Không uống nữa, đệ say rồi, phải đi thôi, trời tối rồi, không đi sẽ không ra gì cả. Tỉ tỉ, tiểu đệ cáo từ!"

Nói rồi hắn cầm lấy chiếc quạt và cái hộp được tặng rồi loạng choạng đi ra, dặn dò cung nữ vào hầu hạ 3 vị nương nương đang say khướt, sau đó đi ra khỏi cung.

Theo chỉ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo được tự do ra vào cung, thị vệ không có quyền ngăn cản, vì vậy ra khỏi tẩm cung, hắn chỉ có 1 mình men theo con đường đá nhỏ mà đi.

Đêm đầu hạ, những hạt cát nhỏ ở phương Bắc theo gió bay nhè nhẹ giữa các tán cây, cây cỏ e thẹn cúi đầu như có tâm sự gì vậy, những hạt sương đọng lại như những giọt nước mắt bi thương.

Hắn mò mẫm ra được đến cửa hoàng cung, trong bóng tối có một bóng người nhỏ nhắn đi tới, nhẹ nhàng nói: "Anh, có phải anh không?"

Đỗ Văn Hạo nghe giọng quen quen, định thần nhìn, háo ra là Hà Nghiêu: "Sao em lại đến đây?"

"Trời tối anh mai không về nên đâm lo, nghe hộ vệ nói là anh vẫn chưa ra, vì vậy em đợi ở đây"

"Ngốc ạ!" Đỗ Văn Hạo cẩm động, rảo bước hơn, thấy Hà Nghiêu ăn mặc mỏng manh, lộ rõ những nét đẹp của cơ thể, bèn nói: "Còn phải nói, cái này, em gái anh quả là tuyệt sắc, chỉ riêng tướng mạo, trừ Vương Nhuận Tuyết ra, em là người đẹp nhất"

Hà Nghiêu nghe vậy liền biết là anh đã say, vội dìu hắn đi ra.

Tim Hà Nghiêu đập loạn xạ, mặ nàng lúc này ép sát vào ngực Đỗ Văn Hạo, hơi ấm này thật giống với lòng cha mẹ cô, nàng ngẩng lên nhìn hắn, thấy hắn đang nhìn mình liền đỏ mặt, muốn nói gì đó nhưng sợ Đỗ Văn Hạo ngã, đành cắn răng đỡ hắn tiếp.

Đi thêm một đoạn thì thấy bọn Hứa Văn Cường chạy đến, định đỡ cho Hà Nghiêu thì nàng nói: "Không cần đâu, các anh mang ngựa lại đây!"

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta say thế này còn cưỡi ngựa gì nữa, muốn ta ngã chết à?"

Hà Nghiêu cười trừ: "Vậy chúng ta đi bộ một lúc, đợi anh tỉnh táo hơn thì cưỡi ngựa được không?"

Đỗ Văn Hạo chỉ ậm ừ.

Hà Nghiêu dìu Đỗ Văn Hạo đi chàm chậm, Hứa Văn Cường thấy tuy Đỗ Văn Hạo đã say nhưng bước đi xem ra còn vững, hiểu ngay là nhân dịp này gần gũi với 'em gái' tí, bèn đi xa xa lên trước.

Đỗ Văn Hạo và Hà Nghiêu đều im lặng lắng nghe tiếng mưa tí tách trên những đường đá.

Mưa mỗi lúc một to, Hà Nghiêu nói: "Anh, thế này không ổn, hay chúng ta lên xe ngựa đi?"

"Ừ!"

Cuộc sống về đêm dưới triều Tống khá nhộn nhịp, tuy trời đã tối, đường phố vẫn đông, bắt xe ngựa không khó gì, Hà Nghiêu dìu Đỗ Văn Hạo lên xe, Đỗ Văn Hạo quay người kéo Hà Nghiêu lên xe.

Hà Nghiêu nói địa chỉ, xem ngựa lăn bánh, bọn Hứa Văn Cường theo sát sau.

Trong xe ngựa rất tối, Đỗ Văn Hạo say ngồi không vững ngả nghiêng, thi thoảng lại dựa vào người Hà Nghiêu, nàng thấy tim mình đập thình thịch, thấy Đỗ Văn Hạo nắm tay mình không chịu buông, nàng ngồi không nói gì nghĩ linh tinh.

Đỗ Văn Hạo thấy chóng mặt, liền ôm chặt lấy eo Hà Nghiêu, nàng kêu a một tiếng: "Buồn quá!"

"Vậy sao?" Đỗ Văn Hạo lại thò tay cù nàng.

Hà Nghiêu cười ha ha không ngừng, rồi Đỗ Văn Hạo mò dần lên ngực nàng!

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Hà Nghiêu nói xem ta có phải là người anh tốt không?"

Hà Nghiêu nói, giọng hơi run run: "Không tốt!"

"Sao lại không tốt?"

"Tự anh cũng biết mà!"

Đỗ Văn Hạo nhìn theo ánh mắt của Hà Nghiêu, mới phát hiện ra, luống cuống nói: "Haizz, sao trong xe tối thế nhỉ?"

"Ừ!" Hà Nghiêu có phần thất vọng, quay mặt đi nhìn xa xăm, rồi nói với Đỗ Văn Hạo: "Cái này không phải trong tính toán của anh sao?"

Câu nói này như đổ thêm dầu vào lửa vậy, Đỗ Văn Hạo thấy óc mình lùng bùng, toàn thân nóng rực, khi nãy hôn trộm Đức Phi, giờ lại bị châm chọc rồi, hắn cúi đầu nhìn, nhưng đã nói chỉ coi Hà Nghiêu như em gái, nếu tiếp tục làm thì sau này nhìn mặt nhau thế nào đây?

Hắn đang do dự thì chiếc xe lắc mạnh, Hà Nghiêu ngã vào lòng hắn, môi nàng chạm đúng vào môi Đỗ Văn Hạo.

Hà Nghiêu đột nhiên thấy đầu óc trống rỗng, không còn suy nghĩ được nhiều, tâm trí bay theo cảm giác hết rồi.

Hà Nghiêu chỉ thấy có gì ấm ấm bao vây lấy mặt mình, vị rượu nhẹ nhẹ cũng khiến nàng hơi say say, nàng cũng không biết phải làm thế nào nữa.

Cùng với nụ hôn đó, tim đạp nhanh dần, hai tay bám lấy vai của đối phương, cảm giác tê tê đi khắp cơ thể, hắn say sưa cảm thụ, hắn biết đôi mắt hắn không dám mở ra.

Hồi lâu, phu xe nói vọng vào: "Thưa! Đến nơi rồi ạ!"

Hai người vội buông ra Hà Nghiêu cúi đầu tránh ánh mắt của Đỗ Văn Hạo, mặt đỏ ửng.

Chỉnh lại quần áo, nàng đỡ Đỗ Văn Hạo xuống xe, gọi mấy hộ vệ lại đỡ hắn.

Vào đến phủ, nàng cúi đầu rảo bước về phòng mình, từ cửa sổ không thấy bóng dáng Đỗ Văn Hạo nữa, nàng đứng một mình trong bóng tối, hai tay ôm mặt, trong đầu vẫn lởn vởn cảnh lúc nãy trên xe.

Lâm Thanh Đại đang dạo quanh vườn, thấy Đỗ Văn Hạo về, vội chạy đến, đỡ lấy Đỗ Văn Hạo từ tay Hứa Văn Cường, dìu hắn về phòng, thấy mùi rượu nồng nặc bèn châm chọc: "Sao thế? Lại chuốc say ai à?"

"Ha ha, ta đâu có say"

Anh Tử mang một cốc nước trắng ấm đến, đây là thứ Đỗ Văn Hạo cần khi say, Đỗ Văn Hạo uống ừng ực, "Thật thoải mái"

"Chàng ngủ sớm đi" chợt chiếc quát và viên ngọc trong chiếc hộp rơi ra, lăn xuống sàn nhà, rồi chui biến vào gầm giường.

Anh Tử vội àng cúi xuống tìm, rồi kêu lên: "Áng sáng gì vậy?"

Nàng ta đưa tay về phía có ánh sáng đó, quả nhiên là viên ngọc, lấy vội ra, đặt lên để xem kĩ, nhưng lạ không thấy có gì bất thường.

Lâm Thanh Đại thấy lạ hỏi: "Sao rồi? Có bị sao không?"

"Không, lúc nãy em thấy viên ngọc phát sáng!"

"Ồ! Để ta xem"

Lâm Thnh Đại cầm lấy viên ngọc, cũng không thấy gì, Đỗ Văn Hạo thấy hai người nói chuyện bèn nói: "Đưa ta xem nào!"

Hắn xem xét, rồi đặt vào chiếc hộp, rồi trùm chăn lên xem, rồi kinh ngạc thốt lên, viên ngọc phát ra một thứ ánh sáng màu lam nhạt!

Đây là một viên dạ minh châu!

Anh Tử thấy vậy tò mò chui vào chăn xem, Đỗ Văn Hạo thò đầu ra nói với Lâm Thanh Đại: "Nàng cũng vào xem đi! Đúng là phát sáng thật!"

"Thôi khỏi cần, thiếp tin là nó phát sáng"

Đỗ Văn Hạo đưa viên ngọc cho Lâm Thanh Đại: "Nàng lấy tay che lại chắc cũng nhìn thấy!"

Không thắng nổi sự tò mò, nàng cầm lấy viên ngọc, quả là nhìn thấy ánh sáng xanh nhạt, nhưng ánh sáng của đèn mạnh quá nên không thấy rõ, Lâm Thanh Đại bèn thổi tắt nến đi, cả căn phòng đen ngòm

Cả 3 người lập tức nhìn thấy viên ngọc trên tay Lâm Thanh Đại, giống như chiếc đèn lồng có đầy đom đóm của trẻ con vậy.

Anh Tử vội đi gọi Bàng Vũ Cầm, Tuyết Lôi và Liên Nhi dậy để xem vật báu. Đỗ Văn Hạo bị vây lấy hỏi, chỉ nói là của nương nương trong cung cho. Với địa vị của hắn, báu vật gì chả có, không thấy kì lạ như bọn họ, hơn nưa là có hơi men nên càng không thiết gì, hắn không nhếch nổi mi mắt lên nữa. Liên Nhi tinh ý thấy vậy nói: "Lão gia mệt rồi, để lão gia nghỉ ngơi?

Bàng Vũ Cầm gật đầu nói: "Phải đấy!" rồi đặt viên ngọc vào trong hộp để lên đầu giường Đỗ Văn Hạo. Để các cô gái lui xuống, nàng ngồi xuống bên Đỗ Văn Hạo nói: "Tướng công, lúc chiều, phủ doãn Khai Phong Thái Kinh đến, muốn mời chàng đi chữa bệnh cho ái thiếp của ông ấy, nói là bệnh rất nặng. Còn mang theo nhiều lễ vật, thiếp đã trả không nhận, nhưng ông ấy nói kiểu gì cũng phải mời chàng đi"

"Thái Kinh?" Đỗ Văn Hạo lẩm bẩm, nghĩ đây là đại giant hần 20 năm sau, bây giờ đến nhờ cậy mình, không thể đẻ lại mầm họa này, phải phế bỏ sớm đi, bèn nói: "Được rồi! Mai ta đi xem thế nào!"

"Chàng đi thật sao? Theo thiếp thấy bệnh là giả, kết bè mới là thật"

"Thì cũng tốt mà" Đỗ Văn Hạo mơ màng rồi nhanh chóng thiếp đi.

Dù hôm sau vẫn còn đau đầu, nhưng hắn vẫn cố dậy đúng giờ để luyện kiếm với Thanh Đại.

Luyện xong, tắm rửa, ăn sáng. Đang ăn thì có báo, đại nhân Thái Kinh đến.

Đỗ Văn Hạo mở cửa mời khách vào chính đường, rồi lại chậm rãi ăn sáng, sau khi thưởng thức tách trà thơm, ra vẻ không có chuyện gì hỏi: "Hà Nghiêu đâu? Con bé này sao chưa dậy?"

"Không biết ạ! Có thể mệt chăng" Bàng Vũ Cầm đáp

"Vậy sao?" hắn thấy không yên tâm. Uống xong trà hắn mới thong thả đi ra chính đường.

 Chương 431: Sứ thần bí mật.

Lúc này Thái Kinh đang cung kính ngồi ở chỗ kia, mái tóc thưa thớt được buộc cao, hai mắt híp, mũi củ tỏi, môi mỏng mà miệng thì rộng, nhìn qua là có thể đoán ra hắn là một kẻ biết ăn nói, thận choàng trường sam màu xanh, ở trong là trường bào màu đen, chân đi một đuôi giày vải hình lưỡi liềm, bên ngoài giày sạch sẽ không dính chút bùn.

Chân phải phải Đỗ Văn Hạo mới bước vào cửa, Thái Kinh đã nghe được tiếng bước chân, trong nháy mắt nở nụ cười lấy lòng, khom người chắp tay về phía trước: "Ty chức là Thái Kinh tham kiến Đỗ tể chấp!"

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, đi tới ghế chủ tọa ngồi xuống, ra hiệu cho đối phương ngồi, đợi cho tỳ nữ dâng trà lui ra, Thái Kinh mới hạ thấp người, nói: "Ty chức đã tới từ hôm qua, lại đúng lúc Đỗ đại nhân tiến cung, cho nên không thể gặp mặt, hôm nay cuối cùng có thể gặp được, quả thật là vô cùng may mắn".

Đỗ Văn Hạo cười nhẹ, tiểu tử ngươi không phải tìm ta xem bệnh sao, tại sao lúc gặp ta lại không nôn nóng nữa? Liền chậm rãi nói: "Nghe nói Thái đại nhân tìm bổn quan để xem bệnh?"

Thái Kinh vội vàng chắp tay nói: "Ty chức không dám, thực ra là tiện thiếp sắp trở dạ rồi, đột nhiên thân thể không được khỏe, đã tìm nhiều người xem qua, không ngờ bệnh càng lúc càng nặng, cho nên ty chức mới...Ty chức hiểu rằng đại nhân công vụ bận rộn, vốn không nên làm phiền đại nhân, chỉ là...chỉ là tiện thiếp...hu hu". Nói đến chỗ thương tâm, Thái Kinh không nhịn được mà nghẹn ngào bật khóc.

Đỗ Văn Hạo đưa mắt lạnh lùng nhìn Thái Kinh, nhưng điệu bộ lại có vẻ chăm chú, hắn cười thầm trong bụng, nhưng ngoài mặt vẫn không hề có chút biểu lộ gì, thở dài nói: "Đã là như thế, vậy không nên ngồi lâu nữa, đi thôi?"

Thái Kinh có lẽ không ngờ rằng Đỗ Văn Hạo lại sảng khoái như vậy, nhất thời không kịp phản ứng, thấy Đỗ Văn Hạo đã đi ra đại sảnh, lúc này mới lúc này mới vừa mừng vừa sợ đuổi theo.

Đỗ Văn Hạo phân phó hộ vệ đội trưởng Hứa Hoa Cường chuẩn bị ngựa. Rất nhanh ngựa đã được chuẩn bị xong, Hứa Hoa Cường nói: "Đại tướng quân, ngài còn mang ai đi cùng không?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút, tính toán xem có nên mang theo nữ quyến theo không, Bàng Vũ Cầm y thuật tốt nhất, Tuyết Phi Nhi không tập trung không nghiêm túc, Kha Nghiêu học y chăm chỉ, đầu óc linh hoạt, cần cù học hỏi, cũng không sợ mất mặt, hơn nữa trí nhớ cũng rất tốt, có thể cho nàng đi theo tôi luyện. Chỉ là chuyện tối ngày hôm qua khiến cho hắn có phần chột dạ, tính đi tính lại thì không thể nghĩ và cũng không nên nghĩ đến nữa. Con người sỮg là phải biết lúc nào đủ, không nên quá tham lam. Nhân tiện nói: "Bảo phu nhân theo ta là được rồi".

Phủ Doãn Ứng Thiên phủ Thái Kinh, tương đương với thị trưởng Bắc Kinh ở thời hiện đại, tuổi còn trẻ mà đã ngồi được lên vị trí này, có thể bổn sự của hắn cũng khá cao. Nhưng mà vào phủ đệ của Thái Kinh thì thấy hắn cũng không quá mức khoa trương, so với nhà cửa của những quan viên cùng cấp bậc với hắn trong kinh thành cũng không tính là quá tráng lệ. Quan sát tứ phía có thể thấy chủ nhân thiết kế ngôi nhà rất lịch sự tao nhã. Hành lang gấp khúc, tiểu kiều, lương đình, cổng vòm cùng một vài vị trí thông thường đều được điêu khắc tranh hoa điểu ngư trùng (hoa cỏ, chim chóc, cá, côn trùng), chạm trổ cũng thập phần tinh tế, trong nội viện hoa cỏ không nhiều lắm, nhưng đều là những loài hiếm có, xem ra chủ nhân thật sự là người tao nhã. Thái Kinh một đường dẫn Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm đi tới một cái cổng vòm ở giữa nội viện. Trong cổng vòm thì ra là còn có bốn tiểu viện, mỗi tiểu viện lớn nhỏ không đồng đều, đi đến trước một tiểu viện ở phía Đông, Thái Kinh vươn tay làm ra một tư thế mời, thấp giọng nói: "Đỗ tể chấp, Đỗ phu nhân, mời vào!"

Chỉ thấy ở cửa tiểu viện có hai tỳ nữ đang đứng, cúi người hành lễ, sau đó vội chạy đến trước một căn phòng, vén rèm cửa lên, nói lớn: "Thất phu nhân, lão gia đã trở lại".

Vào gian phòng, chỉ thấy trong phòng chỉ thấy hương khói luẩn quẩn, sau màn lụa mỏng có thể thấy được một nữ tử nằm nghiêng trên giường. Thấy có người đến, lúc này tỳ nữ mới cẩn thận đỡ nàng ta ngồi dậy, hai tỳ nữ vén màn lụa mỏng lên. Đỗ Văn Hạo trông thấy một cô gái có độ tuổi ước chừng tương đương với Kha Nghiêu, bụng nhô cao, xem ra mang thai đã được tám chín tháng rồi.

Thái Kinh vội giới thiệu, cô gái này là tiểu thiếp của Thái Kinh, tên là Lâm Hân. Nàng gượng dậy muốn bước xuống hành lễ, liền bị Bàng Vũ Cầm giữ lại: "Ngươi thân thể không khỏe, cứ ngồi xuống đi".

Lâm Hân hơi ngẩng đầu lên, chỉ thấy một thanh niên tuấn tú môi hồng răng trắng đang đứng ở trước mặt mình, bên cạnh còn có một nữ tử dung mạo xinh đẹp, nhất thời cảm thấy ngượng ngùng, lại cúi đầu xuống, từ từ ngồi xuống giường.

Bàng Vũ Cầm lấy từ trong hòm thuốc ra chiếc gối chẩn mạch đặt lên chiếc bàn bên cạnh giường, tỳ nữ đưa ghế đến, Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, Lâm Hân đưa tay đặt trên gối chẩn mạch, cũng không dám ngẩng đầu nhìn lên.

Lúc này hai nữ tử mặc y phục xanh và vàng bước vào, trên đầu trâm thoa lấp lánh. Nữ tử mặc áo xanh trông thấy vợ chồng Đỗ Văn Hạo thì có phần kinh ngạc, không biết thì thầm bên tai nữ tử áo vàng điều gì đó. Hai người nhìn nhau cười trộm, nữ tử áo xanh cười khẽ, tiến đến cất lời: "Lão gia, nghe nói người mời Đỗ đại nhân tới đây?"

Thái Kinh vội vàng giới thiệu: "Đúng vậy, còn không nhanh tới làm lễ, Đỗ tể chấp, hai người này là tứ thiếp và lục thiếp của ty chức".

Hai vị phu nhân đi đến trước mặt Bàng Vũ Cầm chắp tay thi lễ, Bàng Vũ Cầm đứng dậy hoàn lễ, còn Đỗ Văn Hạo chỉ khẽ gật đầu.

Thái Kinh ra hiệu cho hai người tìm chỗ ngồi xuống không được quấy rầy Đỗ Văn Hạo xem bệnh, hai người liền ngồi xuống bên cạnh Thái Kinh.

Đỗ Văn Hạo hỏi Lâm Hân: "Thất phu nhân, cảm thấy không khỏe ở chỗ nào?"

Lâm Hân mệt mỏi dựa lên đệm tựa trên giường, ôn nhu nói: "Cũng đã khá lâu rồi, không biết tại sao đại tiện luôn không thể thông thuận, lúc đại tiện có cảm giác bụng trướng đau nhức, sau khi xảy ra thì đã mời những vị đại phu khác xem bệnh, uống thuốc xong chẳng những không thoải mới hơn, ngược lại càng nghiêm trọng. Đầu tiên trong miệng nhạt nhẽo không có mùi vị, tiếp theo đắng miệng, lại mời thái y trong cung xem qua, thì cho rằng là do nội hỏa quá dồi dào dẫn tới ứ đọng. Nhưng mà, thếp thân mang thai cho nên thái y không dám kê đơn, chỉ cho một bài thuốc giảm nhiệt, sau khi phục dụng cũng không có hiệu quả gì. Lại mời thái y khác, vẫn như vậy, lại không ai dám kê đơn. Sau đó có một vị đại y chỉ điểm rằng chứng này chỉ có Đỗ đại nhân có thể trị, cho nên lão gia lúc này mới mạo muội đi tới mời Đỗ đại nhân".

Cũng không thể trách, Thái Kinh tốt xấu gì cũng là phủ doãn phủ Khai Phong, cũng là chức quan tam phẩm, ở triều đình cũng được tính là nhân vật tai to mặt lớn, ở Thái Y viện đều là hạng người đa mưu túc trí, xem bệnh đều chú trọng nắm chắc hoàn toàn, chỉ cầu không xảy ra điều ngoài ý muốn, cùng lắm thì nói mình không có bổn sự sẽ không dẫn tới phiền toái. Đối mặt với một nữ nhân có thai mấy tháng, lại là ái thiếp của phủ doãn đại nhân, mặc dù biết phân tích khảo chứng căn bệnh không sai, nên dùng loại dược thông tiện, nhưng mà không sợ vạn nhất chỉ sợ nhất vạn. Chỉ còn cách để cho Đỗ Văn Hạo đến khám và chữa bệnh, chủ ý này rất tuyệt vời, thứ nhất là Đỗ Văn Hạo y thuật cao minh. Thứ hai là Đỗ Văn Hạo thân là tể chấp, cho dù khiến cho phủ doãn phu nhân sinh non, phủ doãn Thái Kinh cũng không dám trách móc.

Đỗ Văn Hạo sau khi hiểu được điều then chốt, bèn mỉm cười, quay đầu liếc nhìn Thái Kinh: "Bệnh này của tôn phu nhân quả thật là ứ đọng. Trong Kinh Vân có nói: Hữu cố vô vẫn (là chỉ phụ nữ trong thời kỳ mang thai nếu gặp phải bệnh nặng không dùng thuốc thì cả hai mẹ con đều chết), động thì sinh sản, nếu không thì ứ đọng, không chỉ khiến cho tôn phu nhân khổ sở, chỉ sợ còn tổn hại đến hài nhi trong bụng. Nhưng mà, lúc này thông tiện có nguy hiểm nhất định, ta cũng không hoàn toàn nắm chắc".

Thái Kinh vội vàng chắp tay thi lễ, vẻ mặt đau khổ, nói: "Tể chấp đại nhân cứ việc dùng thuốc".

"Hắc hắc, Thái đại nhân cũng không nên lo lắng quá mức, chỉ cần dùng thuốc cẩn thận, sẽ không có gì đáng ngại".

Đỗ Văn Hạo khai một phương Tiêu Trệ Đạo Khí hoàn cho Thái Kinh. Thái Kinh vội vàng sai người đi tìm phương bốc thuốc. Sau đó bảo hai vị phu nhân mời Bàng Vũ Cầm đến khuê phòng nói chuyện uống trà, bản thân hắn thì dẫn Đỗ Văn Hạo đi vào chính đường dâng trà nói chuyện.

Hai ngươi phân ra chủ khách ngồi xuống, Thái Kinh chắp tay nói: "Ty chức chúc mừng đại nhân thăng chức!"

"Ha ha, có cái gì mà chúc mừng chứ. Thăng quan thì càng bận rộn. Mệt chết người đi được".

"Như vậy cũng gọi là phiền toái sao, ha ha".

Đỗ Văn Hạo nói: "Bệnh này của tôn phu nhân cũng không khó trị, đừng nói là ta, cho dù là đồ đệ của ta Tiền Bất Thu. Cũng chỉ là việc cỏn con, thái y của Thái y viện cũng là quá cẩn thận rồi, thật ra đại nhân tùy tiện tìm một lang trung ở trong kinh thành cũng có thể trị khỏi bệnh này, thật ra tất cả cũng chỉ một chữ 'đảm' (can đảm), xem bệnh tốt, làm việc cũng được, nhưng nếu không có lá gan thì việc gì cũng không thành".

"Đúng đúng, đại nhân nói nói đúng. Hắc hắc".

Đỗ Văn Hạo nghe hắn thừa nhận bèn cười nhẹ, nói: "Thật ra bệnh của tôn phu nhân không cần phải tới mức tể chấp ta đích thân tới chẩn bệnh, mà là do đại nhân cố ý mời đến, còn tặng ta một số lễ trọng như vậy. Chắc hẳn đại nhân còn có dụng ý khác?"

Thái Kinh vỗ đùi, khen: "Tể chấp đại nhân thật sự là thông minh hơn người, ty chức đang cân nhắc mở miệng như thế nào, mà đã nhân đã nhìn ra trước, hắc hắc".

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo cười thầm, nhìn cái bộ dáng lén lén lút lút của ngươi, cho dù kẻ ngốc cũng có thể nhìn ra! Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Thái đại nhân có việc gì cứ việc nói ra".

"Vâng, là như vậy, việc này nếu nói với người ngoài thì nhất định sẽ cho rằng ty chức mưu tư lợi cấu kết với nước ngoài để phản bội triều đình. Nhưng trời đất chứng giám, ty chức một lòng nghĩ cho triều đình, dù là làm bất cứ điều gì thì cũng như vậy".

"Điều này là đương nhiên, đại nhân có chuyện gì cứ việc nói, ta biết đại nhân là người trung quân ái quốc. Hắc hắc".

Thái Kinh vội vàng đứng người lên, khom lưng nói: "Đa tạ tể chấp! Có những lời này của tể chấp, ty chức cũng có thêm lòng can đảm, giống như lời của đại nhân vừa nói: Muốn làm việc thành công, nhát định phải có lá gan".

"Ta xem lá gan của ngươi cũng đã khá lớn rồi, hắc hắc, có việc gì ngươi cứ nói thẳng ra".

"Vâng vâng!" Thái Kinh xoa xoa tay. Ngồi trở lại cái ghế, suy nghĩ một lúc sau đó mới chậm rãi nói: "Đại Tống ta cùng Tây Hạ liên tục chinh chiến, cả hai bên đều có thắng có thua, quân dân hai nước đều tổn hai rất lớn. Cho nên ty chức một mực suy nghĩ, nếu song phương có thế biến chiến tranh thành tơ lụa, đối với tất cả mọi người thì mới có lợi, đặc biệt là đối với dân chúng, họ mới có thể an cư lạc nghiệp".

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo oanh một tiếng, không thể tưởng được tên đại gian thần trong tương lai vậy mà lại bàn tới điều này, không biết trong bụng hắn tính toán điều gì, cứ nghe một chút rồi nói sau. Lập tức ung dung thản nhiên thong thả nâng chén trà lên, nhẹ nhàng thổi thổi, đưa lên miệng nhấp một miếng. Tuy hắn không thích uống trà, nhưng vẫn cảm nhận được mùi hương nhàn nhạt của trà. Thấm sâu tới tận đáy lòng, rất là dễ chịu.

Thái Kinh vừa nói vừa quan sát sắc mặt của Đỗ Văn Hạo, lại cẩn thận nói tiếp: "Khi mà ty chức nghĩ tới việc này thì vừa vặn rằng Tây Hạ cũng đang âu sầu vì chuyện này. Lần trước trận chiến ở thành Vĩnh Nhạc, tuy quân ta tổn thất hai mươi vạn người, bọn họ cũng không chiếm được ưu thế hơn bao nhiêu. Vũ khí ôn dịch của chúng ta tạo thành bệnh dịch lan tràn khắp Tây Hạ, làm chết hơn mười vạn quân dân, về sau may mắn có được nước thuốc trừ độc cùng mặt nạ phòng độc của Đại tướng quân, lúc này mới có thể khống chế được bệnh dịch. Tình hình trong nước của bọn họ vốn đã rất kém, trải qua một kiếp này thì nguyên khí đại thương, thật sự là không có cách nào tiếp tục chiến tranh, cho nên vẫn một mực tìm cơ hội hòa đàm cùng chúng ta".

Đỗ Văn Hạo cười lạnh nói: "Có thật vậy không? Chẳng lẽ Thái đại nhân chẳng lẽ không biết, trước đó vài ngày bọn họ còn phái binh tập kích Khánh Kinh Lược Tư, giết mấy ngàn dân ta ở vùng biên giới. Dường như không có ý muốn cùng chúng ta hòa đàm".

"Vâng vâng, ty chức cũng đã khiển trách bọn họ như vậy".

"A? Thì ra đại nhân đã tiếp xúc với người Tây Hạ rồi à? Không thể tưởng được đại nhân cùng nước địch lại có qua lại bí mật như vậy. Hắc hắc".

Thái Kinh sợ hãi kêu lên một tiếng, vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ: "Tể chấp đại nhân, ty chức cũng không dám thông đồng cùng địch quốc. Chỉ là, ty chức có một người họ hàng gọi là Thái Đầu. Tổ tiên sinh sống ở vùng biên giới lân cận Tây Hạ, trước khi Đại Tống ta cùng Tây Hạ chưa khai chiến, hắn một mực qua lại giữa Tây Hạ cùng Đại Tống. Ngay cả hoàng thất Tây Hạ cũng thường cùng hắn trao đổi những vật quý hiếm cho nên hắn quen biết với một ít người của hoàng thất Tây Hạ. Trước đó vài ngày, Thái Đầu dẫn theo hai người đến hàn xá, mới biết được rằng là mệnh lệnh của Huệ Tông Đế Tây Hạ, đến tới đàm phán hòa bình".

"Buồn cười, đã muốn hòa đàm, thì đáng ra phải phải sứ thần đến chứ, vì sao phải lén lút phái người cùng thân tích của ngươi đến? Chẳng lẻ lại có chuyện tình gì không thể gặp mặt người khác hay sao?"

Thái Kinh gượng cười hai tiếng, nói: "Tể chấp đại nhân có điều không biết, Huệ Tông Đế cùng Lương thái hậu của thường hay bất hòa, mặc dù Huệ Tông Đế đã sớm tự mình chấp chính nhưng Lương thái hậu vẫn nắm đại quyền trong tay, không để tập trung vào hoàng đế. Huệ Tông Đế tâm hướng về Đại Tống, phổ biến rộng rãi hủy bỏ Phiên lễ, đổi sang dùng Hán lễ, nhưng Lương thái hậu cản trở nên không thành. Huệ Tông Đế từng muốn đem Hà Nam dâng tặng muộn quay về nương tựa Đại Tống ta, cũng phái Đại tướng Lý Thanh chuẩn bị tới đây thương nghị cùng chúng ta. Lương thái hậu biết được, liền phát động chính biến, giết chết Lý Thanh, sau đó lại đem Huệ Tông Đế giam cầm, sau này mặc dù để cho hắn ngồi lại vị trí cũ nhưng cũng không đem thực quyền trả lại. Phái quân đội tập kích quấy rối nước ta ở biên cảnh, cũng chính là chủ ý của Lương thái hậu, Huệ Tông Đế vì muốn quy phục Đại Tống cho nên âm thầm phái sứ thần tới, thông qua con đường bí mật tới để tiến hành đàm phán hòa bình, không dám để cho Lương thái hậu biết được".

Đỗ Văn Hạo đối với lịch sử của Tây Hạ biết rất ít, nghe Thái Kinh nói như vậy mới hiểu được đại khái, thì ra hoàng đế Tây Hạ chỉ là bù nhìn, thực quyền toàn bộ nằm trong tay thái hậu. Nhưng dù sao hắn cũng là hoàng đế, cho nên hẳn là vẫn có một số người ủng hộ, nếu như có thể lợi dụng mâu thuẫn lúc bấy giờ của đôi bên, xử lý Lương thái hậu, một lần nữa đưa Tây Hạ vào bản đồ Đại Tống, thì đúng là thượng sách không cần đánh mà vẫn khuất phục được kẻ địch.

Nhưng mà, lời này từ trong miệng Thái Kinh nói ra, người này tương lai là đại gian thần, lời của hắn chưa hẳn có thể tin, Đỗ Văn Hạo nghiêng mắt nhìn Thái Kinh: "Sứ thần ở đâu?"

"Hiện giờ đang ở hàn xá, có cần gọi hắn tới gặp mặt đại nhân?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ, Thái Kinh đã không sợ mình gặp sứ thần, vậy lời hắn vừa nói hẳn là sự thật, chuyện này có quan hệ trọng đại, phải suy nghĩ chu toàn rồi nói sau, bây giờ mình là tể chấp, thân phận không giống như trước kia, không thể tùy tiện bày tỏ thái độ. Cho nên hắc lắc đầu, nói: "Trước tiên chưa cần gặp hắn, như vậy đi, ngươi tiếp đón sứ thần cho tốt, đặc biệt phải chú ý giữ bí mật, chờ ta sau khi thương nghị với Thái Hoàng Thái Hậu cùng các vị tể chấp rồi quyết định".

"Vâng! Vâng!" Thái Kinh sau khi nghe xong, vội vàng chắp tay đáp ứng, suy nghĩ một lát lại thấp giọng nói: "Đỗ tể chấp, ty chức còn có điều này nữa, không biết có nên nói ra hay không".

"Ừm, cứ nói". Đỗ Văn Hạo tiếp lời.

"Theo ty chức biết, trước đó Huệ Tông Đế chuẩn bị liên lạc để quay về với Đại Tống, về sau sự tình bại lộ, chính là bởi vì trong triều có người đem chuyện này báo với Lương thái hậu. Cho nên, chuyện này cần phải hết sức cẩn thận, không thể để cho quá nhiều người biết được".

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, trầm giọng nói: "Ngươi cho rằng là kẻ nào đã mật báo?"

"Ty chức không biết, nhưng mà vào lúc đó sự tình này vô cùng bí mật, người biết chuyện này có thể đếm trên đầu ngón tay, lại không biết rốt cuộc là ai, ty chức cũng không dám tự tiện suy đoán. Tiên đế từng phái người điều tra nhưng không có kết quả".

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, người có khả năng biết được sự tình cơ mật như vậy. Ngoại trừ tể chấp chỉ sợ là không còn người khác, vừa rồi bản thân mình cùng các tể chấp thương nghị, may mà được Thái Kinh nhắc nhở nếu không một khi chuyện này lộ ra, chỉ sợ sẽ rất tồi tệ.

Hắn không kìm được mà liếc nhìn Thái Kinh, âm thầm cân nhắc, hai mươi năm sau tiểu tử này có thể trở thành một đại gian thần quyền thế lấn át vua, một tay nắm đại quyền của triều đình, thực sự chẳng những là do giỏi nịnh nọt. Từ chuyện này có thể thấy hắn rất có đầu óc tư duy, có vài phần bản lĩnh thật sự. Vốn muốn tìm cơ hội xử lý hắn, hiện tại xem ra chưa được, còn phải lợi dụng hắn liên lạc cùng Tây Hạ, giải quyết xong vấn đề Tây Hạ. Đến khi có thời gian thì phế hắn đi, để tránh đêm dài lắm mộng, tránh cho hắn có quyền lực to lớn, hại nước hại dân.

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, nói: "Ừm, bổn quan hiểu rồi, ngươi cũng phải cẩn thận làm việc, nếu như hoàn thành tốt việc này! Nếu có thể hoàn thành, hắc hắc, ngươi đã làm được một việc lớn rồi đó!"

Thái Kinh mừng rỡ, đứng dậy thi lễ thật sâu: "Không dám, hết thảy đều dựa vào Đỗ tể chấp, không có quyết sách anh minh của Đỗ tể chấp, bực đại sự như thế này không thể nào hoàn thành được".

"Hắc hắc, trước hết chúng ta không cần bàn luận công lao, chờ sau khi xong chuyện rồi nói sau, sẽ không thiếu điều tốt cho ngươi".

"Vâng vâng, ty chức đa tạ tể chấp đại nhân dìu dắt".

Đỗ Văn Hạo sau khi biết được tin tức này, tất nhiên là đứng ngồi không yên, đứng dậy cáo từ ra đi, gọi Bàng Vũ Cầm, hai người lên xe rời khỏi Thái Kinh phủ đệ một đường đi thẳng về Ngũ Vị Đường.

Đỗ Văn Hạo tiến vào việng tử, thấy hai người Tuyết Phi Nhi cùng Liên Nhi đang nói chuyện dưới hành lang, hai nha hoàn đang quét dọn trong phòng Kha Nghiêu, chú hổ con Khả Nhi cũng dang ngoan ngoãn nằm ở cửa ra vào, tiểu hổ ở trong này thì hẳn là Anh Tử cũng ở bên trong. Hắn dừng bước, Khả Nhi chỉ nhẹ nhàng vẫy vẫy cái đuôi của mình, cũng không đứng dậy, mắt cũng không mở ra, đại khái là lúc Đỗ Văn Hạo tiến đến thì tiểu hổ đã ngửi thấy mùi thân thể của hắn rồi.

Quả nhiên Anh Tử bưng một lọ hoa đã tàn từ bên trong bước ra, trông thấy Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người thi lễ.

"Kha Nghiêu đâu? Đi ra ngoài rồi sao?" Đỗ Văn Hạo thăm dò.

Anh Tử mỉm cười đem Thanh Hoa Sứ trong tay đưa cho nha hoàn bên cạnh, nói: "Mấy ngày nay Nghiêu cô nương bận rộn cùng Tứ phu nhân học công phu, ta xem tâm tình nàng rất cao, ngài chân trước vừa bước đi, thì nàng đã kéo Tứ phu nhân ra ngoài rồi. Thiếu gia, hôm qua ngài vừa uống rượu, sáng hôm nay lại dậy sớm, thời gian gần đây dường như gầy đi một chút, còn phải bận rộn bao lâu nữa mới có thể nghỉ ngơi?"

 Chương 432: Mò đá qua sông.

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Thời gian gần đây đại khái cũng không có thời gian rảnh rỗi. Đúng rồi, tập phải tiến cung lập tức, khả năng là sự tình có thể rất bận rộn, trở về có lẽ sẽkhuya, các ngươi ăn cơm tối trước đi, không cần chờ ta".

Tuyết Phi Nhi nói: "Ca, hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu. Vũ Cầm tỷ nếu như ngày hôm nay huynh có thời gian thì nên về sớm dùng cơm".

Đỗ Văn Hạo không có thời gian suy nghĩ, lập tức dáp: "Thế ư? Được rồi, nhất định ta sẽ trở về!" Liên Nhi nhịn không được cười nói: "Không được tay không trở về mới đúng".

Tuyết Phi Nhi nói: "Hôm qua Thanh Đại tỷ nói đùa với Kha Nghiêu, nói rằng nàng đã lớn, năm sẽ tìm cho nàng một người tốt, dù sao giờ đây nàng cũng là nghĩa muội của tể chấp tướng công, muốn tìm cho nàng một gia đình tốt không phải là rất dễ dàng sao? Trong thành Khai Phong này không ít quan lớn giàu có muốn đăng môn kết thân".

Bàng Vũ Cầm vội vàng nháy mắt với Tuyết Phi Nhi. Tuyết Phi Nhi dường như không hiểu ánh mắt đó có ý gì, cho nên nói tiếp: "Giờ đây nàng tuổi nàng cũng không còn nhỏ nữa, nếu không sớm tìm chồng, chỉ sợ thành lão cô cương rồi thì...Hì hì".

Sắc mặt Đỗ Văn Hạo xám lại, cũng không nói chuyện, chắp tay sau lưng đi vào phòng, để cho Anh Tử giúp đỡ thay đổi quan bào, buồn bực xuất môn, mang theo đội hộ vệ ky mã.

Liên Nhi nhẹ giọng hỏi: "Lão gia làm sao vậy? Giống như là không được vui".

Tuyết Phi Nhi nhếch miệng, cười nói: "Các ngươi không biết là hai ngày nay chỉ cần là lão gia chúng ta ở nhà, thì Kha Nghiêu nhất định sẽ không xuất hiện sao?"

Bàng Vũ Cầm trừng mắt liếc nàng, nói: "Phi Nhi. Tỷ hiệu muội nghĩ gì, muội không nên suy nghĩ nhiều. Muội quên rằng, khi ở trên núi trên núi Nga Mi. Kha Nghiêu ở trước mặt chúng ta đã xác nhận rằng nàng sẽ không gả cho lão gia nhà chúng ta, chắc là do trùng hợp thôi, cho nên mới không gặp".

Liên Nhi cũng phụ họa nói: "Đúng vậy, đừng xem cô nương Kha Nghiêu này ngày thường lúc nào cũng tươi cười với tất cả mọi người, thật ra trong xương tủy thanh cao tự ngạo vô cùng, nàng không chỉ một lần nói với người khác rằng thà cả đời không lấy chồng chứ không làm thiếp".

Tuyết Phi Nhi nói: "Miệng người hai da (chỉ lời nói không đắc bằng), chẳng lẽ mọi người đều tin sao?"

Bàng Vũ Cầm cùng Liên Nhi liếc nhìn nhau, lắc đầu. Bàng Vũ Cầm cười trộm nói: "Ngươi đó, ta còn tưởng rằng ngươi cùng Kha Nghiêu đã không có khúc mắc gì nữa, thì ra trong lòng vẫn còn canh cánh, lo lắng nàng gả cho tướng công?"

Tuyết Phi Nhi nghe xong lời này gấp đến mức khuôn mặt nhỏ nhắn cũng đỏ lên, nói: "Các ngươi sao mà không nhìn ra, vừa rồi ca mới nói buổi tối sẽ không về dùng cơm. Bảo chúng ta không cần chờ hắn, nhưng Anh Tử vừa nói hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu, hắn ngay cả suy nghĩ cũng không cần, lập tức hứa sẽ trở về".

Liên Nhi nói: "Nhất định là ngươi quá đa tâm rồi, ta xem bất cứ người nào trong chúng ta như vậy, thì lão gia cũng sẽ trở về".

Tuyết Phi Nhi nói: "Chúng ta đều là thê thiếp của hắn. Tất nhiên là hắn sẽ trở về, nhưng Kha Nghiêu, nàng..."

Lời của Tuyết Phi Nhi còn chưa nói hết, thì từ bên ngoài vang lên một tràng cười vọng vào, Liên Nhi vội vàng nói với nha hoàn ở bên cạnh: "Nhanh bưng cháo cùng bữa sáng cho tứ phu nhân cùng Kha Nghiêu cô nương, bọn họ chưa ăn cơm đã đi ra ngoài, lúc này chắc là đã đói rồi".

Tuyết Phi Nhi cúi đầu nhỏ giọng thì thầm: "Hẳn là nàng có Thiên Lý Nhãn, cho nên mỗi lần đều nắm được thời gian lão gia xuất môn hoặc trở về, các ngươi còn chưa tin. Hừ, chúng ta cứ xem xem".

Lời của Tuyết Phi Nhi vừa dứt, Kha Nghiêu liền cất bước đi vào, thấy nàng đang mặc một thân áo gấm bằng gấm màu hồ lan, quần tơ lụa màu trắng, ở phía trên triêu ba đóa hồng mai nho nhỏ, một đai lưng màu trắng thắt lên cái eo nhỏ tinh tế của nàng. Mái tóc đen nhánh được bím lại có một cây trâm trâm ngọc hình hoa mai trắng xuyên qua, tuy giản dị nhưng lại rất ưu nhã, trên mặt trang điểm một lớp phấn mỏng. Đang liên tục bước tới, cười khanh khách tiến vào đại sảnh.

Bàng Vũ Cầm nói: "Đi ra ngoài lâu như vậy, đã đói bụng chưa?"

"Đúng vậy, đã rất đói rồi".

"Vừa rồi tỷ đã gọi các nàng mang đồ tới, bên ngoài ồn ào, chúng ta vào phía trong ngồi đi".

Chúng nữ vào trong nhà, ngồi xuống cạnh bàn.

Kha Nghiêu đưa thanh kiếm trong tay cho nha hoàn ở bên cạnh, sau dó dùng khăn ướt nha hoàn đem đến lau mồ hôi ở trước tràn, lúc này mới ngồi xuống.

Bàng Vũ Cầm thấy phía sau nàng không có người đi cùng, tò mò hỏi: "Không phải là muội đi cùng Thanh Đại tỷ sao? Tại sao không thấy nàng đâu?"

Kha Nghiêu che miệng cười nói: "Vừa rồi khi xuống núi, thấy ven đường có một cây Vương Lan thụ rất đẹp, muội nói rất thích, nàng liền khăng khăng hái để tặng quà sinh nhật cho muội. Mà cây này lại sinh trưởng ở bên vách núi, với thân thủ của muội đương nhiên là không thể tiến lên, chỉ có tỷ tỷ đi, vốn là mọi việc đều tốt. Không ngờ đêm qua mưa to, sườn dốc mềm mà nhão không chịu được lực nên sập xuống. Với thân thủ của Thanh Đại tỷ tất nhiên là không bị ngã, nhưng mà đạp phải bùn nhão khiến cho giày của nàng bẩn hết. Cho nên nàng đi về là vào phòng thay giày trước, sau đó mới tới dùng cơm".

Bàng Vũ Cầm giờ mới hiểu được nguyên nhân, nói: "Vẫn là Thanh Đại tỷ vô cùng thương yêu muội, chỗ nguy hiểm như vậy mà không hề lo lắng cho bản thân để làm muội vui, Kha Nghiêu chúng ta thật là may mắn, có được một tỷ tỷ thương yêu mình như vậy".

Nha hoàn bưng thức ăn lên, Liên Nhi múc ra một chén cháo đưa cho Kha Nghiêu, Kha Nghiêu mỉm cười tiếp nhận chén cháo. Đang muốn uống, chợt nghe Tuyết Phi Nhi nói: "Ai bảo chỉ có tỷ tỷ mới thương yêu, lão gia nhà chúng ta cũng vô cùng thương yêu cô em gái này". Nói xong câu này liền đưa mắt liếc nhìn Kha Nghiêu, thấy nàng sắc mặt không hề thay đổi đưa cháo lên thong thả uống.

Tuyết Phi Nhi nghĩ thầm, ngươi không cần giả vờ, ta còn lạ gì ngươi, liền nói tiếp: "Trước đó còn nói là buổi tối sẽ không trở về, sau khi nghe nói hôm nay là sinh nhật Kha Nghiêu, không cần suy nghĩ đã lập tức quyết định là sẽ về ăn cơm tối".

Trong nội tâm Kha Nghiêu loạn như con hươu, nhưng vẻ mặt lại bình tĩnh không có một tia biến hóa. Chỉ nhìn vẻ mặt mập mờ của Tuyết Phi Nhi nhìn mình, mỉm cười nói: "Đúng vậy, muội cũng cảm thấy ca ca rất thương yêu muội. Hôm nay dù huynh ấy không trở về muội cũng không trách huynh ấy".

Tuyết Phi Nhi vừa tức vừa buồn cười, đang muốn nói tiếp thì Lâm Thanh Đại bước vào, Bàng Vũ Cầm vội vàng mời Lâm Thanh Đại ngồi bên cạnh mình, nói: "Thanh Đại tỷ, sau khi ăn cơm xong chúng ta đi dạo, xem nên mua lễ vật gì thật đẹp cho tiểu nha đầu".

Lâm Thanh Đại nói: "Ta cũng nghĩ như vậy, đêm qua suy nghĩ một đêm nhưng không nghĩ được cái gì thích hợp. Nha đầu này cực kỳ khó tính, chúng ta nhọc lòng chọn lựa cho nàng, chưa hẳn đã hợp ý". Nói xong mỉm cười liếc nhìn Kha Nghiêu.

Kha Nghiêu cười nói: "Mọi người hao tâm tổn trí như vậy cho muội. Muội làm gì dám đòi hỏi gì nữa, Liên Nhi tỷ, tỷ định tặng muội gì nào".

Liên Nhi nói: "Ta đã nghĩ kỹ rồi, đã quyết định, lát nữa sẽ biết".

"Là cái gì?"

"Giờ chưa thể nói cho muội".

"Hừ!"

Lâm Thanh Đại nói với Tuyết Phi Nhi: "Phi Nhi muốn mua thứ gì?"

Tuyết Phi Nhi lúc này mới ngẩng đầu lên, nói: "Muội biết Liên Nhi muốn mua cái gì, vốn muội muốn mua thứ đó, chỉ là giờ đây không muốn mua cùng một thứ mà thôi".

Liên Nhi cười nói: "Xem ra chúng ta đều biết Kha Nghiêu thích gì, nhưng mà ta giành được trước rồi".

Kha Nghiêu thấy mọi người vì sinh nhật của mình mà hao tâm tổn trí như vậy, cảm thấy rất cảm động, nói: "Làm khó mọi người như vậy, cũng là vì muội mà suy nghĩ, bất kể là là lễ vật gì muội đều rất vui mừng, dù chỉ là một đóa hoa dại cũng là tâm ý của mọi người, Kha Nghiêu cảm kích còn không kịp ấy chứ".

Bàng Vũ Cầm: "Nên vậy mà, người một nhà phải như thế, muội nói gì vậy?"

Tuyết Phi Nhi lập tức đùa giỡn: "Giờ đây muội cũng đã lớn, dứt khoát năm nay gả muội ra ngoài, điều này cũng là một phần tâm ý của chúng ta".

Kha Nghiêu khẽ gắt: "Ngươi được lắm, tiểu ny tử, cả ngày này cũng không quên trêu chọc ta, để tối nay ta chuốc người say mèm rồi cho ngươi nằm ở bên ngoài cạnh khe nước thối".

"Hừ, đến đây đi! Không biết ai say mèm phải nằm trong khe".

Đoàn người đều nở nụ cười.

Đỗ Văn Hạo cưỡi ngựa mang theo đội hộ vệ đi vào hoàng cung. Lúc xuống ngựa, do trong lòng sốt ruột, liền gọi kiệu thúc dục đi thẳng tới Phúc Ninh cung của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao.

Hắn tiến vào Phúc Ninh cung không cần thông báo. Đi vào bên trong biết được Cao Thao Thao không có ở công địa, cũng không có ở trong phòng, mà đang ở biệt điện cửa Đông hoàng cung.

Sau khi Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao chấp chính muốn cùng các đại thần nghị sự thì có chút khó khăn, bởi vì các đại thần không thể tùy tiện vào cung, mà Thái Hoàng Thái Hậu dù sao cũng là tạm thời chấp chính, lại không thể đến trước đại điện ra lệnh, liền dùng biệt điện phía Đông hoang cung làm địa phương để các đại thần báo cáo công việc cũng nh để nàng tiện ra chỉ thị. Như vậy nàng có thể không cần ra khỏi hoàng cung, các đại thần cũng không vào nội cung.

Cao Thao Thao giờ đây đang tới nơi để nghe báo cáo và quyết định sự việc. Tất nhiên là có chuyện trọng yếu cần thương nghị. Đỗ Văn Hạo đành phải chờ ở tẩm cung của Cao Thao Thao.

Cũng may không lâu sau Cao Thao Thao đã hồi cung, vừa thấy Đỗ Văn Hạo, Cao Thao Thao mặt mày hởn hở, sau khi lui vào màn che liền nhào vào trong ngực Đỗ Văn Hạo, nói: "Chàng tới thật đúng lúc, ta đang muốn cho người triệu chàng tiến cung bàn bạc công việc, không ngờ chàng đã đến rồi".

Hai người ôm nhau ngồi ở trên giường êm, Đỗ Văn Hạo nói: "Gọi ta tới có việc gì sao?"

"Tất nhiên là có việc rồi, chính chuyện tình hôm qua chàng đã nói đó! Tối hôm qua ta lại suy nghĩ một lần nữa, trước khi làm việc này cần phải suy nghĩ kỹ. Sáng sớm hôm nay triệu Lại bộ, Lễ bộ, cùng, Binh bộ Thượng thư đến thương nghị. Hạ mấy đạo ý chỉ, đang muốn chàng xem có thỏa đáng hay không".

"Ừm, hạ ý chỉ gì".

"Đều là những chủ ý hôm qua của chàng! Thứ nhất là hủy bỏ thích tự đánh đấu quân dân, miễn việc khắc chữ trên mặt của quân nhân hiện dịch. Đạo ý chỉ thứ hai là để cho Hàn Lâm Viện cùng giải quyết với Lễ bộ, Lại bộ, lập ra kế hoạch, tuyên truyền nhân vật anh hùng trong trận chiến giữa chúng ta cùng Tây Hạ. Tiến hành tuyên dương những anh hùng có công lao. Tiến hành trợ cấp đối với những gia đình có liệt sĩ tham gia chiến trận. Đạo ý chỉ thứ ba là cắt giảm bộ phận sương quân".

Đỗ Văn Hạo âm thầm giật mình, vội vàng cười nói: "Nàng hành động thật là nhanh, thế việc cắt giảm sương quân thế nào rồi?"

Cao Thao Thao nhìn ra vấn đề mà sau khi thương nghị lo lắng, cười nói: "Chàng yên tâm, sau khi ta cùng Binh bộ Thượng thư thương nghị đã quyết định, từ Quảng Nam đến Tây Xuyên bốn lộ phân biệt cắt giảm mười doanh sương quân (năm ngàn người). Trước cắt giảm một ít, sau này từ từ tích lũy kinh nghiệm. Hai vị trí này tương đối vắng vẻ, sương quân bị cưỡng bức lao động rất khổ sở, mà tiền kiếm được thì ít, cắt giảm không gặp nhiều cản trở, hơn nữa hai địa phương này cũng nhiều đất hoang cần khai khẩn. Đồng thời ta hạ chỉ cho Hộ bộ đem đất hoang này chia cho sương quân cắt giảm sử dụng. Đất hoang được khai khẩn thuộc về người khai hoang. Nha môn cho đăng ký ban phát khế đất, mười năm đầu miễn toàn bộ thuế mà, năm năm tiếp theo thì thu một nửa mức thuế. Đồng thời hạ chỉ thương khố ở hai nơi này cho vay với lợi tức một nửa mức bình thường cho đến khi bộ phận sương quân cắt giảm lần đầu tiên chuyển sang thời kỳ bình ổn".

Đỗ Văn Hạo cao hứng, hôn lên trên khuôn mặt mềm mại của nàng một cái: "Thao Thao thật là lợi hại! Nàng nghĩ thật chu đáo!"

"Hì hì!" Cao Thao Thao có vài phần đắc ý: "Điều này không phải đều là chủ ý của chàng hay sao. Không có chàng, tao nào dám làm như vậy! Có chàng, lá gan của ta cũng lớn hơn".

Đỗ Văn Hạo ôm cái eo thon nhỏ của nàng, vuốt ve mái tóc của nàng, thấp giọng nói: "Nàng nắm trong tay quyền lực lớn nhất, phải cẩn trọng mới được. Nàng còn làm gì nữa?"

"À, ta còn hạ chỉ mở các phân xưởng quan doanh dược liệu ở châu phủ hai vùng này, đem những sương quân không muốn khai hoang trồng trọt về an trí tại những phân xưởng này, hai vùng này có những vùng đất trồng được dược liệu, chế các loại dược liệu bán sỉ cùng thuốc pha chế sẵn bán vào thị trường".

"Ý kiến hay! Nhưng mà, lúc này những xưởng đó kinh doanh như thế nào? Ai bỏ vốn/ Người nào chịu trách nhiệm?"

Cao Thao Thao nằm trong vòng tay của hắn nói: "Theo như lần trước chàng nói với ta là chàng có mở một công ty liên doanh tư nhân ở Nhã Châu phủ Thành Đô mà!"

"Thật ư?" Đỗ Văn Hạo kinh hỉ đan xen, nói: "Cụ thể lo liệu như thế nào?"

"Ừm...Chính là như bình thường thương khố bỏ vốn bốn thành, thương hộ đầu tư xuất vốn sáu thành, sự tồn tại của công ty hoàn toàn tách biệt với nha môn, không được phép kiêm nhiệm bất cứ chức quan nào trong triều, công ty tự quy định điều lệ. Do cổ đông sẽ cử ra chủ tịch cùng quản lý. Còn phải lập hội đồng giám sát, nghiêm khắc làm việc theo chương trình. Tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lời lỗ, gánh chịu trách nhiệm có hạn đối với tàn sản của công ty. Theo như quy định nộp lên thuế lợi, nha môn không có quền can thiệp vào. Nếu không có thể thông qua quan giám sát báo thẳng tới chúng ta, sẽ bị nghiêm khắc trừng phạt".

Đỗ Văn Hạo nhịn không được lại ôm nàng hôn một cái: "Thao Thao giỏi quá! Khong thể tưởng tượng được ta mới chỉ nói với nàng như vậy, nàng liền nhớ kỹ những nội dung phức tạp như vậy của công ty. Nàng thật là thông minh đó!"

Cao Thao Thao tươi cười: "Là chàng nói cẩn thận dễ hiểu, tất nhiên là ta phải nhớ kỹ rồi".

"Ha ha, Tô Thức còn chưa hồi màn, nànglo lắng công ty làm ăn không tốt, cứ lớn mật thúc đẩy như vậy ư?"

"Chàng đã thử nghiệm qua ở thành đô, ta tin tưởng rằng có thể làm được. Trước cứ xây dựng xem sao, dù sao chúng ta có trong tay hơn một ngàn ức, không sợ lỗ vốn. Hì hì".

"Ha ha!" Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Nàng có thể lấy ra ngân khố của mình để tiến hành cải cách, nàng có đảm lượng như vậy, lại có tài chính hùng hậu tiên đế lưu lại làm hậu thuẫn, chúng ta không sợ không thành đại sự! Nàng làm một bước này rất tốt, đã an trí xong sương quân, lại tiến thêm một bước phát triển quy chế công ty. Hay lắm! Thao Thao. Quy chế của công ty trong thị trường kinh tế chính là một trong những quy chế quan trọng nhất, lúc vừa mới thành lập nhất định sẽ gặp phải một số vấn đế, nhưng từ từ sẽ ổn định. Tống quốc buôn bán vô cùng phát đạt, quy chế này là chuẩn mực của thị trường, thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ phát triển, tạo ra cho quốc gia càng nhiều tài lực. Chờ cho công ty được xây dựng nhiều hơn, mọi người sẽ dần dần có thể tiếp nhận, sau khi thấy chỗ tốt của công ty, khi đó chúng ta sẽ chính thức ban bố pháp luật về công ty, tiến hành quy phạm. Giờ đây cần phải khuyến khích xây dựng".

Cao Thao Thao đối với những từ câu xen lẫn với ngôn ngữ hiện đại của Đỗ Văn Hạo cái hiểu cái không, ngẩng mặt lên nói: "Vâng, ta nghe lời chàng!"

"Nàng đừng chỉ nghe lời ta! Nếu nàng cảm thấy không ổn thì cứ việc nói, chủ ý của ta chưa hẳn đã là tốt nhất. Có đôi khi không phải nhất nhất cứ làm vậy chúng ta phải thương lượng mới có thể phát hiện ra có vấn đề hay không".

"Ừm, ta cảm thấy chủ ý của chàng đều tốt. Hơn nữa, cho dù có điểm không chắc chắn cũng không sao cả. Sai rồi thì chúng ta có thể sửa đổi, không thử làm sao biết phương pháp này không tốt?"

"Hắc hắc, đúng vậy, thế này gọi là mò đá qua sông! Cải cách cần phải thử nghiệm, cũng có thể mắc phải sai lầm, sai rồi có thể sửa đổi, không thử nghiệm thì vĩnh viễn không phát hiện ra chỗ sai. Ha ha, tư tưởng của nàng rất giống tư tưởng của một vĩ nhân, thảo nào có thể làm lãnh tụ của một quốc gia".

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: "Vị vĩ nhân ấy là ai?"

Đỗ Văn Hạo đương nhiên sẽ không nói cho nàng biết về công cuộc cải cách ở xã hội hiện đại do Đặng Tiểu Bình trù tính, chỉ cười cười nói: "Ta cũng không nhớ được. Dù sao cũng đã từng có vị lãnh tụ nói qua như vậy. Đúng rồi, nàng còn hạ ý chỉ gì nữa?"

"Về hạn chấm dứt tuổi quân! Đối với việc cắt giảm tướng sĩ sương quân dựa theo suy nghĩ của chàng mà an bài, Hộ bộ, Lại bộ, cùng Binh bộ Thượng thư đều chưa từng làm như vậy. Đều nói phương pháp này rất mới mẻ, xem ra là tốn không ít tiền bạc nhưng có thể ổn định cắt giảm sương quân, tương lai tiết kiệm được sẽ vượt xa so với tốn kém".

"Đúng đúng, đây mới là người nhìn xa trông rộng! Còn có gì nữa không?"

"Có". Cao Thao Thao nhìn hắn một cái, chậm rãi nói: "Ta còn hạ chỉ, chấm dứt tất cả các biến pháp rồi. Ta không thể để cho những biến pháp hại người này gây tai họa cho dân chúng".

Đỗ Văn Hạo mặc dù biết Cao Thao Thao là đầu lĩnh của phe bảo thủ, vừa chấp chính nhất định sẽ bãi bỏ toàn bộ hiến pháp, chỉ là không ngờ lại nhanh đến như vậy.

Cao Thao Thao nhìn thần sắc của hắn có chút ảm đảm, thấp giọng hỏi: "Ta đình chỉ việc áp dụng biến pháp chàng không vui sao?"

Đỗ Văn Hạo miễn cưỡng cười cười, thấp giọng nói: "Sao lại không. Giờ đây biến pháp đã hoàn toàn biến chất rồi, mất đi ý đồ vì nước vì dân năm xưa, thậm chí trở thành tranh giành lợi ích với dân rồi, phế bỏ di cũng tốt".

Cao Thao Thao lập tức cao hứng trở lại, vuốt vuốt tóc nói: "Ta cũng nghĩ như vậy, trước kia chàng đã nói với ta ràng thật ra ý định ban đầu của biến pháp là rất tốt, suy nghĩ cũng rất hay, nhưng mà trong lúc chấp hành thì bị biến dạng. Ta lại nghĩ, nó đã rối tinh rối mù như vậy rồi, nếu cứ để cho chàng tới thu thập cục diện rối rắm như vậy cũng phiến toái, không bằng cứ phế nó đi, tương lai chàng nghĩ ra biện pháp hay có thể ích quốc lợi dân, chúng ta lại áp dụng, chàng nói có đúng không?"

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ: "Nàng nguyện ý để cho ta áp dụng biến pháp?"

"Ừm, nhưng trước tiên chàng phải giúp ta chính lý quân đội, cũng để cho tất cả mọi người nhìn ra bản lĩnh thật sự của chàng, khiến cho mọi người tâm phục khẩu phục, khi đó ta lại cho chàng thực hiện biến pháp, lúc đó như nước chảy thành sông rồi".

"Hay lắm! Nàng nói không sai, nếu như ta ngay cả quân đội cũng không thể quản tốt thì nói gì đến chuyện biến đổi cả một quốc gia".

"Đúng vậy!" Cao Thao Thao ôm cổ hắn nhẹ nhàng hôn một cái: "Không nên vội vàng, chúng ta tiến từng bước một, chàng đã nói ' không thể vì cái lợi trước mắt mà phải hành tuần tự, đúng không nào?"

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu: "Nàng nói không sai, nàng còn tuyên bố ý chỉ nào khác không?"

"Không có!" Cao Thao Thao sẵng giọng: "Xem chàng đi, từ sáng tới giờ ta làm nhiều việc như vậy, chàng lại còn ngại không đủ, muốn khiến cho ta mệt chết ư?"

"Hắc hắc. Khổ cực cho Thao Thao của ta rồi!" Đỗ Văn Hạo ôm lấy nàng đặt lên giường, rồi thân mật một hồi. Khiến cho Cao Thao Thao như lọt vào trong sương mù lúc này mới ngừng tay.

 Chương 433: Một vốn bốn lời.

Cao Thao Thao ỷ ôi trong lòng hắn, hỏi: "Ngày hôm qua chàng nói muốn xây dựng một quận đội bộ đội đặc chủng, còn muốn xay dụng một cơ quan quốc an, ta đã hạ chỉ cho Lại bộ công bộ Công bộ rồi, đặc biệt để cho chàng phân phó, chàng có thể lập tức tiến hành tuyển chọn, tu kiến rồi. Thiếu cái gì thì cứ nói cho ta biết".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Thật tốt quá, ta trở về lập tức bắt đầu hạng mục này. Nhưng mà giờ đây còn có một chuyện càng quan trọng hơn cần phải làm. Nếu như thành công thì chúng ta có thể không cần hao tổn một binh tướng nào mà vẫn có thể chế ngự Tây Hạ".

"Thật vậy ư?" Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Sự tình như thế nào?"

Đỗ Văn Hạo liền đem chuyện tình vừa nói cùng Thái Kinh kể cho Cao Thao Thao, cuối cùng kết luận: "Nếu như chuyện này là thật, chúng ta kết hợp với Hạ Huệ Tông đế, vấn đề Tây Hạ có thể giải quyết triệt để".

Cao Thao Thao kinh hỉ đan xen, nhưng mà vẫn không thể tin được chuyện này, lưỡng lự một lát rồi hỏi: "Chàng cảm thấy việc này có phải là sự thật không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Vừa rồi ta cũng đã cân nhắc rất kỹ. Ta nghĩ, người Tây Hạ làm làm việc này làm gì? Nếu như bọn muốn giả hòa đàm, thì trực tiếp phái sứ thần đi là được, lén lén lút lút tiếp xúc cùng chúng ta, đối với bọn họ có chỗ tốt gì? Nghĩ cả ngày trời cũng không ra người Tây Hạ có chủ ý quỷ quái gì trong sự việc này. Cộng thêm mấy năm trước, Huệ Tông Đế đã từng phái Đại tướng tiếp xúc cùng chúng ta, lúc ấy chuẩn bị đối phó với Lương thái hậu, về sau sự tình bại lộ, Huệ Tông Đế còn bởi vì nguyên nhân này mà bị nhốt nhiều năm, còn muốn tiếp tục liên hợp với chúng ta đối phó Lương thái hậu. Mục đích của hắn hiển nhiên là muốn nương nhờ lực lượng của chúng ta giúp hắn đoạt lấy đại quyền. Cho nên ta cảm thấy việc này không phải là giả".

"Vậy có khi nào khi hắn muốn lợi dụng chúng ta, sau đó lại đối phó với chúng ta?"

"Hắc hắc, chúng ta cũng không phải là đứa bé ba tuổi. Giúp đỡ hắn, tất nhiên là phải có điều kiện rồi, nàng phải xác định rằng, có cần liên minh với Hạ Huệ Tông đế hay không, nếu như muốn thì cần đòi hỏi điều kiện gì?"

Cao Thao Thao mấy chục năm sống trong nội cung, cũng không hỏi về chính sự. Giờ đây đột nhiên nắm giữ quyền lực cao nhất, vốn cũng có phần mơ hồ không biết phải làm sao. Giờ đây gặp chuyện lớn như vậy càng không biết phải làm sao cho phải. Suy nghĩ một lúc lại nhìn sang Đỗ Văn Hạo, nói: "Chàng cảm thấy thế nào?"

"Ta? Thao Thao, chuyện này nàng phải quyết định, ít nhất nàng cũng phải xác định điều thứ nhất, đó là có muốn liên minh cùng Hạ Huệ Tông đế, cùng đối phó với Lương thái hậu hay không?"

Cao Thao Thao miễn cưỡng cười nói: "Ta cũng không biết nữa, chàng nói giúp ta, giờ chàng giúp ta đề ra chủ ý đi".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta cảm thấy được, điều này đối với chúng ta là một chuyện tình một vốn bốn lời. Chỉ cần làm tốt là có thể thuận lợi thu lấy Tây Hạ, không chiến tranh mà có thể khuất phục người! Còn có điều gì tốt hơn điều này nữa? Cho dù thất bại, đối với chúng ta cũng không có tổn thất gì lớn, cũng không có nguy hiểm nào quá lớn. Chuyện này hoàn toàn có thể làm".

"Ừm, chàng nói có lý, cứ theo ý chàng mà lo liệu. Ta đồng ý!"

"Tốt lắm! Thứ hai, nàng phải quyết định, yêu cầu điều kiện gì?"

Cao Thao Thao vẫn lặp lại câu kia: "Chàng cảm thấy thế nào?"

"Ta nghĩ tốt nhất là yêu cầu hắn buông bỏ việc xưng đế, thậm chí không xưng Vương nữa, đem quân đội Tây Hạ nhập vào quân ta, cũng đem Tây Hạ sát nhập vào bản đồ Đại Tống! Đương nhiên, điều kiện này rất cao, Hạ Huệ Tông đế chưa chắc sẽ đồng ý.

"Vậy làm sao bây giờ?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ, đột nhiên linh cơ chớp động, nói: "Ta cảm thấy, trước tiên đi đàm phán với họ đã, nếu thật sự không được thì chúng ta có thể tiếp nhận giới hạn cuối cùng (lợi ích cao nhất có thể). Đại khái là thế này: Chúng ta giúp hắn xử lý Lương thái hậu. Đoạt lại thực quyền. Sau đó phong hắn làm Phiên vương thừa kế vương vị, thi hành hoàn toàn tự trị do hắn độc lập nắm quyền quản lý, bổ nhiệm quan viên, phát hành tiền tệ, thống trị tất cả dân chúng. Triều đình không quản tới, thuế phú trưng thu cũng không cần nộp lên triều đình, nhưng có hai điều phải do triều đình khống chế: Một là quyền quân sự, tất cả quân đội trong cảnh nội, có thể cho hắn một số lượng hoàng gia vệ đội nhất định, số lượng không vượt quá một vạn, lực lượng quân đội còn lại đều do chúng ta tiếp quản, cũng biên chế lại thành quân Tống. Đại Tống ta phái quân đội tiến vào chiếm giữ Tây Hạ, đảm nhiệm nhiệm vụ phòng ngự quân sự. Thứ hai, quyền ngoại giao thuộc về triều đình, dù cho muốn cùng quốc gia khác ký kết hiệp nghị gì thì đều do triều đình đại diện, chính phủ Tây Hạ không thể ra mặt. Cái này gọi là một quốc gia hai chế độ! Hắc hắc".

Đỗ Văn Hạo đem một quốc gia hai chế độ áp dụng ở Tống Triều, cảm thấy là rất sáng suốt, trong nội tâm cảm thấy rất là đắc ý.

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Như vậy thì đương nhiên là rất tốt, nhưng mà hắn chưa hẳn đã tán thành đâu! Trong tay không có, không phải là chúng ta muốn xử lý lúc nào cũng được sao? Hắn cũng vị của hắn không được lâu dài, sớm muộn gì cũng bị chúng ta phế bỏ?"

Đỗ Văn Hạo sửng sốt một chút, nghĩ thầm lời này cũng rất đúng, việc này cùng với tình huống một quốc gia hai chế độ như Hong Kong hoàn toàn khác hẳn. Ngược lại rất giống với tình huống của Đài Loan. Hắn nghiêng đầu suy nghĩ, Trung Quốc đề xuất sự tình trao đổi Đài Loan trở về, còn nhớ hình như là chỉ giao nộp quyền ngoại giao, Đài Loan giữ lại hành chính, quyền tư pháp, thậm chí có thể cho phép Đài Loan giữ lại quân đội.

Đây là chính sách của đại lục, chỉ cần Đài Loan đồng ý xuất ra quyền ngoại giao, thực hiện thống nhất, tuy rằng nó còn có quân đội, nhưng tương lại muốn độc lập, đại lục liền xuất quân trực tiếp phế bỏ quân chính Đài Loan. Bọn Hoa Kỳ làm sao mà không triệt lui được chứ, điều này chủ yếu là dựa vào thực lực quân sự của đại lục cường đại hơn nhiều sô với Đài Loan.

Tây Hạ thì không giống như Đài Loan, sức chiến đấu của quân đội Tây Hạ mạnh hơn quân đội Đại Tống. Một khi Đại Tống giúp Hạ Huệ Tông đế đoạt lại thực quyền, chắc chắn hắn sẽ trở mặt không nhân nhượng. Đại Tống cũng không có cách nào gây khó dễ cho Tây Hạ. Cho nên, nhất định phải nghĩ ra một điều có thể chế ước Tây Hạ, nhưng lại có thể khiến cho Tây Hạ Huệ Tông Đế cảm thấy phương pháp này an toàn ở một trình độ nhất định nào đó.

Suy nghĩ một lát, Đỗ Văn Hạo nói: "Hay là cứ cho phép hắn giữ lại quân đội, nhưng số người thì phải hạn chế, không được vượt qua mười vạn người. Đồng thời, ta muốn đóng tại Tây Hạ, nhân số không ít hơn mười lăm vạn người, như vậy có thể cam đoan số lượng chiếm ưu thế.

"Vạn nhất hai bên đánh nhau thì phải làm sao?"

"Điều này cũng đúng, hay là như vậy đi: Yêu cầu hắn đem Tuyên Hoá phủ, Lương Châu cùng với ruộng đất phía Nam cắt cho Đại Tống ta. Giống như dĩ vãng quy phục Đại Tống, hàng năm tiến cống, chúng ta sẽ giúp hắn đoạt lại chính quyền".

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: "Hai địa phương này rất trọng yếu sao?"

"Rất quan trọng, mã trường Sơn Đan của Tuyên Hóa phủ là một trong những mã trường tốt nhất thế giới. Hơn nữa, ở đây dải dất hành lang Hà Tây, phía trên liên thông với vị trí hiểm yếu của Tây Vực. Vị trí địa lý vô cùng quan trọng, lại là ốc đảo trọng yếu của Tây Hạ, nghành chăn nuôi rất phát đạt. Là một khối thịt béo, chúng ta thì không thiếu những ốc đảo như thế này, nhưng mà chúng ta muốn lập quân đội mạnh mẽ thì không thiếu thiếu mã trường Sơn Đan này, nó là một sân bãi cực kỳ quý hiếm! Có thể có được thì rất tốt".

"Địa phương tốt như vậy, chưa hẳn hắn đã đồng ý giao ra".

"Hắn muốn cầu chúng ta, chúng xuất lực giúp hắn diệt Lương thái hậu, đoạt lại chính quyền, lợi ích này đối với hắn cũng là tương đối lớn, ở một phương diện nào đó thì có khả năng lớn hơn so với mã trường Sơn Đan cùng hành lang Hà Tây. Dù sao Tây Hạ rất rộng lớn, chúng ta chỉ yêu cầu hắn cắt nhường hai mảnh đất này, chỉ chiếm không đến một thành trong cả Tây Hạ. Hơn nữa, địa phương có thể nuôi ngựa của Tây Hạ có rất nhiều, đương nhiên mã trường Sơn Đan cũng không phải là mã trường tốt nhất. Cho nên mã trường Sơn Đan đối với hắn tuyệt đối không phải là vùng đất không thể vứt bỏ. Nếu như đàm phán thành công, hắn nguyện ý cắt cho chúng ta một khối đất đai này cũng tính là tương đối có lợi. Cho nên, chúng ta phải lợi dụng cơ hội lần này, thu hoạch được lợi ích lớn nhất".

"Ừm. Phái ai đi đàm phán đây?"

"Chuyện này không thể tuyền truyền rộng rãi, lần trước Tây Hạ phái sứ thần đến liên minh cùng chúng ta, là người của chúng ta để lộ tin tức với Lương thái hậu. Kết quả là khiến cho sự tình hỏng bét, lần này nếu như tiếp tục bại lộ chỉ sợ Lương thái hậu sẽ nổi sát tâm, vậy thì thật là đáng tiếc".

"...Nếu không thì chàng đi gặp sứ thần đàm phán đi. Chàng xảo quyệt như vậy hẳn là hiểu rõ nên đàm phán như thế nào".

Hai người lại thân mật một lúc nữa, lúc này Đỗ Văn Hạo mới rời khỏi tẩm cung của Cao Thao Thao.

Hắn vừa mới ra khỏi Phúc Ninh cung, thì lại gắp tiểu thái giám trong nội cung của Dụ Cáp Nhi cản đường: "Tiểu Đức Tử dập đầu bái kiến Đỗ tể chấp". Nói xong, tiểu thái giám quỳ xuống dập đầu làm lễ với Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đứng lên mà nói".

Tiểu Đức Tử đứng dậy, khom người nói: "Nương nương nhà ta bị bệnh, để nô tài đến đây chờ Đỗ tể chấp".

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, ngày hôm qua còn tốt. Chẳng lẽ là uống nhiều rượu quá rồi nằm trên đất dẫn đến cảm lạnh? Tuy rằng không muốn gặp cô nàng Dụ Cáp Nhi này, nhưng mà người ta vẫn là nương nương của tiên đế, còn cho người tới chờ đợi, cũng không nên để cho người ta nói: Tiên đế vừa mất thì mình đã khinh mạn các vị nương nương. Liền tùy tiện nói: "Dụ nương nương bị bệnh gì, có nặng không?"

Tiểu Đức Tử nói: "Nương nương nói cuống họng của người bị đau, lúc đầu thì hơi khàn khàn, về sau thì ngay cả nói chuyện cũng trở nên khó khăn, trong đêm qua gọi thái y của Thái y viện đến xem và cho uống thuốc. Sáng nay chẳng những không biến chuyển tốt hơn mà là càng nặng. Bây giờ lời nói cũng không phát ra được, so với với bị câm cũng chẳng khác là mấy. Nương nương cũng biết Đỗ đại nhân công việc bận rộn, vốn không muốn quấy rầy, nhưng mà bệnh tật quấn thân, thống khổ không chịu nổi, lúc này mới..."

Đỗ Văn Hạo nói: "Được rồi, ta đúng là bận rất nhiều việc, nhưng mà thân thể của nương nương quan trọng hơn, ta với ngươi đi xem một lúc".

Vào cửa tẩm cung, xuyên qua khu vường. Tiểu Đức Tử trực tiếp dẫn Đỗ Văn Hạo tới hậu hoa viên.

Chỉ thấy một nữ tử đang đứng, hơi cúi đầu trước một bồn hoa lục sắc. Nàng ta dung nhan tú lệ trong trẻo nhưng lạnh lùng, hai mắt sâu thăm thẳm, da thịt trắng muốt tinh tế tựa như 'nha điêu ngọc trác' (ngà voi và ngọc được mài dũa, chạm khắc). Chính là Dụ Cáp Nhi.

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, dung mạo của Dụ Cáp Nhi trong cung mặc dù không phải là đẹp nhất, nhưng lại có ý vị đặc biệt, tự như làn gió êm dịu trong ngày xuân, như ngọn sóng mềm mại mờ ảo, là một cảnh đẹp làm cho người ta ngắm nhìn không bao giờ biết chán.

"Vi thần tham kiến Dụ nương nương". Đỗ Văn Hạo tiến lên, đi đến trước mặt nàng thi lễ.

Dụ Cáp Nhi ngẩng đầu lên, trong mắt mang theo vẻ vui mừng. Khóe miệng cong cong nhếch lên thoáng hiện ra hai cái lúm đồng tiền trên má, nàng vẫy vẫy tay với Đỗ Văn Hạo, ra hiệu cho hắn qua đó ngồi.

Quả nhiên Đỗ Văn Hạo phát hiện từ đầu đến cuối nàng đều không có nói, hắn đánh giá Dụ Cáp Nhi từ trên xuống dưới, sắc mặt xem ra rất tốt, chỉ là có phần mỏi mệt chán chường. Đỗ Văn Hạo hỏi: "Cuống họng của nương nương làm sao vậy? Nghe nói tìm thái y rồi, lại không hề có chuyển biến, có phải vậy không?"

Dụ Cáp Nhi bất đắc dĩ cười cười, lắc đầu, đi đến trước bàn đề bút viết mấy chữ trên giấy sau đó đưa cho Đỗ Văn Hạo xem, chỉ thấy trên đó viết: "Đêm qua đã bị như thế rồi, đều tại ngươi!"

Đỗ Văn Hạo cười khổ: "Điều này sao lại có thể trách ta? Ngươi ăn cái gì ngươi muốn mà?"

Dụ Cáp Nhi lấy trừ trong lòng ra một đơn thuốc, đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo xem qua rồi đặt xuống, nói: "Ta bắt mạch cho ngươi".

Dụ Cáp Nhi đưa tay đặt ở trên gối chẩn mạch. Đỗ Văn Hạo giữ cổ tay bắt mạch, phát hiện mạch huyền tế, lại thấy tưa lưỡi màu hồng. Hai bên gò má thì đỏ bừng, bèn hỏi: "Mấy ngày gần đây nương nương ăn uống vẫn tốt chứ?"

Tiểu Đức Tử ở một bên nói: "Không tốt, chẳng những ăn uống không tốt, mà ngủ cũng không ngon. Buổi tối là ngủ nhiều nhất, nhưng cực hạn cũng chỉ hai canh giờ mà thôi".

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: "Tâm tình vẫn tốt chứ?"

Sắc mặt Dụ Cáp Nhi trở nên ảm đạm, Đỗ Văn Hạo liền hiểu rõ bảy tám phần, liền nói: "Được rồi, ta đã hiểu đại khái rồi, nương nương không cần phải lo lắng, trước tiên dùng phó dược để cho tâm tình dễ chịu hơn một ít, không nên suy nghĩ quá nhiều. An tâm điều dưỡng thì không có bệnh gì không thể trị liệu". Nói xong. Đứng dậy đi đến trước thư án ngồi xuống viết một phương thuốc đưa cho Tiểu Đức Tử.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Còn nữa, còn cần phối hợp với châm cứu để trị liệu cho nương nương, nhưng không thể tùy tiện được, hôm nay tạm thời thế đã. Ngày mai vi thần dẫn theo Tôn bà bà của Thái y viện đến châm cứu cho nương nương sẽ tiện lợi hơn".

Dụ Cáp Nhi không thể nói chuyện, nhưng thần sắc xem ra là đang rất cảm kích, đứng dậy viết mấy chứ, Đỗ Văn Hạo nhìn, chỉ thấy trên đó viết: "Biết rằng huynh đang rất vội vàng, huynh sẽ không ở đây lâu, đa tạ".

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: 'Giờ đây Dụ Cáp Nhi cũng đã trở nên thành thục hơn một chút. Dụ Cáp Nhi vô ưu vô lự trước kia sau hơn một năm sống trong hoàng cung, vậy mà biến mất không còn bóng dáng'.

Đỗ Văn Hạo ra khỏi tẩm cung của Dụ Cáp Nhi. Tiểu Đức Tử một mực đưa đến ngoài cửa, thấp giọng hỏi: "Tể chấp đại nhân. Có phải là nương nương vĩnh viễn không thể nói chuyện được nữa không?"

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: "Tất nhiên là không phải, nhưng mà do thời gian nhiễm bệnh hơi lâu rồi. Cho nên nếu chỉ uống thuốc sợ là sẽ không có hiệu quả, hơn nữa thái y trước đó khai phuong không thích hợp mới khiến bệnh của nàng không những chẳng thuyên giảm mà còn nghiêm trọng hơn, châm cứu chỉ là phương pháp trì hoãn chứng bệnh của nàng, khiến cho nàng chóng khỏi bệnh".

"Tể chấp đại nhân thật sự là tài ba. Chúng ta cả đời này nếu học được một thành y thuật của ngàu, cũng được người người kính trọng rồi".

Đỗ Văn Hạo nở nụ cười, vỗ vỗ bả vai Tiểu Đức Tử nói:: "Mỗi người đều có sở trường của riêng mình, ngươi cũng như vậy, ngươi trung tâm với chủ, điều này là rất tốt".

Nói xong, Đỗ Văn Hạo bước ra ngoài cung. Lên chiến mã, rung dây cương, chậm rãi đi vè phía trước. Đi được một lúc hắn ghìm chặt dây cương, quay đầu lại hỏi Hứa Hoa Cường: "Tối nay là sinh nhật của Kha Nghiêu, ngươi nói xem ta nên mua cho nàng cái gì thì tốt?"

Hứa Hoa Cường suy nghĩ rồi nói: "Ta nghe Đại phu nhân nói, nàng muốn mua cho Nghiêu tiểu thư một cái nghiên mực. Ta đã đến thư phòng của nàng xem qua, thấy rằng Kha Nghiêu tiểu thư thích đọc sách viết chữ, lễ vật này hẳn là nàng cũng yêu thích".

Đỗ Văn Hạo uể oải nói: "Ài! Bọn họ đều đi trước ta một bước rồi. Đến chợ xem qua rồi tính sau?"

Hứa Hoa Cường nói: "Vậy cũng được".

Lập tức hai người vừa nói chuyện vừa hướng về phía tẩm cung của Hoàng thái hậu.

Hai canh giờ sau, Đỗ Văn Hạo cùng Hứa Hoa Cường lại xuất cung. Đi thẳng về chợ phía Đông.

Vùng chợ phía Đông này phần lớn là đồ cổ, tranh chữ cùng tiệm châu báu. Đỗ Văn Hạo rất ít khi mua đồ cho nữ nhân, phần lớn là các nàng thích cái gì thì tự mình mua là được, vì thế nên lúc này hắn cảm thấy có phần khó khăn.

Hứa Hoa Cường mang theo đội hộ vệ đi cùng Đỗ Văn Hạo, không có mục đích mà đi loạn khắp nơi. Đầu tiên là đi ở phía sau hắn cũng không nói gì, về sau thấy hắn bước tới trước một cửa hàng, mà đây là nơi cuối cùng của chợ rồi, lúc này mới nhịn không được bước lên nhỏ giọng hỏi: "Lão gia, có phải là ngài chưa tìm được món lễ vật nào như ý để tặng Kha Nghiêu tiểu thư?"

Đỗ Văn Hạo xòe hai tay ra, tạo thành dáng điệu bó tay toàn diện: "Còn phải hỏi? Ngươi có ý kiến gì nói ra xem nào?'

"Hay là tặng ngọc khí trân quý?"

"Được đó!" Đỗ Văn Hạo nói, hai người liền bước vào một cửa hàng bán đồ ngọc. Chưởng quầy thấy người tới ăn mặc không tầm thường, tất nhiên chủ nhân là người có tiền, vội vàng đích thân bước tới nghênh tiếp, mặt mày hớn hở nói: "Vị khách quan này không biết muốn mua những thứ gì?"

Đỗ Văn Hạo đi đến trước tủ cẩn thận đánh giá một phen, lại không biết nên chọn những thứ gì, Hứa Hoa Cường ở một bên nói: "Lão gia nhà chúng ta muốn chọn một món quà sinh nhật để tặng muội muội mình, chưởng quầy thử cho ý kiến xem?"

Đỗ Văn Hạo còn chưa cất lời, lúc này ở ngoài cửa một người tiến vào. Chưởng quầy vội tiến lên khom người thi lễ, Hứa Hoa Cường đưa mắt nhìn thì chính là quản gia của Doãn phủ. Người nọ cũng nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, không kịp nói chuyện với chưởng quầy, đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo cung kính muốn quỳ xuống. Đỗ Văn Hạo vội vàng ngăn cản. Điều này lọt vào mắt chưởng quầy, liền nghĩ thầm: Người này hẳn là quan viên nào đó, nhìn thần sắc của quản gia thì ít nhất cũng phải đạt tới tứ phẩm, cửa hàng này mở trong kinh thành cũng đã được vài chục năm rồi. Loại quan viên nào cũng đã từng gặp gặp qua, nhưng mà trẻ tuổi như vậy, lại nhìn không ra chức quan gì, có lẽ cũng không nên sơ suất. Lão làm sao có thể nghĩ ra rằng, vị thanh niên tuấn tú trẻ tuổi này, vậy mà lại là một tể chấp trong triều.

Chưởng quầy vào nội thất, lấy ra một cái hộp gấm, mời Đỗ Văn Hạo ngồi xuống ở một bên, ra lệnh cho bọn tiểu nhị hầu trà, sau đó mới cẩn thận đặt hộp gấm kia trước mặt Đỗ Văn Hạo.

"Đỗ đại nhân không ngại nhìn xem vật gì ở trong, mặc dù không phải là vật gì hiếm có, nhưng cũng đáng để sưu tầm hoặc là làm quà tặng. Đã là thân nhân, tặng cái này thảo dân cảm thấy rất ổn rồi".

Hứa Hoa Cường mở hộp gấm ra, chỉ thấy ở bên trong có một vòng ngọc màu đen, chất lượng vô cùng tốt, xung quanh tỏa ra những ánh sáng nhu hòa trắng như mỡ dê, Đỗ Văn Hạo cầm lên cẩn thận vuốt ve một hai lần, lại quan sát vị trí tỏa ra ánh sáng. Chưởng quầy cũng không quấy rầy, để cho Đỗ Văn Hạo kiểm tra kỹ một lượt.

"Chưởng quầy, ta cũng không phải là người giỏi phân biệt đồ tốt, nhưng mà ta thấy ngươi lấy từ trong nội thất ra. Hẳn cũng không phải là đồ vật tầm thường". Đỗ Văn Hạo xem xong thì cẩn thận cho vào hộp gấm, mỉm cười nói với chưởng quầy kia.

Chưởng quầy khom người mỉm cười nói: "Đỗ đại nhân tự nhiên là hiểu được, đây chính là điền ngọc ngày hôm trước tiểu nhân mua về từ Tây Vực, loại ngọc này là thượng phẩm trong các loại ngọc, còn được gọi là ngọc mỡ dê, cũng khá là hiếm có. Đỗ đại nhân đã xem kỹ, nếu như mua về cho lệnh muội, nàng hẳn là sẽ rất vui mừng".

 Chương 434: Lời thật.

Đỗ Văn Hạo đối với ngọc thạch quả thật là không có nghiên cứu gì, chỉ buồn bực là không có mang theo Bàng Vũ Cầm tới xem cùng. Đang do dự thì Hứa Hoa Cường ở một bên nói nhỏ: "Lão gia, thời gian không còn sớm nữa".

Đỗ Văn Hạo lập tức hỏi: "Thôi được, ngươi đã bảo tốt thì ta sẽ mua về, bao nhiêu tiền?"

Chưởng quầy nói: "Đỗ đại nhân quang lâm tiểu điếm chính là vinh hạnh của tiểu dân. Ngài xem, vật này..."

Đỗ Văn Hạo nở nụ cười, vị chưởng quầy này cũng biết tạo quan hệ? Trước đó tên quản gia kia cũng đã mang một hộp gấm đi rồi, không biêt bên trong là cái gì, nhưng mà cái hộp kia hẳn là cũng chứa đồ trang sức của nữ nhân. Nói trắng ra chính là hiềm nghi đút lót hối lộ, bản thân mình cũng không thiếu chút bạc này, liền nói: "Ngươi cứ nói bao nhiêu tiền đi, ngươi mua bao nhiêu cứ nói giá bấy nhiêu. Nếu bản thân ngươi cũng không biết giá trị của vật này, ta mua ngược lại không đáng tiền".

Chưởng quầy cười lấy lòng: "Đỗ đại nhân, hay là ngài cứ trả chín mươi lượng là được".

Đỗ Văn Hạo cười to, đứng dậy bước đi, chưởng quỹ kia cuống quýt, vội vàng đuổi theo, nói: "Đỗ đại nhân, ngài chớ đi, nếu ngài còn ngại quá đắt thì tiểu nhân có thể giảm giá".

Hứa Hoa Cường ở một bên nói: "Vừa rồi nói với ngươi rồi, đây là để tặng tiểu thư nhà chúng ta, vậy mà ngươi lại làm cho có đem một món hàng vài chục lượng bạc đến trước mặt lão gia nhà chúng ta, lão gia nhà chúng ta không đi còn ở lại chỗ này làm gì?"

Chưởng quầy gấp gáp tới mức trên trán mồ hồi chảy ròng ròng, vội vàng cất lời giải thích: "Tiểu nhân nào dám qua loa tắc trách, tiểu nhân có ngàn vạn lá gan cũng không dám qua loa tắc trách. Ngài nói không sai, nếu như ngọc này giá trị dưới một ngàn lượng ta cũng sẽ không đưa ra. Nhưng Đỗ đại nhân hạ cố tới cửa hàng, đó là vinh quang của cửa hàng, cho dù ngàn vàng cũng không mua được. Mà mở cửa buôn bán lại không thể cho không, cho nên mới thu chút tiền tượng trưng, vì vậy mới đưa ra cái giá này".

Đỗ Văn Hạo đứng lại trước cửa ra vào, liếc nhìn vị chưởng quỹ kia, nói: "Ừm, coi như là ngươi thành thật. Ta đã thấy qua không ít ngọc, loại vật phẩm nào cũng biết qua chút ít. Ngọc này của ngươi, tuyệt đối là cá già trị ngàn lượng, xem ra ngươi cũng là một người thành thật. Một ngàn lượng là được rồi, không thể để cho ngươi chịu tổn thất".

Chưởng quầy lập tức cảm động, thế gian vẫn còn có một vị quan như vậy, sợ mình bị thiệt thòi, ở đâu còn có quan viên lo lắng cho người khác bị tổn thất như vậy, nghẹn ngào nói: "Đỗ đại nhân, những lời đại nhân nói tiểu nhân chưa bao giờ được nghe qua, thật sự là vô cùng cảm động. Sau này chỉ cần đại nhân hoặc là người trong phủ, yêu thích thứ gì chỉ cần nói một tiếng, tiểu nhân sẽ để lại món tốt nhất cho đại nhân".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười mang theo Hứa Hoa Cường ra khỏi cửa hàng ngọc khí, khi đã đi xa Hứa Hoa Cường quay đầu nhìn lại thì vẫn còn thấy chưởng quầy kia còn đứng ở cửa nhìn theo. Hứa Hoa Cường nói với Đỗ Văn Hạo: "Đại tướng quân, trong nhà trân bảo có rất nhiều. Tại sao không dùng một món để làm quà sinh nhật cho tiểu thư, cứ phải ra ngoài dùng tiền mua quà?"

"Ngươi thì biết cái gì!" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nàng là nghĩa muội của ta, ở trong nhà có cái gì thì cũng là của nàng, ngươi đã thấy ai dùng đồ trong nhà tặng người nhà mình chưa?"

"Nói vậy cũng đúng, hắc hắc".

Đỗ Văn Hạo mang theo đội hộ vệ trực tiếp đi vào nhà Thái Kinh, chuẩn bị cùng sứ thần bí mật Tây Hạ đàm phán, nhưng người gác cổng nói Thái Kinh vừa đi ra ngoài, cũng không biết là đã đi đâu, khi nào trở về, đều không nói. Đỗ Văn Hạo liền lưu lại lời, bảo rằng khi nào Thái Kinh vừa về đến thì lập tức thông báo cho mình. Người gác cổng lập tức đáp ứng.

Mấy người Đỗ Văn Hạo về đến nhà thì thấy mấy cái đèn lồng màu đỏ thẫm treo trước cửa, cũng lập tức cảm thấy vui vẻ, bước vào cửa phòng. Chỉ thấy trong sân xếp đặt mấy cài bàn, vài nha hoàn trả vải đỏ lên trên. Mái hiên phòng ốc đều được treo lụa đỏ, Hứa Hoa Cường nhìn thấy liền có cảm giác tò mò, thấp giọng nói: "Tại sao lại náo nhiệt như là thành thân vậy?"

Đỗ Văn Hạo không nhịn được mà nở nụ cười, lúc này đã thấy Bàng Vũ Cầm từ trong phòng của nàng đi ra, Đỗ Văn Hạo đi đến nói chuyện với Bàng Vũ Cầm.

"Các nàng mua cho nha đầu kia lễ vật gì vậy?" Đỗ Văn Hạo hỏi.

Bàng Vũ Cầm đáp: "Trong chốc lát lúc ăn uống mọi người đưa ra, chẳng phải tướng công sẽ biết hay sao? Còn chàng mua cái gì?"

Đỗ Văn Hạo cố ý thừa nước đục thả câu không chịu nói, Bàng Vũ Cầm cũng không tiếp tục hỏi cho ra, mà nói: "Chuẩn bị xong hết rồi, chàng xem có được hay không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Rất tốt, làm phiền phải lo chu toàn rồi".

Bàng Vũ Cầm đáp: "Ta nghĩ chỉ mấy người chúng ta thì không vui vẻ lắm, cho nên bảo Anh Tử phân phó làm cơm, để cho tất cả mọi người cùng tới dự sinh nhật Kha Nghiêu. Như vậy hẳn là sẽ vui vẻ hơn".

Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy như vậy rất hay. Bàng Vũ Cầm lại nói: "Tướng công, Kha Nghiêu nha đầu cũng đã đến tuổi lấy chồng rồi. Chàng cũng nên để ý tìm một nhà khá giả, cũng coi như là để cho nàng có chỗ nương tựa".

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo ầm một tiếng, chẳng biết tại sao lại cảm thấy chua xót, phẫn nộ, nhưng vẫn cố mỉm cười: "Nói cũng đúng, điều này ta sẽ ghi nhớ trong lòng".

Nói xong lại hỏi thời gian ăn cơm, liền mượn cớ mệt mỏi tránh vào thư phòng.

Kha Nghiêu trốn ở trong phòng, bởi vì hôm nay là sinh nhật của nàng, người ở trong nhà cũng không để cho nàng hỗ trợ, nàng cũng nhàn rỗi vô sự, lúc đầu thì nằm trên giường không ngủ được. Tiếng trò chuyện ở ngoài cửa líu ríu náo nhiệt vô cùng, nhưng trong lòng cảm thấy vô cùng ấm áp, tuy không phải thật sự là người một nhà nhưng có thể đối đối đãi với nàng như vậy, Kha Nghiêu làm sao mà không cảm động cho được? Thế là nàng đứng dậy đứng trước cửa sổ xem bọn họ bận rộn làm việc. Đột nhiên Kha Nghiêu nhìn thấy một thân ảnh quen thuộc từ cửa đi vào, đang tiến về phía này. Trái tim nàng đập thình thịch, tâm trạng khẩn trương, nàng vội ngồi xuống ghế, lỗ tai dán lên tường nghe bọn họ nói chuyện, sau khi nghe xong, trong lòng cảm thấy trống trải. Không nhịn được mà lẩm bẩm: "Cái đồ không có lương tâm, chiếm hết tiện nghi của người ta, giờ đây lại muốn đẩy người ta ra ngoài".

Nói xong thì hung hăng đá một cước vào chân bàn, chỉ nghe cạch một tiếng, chén trà trên bàn bị chấn động, lung lay trên mặt bàn vài lần rồi rơi xuống mặt đất, Kha Nghiêu lập tức hoa dung thất sắc. 'Ôi' một tiếng, ngồi xổm xuống, hai tay xoa xao bàn chân nhỏ, miệng không ngừng xuýt xoa.

Đỗ Văn Hạo trở lại thư phòng. Trong đầu nghĩ đến lời nói vừa rồi của Bàng Vũ Cầm, đã một thời gian rất lâu không thấy khuôn mặt tuyệt mỹ kia. Trong đầu Đỗ Văn Hạo hiện lên hình ảnh: Hoặc mừng hoặc lo, hoặc giận dữ hoặc phẫn nộ. Cô gái này không phải là đã nói không thích ta sao, nàng bất đồng với những nữ nhân khác, chợt gần chợt xa, không thể hiểu được rốt cuộc trong đầu nàng đang nghĩ gì.

Đỗ Văn Hạo nằm ở trên giường êm thất thần. Đột nhiên có tiếng gõ cửa, sau đó là Lâm Thanh Đại mặc một thân y phục màu hồng đi vào, hắn liền ngoắc tay ra hiệu cho nàng bước tới.

Lâm Thanh Đại đóng cửa lại, đi đến bên người Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, thấy dường như là Đỗ Văn Hạo có tâm sự, liền cười nhẹ hỏi: "Thời gian gần đây chàng thật là vất vả, tại sao không xin nghỉ một thời gian để ở nhà tĩnh dưỡng?"

Đỗ Văn Hạo uể oải cười cười, nắm lấy tay của Lâm Thanh Đại, thở dài một tiếng: "Ta cũng muốn vậy lắm, nhưng giờ thì chưa thể được! Đúng rồi! Kha Nghiêu đang làm gì?"

Lâm Thanh Đại nhì thật sâu vào mắt Đỗ Văn Hạo. Nhìn tới mức Đỗ Văn Hạo không dám nhìn thẳng vào, nàng vốn rất hiểu mình, chẳng lẽ...

Đỗ Văn Hạo vội vã lấp liếm: "Nàng nhìn cái gì, trên mặt ta bị rỗ sao?"

Lâm Thanh Đại nói: "Không có".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy tại sao nàng lại nhìn ta như vậy?"

Lâm Thanh Đại vẫn nhìn như trước, con mắt lom lom nhìn Đỗ Văn Hạo, khiến cho nội tâm hắn càng hoảng hốt, liền ôm lấy Lâm Thanh Đại, như vậy là hai người sóng vai, nàng không thể nhìn thấy ánh mắt của mình nữa.

Lâm Thanh Đại hỏi: "Chàng cùng Kha Nghiêu làm sao vậy?"

Đỗ Văn Hạo giả ngu trả lời: "Làm sao vật là sao, rất tốt mà!"

Lâm Thanh Đại hừ một tiếng, xem thường nói: "Không nói thì thôi!" Nói xong làm ra vẻ muốn đứng dậy.

Đỗ Văn Hạo vội nói: "Thanh Đại tốt, nàng không nên vội vã, để ta nói cho nàng là được chứ gì". Nói xong liền kéo Lâm Thanh Đại ngồi xuống lần nữa, sau đó đem chuyện tình mấy ngày trước mình say rượu làm với Kha Nghiêu kể vắn tắt cho Lâm Thanh Đại nghe.

Lâm Thanh Đại nghe xong không nhịn được che miệng cười trộm: "Ta đã đoán là hai người nhất định xảy ra chuyện gì đó. Ta hỏi nàng, nàng lại giống như chàng lúc nãy, vậy chàng tính sao đây, thu xếp nàng ra sao?"

Đỗ Văn Hạo thì thào không biết nên trả lời như thế nào.

Lâm Thanh Đại nhìn thấy vẻ mặt của Đỗ Văn Hạo, liền nói: "Sao vậy? Chàng không thể cứ để như vậy, nha đầu nhìn thấy này vô cùng mẫn cảm, chàng không thể làm tổn thương nó. Tuy trước đây nàng nói như vậy, nhưng cũng không phải là nàng sai, thân thể của nàng vẫn còn trong sạch, nếu như chàng..."

Đỗ Văn Hạo đưa tay che cái miệng nhỏ nhắn của Lâm Thanh Đại, nói: "Xem nàng kìa, người ta chưa nói gì, thì cái gì nàng cũng đã nói ra hết rồi".

Lâm Thanh Đại duỗi ngón tay mảnh dẻ khẽ dứ vào trán Đỗ Văn Hạo một cái, rồi nói: "Chỉ biết rằng trong lòng hai người đều có quỷ, ta còn đang bận rộn, nói đi, nếu như không nói ta thật sự phải đi rồi".

Đỗ Văn Hạo lúc này mới tỉ mỉ đem việc mình sau rượu trong nội cung kể lại cho Lâm Thanh Đại nghe, Lâm Thanh Đại cũng không cười nữa. Đứng dậy đi tới trước cửa, không nói câu nào.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Nàng nghe xong cũng không nói gì, cuối cùng là nàng đang nghĩ gì thế?"

Lâm Thanh Đại quay đầu lại liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, cười nói: "Còn có thể như thế nào nữa, chàng cũng không thể chiếm tiện nghi rồi cho qua, chẳng lẽ đợi muội tử nói ra?"

Đỗ Văn Hạo cười khổ nói: "Ta nói rồi, nhưng nàng là muội tử, nàng cũng đã từng nói tuyệt đối không làm thiếp".

Lâm Thanh Đại trừng mắt, nhíu mày: "Sự do chàng làm. Ài, ta không thẻ quản tới nữa, việc này là chuyện của hai người, dù sao các người cũng hơn mười ngày không gặp mặt. Không bằng thừa dịp tối nay là sinh nhật của nàng, thử buông lời thăm dò, tất cả mọi người đều uống rượu, dùng rượu lấp liếm, như vậy cũng sẽ không khó xử".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Nếu vậy nàng sẽ không để ý nếu ta lấy Kha Nghiêu?"

Lâm Thanh Đại chăm chú nhìn hắn một lúc, buồn bã nói: "Nếu ta nói không quan tâm thì chàng tin sao?" Dứt lời, Lâm Thanh Đại cũng không nhìn hắn nữa, mà đứng dậy mở cửa phòng đi ra ngoài.

Bàng Vũ Cầm không có lưu ý, lại gọi Lâm Thanh Đại, nói: "Thanh Đại, vừa rồi cha của Phi Nhi tới rồi, nghe nói là sinh nhật của Kha Nghiêu cho nên đã gọi người đưa đến hai hai bình rượu trắng tự mình ủ mem, ta đã nhìn qua rất ngon. Liên Nhi nói tỷ rất thích uống rượu Quế Hoa. Ta bảo nha hoàn lấy cho riêng tỷ.

Lâm Thanh Đại không đợi Bàng Vũ Cầm nói xong, âm thầm kéo vạt áo của Đỗ Văn Hạo, rồi sau đó đi thẳng xuống phía dưới, nói: "Không cần, ăn uống giống như mọi người là được rồi".

Nói xong, mọi người chờ Đỗ Văn Hạo tới vị trí chủ bàn ngồi xuống, sau đó mọi người đều ngồi vào vị trí của mình, Lâm Thanh Đại cố ý an bài Kha Nghiêu ngồi ở bên trái, Bàng Vũ Cầm thì ngồi ở bên phải ở bên phải, bản thân nàng ngồi với Tuyết Phi Nhi, Liên Nhi thì ngồi cùng một chỗ với Bàng Vũ Cầm.

Bàng Vũ Cầm thấy hạ nhân trong nhà đều đã ngồi xuống, lúc này mới nhỏ giọng nói với Đỗ Văn Hạo: "Lão gia, chàng nói vài câu đi".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Kha Nghiêu, thấy nàng cũng đang đưa mắt nhìn sang, bốn mắt nhìn nhau, Kha Nghiêu túng túng mỉm cười, đưa ánh mắt chuyển qua Tiền Bất Thu ở phía đối diện.

Đỗ Văn Hạo cười cười, hắng giọng một cái rồi nói: "Hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu, lời đầu tiên đáng ra là để cho nàng nói, nhưng mà ta lại là huynh trưởng cho nên vì nàng mà nâng chén chúc phúc trước tiên, để cho ta nói hai câu cũng không có gì không được".

Kha Nghiêu ở một bên thấp giọng: "Nói cả nửa ngày, cũng không hiểu huynh đang nói điều gì".

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Kha Nghiêu nói như vậy, trong lòng cười thâm, thật ra chính mình cũng không biết phải nói gì, tiểu ni tử ngươi cười cái gì, cẩn thận vui quá hóa buồn.

Đỗ Văn Hạo tùy tiện nói vài câu chúc mừng sinh nhật, sau đó mọi người cùng nhau đứng dậy nâng chén, có thể nhìn ra rằng Kha Nghiêu rất cảm động, mấy lần mở miệng muốn nói đều không được, đó là do nghẹn ngào không biết nên nói gì cho phải. Bàng Vũ Cầm thấy vậy liền bảo Kha Nghiêu nâng cốc lên uống cạn chén, kính mọi người trước, sau đó mọi người vui vẻ uống rượu dùng bữa.

Tuyết Phi Nhi vừa mới ăn được một lúc liền dắt theo Liên Nhi tới mời rượu Kha Nghiêu. Sau đó tất cả mọi người theo họ, Bàng Vũ Cầm ở một bên ngăn cản không nổi. Do Kha Nghiêu không hề cự tuyệt, chỉ cân chén tới là bản thân cũng cụng một ly đáp lễ. Vì vậy chỉ chốc lát sau nha đầu này mặt đã đỏ như quả gấc.

Đỗ Văn Hạo thấy cảnh này, cũng không khuyên can. Vốn là nha đầu này tửu lượng không cao, sau khi mỗi người đã chúc một chén, đến người thứ mười thì hắn khẽ chạm vào tay Lâm Thanh Đại, sau đó đưa mắt ra hiệu cho nàng. Lâm Thanh Đại hiểu ý đứng dậy nhẹ nhàng cản mấy người đang muốn chúc rượu Kha Nghiêu: "Được rồi, sinh nhật nên vui vẻ là chính, thân thể Kha Nghiêu tiểu thư vốn không tốt, nếu như say thì ngày mai sẽ không thoải mái, có lòng là tốt rồi, không nên để nàng uống quá nhiều".

Thấy tứ phu nhân mở miệng, mọi người cũng không tiếp tục mời rượu nữa. Đứng ở một bên nói lời chúc phúc, sau đó đưa rượu đi. Những người ở phía sau vốn là cũng muốn tiến lên mời rượu, nhưng thấy Tứ phu nhân nói vậy cũng không dám mời nữa.

Sau đó Lâm Thanh Đại bảo nha hoàn chuẩn bị cho Kha Nghiêu một bát nước canh giải rượu, chỉ thấy khôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn của Kha Nghiêu đỏ bừng lên, đôi mắt long lanh như nước, phảng phất như muốn rơi ra vài giọt thanh lệ, khuôn mặt từ đầu tới cuối vẫn mang vẻ tươi cười. Có đôi khi lại lộ ra hàm răng trắng tinh, hẳn là do uống quá nhiều rượu, cho nên thỉnh thoảng lại đưa lưỡi liếm môi, động tác này vô cùng hấp dẫn, khiến cho Đỗ Văn Hạo ở một bên nhiệt huyết sôi trào.

Kha Nghiêu một tay bưng má, một tay đưa chén lên, miệng nói mấy câu mơ hồ không rõ: "Đến đây, tỷ tỷ, chúng ta uống rượu".

Lâm Thanh Đại đổi chén rượu trong tay Kha Nghiêu thành một bát sút dã rượu, dịu dàng nói: "Nha đầu láu lỉnh, uống cái này đi, uống sẽ không cảm thấy khó chịu nữa".

Kha Nghiêu tưởng là rượ, liền ngửa đầu uống liên tục một ngụm, không ngờ lại quá nhiều cho nên bị sặc, ho khan liên tục, Đỗ Văn Hạo vừa vặn ở phía sau Kha Nghiêu, Bàng Vũ Cầm thấy Đỗ Văn Hạo ngẩn người, liền nói: "Lão gia, nhanh vỗ lưng cho nha nha đầu".

Đỗ Văn Hạo nghe lời này mới hồi phục tinh thần vội vàng nhẹ nhàng vỗ lên lưng Kha Nghiêu mấy cái, đến khi Kha Nghiêu đỡ hơn mới dừng tay.

Kha Nghiêu đứng dậy quay đầu lại nhìn Đỗ Văn Hạo, cười nói: "Cầm tỷ tỷ, tỷ còn chưa biết rõ người này sao. Khi tỉnh táo thì nào có biết ân cần, lo lắng cho ai bao giờ đâu."

Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo khó xử, hiểu rằng Kha Nghiêu đang nói tới việc say rượu đêm hôm đó, trong lòng cười thâm, trên mặt lại không lộ ra biểu tình gì, chỉ nói: "Muội xem muội không giữ mồm giữ miệng kìa, còn không biết mình đã uống nhiều quá, ngay cả ca ca của mình không nhường nhịn".

Mọi người nghe xong lời này, cũng không hiểu tại sao, nhưng đều nở nụ cười.

Kha Nghiêu hừ mũi một tiếng, ngồi thẳng dậy, Tuyết Phi Nhi hỏi: "Kha Nghiêu, không sao chứ?"

Kha Nghiêu cười cười nói: "Có thể có chuyện gì chứ? Yên tâm đi, ta sẽ không say đâu".

Tuyết Phi Nhi: "Vậy thì tốt rồi, giờ chúng ta lại uống tiếp".

Đỗ Văn Hạo sốt ruột, vội vàng nói: "Phi Nhi, Kha Nghiêu không thể uống nữa".

Tuyết Phi Nhi bĩu môi với Đỗ Văn Hạo, sau đó nói: "Người ta cũng không nói gì, sao ca ca ngươi lại đau lòng vậy?"

Lâm Thanh Đại: "Nói vậy cũng không đúng, huynh trưởng thương yêu muội muội của mình là đương nhiên chứ sao?"

Tuyết Phi Nhi liếc nhìn Kha Nghiêu, nói: "Thanh Đại tỷ tỷ nói không sai, vậy được rồi, lão gia đã không để cho ta uống cùng Kha Nghiêu, vậy thì không uống vậy".

Kha Nghiêu cũng không thuận theo, lắc la lắc lư đi đến trước mặt Tuyết Phi Nhi, khi đi ngang qua trước mặt Đỗ Văn Hạo, hai người liếc nhau một cái. Ánh mắt kia không giống với ngày thường, nhưng sau đó hai người đều nhanh chóng dời mắt đi.

Kha Nghiêu đi đến sau lưng Tuyết Phi Nhi, nói: "Mặc kệ hắn, hắn cũng không phải là thân ca ca của ta, chúng ta uống tiếp".

Liên Nhi sau khi nghe xong, không hiểu ý tứ trong đó, sợ Đỗ Văn Hạo nghe xong lời này sẽ không vui, cho nên vội vàng nói khẽ với Kha Nghiêu: "Kha Nghiêu, muội thật sự say rồi, muội nói vậy không sợ lão gia sẽ thương tâm hay sao?"

Liên Nhi cùng Tuyết Phi Nhi ngồi cùng một chỗ, Tuyết Phi Nhi cũng nghe thấy, nhân tiện nói: "Ta xem cũng chưa hẳn thế. Kha Nghiêu, hai người chúng ta uống rượu, uống rượu rồi mới có thể nói lời thật lòng!"

Kha Nghiêu cười khúc khích, cũng không biết là có say thật hay không. Giống như không nghe lời kia của Tuyết Phi Nhi, lại cạn chén với Tuyết Phi Nhi.

 Chương 435: Đàm phán.

Hai người uống xong, Tuyết Phi Nhi nói: "Kha Nghiêu, ngày thường lão gia đối với ngươi tốt nhất, hẳn là phải kính lão gia một ly?"

Chẳng biết tại sao thân thể Kha Nghiêu lung lay, Liên Nhi vội đỡ lấy nói: "Phi Nhi, đừng để cho Kha Nghiêu uống nữa, nàng thật sự say rồi".

Tuyết Phi Nhi cũng không để ý, dìu Kha Nghiêu đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo: "Lão gia, Kha Nghiêu đến mời rượu chàng này". Nói xong, nhìn Đỗ Văn Hạo cười quỷ dị, sau đó bỏ đi ngồi vào vị trí của mình.

Trái tim Kha Nghiêu đập thình thịch, nàng ngửi thấy mùi vị hôm đó, là cái tư vị của nam nhân, nàng có phần mê hoặc, một tay nâng chén, một tay đặt ở trên vai của Lâm Thanh Đại, vì không thể tự mình hành động nên nàng sai nha hoàn rót đầy rượu vào chén. Nàng hiểu rằng Đỗ Văn Hạo đang nhìn mình, nàng cũng không dam đối mặt, tất cả mọi người trong sân đang nhìn mình, nàng có phần chột dạ.

"Chúng ta uống rượu!" Kha Nghiêu cúi đầu nói.

Tuyết Phi Nhi buông lời trêu đùa: "Kha Nghiêu, từ lúc nào cả hai chữ ca ca cũng không chịu xưng hô?"

Bàng Vũ Cầm mỉm cười trừng mắt với Tuyết Phi Nhi, Tuyết Phi Nhi cũng chỉ cười cười.

Kha Nghiêu ha ha hai tiếng, cũng không nói gì, Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói: "Tâm ý của muội ta xin nhận, chén rượu này ta uống, muội không cần uống nữa". Nói xong, đang muốn uống thì đã thấy Kha Nghiêu ngửa đầu muốn uống. Hắn vội vàng giữ tay nàng lại, khoảng khắc này thời gian như đông đặc lại, đình chỉ hoạt động. Một lúc sau, Đỗ Văn Hạo mới buông ra, nói: "Nghe lời đi, không cho muội uống nữa, muội không được uống nữa".

Kha Nghiêu thấy nhìn tay của Đỗ Văn Hạo buông cổ tay mình ra, nhưng nhiệt độ nắm tay của hắn vẫn còn dư âm. Nàng ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, trong ánh mắt có oán giận, có yêu thương, còn có nhiều biểu cảm rất khó diễn đạt.

Đỗ Văn Hạo Đỗ vội ho một tiếng, Tuyết Phi Nhi liền nói: "Lão gia, hôm trước phu nhân còn nói Kha Nghiêu nhà chúng ta qua năm nay cũng là một đại cô nương rồi, chúng ta cũng đã trở về, chàng cũng nên nhanh chóng tìm cho Kha Nghiêu một gia đình nhà chồng môn đăng hộ đối".

Kha Nghiêu nghe xong lời này, chén ở trên tay rung một cái, toàn bộ rượu đổ vào áo bào của Đỗ Văn Hạo. Liên Nhi thấy vậy, oán trách: "Kha Nghiêu, muội xem kìa, sao lại đổ hết rượu lên áo bào của lão gia".

Kha Nghiêu lúc này mới kịp phản ứng, "a!" một tiếng, vội đặt chén xuống, lấy ra một chiếc khăn thơm lau cho Đỗ Văn Hạo, nhưng ngược lại càng lau càng luống cuống. Đỗ Văn Hạo vội giữ chặt tay Kha Nghiêu lại, khẽ mỉm cười, nói: "Được rồi. Mọi người ăn cơm tiếp đi, muội không nên uống rượu nữa, ta trở về phòng thay một bộ y phục khác".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ vì sao mà Kha Nghiêu lại thất thố như vậy, hôm nay Tuyết Phi Nhi thỉnh thoảng lại khiêu khích. Xem ra là đã nhìn ra điều gì đó, nếu không thì với tính cách vốn có của nàng, nàng không phải là loại nữ tử hay gây sự".

Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại đỡ Kha Nghiêu ngồi xuống, sau đó bảo mọi người tiếp tục ăn cơm, Liên Nhi đứng lên nói: "Lão gia, ta đi cùng với chàng". Nói xong liền đứng dậy.

Lâm Thanh Đại đột nhiên nói: "Tuy nói hôm nay là ngày thọ tinh của Kha Nghiêu, nhưng dù sao cũng chính là nàng làm bẩn y phục của ca ca. Liên Nhi, muội cứ ngồi ăn cơm, để cho Kha Nghiêu đi cùng lão gia là được rồi".

Bàng Vũ Cầm nói: "Điều này không thích hợp, hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu cơ mà?"

Lâm Thanh Đại nói: "Không có gì đáng ngại cả, cứ để cho bọn họ đi đi".

Kha Nghiêu cũng đứng dậy nói: "Vậy muội đi cùng, ca ca! Chúng ta đi thôi".

Đỗ Văn Hạo không ngờ rằng Kha Nghiêu sẽ nói như vậy, nghĩ thế nào cũng không ra, nhưng bản thân hắn lại không biết tại sao không hề mở miệng, cũng không có chờ Kha Nghiêu, tự mình rời bàn trước.

Rời khỏi tiền viện, Đỗ Văn Hạo bước nhanh qua một cái cổng vòm, sau đó đừng ở cổng vòm. Lúc này liền nghe thấy tiếng bước chân vọng từ xa tới gần, lúc tiếng bước chân tới trước cổng vòm, Đỗ Văn Hạo đưa một tay ôm lấy thân thể Kha Nghiêu, nhân thể hai người ôm chặt nhau cùng một chỗ.

Qua một hồi lâu, Đỗ Văn Hạo mới buông Kha Nghiêu ra, cúi đầu nhìn thấy vẻ mặt thẹn thùng của Kha Nghiêu đang nhìn mình, trong lòng ngứa ngáy, muốn cắn cái miệng nhỏ nhắn hồng nhuận kia, hương vị nhất định là vô cùng ngọt ngào.

"Nha đầu ngốc, muội trốn tránh ta làm gì?" Sau đó Đỗ Văn Hạo đưa Kha Nghiêu tiến đến sau một hòn non bộ, hai người tìm một chỗ ngồi, Đỗ Văn Hạo ôn nhu hỏi.

Kha Nghiêu cắn nhẹ môi một cái, cả nửa ngày cũng không nói gì.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy nôn nóng, hiểu rằng mọi người ở tiền viện đều đang chờ bọn họ, hẳn là rất nhanh sẽ sai người tới gọi, liền nói: "Đang hỏi muội đó".

Kha Nghiêu ngập ngừng nói: "Muội đâu có ý trốn tránh huynh, nhưng mà lại sợ huynh uống nhiều rượu rồi lại làm chuyện điên khùng".

Đỗ Văn Hạo nở nụ cười, nói: "Thật vậy ư? Vậy muội xem bây giờ ta có say không?"

Kha Nghiêu không dám nhìn, Đỗ Văn Hạo đưa hai tay nâng khuôn mặt của Kha Nghiêu, hai người lúc này chỉ các nhau một cái nắm tay của đưa bé, cả hai đều có thể cảm nhận được hơi thở phát ra từ đối phương, Kha Nghiêu nuốt một ngụm nước bọt, cúi mặt xuống, thấp giọng nói: "Không biết".

Đỗ Văn Hạo cũng nhịn không được nữa, đôi môi của hắn nhẹ nhàng đi xuống, ôm nhu hôn lên mắt của nàng. Trong nháy mắt, một loại cảm động ngọt ngào làn tràn khắp nội tâm Kha Nghiêu, khiến cho nàng có cảm giác muốn rơi lệ, cũng với động tác ôn nhu như vậy, Đỗ Văn Hạo hôn lên từng vị trí trên khuôn mặt của nàng.

Kha Nghiêu khẽ run rẩy, hai mắt nhắm lại, đến khi hắn hôn lên môi nàng thì một cảm giác ngọt ngào khiến cho nàng chấn động, đây là cảm giác gì? Vì sao trước kia nàng chưa có cảm nhận được như vậy?

"Không! Không nên như vậy! Ca, không nên như vậy!" Kha Nghiêu nhẹ giọng rên rỉ: "Huynh chỉ biết khi dễ muội, mỗi lần say, huynh lại nổi điên đùa giỡn ta, đến khi tỉnh lại không nhớ gì nữa".

Đỗ Văn Hạo đau lòng cầm tay của Kha Nghiêu đặt lên ngực mình, nói: "Sao lại không nhớ cơ chứ, chỉ là chính muội đã nói...Ài!"

Đúng lúc này, hai tỳ nữ cách đó không xa đang tiến tới, Đỗ Văn Hạo nhìn vậy, vội vàng đỡ Kha Nghiêu dậy, hai tỳ nữ tiến đến làm lễ: "Lão gia, phu nhân nói tất cả mọi người đều đang tập trung ở tiền viện, người xem giờ tiếp tục ăn uống hay là giải tán?"

Đỗ Văn Hạo nhìn Kha Nghiêu rồi nói: "Khó có dịp mọi người tụ tập lại cùng một chỗ", không cần phải kết thúc sớm như vậy. Tiếp tục ăn uống".

Hai tỳ nữ sau khi nghe xong đều cảm thấy cao hứng, đều khom người lui xuống.

Đỗ Văn Hạo lại kéo tay của Kha Nghiêu, lúc này Kha Nghiêu lại tránh né, tựa ở trên hiên cửa, quay đầu lại cười gượng: "Ca, đừng vì chuyện này mà khổ não, coi như chúng ta chưa từng phát sinh chuyện gì. Sau này cũng đừng vụng trộm thân mật cùng muội nữa, muội sẽ cảm thấy áy náy. Huynh yên tâm, gặp được người phù hợp thì muội sẽ tự mình gả ra ngoài, sẽ không ỷ lại mà ở cạnh huynh cả đời, bằng không mọi người sẽ khinh thường muội".

"Kha Nghiêu!"

Lúc này Kha Nghiêu đã xoay người chạy xuống đường hành lang, chạy tới phòng trước.

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo không hiểu là cái tư vị gì nữa, hắn chắp tay sau lưng trở lại phòng, lúc này thấy Kha Nghiêu đang cùng mọi người uống rượu. Tiếng cười vang lên như chuông bạc.

Đỗ Văn Hạo đang muốn ngồi xuống, người gác cổng gấp gáp chạy tới, khom người bẩm báo: "Lão gia, Phủ Doãn Khai Phong Thái Kinh Thái đại nhân đến chơi!"

Đầu Đỗ Văn Hạo nghĩ nhanh, tên đại gian thần này cuối cùng đã trở lại! Đàm phán với sứ thần Tây Hạ chính là sự tình rất quan trọng, cũng không còn cách nào khác nữa, hắn vỗ vai Bàng Vũ Cầm: "Các nàng cứ tiếp tục uống, ta có công vụ khẩn cấp cần xử lý, khả năng là thời gian sẽ không ngắn, mọi người đừng uống say, đặc biệt là Kha Nghiêu, sinh nhật vốn là việc vui, nhưng uống sau thì ngày hôm sau rất khó chịu".

Kha Nghiêu cười nói: "Không say thì mới gọi là khó chịu ấy. Ca, đừng lo lắng, ta không sao! Huynh nhanh đi đi! Phi Nhi, không phải tỷ muốn cùng ta đánh cuộc ai say phải nằm ở cống ngầm sao? Chúng ta đấu rượu, thế nào?"

"Được đó! Ai sợ ngươi chứ!"

"Không được!" Lâm Thanh Đại nói: "Hai người các ngươi điên rồi? Uống với nhau, muốn uống rượu cũng phải có phương pháp, các ngươi uống rượu rồi, còn chúng ta còn chưa được uống, đừng quá ích kỷ như vậy".

Kha Nghiêu nói: "Đúng đúng! Tỷ nói rất đúng! Nào! Không nên uống như vậy, chúng ta chơi tửu lệnh đi!"

Bàng Vũ Cầm vỗ tay nói: "Ý kiến này rất hay! Uống tửu lệnh, tướng công bận việc thì nhanh đi đi, nếu không sẽ không để cho Kha Nghiêu uống rượu".

Kha Nghiêu trừng mắt nói: "Khó mà làm được lắm, đêm nay không uống say, thì cái sinh nhật này không có ý nghĩa rồi. Ca, huynh nhanh đi đi, muội không sao, các nàng muốn chuốc cho ta say khướt sợ rằng chưa có bổn sự".

Đỗ Văn Hạo hắc hắc cười, sau đó dặn Anh Tử mấy câu cẩn thận chăm sóc cho nàng, sau đó mời nhanh chóng bước khỏi tiểu viện, đi vào chính đường.

Đỗ Văn Hạo thấy chỉ có một người là Thái Kinh, hơi ngạc nhiên, Thái Kinh tiến lên khom người thi lễ: "Ty chức tham kiến Đỗ tể chấp!"

"Ừm!" Đỗ Văn Hạo nhìn hai bên một chút, giảm thấp âm thanh nói: "Sứ thần Tây Hạ đâu?"

"Tại chỗ ở của ty chức".

"Được, vậy chúng ta đi thôi, Thái Hoàng Thái Hậu đã đồng ý cùng bọn họ thương lượng. Cũng trao quyền cho bổn quan phụ trách đàm phán".

"Thật tốt quá!" Thái Kinh vui vẻ nói: "Vừa rồi ty chức còn lo lắng, trong phủ thường xuyên có người đến người đi, lúc nào cũng lo lắng bị người ta phát hiện ra, cho nên muốn tìm một chỗ an toàn để sứ thần chuyển đến. Nhưng tìm mãi mà vẫn không tìm được chỗ phù hợp".

"Không cần tìm nữa, nói chuyện xong có thể cho hắn trở về".

"Đúng vậy, ty chức cũng không ngờ lại nhanh như vậy, hắc hắc".

Bởi vì muốn che dấu tai mắt người khác, lúc này Đỗ Văn Hạo không dùng kỵ mã, mà ngồi kiệu đi tới phủ đệ của Thái Kinh.

Thái Kinh an trí sứ thần bí mật ở trong một sương phòng bên cạnh phòng mình. Sau khi vào cửa gặp một lão nhân đứng trước cửa, hai tay sau lưng đang thất thần nhìn ra bên ngoài. Nghe thấy tiếng bước chân, lúc này mới xoay mặt lại.

Thái Kinh vội vàng giới thiệu với người nọ: "Mã đại nhân, vị này chính là tể chấp tân nhậm của Đại Tống ta, Tam Nha Đô Điểm Kiểm Đỗ Văn Hạo Đỗ đại nhân. Đỗ tể chấp, vị này chính là sứ thần bí mật của Tây Hạ Huệ Tông Đế phái tới, tên gọi là Thiện Lý Cống Mã (gọi tắt là Nguy Mã), là thân cận của Huệ Tông Đế".

Nguy Mã lập tức đánh giá Đỗ Văn Hạo, sau đó chắp tay nói: "Nguy Mã hữu lễ!"

Người này nói tiếng hán cũng không tệ lắm, Đỗ Văn Hạo cũng chắp tay hoàn lễ, ngồi xuống chiêc ghế bên cạnh, sau đó ra hiệu cho Nguy Mã cũng ngồi xuống".

Đỗ Văn Hạo nói: "Nguy đại nhân đại diện cho Huệ Tông Đế tới đây sao?"

"Đúng vậy!" Nguy Mã lấy từ trong lồng ngực ra một quyển trục màu vàng, hai tay dâng lên cho Đỗ Văn Hạo: "Đây là công văn giao quyền của Huệ Tông Đế".

Đỗ Văn Hạo tiếp nhận, tiến hành xem xét, đích thật là thánh chỉ của Tây Hạ quốc, nhìn qua dòng chữ và con dấu chỉ thấy: "Trao quyền cho Nguy Mã trao đối với trao đổi 'chuyện quan trọng của hai nước' ".

Thánh chỉ ghi một cách mơ hồ, nhưng như thế có thể thấy Huệ Tông Đế này hết sức cẩn thận.

Đỗ Văn Hạo trả thánh chỉ lại cho hắn, nói: "Nguy đại nhân trước tiên nói về ý kiến của các ngài đi".

"Được, ta sẽ đi thẳng vào vấn đề. Vào lúc này, đại quyền đều rơi vào tay của Lương thái hậu, Hoàng Thượng muốn mời Đại Tống hỗ trợ đoạt lại hoàng quyền, xong việc nhất định sẽ có hậu lễ đáp tạ".

"Ừm, cụ thể các người muốn chúng ta giúp như thế nào để Huệ Tông Đế có thể đoạt lại hoàng quyền?"

"Được biết rằng Lương thái hậu sắp đưa quân thị sát biên cảnh Tống - Hạ. Đến lúc đó người của chúng ta sẽ đem hành tung của nàng nói cho các ngài biết, các ngài phái một chi tinh binh lẻn vào bố trí mai phục, có thể ám sát nàng".

Đỗ Văn Hạo cười cười: "Lương thái hậu nhất định sẽ đề phòng điều này chứ? Bên người chỉ sợ có không ít hộ vệ tinh nhuệ, nếu muốn xâm nhập nội cảnh phục kích, nguy hiểm sẽ rất lớn".

"Điều này thì chắc chắn rồi, chúng ta cũng chỉ có thể cố gắng đạt được sự thành công, cho nên sẽ chọn thời co thích hợp nhất để thông báo với các ngài. Chỉ cần song phương hoàn thành được mục đích lần này, các ngài nguyện ý giúp chúng ta giết chết Lương thái hậu, đoạt lại hoàng quyền, về phần hành động cụ thể như thế nào thì sẽ tiến hành thương nghị một nữa. Như vậy được không?"

"Việc này ta đã được trao quyền toàn diện, đồng ý với các ngài liên hợp giết chết Lương thái hậu, giúp các ngài đoạt lại hoàng quyền. Điều kiện tiên quyết là, điều kiện trao đổi mà các ngài đưa ra phải làm chúng ta hài lòng".

"Thật tốt quá! Ta thay mặt cho hoàng đế bày tỏ cảm ơn. Về phần điều kiện trao đổi, ý tứ của hoàng đế nước ta là: Chỉ cần đoạt lại được hoàng quyền, Tây Hạ ta nguyện cùng quý quốc vĩnh viễn kết thành huynh đệ, không động đao binh. Đồng thời, nguyện ý đem tù binh lao dịch của quý phương bị chúng ta bắt ở Vĩnh Nhạc trả lại toàn bộ, tổng cộng hơn bốn vạn người. Nhưng mà, hi vọng quý quốc có thể trả lại Phương Hoành sơn trước kia đã cướp đoạt của nước ta. Tiếp đó dâng tặng Trại Bảo ở phía Nam Tứ Xuyên. Cũng đem Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương cắt cho bổn quốc. Cống lễ hàng năm vẫn như hiệp nghị trước kia của song phương mà chấp hành".

Đỗ Văn Hạo mở trừng đôi mắt, mặc dù hai nước đàm phán nhất định sẽ cò kè mặc cả, nhưng hắn không thể nào tưởng tượng được Tây Hạ lại ra một điều kiện buồn cười tới mức đó, giận quá hóa cười: "Ý của ngươi là muốn nói, chúng ta giúp hoàng đế các ngươi đoạt lại hoàng quyền, chúng ta còn phải cắt đất đền tiền cho các ngươi? Mà các ngươi chỉ cần thả tù binh của chúng ta?"

"Đúng như vậy!"

Đỗ Văn Hạo tận lực ngăn chặn lửa giận trong lòng, lựa chọn từ ngữ không quá kích động, chậm rãi nói: "Ngụy đại nhân, ngài không biết rằng điều kiện các ngài đưa ra quá mức hoang đường hay sao?"

"Tể chấp đại nhân, nếu như ngài có thể nghe ta giải thích tỷ mỉ sẽ không thấy hoang đường nữa".

"Được, ngài thử nói xem".

"Hoành Sơn, Lan Châu và phía Nam của Trại Bảo là do quý phương đã xâm chiếm của lãnh thổ nước ta, nên cần phải trả, điều này hẳn là không cần hoài nghi, điều này Đỗ tể chấp không có ý kiến gì chứ?"

Đỗ Văn Hạo không biết có chuyện này hay không, hắn quay đầu liếc mắt nhìn Thái Kinh. Trong ánh mắt tràn đầy nghi vấn. Thái Kinh chậm rãi gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: Quân Tống trước nay vẫn rất yếu, không ngờ lại có thể chiến được đất đai của Tây Hạ, thật sự là không thể nghĩ ra. Nhưng biểu hiện bên ngoài vẫn là không hề nhượng bộ: "Ngươi cứ nói tiếp đi".

"Quý phương xâm lấn quốc gia của ta. Vừa rồi ở trận chiến tại Vĩnh Nhạc thành đã thất bại, tù binh của quý phương bên ta là bốn vạn người. Hiện giờ dùng Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương để trao đổi, xem ra quý phương còn chiếm tiện nghi".

Đỗ Văn Hạo tức đến muốn nổ cả phổi, muốn điên lên rồi nhưng vẫn kìm nén, chậm rãi nói: "Chiến tranh chấm dứt, nên phóng thích tù binh một cách vô điều kiện. Đây là điều thiên kinh địa nghĩa, sao có thể dùng làm điều kiện trao đổi chứ?"

Nguy Mã ngạc nhiên nói: "Phóng thích vô điều kiện? Xin đại nhân không nên nói đùa như vậy".

"Ai nói đùa với ngươi chứ? Vốn là phải như vậy chứ sao".

Đỗ Văn Hạo dùng tư duy suy nghĩ thời hiện đại để áp dụng cho sự tình ở thời cổ, tù binh thời cổ đại chưa bao giờ được phóng thích vô điều kiện, bởi vì dân cư khan hiếm, tù binh thường được dùng làm nô lệ hoặc sung quân phục vụ chịu khổ dịch. Nhiều nhất là song phương trao đổi lẫn nhau. Cho nên Ngụy Mã đối với điều kiện phóng thích tù nhân vô điều kiện của Đỗ Văn Hạo, cảm thấy rất khó hiểu. Hắn lắc đầu nói: "Theo lời của đại nhân là không thể được, xin thứ cho bỉ quốc không thể tuân mệnh".

Thái Kinh cúi thấp người, thấp giọng nói: "Tể chấp đại nhân, bốn vùng đất Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương là không lớn, dùng để đổi về bốn vạn tù binh, tính ra cũng đáng giá".

Đỗ Văn Hạo vỗ mạnh lên tay vịn ghế: "ĐƯợc chỗ nào? Đất này không phải là hậu hoa viên nhà các ngươi, tất nhiên ngươi không thấy đau lòng tiếc rẻ! Nói cho các ngươi biết, muốn Đại Tống cắt đất bồi thường, muốn ta gật đầu thì trừ khi cắt đầu ta xuống".

Sở dĩ Đỗ Văn Hạo đối với việc cắt đất bồi thường mẫn cảm như vậy đó là do trong lịch sử cận đại Trung Quốc bị khuất nhục hành hạ, học lịch sử mà không biết làm sao để thay đổi lịch sử. Hiện tại bản thân hắn gặp phải yêu cầu như vậy, khiến cho hắn trở lại thời kỳ tám nước liên minh hạ thương hạ pháp chịu áp bức lăng nhục, trong nội tâm không nhịn được mà bừng bừng lửa giận.

Đỗ Văn Hạo đột nhiên nổi giận khiến cho Thái Kinh sợ hãi kêu lên một tiếng, vội vàng khom lưng liên tục nói đúng. Nguy Mã cũng không nghĩ rằng Đỗ Văn Hạo sẽ phản ứng như vậy, cái cổ nhịn không được mà rụt về phía sau.

Đỗ Văn Hạo mới nhớ là mình đang đàm phán, chuẩn bị tốt mới có lợi, lúc đàm phán thì phải khống chế tâm tình của mình, hắn nâng chén trà lên uống cạn một hơi, sau đó lau miệng, chắp tay nói: "Thật có lỗi, nói chuyện có phần hơi lớn tiếng, ngài nói tiếp đi".

"Ta...ta nói xong rồi". Ngụy Mã nói.

"Nói xong rồi?" Đỗ Văn Hạo lửa giận bốc muốn chảy đỉnh đầu, lạnh lùng nói: "Chúng ta giúp hoàng đế các ngươi giết chết Lương thái hậu đoạt lại hoàng quyền, chỉ để đổi về bốn vạn người? Hơn nữa còn phải cắt đất bồi thường, các ngươi thật là biết buôn bán!"

"Tể chấp đại nhân, chúng ta còn đáp ứng cùng quý quốc kết minh huynh đệ, vĩnh viễn không bao giờ động binh đao, đây không phải là kết quả mà quý quốc hi vọng hay sao?"

"Hắc hắc, các ngươi nghĩ rằng chúng ta sợ các ngươi, vừa nghe tới việc song phương bỏ việc binh đao, chúng ta nhất định là sẽ liên tục đáp ứng, đúng không?"

Nguy Mã không có trả lời, nhưng khóe miệng lại nở nụ cười. Hiển nhiên là có ý này. Trong mắt hắn thì đây là điều kiện ưu đãi tối đa của Tây Hạ, những kẻ chiến bại Đại Tống nhất định sẽ đáp ứng.

Hắn không thể tưởng tượng được rằng hắn đang đối mặt với một kẻ xuyên việt tới đây từ hiện đại, đối với lịch sử hơn một trăm năm khuất nhục căn giận đau đớn tới mức khắc cốt ghi tâm. Vốn đối với việc Đại Tống hằng năm phải tiến công thì đã rất bất bình rồi, giờ đây xuất binh hỗ trợ đoạt lại hoàng quyền, lại còn phải cắt đất bồi thường, đổi lại chỉ là được phóng thích từ binh cùng điều mà song phương đều mong muốn là hòa bình. Điều này đối với Đỗ Văn Hạo mà nói, không phải là đồng minh đàm phán, mà là một loại sỉ nhục.

Cho nên Đỗ Văn Hạo mới nổi giận, hắn đứng lên lạnh lùng nói: "Đủ rồi, trở về nói với hoàng đế bù nhìn của các ngươi một câu, ta tặng hắn câu này, nhớ cho kỹ".

"Nói cái gì?" Nguy Mã vô thức hỏi.

"Bảo rằng hắn chết đi".

Nguy Mã biến sắc, đứng dậy nói: "Tể chấp đại nhân, vì sao xuất lời càn rỡ?"

"Lời càn rỡ? Hắc hắc, đó là còn nhẹ đó, nói với cáí tên bù nhìn Vương Bát Đản đó của các ngươi rằng: Muốn đánh thì đánh! Đòi chúng ta cắt đất bồi thường để đối lấy hòa bình? Con mẹ nó chứ, đúng là xuân thu đại mộng! Phì!" Đỗ Văn Hạo hung hăng hung hăng hướng xuống mặt đất nhổ một ngụm, phất ống tay áo một cái, xiay người rời đi.

Nhưng Nguy Mã cũng không có tức giận, đoạt bước lên trước chắp tay nói: "Tể chấp đại nhân xin dừng bước".

Đỗ Văn Hạo ngang nhiên xoay người nói: "Ngươi toan tính thế nào?"

"Đại nhân, mọi việc đều có thể thương lượng, không nên nổi giận, đại nhân nếu cảm thấy điều kiện của chúng ta không thể chấp nhận thì có thể đưa ra điều kiện mà các ngài đồng ý. Nếu ta có thể quyết định thì sẽ quyết định luôn. Còn nếu ta không thể quyết định thì sẽ trở về bẩm báo hoàng thượng. Ta đến Đại Tống lần này có thật lòng muốn liên minh, xuất phát từ sự chân thành, tuyệt không có ý bất kính. Nếu như đắc tội với Đại tướng quân, kính xin bao dung, tha thứ!" Dứt lời lại cúi người hành lễ.

 Chương 436: Thế Cường

Đỗ Văn Hạo thoáng sửng sốt, trong lòng hắn thầm khen ngợi. Thảo nào Hoàng đế Tây Hạ phái ông ta tới đàm phán. Lão già này thực sự biết nhẫn nhịn. Ngay cả khi mình nhục mạ Hoàng đế của lão, lão vẫn có thể không tức giận, không đáp trả. Lão quả thực là một cao thủ trong đàm phán. Khi nghe những lời thành thật của lão, lửa giận trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng giảm xuống phân nửa. Hắn bất chở nghĩ tới việc đàm phán chính là một quá trình cò kè mặc cả. Ban đầu đối phương đưa ra điều kiện rất hà khắc cũng không có gì ngạc nhiên. Tiếp theo là tới hắn chính thức trả giá nên cũng không cần phải tức giận.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn ông ta một cái rồi mới chậm rãi quay lại, hắn vén áo bào ngồi xuống ghế nói: "Tốt lắm. Ta sẽ nêu lên điều kiện của chúng ta. Chúng ta sẽ không đưa ra một cái giá trên trời sau đó lại tiếp tục đàm phán với các ngươi. Chúng ta không có thời gian".

"Tại hạ xin rửa tay lắng nghe".

"Được. Điều kiện của chúng ta là chúng ta sẽ giúp Hoàng đế của các ngươi đoạt lại Hoàng quyền nhưng phải theo một phương thức an toàn. Để đổi lấy việc đó thì thứ nhất các ngươi không được tiếp tục xưng Đế. Đại Tống chúng ta sẽ sắc phong cho hắn làm Phiên Vương. Tây Hạ vẫn do hắn quản lý. Bổ nhiệm quan lại, quyền thu thuế, quản lý dân chúng vân vân. Tất cả được duy trì theo tình trạng hiện nay. Đại Tống không có bất kỳ can thiệp nào".

Đỗ Văn Hạo nói xong chờ Nguy Mã lên tiếng phản đối nhưng hắn không ngờ Nguy Mã vẫn ngồi yên lặng, lặng lẽ nhìn hắn như trước.

Đỗ Văn Hạo không biết rằng trước khi Tây Hạ xưng Đế vốn chịu xự quản lý của triều Tống, tiếp nhận sắc phong của triều Tống. Dù sau này Tây Hạ xưng Đế nhưng vẫn tiếp nhận sắc phong của Đại Tống, hàng năm vẫn tiến cống Đại Tống. Đương nhiên đổi lấy việc đó là "Ban thưởng hàng năm" càng nhiều. Đối với Hoàng đế Tây Hạ mà nói, có xưng đế hay không cũng chẳng quan trọng. Hoàng đế là danh hiệu tối cao nhất của người cai trị đối với người Hán, bọn họ đương nhiên không quá quan trọng việc đó. Bọn họ chỉ cần bản thân mình vẫn đứng đầu Tây Hạ là được. Từ Hoàng đế chuyển thành Phiên Vương mà có thể đổi lấy sự tiến cống hàng năm với số lượng lớn thì đối với bọn họ cũng đã quá ưu thế rồi. Vì vậy Nguy Mã có bất kỳ phản ứng nào với điều kiện của Đỗ Văn Hạo mới là chuyện lạ. Đương nhiên bọn họ sẵn sàng đồng ý với điều kiện của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thầm kinh ngạc nhưng hắn vẫn nói tiếp: "Thứ hai, quân đội của các ngươi, ngoại trừ một vạn quân của đội bảo vệ Hoàng gia, tất cả quân đội còn lại phải tập trung ở biên giới với Đại Tống, do Đại Tống chỉ huy. Quân đội Đại Tống vào đóng quân ở Tây Hạ, có quyền sử dụng Sơn mã đan của Tây Hạ và các phương tiện quân sự khác. Vì bảo vệ Tây Hạ, quân đội Đại Tống có quyền đóng quân ở bất kỳ địa điểm nào trong Tây Hạ, đảm nhiệm việc phòng thủ, tất nhiên là ngoại trừ Hoàng cung".

Điều kiện này cuối cùng cũng khiến gương mặt tươi cười của Nguy Mã thoáng biến đổi nhưng ông ta vẫn không nói câu nào, yên lặng lắng nghe.

Đỗ Văn Hạo lại thầm than thở: Lão già này quả thực rất lợi hại. Hắn nói tiếp: "Thứ ba. Từ nay về sau Tây Hạ không được tự do ký kết hiệp định với Đại Liêu hay bất kỳ quốc gia nào khác. Việc đối ngoại của quốc gia chỉ có thể do Đại Tống tiến hành. Hay nói một cách khác những chuyện có liên quan tới danh nghĩa quốc gia chỉ có thể do Đại Tống thực hiện. Tây Hạ không thể tham sự. Tốt lắm. Đây chính là ba điều kiện của chúng ta".

Dừng lại một chút rồi Đỗ Văn Hạo lại bổ sung: "Nói một cách đợn giản. Từ bây giờ Tây Hạ trở thành thuộc quốc của Đại Tống. Quyền quân sự, ngoại giao do Đại Tống phụ trách. Những quyền lực còn lại vẫn do Phiên Vương Tây Hạ các ngươi quản lý. Đại Tống sẽ không can thiệp. Tiền thuế thu được trong dân chúng cũng không phải giao nộp một phân nào cho triều đình. Hiểu chưa?'

Nguy Mã nuốt nước bọt một tiếng, cười gượng nói: "Những điều Tể Chấp đại nhân nói tại hạ đã nghe rõ. Đối với điều kiện thứ nhất tại hạ đã được Hoàng đế trao quyền nên có thể đồng ý. Đối với điều kiện thứ ba của ngài, tại hạ cần phải quay về bẩm báo với Hoàng thượng. Bản thân tại hạ có thể nói điều kiện này không có vấn đề gì lớn. Nhưng đối với điều kiện thứ hai của ngài: Biên chế lại quân đội Tây Hạ, quân đội Đại Tống tiến vào đóng ở Tây Hạ. Điều kiện này quá kà khắc, chúng ta không thể đồng ý".

Kết quả này hoàn toàn nằm trong dự tính của Đỗ Văn Hạo. Đối với điều kiện thứ nhất, trước kia bọn họ đã từng tiếp nhân hiển nhiên không có vấn đề gì. Điều kiện thứ ba về vấn đề ngoại giao. Đây chính là cái gọi là "nhược quốc không ngoại giao". Ở thời cổ đại, giao thông không phát triển, cũng chỉ có quan hệ với các quốc gia lân cận mà thôi. Trong khi đó lân cận với Tây Hạ chính là Đại Liêu và Thổ Phiên. Công việc ngoại giao vô cùng hạn hẹp. Hơn nữa người cổ đại cũng không quá chú tâm tới quyền ngoại giao độc lập.

Điều bọn họ quan tâm nhất chính là lợi ích thực tế. Dù điều này là một cái giá rất lớn nhưng so với Hoàng quyền còn đáng giá hơn nhiều nên cũng có thể miễn cưỡng chấp nhận. Điều kiện thứ ba là quyền quân sự. Không có quân sự, Hoàng quyền không thể đảm bảo. Chưa tới con đường cùng, bất kỳ ai cũng không đồng ý với điều kiện này.

Trong khi đó Tây Hạ còn lâu mới bước vào đường cùng. Hoàng đế Huệ Tông cũng hiểu rõ rằng không có quân đội Hoàng quyền có hắn dù có phục hồi thì sớm muộn cũng mất.

Thế nhưng đối với Đỗ Văn Hạo mà nói. Điều kiện thứ nhất và điều kiện thứ ba chỉ là hư. Điều kiện thứ hai mới là thực. Đây là điều kiện quan trọng nhất của Đỗ Văn Hạo. Dù đã nghĩ tới kết quả này nhưng hắn vẫn khá thất vọng, hắn cười nói: "Các người không bẩm báo lên Hoàng thượng của mình sao đã biết hắn sẽ không đồng ý?"

"Không cần phải bẩm báo. Tại hạ biết rõ Hoàng thượng có thể chấp nhận những điều kiện nào".

"Ồ?" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nếu đã như vậy trong tay Nguy đại nhân có quân bài tẩy của mình sao? Vậy không nên hao tổn tâm trí nữa, hãy xuất bài ra đi để xem chúng ta có thể tiếp nhận hay không. Ngài nên biết phế bỏ Lương Thái hậu, đoạt lại Hoàng quyền là chuyện rất cấp bách. Hãy coi chừng đêm dài lắm mộng".

"Đúng. Đại nhân nói không sai. Hoàng thượng tại hạ cũng lo lắng như thế nên muốn lần đàm phán thứ nhất đạt được ngay hiệp định, không tốn nhiều thời gian quanh co. Hãy tận dụng lần đàm phán này để đạt được điều kiện hai bên có thể chấp nhận được".

"Vậy hãy lật bài đi".

"Ha ha. Kỳ thật tại hạ không có lá bài nào. Điều kiện thứ nhất và thứ ba của đại nhân chúng ta hoàn toàn đồng ý. Điều kiện thứ hai của đại nhân chúng ta rất khó chấp nhận. Đại nhân có thể đổi lại một điều kiện khác không?"

"Vậy ngài hãy nói xem điều kiện nào ngài mới đồng ý?"

Đỗ Văn Hạo không ngờ thoáng cái con át chủ bài đã lộ ra. Bây giờ bọn họ đang đi cầu người khác. Người cần sôt ruột chính là bọn họ. Hắn phản tận dụng khả năng này thu hoạch được lợi ích lớn nhất vì vậy Đỗ Văn Hạo đã đá quả bóng sang phía đối phương để đối phương xuất hết bài.

Nguy Mã suy nghĩ một lát rồi chắp tay nói: "Thế này đi tiền cống hàng năm của Đại Tống cho Tây Hạ giảm đi một nửa, được không?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tiền cống hàng năm sao? Ngài không nói chuyện này ta vẫn nói về chuyện này. Ngài cảm thấy hàng năm Đại Tống chúng ta phải ban tiền tiến cống là công bằng sao?"

"Đó là của Đại Tống ban cho Tây Hạ chúng ta".

"Ta trịnh trọng nói cho ngài biết, hy vọng ngài có thể chuyển lời tới Huệ Tông đế của ngài sau này Đại Tống của ta sẽ không trả tiền tiếng cống hàng năm nữa. Chúng ta muốn xoá bỏ quy định này bởi vì đây là một điều ước không công bằng".

"Không công bằng ư? Tại sao?"

"Tại sao? Ngài còn hỏi tại sao ư? Ha ha. Hai bên đều muốn hoà bình vậy dựa vào cái gì chúng ta phải trả tiền cống hàng năm để đổi lấy hoàn bình? Có phải các ngài nghĩ rằng chúng ta sợ các ngài sao?"

Nguy Mã bình tĩnh hỏi: "Tể Chấp đại nhân. Thế này đi, chúng ta hãy cùng thống nhất một số điều kiện. Lúc trước chúng ta đã nhất trí quý quốc đống ý xuất binh giúp Hoàg đế tại hạ giành lại Hoàng quyền. Hai bên sẽ kết nghĩa huynh đệ, vĩnh viễn không giao chiến với nhau".

"Ngưng chiến duy trì hòa bình là nguyện vọng của hai bên, không thể dùng làm điều kiện trao đổi".

Nguy Mã gượng cười nói: "Được, tại hạ đồng ý với điều kiện của Tế Chấp đại nhân, hai bên đạt được kết quả cuối cùng. Chúng ta sẽ trả lại quý quốc bốn vạn tù binh, đổi lại quý quốc trả lại Trại Bảo ở nam Lan Châu và Hoành Sơn đã xâm chiếm của chúng ta. Điều kiện này có được không?'

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Không được. Tù binh phải phóng thích không điều kiện. Nếu hai bên đã kết huynh đệ, không thể giam giữ bất kỳ ai. Đương nhiên đây chính là kết quả của việc kết huynh đệ. Các ngài đương nhiên phải trả lại chúng ta bốn vạn tù binh vô điều kiện".

Nguy Mã cười gượng nói: "Từ xưa tới nay không có chuyện trao trả tù binh vô điều kiện".

"Đến thời ta thì có" Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Ngược lại nếu như chúng ta bắt được tù binh của các ngài. Tơi khi hai bên kết huynh đệ xong, chúng ta cũng sẽ thả tù binh của các ngài vô điều kiện".

"Tể Chấp đại nhân, trong tác chiến trước kia của quý quốc với Tây Hạ chúng ta chưa từng có chuyện thẠtù binh vô điều kiện".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy thì ta sẽ cho người thống kê số tù binh của các ngài bị chúng ta bắt được, hai bên sẽ tiến hành trao đổi".

"Thế nhưng hình như chúng ta bắt được tù binh nhiều hơn quý quốc, như vậy chúng ta thiệt thòi rất nhiều".

"Thiệt thòi gì mà thiệt thòi? Một khi hai bên đã bãi binh, tù binh phải được thả ra vô điều kiện. Đây không phải là cuộc mua bán mà phải mặc cả".

Quả thực Nguy Mã dở khóc dở cười. Ông ta phát hiện ra muốn thuyết phục Đỗ Văn Hạo về điều kiện phóng thích tù binh rất khó khăn trong khi đó luc snày ông ta muốn nhanh chóng đạt được hiệp định kết đồng minh. Vấn đề tù binh không thoả thuận được, chỉ có thể dùng biện pháp khác. Nguy Mã nói: "Vậy vấn đề này chúng ta không nói nữa. Chúng ta hãy đàm phán vấn đề khác...".

"Không" Đỗ Văn Hạo thản nhiên nói: "Nếu muốn kết huynh đệ, nhất định phải trả lại tù binh vô điều kiện. Nếu không coi như chúng ta chưa từng thương lượng bất kỳ điều gì".

Rốt cuộc Nguy Mã cũng xa sầm mặt: "Nếu đại nhân đã nói như vậy khi hai bên đã ký kết đồng minh, quý quốc có trả lại phần lãnh thổ của chúng ta đã bị quý quốc chiếm hay không?"

Đỗ Văn Hạo liền nhớ tới lúc Trung Quốc và Liên Xô ký kết đồng minh. Lúc ấy Liên Xô cho rằng Trung Quốc phải dựa vào mình nên không chịu trả lại Trung Quốc phần lãnh thổ của Trung Quốc bị Sa Hoàng chiếm đoạt trước đó. Cuối cùng hai bên vẫn lý kết đồng minh nhưng Liên Xô nhất định không trả lại phần lãnh thổ đã chiếm trước đây. Bây giờ hắn quyết định cũng dựa theo cách làm của thế mạnh như vậy vì đối phương là người cầu cứu mình.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Đât đai không giống như người. Đất đai người nào chiếm thì là của người đó. Tù binh trong chiến tranh bị các ngài bắt giữ là tướng sĩ của Đại Tống vậy nhất định phải trả lại cho quân ta".

"Tể Chấp đại nhân nói vậy không phải cưỡng từ đoạt lý sao?"

"Cưỡng từ đoạt lý sao? Ha ha, ta muốn hỏi Nguy đại nhân mấy vấn đề, được không?"

"Xin mời Tể Chấp đại nhân".

"Xin hỏi Tây Hạ các ngài lập quốc khi nào?"

"Cảnh Tông Hoàng đế lên ngôi năm Hiển Đạo, cũng là năm Bảo Nguyên của Đại Tống".

"Vậy ta xin hỏi trước đây Tây Hạ là đất đai của ai?"

"Lý thị Đảng Hạng".

"Bọn họ tiếp nhận sắc phong của ai?'

"Đại Liêu và Đại Tống".

Đỗ Văn Hạo vỗ đùi nói: "Hay. Lại nói tiếp đất đai của cả Tây Hạ các ngài là của Đại Tống, vậy có cần phải trả lại không?"

"Điều này không đúng. Khi ấy Đảng Hạng chỉ kết đồng minh với Đại Tống, tiếp nhận sắc phong mà thôi. Đại Tống không quản lý Tây Hạ".

Đỗ Văn Hạo cũng không biết nhiều lắm về thời kỳ lịch sử này nên cũng không biết ông ta nói có phải sự thật hay không vì vậy hắn tiếp tục vòng vo: "Thử hỏi chẳng lẽ từ khi Tây Hạ các ngài lập nước tới nay có từng chiếm đất của Đại Tống không? Đã từng xâm chiếm lãnh thổ của người khác chưa?"

Nguy Mã thoáng sửng sốt. Tây Hạ đã từng động binh đao với người Hồi Hột và chiếm một phần lớn lãnh thổ. Khi xảy ra chiến tranh với Đại Tống cũng đã từng chiếm đất đai của Đại Tống và cũng bị Đại Tống chiếm đất đai. Thật ra trong lãnh thổ của hai bên đều có phần đất chiếm lãnh của đối phương. Điều này là không thể tránh khỏi. Nếu như trong đàm phán bình thường nhất định ông ta sẽ chậm rãi quấy rối tranh cãi nhưng bây giờ ông ta có việc cầu người. Ông ta không thể làm thế chọc giận đối phương gây ra tác hại ngược lại.

Bây giờ ông ta muốn nhanh chóng liên kết đồng minh, lợi dụng lực lượng của Đại Tống đoạt lại Hoàng quyền. Đó chính là điều quan trọng nhất. Những lãnh thổ đã chiếm của đối phương cũng không muốn trả lại vậy càng không thể yêu cầu đối phương cắt trả lại đất đai. Nguy Mã cũng không muốn nhắc lại chuyện Đại Tống cắt bốn khu vực Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương nữa, ông ta hậm hực nói: "Điều này không phải là vấn đề thương thảo".

"Đương nhiên là một vấn đề" Đỗ Văn Hạo thầm đắc ý nhưng sắc mặt hắn lại lộ ra vẻ tức giận: "Nguy đại nhân, đàm phán phải xuất phát từ thành tâm. Không thể nói với nhau bằng miệng, cần phải có hành động thực tiễn mới được. Không nên nói những điều không tồn tại. Hãy nói tới những điều thật sự. Điều kiện đối với hai bên phải công bằng".

Nguy Mã thở dài nói: "Vậy theo như Nguy Mã đại nhân như thế nào mới gọi là điều kiện công bằng?"

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng muốn vòng vo nữa. Hắn cũng hiểu bọn họ không chịu chấp nhận điều kiện thay đổi quân đội Tây Hạ nên nói: "Được. Ta thấy ngài là một người kiên quyết, nói thẳng thực. Bây giờ ta thay đổi điều kiện một chút. Các ngài chỉ cần đồng ý với mấy điều kiện này của chúng ta. Trong mấy điều kiện này, không thể sửa đổi bất kỳ điều kiện nào. Đồng ý thì đồng ý, không đồng ý thì thôi".

"Được, xin mời Tế Chấp đại nhân cứ nói".

Điều kiện để chúng ta xuất binh giết chết Lương Thái hậu, đoạt lại Hoàng quyền cho các ngài như sau. Thứ nhất, thả toàn bộ tù binh của chúng ta vô điều kiện. Thứ hai huỷ bỏ tiền tiến cống. Thứ ba từ bỏ xưng đế. Đại Tống chúng ta sắc phong làm Tây Hạ Vương. Tây Hạ vẫn do người Tây Hạ quản lý. Thứ tư phủ Tuyên Hoá, vùng đất phía nam Lương Châu cắt lại cho Đại Tống chúng ta".

Nguy Mã nghe mấy điều kiện trước thì liên tục gật đầu sau khi nghe điều kiện cuối cùng thì thoáng sửng sốt, cười gượng nói: "Đại nhân nói thật hay nói giỡn vậy? Vùng đất đó là một trong những nơi trù phú nhất Tây Hạ, sao có thể cắt nhường lại đây? Những điều kiện khác đều dễ dàng nhưng điều kiện cuối này...ha ha rất khó tuân theo. Hay là đại nhân hãy đổi lại điều kiện khác đi nha".

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: Ta đã nói rồi. Mấy điều kiện này không thể sửa lại bất kỳ điều kiện nào. Đồng ý thì đồng ý, không đồng ý thì thôi. Các ngài không chịu cắt vùng đất này cho chúng ta, vậy cũng không sao. Dù sao sau này quân đội Đại Tống chúng ta cũng đoạt lại mấy vùng đất này. Các ngài không tin thì cứ chờ xem. Cáo từ!"

"Đại nhân! Có chuyện gì hãy từ từ thương lượng".

Đỗ Văn Hạo đã nghĩ rất kỹ. Đây chính là cơ hội ngàn năm một thuở để đoạt lấy trường nuôi ngựa Sơn Đan. Hắn muốn thành lập một đội quân kỵ binh thì nhất định phải trông cậy vào trường nuôi ngựa lớn thứ hai thế giới này. Điều kiện này nhất định không thể buông tha cho dù có thể buông tha hai điều kiện đầu tiên cũng được. Huống chi ba điều kiện đầu bọn họ đã đồng ý, chỉ coi như là điều kiện phụ vào vì vậy Đỗ Văn Hạo không muốn bàn tiếp, hắn không để ý tới Nguy Mã, quay lưng rời đi.

Thái Kinh vội vàng đuổi theo. Hắn cũng không dám nói lung tung điều gì, chỉ tiễn chân Đỗ Văn Hạo ra cửa. Trước khi lên kiệu Đỗ Văn Hạo dặn dò Thái Kinh chăm sóc vị sứ thần Tây Hạ này rồi lên kiệu về Ngũ Vị đường.

 Chương 437: Vạn sự khởi đầu nan

Khi quay về Ngũ Vị đường, Đỗ Văn Hạo biết Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi cùng uống rượu, cả hai đều được đưa về phòng ngủ. Chúng nữ còn lại cũng say rượu, ai nấy cũng đều quay về phòng mình. Lúc này Đỗ Văn Hạo mới thở phào nhẹ nhõm.

Sáng sớm ngày hôm say Thái Kinh tới thăm hỏi Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo đoán chừng việc này có liên quan tới sứ giả Tây Hạ nên hắn không dám chậm trễ nhanh chóng ra tiếp Thái Kinh.

Quả nhiên Thái Kinh tươi cười nói sứ thần Tây Hạ muốn gặp lại Đỗ Văn Hạo tiếp tục đàm phán. Ông ta hy vọng Đỗ Tể Chấp có thể thay đổi điều kiện cắt đất vùng trường nuôi ngựa Sơn Đan. Đỗ Văn Hạo nói với Thái Kinh là không có điều kiện này không đàm phán.

Thái Kinh thấy thái độ của Đỗ Văn Hạo không giống với việc phô trương thanh thế nên ông ta cũng hiểu Đỗ Văn Hạo coi trọng trường nuôi ngựa này thì đồng ý quay về chuyển lời.

Dau khi Thái Kinh ra về, Đỗ Văn Hạo mang theo đội hộ vệ vào Hoàng cung, bẩm báo tình hình đàm phán với Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Thực ra Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao cũng không biết nên đặt điều kiện gì nhưng sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói nàng cảm thấy ba điều kiện đầu đã rất có lợi, cho dù không có trường nuôi ngựa cũng có thể đồng ý. Dù sao có thể hạ bệ Lương Thái hậu đối với Đại Tống vẫn là một chuyện tốt nhưng nàng thấy Đỗ Văn Hạo rất coi trọng trường nuôi ngựa nên lời nói ra tới miệng mà vẫn không dám nói ra, chỉ mỉm cười nói chuyện này do Đỗ Văn Hạo quyết định.

Cao Thao Thao nói với Đỗ Văn Hạo là nàng đã hạ chỉ trong cả nước, chiêu mộ rộng rãi những người thợ giỏi tay nghề trong các lĩnh vực để Đỗ Văn Hạo lựa chọn, thành lập cơ sở nghiên cứu khoa học do Đỗ Văn Hạo định ra làm hắn rất vui mừng.

Tiếp đó Đỗ Văn Hạo rời khỏi Hoàng cung tới bộ công xem xét thành lập cục an toàn quốc gia và quân đội đặc chủng.

Bộ công đã theo yêu cầu của Cao Thao Thao tính toán hai nơi dùng để thành lập hai cơ quan đó. Cục an toàn quốc gia đương nhiên đặt trong kinh thành, ở ngay phía sau Hoàng cung, cách nhà Đỗ Văn Hạo không xa lắm, rất thuận tiện cho hắn kịp thời thu nhận được thông tin. Quân đội đặc chủng cần phải huấn luyện nên được thiết lập ở một khe núi bí mật bên ngoài thành. Đỗ Văn Hạo dẫn theo quan viên bộ công tới quan sát hai nơi đó. Hắn cảm thấy việc thực hiện rất tốt, rất hài lòng. Dù sao đây chính là việc Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao muốn làm nên bộ công đương nhiên phải lựa chọn những nơi tốt nhất.

Đỗ Văn Hạo mời tất cả các quan viên bộ công tham gia thực hiện công việc. Hắn nói yêu cầu của bản thân mình, bộ công phụ trách việc sắp đặt quan viên và tiến hành thiết kế.

Bận rộn tới tận giữa trưa, Đỗ Văn Hạo ăn vội cơm trưa sau đó hắn triệu tập các quan chỉ huy cao cấp của tam nha. Cuộc họp có hai chủ đề. Một chủ đề là làm thế nào tăng cường huấn luyện quân sự, thay đổi lại việc chuẩn bị chiến đấu đã trở nên xao nhãng. Vấn đề thứ hai là thành lập quân đội đặc chủng.

Những quan quân chỉ huy này đều là tâm phúc của Đỗ Văn Hạo nên đương nhiên trước mặt Đỗ Văn Hạo cũng không giấu giếm gì cả. Ai cũng nói việc xao nhãng huấn luyện quân đội, cũng cảm thấy sự cần thiết phải lập lại các hoạt động huấn luyện quy mô lớn nhưng tất cả chỉ e việc quân đã bị bỏ quên khá lâu, các tướng sĩ nhất thời còn chưa quen.

Việc Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao ban chiếu huỷ bỏ chế độ Hồi dịch (quân đội tham gia buôn bán) của quân đội đã lan truyền khắp nơi. Đỗ Văn Hạo nói với mọi người phải lấy điều đó làm cơ sở. Tất cả hoạt động của quân đội phải lấy việc huấn luyện làm trọng. Tài liệu huấn luyện quân sự thì dùng "Võ Kinh tổng yếu" do Tống Nhân Tông biên soạn làm tiêu chuẩn. Thực hiện chế độ thưởng phạt, cũng sơ bộ định ra trước lập thu phải tiến hành diễn tập quân sự của cấm quân kinh thành. Tới khi đó sẽ căn cứ vào kết quả diễn tập, tiến hành thưởng phạt, thay đổi tất cả các chỉ huy bất tài.

Những quan quân này đều là tâm phúc của Đỗ Văn Hạo nên ai cũng khom người nhận lệnh, trong lòng thầm quyết tâm muốn huấn luyện quân đội thật tốt. Có viên quan quân mặt dầy hỏi Đỗ Văn Hạo là diễn tập quân sự ở những khoa mục nào. Đỗ Văn Hạo chỉ nói một câu là huấn luyện quân đội chủ yếu trong Võ Kinh tổng yếu. Diễn tập quân sự đương nhiên sẽ không vượt quá phạm vi đó. Nhưng tột cùng là diễn tập những khoa mục nào thì đương nhiên khi đó hắn sự tự mình quyết định.

Nội dung của Võ Kinh tổng yếu hết sức phong phú. Thời gian từ giờ tới khi lập thu chỉ còn hơn một tháng, các quan quân đều hết sức khẩn trương. Ai cũng biết Đỗ Văn Hạo hành xử nhân hậu. Nhưng trong việc cải cách quân sự này việc giết gà doạ khỉ là hoàn toàn có thể xảy ra. Ai nấy cũng chỉ hy vọng bản thân mình không trở thành vật tế thần đáng thương.

Tiếp theo Đỗ Văn Hạo nói chuyện mình muốn thành lập một đội quân đặc chủng với với các quan quân, hắn cũng nói sơ qua công dụng của đội quân đặc chủng, hạ lệnh cho tam nha phụ trách bí mật tuyển lựa nhân sự, lập tức phát công văn tới các nơi đóng quân trong cả nước, đặc biệt là lục lộ Thiểm Tây nơi tiền tuyến, phái tinh binh tới kinh thành tập trung chờ chọn lựa.

Điều kiện của việc chọn lựa thành viên đội quân đặc chủng là: Tuổi từ mười tám tới ba mươi, thành thạo công phu đao kiếm, có thể nâng được cung cứng tám đấu, có thể chịu được việc hành quân đường dài. Đặc biệt ưu tiên chọn người đã kinh qua chiến trận, lập chiến công.

Triều Tống đã nhiều lần tiến hành lựa chọn Cấm quân. Cấm quân chia làm ba loại: Thượng, trung và hạ đẳng. Những người không lọt vào tam đẳng đó thì xếp vào Sương quân. Tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn khi ấy là thân hình cao. Yêu cầu của "Thiên Vũ đệ nhất quân" Cấm quân khi đó đã lên tới một mét tám, ngoài ra lực bắn cung có thể tới chín đấu chính là người thượng đẳng. Một khi được xếp vào Cấm quân thượng đẳng, không chỉ có thể ở dưới chân Thiên Tử làm rạng rỡ tổ tổng, ngày thường kiêu căng tự mãn. Đặc biệt chế độ đãi ngộ, lương bổng và các loại đãi ngộ khác cao hơn Cấm quân khác vì vậy các địa phương tham gia tuyển chọn Cấm quân rất nhiệt tình.

Điều kiện Đỗ Văn Hạo đặt ra cho lần tuyển chọn lần nay lại không quá giống với các lần tuyển chọn Cấm quân thượng đẳng. Hắn không có yêu cầu với thân hình cao lớn. Yêu cầu với lực bắn cung cũng chỉ ở mức trung bình nhưng yêu cầu phải chịu đựng được hành quân đường dài. Một điều kiện ưu tiên khác đó chính là đã tham gia đánh trận, lập công đặc biệt.

Việc tác chiến của quân đội đặc chủng có yêu cầu rất cao với tố chất tâm lý cùng kỹ năng quân sự thực chiến. Hai điều này rất khó đạt được trong huấn luyện. Việc tham gia thực chiến đối với hai hạng mục này không thể thay thế được vì vậy Đỗ Văn Hạo mới chú trọng tới điều kiện đó. Hắn cũng muốn tận dụng lựa chọn trong những tướng sĩ đã tham gia tác chiến với Tây Hạ, chỉ có những tướng sĩ đã trải qua khói lửa chiến tranh mới là những tướng sĩ tốt nhất.

Quyền chỉ huy quân sự đối với quân đội đặc chủng này đương nhiên phải nằm trong tay hắn nhưng việc huấn luyện thường ngày thì phải giao cho một người tâm phúc. Đương nhiên đối tượng được tuyển là Lý Phố đã trung thành và tận tuỵ đi theo hắn. Đỗ Văn Hạo đặt tên cho đội quân này là "Chiến đội Rắn hổ mang'. Hắn hy vọng đội quân này có thể lặng yên tiến tới gần kẻ thù không một tiếng động như rắn hổ mang, bất thình lình giáng cho kẻ thù một đòn trí mạng. Chính Đỗ Văn Hạo là Chỉ huy sứ, Lý Phố là phó chỉ huy sứ. Việc chọn lựa thành viên cụ thể sẽ do Lý Phố phụ trách.

Sau khi sắp đặt xong mọi công việc liên quan, Đỗ Văn Hạo lại tới Tư Thiện đường ở Hoàng cung kiểm tra việc học tập của Hoàng thượng. Lần trước đã kiểm tra về Tứ thư ngũ kinh, kết quả không tệ lắm. Xem ra Hoàng thượng không còn lơi là việc học tập như trước kia.

Sau khi mọi việc xong xuôi thì trời đã tối.

Đỗ Văn Hạo đang định về nhà thì Thái Kinh tới nói cho Đỗ Văn Hạo biết một tin tức nửa vui nửa buồn. Đó là sau khi Thái Kinh truyền đạt lại lời nói của Đỗ Văn Hạo, Sứ thần bí mật Nguy Mã của Tây Hạ biết đây chính là điều kiện kiên quyết nhất của Đại Tống.

Nhưng bởi vì có liên quan tới vấn đề cắt đất, đặc biệt là khu vực tài nguyên chiến lược quân sự trường nuôi ngựa Sơn Đan nên Nguy Mã không thể làm chủ được. Ông ta đã quyết định quay về Tây Hạ, bẩm báo với Hoàng thượng của mình. Đợi sau khi Tây Hạ Huệ Tông quyết định thì sẽ tiếp tục đàm phán.

Đỗ Văn Hạo cũng không biết Tây Hạ Huệ Tông có đồng ý với điều kiện của hắn hay không. Nếu đổi là chính hắn thì hắn cũng cho rằng điều kiện đó rất hà khắc. Thế nhưng Đỗ Văn Hạo tin tưởng rằng: Lần trước Tây Hạ Huệ Tông đã thất bại trong việc trong ứng ngoại hợp, chính hắn đã chuẩn bị dâng phần đất phía nam hành lang Hà Tây cho Đại Tống để đạt được mục đích Đại Tống trợ giúp đoạt lại Hoàng quyền. Nhưng lần này không tính trường nuôi ngựa Sơn Đan thì diện tích nhỏ hơn rất nhiều. Điều kiện lần này tuy có hà khắc hơn lần trước nhưng vì đã có căn bản lần trước nên Đỗ Văn Hạo hy vọng có thể thành công.

Đây chính là một canh bạc. Điều làm Đỗ Văn Hạo lo lắng chính là điều kiện lần này quá cao, có thể bức bách Tây Hạ Huệ Tông tìm sự trợ giúp của Đại Liêu, kết đồng minh với Đại Liêu. Khi đó đúng là lợn lành chữa thành lợn què.

Đây là một canh bạc chỉ có bảy phần thắng nhưng cho dù là như thế tâm trạng của Đỗ Văn Hạo vẫn rất háo hức.

Bây giờ không còn cách nào khác, chỉ còn mỗi cách kiên nhẫn chờ đợi.

Mấy ngày sau đó Đỗ Văn Hạo đều bận rộn tiến hành thành lập cục an toàn quốc gia, trụ sở của đội quân đặc chủng cùng viện khoa học. Cao Thao Thao đã ban cho hắn một khoản tiền không lồ dùng để xây dựng ba nơi đó.

Việc xây dựng phần cứng hắn chỉ việc đưa ra yêu cầu. Bộ công phải tiến hành sắp xếp và thi công. Đây là hạng mục đã có ý chỉ của cấp cao nhất, đương nhiên đã được bật đèn xanh. Hơn nữa việc kiến thiết phủ nha thời cổ đại đều do bộ công thống nhất tiến hành, không tồn tại cái gọi là giao cho các ban ngành chủ quản phụ trách, ra giá tuyển chọn người thi công, tiến hành giám sát chất lượng cùng với thời gian. Việc khởi công tiến hành rất nhanh. Công việc của Đỗ Văn Hạo với những việc này cũng tương đối đơn giản. Đối với hắn mà nói quan trọng nhất vẫn là vấn đề con người.

Việc cơ sở nghiên cứu khoa học cũng đã tàm tạm. Cao Thao Thao cũng đã ban chiếu chiêu hiền đãi sĩ. Hai hạng mục còn lại thì đau đầu hơn rất nhiều.

Đầu tiên là cục an toàn quốc gia. Muốn cục này phát huy tác dụng thì phải xây dựng được mạng lưới tình báo trong nước và ở nước ngoài. Một mạng lưới như vậy rất khó có thể thành lập trong khoảng thời gian ngắn. Phải có trong tay rất nhiều tiền thì mới dễ dàng xử lý công việc. Tiền có thể xui ma khiến quỷ, mua chuộc gián điệp cũng không khó khăn lắm. Thế nhưng nếu muốn mua chuộc được những quan viên cao cấp, thu hoạch được những tin tức chính trị, quân sự có giá trị tuyệt mật thì thực sự khó khăn hơn rất nhiều.

Vạn sự khởi đầu nan. Trong gian đoạn đầu ở Đại Tống, Đỗ Văn Hạo thành lập hai bộ phận. Trong hai bộ phận đó lần lượt là sở đặc vụ tình báo đối ngoại cùng sở đặc vụ tình báo đối nội. Sở tình báo đối ngoại phụ trách việc thu thập tin tức tình báo về chính trị, quân sự của hai nước Đại Liêu và Tây Hạ vân vân, cũng tiến hành các hoạt động phá hoại, ám sát, quấy rối. Sở đặc vụ tình báo đối nội phụ trách việc thu thập tình báo trong nước, thu thập các thông tin phản nghịch của quần thần, tiến hành bắt bớ người tình nghi, thẩm vấn và kết án.

Đỗ Văn Hạo biết thực lực của mình có hạn, không thể quan tâm hết tới hai vấn đề này vì vậy hắn muốn tìm hai trợ thủ đảm nhiệm việc này thay cho hắn, chia nhau phụ trách hai sở này.

Sở nội vụ hắn đã có một ứng cử viên rất tốt. Đó chính là Thẩm sư gia, rất quen thuộc với các đại thần trong triều cũng như các nha môn của triều đình.

Đỗ Văn Hạo gọi Thẩm Thăng Bình tới thương lượng. Sau khi Thẩm Thăng Bình nghe Đỗ Văn Hạo nói về chức trách của sở nội vụ này, ông ta rất vui vẻ. Trước kia khi phụ tá cho hai vị Tể tướng, ông ta cũng tiến hành khá nhiều những hoạt động thu thập tin tức tình báo này, tự biết mình có thể đảm nhiêm nên rất vui vẻ nhận lời.

Đối với người phụ trách sở đặc vụ đối ngoại, Đỗ Văn Hạo nghĩ tới ngay Thái Kinh kia. Ông ta có đường dây khắp Đại Tống, tổ tông đã từng buôn bán ở biên giới Đại Tống, rất quen thuộc lĩnh vực này. Đây chính là một vấn đề rất quan trọng.

Đỗ Văn Hạo cũng gọi Thái Kinh tới thương lượng. Đương nhiên Thái Kinh cũng đồng ý ngay.

Thái Kinh có một người thân thích là Thái Đầu, có thể cho người này phụ trách công việc thu thập tình báo biên giới. Tốt nhất là hắn phải bí mật ở một nơi gần đó thám thính tin tức vì vậy không phù hợp với việc quay lại kinh thành phụ trách sở ngoại vụ nên Đỗ Văn Hạo phải chọn người khác. Chuyện này đương nhiên phải do người có quan hệ mật thiết với Thái Đầu. Vì vậy dù Đỗ Văn Hạo không thích Thái Kinh như thế nào nhưng vì đại cục hắn vẫn quyết định để Thái Kinh quản lý sở tình báo ngoại vụ.

Đỗ Văn Hạo vốn muốn sau khi thu phục xong việc Tống Hạ, hắn sẽ tìm cơ hội giết chết Thái Kinh nhưng bây giờ hắn lại muốn Thái Kinh thu thập các thông tin tình báo. Hắn sẽ chờ sau khi công việc này tiến hành thuận lợi, sẽ tìm cơ hội giết Thái Kinh.

Mặc dù Thái Kinh là phủ doãn phủ Khai Phong, nhưng quan viên triều Tống thay đổi như đèn kéo quân, không phải như xã hội hiện đại đã lên là không thể xuống. Quan viên triều Tống có thể một bước lên trời nhưng cũng có thể té ngã. Vì vậy nếu muốn ngồi vững chắc ở một vị trí nào đó thì nhất định phải tìm được chỗ dựa vững chắc. Thái Kinh đã sớm hạ quyết tâm nhất định phải làm tốt công việc Đỗ Văn Hạo giao phó, tranh thủ tình cảm của Đỗ Văn Hạo, cuối cùng trở thành tâm phúc của Đỗ Văn Hạo và dựa vào Đỗ Văn Hạo để leo cao.

Nếu Thái Kinh sớm biết trong lòng Đỗ Văn Hạo đã sớm có ý nghĩ giết ông ta. Ông ta tuyệt đối sẽ hối hận vì suy tính của mình.

Sau khi Đỗ Văn Hạo xác định được người phụ trách sở nội vụ và ngoại vụ tình báo, giao cho hai người phụ trách triển khai các công việc có liên quan còn chính hắn phải gấp rút xử lý chuyện khác.

Công việc cần hắn xử lý rất nhiều. Trong đó có một việc rất khẩn cấp. Đó là hôn lễ sắp tới rồi.

Bản thân Tể Chấp đương triều, tam nha Đô Điểm Kiểm, người tâm phúc của Thái Hoàng Thái Hậu thành hôn, hơn nữa tân nương lại chính là thiên kim của Tể tướng Vương Giai, người đứng dưới một người trên vạn người. Hai nhân vật hùng mạnh này liên kết với nhau. Văn võ bá quan trong triều ai không dám tới?

Vì vậy chưa tới ngày hôn lễ, có rất nhiều nhân vật quan trọng ở kinh thành tới chúc mừng. Lễ vật thay nhau cung kính chuyển tới.

Trước khi thành thân một ngày Cao Thao Thao gọi Đỗ Văn Hạo vào Hoàng cung.

Sau khi hai người thân mật với nhau một lát, Cao Thao Thao tựa sát vào người Đỗ Văn Hạo, ngẩng gương mặt xinh xắn hỏi: "Vương Nhuận Tuyết, con gái của Vương Giai được xưng là đệ nhất mỹ nữ kinh thành. Ngươi cưới được mỹ nhân như vậy, còn nghĩ tới ta không?'

Đỗ Văn Hạo ôm Cao Thao Thao, hôn nàng một cái rồi trịnh trọng nói: "Yên tâm. Địa vị của Thao Thao trong lòng ta không ai có thể thay thế được".

"Thật vậy sao? Vậy nếu ta không phải là Thái Hoàng Thái Hậu, trong tay không chút quyền lực, ngươi có còn thích ta không?'

Đỗ Văn Hạo cũng đã nghĩ tới vấn đề này. Nói thực là hắn có tình cảm với Cao Thao Thao chủ yếu là lâu ngày nên nảy sinh tình cảm. Hắn bị Cao Thao Thao khơi dậy tình yêu. Trong lòng hắn không muốn dùng quyền lực này để mưu cầu danh lợi, hắn căn bản cũng không muốn dùng thân thể mình để đổi lấy quyền lực. Sau này khi áp dụng biến pháp có chút kết quả, Cao Thao Thao thăng chức cho hắn mới nảy sinh tình cảm này.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Thao Thao, nàng đừng xem thường ta. Ta chỉ yêu nàng chứ không yêu quyền lực của nàng, lại càng không muốn lợi dụng nàng để có quyền lực. Dù nàng trao quyền cho Hoàng thượng, trở thành một phụ nữ bình thường ta vẫn yêu nàng, vẫn gắn bó với nàng như cũ. Thưởng hoa dưới trăng, nghe mưa trên đảo giữa hồ, dạo bước trên cỏ xanh, múa kiếm ca hát, sát cánh bên nhau...".

Cao Thao Thao như mở cờ trong bụng, nàng duỗi tay ôm cổ Đỗ Văn Hạo, ánh mắt nàng bừng sáng nhìn hắn. "Ngươi có dám thề không?'

Đỗ Văn Hạo cúi đầu hôn nàng một cái rồi hắn giơ cao tay phải lên trời, cao giọng nói: "Ta Đỗ Văn Hạo, thề có trời đất, tất cả những điều ta vừa mới nói là sự thật. Nếu ta làm ngược lại, trời giáng thiên lôi, chết không chỗ chôn".

Phần lớn người cổ đại tin vào ông trời, thần linh, sự linh nghiệm của lời thề. Sau khi Đỗ Văn Hạo thề độc xong, mắt Cao Thao Thao mọng nước, nàng kiễg chân lên hôn hắn, hai người hôn nhau một lúc lâu.

Một lát sau, miệng Cao Thao Thao lướt qua gương mặt Đỗ Văn Hạo, nàng ghé sát vào tai hắn, nói như muỗi vo ve: "Văn Hạo...".

"Ừ, Thao Thao".

"Ta...ta nghĩ...".

"Nghĩ gì?" Đỗ Văn Hạo mỉm cười hỏi.

Cao Thao Thao lại hôn mặt Đỗ Văn Hạo rồi dáng điệu vô cùng thẹn thùng, nàng nỉ non vào tai hắn: "Ta nghĩ...giao thân thể...cho ngươi".

 Chương 438: Phu Thê Thật Sự

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ. Cao Thao Thao vì đạo thủ tiết hai năm mà từ chối thân cận với Đỗ Văn Hạo. Không ngờ hôm nay nàng lại chủ động đề nghị hiến thân. Đỗ Văn Hạo muốn hỏi Cao Thao Thao xem vì sao nàng lại thay đổi ý định nhưng hắn lại sợ khi hỏi thì nàng sẽ lại vứt bỏ hết dũng khí đã đã vất vả tích cóp từng tí một. Hắn không nói câu nào, ôm nàng rồi quay người ngã xuống giường. Hắn vừa hôn nàng vừa cởi bỏ y phục của nàng, đồng thời cũng cởi bỏ y phục của hắn rồi mạnh mẽ tiến quân xung trận.

Nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không lập tức xông thẳng vào. Vì đây là lần đầu tiên của hai người nên hắn muốn Cao Thao Thao sung sướng.

Phụ nữ thời cổ đại chỉ là công cụ của nam nhân. Nam nhân gần như không nghĩ tới cảm nhận của phụ nữ, chỉ nghĩ tới hưởng thụ của chính mình. Dù Cao Thao Thao đã từng là xuất giá, cũng có kinh nghiệm phòng the nhưng nàng vẫn không phối hợp với Đỗ Văn Hạo, để mặc hắn tự do tác chiến.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không phải là người ích kỷ. Đặc biệt đây là lần đầu tiên, hắn muốn cho Cao Thao Thao hưởng khoái cảm cao nhất tiến tới đỉnh Vu Sơn. Hắn chuẩn bị khiêu gợi tinh thần, kích thích để Cao Thao Thao nhanh chóng có cảm xúc.

Cho tới khi ý xuân của Cao Thao Thao dâng trào, Đỗ Văn Hạo mới nhẹ nhàng tiến vào nàng, nỉ non bên tai nàng những lời yêu thương, hướng dẫn nàng phối hợp với hắn. Cao Thao Thao cực kỳ thẹn thùng nhưng nàng lại nhất nhất làm theo, dần dần hai người phối hợp ăn ý với nhau.

Gió cuốn mây trôi, mưa bay, sấm chợp. Cao Thao Thao không nhịn được phát ra những tiếng rên rỉ khoan khoái. Dưới sự tấn công liên tiếp của Đỗ Văn Hạo, rốt cuộc nàng cũng cởi giáp tan hàng, du xuân ngoạn thuỷ trên đỉnh Vu Sơn, cùng Đỗ Văn Hạo lên tiên cảnh.

Sau cuộc mây mưa, thân thể hai người đẫm mồ hôi, mềm nhũn, ôm nhau nằm trên giường.

Lần đầu tiên Cao Thao Thao được hưởng hương vị ngọt ngào của tinh yêu nam nữ say đắm, trong lòng như được tưới mật ngọt. Nàng không ngờ tình yêu nam nữ lại có cảnh giới như vậy. Trong lòng nàng càng yêu Đỗ Văn Hạo say đắm. Nàng nép sát người vào hắn, thì thào: "Văn Hạo, ngươi có biết tại sao hôm nay ta cho ngươi không?"

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo lắc đầu. Bây giờ dù có biết hắn cũng giả ngu để không cho Cao Thao Thao xấu hổ. Cao Thao Thao giấu mặt vào người hắn nói: "Sau khi ta nghe nói ngươi thành thân, ta cũng muốn trở thành thê tử của ngươi. Thế nhưng ta là Thái Hoàng Thái Hậu. Ta không thể...nhưng ta không cam tâm. Trong lòng ta vẫn do dự cho tới tận hôm nay...ngày mai ngươi sẽ lấy nhị phu nhân nhưng ta lại chỉ có thể đứng nhìn, ta thật sự không cam tâm..."

Đỗ Văn Hạo kéo nàng vào lòng, hôn lên đôi môi kiều diễm ướt át đỏ mọng của nàng nói: "Xin lỗi, Thao Thao".

"Ngươi không cần xin lỗi ta. Đây đều là số mệnh. Ai bảo ta là Thái Hoàng Thái Hậu" Cao Thao Thao cười buồn nói. "Ta thật sự hy vọng chỉ là một dân phụ bình thường, đi theo ngươi. Dù ngươi cho ta ăn trấu ta cũng rất vui".

"Thao Thao!" Đỗ Văn Hạo ôm nàng. Hắn xoay nàng đặt lên người mình. Hắn vừa vuốt ve vừa hôn lên đôi gò bồng đảo của nàng.

Cao Thao Thao thở hổn hển, nàng cầm tay Đỗ Văn Hạo, nhìn hắn nói: "Vì vậy khi ta hỏi ngươi lúc trước ngươi còn thề độc. Ta biết ngươi yêu ta chân thành, ta đã quyết định ta không thể để hạnh phúc vuột mất khỏi tay mình. Ta muốn chính thức làm phu thê với ngươi. Chu dù chỉ là vụng trộm, ta cũng đã thoả mãn rồi".

Nói tới đây Cao Thao Thao cười buồn nói tiếp: "Một khi ta đã quyết định làm phu thể chính thực với ngươi. Tuổi của ta lại nhiều hơn ngươi nhiều. Nếu như sau khi ta thủ hiếu ba năm, ta đã già. Hiện tại bây giờ ta còn trẻ hơn. Nếu bây giờ ta giao thân thể mình cho người, ngươi sẽ vui mừng hơn, ta cũng có thể làm phu thê với ngươi nhiều hơn ba năm".

Nói tới đây, hai mắt Cao Thao Thao đỏ hoe, nước mắt nàng trào xuống, nhỏ xuống mặt Đỗ Văn Hạo lành lạnh nhưng Đỗ Văn Hạo lại thấy lòng mình ấm áp. Đó là sự cảm động khi có được tình yêu của người khác.

Hắn không ngờ một Cao Thao Thao tính tình cẩn thận mà lại dám nghĩ dám làm. Vì chính bản thân mình mà không để ý tới chữ hiếu, xếp thứ nhất trong lễ giáo phong kiến.

Đương nhiên đối với một người hiện đại như Đỗ Văn Hạo có một cái nhìn rất thờ ơ với việc nhất định phải thủ hiếu ba năm với cùng người khác chung chăn gối bởi vì hiếu thuận với người chết là khi còn sống chứ không phải sau khi đã chết.

Đỗ Văn Hạo ôm nàng nói: "Thao Thao. Sau này khi hai người chúng ta ở riêng với nhau, ta gọi nàng là nương tử. Nàng gọi ta là phu quân. Được không?"

Cao Thao Thao vui mừng, nàng cúi người hôn hắn và hỏi: "Thật sao?"

"Ừ, nương tử".

"Phu quân".

Trong lòng Cao Thao Thao ngập tràn hạnh phúc. Nàng xoay người, quỳ gối bên cạnh Đỗ Văn Hạo, cúi dạp người xuống, vụng về dùng kỹ năng Đỗ Văn Hạo mới dạy nàng để giúp hắn một lần nữa giương cờ, dẫn dắt hắn tiến mào thánh địa đào nguyên một lần nữa.

Lần này mai nở hai lần. Hai người tác chiến liên tiếp lại càng sảng khoái, tới tận gần trưa mới lưu luyến thu quân.

Đỗ Văn Hạo rời khỏi Hoàng cung, ra tới cửa đã thấy chúng nữ Bàng Vũ Cầm đang đứng chờ hắn.

Đỗ Văn Hạo có tật giật mình, hắn cười giả lả hỏi: "Các nàng ở chỗ này làm gì?"

Tuyết Phi Nhi trừng mắt nói: "Không phải chàng muốn tới phủ đệ mới xem phòng tân hôn bố trí thế nào ư? Tại sao chàng lại quên?"

Toà phủ đệ mới Cao Thao Thao tặng cho Đỗ Văn Hạo đã xây dựng xong ba ngày trước, cũng đã ấn định tiến hành hôn lễ với thiên kim của Vương Tể tướng ở phủ đệ này. Hai ngày nay mấy người Bàng Vũ Cầm đã chuẩn bị chuyển nhà, hôm nay cả nhà sẽ chính thức chuyển tới phủ đệ mới, chuẩn bị kỹ lưỡng để ngày mai nghênh đón tân nương. Hôm qua mọi người thống nhất sáng sớm nay đi thăm việc bố trí tân phòng ở phủ đệ mới. Không ngờ mới sáng sớm hắn đã bị Thái Hoàng Thái Hậu gọi vào Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đúng đúng. Mọi người đã đi xem chưa?"

"Đã xem rồi nhưng Vũ Cầm tỷ nói chuyện tân phòng phải do chàng tới xem. Bọn thiếp cảm thấy tốt cũng không có ích gì hết".

"Nói cái gì vậy? Các nàng cảm thấy tốt là được".

"Chàng là tân lang. Nếu chàng không thích, bọn thiếp không gánh được".

"Ha ha. Vậy chúng ta mau đi thôi".

Cả một đoàn xe ngựa tới toà phủ đệ sau hoàng cung. Nơi này đã treo đèn kết hoa, không khí háo hức, phấn chấn.

Trước đây mấy ngày Đỗ Văn Hạo đã tranh thủ vào kiểm tra phủ đệ, hắn cảm thấy rất vừa lòng. Sự tránh lệ vượt qua sự tưởng tượng của hắn. Hôm đó việc bài trí đã thay đổi hoàn toàn nhưng vấn đề là do toàn phủ đệ quá lớn, nơi đóng quân của đội hộ vệ bên ngoài là còn có chút sinh khí, còn ở bên trong do tôi tớ quá ít nên trông toà phủ đệ rất trống rỗng.

Khi xem tân phòng, đương nhiên Đỗ Văn Hạo xấu hổ không dám nói gì. Cho dù có gì không hài lòng hắn cũng không dám chọn ba lấy bốn vì mấy thê thiếp của hắn đã đồng ý cho hắn lập nhị phòng, như vậy đã là quá tốt.

Sau đó là chính thức chuyển nhà. Vì tất cả đồ dùng bên phủ mới đã đầy đủ nên chỉ cần mang theo đồ châu báu, quần áo. Những thứ còn lại để lại cho xưởng dược liệu xử dụng.

Tối hôm đó cả nhà ăn một bữa cơm đoàn viên ở phủ mới. Đêm nay Đỗ Văn Hạo ngủ một mình để chuẩn bị sức lực ngày màu động phòng hoa chúc. Vấn đề là chúng nữ không biết sáng nay Đỗ Văn Hạo đã hao tổn rất nhiều sức lực. Nếu các nàng biết mà không vẹo mũi mới lạ.

Sáng sớm hôm sau đội ngũ đón dâu đã chuẩn bị sẵn sàng, Đỗ Văn Hạo đeo dải lụa đỏ, cưỡi tuấn mã, đội nhạc đi trước mở đường, theo sau là kiệu hoa màu đỏ. Âm thanh của pháo trúc vang lên không ngừng.

Phủ đệ của Đỗ Văn Hạo ở ngay cạnh phủ đệ của Tể tướng Vương Giai nhưng vì chuyện mừng nên đoàn đón dâu đi một vòng quanh Hoàng thành rồi mới tiến tới trước cửa phủ Tể tướng.

Dọc đường đi, tâm phúc của Đỗ Văn Hạo, phó Đô Chỉ Huy Sứ Lý Phố đã phái quân đội canh phòng nghiêm ngặt. Ở các lộ khẩu đều có binh sĩ kiểm tra, không cho phép mang theo bất kỳ binh khí gì. Dọc theo hai bên đường binh sĩ bảo vệ tầng tầng lớp lớp, dân chúng muốn xem náo nhiệt chỉ có thể đứng ngoài tuyến cảnh giới xem.

Hôn sự lần này được cho là có một không hai ở kinh thành. Đương nhiên có rất nhiều người tới xem. Cũng có không ít người bệnh và người nhà cảm động và nhớ tới ơn cứu mạng của Đỗ Văn Hạo, dù không vào được phủ cũng đứng hai bên đường chúc mừng.

Đỗ Văn Hạo chắp tay thi lễ đáp tạ. Sau khi vòng quanh Hoàng thành cuối cùng đoàn rước dâu cũng tới cổng phủ Tể tướng. Sau khi tân nương đội khăn trùm đầu xuất hiện bước lên kiệu hoa. Diễn tấu sáo và trống, pháo nổi lên, đoàn rước dâu lại đi một vòng Hoàng thành, sau khi được dân chúng toàn thành hoan hô chúc mừng mới quay về phủ tân lang ngay bên cạnh.

Trong sân ở phủ đệ của Đỗ Văn Hạo đã bày khoảng một trăm bàn tiệc rượu. Khách và bằng hữu dáng vẻ vui mừng đã ngồi đầy chật. Trước cửa bên ngoài đường có bày bàn tiệc cơ động, chiêu đãi những quan khách bình thường.

Giờ lành đã tới, dưới sự lĩnh xướng của quan dẫn dắt, nghi thức bái thiên địa bắt đầu. Vấn đề là cha mẹ của Đỗ Văn Hạo không xuyên không gian tới đây nên đành phải quỳ lạy ghế không.

Sau khi bái thiên địa, Tiêu công công thay mặt Thái Hoàng Thái Hậu tuyên đọc ý chỉ, phong Đỗ Văn Hạo làm Trấn Quốc công, Vương Nhuận Tuyết làm nhị phẩm cáo mệnh phu nhân (giống với Bàng Vũ Cầm) sau đó còn tặng rất nhiều kỳ trân dị bảo cho tân nương Vương Nhuận Tuyết, cũng truy phong phụ mẫu Đỗ Văn Hạo làm Lê Quốc công, truy phong mẫu thân hắn làm nhất phẩm cáo mệnh phu nhân, hài tử trong bụng Bàng Vũ Cầm làm lục phẩm Chiêu Vũ giáo uý. Tiểu tử này vẫn chưa ra đời mà đã có chức quan chờ sẵn.

Đỗ Văn Hạo thụ phong tước vị "Quốc công". Ngoại trừ nhóm thân Vương, nhóm đại thần đầu não, thường còn được tặng cho các trọng thần có quan hệ thông gia với Hoàng thất. Đỗ Văn Hạo không thuộc những mối quan hệ này. Hắn chỉ có mỗi quan hệ tình nhân với Cao Thao Thao, mà cũng chỉ có hai người biết với nhau. Cũng may tước vị Quốc công đôi khi cũng được Hoàng thượng ban tặng cho những người thân cận của mình nên không ai thấy kỳ quái.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng cảm kích. Cao Thao Thao đã làm vinh quang của hắn lên tới tột đỉnh, cũng làm hắn hiểu ý nghĩ của tước vị được phong.

Ninh công công đại diện cho Hoàng thượng mang tới câu đối chúc mừng do chính Hoàng thượng ngự bút, tuyên đọc ở chính giữa đại đường. Hơn nữa cũng tặng kỳ trân dị bảo, tổng cộng hơn mười gánh, tất cả đặt ở trước đường.

Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng đích thân chúc mừng, Đỗ gia thăng quan tiến tước. Vinh dự này đủ để mọi người ngưỡng mộ mãi không thôi.

Sau khi mọi việc xong xuôi tới lượt người nhà phân định danh phận. Vương Nhuận Tuyết và Bàng Vũ Cầm lấy lễ ngang bằng nhau bởi vì hai người đều là dòng chính, không phân biệt lớn nhỏ.

Sau đó Vương Nhuận Tuyết đội khăn trùm đầu đi tiếp nhận lẽ quỳ lạy của ba thiếp Liên nhi, Tuyết Phi Nhi và Lâm Thanh Đại, cùng với đó là thưởng hồng bao.

Sau khi người trong nhà chào nhau, phân định danh phân, trong tiếng hô của quan xướng lễ, Đỗ Văn Hạo cầm lụa đỏ dẫn Vương Nhuận Tuyết vào động phòng.

Sau đó Đỗ Văn Hạo đi ra kính rượu tân nhạc phụ Vương Giai cùng quan khách.

Lễ mừng tân hôn đương nhiên là uống rượu cạn chén. Cũng may Bàng Vũ Cầm đã để Anh tử đi theo Đỗ Văn Hạo, không cho mọi người ép rượu hắn. Mọi người cũng không muốn ép Đỗ Văn Hạo uống quá say, không thể vào động phòng làm tân nương chịu thiệt thòi.

 Chương 439: Xuân tiêu một khắc

Tới dự tiệc có khá nhiều học giả uyên thâm. Khi Đỗ Văn Hạo kính rượu, hắn mượn nói trong phủ mình vẫn còn chưa treo biển, muốn mời một vị học giả uyên bác đề biển cho mình làm các bậc đại nho nhất thời vô cùng hứng thú.

Có thể đề biển cho Tể Chấp đại nhân đương triều chính là vinh hạnh bậc nhất thiên hạ.

Trước đây khi Đỗ Văn Hạo vẫn chưa phát tài, Thái Kinh, phủ doãn phủ Khai Phong đã từng xung phong nhận đề biển cho phủ đệ của Đỗ Văn Hạo. Vào thời đó thư pháp của Thái Kinh là có một không hai trong thiên hạ. Ngay cả con người bản tính cuồng vọng như Mễ Phất cũng cảm thấy không bằng ông ta. Thái Kinh chính là đối tượng đề biển thích hợp nhất. Vấn đề là sau này Thái Kinh trở thành đại gian thần nổi danh trong lịch sử Bắc Tống nên Đỗ Văn Hạo vẫn nghĩ cách giết ông ta. Đương nhiên hắn không bao giờ để Thái Kinh đề biển phủ đệ của mình.

Thái Kinh cũng nhận lời tham dự tiệc thành hôn. Trong tiệc rượu ông ta thấy Đỗ Văn Hạo không nói gì tới mình lại nói muốn mọi người hãy đề cử một người đề biển cho hắn. Thái Kinh đương nhiên là một người hiểu biết, không làm Mao Toại tự tiến cử mình. Ông ta còn tưởng rằng Đỗ Văn Hạo ngần ngại tư chất ông ta thấp, dù thư pháp rất đẹp nhưng không đủ để gánh trách nhiệm này nên khi có mấy bậc đại nho cực lực đề cử ông ta, ông ta vẫn khiêm tốn không dám nhận mà tiến cử đồng hương Thái Tương, Đoan Minh điện học sĩ đề biển.

Thái Tương là một học giả năm nay tuổi ngoài bảy mươi, thuộc nhóm tứ đại thư pháp nhà Bắc Tống, là người có học vấn, tư cách và từng trải nhất. Thư pháp của ông ta thời Bắc Tống nổi danh theo đường lối chính thống, phong cách thuần phác, đoan chính, đẹp mà mềm mại, rất thích hợp đề biển. Đương nhiên tất cả mọi người đều đồng ý.

Thái Tương đúng là việc nhân đức không thể nhường ai, vui vẻ nhận lời, dùng rượu làm cảm hứng đề năm chữ "Trấn Quốc công Đỗ phủ". Mấy chữ này cực kỳ thuần phác, đoan chính. Mềm mại. Các bậc đại nho đều gật đầu khen đẹp, tung đùi đắc ý giống như mỹ tửu ngọt như nước Cam tuyền, cuống quýt tán thưởng.

Ban đêm, đèn lồng đỏ treo cao. Không khí vui mừng ngập tràn trong phủ đệ, Đỗ Văn Hạo uống ngà ngà say, Bàng Vũ Cầm thấy vậy vội vàng gọi Anh Tử nói với quan xướng lễ. Quan xướng lễ vội vàng cao giọng xướng tới giờ lành chú rể vào phòng động hoa chúc.

Các nha hoàn, bà mối đỡ Đỗ Văn Hạo say lướt khướt, tâm trạng phấn chấn đi tới trước cửa phòng tân nương.

Hai tiểu nha hoàn trước cửa cúi đầu thi lễ nói: "Nô tỳ Nhược Vân, Nhược Vũ bái kiến lão gia".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn hai nàng hỏi: "Ừ, tại sao ta chưa từng nhìn thấy hai ngươi? Các ngươi là nha đầu nhà ai?"

Hai nha hoàn nhìn nhau cười rồi thi lễ nói: "Lão gia, chúng nô tỳ là nha hoàn hồi môn của phu nhân".

"Ồ, hãy ngẩng đầu cho ta nhìn" Đỗ Văn Hạo ỷ hơi rượu, cao hứng nói.

Hai tiểu nha hoàn chậm rãi ngẩng đầu. Đỗ Văn Hạo liếc nhìn rồi ngạc nhiên kêu lên " Ai da, hai người các ngươi rất giống nhau. Các ngươi là tỷ muội song sinh sao?"

Cả hai cùng cười nói: "Dạ".

"Ha ha. Hai người các ngươi quả thật là từ một khuôn đúc. Lại mặc quần áo giống nhau. Rốt cuộc ai là ai, sao ta có thể phân biệt được?"

Tiểu nha hoàn bên trái giơ ngón tay trắng sáng chỉ vào bên trái khuôn mặt mình nói: "Nô tỳ là tỷ tỷ tên là Nhược Vân. Lão gia hãy xem bên má trái nô tỳ có một núm đồng tiền" Rồi Nhược Vân chỉ vào má phải tiểu nha hoàn kia nói tiếp: "Đây là muội muội Nhược Vũ. Muội ấy cũng có một núm đồng tiền nhưng lại ở bên má phải".

"Nhược Vân, Nhược Vũ. Tỷ tỷ là Vân, muội muội là Vũ. Ha ha, rất êm tai. Ta muốn xem má lúm đồng tiền ở chỗ nào?"

Đỗ Văn Hạo tiến tới sát mặt hai người nhìn. Trên hành lang cũng treo đèn lồng đỏ lớn, sáng trưng, nhìn rất rõ ràng. Mặt cả hai người đều tròn như trứng ngỗng, mịn màng, trắng bóc như trứng gà nhưng lại không có cái gì gọi là má lúm đồng tiền.

Đỗ Văn Hạo nghi ngờ hỏi: "Sao lại không có vậy?"

Cả hai tiểu nha hoàn lại liếc nhìn nhau rồi cùng cười "hì hì" quả nhiên Đỗ Văn Hạo thấy hai bên má hai người có hai núm đồng tiền nhỏ nhưng khi hai người không cười thì núm đồng tiền lại biến mất.

Đỗ Văn Hạo vỗ tay cười to nói: "Hay hay, rất thú vị. Xem ra nếu muốn nhận ra các ngươi thì phải đùa cho các ngươi cười mới nhận được. Ha ha ha".

Hai tiểu nha hoàn cũng cười khúc khích. Nhược Vân vén màn lên nói: "Lão gia mau vào thôi. Phu nhân ngồi bên trong hn nửa ngày rồi".

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom lưng bước vào trong phòng. Trong phòng nến đỏ soi sáng, Vương Nhuận Tuyết ngồi ở cạnh giường, đầu đội khăn voan màu đỏ, mũ phượng, khăn quàng vai (mũ phượng - mũ có hình chim phượng của hoàng hậu và các phi tần thời xưa; khăn quàng vai - một phần trong lễ phục phụ nữ quý tộc Trung Quốc, thời xưa)

Một tiểu nha hoàn đứng cạnh giường. Đó chính là tiểu nha hoàn mà lần trước Đỗ Văn Hạo tới chữa bệnh cho Văn Phượng nhưng bị dung mạo tuyệt thế cùng mùi hương thần bí trên cơ thể Vương Nhuận Tuyết mê hoặc, đã nói đi pha trà cho hắn nhưng lại đi tới hơn nửa ngày mới quay về, tạo cơ hội cho hắn và Vương Nhuận Tuyết có cơ hội kết mối nhân duyên này.

Đỗ Văn Hạo nhìn tiểu nha hoàn cười hì hì: "Là ngươi ư? Ngươi cùng với tiểu thư nhà ngươi cũng tới nhà ta sao?"

Tiểu nha hoàn nọ mỉm cười, thi lễ nói: "Dạ, nô tỳ Ngọc Trân bái kiến lão gia".

Đỗ Văn Hạo gật đầu đi tới cạnh giường, nói nhỏ: "Nương tử, đợi lâu mệt mỏi...".

Vương Nhuận Tuyết khẽ "ừ" một tiếng.

Tiểu nha hoàn Ngọc Trân ở bên cạnh sẵng giọng nói: "Lão gia, phu nhân đội khăn hồng đã lâu, hãy mau mau vén khăn cho phu nhân".

"Đúng đúng" Đỗ Văn Hạo vội vàng trả lời. Hắn xoa xoa tay vào quần áo. Đây không phải là lần đầu tiên hắn vén khăn voan nhưng làn này tim hắn lại đập rộn ràng. Chỉ nghĩ tới tuyệt thế dung nhan của Vương Nhuận Tuyết, cả người hắn đã nóng cả lên.

Bàn tay Đỗ Văn Hạo run rẩy nhẹ nhàng vén khăn voan ra, chậm rãi như đang vén mành trướng vậy. Gương mặt xinh đẹp, mềm mại như cánh hoa đào của Vương Nhuận Tuyết dần dần lộ ra. Hương thơm làm nao động lòng người bay vào mũi làm Đỗ Văn Hạo không nhịn được, có cảm giác như máu mũi mình đã đổ.

Vương Nhuận Tuyết chậm rãi ngẩng đầu lên, mắt phượng long lanh nhìn Đỗ Văn Hạo rồi lại xấu hổ cúi đầu xuống.

Đỗ Văn Hạo đã không còn khống chế được dục hoả của mình. Hắn ôm Vương Nhuận Tuyết, hôn lên đôi môi mọng đỏ, lại còn định lột cả mũ phượng, khăn quàng vai ra.

Vương Nhuận Tuyết vội vàng cầm tay hắn, thở gấp nói: "Tướng công hãy chờ một chút".

"Để làm gì?" Đột nhiên Đỗ Văn Hạo nhớ tới tiểu nha hoàn Ngọc Trân vẫn đang ở bên cạnh, hắn quay đầu cười nói: "Nha đầu, ngươi định học miễn phí thuật phòng the sao?"

Gương mặt xinh xắn của Ngọc Trân đỏ ửng nhưng nàng không bỏ chạy ra ngoài mà còn liều lĩnh bước tới: "Lão gia, nô tỳ là nha hoàn thiếp thân của phu nhân. Theo quy củ phải ở lại trong phòng hầu hạ lão gia và phu nhân động phòng".

Những lời nói tự nhiên hào phóng của Ngọc Trân làm Đỗ Văn Hạo hoảng sợ, hắn quay mặt nhìn Vương Nhuận Tuyết hỏi: "Nha đầu này vừa nói gì vậy?"

"Ngọc Trân là nha hoàn hồi môn của thiếp, là người trong phòng của thiếp, cũng là thông phòng đại nha hoàn của lão gia. Theo quy định phải cùng hầu hạ trong phòng".

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ, lại cả xấu hổ nói: "Điều này. Hì hì...điều này sao...".

"Sao nào? Sao lão gia lại xấu hổ vậy?"

Anh Tử cũng là thông phòng đại nha hoàn, rất nhiều lần đã hầu hạ Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm thay quần áo, tắm rửa nhưng tới tận bây giờ vẫn chưa bao giờ hầu hạ chuyện chăn gối trong phòng. Bây giờ nha hoàn hồi môn của Vương Nhuận Tuyết lại theo quy củ này làm Đỗ Văn Hạo rất bất ngờ. Đương nhiên hắn cũng không biết đây là chuyện bình thường ở những gia đình giàu có, quyền quý.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Chỉ là điều này...hì hì".

Vương Nhuận Tuyết cười hì hì nói với Ngọc Trân: "Lão gia vẫn chưa quen. Ngươi cứ ra ngoài đợi. Khi nào cần chúng ta sẽ gọi ngươi".

"Dạ" Ngọc Trân len lén liếc nhìn Đỗ Văn Hạo cười rồi đi ra gian ngoài, tiện tay buông màn cửa xuống.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới thầm thở phào một tiếng, hắn kéo Vương Nhuận Tuyết vào ngực mình và nói: "Tuyết nhi! Ta rất nhớ nàng. Muốn nàng. Ta đã khổ sở chờ đợi nhiều ngày. Nàng sờ xem trái tim ta cũng sốt ruột lắm rồi" Nói rồi bàn tay hắn bắt đầu lần mò.

Vương Nhuận Tuyết vô vùng thẹn thùng, nàng hất bàn tay trắng nõn nà nói: "Tướng công, chúng ta vẫn còn chưa uống rượu hợp hoan".

"Để lát nữa hãy uống".

"Không! Thiếp muốn uống bây giờ. Khi vào động phòng phải uống rượu hợp hoan".

"Được được. Ta đi lấy...".

"Không! Tướng quân ở trên giường, thiếp đi lấy".

Vương Nhuận Tuyết vội vàng xuống giường, đi tới chiếc bàn tròn, cầm chung rượu và hai chiếc chén rượu nhỏ, tinh xảo, rót rượu vào chén.

Trong lúc nàng đang rốt rượu thì bị Đỗ Văn Hạo ôm từ sau lưng. Hắn thò tay sờ soạng. Cũng may đây là lần thứ hai của Đỗ Văn Hạo nên Vương Nhuận Tuyết không vì sự vuốt ve của Đỗ Văn Hạo mà choáng váng. Nàng thở gấp gáp, quay đầu lại, bưng một chén rượu để lên miệng hắn nói: "Chúng ta uống nào".

Nhưng tay của Đỗ Văn Hạo không rảnh để nhận lấy, hắn vội vàng cởi quần áo của nàng và nói: "Nàng là của ta".

"Xấu lắm" Vương Nhuận Tuyết cười khanh khách. Nàng nâng chén lên miệng Đỗ Văn Hạo rồi cũng nâng chén của mình, Hai người đồng thời uống cạn chén rượu.

Trong khi đó Đỗ Văn Hạo chân tay lanh lẹ đã cởi hết quần áo của Vương Nhuận Tuyết, chỉ còn quần lót. Da thịt trắng nõn nà như sương trắng, mùi thơm cơ thể làm người khác chỉ biết ý loạn tình mê của Vương Nhuận Tuyết cùng với men nồng của rượu hợp hoan thúc giục. Đỗ Văn Hạo không kìm lòng được, ôm ngang người Vương Nhuận Tuyết đi tới giường.

Ngay lập tức màn buông xuống, âm thanh gào thét nổi lên, tướng quân thúc ngựa ra roi. Trong màn trướng chỉ còn tiếng kêu là kinh thiên động địa, đất trời u ám.

Lần tác chiến này hoàn toàn khác với lần với Cao Thao Thao hôm qua, không còn là sự thương cảm mà tràn ngập nhu tình, ngọt ngào. Lần này Vương Nhuận Tuyết chủ động hơn nhiều so với Tần Lạc. Dù nàng vẫn còn vụng về như vậy nhưng với bản tính thông minh trời phú nên học rất nhanh, cùng với sự trợ giúp của mùi hương cơ thể nên Đỗ Văn Hạo cực kỳ thoả mãn.

Tới khi Vương Nhuận Tuyết ôm lấy Đỗ Văn Hạo không cho hắn tiếp tục nữa thì trời đã sắp sáng. Hai người đã quần chiến suốt một đêm, mấy lần hoa mai nở.

Điều kỳ quái là Đỗ Văn Hạo không thấy thể lực mình hao mòn. Hắn còn yêu cầu Vương Nhuận Tuyết một lần nữa rồi mới bãi binh, ôm nàng ngủ một giấc tới tận sáng sớm.

Sau khi ngủ một giấc thoải mái tới tận sáng bảnh, Đỗ Văn Hạo uể oải vặn lưng một cái rồi mới lười biếng mở mắt ra. Vương Nhuận Tuyết ở bên cạnh cũng "ư" một tiếng rồi tỉnh lại. Nàng duỗi cánh tay trắng bó ôm hắn hỏi: "Tướng công, tỉnh rồi hả?"

"Ừ" Đỗ Văn Hạo quay người, ôm thân thể mềm mại, trắng nõn, hương thơm quyến rũ vào ngực: "Thoải mái quá. Động phòng cùng với bảo bối Tuyết nhi của ta quả thực là diễm phúc đời người. Ta nghĩ rằng cho dù là thần tiên cũng chỉ có hương vị như vậy".

Vương Nhuận Tuyết cười hì hì, nàng nhắm mặt dựa sát vào người Đỗ Văn Hạo, bàn tay trắng nõn nà của nàng dần dần trượt xuống dưới, bóp nhẹ mấy cái. Tiểu đệ của Đỗ Văn Hạo giống như con vật ngoan ngoãn trong nhà lại lập tức ngẩng đầu ưỡn ngực.

Lửa dục của Đỗ Văn Hạo bốc lên. Hắn lại quất ngựa ra roi. Hai người tiếp tục tập luyện buổi sáng một phen nữa. Trận chiến này diễn ra tới tận giờ thìn.

Sau khi ngưng chiến, Đỗ Văn Hạo đang ôm thân hình tuyệt phẩm của Vương Nhuận Tuyết nằm mãn nguyện thì bất chợt bên ngoài phòng vang lên tiếng bước chân nhẹ nhàng rồi giọng nói của Ngọc Trân vang lên: "Lão gia, phu nhân, mặt trời đã lên cao. Nước ấm đã chuẩn bị xong".

Vương Nhuận Tuyết vội vàng ngồi dậy nói với Đỗ Văn Hạo: "Ai da. Tất cả là do tướng công mới dậy muộn như vậy. Người khác biết thì lại cười thiếp".

"Tân hôn động phòng, mỗi giây phút đáng già ngàn vàng. Có ai bỏ phí dậy sớm vậy không?" Đỗ Văn Hạo vuốt ve làn da trắng bóng, mềm mại của nàng nói: "Hãy nằm xuống đi. Ta hãy còn muốn".

Ngọc Trân bên ngoài mành cười phì một tiếng nói: "Lão gia, cả đêm lão gia và phu nhân những hơn mười lần còn chưa đủ sao? Vẫn còn nhiều thời gian, giữ gìn thân thể vẫn quan trọng hơn".

Đỗ Văn Hạo nghe xong vội nói: "Ai. Ngọc Trân, thảo nào tối hôm qua ngươi không ngủ. Ngươi áp tường nghe lén phải không?"

Ngọc Trân nói: "Lão gia, tối qua phu nhan đã nói tất cả. Nô tỳ là thông phòng đại nha hoàn. Phục dịch lão gia và phu nhân là trách nhiệm của nô tỳ. Hai người không ngủ. Nô tỳ nào dám ngủ. Nô tỳ đã bịt tai (che kín chăn) nhưng hai người làm ầm ĩ quá, âm thanh lớn như vậy, đừng nói là nô tỳ ở gian ngoài mà ngay cả hai tỷ muội Nhược Vân, Nhược Vũ ở sương phòng cũng bị âm thanh của hai người làm mất ngủ. Hì hì hì".

Nghe Ngọc Trân nói, Đỗ Văn Hạo cảm thấy nhức đầu, nha đầu này đúng là ruột ngựa, nghĩ gì nói vậy.

Vương Nhuận Tuyết nói: "Được rồi, dậy tắm rửa thôi. Ngọc Trân đã chuẩn bị nước ấm. Hai chúng ta đi tắm rửa thôi".

"Tốt' Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Ha ha ha. Ta thích nhất là tắm uyên ương".

"Thật vậy sao?" Vương Nhuận Tuyết ngạc nhiên hỏi: "Chàng đều tắm uyên ương với mọi người sao?"

Đỗ Văn Hạo vội vàng cười gượng nói: "Không có. Ta nói sai rồi. Ta muốn nói là chuyện này. Hôm nay có thể tắm chung với thiên hạ đệ nhất mỹ nữ quả thực là chuyện sảng khoái nhất trong đời. Đi thôi".

Một tay Đỗ Văn Hạo che háng, một tay hắn vén màn. Hắn liếc mắt nhìn thấy Ngọc Trân đang đứng cạnh giường. Cô nương người ta đã không sợ, bản thân mình là một lão gia mà vẫn còn sợ sao?

Đỗ Văn Hạo dứt khoát bỏ tay ra, đứng thẳng người, hắn nhếch miệng cười rất phấn khích giống như đang thị uy với Ngọc Trân.

Dù gì đây cũng là lần đầu tiên Ngọc Trân nhìn thấy thân thể đàn ông. Lúc trước nàng ăn nói mạnh bạo là vì nàng là nha hoàn hồi môn. Trước khi tiểu thư xuất giá, bà mối phụ trách việc phòng the ở phủ Tể tướng đã nhiều lần giảng giải cho nàng công việc của một nha hoàn hồi môn, nên làm gì, nên nói năng như nào nhưng chỉ là đùa giỡn. Nhưng ngay lúc cấp bách này Ngọc Trân nhìn thấy tiểu đệ hùng vĩ, xấu xí của Đỗ Văn Hạo thì không khỏi thẹn thùng, luống cuống nhưng vẫn không kịp quay người đi chỗ khác

Đỗ Văn Hạo cười ha hả, dương dương tự đắc bước xuống giường, hắn quay người móc màn lên trên cái móc hình lưỡi liềm bên trên. Tay hắn bế Vương Nhuận Tuyết đang nhìn hắn cười mà như không phải đang cười đi tới sương phòng có đặt chiếc thùng gỗ lớn để tắm ở bên cạnh.

Trong chiếc thùng gỗ đựng nước ấm tới hơn nửa thùng. Trên mặt nước có rất nhiều cánh hoa hồng bập bềnh cùng với hương thơm thoang thoảng.

Đỗ Văn Hạo bỏ Vương Nhuận Tuyết vào trong thùng gỗ sau đó bản thân hắn cũng bước vào thùng gỗ. Hắn ôm chầm lấy Vương Nhuận Tuyết trong nước, sờ soạng vuốt ve một hồi. Vương Nhuận Tuyết cười khanh khách nói: "Đừng. Thiếp sợ ngứa. Để thiếp đấm lưng cho tướng công".

"Không cần. Ta muốn nha đầu Ngọc Trân tới cọ lưng cho ta" Đỗ Văn Hạo nói.

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Tướng công không còn thẹn thùng sao?"

"Ai thẹn thùng? Không đâu. Hãy gọi vào trong phòng này để nhìn thấy chúng ta làm ngay trong thùng gỗ này. Không phải nha đầu đó muốn hầu hạ chúng ta sao. Ha ha, hãy để nha đầu đó học bài vỡ lòng. Cứ bảo nha đầu đó cởi quần áo vào đây, ba người chúng ta cùng một lúc".

Vương Nhuận Tuyết cười sẵng giọng nói: "Thiếp không điên khùng với tướng công. Ngọc Trân vẫn còn là hoàng hoa huê nữ. Chàng đứng làm quá kẻo em nó sợ. Đợi khi nào thân thể của thiếp không tiện, khi đó Ngọc Trân sẽ hầu hạ chàng".

 Chương 440: Thông phòng đại nha hoàn

Những lời Đỗ Văn Hạo vừa nói chỉ là cố ý châm chọc lấy lại thể diện, không phải là thật nên câu nói của Vương Nhuận Tuyết làm hắn gật mình kinh hãi: "Không nên như thế. Ta có nàng là đủ rồi. Giờ có thêm nàng là ba thê ba thiếp. A, không hai thê ba thiếp là đủ rồi".

Đỗ Văn Hạo bất cẩn tính cả Cao Thao Thao vào nên vội vàng chữa lại.

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Thông phòng đại nha hoàn không phải là thiếp nên không tính vào đây".

"Nếu nha đầu đó có con mà vẫn không thể nạp làm thiếp sao?"

"Có con cũng không nhất định phải nạp làm thiếp. A, xem ra chàng tự nguyện nhưng mà Ngọc Trân cũng được lắm. Ngay khi còn nhỏ đã đi theo thiếp. Nếu như thật sự Ngọc Trân có con, thiếp hy vọng chàng có thể lập làm thiếp".

Đỗ Văn Hạo trợn mắt há hốc mồm nhìn Vương Nhuận Tuyết. Hắn thầm nghĩ xem ra Nhuận Tuyết cởi mở hơn mấy người Tuyết Phi Nhi nhiều. Chẳng lẽ nàng cũng từ xã hội hiện đại tới đây sao?

Đỗ Văn Hạo thật sự không biết từ nhỏ Vương Nhuận Tuyết đã được giáo dục lễ giáo phong kiến một cách nghiêm khắc. Tư tưởng tam tòng tứ đức đã ăn sâu trong suy nghĩ của nàng. Phẩm hạnh của nữ nhân là quan trọng nhất, không được đố kỵ nên những tư tưởng đó tự nhiên nảy sinh trong suy nghĩ.

Đỗ Văn Hạo lại không dám tiếp nhận. Quá nhiều nữ nhân sẽ làm vướng bận hắn. Hắn cũng không muốn mở rộng hậu cung nên lắc đầu nói: "Tuyết nhi, liệu không cần thông phòng đại nhan hoàn có được không? Nói thật ta có nhiều thê thiếp quá".

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Ai bức tướng công? Hưởng lợi lại còn không muốn. Chàng đừng có nghĩ một đằng nói một nẻo".

"Ta nói thật. Nhiều thê thiếp quá cũng chưa chắc đã là chuyện tốt. Nhưng mà trong lòng ta cũng không chịu nổi khi ơhải đối xử lạnh nhạt với ai đó".

"Hì hì. Chàng không muốn yêu cũng không muốn bỏ. Sau này Ngọc Trân không gả ra ngoài là được chứ gì?"

"Ha ha. Vậy là tốt rồi" Đỗ Văn Hạo như trút được gánh nặng. "Vậy đừng bảo Ngọc Trân vào hầu hạ, tắm rửa cho ta. Nàng giúp ta kỳ lưng là được rồi".

"Được rồi nhưng thiếp phải nói rõ ràng. Mấy chuyện trải giường, gấp chăn, thay quần áo, đấm lưng đều là chuyện của nha hoàn. Chàng không được đổ hết lên người thiếp. Thiếp là nương tử của chàng đó".

"Ha ha. Ta hiểu. Chỉ lần này thôi. Lần sau chuyện đấm lưng để Ngọc Trân làm".

Vương Nhuận Tuyết cười rồi giúp Đỗ Văn Hạo tắm rửa. Bất chợt Đỗ Văn Hạo nhớ tới một chuyện liền hỏi nàng: "Đúng rồi, ta nghe nói nàng cùng Mộc Quế Anh của Thiên Ba phủ học công phu mã đao, có đúng không?"

"Hì hì. Chuyện này tướng công cũng biết sao? Đúng vậy. Từ nhỏ thiếp đã cùng Quế Anh học nhưng chẳng nên trò trống gì.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Tốt quá. Ta đang lo không có người dạy. Sau này nàng hãy dạy ta".

"Tướng công học làm gì?"

"Bản tướng quân đường đường là tam nha Đô Điểm Kiểm nếu công phu mã đao cũng không biết sao có thể cầm quân đánh trận?"

"Tướng công muốn học thật sao? Học mấy đồ chơi đó mệt lắm".

"Không sao. Ta không sợ. Ta không thể học quá nhiều công phu, còn có rất nhiều chuyện cần ta xử lý. Ta chỉ cần học sơ qua là được. Đúng rồi, nàng chủ yếu dạy ta binh pháp. Cầm quân đánh trận phải hiểu binh pháp mới tốt".

"Được" Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Thiếp cũng chỉ có lý luận suông thôi. Thiếp chưa từng cầm quân đánh trận. Sách vở viết thế nào thiếp dạy tướng công thế đó".

"Cứ thống nhất như vậy" Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Trước tiên học qua lý thuyết sau này sẽ dùng thực tế kiểm nghiệm lại. Chúng ta cứ thống nhất vậy. Hôm nay bắt đầu luôn".

"Hôm nay?"

"Đúng vậy. Lát nữa sẽ bắt đầu. Ta muốn học ngay, đặc biệt là binh pháo và cả kiến thức về cách chỉ huy quân đội và quản lý quân đội. Trước tiên ta muốn biết trên Vũ Kinh tổng yếu viết cái gì. Ta đã tuyên bố vào mùa thu sẽ tiến hành tập trận Cấm quân kinh thành. Khoa mục diễn tập sử dụng trong "Vũ Kinh tổng yếu". Đây chính là chủ ý của ban tham mưu quân sự tam nha. Ta vẫn chưa biết điều gì. Tới lúc đó đừng để ta mất mặt".

Vương Nhuận Tuyết cười khanh khách nói: "Bộ sách này tướng công phải rành ra rất nhiều thời gian mới được. Nội dung trong bộ sách này rất phong phú. Trong một thời gian ngắn chỉ có thể học sơ qua bên ngoài mà thôi".

"Được rồi. Chỉ cần không ăn nói lung tung là được. Dù sao ta vẫn còn một ban tham mưu hỗ trợ".

'Được" Vương Nhuận Tuyết suy nghĩ một lát rồi nói: "Nhưng thiếp có chuyện khác muốn bàn bạc với tướng công trước. Sau khi xong việc, thiếp sẽ dạy tướng công. Được không?"

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi: "Nàng muốn bàn bạc chuyện gì?"

"Cha thiếp cho thiếp trên một trăm nha hoàn, nô bộc làm hồi môn. Nhà chúng ta lớn, dùng nô bộc phải có quy củ thì mới yên tâm. Đợi lát nữa thiếp phân đặt những nô bộ này, cũng nhân tiện đề ra những quy củ để sau này tiện làm việc".

"Được".

"Thiếp mới tới đây mà đã muốn quản lý mọi việc, tướng công không thấy phiền phức sao?"

"Tại sao lại phiền? Trong nhà đang cần một người giống như nàng dám quản lý mọi việc. Ta còn mong nàng quản lý thì tại sao lại tức giận?"

"Được. Có những lời này của chàng thì thiếp cả gan đứng ra quản lý"

"Đi nào".

Sau khi hai người tắm rửa xong, nha hoàn Ngọc Trân mới bước tới. Nàng đỏ mặt giúp Đỗ Văn Hạo và Vương Nhuận Tuyết lau người và mặc quần áo.

Đỗ Văn Hạo bảo nàng truyền lời mọi người trong phủ tới đại sảnh gặp mặt.

Mọi người trong nhà nhanh chóng tới đông đủ. Tất cả tôi tớ cũng tụ tập ngoài hành lang. Đỗ Văn Hạo và Vương Nhuận Tuyết đi vào trong đại sảnh. Bàng Vũ Cầm và chúng nữ cũng đã đến. Đỗ Văn Hạo giữa, Bàng Vũ Cầm và Vương Nhuận Tuyết ngồi bên trái và bên phải. Liên nhi và mấy người thiếp ngồi theo thứ tự bên dưới. Kha Nghiêu ngồi ở vị trí cuối cùng.

Nhìn thấy mọi người đã tới đông đủ, Đỗ Văn Hạo ho nhẹ một tiếng rồi nói: "Mọi người trong nhà đã tới đông đủ. Nhà mới phải có khí thế mới. Nhuận Tuyết mang theo từ nhà mẹ đẻ rất nhiều nô bộc. Hiện nay phủ của chúng ta cũng lớn hơn trước rất nhiều. Người cũng nhiều hơn. Người nhiều đương nhiên là chuyện tốt nhưng nếu không cẩn thận sẽ thành chuyện xấu. Vì vậy Nhuận Tuyết nói với ta đặt ra một số quy củ. Ta đồng ý và cũng cảm thấy cần phải làm như vậy. Mọi người hãy nghe Nhuận Tuyết nói".

Vương Nhuận Tuyết gật đầu, nàng mỉm cười gọi lão mụ tử (người ở, người hầu gái già, có ý miệt khinh) cùng nha hoàn ở ngoài cửa vào tặng cho Bàng Vũ Cầm cùng mấy người thiếp.

Nha hoàn thiếp thân của Bàng Vũ Cầm cũng giống như của Vương Nhuận Tuyết. Nha hoàn thiếp thân trong phòng là ba người, kể cả Anh Tử. Ngoài ra còn bốn tỳ nữ giúp việc bên ngoài. Tỳ nữ trông nom tiểu viện năm người, tổng cộng là mười hai người. Ba người thiếp Liên nhi thì số lượng giảm đi một nửa. Nha hoàn thiếp thân hai người. Nha hoàn giúp việc bên ngoài hai người, hai tỳ nữ trông nom tiểu viện. Kha Nghiêu cũng được hưởng đãi ngộ như mấy người thiếp.

Mấy thê thiếp Bàng Vũ Cầm chưa từng có nhiều nha hoàn, tôi tớ phục dịch như vậy nên nhìn nhau. Mấy người nhất thời vẫn chưa quen với việc này.

Hình như Vương Nhuận Tuyết đoán ra được, nàng cười nói: "Đây không phải là do ta muốn phô trương. Bây giờ lão gia chúng ta đã là Tể Chấp, Trấn Quốc công, tam nha Đô Điểm Kiểm, là trọng thần số một số hai trong triều. Nếu như việc trong nhà không xử lý tốt, người ta đương nhiên sẽ không chê cười lão gia mà sẽ chê cười mấy thê thiếp chúng ta không biết lo liệu việc nhà, đúng không? Tỷ tỷ?" Vương Nhuận Tuyết quay người nói với Bàng Vũ Cầm ngồi bên kia.

Bàng Vũ Cầm gật đầu nói: "Đúng vậy. Chuyện này vốn đã cần sắp đặt".

Anh Tử cười nói: "Trước kia thiếu gia chúng ta chỉ có một mình nô tỳ phục dịch, mệt chết đi được. Bây giờ có nhiều tỷ muội như vậy ở cùng, nô tỳ sẽ thoải mái hơn nhiều".

Vương Nhuận Tuyết thản nhiên nói: "Sau này không được gọi là thiếu gia. Thiếu gia là để sau này gọi con cái. Vũ Cầm tỷ tỷ cùng ta có thể gọi là tướng công hay phu quân. Những người còn lại chỉ được gọi là lão gia".

Đỗ Văn Hạo vội hỏi: "Gọi như vậy không phải ta già lắm sao?"

"Gọi lão gia không phải tướng công già mà bởi vì tướng công là người đứng đầu trong nhà. Đừng nói bây giờ tướng công là trọng thần cao quý trong triều mà ngay cả trong những gia đình quan lại bình thường cũng có quy củ này".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Nếu đã vậy thì cứ gọi là lão gia cũng được".

Tuyết Phi Nhi cong môi nói: "Ta có thói quen gọi là ca ca. Ta không thích gọi là lão gia".

Vương Nhuận Tuyết mỉm cười nói: "Đó là để nô tỳ gọi. Còn về phần mọi người gọi gì cũng không sao. Gọi như trước kia cũng được, gọi là ca ca hay gọi tên cũng chẳng sao".

Tuyết Phi Nhi vui mừng gật đầu.

Anh Tử lại nói: "Hôm qua phân định danh phận có nói nhị vị phu nhân không phân biệt lớn nhỏ, ngang hàng nhau vậy mọi người phải xưng hô như nào?"

Vương Nhuận Tuyết nói: "Xưng hô thường ngày thì Vũ Cầm tỷ là đại phu nhân. Ta đã xuất giá sau nên gọi là nhị phu nhân. Nhưng thiếp còn lại thì đều gọi là nãi nãi. Dựa theo thứ tự xuất giá thì Liên nhi là tam nãi nãi. Phi nhi là tứ nãi nãi. Thanh Đại tỷ là ngũ nãi nãi".

Tất cả mọi người đều trả lời đồng ý.

Tiếp đó Vương Nhuận Tuyết lại gọi các đầu bếp, phu kiệu, người chăn ngựa, phu canh và những người làm tạp dịch khác vào dập đầu với lão gia và các thái thái, phân công nhiệm vụ cụ thể

Sau khi sắp đặt tất cả mọi việc thì đã tới giữa trưa. Ngay khi ăn cơm xong, Đỗ Văn Hạo liền bảo Vương Nhuận Tuyết dạy công phu mã đao.

Trong phủ đệ này có một võ trường để luyện tập riêng. Vương Nhuận Tuyết mặc áo giáp, cưỡi ngựa, tay nàng cầm một cây ngân thương, biểu diễn một chút thương thuật, biểu diễn cưỡi ngựa bắn cung, tư thế cưỡi ngựa chuẩn mực, thương pháp thành thạo, cung nỏ mười phát trúng cả mười.

Sau khi biểu diễn xong, sắc mặt Vương Nhuận Tuyết vẫn không đổi, tim không loạn. Mọi người đều võ tay hoan hô.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Không ngờ nương tử của ta lại là nữ cân quắc anh hùng. Hay, sau này phu nhân sẽ cầm quân ra trận giết giặc, gia đình ta lại có thêm một thành viên hổ tướng".

Mọi người đều cười

Tuyết Phi Nhi nói với Lâm Thanh Đại: "Thanh Đại tỷ, võ công của tỷ với nhị phu nhân thì ai lợi hại hơn?"

"Đương nhiên là nhị phu nhân lợi hại. Công phu của ta chỉ là mèo quào, sao có thể sánh với nhị phu nhân?"

Vương Nhuận Tuyết ngạc nhiên hỏi: "Thanh Đại tỷ cũng biết võ công sao?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Không thể nói là biết. Thanh Đại là cao thủ võ công ẩn cư nơi thành thị sầm uất, đã nhiều lần cứu mạng ta".

"Thật vậy sao? Thanh Đại tỷ, có thể lãnh giáo tỷ một chút không?"

Lâm Thanh Đại vội vàng khoát tay nói: "Không không, đừng nghe tướng công nói. Võ công của ta thực sự rất kém".

"Chỉ là luận bàn thôi mà" Vương Nhuận Tuyết cười hì hì nói. Nàng lập tức cởi bỏ áo giáp, lập thế: "Tỷ tỷ xem chiêu" Nói xong đã tung người đánh tới một chưởng.

Lâm Thanh Đại buộc phải tiếp chiêu. Lần này hai người như hồ điệp tung bay đấu với nhau. Thoáng cái hai người đã so hơn mười chiêu, mọi người xung quanh nhìn hoa cả mắt.

Sau khi hai người đấu với nhau một trăm chiêu, đột nhiên Vương Nhuận Tuyết nhảy ra ngoài, khoát tay, lắc đầu nói: "Đừng đánh nữa, Thanh Đại tỷ luôn nhường ta. Ta đã dùng hết bản lãnh của mình nhưng nhiều nhất Thanh Đại tỷ mới dùng tới năm thành công lực. Ta không chống đỡ được rồi. Nếu không phải Thanh Đại tỷ hạ thủ lưu tình, ta không thể đỡ được mười chiêu. A Di đà phật, ta nhận thua".

Lâm Thanh Đại cười nói: "Võ công của nhị phu nhân được danh sư chân truyền. Thanh Đại vô cùng bội phục".

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Từ nhỏ ta chỉ tập công phu mã đao. Nếu như ngay từ nhỏ cũng luyện tập võ công bản thân như tỷ tỷ thì cũng chưa hẳn đã bại dưới tay tỷ tỷ".

"Nhị phu nhân cũng chưa bại dưới tay ta".

"Ha ha. Thua hay không trong lòng ta hiểu rất rõ ràng. Công phu mã đao của tỷ tỷ thế nào?"

Lâm Thanh Đại chân thành nói: "Nói thật ta chưa từng luyện tập qua thuật cưỡi ngựa, cũng chưa hề luyện tập cách ra trận ggiặc, cũng nỏ ta càng không biết, so với nhị phu nhân thì kém xa. Nghe Văn Hạo nói công phu mã đao của nhị phu nhân được chân truyền của Dương gia tướng Thiên Ba phủ. Hôm nay mới thấy, quả nhiên danh bất hư truyền. Thanh Đại thật sự mặc cảm".

Vương Nhuận Tuyết cười vẻ đắc ý nói: "Nói như vậy ta cũng có phần lợi thế. Hì hì như vậy trên mặt cũng che bớt sự xấu hổ".

Mọi người lại tươi cười, nghe cách nói chuyện gần gũi của nàng, không có cái gì gọi là kênh kiệu của thiên kim tiểu thư nên ai cũng thấy thân mật hơn.

 Chương 441: Lực cản cùng uy tín

Kha Ngiêu cười nói: "Theo muội thấy ca ca là người hạnh phúc nhất thế giới. Vũ Cầm tỷ người hiền lành nhất. Thanh Đại tỷ chẳng những dung mạo xinh đẹp, thân thủ rất cao. Phi nhi cơ trí, Liên nhi xinh đẹp động lòng người. Mỗi người một vẻ. Hôm nay nhị phu nhân được gả vào, chẳng những khuynh thành khuynh quố, lại có một thân võ nghệ. Ca ca đã có đầy đủ hết, đương nhiên là người hạnh phúc nhất, mọi người nghĩ có đúng không?'

Mọi người đều cười.

Đỗ Văn Hạo cũng vui vẻ cười toe toét, gật đầu liên tục.

Như đã nói, ba ngày tân hôn đều là của Vương Nhuận Tuyết vì vậy trong ba ngày này Đỗ Văn Hạo và Vương Nhuận Tuyết dính với nhau như keo như sơn. Cả ngày lẫn đêm hai người ở chung với nhau. Ban ngày Vương Nhuận Tuyết giảng giải binh thư, dạy công phu mã đạo cùng Dương gia thương cho Đỗ Văn Hạo. Buổi tối sớm động phòng, đêm xuân dạo bước Vu Sơn.

Sau ba ngày nghỉ tân hôn, sáng sớm ngày thứ tư, Đỗ Văn Hạo tới tam nha. Lý Phố báo cáo với hắn công việc trong ba ngày qua. Hắn được biết Cấm quân đã bắt đầu bước vào triển khai huấn luyện theo "Vũ Kinh tổng yếu". Đặc biệt thông báo về việc tuyên chọn thành viên cho đội quân đặc chủng đã được phát xuống các địa phương nhưng việc này khồng thể làm nhanh. Trong điều kiện giao thông liên lạc thời cổ đại cực kỳ lạc hậu, muốn biết thành quả thì phải chờ đợi ít nhất một hai tháng nữa.

Đỗ Văn Hạo gọi Thái Kinh và Thẩm Thăng Bình tois hỏi về chuyện thiết lập sở tình báo nội vụ ở an toàn cùng với sở tình báo ngoại vụ thiết lập ba ban tình báo là Tây Hạ, Đại Liêu và dư quốc (Dư quốc là các nước Nam Chiếu, Cao Ly, Nhật Bản và Việt Nam). Hành động của sở tình báo ngoại vụ nằm trong ba ban tình báo đó. Mặc dù việc thiết lập mạng lưới tình báo ở những nước đó cần rất nhiều thời gian nhưng Thái Kinh hành động rất nhanh chóng. Ông ta phái người tâm phúc mang theo công văn bổ nhiệm của Đỗ Văn Hạo cùng với thư do đích thân Thái Kinh viết tới biên giới, bổ nhiệm thân thích Thái Đầu làm trưởng ban tình báo ngoại vụ Tây Hạ, Thái Đầu cũng chịu trách nhiệm thiết lập mạng lưới tình báo ở Tây Hạ. Nhưng có một vấn đề là ứng viên cho vị trí trưởng ban tình báo dư quốc, Đỗ Văn Hạo vẫn chưa thể tìm được đối tượng phù hợp.

Nếu so sánh thì công việc bên sở tình báo nội vụ nhanh hơn rất nhiều. Thẩm Thăng Bình lại là người quen việc dễ làm. Trước kia ông ta đã quen biết rất nhiều người cùng cơ sở ngầm ở triều đình. Bây giờ bắt tay vào làm việc, chỉ mất chút thời gian hoàn thành thủ tục mà thôi.

Sở tình báo nội vụ thành lập hai ban ngành. Thứ tự lần lượt là tình báo và đặc vụ. Thế nhưng bởi vì có liên quan tới quan lại trong triều, Đỗ Văn Hạo không dám trao cho quá nhiều quyền lực cho cấp dưới. Chức vụ trưởng ban đặc vụ do đích thân hắn đảm nhiệm. Nói cách khác nếu có quan lại nào trong triều tình nghi mưu phản, muốn ra tay hành động phải đích thân do hắn hạ lệnh.

Nhân viên đặc vụ của sở nội vụ tuyển chọn từ Cấm quân kinh thành theo chỉ thị của Đỗ Văn Hạo. Đại bộ phận các binh sĩ này đã từng theo Đỗ Văn Hạo xuất chính đánh quân Thổ Phiên.

Đối với tổ đặc vụ, Đỗ Văn Hạo quán triệt chính sách ít mà tinh. Quân số ban đầu khi thành lập chỉ có khoảng chừng hai trăm người.

Đỗ Văn Hạo ngay lập tức triệu tập tất cả thành viên của đội đặc vụ, đích thân nói chuyện, giải thích chức trách cùng với nhiệm vụ của bọn họ. Hắn nói cho bọn họ biết tương lai những kẻ mà bọn họ phải đối phó chính là những trọng thần tình nghi mưu phản triều đình. Hắn muốn bọn họ vượt qua vấn đề tư tưởng để kiên định hơn khi hành động.

Sau khi Đỗ Văn Hạo thị sát tam nha, hiểu rõ tình hình thành lập cục an toàn quốc gia cùng tổ đặc vụ, hắn lại tới thị sát sở quân khí. Bây giờ Đỗ Văn Hạo kiêm nhiệm Quân khí giám sở quân khí. Lão quân khí giám trước kia hỏi gì cũng không biết đã bị bãi chức. Lão binh tượng Lý Hoành phát minh ra Thần tý cung đã khỏi bệnh và đi làm. Lý Hoành hết sức cảm kích khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, ông ta vội vàng dập đầu tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo vội vàng đỡ Lý Hoành, dìu ông ta ngồi xuống ghế rồi cười ha hả nói: "Lão nhân gia, ông phát minh ra Thần tý cung. Đây là một loại nỏ rất tốt, đã tăng cường lực chiến đấu cho quân ta lên rất nhiều. Ta sẽ trọng thưởng cho ông. Như vậy đi, ta thưởng cho ông năm nghìn lạng bạc trắng".

Năm nghìn lạng bạc trắng tương đương với năm trăm vạn nhân dân tệ.

Lý Hoành sợ ngây người, ông ta không dám tin vào tai mình: "Điều này...Đại tướng quân, tiểu nhân không dám nhận".

Đỗ Văn Hạo nói: "Không sao. Lập công phải được thưởng. Đó chính là đạo lý hiển nhiên. Còn nữa ta đề bạt ông làm Viện phán viện cung nỏ (viện trưởng) sau này ông phụ trách việc thiết kế cùng sản xuất cung nỏ. Mọi việc trực tiếp báo cáo với ta".

Trước đó Lý Hoành chỉ là một lão binh tượng bình thường, hơn nữa địa vị của binh tượng rất thấp kém. Không ngờ ngay khi Đỗ Văn Hạo mới nhậm chức đã đề bạt ông ta làm Viện phán viện cung nỏ, chức quan hàm chính thất phẩm, chỉ thấp hơn Quân khí giám và phó Quân khí giám.

Vào triều Tống, việc bổ nhiệm quan lại hàm thất phẩm trở lên đều do bộ Lại lập danh sách đề cử rồi trình Hoàng đế khâm định. Quan lại từ thất phẩm trở xuống thì do bộ Lại trực tiếp bổ nhiệm.

Đương nhiên Hoàng đế Đại Tống có quyền bổ nhiệm tất cả quan lại. Quan Tể Chấp cũng có quyền bổ nhiệm quan lại từ thất phẩm trở xuống trong những lĩnh vực mình quản lý, chỉ cần báo cho bộ Lại lập hồ sơ là xong.

Vì vậy khi Lý Hoành nghe Đỗ Văn Hạo nói xong, ông ta vừa mừng vừa sợ, lập tức quỳ xuống dậy đầu.

Đỗ Văn Hạo vội vàng dìu ông ta dậy nói: "Ông nhất định phải phát huy hết tài trí của mình, phải làm cho các binh tượng đồng lòng phát minh, sáng tạo. Ta muốn thành lập một ban chuyên nghiên cứu binh khí trang bị, nghiên cứu và phát minh ra vũ khí cùng trang bị mới trong sở quân khí".

Lý Hoàng gật đầu như bổ củi: "Chủ ý này rất hay. Nhất định tiểu nhân sẽ gắng hết sức mình để không phụ lòng cất nhắc của Quốc công".

Sau khi Đỗ Văn Hạo nói mấy câu động viên khuyến khích Lý Hoành, hắn mới rời khỏi viện cung nỏ đi tới Đông xưởng.

Đông xưởng phụ trách chế tạo trang bị cùng vũ khí cá nhân cho các binh sĩ. Đỗ Văn Hạo triệu tập các lão binh tượng đã nhiều năm tham gia chế tạo vuc khí và trang bị ở Đông xưởng tới họp.

Vì Đỗ Văn Hạo muốn đội quân đặc chủng cùng đội đặc vụ có thể phát huy hết khả năng cùng hiệu quả to lớn của nó, hắn đã nghĩ ra cách bắt chước quân phục của đánh trận của bộ đội đặc chủng và công an đặc nhiệm cho đội quân đặc chủng và đội đặc vụ của Đại Tống, kể cả mũ sắt vào áo giáp phòng chống đâm trước ngực và sau lưng cùng với ủng quân sự, thiết kế ba lô to để có thể mang theo cung nỏ, đoản kiếm cùng vũ khí, túi ngủ, lương khô và nước uống vân vân. Đương nhiên quân đặc chủng thời kỳ vũ khí lạnh không thể sử dụng trang phục giống như bộ đội đặc chủng thời kỳ hiện đại, nhất định phải căn cứ vào đặc điểm trang bị cùng vũ khí của thời đại để tiến hành điều chỉnh.

Sau khi Đỗ Văn Hạo nói ra yêu cầu, hắn đã đưa ra bản vẽ phác thảo, giao cho các binh tượng tiến hành chế tạo thử.

Sau khi hoàn thành các công việc, Đỗ Văn Hạo mới rời khỏi sở quân khí, vào Hoàng cung gặp Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao.

Khi Đỗ Văn Hạo vào cung Phúc Ninh, Tiêu công công thấy hắn đi vào vội vàng đi tới đón, ông ta chắp tay thi lễ, chúc mừng tân hôn. Đỗ Văn Hạo cười hỏi: "Thái Hoàng Thái Hậu có ở trong không?"

"Có!" Tiêu công công gật đầu nói: "Thế nhưng tâm tình Thái Hoàng Thái Hậu không tốt, người nói không muốn gặp ai cả".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Ta cũng không gặp sao?"

"Ngài đương nhiên là một ngoại lệ. Thái Hoàng Thái Hậu có thể không gặp bất kỳ ai khác nhưng không thể không gặp ngài. Mời vào. Thái Hoàng Thái Hậu đa ở trong vườn hoa".

Đỗ Văn Hạo bước vào tẩm cung, hắn thành thạo đi tới tẩm cung.

Từ xa Đỗ Văn Hạo nhìn thấy Cao Thao Thao đang ngồi trên bậc thềm bằng đá trước hồ nước, thất thần nhìn mặt nước. Mấy cung nữ, nội thị đứng khoanh tay ở xa.

Đỗ Văn Hạo đi tới sau người Cao Thao Thao, hắn khom người nói: "Vi thần ra mắt Thái Hoàng Thái Hậu".

Cao Thao Thao kinh ngạc, nàng lập tức vui mừng quay người nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi tới rồi".

Cao Thao Thao quay người vẫy tay với mấy thị nữ, nội thị đang đứng ở xa. Mấy người đó lập tức biết điều thi lễ, quay người rời khỏi vườn hoa, đóng cửa vườn lại.

Cao Thao Thao vỗ vỗ xuống bậc thềm đá bên cạnh mình nói: "Đến ngồi bên cạnh ta".

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống bên cạnh Cao Thao Thao, ôm nàng. Hai người hôn nhau một lúc lâu mới tách khỏi nhau.

Cao Thao Thao rúc đầu vào trong lòng Đỗ Văn Hạo, không nói câu nào.

Đỗ Văn Hạo nói: "Nghe nói tâm trạng nàng không tốt. Có chuyện gì vậy?"

"Ngự sử trung thừa Lý Thường, Ngự sử Thịnh Đào Tiến can gián. Hai người đó nói chúng ta biểu dương võ tướng tác chiến với Tây Hạ là không đúng, là làm võ tướng kiêu ngạo, làm trái tổ huấn".

Đỗ Văn Hạo căm giận nói: "Cái đám Ngự sử đài đó chỉ chuyên ăn no, cả ngày không có chuyện gì làm, suốt ngày chỉ tìm xem có chuyện gì không vừa mắt, không thoải mái. Hình như trên cả thế giới này chỉ có mấy người đó là người tốt. Đừng để ý tới mấy người đó".

Cao Thao Thao cười gượng nói: "Nếu chỉ có đám Ngự sử đài đó thì không nói làm gì. Ngay cả Tư Mã Quang cũng cầm đầu đám cựu thần vào hùa, cũng kích động nói chúng ta trọng dụng võ tướng là không đúng. Mấy người đó còn nói cả việc giải trừ quân bị Sương quân. Chúng ta còn bỏ ra nhiều tiền như vậy mua đứt tuổi quân của Sương quân, còn gánh chịu sắp xếp cuộc sống cho binh lính. Các đời tiên đế chưa bao giờ làm như vậy. Trước giờ chưa có tiền lệ, rất không thoả đáng. Bọn họ còn yêu cầu ta lập tức thu hồi thánh mệnh đã ban".

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: "Yêu cầu nàng thu hồi thánh mệnh sao? Dựa vào cái gì mà nói vậy? Bọn họ cũng không coi nàng ra gì. Quả thực rất càn rỡ".

Cao Thao Thao buồn rầu cúi đầu nói: "Ta vốn không biết chính trị và quân sự. Sau khi buông rèm nhiếp chính đã xảy ra nhiều chuyện. Hơn nữa còn làm trái với tổ huấn nên đương nhiên bọn họ mất hứng".

"Đây không phải là vấn đề liên quan tới mất hứng mà là liên quan tới tương lai của đất nước" Đỗ Văn Hạo xoay người Cao Thao Thao lại nói: "Lúc này nàng nhất định phải có thái độ kiên quyết. Lúc trước hai chúng ta đã nói với nhau khi cải cách nhất định sẽ có lực cản. Điều này chúng ta cũng dự tính trước. Chúng ta tuyệt đối không thể nhượng bộ. Một khi cải cách quân đội đã gian nan như vậy thì những cải cách liên quan tới kinh tế xã hội sẽ như thế nào? Khi gặp phải lực cản thì sao? Thao Thao. Bây giờ chính là thời điểm mấu chốt. Nếu nàng mềm lòng, tất cả công sức, tiền bạc của chúng ta đổ xuống sông xuống biển".

Cao Thao Thao ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, gượng cười nói: "Được. Dù ta rất đau lòng nhưng ta sẽ không nhượng bộ. Đây là chủ ý của ngươi, ta tin tưởng nhất định không sai".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Vậy tốt quá. Thế này đi. Chỉ cần nàng có thái độ kiên quyết còn tất cả mọi việc cứ giao cho ta. Hãy cho ta biết ngườinào phản đối mạnh mẽ nhất?"

"Ngự sử trung thừa Lý Thường. Ngươi muốn làm gì?"

"Ta sẽ gây khó dễ cho lão" Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Đám Ngự sử đài này ngày trước ta còn ở phủ Thành Đô vì chuyện của Bạch Y Xã và chuyện tự điều binh quyền, chúng đã muốn ghép ta vào tội chết. Thù này ta vẫn còn chưa báo. Bây giờ chúng lại còn khoa tay múa chân trước mặt nàng. Nếu như chỉ cì chuyện này mà không tiếp tục nữa. Uy tín nàng xây dựng lại mất hết mà một khi không có uy tín thì rất nguy hiểm. Chúng ta muốn chuyện này thông suốt thì nhất định phải tạo dựng được uy tín".

""Vậy bây giờ cần phải làm gì? Ngươi nói muốn gây khó dễ cho bọn họ là có ý định gì?"

"Làm khó dễ chính là nắm tóc. Sở tình báo nội vụ của chúng ta mới thành lập, vẫn chưa khai trương. Chúng ta mượn lão làm đối tượng mở hàng lấy may".

Cao Thao Thao nói: "Ngự sử trung thừa Lý Thường là lão thần tam triều, là một người rất chính trực. Muốn nắm được nhược điểm của ông ta chỉ e là không dễ dàng".

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Phàm là quan cao thì cái mông càng không sạch. Khi bắt một đám người thì sẽ có người bị oan uổng, cũng có người đáng bị bắt sẽ bị lọt lưới. Ha ha, lão là nguyên lão tam triều, làm quan lâu năm. Ta không tin lão không phạm bất kỳ sai lầm nào. Ta đang muốn kiểm tra xem rốt cuộc mạng lưới tình báo của ta có bản lãnh hay không. Nàng yên tâm. Nếu thật sự lão có cái mông sạch sẽ, ta tuyệt đối sẽ không đổ oan cho lão. Còn nữa ta cũng muốn điều tra Ngự sử Thịnh Đào kia. Ta cũng chỉ mong hai người đó được như lời nói. Một thân chính trực, hai tay trong sạch".

 Chương 442: Văn thần võ tướng

Từ khi Đỗ Văn Hạo vào Tể Chấp, đây là lần đầu tiên hắn tham dự buổi lâm triều. Thật ra cũng không thể trách Đỗ Văn Hạo bởi vì từ khi Tống Triết Tông tức vị, Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao buông rèm nhiếp chính đây mới là buổi lâm triều đầu tiên.

Sau khi Đỗ Văn Hạo theo thói quen luyện tập võ công với Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết, hắn rửa mặt, mặc quần áo chỉnh tề rồi cưỡi ngựa đi vào Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo vốn là quan Ngự y, từ Ngự y trở thành võ tướng sau đó nhậm chức tam nha Đô Điểm Kiểm. Theo lý thuyết hắn là quan văn cầm quân. Chức quan này vốn vẫn do quan văn đảm nhiệm thế nhưng chức quan thống lãnh tối cao này vốn là do Tống Thái Tổ đảm nhiệm trước khi tạo phản lên ngôi Hoàng đế vì vậy sau khi Tống Thái Tổ lên ngôi, chức vị này chỉ còn tồn tại nhưng không có thực quyền trên thực tế. Tống Thái Tổ là một võ tướng nên bây giờ Đỗ Văn Hạo đảm nhiệm chức vụ này cũng tự coi là một võ tướng.

Toàn thân Đỗ Văn Hạo mặc áo giáp da thuộc. Bên phải yên ngựa có móc một cây ngân thương, bên trái có treo một Hoàng hoa cung. Một bao tên đựng đầy tên, mũi bọc mũi sắt hình mũi dùi. Sau khi Đỗ Văn Hạo theo Lâm Thanh Đại tập luyện võ công, khí lực đã tăng lên rất nhiều, hắn đã có thể giương được cung tám đấu, đạt tới trình độ trung đẳng của Cấm quân.

Đỗ Văn Hạo mang theo hộ vệ, giục ngựa chạy băng băng trên đường phố yên tĩnh buổi sáng sớm, tới Đông Hoa Môn bên ngoài Hoàng cung, Đỗ Văn Hạo nhảy xuống ngựa, ném dây cương cho đội trưởng đội hộ vệ Hứa Văn Cường, cởi bội kiếm bên hông giao cho hộ vệ, sửa sang lại y phục rồi bước nhanh vào Đông Hoa Môn.

Binh lính canh cửa cúi chào hắn, đưa mắt nhìn theo Đỗ Văn Hạo bước vào cửa chính, đi dọc theo hành lang dài lát đá xanh. Khi đi tới bên ngoài cửa điện. Ở hai bên hông cửa là hai biệt điện để cho các đại thần tạm nghỉ. Bên trái dành cho quan văn, bên phải dành cho võ tướng.

Đỗ Văn Hạo đang định đi vào biệt viện bên phải thì một lão thái giám canh cửa vội vàng vung phất trần, cúi người thi lễ nói: "Quốc công gia, ngài nên đi vào biệt viện bên trái".

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: "Tại sao?"

"Ngài là một quan văn. Quan văn ở bên trái".

"Ai bảo ngươi ta là một quan văn?"

"Điều này...hì hì" Lão thái giám có vẻ xấu hổ, vội vàng nói: "Quốc công gia, võ tướng đều có quân tịch...".

Lập tức Đỗ Văn Hạo "a" lên một tiếng. Mặc dù hắn là tam nha Đô Điểm Kiểm. Dù bây giờ là thời kỳ hoà bình thì vẫn là thống soái cao nhất của quân đội nhưng lại không có quân tịch, cũng giống như chủ tịch quân uỷ trung ương không có quân hàm vậy. Thì ra sự khác biệt giữa quan văn và võ tướng không nằm ở lĩnh vực mình phục trách, có cầm quân hay không mà nằm ở chỗ có quân tịch hay không.

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ muốn có quân tịch thì quá đơn giản. Hắn lập tức hừ giọng mũi một cái nói: "Quân tịch sao? Ta sẽ có ngay. Ta đường đường là tam nha Đô Điểm Kiểm đương nhiên là một võ quan. Ta phải đi bên phải" Nói xong hắn liền bước nhanh vào điện bên phải.

Lão thái giám đó không dám nói thêm câu nào, chỉ đứng ôm phất trần nhìn hắn bước đi, trong lòng ông rất kinh ngạc. Đại Tống trọng văn khinh võ. Võ tướng luôn có cảm giác mình thấp kém hơn người khác một bậc vì vậy ông ta chỉ nhìn thấy võ tướng không muốn bước vào điện bên phải, tìm lý do bước vào điện bên trái chứ ông ta chưa thấy ai ngang nhiên bước vào điện bên phải.

Đỗ Văn Hạo đi vào điện bên phải. Các võ tướng bên trong rất kinh ngạc khi thấy hắn, ánh mắt nhìn hắn rất phức tạp, có sự vui mừng lẫn sợ hãi, có vẻ ngơ ngác, khó hiểu.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Chư vị tới sớm".

Đám võ tướng vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ nói: "Quốc công gia đến sớm".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Ta là tam nha Đô Điểm Kiểm, là võ tướng. Ta thích các vị gọi ta là Đại tướng quân".

Các võ tướng vội vàng chắp tay gọi Đại tướng quân.

Đỗ Văn Hạo mời các võ tướng ngồi xuống rồi hắn nhìn lướt qua. Các võ quan cao cấp gần như đều là do chính hắn mới đề bạt, đều là các quan chỉ huy ở tam nha. Quan quân chỉ huy các quân. Quan quân chỉ huy đóng quân bên ngoài kinh thành không có khả năng lúc nào cũng vào triều nên không có mặt.

Những quan quân hắn đề bạt đều có phẩm hàm thế nhưng triều Tống thực hiện chế độ quan văn cầm quân. Không nói tới Xu Mật viện, cho dù là quan quân tam nha, Đô Chỉ Huy Sứ các quân cũng đều là quan văn. Cho dù có một số người là do Đỗ Văn Hạo đề bạt nhưng bọn họ đều đi vào điện bên trái. Bên điện võ tướng này chỉ có một ít chức phó. Nếu so với điện bên trái thì quả thực không thể bằng

Trong lòng Đỗ Văn Hạo không ngừng cảm thán. Địa vị của võ tướng như này thì sao có thể đánh thắng trận đây?

Đám võ tướng hình như cũng xấu hổ nên không ai hỏi vì sao Đỗ Văn Hạo lại sang bên này. Mấy người đều im lặng, không ai nói câu nào.

Một lát sau lại lục tục có mấy viên quan tới. Bởi vì từ sau khi Dương Kế Nghiệp của Dương gia tướng chết trận được truy phong chức Thái Uý nên vị trí Thái uý này vẫn để trống. Mà ngoại trừ Thái uý, các võ tướng không có ai vượt qua tước vị Trấn Quốc công của Đỗ Văn Hạo, lại càng không nói võ tướng vốn thấp hơn quan văn hai cấp. Trong đám võ tướng này, vị trí ccủa Đỗ Văn Hạo là cao nhất.

ám võ tướng thấy Đỗ Văn Hạo vốn là quan văn tam nha Đô Điểm Kiểm, ngay ngày đầu tiên vào triều đã vào cùng một chỗ với bọn họ nên trong lòng bọn họ vô cùng kích động cùng xúc động.

Rốt cuộc cũng tới giờ lên triều, đám quan võ cung kính mời Đỗ Văn Hạo đi trước. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không đùn đẩy, nhường nhịn ai, hắn chắp tay sau lưng, bước ra khỏi điện thì thấy ở điện bên trái, nhạc phụ Vương Giai của mình đang dương dương đắc ý đi trước bước ra ngoài. Đi sau là Thái Xác cùng sáu vị Tể Chấp, kể cả Vương Giai là tám vị Tể Chấp. Duy chỉ có một mình Đỗ Văn Hạo là bên hàng quan võ.

Đỗ Văn Hạo vội vàng chắp tay với Vương Giai, Vương Giai cũng mỉm cười, chắp tay đáp lễ. Mấy vị Tể Chấp phía sau cũng tươi cười gật đầu chào Đỗ Văn Hạo.

Đi qua cửa hình bán nguyệt rộng lớn, chậm rãi leo cầu thang rộng rãi. Khi vào tới đây thì chắp tay tiến vào đại điện. Văn, võ phân ra đứng hai bên đại điện.

Đỗ Văn Hạo đứng đầu hàng quan võ bên phái tây. Thái giám trực đại điện có lẽ đã được thái giám bên ngoài thông báo Đỗ Văn Hạo đứng sai thấy Đỗ Văn Hạo dẫn đầu các võ tướng tiến vào đại điện cũng không dám tới giải thích gì cả, chỉ đứng nhìn hắn, để mặc hắn đứng đầu hàng các võ tướng.

Trên đại điện, bên trái là một ngai vàng nhỏ, ở phía sau ngai vàng là một tấm mành bằng ngọc trai. Phía sau tấm mành đang lay động có một chiếc giường êm. Ở bên cạnh là hai tiên hạc bằng đồng đang đứng ngẩng đầu một cách tôn kính. Từ mỏ chim hạc khó xanh lượn lờ bốc lên, mùi hương rất dễ chịu.

Sau khi văn võ bá quan trong triều tề tựu đông đủ, từ sau điện một đứa bé choai choai bước ra, tới trước điện, ngồi xuống ngai vàng kê bên trái. Đó chính là Tống Triết Tông.

Cùng lúc đó, từ sau điện một phụ nhân quý phái, xinh đẹp khoan thai bước ra. Người đó là Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao.

Đỗ Văn Hạo cảm nhận được ánh mắt Cao Thao Thao nhìn hắn vô cùng vui mừng, hắn liền cười đáp lại, quả nhiên nụ cười của Cao Thao Thao càng đậm đà sau đó nàng quay mặt nhìn Tiêu công công bên cạnh gật đầu.

Tiêu công công đi tới trước điện, the thé nói: "Có việc thì trình tấu".

"Thần có việc khải tấu" Từ trong hàng quan văn có một người bước ra khỏi hàng. Người đó chính là Ngự sử trung thừa Lý Thường: "Hôm trước Thái Hoàng Thái Hậu ban ý chỉ bãi bỏ việc thích chữ quân nhân, tuyên dương quân công. Đặc không quan tâm tới quốc khố trống rỗng lại xuất ra một khoản tiền lớn mua đứt tuổi quân của Sương quân. Sau khi ý chỉ được ban ra, thần dân xôn xao. Tất cả đều nói không thể như thế. Khẩn xin Thái Hoàng Thái Hậu thu hồi thánh mệnh".

Cao Thao Thao cười nhạt nói: "Quân nhân vì nước quên mình, vào sinh ra tử nơi chiến trận, lập nhiều chiến công hiển hách mà không biểu dương thì chẳng phải làm cho người ta cười rụng răng sao?"

Lý Thương ưỡn ngực cao giọng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, không phải là không được biểu dương nhưng chỉ làm không thể làm ồn ào biểu dương ầm ĩ như vậy nếu không sẽ vi phạm tổ huấn trọng văn khinh võ. Đặc biệt càng không thể miễn trừ việc thích chữ binh lính. Từ Thái Tổ hoàng đế tới nay đã trăm năm lịch sử, lúc nào cũng như vậy. Đây là quy củ Thái Tổ hoàng đế đề ra, không thể dễ dàng xoá bỏ".

Cao Thao Thao nói: "Ai gia đã suy nghĩ rất thận trọng chuyện này. Ai gia nghĩ rằng muốn cho các tướng sĩ một lòng hăng hái chiến đấu giết giặc, có công với triều đình thì không nên có nỗi khuất nhục này".

"Thế nhưng...".

"Chuyện này không cần phải nói nữa. Ý của Ai gia đã quyết, đã hạ chỉ, không thể sửa đổi".

"Thái Hoàng Thái Hậu!" Giọng nói của Lý Thường đột nhiên to hẳn lên. Ông ta lạnh lùng nói: "Nếu làm như thế sẽ khiến võ tướng ngang ngược, tai hoạ hại dân hại nước chẳng còn bao xa. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu không thu lại thánh mệnh, vi thần...vi thần không đành lòng nhìn thấy cơ nghiệp trăm năm thoáng chốc sụp đổ. Vi thần chỉ còn cách cáo lão hồi hương, xin Thái Hoàng Thái Hậu ân chuẩn".

"Lý đại nhận!" Đỗ Văn Hạo thản nhiên bước ra khỏi hàng, hắn lạnh lùng nói: "Ngài dùng chiêu ẩn cư này để bức bách Thái Hoàng Thái Hậu. Ngài đang lợi dụng điểm yếu uy hiếp. Trong mắt ngài có còn Thái Hoàng Thái Hậu không đây?"

Lý Thường vội vàng khom người nói: "Không dám, thần chịu ơn Anh Tông hoàng đế, ơn sâu của Nhân Tông hoàng đế cùng tiên đế. Giữ gìn giang sơn xã tắc là bổn phận của thần. Thần tuyệt đối không dám chỉ biết hưởng sự an nhàn. Nay ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu không ổn, làm trái tổ huấn. Thần không thể không nói thẳng. Nếu làm như thế việc Đại Tống ta mất nước chỉ còn trong nay mai. Vi thần không thể ngăn cơn sóng dữ, chỉ còn cách ẩn cư. Nếu không sau này xuống dưới hoàng tuyền cũng không mặt mũi nào gặp liệt tổ liệt tông".

"Nói cho cùng" Một người phía sau Lý Thường bước ra, đó chính là Tư Mã Quang tuổi già sức yếu. Ông ta liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo rồi khom người nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, vi thần cho rằng Lý đại nhân nói rất đúng. Thái Tổ hoàng đế thấy võ tướng thời Ngũ Đại ngang ngược soán quyền nên mới định ra tổ huấn này. Cũng chính vì tổ huấn này mới có thể bảo toàn vững chắc cơ nghiệp trăm năm nay của Đại Tống. Thái Hoàng Thái Hậu, không thể dễ dàng xoá bỏ. Đây không chỉ còn là chuyện duy trì tổ huấn mà còn là chuyện bảo tồn giang sơn xã tắc. Chuyện này không thể dễ dàng bãi bỏ, xin thỉnh Thái Hoàng Thái Hậu thu hồi thánh mệnh, bảo toàn cơ nghiệp ngàn năm của Đại Tống".

Sau đó hữu Thừa tướng Thái Xác, Xu Mật viện sứ Hàn Chẩn cũng đều bước ra khỏi hàng. Tất cả đều đồng thanh muốn Thái Hoàng Thái Hậu thu hồi thánh mệnh.

Lúc này Đỗ Văn Hạo không thể tiếp tục phản bác bởi vì các võ tướng phía sau hắn đều im lặng như ve mùa đông. Các quan văn đối diện thì càng cao ngạo, không coi ai vào mắt. Bây giờ trực tiếp đối đầu, một mình hắn không thể địch lại. Các võ tướng phía sau hắn đã nhiều năm nhẫn nhịn chịu đựng, không ai có can đảm cùng hắn đứng ra đối đầu với đám quan văn kia vì vậy Đỗ Văn Hạo cũng lặng im.

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao trên điện không nói câu nào, nàng chỉ lặng lẽ lắng nghe đám quan văn đang cực kỳ phấn chấn hùng hồn phân trần. Lần can gián này nói tới hơn một canh giờ.

Đám quan văn kia đều lớn tiếng chỉ trích Thái Hoàng Thái Hậu về quyết định xoa bỏ thích chữ với binh lính, gióng trống khua chiêng tuyên truyền chiến công của võ tướng, bỏ tiền mua tuổi quân của Sương quân cùng với việc đề cao địa vị của võ tướng nhưng bên võ tướng lại không có một ai đứng ra tranh cãi.

Đợi tới khi không còn ai đứng ra nói nữa, Cao Thao Thao mới chậm rãi nói: "Chư vị ái khanh. Ai gia đã suy xét cẩn thận. Bây giờ Ai gia tuyên bố quyết định quan trọng nhất. Chư vị ái khanh hãy nghe rõ. Đỗ Văn Hạo ái khanh tiến lên nghe phong!"

Chương443: Đối chọi gay gắt

Đám quan văn đều buồn bực. Mới rồi còn đang tranh cãi tưng bừng về đãi ngộ, đề cao địa vị của các võ tướng. Tại sao bây giờ Thái Hoàng Thái Hậu lại đổ ngột chuyển đề tài, lại muốn phong quan cho Đỗ Văn Hạo sao? Hơn nữa Đỗ Văn Hạo đã là Trấn Quốc công địa vị cao quý, phong nữa thì lên Vương gia sao? Vì sao lại phong hắn?

Chỉ có Tư Mã Quang, Thái Xác và mấy lão cựu thần đa mưu túc trí mới âm thầm cảm thấy có gì bất ổn. Thái Hoàng Thái Hậu tuyệt đối không vô duyên vô cớ dùng tới thủ đoạn này. Nhất định là Thái Hoàng Thái Hậu có mục đích của mình.

Không để mấy người đó kịp trấn tĩnh lại, Đỗ Văn Hạo đã bước ra khỏi hàng, quỳ rạp xuống đất.

Cao Thao Thao cao giọng nói: "Bạch Y Xã mưu đồ phản nghịch. Tây Hạ cũng liên tục phái gian tế vào Đại Tống chúng ta thu thập tin tức tình báo, lôi kéo làm sa ngã quan lại chúng ta, âm mưu tiến hành phản loạn, xúi giục các hành động phá hoại. Những loạn thần tặc tử mang trong lòng kế hoạch nham hiểm cũng rục rịch ngóc đầu dậy. Để đảm bảo giang sơn Đại Tống chúng ta trường tồn, Ai gia quyết định thành lập cục an toàn quốc gia, phong khanh làm Đề cử cục an toàn quốc gia".

Đỗ Văn Hạo vội vàng dập đầu tạ ơn. Lần này Cao Thao Thao xử dụng từ ngữ hiện đại là do Đỗ Văn Hạo dạy nàng khi trước. Trí nhớ của Cao Thao Thao rất tốt nên nàng nói không sai từ nào.

Văn thần võ tướng trên đại điện không biết cục an toàn quốc gia này là gì, càng không hiểu Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao tuyên bố thành lập một đơn vị như vậy là có mục đích gì nên chăm chú nhìn nàng.

Cao Thao Thao nói tiếp: "Cục an toàn của các ngươi phụ trách truy bắt phạm nhân phạm mười trọng tội, mưu thoán nghịch đại bất kính, tiết lộ bí mật đất nước, phạm tội tư thông với kẻ thù làm tổn hại giang sơn xã tắc, tiến hành truy bắt, thẩm vẫn gián điệp Tây Hạ và Đại Liêu phái vào nước ta. Tóm lại phàm những việc gì ảnh hưởng tới sự an nguy của đất nước đều là những vụ việc nằm trong sự quản lý của các ngươi, do các ngươi phụ trách. Bất kỳ kẻ nào phạm tội gây nguy hại tới an toàn đất nước, tham ô, không làm tròn chức trách, những vụ án này các ngươi có thể độc lập điều tra, bắt giữ, thẩm vấn cùng xét xử cũng như thực hiện. Bộ Hình, Đại Lý Tự và Ngự Sử đài không có quyền quản lý những vụ án này, không được cản trở các ngươi".

Ngay khi Cao Thao Thao nói xong, tất cả quần thần chấn động. Khắp đại điện vang lên tiếng bàn tán to nhỏ.

Cao Thao Thao thành lập cục an toàn quốc gia này không chỉ có phụ trách những vụ án mưu phản, thoán nghịch mà còn cả những vụ án bình thường, thậm chí còn trao quyền là chỉ cần đó là một vụ án thì cục an toàn quốc gia cũng có quyền nhúng tay vào. Cục an toàn quốc gia không chỉ có quyền điều tra độc lập, truy bắt, thẩm vấn mà còn trực tiếp xét xử. Quyền lực này lớn tới mức làm kẻ khác phải kinh sợ.

Người đầu tiên biến sắc là Ngự Sử trung thừa Lý Thường. Ông ta bước ra khỏi hàng, lạnh lùng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, tuyệt đối không thể được. Nếu như trao cho cục mới này quyền lực lớn lao như vậy thì chỉ e sẽ hoàn toàn lấn át tam tỉnh lục bộ. Thậm chí quyền lực còn vượt qua Tể Chấp, gây nguy hiểm cho Hoàng quyền".

Các đại thần đều gật đầu. Mấy đại thần đang định bước ra khỏi hàng khuyên nhủ Cao Thao Thao, không ngờ Cao Thao Thao đã lạnh lùng nói tiếp: "Đỗ ái khanh. Ai gia ban thưởng cho ngươi Thượng Phương bảo kiếm. Khi chấp hành nhiệm vụ, kẻ nào dám dựa vào thế lực chống lại, chém. Đối với quan lại từ tam phẩm trở xuống sau khi kiểm tra chứng thực phạm tội thì có thể tiền trảm hậu tấu. Quan lại từ nhị phẩm trở lên tới trọng thần và Vương công sau khi điều tra rõ tội trạng hãy bẩm báo cho Ai gia định đoạt".

"Thần tuân chỉ!"

Tiêu công công ở bên cạnh cầm một thanh bảo kiếm đi xuống đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Sau khi Đỗ Văn Hạo dập đầu, hai tay hắn cung kính nhận bảo kiếm.

Cao Thao Thao lại nói: "Mặt khác, Ai gia uỷ quyền cho khanh thành lập một đội quân đặc chủng phản ứng nhanh, đảm nhiệm nhiệm vụ tác chiến đặc biệt, đồng thời phụ trách giải quyết những sự vụ phát sinh ở kinh thành. Khanh đảm nhiệm Đô Chỉ Huy Sứ của đội quân đặc chủng này".

"Vi thần tuân chỉ" Đỗ Văn Hạo cao giọng nói.

"Bình thân".

"Tạ ơn Thái Hoàng Thái Hậu!"

Đỗ Văn Hạo đứng dậy, cầm bảo kiếm trước ngực, quay trở lại hàng võ tướng.

Tiếng bàn tán của quần thần càng lúc càng to, bùng nổ như tiếng nổ của chiếc nồi hơi vậy.

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vẫn im lặng lắng nghe.

Khi tiếng bàn tán quá to, Cao Thao Thao đưa mắt nhìn Tiêu công công ở bên cạnh. Tiêu công công hiểu ý, ông ta đi ra trước điện, cất giọng the thé, lạnh lùng: "Chư vị đại nhân. Có chuyện gì thì từng người một nói. Đây là triều đình chứ không phải cái chợ".

Thời Tống việc thảo luận rất dân chủ. Hoàng thượng và các đại thần thường xuyên đấu võ mồm, tranh cãi với nhau. Những trận tranh cãi tưng bừng, long trời lở đất không phải là hiếm nhưng chẳng qua là chuyện này cũng nên từng người một nói nên các quần thần đều im lặng.

Ngự Sử trung thừa Lý Thường cao giọng nói: "Vi thần thấy Thái Hoàng Thái Hậu khăng khăng cố chấp, kiên trì áp đặt. Cách làm này bỏ qua tất cả các nha môn. Vi thần có cảm giác rất đau lòng. Cung thỉnh Thái Hoàng Thái Hậu thu hồi thánh mệnh. Nếu không vi thần xin cáo lão hồi hương. Xin Thái Hoàng Thái Hậu ân chuẩn".

Lý Thường là nguyên lão tam triều. Bây giờ ông ta dùng tới biện pháp cáo quan để khuyên can thì lập tức khiến không khí trong đại điện như đông cứng lại. Hai bên đã rút đao sáng loáng. Các quần thần yên lặng nhìn xem bên nào sẽ nhượng bộ.

Hữu Tể tướng Thái Xác liếc mắt nhìn tả Tể tướng Vương Giai bên cạnh. Ông ta thấy hai mắt Vương Giai nhắm lại, hay tay cầm hốt, chắp lại giống như một lão tăng đang tham thiền nhập định (Cái hốt, ngày xưa vua quan ra chầu đều cầm cái hốt, hoặc làm bằng ngọc, hoặc làm bằng tre, ngà, có việc gì định nói thì viết lên giấy để phòng cho khỏi quên. Ðời sau hay làm bằng ngà voi mà chỉ các quan cầm thôi). Trong lòng Thái Xác đã sớm tính toán rất nhiều lần. Ngay từ khi Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao bộ lộ thái độ kiên quyết của mình, ông ta đã linh cảm có chuyện. Ông ta biết quyết định này của Thái Hoàng Thái Hậu không phải chỉ là hứng lên lúc nhất thời. Lựa chọn tuyên bố lúc các đại thần đang yêu cầu huỷ bỏ đề cao địa vị và đãi ngộ với binh lính cũng tuyệt đối không phải sự trùng hợp mà là cố ý với mục đích riêng.

Bây giờ Thái Hoàng Thái Hậu thành lập một nha môn khác độc lập quyền tư pháp, hành pháp, cũng trao nha môn có quyền lực rất lớn này cho đại thần thân tín nhất là Đỗ Văn Hạo. Con người này từ quan tứ phẩm thăng tiến thẳng lên tới Trấn Quốc công, tam nha Đô Điểm Kiểm, bây giờ lại còn được giao phụ trách thành lập một đội quân đặc chủng. Mục đích hiển nhiên là Thái Hoàng Thái Hậu muốn trợ giúp cho việc cải cách quân đội.

Dưới tình huống kiểu này, nhất định không thể ngang ngạnh đấu với Thái Hoàng Thái Hậu vì vậy Thái Xác quyết định toạ sơn quan hổ đấu, lấy bất biến ứng vạn biến. Lúc này điều quan trọng nhất là bảo vệ được vị trí Tể Chấp nên Thái Xác cũng học Vương Giai, tay cầm hốt, chắp lại giống như một lão tăng nhập định.

Tư Mã Quan lại không phải là con người chỉ biết bo bo giữ mình. Ông ta luôn tuân thủ đạo lý thấy bất bình ra tay. Đặc biệt ông ta rất bất bình với việc Thái Hoàng Thái Hậu thành lập một nha môn có quyền hành áp đảo tất cả các nha môn khác, lại còn thành lập một đội quân đặc chẳng mạng mẽ làm hậu thuẫn. Đối với triều đình đây không phải là điều tốt khi thành lập một nha môn có quyền lực quá lớn.

Bây giờ nguyên lão tam triều Lý Thường dùng cách cáo quan can gián, Tư Mã Quang cảm thấy trong lòng chấn động, nhiệt huyết lên cao. Ông ta ho khan một tiếng, đang định bước ra khỏi hàng khuyên can thì nghe thấy Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao khẽ hỏi: "Lý ái khanh, Ai gia hỏi khanh, khanh quả thực muốn từ quan sao?"

Lý Thường thầm hạ quyết tâm, ông ta trầm giọng nói: "Dạ! Xin Thái Hoàng Thái Hậu ân chuẩn".

"Được. Ai gia ân chuẩn cho khanh cáo lão hồi hương. Lập tức có hiệu lực. Hôm nay hoàn thành việc bàn giao công việc".

Triều Tống cực kỳ chú trọng lễ nghi. Việc tiếp nhận sắc phong cùng cáo lão hồi hương đều thực hiện theo quy trình ba thỉnh, ba giữ. Khi triều đình sắc phong một viên quan đảm nhiệm chức vụ gì cũng phải ba mời. Viên quan đó phải dâng biểu từ chối hai lần. Khi triều đình yêu cầu lần thứ ba mới miễn cưỡng đồng ý. Đây chính là hình thức đã được ước định như vậy để chứng tỏ sự khiêm nhường của viên quan đó. Đối với quan lại cáo lão hồi hương, triều đình cũng giữ lại hai lần. Khi viên quan dâng biểu thỉnh cầu lần thứ ba mới miễn cưỡng đồng ý để tỏ vẻ triều đình coi trọng người cáo lão.

Chính vì nguyên nhân có quy củ này nên Lý Thường mới dám thẳng thừng thỉnh cầu như vậy. Ông ta vốn nghĩ rằng Thái Hoàng Thái Hậu sẽ tuân theo tam lưu, không ngờ mới chỉ lần đầu đã ân chuẩn. Hơn nữa Thái Hoàng Thái Hậu còn bắt ông ta lập tức từ quan nên lập tức choáng váng, hoa mắt.

Văn võ bá quan trong triều sợ tới ngây cả người. Tất cả ai cũng đều biết Lý Thường chỉ là cậy già lên mặt, dùng cách từ quan để bức Thái Hoàng Thái Hậu thu hồi thánh mệnh đã ban nhưng không ai ngờ Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao không để ý gì tới tục lệ cũ, ân chuẩn ngay lập tức cho Lý Thường cáo lão hồi hương.

Lý Thường thoáng run rẩy người. Thực lòng ông ta cũng không muốn ẩn cư. Dù ông ta là nguyên lão tam triều nhưng tuổi còn ít hơn cả Vương Giai mấy tuổi. Sức khoẻ ông ta cũng không có vấn đề gì, làm gì có chuyện muốn ẩn cư. Ông ta chỉ dùng nó gây sức ép mà thôi. Khi Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao nói xong ông ta bước lên hai bước, khom người nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, ý của lão thần...".

Cao Thao Thao không để ý tới Thái Xác, nàng lạnh lùng nói: "Tư Mã ái khanh tiến lên nghe phong".

Tư Mã Quang thoáng sửng sốt. Ông ta không ngơg Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lại sắc phong cho mình. Bản thân ông ta cũng không biết mình sẽ được phong chức quan nào.

Sau khi Vương An Thạch thi hành biến pháp. Tư Mã Quang là nhân vật tiêu biểu của phe bảo thủ. Vì nguyên nhân phản đối biến pháp nên ông ta bị biếm quan chỉ còn lưu lại chức vị Tư Chính điện học sĩ. Ông ta cũng biết Thái Hoàng Thái Hậu là thủ lĩnh của phe bảo thủ phản đối biến pháp, một khi nắm quyền trong tay nhất định sẽ trọng dụng những người của phái bảo thủ nhưng ông ta thực sự không biết Thái Hoàng Thái Hậu sử dụng mình thế nào. Bây giờ nghe Thái Hoàng Thái Hậu muốn phong cho mình, ông ta vừa mừng vừa sợ, lập tức vứt bỏ chuyện muốn hát phụ hoạ với Lý Thường sang một bên. Tư Mã Quang bước ra khỏi hàng, quỳ xuống dập đầu.

Cao Thao Thao không trực tiếp tuyên bố bổ nhiệm ngay. Nàng lại cao giọng nói: "Thái Xác, Thái ái khanh tiến lên nghe phong".

Nghe vậy, lòng Thái Xác rét run. Ông ta đã là hữu Tể tướng, chức quan chỉ còn thấy hơn tả Tể tướng Vương Giai. Lúc này Vương Giai vẫn chưa bị bãi miễn nên không thể có chuyện cướp đoạt quyền. Khi ông ta nghe Thái Hoàng Thái Hậu nói bản thân mình tiến lên nghe phong, ông ta liền hiểu lần này chỉ có xuống chứ không có lên. Thời cổ đại cho dù bị bãi quan cũng phải tiến lên nghe phong, thậm chí còn phải dập đầu tạ ơn.

Thái Xác buồn rầu bước ra khỏi hàng, quỳ xuống.

Cao Thao Thao nói: "Ngự Sử trung thừa Lý Thường cáo lão hồi hương. Thái ái khanh là người trung hậu, bênh vực lẽ phải, có thể đảm nhận chức vị này. Nay khanh thay thế Lý Thường, Lý ái khanh, nhậm chức Ngự Sử trung thừa".

Mặc dù chức quan Ngự Sử trung thừa cũng alf trọng thần trong triều nhưng không thuộc nhóm Tể Chấp. Thái Xác là hữu Thừa tướng nay điều sang nhậm chức Ngự Sử trung thừa nên đương nhiên bị hạ chức.

Trong lòng Thái Xác quả thực không có cảm xúc nào. Ông ta biết bản thân mình ủng hộ biến pháp cảu Vương An Thạch. Sau khi Thái Hoàng Thái Hậu bước lên vũ đài chính trị đã huỷ bỏ toàn bộ biến pháp. Ông ta đã biết bản thân mình sẽ có ngày này nhưng ông ta không ngờ nó lại tới một cách cay đắng như vậy. Trong lòng dù đang rất chua xót nhưng vẫn còn phải dập đầu tạ ơn.

Cao Thao Thao lại nói: "Tư Mã ái khanh. Nay Ai gia phong khanh làm hữu Thừa tướng kiêm Hoàng thượng thị độc (người hầu cận) ".

Văn võ bá quan lắp bắp kinh hãi. Không ai ngờ Ngự Sử trung thừa Lý Thường không đồng ý với biến pháp của Thái Hoàng Thái Hậu dùng cách từ quan ép buộc, Thái Hoàng Thái Hậu lại lập tức đồng ý rồi ngay lập tức tiến hành thay đổi chức quan. Một chiêu giết gà doạ khỉ, gõ sơn chấn hổ này đã chế ngự đựơc tất cả văn võ bá quan dưới điện.

 Chương 444: Chèn ép

Gương mặt già nua của Lý Thường lúc đỏ lúc trắng, đôi môi run rẩy. Ông ta muốn nói gì đó để vãn hồi lại nhưng lại không biết mở miệng thế nào nên đánh nhìn Tư Mã Quang cầu cứu.

Nhưng trong lúc này tâm trạng của Tư Mã Quang lại phấn chấn như những ngày huy hoàng xưa cũ. Trong lòng ông ta cũng hiểu rất rõ ràng Thái Hoàng Thái Hậu đề bạt ông ta cũng không phải để ông ta chống đối với mình, không phải là không thể thành lập cái nha môn có quyền lực siêu việt kia, cũng không phải không thể đứng vững trước sức ép. Vấn đề mấu chốt chính là nhìn người.

Thật ra bản thân Tư Mã Quang cũng rất tin tưởng vào nhân phẩm của ân nhân cứu mạng mình. Ông ta tin tưởng con người này tuyệt đối không làm gì có hại cho quốc gia xã tắc vì vậy ông ta đã có quyết định đứng ngoàii chuyện này. Ông ta rất vất vả mới có quyền lực nên không muốn mất đi. Tuổi ông ta đã cao nên không muốn vào những năm tháng gần đất xa trời lại để sự nghiệp của mình biến mất.

Lần này Tư Mã Quang chính là người cầm đầu phe phản đối đề cao địa vị của võ tướng. Ông ta chưa nói lời nào, Vương Giai chưa nói lời nào. Thái Xác đã bị hạ chức. Lý Thường bị éo bãi quan lui về ở ẩn. Thượng phương bảo kiếm trao cho tân quan Đề Cử cục an toàn, Đô Chỉ Huy Sứ đội quân đặc chủng Đỗ Văn Hạo. Một loạt hành động này đã trấn áp được quần thần. Ai nấy đều biết không phải Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao trưng cầu ý kiến của mọi người mà bày ra thế nhất định phải làm. Ai dám ngăn cản thì hãy nghĩ tới hậu quả.

Cao Thao Thao nhìn lướt qua đám quần thần yên lặng như ve mùa đông, chậm rãi nói: "Tiểu Tiêu tử, hãy phái người hộ tống Lý ái khanh từ quan về nhà".

Tiêu công công khom người trả lời rồi phất tay. Mấy điện tiền thị vệ lập tức bước tới điệu Lý Thường đi ra ngoài đại điện.

Lý Thường nức nở gào lên: "Thái Hoàng Thái Hậu, Thái Hoàng Thái Hậu..." Mới gào được mấy tiếng. Ông ta vẫn chưa kịp nghĩ ra cách nào để lấy lại thể diện thì đã bị đám thị vệ kéo ra ngoài Tử Hoàn điện.

Âm thanh của Lý Thường, quần thần trên điện đưa mắt nhìn nhau, bầu không khí tĩnh lặng như tờ.

Cao Thao Thao lạnh lùng nói: "Đại Tống ta hơn một trăm triệu người. Thiếu tiền, thiếu lương, thiếu nhà ở chứ không thiếu người. Ái khanh nào không muốn ở lại thì cứ việc lên tiếng. Đừng tưởng thiếu mình thì Đại Tống không còn tồn tại. Vầng thái dương phía đông không bao giờ tắt. Ha ha. Ai gia tin tưởng rằng dù các khanh không muốn làm thì bên dưới còn rất nhiều người nguyện ý. Còn ái khanh nào muốn từ quan nữa không?"

Trên đại điện vô cùng tĩnh lặng, không một động.

Nguyên nhân gây ra chuyện này là do việc đề cao địa vị của võ tướng mà nên vì vậy việc thành lập một nha môn có quyền lực siêu việt khác cũng khiến đám võ tướng bất mãn nhưng tất cả đều biết mục đích của Thái Hoàng Thái Hậu là muốn đề cao võ tướng, tiến hành cải cách quân đội. Việc thành lập nha môn này cũng là để đảm bảo việc cải cách quân đội có thể tiến hành thuận lợi. Mục đích thứ nhất của cải cách này là đề cao địa vị của võ tướng nên đã được lòng các võ tướng. Hiển nhiên bây giờ không một võ tướng nào bước ra phản đối.

Trong khi đó quan văn cũng rất giỏi tính toán cò con. Nếu bình tĩnh xét đoán thì việc đề cao võ tướng cũng chỉ khiến võ tướng gần có địa vị như quan văn mà thôi chứ không thể có địa vị cao hơn quan văn vì vậy đây cũng không phải vấn đề có tính nguyên tắc. Hơn nữa cũng cần hiểu rằng bản thân võ tướng tắm máu quyết chiến quyết thắng hẳn cũng nên ban thưởng công lao. Việc xoá bỏ thích chữ binh lính cũng chẳng có gì quan trọng. Sở dĩ đám quan văn vào hùa theo mấy người Lý Thường, Tư Mã Quang vì chỉ muốn đảm bảo đặc quyền của quân văn mà thôi, bảo đảm sự kiêu căng của mình trước mặt đám võ tướng mà thôi. Cho dù địa vị của đám võ tướng có được đề cao thì sự đãi ngộ với đám quan văn bọn họ cũng không bị tổn hại, cùng lắm thì hai bên ngang bằng. Nói cho cùng thì vẫn có thể chấp nhận được.

Hiện tại Tư Mã Quang đã được đề bạt làm hữu Thừa tướng kiêm Trung thư thị lang, đã bị mua chuộc. Lý Thường chỉ vì nhanh mồm nhanh miệng, lấy việc cáo lão hồi hương ép bức kết quả bị Thái Hoàng Thái Hậu hạ chỉ bãi quan. Điều này chứng tỏ Thái Hoàng Thái Hậu muốn làm tới cùng. Bây giờ chẳng còn ai dám mang tiền đồ của mình bước ra phản đối cả.

Cao Thao Thao thấy không còn ai phản đối, nàng liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo. Hai người cùng nhếch miệng cười. Trước đó hai người cũng đã dự đoán được chuyện này, đã đề ra các phương án đề phòng. Mọi chuyện xảy ra hôm nay đều nằm trong các dự đoán của hai người nên Cao Thao Thao mới dựa theo dự tính của mình mà tiến hành. Quả nhiên vừa ra quân đã đánh thắng.

Cao Thao Thao chậm rãi nói: "Tất cả những ý chỉ của Ai gia, Ai gia đã suy tính rất kỹ lưỡng. Chỉ mong chư vị ái khanh hãy hiểu lòng Ai gia, có thể trợ giúp Ai gia".

Cuối cùng Vương Giai bước ra khỏi hàng, chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu gắng sức, tận tâm tận lực vì nước mạnh binh cường. Chúng thần nhất định sẽ tận tâm tận lực phò tá Thái Hoàng Thái Hậu hoàn thành nỗi khổ tâm này".

Thái Xác cũng bước ra khỏi hàng, cất lời ngợi khen kế sách trị quân cùng việc hao tổn tâm trí trị quốc của mình.

Đỗ Văn Hạo thầm than thở. Thái Xác quả thực không hổ là lão luyện trong quan trường. Trong bất kỳ tình huống nào ông ta vẫn có thể duy trì sự trấn tĩnh của mình. Hơn nữa còn có thể vuốt mông ngựa mà sắc mặt vẫn không đổi. Có thể nói là không quan tâm tới thắng thua.

Thái Kinh, phủ doãn phủ Khai Phong bước ra khỏi hàng, cầm hốt nói: "Đại Tống ta suy nhược lâu ngày, nguyên nhân chủ yếu là tại Sương quân. Đây chính là nhận thức chung của cả triều đình và dân chúng. Tiên đế cũng vì việc này mà cố gắng giải quyết. Nay Thái Hoàng Thái Hậu và Trấn Quốc công kiên quyết, dùng suy nghĩ bất đồng để loại bỏ ung tật này. Quả thực thái độ kiên quyết đi tiên phong này rất đáng quý. Hơn nữa hiệu quả cho tới lúc này rất vững chắc. Việc cắt giảm Sương quân không những không có tác hại ngược lại mà còn nhận được rất nhiều lời khen. Bởi vậy có thể thấy được hành động lần này thu được lòng người rất sâu đậm. Tuy có mất một ít tiền nhưng xét về lâu dài thì lợi nhiều hơn hại vì vậy vi thần thực sự ủng hộ".

Cao Thao Thao gật đầu, nàng nhìn Thái Kinh gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nhìn Thái Kinh. Hắn thầm nghĩ tên đại gian thần này đã bắt đầu bộc lộ bản lĩnh. Xem ra bản thân hắn phải nhanh chóng ra tay, không thể để tới sau khi Thái Kinh thành công được.

Tư Chính điện đại học sĩ Lữ Công bước ra khỏi hàng, tay cầm hốt ra sức tán dương. Lão đại học sĩ này cũng là nguyên lão tam triều nhưng thuộc thành phần kiên định của phái bảo thủ. Sau màn ca tụng của Lữ Công, liên tiếp Hàn lâm học sĩ Lữ Đại Phòng, Lại bộ Thượng thư Phạm Thuần Nhân, Ngự Sử tri tạp sự Lưu Kình. Thượng thư bộ Hộ Kỳ Trung Ngạn, Hàn lâm học sĩ Hứa Tương, thị lang bộ Hộ Triệu Chiêm bước ra đồng thanh ca tụng Thái Hoàng Thái Hậu.

Phần lớn những người này khi trước thuộc phải bảo thủ, phán đối quyết liệt biến pháp của Vương An Thạch vì sự phản đối của mình mà bị biếm quan. Thái Hoàng Thái Hậu là thủ lãnh của phái bảo thủ phản đối biến pháp. Lần này bọn họ đứng ra ủng hộ Thái Hoàng Thái Hậu không phải cho rằng những biện pháp này của Thái Hoàng Thái Hậu rất hay mà chỉ là một thái độ biểu thị thái độ cùng tiến cùng lùi.

Lúc này Xu Mật viện sứ Hàn Chẩn sắc mặt tái nhợt. Ông ta chậm rãi bước ra khỏi hàng, quỳ trên mặt đất, cầm hốt nói: 'Thái Hoàng Thái Hậu, lão thần không phải là muốn cáo lão hồi hương nhưng lão thần vẫn không thể hiểu được đối với việc xóa bỏ thích chữ của binh lính, gióng trống khua chiêng biểu giương chiến công, đề cao địa vị quân nhân và thành lập một nha môn có quyền lực siêu việt. Tuy có vết xe đổ của Lý Thường nhưng bản thân lã thần là Xu Mật viện sứ không thể cứ ngồi yên nhìn việc coi thường tổ huấn xảy ra trước mắt mình. Lão thần khẩn cầu Thái Hoàng Thái Hậu thu hồi thánh mệnh. Lấy việc bảo toàn giang sơn xã tắc làm trọng".

Các đại thần vô cùng kinh hãic. Trước đó đã có Lý Thường vì phản đối cải cách của Thái Hoàng Thái Hậu mà bị cách chức, Hàn Chẩn lại vẫn dám mạo hiểm. Quả thực rất dũng cảm nhưng hậu quả thì rất đáng tiếc.

Thái Hoàng Thái Hậu cũng không ngờ vẫn còn xuất hiện một kẻ không sợ chết, hơn nữa người này cũng lại là nguyên lão tam triều nên nàng liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo.

Hai tay Đỗ Văn Hạo nắm lại để ngang ngực. Hai mắt nhìn nàng chớp chớp. Đây chính là ám hiệu của hai người. Ý muốn để nàng bình tĩnh không nóng vội. Chờ đợi một lát xem còn có ai đứng ra phản đối rồi mới áp dụng biện pháp phản công.

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Hàn ái khanh, ý của Ai gia đã quyết. Khanh không muốn...".

"Thái Hoàng Thái Hậu!" Hàn Chẩn cao giọng nói: "Thời Ngũ đại thập quốc, chính vì đề cao võ tướng nên đã phá vỡ chuyện triều đình. Chuyện này nhất quyết không thể tiếp tục tái diễn".

Cao Thao Thao bình tĩnh nhìn lướt qua quần thần bên dưới: "Chư vị ái khanh, còn ái khanh nào tán thành lời can gián của Hàn ái khanh không?"

Lời nói này ẩn chứa sự uy hiếp. Có mấy quan văn vốn định bước ra khỏi hàng phụ hoạ theo nhưng vội vàng bo bo giữ mình rụt chân lại.

Thế nhưng vẫn có mấy người có dũng khí bước ra can gián. Những người này ngày thường đều có giao hảo với Lý Thường, Hàn Chẩn. Phó viện sứ Xu Mật viện Lâm Hi bước ra trước tiên, tỏ vẻ ủng hộ sau đó tới Thượng thư tả thừa Thái Biện, Thượng thư hữu thừa Hoàng Lý, chính điện đại học sĩ Hàn Duy, thị Ngự Sử Thịnh Đào lần lượt bước ra khỏi hàng.

Cao Thao Thao thoáng biến sắc. Bốn người đầu tiên đều là Tể Chấp đương triều, nằm trong nhóm tám vị Tể Chấp. Vương Giai và Đỗ Văn Hạo một bên. Thái Xác đã bị cách chức đổi lại là người của mình Tư Mã Quang. Ngoại trừ Môn hạ thị lang Chương Hoàng vẫn yên lặng, không ra mặt. Bốn vị Tể Chấp khắc đã ra mặt phản đối nên khiến Cao Thao Thao không khỏi bối rối, nàng liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo.

Hàn quang hiện lên trong mắt Đỗ Văn Hạo, bàn tay trước ngực hắn khẽ lật. Đây là ám hiệu của hai người: Động thủ, kiên quyết ra tay.

Cao Thao Thao đang định nói thì Thái sư Văn Ngạn Bác chậm rãi bước ra khỏi hàng, ông ta cầm hốt nói: "Đất nước suy kiệt, Nhũng binh là một trong những nguyên nhân quan trọng. Lần nay Thái Hoàng Thái Hậu ra tay sửa trị nhũng binh, lão thần cho rằng đã hốt thuốc đúng bệnh. Nếu có tai hoạ gì, lão thần sẽ lấy cái chết đền nợ nước".

Mấy câu nói đó cũng không có gì gọi là cường điệu nhưng rất có khí phách. Lập tức trên đại điện bầu không khí lặng ngắt như tờ.

Thái sư Văn Ngạn Bác năm nay hơn thất tuần, đức cao vọng trọng, nguyên lão tứ triều. Hơn nữa nhân tài trong gia tộc xuất hiện lớp lớp. Con cháu có mấy người được phong Ấm (ấm - thời đại phong kiến, do cha ông có công mà đem lại quyền lợi cho con cháu được đi học và được bổ làm quan). Tằng tổ phụ là Yên Quốc công, tổ phụ là Chu Quốc công, phụ thân là Nguỵ Quốc công. Bản thân ông ta ngay từ thời Tống Nhân Tông đã là thị đồng trung thư môn hạ, Bình chương sự, Chiêu Anh quán đại học sĩ. Thời Anh Tông là Xu Mật viện sứ. Thời Tống Thần Tông vì phản đối biến pháp của Vương An Thạch mà bị cách xuống làm quan địa phương nhưng được gia phong làm nhất phẩm Thái sư. Điều này có thể thấy được địa vị của Văn Ngạn Bác trong mắt Tống Thần Tông. Trong triều đình, ông ta rất ít khi nói những mỗi khi nói đều là chuyện chuẩn mực. Tiếng nói rất có trong lượng.

Lần này đây Văn Ngạn Bác đứng ra ủng hộ việc cải cách quân đội cùng với thành lập cục an toàn của Thái Hoàng Thái Hậu. Một khi lão gia hoả này đã đứng ra ủng hộ, đương nhiên trọng lượng không giống người khác.

Lập tức Cao Thao Thao phấn chấn tinh thần. Nàng không nhịn được tươi cười nói: "Được Thái sư đắc lực ủng hộ Ai gia, Ai gia rất vui mừng.

Văn Ngạn Bác khom người nói: "Hoạ nhũng binh đã rõ như ban ngày. Mọi người đã khoe khoang múa bút đánh dẹp nhiều năm nhưng không bao giờ chạm tới vấn đề mấu chốt. Chúng ta không thể chỉ có thể khoa chân múa tay nói phét lác trên triều đình mà không thực sự ra tay hành động. Nay Thái Hoàng Thái Hậu cắt giảm nhũng binh, lão thần nguyện dùng tính mạng mình đảm bảo".

"Đa tạ lão Thái sư".

Mắt Cao Thao Thao ươn ướt, nàng liên tiếp gật đầu rồi nhìn lướt qua đám quần thần bên dưới, chậm rãi nói: "Ai gia thường nghe tiên đế nói qua. Một bề tôi không thể ngồi trên một chức quan quá lâu, nhất định phải thay phiên. Phải tôi luyện ở những vị trí khác nhau thì mới tôi luyện được bản lĩnh của mình, tăng cường kiến thức, tăng bản lĩnh an bang trị quốc. Hiện này đã cách lần cuối cùng tiên đế điều chỉnh quan lại ở các nha môn hơn một năm. Ai gia buông rèm nhiếp chính đã được hai tháng, cần phải có sự điều chỉnh. Ai gia quyết định hôm nay điều chỉnh phần lớn quan chưởng ấn các nha môn trong triều cùng với các vị trí tá quan.

Lập tức quần thần đều ngẩn người. Lúc này đây Thái Hoàng Thái Hậu thay đổi vị trí quan lại không phải là chủ ý nhất thời. Rõ ràng là ra tay với phái chống đối, gây dựng thế lực cho mình. Xu Mật viện Hàn Chẩn vừa mới bước ra khỏi hàng chống đối Thái Hoàng Thái Hậu quyết liệt thì lại càng toát mồ hôi trán. Ông ta giờ đây cũng không biết vận mệnh của mình như thế nào.

 Chương 445: Thuận hưng thịnh, nghịch chết

Cao Thao Thao chậm rãi nói: "Phó Xu Mật viện sứ Lâm Hi điều đi làm tri phủ Dương Châu. Thượng thư tả thừa Thái Biện điều đi làm tri phủ Trì Châu. Thượng thư hữu thừa Hoàng Lý điều làm tri phủ Việt Châu. Chính điện đại học sĩ Hàn Duy điều đi Tân Châu nhậm chức thôi quan. Thị Ngự Sử Thịnh Đào điều đi Tân Châu làm Đoàn Luyện phó sứ".

Lập tức sắc mặt mấy người này xám như tro tàn. Mấy người vừa mới theo chân Hàn Chẩn gây náo loạn đã bị biếm ra khỏi kinh thành làm quan địa phương. Đặc biệt cả ba người Lâm Hi, Hoàng Lý, Thái Biện đều đường đường là Tể Chấp cũng bị biếm đi làm Tri phủ, giống như là từ vị trí uỷ viên thường vụ trung ương bị giáng xuống làm thị trưởng các địa phương.

Hai người Hàn Duy, Thịnh Đào lại càng thê thảm hơn, bị đày tới Tân Châu, thực ra chính là Lĩnh Nam. Vào thời Tống, Lĩnh Nam chính là vùng đất xa xôi, hẻo lánh lạc hậu, chủ yếu dùng làm nơi lưu đày. Tô Thức đã có thơ: "Hỏi ông núi Ngũ Lĩnh nơi đâu, có thấy mấy người xuôi nam từng quay lại?" (Mình tạm chuyển nghĩa như vậy)

Nói cách khác một khi bị đày tới đây không có mấy người còn sống quay về.

Mấy viên này mặt tái nhợt bước ra khỏi hàng, quỳ xuống, dập đầu tạ ơn. Cho dù bị giáng chức mà vẫn phải nói tạ ơn. Đây chính là cái gọi hàm răng đánh lập cập nuốt vào trong bụng.

Thủ lĩnh Hàn Chẩn vẫn chưa bị xử lý nên ánh mắt quần thần đều tập trung vào ông ta.

Cao Thao Thao cố ý để Hàn Chẩn lại cuối cùng. Nàng liếc nhìn thì thấy Hàn Chẩn vẫn quỳ trên mặt đất, tay cầm hốt, miệng cười thảm vẻ bất lực.

Trong lòng Cao Thao Thao có chút không đành lòng nhưng nàng nhớ Đỗ Văn Hạo đã nói: Không được nhân từ, không được để lại hậu hoạ, phải kiên quyết hạ thủ thì mới có khả năng khiến cho cải cách quân đội tiến hành thuận lợi.

Vì vậy Cao Thao Thao lạnh lùng nói: "Xu Mật viện Hàn Chẩn điều đi làm Tri phủ Quỳnh Châu".

Quỳnh Châu ở đảo Hải Nam. Vào thời Tống, đảo Hải Nam còn hoang vu hơn nhiều so với Lĩnh Nam, là nơi chướng khí hoang dã chưa khai phá. Bị cách chức tới đây, dựa vào điều kiện sinh tồn ở nơi đó thì có thể nói mạng sống đã mất đi chín phần, cũng chẳng khác gì so với xử tử lăng trì.

Vì vậy khi Cao Thao Thao vừa nói ra, tất cả văn thần võ tướng trên đại điện đột nhiên cảm thấy sống lưng mình rét lạnh như đang trong giữa trời đông giá rét. Hàn Chẩn đường đường là bậc tôn sư Tể Chấp đương triều, chỉ vì phản đối cải cách của Thái Hoàng Thái Hậu mà bị cách chức điều tới một nơi xa xôi nhất, lạc hậu nhất thì có thể thấy Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao tàn nhẫn như thế nào với những người phản đối mình. Sự trừng phạt này đã lên tới cực đỉnh.

Hàn Chẩn run rẩy, chiếc hốt ngà voi trong tay rơi xuống đất "keng' một tiếng, ông ta cười sầu thảm nói: "Lão thần tạ ơn long ân Thái Hoàng Thái Hậu".

Trên đại điện tĩnh lặng, không cả có tiếng ho khan. Hàn Chẩn cúi người nhặt chiếc hốt trên mặt đất, liếc mắt nhìn xung quanh, lòng thầm chua xót. Sau này không cần dùng tới đồ chơi này nữa. Dựa vào tuổi tác, sức khoẻ của ông ta, đi tới Hải Nam còn sống hay không đã là một vấn đề, càng không nói tới việc còn sống quay về. Chỉ e ông ta sẽ chết trên đường đi.

Hàn Chẩn chậm rãi ngẩng đầu, chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, có thể xem xét lão thần có mẹ già ở nhà mà thay đổi địa phương được không?"

Cao Thao Thao thản nhiên nói: "Núi có thể rời nhưng châu thì không".

Những lời này giống như một gậy giáng vào đầu, đạp tan hy vọng cuối cùng của Hàn Chẩn, càng làm đám quần thần không rét mà run. Ngay cả Đỗ Văn Hạo cũng thấy rùng mình. Hắn thầm nghĩ người phụ nữ này khi đã hung ác thì quả thật không giống với người thường.

Trước đây khi hai người thương lượng đối sách với chuyện này, Đỗ Văn Hạo chỉ bảo Cao Thao Thao kiên quyết cách chức phái phản đối ra khỏi kinh thành là được nhưng không ngờ Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lại làm rất hay. Nàng không chỉ cách chức bốn Tể Chấp xuống làm quan địa phương mà còn đẩy kẻ cầm đầu Hàn Chẩn ra đảo Hải Nam. Đặc biệt câu nói cuối cúng khí thế hung hăng như chém đinh chặt sắt, rất có khí phách của một Thiết nương tử.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo cảm thấy Cao Thao Thao ra tay hơi quá với phái phản đối cải cách nhưng khi mới bắt đầu tàn nhẫn một chút cũng hay. Gõ sơn chấn hổ, nhất định việc cải cách sẽ tiến hành thuận lợi. Cùng lắm là đợi một thời gian nữa khi cải cách bước vào quỹ đạo của nó thì lại điều những người này tới làm quan ở một nơi tốt hơn là được.

Cao Thao Thao ngồi thẳng người nói: "Vị trí của những ái khanh đã bị điều chuyển do bộ Lại phụ trách sắp xếp bẩm báo Ai gia quyết định".

Thượng thư bộ Lại Phạm Thuần Nhân vội vàng khom người trả lời.

Cao Thao Thao lại nói: "Tư Chính điện học sĩ Lữ Công, Hàn lâm học sĩ Lữ Đại Phòng, Thượng thư bộ lại Phạm Thuần Nhân, thị Ngự Sử tri tạp sự Lưu Kình, Thượng thư bộ Hộ Hàn Trung Ngạn, Hàn lâm học sĩ Triệu Chiếm tiến lên nghe phong".

Mấy người đó vừa mừng vừa sợ, vội vàng cầm hốt bước ra khỏi hàng, quỳ xuống dập đầu.

"Lữ Công thăng lên chức Xu Mật viện sứ. Lữ Đại Phòng thăng lên phó Xu Mật viện sứ. Thạm Thần Nhân thăng lên Thượng thư tả thừa. Lưu Kình thăng lên Thượng thư hữu thừa".

Trong bốn người bước ra ủng hộ cải cách của Cao Thao Thao đã có ba người là những nhân vật hàng đầu của phái bảo thủ đã tiến vào Tể Chấp, tham gia vào những quyết sách cao nhất. Lưu Kình là người của phái trung gian nhưng lúc trước có bày tỏ thái độ ủng hộ cải cách của Cao Thao Thao nên cũng được phong vào Tể Chấp. Hiển nhiên điều này cũng cho thấy ý chí vô tư của Cao Thao Thao.

Cao Thao Thao lại nói: "Thái sư Văn Ngạn Bác tiến lên nghe phong".

Sự ủng hộ làm uy danh của Cao Thao Thao đại chấn vì vậy việc phong thưởng sẽ không kém chút nào.

Văn Ngạn Bác cầm hốt chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, lão thần đã tám mươi mốt tuổi, thật sự không thể gắng sức vì nước. Tiên đế cũng ban thưởng lão thần rất nhiều vinh quang. Không cần phải ban thưởng nữa".

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Ai gia còn chưa phong thưởng cho khanh. Khanh vì nước mà ra sức hơn nửa đời người. Công lao không ai sánh kịp. Ai gia muốn phong thưởng, khanh không cần phải quỳ xuống. Chỉ cần tiến lên nghe phong là được".

"Đa tạ Thái Hoàng Thái Hậu" Văn Ngạn Bác tuổi già sức yếu, ông ta chống một cây Long Đầu Quải trượng run run bước lên trước điện nghe chỉ.

Cao Thao Thao suy nghĩ một lát rồi nói: "Ai gia phong cho khanh làm Bình Chương Quân Quốc Trọng sự, đứng trên hàng Tể tướng. Miễn cho khanh hành đại lễ quân thần. Mười ngày một lần tới thương nghị quốc sự".

Văn Ngạn Bác run rẩy, nói: "Tạ ơn long ân Thái Hoàng Thái Hậu".

Bình Chương Quân Quốc Trọng sự là danh hiệu để vinh danh trọng thần nguyên lão. Địa vị còn cao hơn cửa Tể tướng đương triều. Đúng là dưới một người, trên vạn người. Cao Thao Thao ban cho Văn Ngạn Bác vinh dự này cũng là thăng thưởng tới tột đỉnh.

Văn võ bá quan đều sợ ngay người khi xảy ra chuỵên lớn như vậy. Một số người vốn muốn bước ra khải tấu nhưng bị chuyện này làm chấn động, không dám bước ra bẩm báo, đành đứng yên xem diễn biến tiếp theo.

Cao Thao Thao nói thêm mấy câu động viên rồi tuyên bố bãi triều. Suốt cả buổi lâm triều, Tống Triết Tông không nói câu nào bởi vì hắn mới chỉ là một đứa trẻ. Dù bản thân có là Hoàng thượng nhưng chưa thể tham dự triều chính nên đương nhiên không thể phát biểu tuỳ tiện nếu không người khác dù không phản đối nhưng cũng không nghe hắn.

Sau khi tan triều, Đỗ Văn Hạo cầm Thượng Phương bảo kiếm quay về nhà. Sau khi hắn thuật lại chuyện trong triều cho mấy người Vương Nhuận Tuyết nghe, tâm trạng mọi người nửa vui nửa buồn. Được triều đình coi trọng đương nhiên trong lòng rất cao hứng nhưng nay làm quân mai làm thần. Kết cục của mấy người Hàn Chẩn hôm nay cũng không có gì bảo đảm không phải là kết cục mai này của mọi người.

Tâm trạng Đỗ Văn Hạo cũng u buồn khi nghe mấy nàng nói. Nhưng bây giờ đã lâm vào tình trạng này. Không vào thì thôi, một khi đã vào chỉ có thể tiến lên mà thôi.

Phủ đệ của Ngự Sử trung thừa Lý Thường.

Sau khi Lý Thường dùng chiêu cáo lão nên bị cách chức, ông ta tức giận nãg bệnh, nằm trên giường hơn nửa tháng.

Buổi sáng hôm nay con trai Lý Thường là Lý Đoan lo lắng ngồi trước giường, hắn nhìn gương mặt tiều tuỵ của phụ thân, dè dặt nói: "Phụ thân, bệnh của người đã mời nhiều Thái y tới xem nhưng vẫn không thuyên giảm. Hay để hài nhi tới khẩn cầu Đỗ Tể Chấp, mời ông ấy tới nhà xem bệnh cho phụ thân. Hài nhi nghe nói ông ấy là người có trái tim nhân hậu, không phân biệt...".

"Ngươi dám!" Lý Thường lạnh lùng nói, bởi vì ông ta tức giận nên ho một , tay run run chỉ vào Lý Đoan nói: "Không cho ngươi đi cầu cạnh tên tiểu nhân đắc chí đó. Vi phu dù có chết cũng tuyệt đối không cầu xin hắn".

"Dạ dạ" Lý Đoan vội vàng trả lời. Đang trong lúc vô kế khả thi thì bất chợt tiếng bước chân dồn dập vang lên ngoài phòng. Một tên đầy tớ hốt hoảng chạy vào trong phòng, thở hổn hển nói: "Lão gia, thiếu gia, xảy ra chuyện lớn rồi".

Lý Đoan tức giận nói: "Kêu là cái gì? Không thấy lão gia bị bệnh dang nằm trên giường sao?"

"Dạ dạ" Tên đầy tớ vội vàng khom người nói

Lý Thường vội vàng nhỏm người dậy hỏi: "Có chuyện gì vậy".

"Bẩm lão gia, Đỗ Văn Hạo, Đỗ Tể Chấp tới".

Lý Đoan vừa mừng vừa sợ nói: "Đỗ Tể Chấp tới sao? Mau mời vào đây".

"Không được phép" Lý Thường lạnh lùng nói: "Hãy dùng loạn côn đánh đuổi hắn đi. Khụ khụ khụ. Ra đánh đi. Không được phép để hắn bước vào trong nhà nửa bước".

Tên đầy tớ đó kinh hoàng lẫn xấu hổ nói: "Lão gia,...không đánh được...bọn họ tới nhiều người lắm".

"Cái gì?" Lý Thường cảm nhận được tình hình không ổn, ông ta nóng vội tới mức lại ho khan.

Lý Đoan cũng luống cuống nói: "Ông ta mang nhiều người tới sao?"

"Đúng vậy. Chỉ e là tới mấy trăm người, đã bao vây quanh phủ chúng ta rồi".

"Hả?" Cha con Lý Thường cùng sợ hãi kêu lên, mắt nhìn nhau. Lý Đoan run run hỏi: "Ông ta mang nhiều người tới làm gì?"

"Ông ta nói...bọn họ là...cái gì cục quốc gia...".

"Cục an toàn quốc gia" Lý Thường buồn bực nói.

"Đúng đúng. Cục an toàn quốc gia" Tên đầy tớ vội nói. "Những người này mặc quần áo ngắn màu đen. Đầu đội khăn trùm mặt màu đen. Đúng rồi, cả người màu đen. Ai cũng cầm thuẫn, thắt yêu đao. Bọn họ nói không cho phép ai ra ngoài".

Tên đầy tớ đang nói tới đó thì bên ngòi vang lên tiếng bước chân dồn dập. Chỉ nghe cũng biết có rất nhiều người đang đi tới. Cha con Lý Thường tái mét mặt. Lý Thường vội ngồi dậy. Lý Đoan vội vàng quay người đi ra ngoài để xem rốt cuộc bên ngoài đang xảy ra chuyện gì nhưng khi hắn còn chưa đi tới cửa, trước mắt hắn đã tối sầm lại. Bên ngoài cửa xuất hiện rất nhiều người tay cầm thuẫn, lưng đeo yêu đao cùng nhau tiến vào.

Đại hán cầm đầu nắm lấy Lý Đoan đẩy sang một bên, lạnh lùng nói: "Quỳ xuống".

Ngay khi Lý Đoan chưa kịp phản ứng, hắn đã bị đạp một cước ngã nhào xuống không thể gượng dậy.

Mấy tên áo đen khác vội vàng vào trong phòng lục soát từng ngõ ngách. Sau khi lục soát xong, một nam nhân trẻ tuổi chậm rãi bước vào. Sau lưng hắn là một tráng hán, hai tay cung kính bưng một bảo kiếm nạm bảo thạch, trân châu.

Nam nhân đó đi thẳng tới trước giường Lý Thường, lạnh lùng nói: "Lý đại nhân, chúng ta lại gặp nhau".

Nam nhân trẻ tuổi này hiển nhiên là Đỗ Văn Hạo.

Lý Thường trấn tĩnh lại, ông tay vùng vẫy ngồi dậy nói: Tể Chấp đại nhân, ngài mang binh xông vào hàn xá là vì cớ gì? Chẳng lẽ lão hủ phạm vào Vương pháp sao?"

"Coi như là ngươi tự biết mình. Nếu như ngươi không phạm vào Vương pháp cũng như mười trọng tội thì không cần chúng ta tới bắt người" Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói.

 Chương 446: Sĩ phu.

Từ khi Lý Thường bị bãi chức về nhà, trong lòng ông ta luôn có một dự cảm rất xấu. Đó chính là nguyên nhân ông ta một mực cáo bệnh nằm trên giường. Rốt cuộc hôm nay điều đó đã linh nghiệm.

Lý Thường nghiêm giọng nói: "Họ Đỗ kia, ngươi đừng khinh người quá đáng. Ngươi hãy chỉ ra xem lão hủ phạm phải Vương pháp gì. Nếu không chúng ta hãy tới chỗ Thái Hoàng Thái Hậu để người phân xử".

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Hiển nhiên ta đã nói là có thế nhưng không phải ở chỗ này, cũng không phải ta sẽ nói cho ngươi biết mà chính ngươi sẽ nói cho ta biết. Dẫn đi".

Ngay lập tức mấy võ sĩ che mặt tiến lên lôi Lý Thường ra khỏi giường. Khoá sắt sáng choang được tra vào. Cùng lúc đó mấy người bà con của Lý Thường cũng bị cùm áp giải ra ngoài.

Tất cả thê thiếp của Lý Thường đều được tậo trung vào một chỗ trong sân nhưng ngoại trừ Lý Thường và con trai của mình, những người khác không bị cùm. Mấy bà vợ, hài tử của hắn sợ tới mức ôm nhau khóc lóc thảm thiết.

Lý Thường đã nhiều năm làm Ngự Sử trung thừa. Trước tới giờ luôn là ông ta giám sát người khác, chưa bao giờ bị người khác giám sát. Bây giờ trải qua chuyện này nên ông ta có chút sợ hãi, muốn mắng mà lại không dám chỉ sợ chọc giận đám người này lại bị thiệt thòi.

Những binh lính che mặt lục soát toàn bộ phủ đệ Lý gia, mang tất cả vàng bạc ra chất một đống trên mặt đất. Đống vàng bạc đó càng lúc càng cao. Hơn nữa đám người đó hình như có phân công công việc rõ ràng. Có người chỉ chuyên thu thập vàng bạc nhưng cũng có người như đang tìm vật gì đó.

Lý Thường cùng con trai Lý Đoan liếc mắt nhìn nhau. Cả hai đều rất lo lắng.

Đỗ Văn Hạo đứng giữa sân. Có vẻ như hắn đã biết trước đang chờ đợi vật gì.

Rốt cuộc mấy võ sĩ che mặt cũng bắt một nam nhân trung niên đi ra sân. "Đại tướng quân, tìm được tên này".

Vừa nhìn thấy nam nhân trung niên, mặt cha con Lý Thường, Lý Đoan cắt không còn giọt máu.

Ngay sau đó lại có một võ sĩ hắc y vội vã chạy tới bẩm báo: "Khởi bẩm Đại tướng quân, bọn tiểu nhân phát hiện ra một căn hầm bí mật. Bên trong hầm chất đầy vàng bạc châu báu".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn cha con Lý Thường, Lý Đoan rồi hắn lạnh lùng nói: "Hãy chuyển tất cả ra sân".

"Tuân lệnh" Tên võ sĩ vội vàng quay người chạy đi. Ngay lập tức binh lính hắc y dùng xe đẩy từng rương vào nén, thoi bạc ra ngoài sân, chất đống thành một quả núi nhỏ.

Đỗ Văn Hạo chỉ vào người đàn ông trung niên hỏi Lý Thường: "Lý đại nhân, người này là ai vậy?"

"Hắn là một người bà con bên ngoại của lão hủ tới kinh thành buốn bán".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo nghiêng người nhìn người đó: "Là người thân sao?"

"Dạ...đúng vậy. Bọn họ là người thân của tiểu nhân". Người đó nói ngọng, hình như không phải là người Trung Nguyên. Tiếng Hán của người này không được tự nhiên lắm.

"Ồ, nếu là bà con thân thích vậy vì sao phải giấu ở trong ầm?"

"Là vì ở trong hầm mát mẻ hơn".

"Ở trong hầm mát mẻ hơn sao? Bây giờ mới chỉ có ngươi nói như vậy. Hay, ngươi đã là người thân của Lý gia. Người trong sân này đều là người nhà Lý gia. Ngươi hãy nói ra từng người một để chúng ta xem có đúng không".

Lý Thường vội vàng nói: "Đỗ Tể Chấp, hắn đã nhiều năm không tới hàn xá nên không thể nhận ra".

Đỗ Văn Hạo tươi cười nói: "Thôi được rồi. Đừng nói dối nữa. Hắn là ai chúng ta đều biết rất rõ. Hắn là gian tế Tây Hạ, đúng không?"

"Ngài...ngài nói bậy" Lý Thường lạnh lùng nói.

"Xấu hổ quá, Lý đại nhân. Ta đã phái người ngày đêm giám sát phủ của ngươi, cũng giám sát tất cả hành tung người nhà của ngươi vì vậy mới phát hiện trong nhà của ngươi có một người rất kỳ quái. Chúng ta đã bỏ tiền ra mua chuộc một đầy tớ trong nhà các ngươi nên đã nắm được một số tin tức. Ta lại phái người lẻn vào nhà ngươi điều tra, cũng đã thu được một số bằng chứng. Nếu không thế thì tuyệt đối chúng ta không ra tay hành động".

Nghe xong mấy câu này lập tức cha con Lý Thường ỉu xìu.

Đỗ Văn Hạo lại chỉ đống vàng bạc cao như núi trong sân nói: "Được rồi. Chúng ta tìm thấy một căn hầm bí mật trong nhà ngươi. Bên trong vàng bạc châu báu chất cao như núi. Dựa vào thu nhập của đại nhân ngài, căn bản là không thể có nhiều vàng bạc như vậy được vậy số vàng bạc này từ đâu mà có?"

""Ngươi muốn can thiệp vào chuyện nhà ta ư? Dù sao không phải đi ăn trộm là được".

"Ta đương nhiên muốn xen vào. Bản thân ngươi là Ngự Sử trung thừa, phụ trách điều tra quan tham nhưng ngươi lại là người cầm đầu của tổ chức tham quan. Số tài sản trong nhà của ngươi đã vượt quá thu nhập của ngươi. Ta đã âm thầm điều tra. Nhà ngươi căn bản không tiến hành kinh doanh hay có bất kỳ hình thức sinh lợi nhuận. Ta e tiền này là tiền bạc tham ô".

"Ngươi ngậm máu phun người" Lý Thường lạnh lùng nói: "Lão hủ đường đường là Ngự Sử trung thừa, phụ trách việc điều tra quan lại tham ô hiển nhiên phải là tấm gương tốt. Sao ta có thể...".

"Vậy ngươi nhất định phải nói rõ lai lịch của số vàng bạc này" Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Mới rồi ngươi cũng vừa mới nói ngươi là người phụ trách điều tra quan tham nhưng chính các ngươi lại là người nhận hối lộ tham ô nhưng không có ai quản lý các ngươi. Ha ha. Bây giờ thì tốt rồi. Ta nói cho ngươi biết, chúng ta chính là người điều tra chính các ngươi. Lần lâm triều trước, Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền rất rõ ràng chỉ cần chúng ta cho là một vụ án nằm trong quản lý của chúng ta, chúng ta có quyền điều tra. Vì vậy đối với đám Ngự Sử đài tham ô, nhận hối lộ các ngươi, những vụ án các ngươi nhận hối lộ làm bất lời điều tra, chúng ta sẽ nhúng tay vào".

Lý Thường vẫn còn có phần đắc ý, xen lẫn lạnh lùng nói: "Cho dù tiền của chúng ta không rõ lai lịch, ngươi cũng không có lý do bắt ta về trị tội. Trong hình luật không có điều này".

"Ha ha. Ngươi rất ngây thơ. Hình luật là do ngươi viết. Ngươi cho rằng hiện tại hành động của ta không thế ghép ngươi vào một tội danh nào trong hình luật ư? Ví dụ loại tội danh chiếm đoạt phi pháp thì sao nhỉ? Cho dù không tu sửa hình luật, chẳng lẽ ta không thể đề nghị Thái Hoàng Thái Hậu ban sắc lệnh để loại trừ những kẻ chiếm lợi bất chính như ngươi sao?"

Sắc chỉ là pháp luật quan trọng nhất của triều Tống. Sau khi hình luật được định ra thì không thể sửa đổi nhưng cùng với thời gian qua đi thì xuất hiện rât nhiều điều không còn phù hợp với thực tế cùng với rất nhiều tình huống phạm tội mới. Đối với những hình thức phạm tội mới này thì áp dụng phương pháp Hoàng thượng ban bố sắc lệnh do Trung thư tỉnh ban hành. Như vậy có rất nhiều sắc lệnh ban ra chính là nhắm vào những chuyện cụ thể. Nếu sau này xuất hiện một tình huống cụ thể không thể áp dụng sắc lệnh thì lại có sắc lệnh đặc biệt tiến hành thay đổi sắc lệnh trước. Đặc biệt tới giai đoạn sau này của Bắc Tống tác dụng của sắc lệnh thường vượt qua hình luật. Nó trở thành căn cứ cơ bản để xử án. "Lấy sắc phá luật" trở thành một hiện tượng ngày càng phổ biến.

Dù sao Đỗ Văn Hạo cũng học pháp y, cộng với cả pháp luật. Hắn tới đây đã hơn một năm nên cũng hiểu rõ chế độ pháp luật của triều Tống.

Lý Thường toát mồ hôi lạnh. Ông ta nhận ra con người trẻ tuổi này rất khó đối phó nhưng vẫn không cam lòng chịu thua. Ông ta cười nhạt nói: "Cho dù ngươi có thể làm được việc đó thì ngươi có thể gây khó dễ được cho ta ư? Đừng quên di huấn của Thái Tổ. Đại Tống ta không được giết sĩ phu".

Từ khi Đỗ Văn Hạo lên Tể Chấp hắn đã đặc biệt chú ý tới vấn đề này. Hắn đã mời các đại học sĩ tới hỏi. Ngay khi nghe Lý Thường dùng tới lá chắn này, hắn không khỏi ngửa mặt lên trời cười to nói: "Lý đại nhân, ngươi làm Ngự Sử trung thừa trong một thời gian khá dài. Chẳng lẽ ngươi không biết Ngự Sử trung thừa Triệu Thừa của Thái Tông hoàng đế chết như thế nào sao?"

Lập tức sắc mặt Lý Thường tái đi. Thời Thái Tông hoàng đế, Ngự Sử trung thừa Triệu Thừa bị tống giam vì tội ăn tiền xuất chinh sau đó bị Thái Tông hoàng đế xử tử. Chính bản thân ông ta đã quên mất việc này.

Đỗ Văn Hạo thấy đã đánh trúng chỗ hiểm yếu của ông ta thì không khỏi cười nhạt nói: "Thái Hoàng Thái Hậu đã ban Thượng Phương bảo kiếm cho ta. Các quan viên từ tam phẩm trở xuống có thể tiền trảm hậu tấu. Ngươi có hiểu ý này không? Thứ nhất, ngươi chỉ là một Ngự Sử trung thừa, tòng tam phẩm, thuộc về nhóm tiền trảm hậu tấu của ta. Thứ hai quy định "không giết sĩ phu" cũng có thể thay đổi. Không chỉ có Hoàng thượng có thể hạ lệnh giết những quan lại sỉ phu tham ô, cục an toàn của ta cũng có thể. Ngươi cứ suy nghĩ kỹ đi. Nếu ngươi biết điều hợp tác với ta, ta có thể còn tha mạng cho ngươi. Nếu không ngươi cứ lấy Triệu Thừa làm gương đi".

Sắc mặt Lý Thường trở nên trắng bệch, ông ta cúi đầu không nói.

Đỗ Văn Hạo không muốn nói linh tinh với Lý Thường nữa. Hắn hạ lệnh dẫn cha con Lý Thường, toàn bộ người nhà áp giải về tam nha. Sau khi toàn bộ vàng bạc được thống kê vào sổ sách cũng được vận chuyển về cất giữ ở kim khố của tam nha.

Vì nha môn của cục an toàn vẫn còn chưa xây dựng xong nên tạm thời nha môn vẫn đặt ở tam nha. Ở đó có phòng giam cùng nơi thẩm vấn.

Đỗ Văn Hạo không muốn chính mình đi thẩm vấn. Hắn đặc biệt có phản cảm với việc bức cung. Mặc dù việc này là hợp pháp ở triều Tống nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn không muốn tham gia. Hắn giao chuyện thẩm vấn này trưởng ban thẩm vấn của sở nội vụ, Lỗ Thịnh.

Khi tiến hành khám xét nhà của Lý Thường đã phát hiện ra rất nhiều văn bản khiến Đỗ Văn Hạo rất hứng thú. Nhân cơ hội đó, Đỗ Văn Hạo đã đọc thử, hắn đã phát hiện ra khá nhiều đầu mối thú vị.

Trong lúc Đỗ Văn Hạo đang say sưa đọc thì Lỗ Thịnh, người phụ trách thẩm vấn kích động chạy tới bẩm báo rằng cha con Lý Thường và tên gián điệp Tây Hạ bị bắt kia đều đồng ý cung khai.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Coi như tiểu tử ngươi cũng có bản lãnh. Ngươi không đánh hắn tàn phế đó chứ?"

"Tất cả đều nhờ đòn công tâm rất hay của đại nhân. Bọn tiểu nhân không dám động hình" Lỗ Thịnh cười hì hì nói: "Tay chân của lão gài này chưa động thủ đã gãy nên phải xuống tay với thê thiếp của lão. Chỉ cần bẻ mấy ngón tay của tiểu thiếp lão, lại còn nói muốn chơi thê thiếp của lão, lão liền cúi đầu khuất phục".

"Con bà nó. Các ngươi thật đúng là" Đỗ Văn Hạo thở phì phò nói.

"Đại tướng quân, nếu muốn người ta mở mồm, không dùng chút thủ đoạn là không được".

"Thôi quên đi. Sau này các ngươi dùng thủ đoạn gì lão tử ta cũng không quản. Ta chỉ cần có thể mở miệng là được, không được giết người. Những người ta quyết định xuống tay đều phải có chứng cứ xác đáng, không được để người ta oan uổng. Có thể để bọn họ nếm chút đau khổ nhưng không được làm tổn hại người vô tội".

"Dạ da. Xin Đại tướng quân yên tâm. Bọn tiểu nhân nhất định không làm ngài thất vọng".

Đỗ Văn Hạo đi tới phòng thẩm vấn. Quả nhiên hắn thấy Lý Thường tinh thần uể oải ngồi trên ghế ở góc phòng. Trên người không có dấu vết dụng hình.

Đỗ Văn Hạo ngồi sau bàn, hắn lạnh lùng nói: "Lý Thường hãy nói xem rốt cuộc chuyện gián điệp Tây Hạ là như thế nào?"

Lý Thường ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ đại nhân, lão hủ có thể nói cho ngài biết tất cả mọi chuyện. Lão hủ chỉ hy vọng ngài đồng ý một chuyện. Đừng làm thương tổn người nhà của lão hủ. Bọn họ vô tội".

 Chương 447: Tìm hiểu nguồn gốc.

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên nói: "Ngươi không cầu xin ta tha mạng cho ngươi sao?"

Lý Thường cười sầu thảm nói: "Lão hủ sống đã bằng này tuổi, còn hy vọng sống thêm mấy ngày nữa sao? Chỉ cần ngài có thể bỏ qua cho người nhà lão hủ. Lão hủ sẽ nói tất cả mọi chuyện với ngài".

"Được. Ta đồng ý với ngươi. Nếu như ngươi nói ra tất cả mọi chuyện, cung khai ra cả những người khác, có biểu hiện lập công. Ta có thể không giết ngươi".

Trong mắt Lý Thường hiện lên sự vui mừng lẫn sợ hãi. Mặc dù ông ta đã già nhưng khát vọng sống vẫn còn rất mạnh mẽ. Ông ta run run hỏi: "Có thật thế không?"

"Đương nhiên. Đừng quên, Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho cục an toàn chúng ta độc lập thẩm án các ngươi. Nói cách khác tính mạng của ngươi nằm trong tay ta. Chỉ cần ngươi có thể nói rõ chi tiết, cũng tố cáo thêm người khác, cung cấp đầu mối phạm tội quan trọng của người khác. Đặc biệt đầu mối mưu thông với địch, ta đảm bảo ngươi sẽ không chết".

Lý Thường khẽ gật đầu. Hơi thở của ông ta dồn dập: "Được, ta khai báo, ta tố giác".

"Được. Ta hỏi ngươi, người mới rồi bắt được trong hầm nhà ngươi có phải là người từ Tây Hạ phái tới không?"

"Ừ. Hắn là do Tây Hạ phái tới".

"Hắn tới làm gì?"

"Hắn tới là muốn hối lộ. Hắn muốn ta nghĩ cách giúp chúng thay đổi chủ soái tây chinh Tây Hạ".

Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi: "Có ý định gì?"

"Lão hủ nghe hắn nói lần này quân đội Đại Tống chúng ta dùng chiến lược tiến từng bước một, dùng chiến trại dày đặc tiến lên phía trước, đồng thời cũng xử dụng một loại cung có tầm bắn rất xa. Khi quân Tây Hạ tập trung binh lực đột phá thì gặp phải đại quân ta nghênh chiến nên phải lui về phía sau. Bọn chúng rất đau đầu với chiến thuật này của quân ta, hy vọng thông qua ta và những người khác thuyết phục Thái Hoàng Thái Hậu thay đổi chủ soái".

Đỗ Văn Hạo như mở cờ trong bụng nhưng hắn vẫn thản nhiên hỏi: "Ngươi đừng có ăn nói loạn bậy. Ta sẽ tra hắn để xác minh. Nếu ngươi ăn nói lung tung, có biết hậu quả gì không?"

Lý Thường thở dài nói: "Lão hủ đã rơi vào tình trạng này rồi, còn cần phải ăn nói lung tung sao?"

"Biết là tốt rồi. Ta hỏi ngươi. Vàng bạc chất thành núi trong nhà ngươi là từ đâu ra?"

"Đa số là do người Tây Hạ hối lộ để ta làm việc giúp chúng. Một số ít nữa là những quan lại bị xét xử hối lộ".

Đỗ Văn Hạo rùng mình. Hắn trầm giọng nói: "Ngươi cấu kết với người Tây Hạ từ khi nào? Đã chuyển bao nhiêu tin tức tình báo ra ngoài?"

Lý Thường trầm mặc không nói.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Lúc này ngươi không thể nhìn trước lo sau. Đừng mang ảo tưởng trong lòng. Hãy khai thật ra đi".

Trên mặt Lý Thường hiện lên sự đấu tranh. Cuối cùng ông ta ngẩng đầu hỏi: "Mới rồi ngài đống ý tha mạng cho người nhà của ta và ta. Điều này có thật không?"

"Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho ta có hoàn toàn quyền sinh quyền sát đối với quan lại phạm tội mưu phản từ tam phẩm trở xuống. Điều này ngươi cũng đã biết vì vậy ta có thể quyết định sự sinh tử của ngươi nhưng điều kiện kiên quyết là ngươi phải khai báo ra một điều gì đó có đủ giá trị".

"Được! Ta nói" Lý Thường nuốt nước bọt đánh "ực" một tiếng: "Trong cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta liên tiếp chiến thắng. Quân Tây Hạ không địch nổi vũ khí dịch bệnh của quân ta, chúng rất bối rối sau đó đã thông qua Thái Kinh làm quen với ta".

"Thái Kinh?" Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: "Thái Kinh, phủ doãn phủ Khai Phong?'

'Đúng vậy. Ông ta có thân thích làm ăn buôn bán bên Tây Hạ nhiều năm rồi, kết bằng hữu với rất nhiều hoàng thân Tây Hạ. Sau khi người Tây Hạ biết ta, liền bỏ ra một lượng vàng bạc lớn mua chuộc ta để ta cung cấp cho chúng tin tức tình báo".

Đỗ Văn Hạo giật mình. Hắn thầm nghĩ thân thích của Thái Kinh chính là Thái Đầu là một gián điệp hai mang sao? Đây chính là một tin tức rất quan trọng. Trước tiên không nên làm kinh động. Tương kế tựu kế sử dụng gián điệp hai mang đôi khi lại mang tới hiệu quả không ngờ tới.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ngươi cung cấp tin tức tình báo gì cho chúng?"

"Ta không biết kế hoạch tác chiến nhưng ta có mối quan hệ rất tốt với Xu Mật viện sứ Hàn Chẩn. Ta đã mang rất nhiều vàng bạc tới hối lộ ông ta, dụ dỗ ông ta nên đã moi được kế hoạch tác chiến, cung cấp cho quân Tây Hạ".

Rốt cuộc Đỗ Văn Hạo đã hiểu tại sao quân Đại Tống trong sự trợ giúp của vũ khí dịch bệnh, ban đầu thắng như chẻ tre nhưng sau đó lại rơi vào thế bị động khắp nơi, cuối cùng thất bại trong cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc. Thì ra có quỷ trong triều đình, tiết lộ kế hoạch tác chiến của Xu Mật viện cho quân Tây Hạ. Khi đó quân Tây Hạ mới có thể tiêu diệt hoàn toàn hai mươi vạn quân Tống trong thành Vĩnh Nhạc, tạo ra một thất bại lớn nhất trong chiến sử Tống Hạ.

Thì ra cầm đầu bè lũ đó lại chính là Ngự Sử trung thừa quanh minh chính đại Lý Thường cùng Hàn Chẩn bị biếm chức tới đảo Hải Nam.

Thế mà bản thân hắn còn thương cảm cho Hàn Chẩn khi bị đày tới đảo Hải Nam. Nếu đúng như Lý Thường nói, Hàn Chẩn không đáng được thương cảm, hắn còn muốn ông ta rơi đầu.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới hiểu rõ tại sao lúc ban đầu Lý Thường không nói tới việc tha mang cho chính mình nhưng sau đó lại muốn Đỗ Văn Hạo khẳng định có thể tha mạng cho mình. Thì ra Lý Thường biết rõ một khi chuyện này được tiết lộ, ông ta nhất định phải chết.

Thế nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không hối hận đã hứa hẹn với Lý Thường. Lúc này đã tìm ra nhân vật quan trọng, thu được nhiều tin tức tình báo quan trọng, tìm ra quỷ trong triều đình, cũng tìm ra người cung cấp những tin tức tình báo tác chiến quan trọng. Nếu như Lý Thường có thể cung cấp những tin tức tình báo quan trọng. Đầu của ông ta có rơi xuống hay không cũng không còn quá quan trọng.

Đỗ Văn Hạo không ngờ bản thân mình đúng là chó ngáp phải ruồi. Hắn vốn chỉ muốn điều tra mấy tật xấu của Lý Thường để ông ta không gây trở ngại trong cải cách quân đội là được nhưng không ngờ lại tra ra một con cá lớn. Nhất định phải lợi dụng, tra tới cùng.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy, chắp tay sau lưng đi mấy vòng quanh phòng sau khi nghĩ thông suốt việc này, hắn quay người lại hỏi: "Ngoại trừ kế hoạch tác chiến của quân ta, ngươi còn phạm phải tội gì nữa không?"

"Không có".

"Nói bậy! Năm đó Hạ Huệ Tông từng chuẩn bị dâng Hà Nam cho Đại Tống đổi lấy việc kết đồng minh với Đại Tống, giết chết Lương Thái hậu nhưng cuối cùng tin tức tiết lộ ra ngoài. Không phải ngươi đã tiết lộ chuyện này sao?"

Lý Thường vội vàng nói: "Đại nhân, quả thực chuyện này không phải là ta. Ta thật sự không biết chuyện này. Ta đã nói ra cả chuyện tiết lộ kế hoạch tác chiến thành Vĩnh Nhạc, cần gì phải giấu giếm chuyện này nữa? Thật sự không phải ta làm. Đây là lần đầu tiên ta biết chuyện này từ đại nhân".

"Vậy ngươi cho rằng người nào có khả năng làm việc này?"

"Điều này...thật sự ta cũng không biết nhưng chuyện cơ mật như này hẳn là người trong Tể Chấp mới biết. Có lẽ ngay cả Hàn Chẩn cũng không biết".

"Ngươi còn cung cấp cho Tây Hạ những thông tin tình báo gì nữa?"

"Thật sự không có. Sau khi ta biết được kế hoạch tác chiến từ chính Hàn Chẩn, ta không giao bất kỳ thông tin nào khác cho chúng. Lần này đây chúng tới tìm ta, muốn ta tìm cách thay đổi chủ soái, hay thay đổi kế hoạch tác chiến. Ta vốn muốn tìm Hàn Chẩn thảo luận việc này nhưng lại xảy ra chuyện hôm đó, ta bị cách chức, Hàn Chẩn bị đày tới đảo Hải Nam nên chuyện này tạm thời lắng xuống. Gian tế Tây Hạ muốn ta nghĩ biện pháp. Ta vẫn chưa nghĩ ra cách nào nên mấy ngày nay hắn vẫn ở trong nhà ta tới khi bị bắt".

Đỗ Văn Hạo thầm kêu may mắn. Nếu không có chuyện đó tạm thời làm rối loạn kế hoạch của chúng, không ai biết còn xảy ra những phiền phức gì nữa. Khi mấy người Khúc Trân cầm quân lên đường, hắn đã luôn căn dặn bọn họ phải làm theo từng bước một của kế hoạch tác chiến. Bây giờ xem ra đã thu được hiệu quả, quân Tây Hạ đã bắt đầu luống cuống.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: "Vậy ngươi còn làm chuyện gì trái với Vương pháp không?"

"Chuyện khác thì chính là chuyện nhận hối lộ của những quan tham ô, ăn hối lộ bị xét xử. Tổng cộng nhận hối lộ hơn mười lần. Có cần phải nói từng lần một không?"

"Điều này cũng không cần nóng vội. Chỉ cần ngươi viết ra tất cả là được. Điều quan trọng nhất lúc này là ngươi hãy tố giác người khác. Mới rồi ngươi mới thẳng thắn nhận tội của mình, cũng khai ra Hàn Chẩn bị ngươi mua chuộc, chuyện cung cấp kế hoạch tác chiến. Bởi vì các ngươi cùng nhau phạm tội nên chuyện khai ra đồng phạm là trách nhiệm của ngươi, không đủ để giảm bớt tội của ngươi. Ngươi khai ra người hối lộ cũng chính là thừa nhận hành vi ăn hối lội của ngươi, cũng không tính là ngươi lập công vì vậy ngươi phải khai ra điều gì đó có giá trị".

Lý Thường gật đầu, ông ta lại nuốt nước bọt rồi nói: "Ta biết một số viên quan có liên lạc với người Tây Hạ bởi vì gian tế Tây Hạ đã từng hỏi ta về địa vị và tác dụng của những người này trong triều. Có lẽ chúng cũng muốn hối lộ những người này nhưng rốt cuộc có hối lộ hay không thì ta không biết".

Đỗ Văn Hạo chấn động trong lòng. Đây chính là một đầu mối rất tốt: "Được. Ngươi cứ viết tên, chức vụ của những người này. Nếu như ta điều tra ra có người bị Tây Hạ mua chuộc thì coi như ngươi lập công".

Lý Thường nghe xong lập tức phấn chấn, ông ta vội vàng đồng ý.

Sau khi Đỗ Văn Hạo hỏi đi hỏi lại, biết Lý Thường không biết gì khác nữa hắn mới dừng lại và bảo Lý Thường viết ra danh sách những quan lại đó. Cuối cùng hắn bảo Lý Thường chậm rãi khai báo chuyện hắn nhận hối lộ.

Sau khi Đỗ Văn Hạo rời khỏi phòng thẩm vấn, lập tức hắn cho gọi cục trưởng sở tình báo nội vụ tới, giao cho ông ta bản danh sách đó, bảo ông ta lập tức tiến hành điều tra, giám sát cả ngày lẫn đêm những người đó.

Thẩm Thăng Bình không hỏi làm thế nào có được những thông tin đó. Ông ta khom người trả lời, nhận danh sách, xoay người định đi thì Đỗ Văn Hạo gọi ông ta quay lại. Hắn thì thào: "Ngươi hãy tự mình phái mấy người tâm phúc tiến hành giám sát cả ngày lẫn đêm Thái Kinh. Mặt khác phái mấy người tới biên giới Tống Hạ, âm thầm giám sát chặt chẽ Thái Đầu, thân thích của Thái Kinh, cũng chính là trưởng ban tình báo Tây Hạ nhưng nhất định phải chú ý không được rút dây động rừng".

Thẩm Thăng Bình kinh hãi, ông ta hỏi nhỏ: "Quốc Công gia, chẳng lẽ Thái Kinh này bị Tây Hạ mua chuộc sao?"

"Rất có thể thế nhưng bây giờ vẫn chưa nên động tới hắn, chỉ âm thầm giám sát hắn. Đường dây này vẫn còn tác dụng với ta. Mặt khác ngươi cũng phải mất chút sức lực, tự mình tổ chức mạng lưới tình báo Tây Hạ, đừng để Thái Kinh biết".

"Dạ!" Thẩm Thăng Bình trả lời.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Ngươi lập tức phái một đội hành động đặc biệt, bí mật bắt giữ Hàn Chẩn mang về đây".

Thẩm Thăng Bình lại càng kinh hãi: "Không phải Hàn Chẩn bị đày tới đảo Hải Nam rồi sao?"

Đỗ Văn Hạo không nói ra chuyện Hàn Chẩn bị Tây Hạ mua chuộc, tiết lộ kế hoạch tác chiến thành Vĩnh Nhạc. Chuyện này càng ít người biết càng tốt. Hắn gật đầu nói: "Đúng. Ông ta rời kinh thành đã hơn mười ngày thế nhưng không thể đi nhanh được nên vẫn còn đuổi kịp. Phải bí mật bắt ông ta mang về đây. Không được để người khác biết, hiểu chưa?"

"Thuộc hạ đã rõ. Xin Quốc Công gia yên tâm. Ty chức nhất định mang ông ta bình an về đây" Thẩm Thăng Bình khom người nói rồi xoay người đi ra cửa.

 Chương 448: Tổ huấn của tổ tông có thể thay đổi

Đỗ Văn Hạo trực tiết xét hỏi tên gián điệp Tây Hạ. Mỗi lần Tây Hạ đều phái những gián điệp khác nhau tới nên tên gián điệp này cũng chỉ biết mỗi nhiệm vụ lần này. Quả nhiên cũng giống như khi hỏi Lý Thường, Đỗ Văn Hạo hỏi về đối sách của quân Tây Hạ với chiến thuật tiến chắc từng bước của quân Đại Tống, hắn cũng không biết tình hình cụ thể.

Sau khi tên gián điệp này chịu đủ mọi cực hình, khai báo tất cả mọi chuyện. Ngay cả chuyện đáng xấu hổ nhìn lén cô nương bên nhà tắm khi còn nhỏ cũng khai hết, Đỗ Văn Hạo mới ngừng hỏi cung.

Kết quả thu được hôm nay làm Đỗ Văn Hạo rất hài lòng. Hắn muốn vào cung bẩm báo thu hoạch hôm nay để Cao Thao Thao hiểu rõ tác dụng của nha môn do chính hắn mới thành lập này.

Khi Đỗ Văn Hạo đi vào Hoàng cung, Cao Thao Thao không có trong tẩm cung, nàng đã tới công trường xây dựng.

Mấy ngày nay, ngoại trừ việc ở biệt điện Đông Môn nghe báo cáo và quyết định chính sự, gần như tất cả thời gian còn lại, Cao Thao Thao đều có mặt ở trên công trường, tự mình giám sát thi công.

Việc di rời và xây dựng vườn hoa mới đã hoàn thành. Mặt bằng cũng đã chuẩn bị xong. Bây giờ bắt đầu tiến hành đào móc đất đá hồ nhân tạo. Công trình này hết sức to lớn, trong chốc lát không thể hoàn thành vì vậy Cao Thao Thao cũng không có nhiều việc để làm nhưng vì lúc nào trong đầu nàng cũng suy nghĩ về công trình nên không có mặt ở hiện trường thì cứ có cảm giác trống rỗng. Nàng thường tới đây đi dạo.

Khi Đỗ Văn Hạo đi tới công trường xây dựng chiếc ô màu vàng của Cao Thao Thao đang dựng dưới một cây đại thụ trên ngọn núi nhỏ. Hắn liền đi tới chân núi. Nội thị, cung nữ cùng các hộ vệ nhìn thấy Đỗ Văn Hạo đi tới vội vàng thi lễ nhưng không thông bao cho Cao Thao Thao.

Đỗ Văn Hạo chậm rãi đi lên ngọn núi nhỏ. Quả nhiên hắn thấy Cao Thao Thao đang hai tay chống cằm, dáng vẻ xuất thần nhìn công trường xây dựng bên dưới. Hắn khẽ ho nhẹ một tiếng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu có thú vui rất tao nhã".

Cao Thao Thao vui mừng khi nhận ra giọng nói của Đỗ Văn Hạo. Nàng vội vàng quay người, vui vẻ nói: "Ngươi đã tới! Mau tới đây!"

Đỗ Văn Hạo vội vàng đi tới bên cạnh nàng.

"Ban ngồi" Cao Thao Thao nói.

Tiêu công công vội vàng bưng một cái ghế gập tới, đặt bên cạnh. Đỗ Văn Hạo tạ ơn rồi ngồi xuống. Tiêu công công biết hai người muốn nói chuyện riêng tư nên khẽ phất tay. Ông ta dẫn cung nữ cùng thái giám và hộ vệ lui xuống núi.

Cao Thao Thao chỉ vào những công nhân nhỏ con kiến đang bận bịu bên dưới cùng với phần công trường đang được đào móc nói: "Ta cho chia công nhân làm việc ba ca cả ngày đêm. Bộ Công nói với tiến độ này thì đầu mùa xuân sang năm là có thể đào xong chiếc hồ này. Chỉ cần đào xong chiếc hồ còn những việc khác dễ xử lý hơn".

"Đúng vậy. Hành động rất nhanh.

"Ai. Ta chỉ hận không thể đào xong ngay lập tức".

"Nóng vội không ăn được đậu hủ" Đỗ Văn Hạo cười nói. "Lần trước nàng xử lý quan lại phản đối cải cách quân đội cũng hơi nóng nảy. Người của cục an toàn chúng ta dò la được thông tin nói trong triều có người đang nói nàng chèn ép văn võ bá quan quá mức".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Sau đó ta cũng nhận ra bản thân mình cũng hơi độc ác. Hẳn nên chỉ cách chức bọn họ rời khỏi kinh thành là được, giống như tiên đế thì sẽ không có ai phản đối".

"Thế nhưng chúng ta quả thực đánh bừa mà trúng. Ta đã điều tra ra Hàn Chẩn đó cũng không phải là người tốt đẹp gì. Tội của ông ta đáng chém đầu. Ngự Sử trung thừa Lý Thường cũng vậy".

Cao Thao Thao giật mình hỏi: "Hai người đó có vấn đề gì?"

Đỗ Văn Hạo liền thuật lại việc thẩm vấn.

Nghe xong, Cao Thao Thao ngây người hồi lâu rồi nàng buồn rầu nói: "Ngay cả Ngự Sử trung thừa cũng không trang sạch, vậy trong triều còn đại thần nào trong sạch không?"

Đỗ Văn Hạo cũng thở dài nói: "Đúng vậy. Kẻ thù có thể mua chuộc được cả Tể Chấp đương triều, sự an toàn của Đại Tống chúng ta đã rơi vào tình trạng vô cùng nghiêm trọng rồi".

Cao Thao Thao nặng nề gật đầu nói: "Ừ. Vì vậy ngươi suy nghĩ rất chu đáo. Thành lập cũng rất đúng lúc. Nếu mất bò mới lo làm chuồng thì đã quá muộn. Các người muốn dùng vụ án này để khai đao thì cứ tiếp tục điều tra. Ta không cần biết điều tra ra ai cũng phải điều tra triệt để, nhất định không được e ngại. Cho dù có tra ra Hoàng thân quốc thích, trọng thần trong triều thì cũng đối xử như nhau hết".

"Được. Có Thượng Phương bảo kiếm của nàng ta không còn sợ gì nữa. Thế nhưng ta còn muốn nàng thảo một đạo ý chỉ thì ta mới dám xuống tay".

"Ừ. Ngươi nói đi".

"Di huấn của Thái Tổ là không giết sĩ phu. Nếu như các sĩ phu phạm tội dùng điều này làm lá chắn bảo vệ mình, đương nhiên sự uy hiếp của chúng ta sẽ giảm đi rất nhiều. Rất nhiều vụ án sẽ không thể tra ra được. Ta muốn thỉnh nàng...".

"Ta đã hiểu. Ta sẽ lập tức hạ chỉ. Chỉ cần cục an toàn của các ngươi phán xét đúng người đúng tội là được".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Có sự ủng hộ của nàng đối với cục an toàn mà còn không làm tốt sao? Thế nhưng dù hoạt động hiệu quả nhưng vì cục an toàn mới thành lập, quyền lực quá lớn. Nếu bây giờ quy định ngay như thế sẽ khiến quần thần bất mãn. Giờ chúng ta phải có lửa dẫn đã".

"Có lý. Vậy theo ngươi nên định như thế nào?"

"Ta nghĩ khi Lữ Huệ Khanh âm mưu hành thích tiên đế, bị tiên đế chu di cửu tộc. Chúng ta cứ căn cứ vào tiền lệ này mà làm, xử tử hình những trọng thần phạm tội mưu phản. Sau khi bắt Hàn Chẩn về đây, dùng hành vi bán kế hoạch tác chiến làm cho trận chiến thành Vĩnh Nhạc thất bại, toàn quân hai mươi vạn tướng sĩ chết trận để khép tội, đem xử tử, chu di cửu tộc. Thế nhưng tốt nhất là không cần chu di cửu tộc, chỉ cần tịch biên toàn bộ gia sản, không cần bắt làm nô tỳ. Khi đó nàng đích thân hạ chỉ xử tử. Sau đó soạn lại sắc chỉ của tiên đế cùng với sắc lệnh xử tử Hàn Chẩn của nàng ban bố thành sắc lệnh như vậy có đủ điều kiện để trở thành pháp luật. Sau này ta sẽ thực hiện theo đạo sắc lệnh này, sẽ tử hình những sĩ phu phạm tội mưu phản, phản quốc".

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Chủ ý này rất hay. Vừa phù hợp với quy củ, lại không khiến cho quần thần phản đối. Tướng công rất thông minh".

Lúc trước Đỗ Văn Hạo có nói khi hai người ở riêng với nhau có thể gọi nhau là phu thê. Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nương tử khen sai rồi. Thật ra vi phu cho rằng: Không giết sĩ phu chính là một hạn chế. Trong triều đình không ai là người có tội. Không thể dùng lời bàn mà giết sĩ phu. Đây mới là câu trả lời. Nếu như sĩ phu giết người, thậm chí thông đồng với kẻ thù mưu phản, chúng đều có mục đích lật đổ Đại Tống ta, chúng ta lại khư khư không giết sĩ phu, miễn cho chúng tội chết. Thật sự không còn gì để nói".

"Tướng công nói rất có lý. Không giết sĩ phu chính là tổ huấn của Thái Tổ. Nếu bỏ đi thì chỉ sợ quần thần phản đối".

"Có thể khẳng định điều này chính là thần hộ mệnh, miễn tử kim bài của chúng. Hiển nhiên chúng sẽ không dễ dàng từ bỏ. Thế nhưng không phải ta muốn bãi bỏ toàn bộ. Chỉ cần xử tử với trọng tội mưu phản và phản quốc còn các tội phạm bình thường vẫn được miễn tội chết. Ta cảm thấy các đại thần có thể hiểu được việc chúng ta xử tử hình các đại thần mưu phản cùng phản quốc. Hơn nữa quy định là do con người đặt ra. Chúng ta đương nhiên phải tuân thủ tổ huấn của tổ tông nhưng khi không phù hợp với xã hội, thậm chí sai lầm chúng ta nhất định phải sửa, tuyệt đối không thể bảo thủ theo thói cũ. Ta đã nói rồi. Đây chính là: Tất cả cùng tiến".

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Được. Nếu chỉ xử tử các đại thần mưu phản cùng thông đồng với kẻ thù, các đại thần sẽ không phản đối mạnh. Vậy cứ làm theo như tướng công nói".

"Được. Khi xử tử Hàn Chẩn, chúng ta phải gióng trống khua chiêng, tiến hành tuyên truyền, dùng mục đích gõ sơn chấn hổ để quần thần biết rằng một khi sĩ phu mắc phải tội mưu phản cùng phản quốc thì nhất định sẽ mất đầu. Đồng thời cùng thông báo cho trên dưới triều đình biết sự tồn tại của cục an toàn, áp chế những kẻ rục rịch có ý đồ bán tin tức tình báo của đất nước cho kẻ thù".

"Được. Cứ làm theo sự sắp đặt của tướng công".

'Tốt quá!" Đỗ Văn Hạo cao hứng nói.

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo cười nói: "Được rồi, sắp tới lập thu. Không phải tướng công muốn diễn tập quân sự sao? Công việc chuẩn bị tới đâu rồi?"

"Cũng khá tốt. Nàng muốn tới xem sao?"

"Ta không đi, chỉ cần mình tướng công đi là được. Lam nhi muốn đi xem náo nhiệt. Tướng công đưa Lam nhi đi là được".

"Lam nhi?"

"Lam nhi chính là Tần Quốc trưởng công chúa. Chính là đứa bé lần trước bị lạc trong gió tuyết khi theo chàng đi săn bắn".

Tần Quốc trưởng công chúa tên là Triệu Lam, không phải là con đẻ của Cao Thao Thao. Thân mẫu của nàng là một Tài nhân của Tống Anh Tông. Vị Tài nhân này được Tống Anh Tông sủng hạnh. Khi mang thai, Tống Anh Tông vẫn chưa kịp phong lên làm phi thì đã băng hà.

Lý tài nhân thương tâm gần chết, tâm tư lao lực, khi sịnh bị băng huyết. Sau khi sinh Triệu Lam xong thì chết. Cao Thao Thao nuôi dưỡng Triệu Lam, huống chi Cao Thao Thao lại là mẹ cả nên Triệu Lam luôn gọi nàng là mẫu hậu. Cao Thao Thao cũng coi Triệu Lam như con mình sinh ra nên rất yêu thương.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy mặt mình nong nóng khi nghe Cao Thao Thao nhắc tới Tần Quốc trưởng công chúa: "Ha ha, là nàng ta ư? Nàng ta gọi là Triệu Lam hả?"

"Đúng. Lam nhi rất đáng thương. Một mình ở trong Hoàng cung rất buồn bực. Mấy lần nó bảo ta cho tướng công dẫn nó đi săn thú nhưng ta thấy tướng công quá bận bịu, không thể phân thân nên không đồng ý. Lần này Lam nhi nghe nói quân đội có diễn tập. Từ nhỏ Lam nhi đã thích múa thương, giương cung bắn tên nên nhất định đòi đi xem. Ta không nỡ từ chối nên đồng ý. Tướng công cứ mang Lam nhi đi là được".

"Được. Dù sao diễn tập quân sự không có gì nguy hiểm. Buổi diễn tập quân sự dự định vào ngày lập thu. Hôm đó nàng cứ bảo Lam nhi tới tam nha tìm ta rồi đi cùng với ta".

"Được".

Đã gần tới giờ ngọ. Cao Thao Thao và Đỗ Văn Hạo trở về tẩm cung. Sau khi hai người thân thiết với nhau, Cao Thao Thao hạ lệnh, hai người cùng nhau ăn cơm xong, Đỗ Văn Hạo mới cáo từ rời khỏi Hoàng cung.

Khi thẩm vấn Lý Thường ban sáng, Đỗ Văn Hạo đã biết một thông tin là quân Tây Hạ rất kiêng kỵ với loại sàng nỏ uy lực của quân Tống. Trong đầu Đỗ Văn Hạo đã sớm có ý định chế tạo một loại pháo có uy lực còn lớn hơn cả sàng nỏ. Nhưng vấn đề là trước đây không đủ thời gian cho bên sở quân giới nghiên cứu phát triển, bây giờ càng không thể chậm trễ.

Đỗ Văn Hạo cưỡi ngựa đi cùng đội hộ vệ tới sở quân khí, viện cung nỏ. Phó quân khí giám nghênh đón Đỗ Văn Hạo vào trong, dâng trà hảo hạng. Đỗ Văn Hạo sai gọi tân viện trưởng của viện cung nỏ tới. Viện trưởng mới, Lý Hoành, người phát minh ra Thần tý cung nhanh chóng tới chào Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Thế nào? Lần trước ta bảo ngươi triệu tập thợ thủ công có kinh nghiệm. Ngươi làm tới đâu rồi?"

"Đã làn theo sự căn dặn của Đại tướng quân, chỉ còn chờ chỉ thị của ngài".

Đỗ Văn Hạo gật đầu. Hắn quay người hỏi viên phó quân khí giám: "Sở quân khí chúng ta có thợ rèn không?"

"Có. Chế tạo khí giới công thành mà không có thợ rèn thì sao có thể làm được. Hì hì. Có thể nói những thợ rèn tốt nhất kinh thành đều ở trong sở quân khí chúng ta. Người bên ngoài muốn đánh nồi tốt cũng phải tới nhờ chúng ta. Hì hì" Viên phó quân khí giám thấy Đỗ Văn Hạo nói chuyện hiền hoà nên cũng dám buông mấy câu đùa.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Vậy tốt quá. Sở quân khí chúng ta có luyện đan sư và hoả dược không?"

 Chương 449: Súng nhồi thuốc

Viên phó quân khí giám nói vẻ khó xử: "Quả thật không có. Sở quân khí chúng ta không luyện đan nên không cần luyện đan sư".

Lần trước Đỗ Văn Hạo đã thị sát toàn bộ sở quân khí. Hắn quả thật không phát hiện ra nơi chế tạo hoả khí (súng ống, đạn dược). Không chế tạo hoả khí thì đương nhiên không cần bố trí hoả dược.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Vậy các ngươi có biết ai là luyện đan sư tốt nhất không?"

Hai người Lý Hoành và phó quân khí giám nhìn nhau rồi đồng thanh nói: "Tư Mã Thiên Sư".

"Tư Mã Thiên Sư?" Đỗ Văn Hạo cảm thấy cái tên này rất quen thuộc, hình như hắn đã nghe ở đâu nên hỏi lại: "Đạo quán của người này ở đâu?"

Viên phó quân khí giám nói: "Không có đạo quán. Ở...hì hì, ông ta đã về chầu trời".

"Chầu trời?" nghe xong mấy câu đó lập tức Đỗ Văn Hạo nhớ ra. "Có phải là cẩu quân sư của Ung Vương gia không?"

Đỗ Văn Hạo dám nói như vậy nhưng viên phó quân khí thì không dám nói, thậm chí hắn còn không dám cả gật đầu, chỉ cười ngượng ngùng, ý xác nhận Đỗ Văn Hạo nói đúng.

Đỗ Văn Hạo nói: "Người đó là luyện đan sư giỏi nhất sao?"

Viên phó quân khí giám gật đầu nói: "Đúng vậy. Tất cả các luyện đan sư ở kinh thành đều nói như vậy. Nghe nói Ung Vương gia hao tổn rất nhiều tâm trí mới mời được về phủ, trợ giúp luyện tiên đan".

Đỗ Văn Hạo cười gượng gạo nói: "Nhưng hắn đã bị xử tử. Ngoại trừ hắn ra còn có ai nữa không?"

Viên phó quân khí giám ngạc nhiên hỏi: "Quốc Công gia muốn luyện đan sao?"

"Ồ, không phải. Ta muốn làm hoả dược, hoả dược như phóng pháo hoa đó".

"Ồ. Vậy không cần tìm luyện đan sư. Chỉ cần tìm thợ thủ công làm pháo hoa là được".

Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ trán nói: "Đúng vậy. Ta tự dưng lại đi hỏi sai vấn đề. Ta khôing luyện đan thì tìm luyện đan sư làm gì? Phải tìm thợ thủ công làm pháo hoa hả? Thợ thủ công của xưởng pháo hoa nào là giỏi nhất kinh thành?"

"Hì hì. Quốc Công gia. Thợ thủ công giỏi nhất đương nhiên là của xưởng pháo hoa Hoàng cung".

Hoàng cung có xưởng chuyên môn sản xuất pháo hoa, sản xuất pháo hoa chuyên dùng cho Hoàng gia. Thợ thủ công trong xưởng Hoàng cung tuyển từ khắp cả nước, đương nhiên là những thợ thủ công hàng đầu

Đỗ Văn Hạo cho những người đó lui ra còn chính hắn vội vã rời khỏi sở quân khí, đi thẳng tới xưởng pháo hoa Hoàng cung.

Đường đường Tể Chấp đại nhân ghé thăm chính là một vinh hạnh lớn. Đỗ Văn Hạo nói rõ mục đích tới đó nên chủ xưởng pháo hoa lập tức đi gọi mấy người thợ thủ công giỏi nhất tới.

Đỗ Văn Hạo chọn hai người thợ thủ công. Hắn bảo với chủ xưởng pháo hoa là muốn đưa hai người này tới sở quân khí. Tể Chấp đại nhân đã quyết định, chủ xưởng không dám phản đối, chỉ cười đồng ý.

Đỗ Văn Hạo mang theo hai thợ thủ công làm pháo hoa quay về sở quân khí.

Đỗ Văn Hạo triệu tập phó quân khí giám, cục phán viện cung nỏ, cục phán các xưởng thợ cùng với các thợ rèn đã tuyển chọn lần trước và hai thợ thủ công làm pháo hoa tới tập trung thương nghị.

Đỗ Văn Hạo trịnh trọng nói: "Hôm nay ta muốn thành lập một cơ cấu bên trong sở quân khí, gọi là: Sở nghiên cứu binh khí. Chức cục phán do cục phán viện cung nỏ Lý Hoành đảm nhiệm. Sở nghiên cứu này chuyên nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí cùng trang bị. Ta sẽ sắp đặt một biệt viện nhỏ trong sở quân khí cho các ngươi làm trụ sở nghiên cứu vũ khí. Nơi này được phong toả hoàn toàn".

Những người này đều sản xuất vũ khí cho binh lính sao có thể không biết uy lực của vũ khí tiên tiến. Vấn đề là trước kia rất ít người quan tâm tới việc này. Hôm nay Tể Chấp đương triều tự mình làm chuyện này nên ai nấy cũng đều mỉm cười.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Công việc chính sau này của các ngươi chính là nghiên cứu vũ khí. Ta sẽ trả cho các ngươi đãi ngộ tốt nhất và vinh quang. Tạm thời tiền lương của các ngươi gấp năm lần binh tượng. Khi có phát minh mới, ta sẽ trọng thưởng vàng bạc, giống như Lý Hoành phát minh ra Thần tý cung vậy".

Vào triều Tống, binh tượng thuộc nhóm thợ thủ công mà địa vị xã hội của thợ thủ công cực kỳ thấp, cũng tương tự như nô tỳ. Đặc biệt là binh tượng khi mà địa vị của binh lính vốn đã thấp.

Khi mà địa vị của thợ thủ công thấp kém, hơi một chút bị chửi mắng, tiền lương cùng đãi ngộ cũng rất thấp. Bây giờ Đỗ Văn Hạo trả gấp năm lần lương, có phát minh trọng thưởng. Đây quả thực là một sự kiện gây chấn động làm mọi người ai nấy đều phấn chấn.

Lý Hoành khom người nói: "Quốc Công gia, ngài đối xử với bọn tiểu nhân tốt như vậy. Nếu bọn tiểu nhân không làm tốt phận sự của mình thì thực rất có lỗi với ngài".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Thế nhưng công việc của các ngươi có tính cơ mật rất cao, không thể để cho người ngoài biết vì vậy tự do của các ngươi sẽ bị hạn chế ở một mức độ nhất định. Ta hy vọng các ngươi có thể hiểu điều này. Các ngươi có thể đưa người nhà của mình vào ở trong sở quân khí. Ta sẽ cho xây dựng nhà ở cho các ngươi, cung cấp trường học cho con các ngươi. Thế nhưng các ngươi phải nghiêm khắc giữ bí mật công việc của mình, chỉ giới hạn trong bằng này người chúng ta biết. Ai tiết lộ ra ngoài là phạm vào tử tội. Hiểu chưa?"

Những thợ thủ công liên tục gật đầu, trả lời.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Tốt lắm. Bây giờ ta giao cho các ngươi nhiệm vụ đầu tiên. Ta đã thiết kế một loại súng và một loại đại pháo. Các ngươi hãy lam chúng giúp ta. Bây giờ ta giao bản vẽ cho các ngươi, hướng dẫn nguyên lý chế tạo cho các ngươi. Các ngươi căn cứ vào đó làm cho ta".

Đỗ Văn Hạo yêu cầu viên phó quân khí giám mang giấy và bút mực tới sau đó hắn lần lượt vẽ loại súng không nòng xoắn bắn bằng nhồi thuốc cùng với sơ đồ của súng không nòng xoắn bắn bằng nhồi thuốc cùng với sơ đồ các bộ phận, cả sơ đồ của viên đạn.

Đỗ Văn Hạo đã từng đi thăm bao tàng quân sự. Hắn đã từng nhìn thấy kết cấu cùng hiện vật của loại súng bắn bằng mồi lửa. Hơn nữa bản thân hắn học pháp y, cũng hiểu rõ kiến thức về súng đạn. Hắn cũng tham khảo thiết kế của súng đạn hiện đại sau đó mới sắp đặt chế tạo loại súng bắn bằng nhồi thuốc.

Sau đó hắn lại vẽ sơ đồ của một khẩu đại bác cùng mặt cắt. Vì để đề phòng tạc thang (Tạc thang là một loại sự cố vô cùng nghiêm trọng của súng ống, nguyên nhân chủ yếu là vì súng ống bình thường không có khoá hoặc súng ống thì vấn đề chất lượng chế tạo cùng với sử dụng đạn dược chất lượng thấp kém. Tổn hại chủ yếu của tạc thang chính là nòng súng cùng cơ bẩm của súng), hắn đã vẽ một pho tượng bằng đá để cố định thân pháo để cho thợ đá tạc.

Sau khi phác thảo xong, Đỗ Văn Hạo bảo các thợ thủ công lại gần quan sát bản vẽ, hắn giảng giải cho bọn họ nghe nguyên lý của súng và đại pháo sau đó hắn hỏi xem thợ thủ công có thể làm ra loại súng và đại pháo như vậy không.

Kết cấu của súng bắn bằng nhồi thuốc và đại pháo cũng khá đơn giản nên hiển nhiên không gây nhiều khó khăn cho những thợ rèn có tay nghề cao. Thế nhưng bọn họ cảm thấy rất lạ lùng với việc Đỗ Văn Hạo dùng mồi lửa phóng viên đạn, thầm suy nghĩ có thể chế tạo ra được nhưng không ai nói ra ngoài. Sau khi hỏi mục đích sử dụng và mấy chỗ không hiểu, tất cả cùng nhau gật đầu.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Cần bao nhiêu thời gian?'

Mấy người thợ rèn nhìn nhau, cuối cùng một lão thợ rèn nói: "Đại tướng quân muốn làm ra bao nhiêu?"

"Súng chế tạo ra bốn cái. Hai cái lắp trước còn hai cái để sau. Đại pháo thì chỉ cần chế tạo trước một khẩu".

"Súng đại khái mất ba ngày. Đại pháo mất nhiều thời gian hơn, đại khái khoảng mười ngày".

Đỗ Văn Hạo gật đầu: "Tốt lắm. Mấy ngày này các ngươi không cần làm chuyện gì khác, chuyên tâm chế tạo súng và pháo. Sau khi làm xong hãy báo cho ta biết".

Mọi người đồng thanh trả lời.

Đỗ Văn Hạo quay về tam nha. Thủ hạ của hắn bẩm báo đã có chiến báo. Đây là đạo chiến báo thứ nhất từ khi bắt đầu xuất chinh Tây Hạ.

Chiến báo đã chứng thực lời khai của gián điệp Tây Hạ. Chiến báo đã thông báo về tình hình áp dụng chiến thuật tiến chắc từng bước. Trên đường chiến tuyến dài hai trăm dặm của Kinh lược ti Hoàn Khánh đã thiếp lập mấy ngàn chiến trại. Năm vạn đại quân tập trung phía sau, chia làm hai tầng. Tầng thứ nhất tập trung đội kỵ binh phản ứng nhanh. Tầng thứ hai tập trung binh lực ở ba điểm. Quân Tây Hạ tập kích bất kỳ địa điểm nào, chỉ cần khói từ chiến trại bốc lên, lập tức có quân đội nghênh chiến.

Quân đội Tây Hạ lâm vào tình cảnh xấu, không dám đối chiến cùng quân Tống, sử dụng chiến thuật vu hồi, muốn đột kích từ hai bên sườn không có chiến trại nhưng những chỗ đó lại nằm trong phạm vi tiến xa nhất của kỵ binh Tây Hạ, tất cả đã tiến hành chiến thuật vườn không nhà trống. Sau khi quân Tây Hạ đột kích tới không tìm được thôn trại cùng dân chúng. Binh lực của chúng lại không đủ để đóng quân chiếm giữ nên đành phải lui về.

Trong khi chiến trại của quân Tống từng bước vững chắc tiến lên trước, quân Tây Hạ đã dùng tất cả mọi cách cũng không thể đánh lui quân Tống đang vững chắc tiến lên, không nghĩ ra đối sách hợp lý nên đành liên tiếp thất bại rút lui.

Cuối chiến báo có nhắc tới quân số Tây Hạ ít mà phân tán các nơi. Thời cơ chiến đấu rất tốt, hy vọng có thể hy vọng để bọn họ tập trung ưu thế kỵ binh, tiến đánh vu hồi, chỉ một hai trận là tiêu diệt được quân Tây Hạ.

Lập tức Đỗ Văn Hạo hạ lệnh không được phép đột kích, phải nghiêm khắc chấp hành chiến thuật tiến từng bước một. Nếu ai làm trái lệnh, đột kích thì cho dù có lập công hay không đều xử tử hết.

Khi hạ tử lệnh, Đỗ Văn Hạo hoàn toàn hiểu rõ quân Tây Hạ đang cố ý tỏ ra yếu thế, nhử quân Tống đột kích rời bỏ chiến trại rồi sẽ tập trung binh lực ăn tươi nuốt sống quân Tống đột kích, tuyệt đối không thể mắc lừa nên Đỗ Văn Hạo lại phái một Đô Ngự sử làm đặc sứ tới đốc chiến.

Sau khi sắp đặt mọi việc xong, Đỗ Văn Hạo hạ lệnh mang bản đồ bố trí chiến trại của quân Tống xem xét vị trí chiến trại cùng với tốc độ tiến lên phía trước. Trước mắt tình hình rất lạc quan, Đỗ Văn Hạo cầm bản đồ vào Hoàng cung tìm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao bẩm báo tình hình chiến sự.

Sau khi Cao Thao Thao nghe nói quân Tống đã tiến lên trước một dặm và đánh lui hơn mười lần tiến công của quân Tây Hạ. Cung nỏ hùng hậu của chiến trại bắn ra làm thương vong mấy trăm quân Tây Hạ, lại nhìn vào bản đồ Đỗ Văn Hạo mang vào, tâm trạng rất cao hắn. Nàng cũng muốn kiên quyết tiến hành chiến thuật tiến chắc từng bước.

Ba ngày trôi qua rất nhanh.

Sáng ngày thứ ba, viên phó quân khí giám chạy tới bẩm báo súng đã chế tạo xong.

Đỗ Văn Hạo đang cùng Vương Nhuận Tuyết cùng nghiên cứu binh pháp. Khi nghe bẩm báo, biết Đỗ Văn Hạo phát minh ra loại vũ khí mới nên Vương Nhuận Tuyết cũng háo hức muốn tới xem. Đỗ Văn Hạo đồng ý, cùng Vương Nhuận Tuyết và độ hộ vệ kích động đi tới khu thí nghiệm của sở quân khí.

Trên chiếc bàn có đặt ba khẩu súng bắn bằng nhồi thuốc. Nhìn hình dáng bên ngoài có thể thấy kỹ thuật chế tạo khá tốt. Dù sao đây cũng là những thợ thủ công hàng đầu của Đại Tống.

Bên cạnh có để thuốc nổ cùng với đạn. Bên cạnh bàn còn có một khung gỗ dùng để đỡ cố định súng. Phía trước đó năm mươi bước có một bia hình người để ngắm bắn. Ở sau mấy bước, theo yêu cầu của Đỗ Văn Hạo có một công sự cao bằng nửa thân người bằng bao cát.

Sau khi Đỗ Văn Hạo kiểm tra khẩu súng bắn bằng mồi lửa, kiểm tra việc lắp ráp các bộ phận của khẩu súng, cùng với độ an toàn của cò súng rồi hắn đút một viên đạn giấy vào vào nòng súng, đặt khẩu súng lên bệ bắn cố định, dùng một sợi dây buộc vào cò súng rồi lùi lại sau.

Sau khi Đỗ Văn Hạo kéo sợi dây vào tới sau công sự bằng cát, hắn yêu cầu mọi người ngồi xổm và giật mạnh sợi dây. Một tiếng "ken két" nhỏ vang lên, tiếng súng hắn đang mong đợi không xảy ra. Đỗ Văn Hạo lại kéo một lần nữa. Tiếng "ken két" lại vang lên, vẫn không có tiếng súng.

Hắn kéo liên tiếp mấy lần nhưng vẫn không thể kích nổ.

Đỗ Văn Hạo chán nản ném sợi dây xuống đất, đứng dậy đi tới cạnh khẩu súng. Trước tiên hắn lấy viên đạn giấy ra, rồi bấm cò súng mấy lần, không có ánh lửa, hiển nhiên là bộ phận dẫn lửa có vấn đề.

Đỗ Văn Hạo làm lại lần thứ hai. Sau khi cố định khẩu súng vào giá, lắp đặt đạn, buộc dây thừng cẩn thận, bảo mọi người núp sau công sự chắn bằng bao cát.

Đỗ Văn Hạo kéo sợi dây. Một tiếng "bùm" vang lên, Đỗ Văn Hạo cao hứng vung tay nói: "Thành công!"

Hắn vội vàng đứng dậy chạy tới cạnh khẩu súng. Nụ cười vui mừng trên gương mặt Đỗ Văn Hạo nhanh chóng vụt tắt. Hắn nhận ra hình người phía trước không có một lỗ thủng nào. Khẩu súng thử nghiệm trên giá nứt toác một miếng to - tạc thang.

 Chương 450: Thăng trướng điểm tướng

Đỗ Văn Hạo cười gượng. Hắn cầm tiếp một khẩu súng khác trên bàn lên, đổ thuốc nổ vào nòng súng. Hắn dùng que trúc bọc da hươu ngâm qua mỡ nhét vào nòng súng để thông nòng súng sau đó hắn lại cố định khẩu súng trên bệ bắn sau khi buộc lại dây thừng hắn lùi lại công sự phía sau, bảo những người xung quanh ngồi xuống, bản thân hắn thì nằm xoài trên công sự quan sát.

Tay hắn kéo sợi dây. Một tiếng "bùm" vang lên.

Đỗ Văn Hạo lại cao hứng khi nghe âm thanh đó, hắn vội vàng chạy tới chỗ khẩu súng. Hình người phía trước vẫn nguyên vẹn. Viên đạn rơi vào khoảng trống cách nòng súng hai, ba bước. Hiển nhiên là lượng thuốc nổ quá ít, không đủ lực.

Đỗ Văn Hạo biết nguyên lý bóp cò nhưng không biết liều lượng thuốc nổ. Hắn sợ khẩu súng bị tạc thang nên tra hơi ít thuốc nổ.

Sau khi Đỗ Văn Hạo tra thuốc nổ một lần nữa, nhét viên đạn vào súng, bắn thử một lần nữa. Lần này hắn cho khá nhiều thuốc nổ. Chỉ nghe "phanh" một tiếng, nòng súng lại nứt toác.

Liên tiếp hai khẩu súng nứt toác, xem chất liệu làm nòng súng không đủ tiêu chuẩn. Đỗ Văn Hạo hỏi: "Dùng nguyên liệu gì để làm súng?"

Lão thợ rèn nói: "Chỉ dùng sắt".

"Mặc dù sắt rất cứng nhưng lại giòn, rất dễ nứt toác sau này phải đổi lại làm bằng đồng thau hay đồng đen".

"Dạ!" Mấy người thợ rèn vội vàng trả lời.

Đỗ Văn Hạo cầm khẩu súng cuối cùng. Bởi vì đã có kinh nghiệm nổ nòng súng hai lần trước nên lần này Đỗ Văn Hạo tra lượng thuốc nổ ở giữa hai lần trước.

Hai lần tạc thang trước chỉ là nổ nòng súng. Đỗ Văn Hạo phát hiện ra uy lực của thuốc nổ không đủ mạnh để gây ra một vụ phá nổ mạnh mẽ vì vậy hắn cũng chẳng buồn tránh ở trong công sự. Hắn đứng cách khẩu súng mấy bước kéo dây. Vương Nhuận Tuyết và mấy thợ thủ công ở phía sau ngạc nhiên nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo quay đầu cười, kéo mạnh dây thừng. Chỉ nghe "bùm" một tiếng. Một đám khói đen bốc lên từ nòng súng rồi nhanh chóng tan mất.

Tấm bia hình người ở cách đó năm mươi bước đột nhiên xuất hiện một lỗ thủng nhỏ.

"Thành công rồi!" Đỗ Văn Hạo vui mừng gào lên. Hắn vội vàng chạy tới xem xét hình người đó. Hắn thấy viên đạn sắt bằng đầu ngón tay cắm vào hình người đó. Mặc dù viên đạn cắm không sau nhưng chừng đó cũng đủ làm hắn vui mừng.

Mấy người Vương Nhuận Tuyết nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên bọn họ nhìn thấy sức mạnh của thuốc nổ bắn viên đạn ra từ khẩu súng. Vấn đề là uy lực kém xa so với cung nỏ. Cung tên có thể dễ dàng xuyên qua hình người này. Điều kỳ quái là khẩu súng này lại chỉ có thể xuyên qua lớp ngoài của hình người đó. Bọn họ không biết Đỗ Văn Hạo thí nghiệm một loại vũ khí phức tạp hơn cung nỏ để làm gì.

Đỗ Văn Hạo cũng không hài lòng với uy lực của súng. Hắn đoán chừng không đủ liều lượng thuốc nổ. Hắn lại tăng liều lượng thuốc lên bắn thử lần nữa. Kết quả lần này lại tạc thang.

Muốn ngăn ngừa tình trạng tạc thang chỉ còn cách dùng gang bền hơn so với sắt. Một điều nữa là dùng vỏ đạn kim loại, vừa có thể gia tăng độ kín, đồng thời có thể giảm bớt tạc thang.

Đỗ Văn Hạo lại sai mang giấy bút tới. Hắn vẽ một vỏ đạn hình kim loại. Bộ phận ngòi nổ thì hắn vẫn chưa tìm ra biện pháp giải quyết. Dùng thuốc nổ dẫn nổ như trước thì mất đi độ kín nhưng trước mắt vẫn chưa có biện pháp nào khác.

Cuộc thí nghiệm không thể coi là thành công nhưng đã đạt được mục đích chủ yếu. Đó chính là thông qua thí nghiệm lần này, mấy người Lý Hoành đã tận mắt nhìn thấy nguyên lý phóng đạn của súng, tiến thêm một bước trong việc đặt nền tảng trong việc chế tạo súng cùng đại pháo.

Đỗ Văn Hạo sai thợ thủ công tách nòng súng bị tạc thang ra, hắn phát hiện thành trong của nòng súng không được mài. Đỗ Văn Hạo gọi thợ thủ công tới, chỉ vào nòng súng nói: "Mặt trong của nòng súng phải được chà sát bóng loáng, càng bóng càng tốt. Lực cản viên đạn càng nhỏ, viên đạn bắn ra càng xa. Mặt khác bây giờ chúng ta sử dụng đạn sắt, quá nặng. Sau này cần đổi lại kim loại khác nhẹ hơn, đổi thành đạn chì".

Lý Hoành vội vàng trả lời. Đỗ Văn Hạo lại thiết kế lắp đặt một lưỡi lê có thể tháo rời gắn vào nòng súng. Hắn yêu cầu bọn họ sắp đặt lượng thuốc. Mục đích của thí nghiệm lần tới là bắn được viên đạn chì xuyên qua hình người gỗ ở khoảng cách năm mươi bước, bắn liên tục mà không tạc thang.

Trên đường quay về Vương Nhuận Tuyết nói: "Tướng công, chàng phát minh ra đồ chơi này chỉ để làm kinh động ngựa sao?'

Đỗ Văn Hạo sửng sốt: "Làm kinh động ngựa?"

"Đúng vậy. Thiếp thấy âm thanh đó rất to, còn to hơn mấy chục lần so với trống trận. Nếu trên chiến trường chiến mã kẻ thù nghe thấy âm thanh lớn đó phát ra liên tục rất định sẽ bị hoảng loạn".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Đây là vũ khí bắn xa, bắn ra viên đạn kim loại cũng giống như cung nỏ vậy. Thế nhưng nàng nói nó làm kinh động ngựa thì cũng coi như tác dụng phụ vậy. Dùng để đối phó với chiến mã tấn công cũng có tác dụng nhất định".

"Nhưng vừa rồi thiếp thấy uy lực của bắn đạn còn lâu mới bằng cung nỏ".

"Bây giờ thí nghiệm còn chưa thành công. Tương lai khi thành công, uy lực của nó vượt xa rất nhiều so với cung nỏ sắc bén nhất. Cứ từ từ, sau này nàng sẽ biết".

"Ồ" Vương Nhuận Tuyết gật đầu nói: "À, cuộc diễn tập quân sự được chuẩn bị thế nào rồi?

"Cũng khá tốt. Ngày lập thu chính thức bắt đầu".

"Thiếp tham gia có được không?"

"Nàng đương nhiên phải tham gia. Nàng phải giúp ta kiểm tra bọn họ diễn luyện có đúng với binh pháp hay không, đưa ra các phương án chỉnh sửa".

"Thiếp có ý kiến hả? Thiếp không biết đâu".

"Nàng thành thục binh pháp, sao lại không biết? Nàng chỉ cần giúp ta xem bọn họ rốt cuộc có chỗ nào không đúng. Ta sẽ chỉnh sửa lại".

"Vậy được, để thiếp thử xem" Vương Nhuận Tuyết gật đầu nói.

Mấy ngày sau.

Mấy hôm nay, Đỗ Văn Hạo không tới kiểm tra các quân doanh. Hắn để mặc cho bọn họ thao luyện. Sáng sớm hôm nay, Đỗ Văn Hạo toàn thân khôi giáp, cưỡi chiến mã màu đỏ. Một bên treo ngân thương, một bên treo cung tên. Vương Nhuận Tuyết cũng mặc chiến bào, cưỡi ngựa trắng, tư thế oai hùng hiên ngang.

Đỗ Văn Hạo cùng Vương Nhuận Tuyết và đội hộ vệ tới tam nha.

Ngay bên ngoài cổng chính của tam nha đã có một viên chiến tướng cưỡi một chiến mã đen như than. Viên chiến tướng mặc áo giáp, khoác chiến bào. Cạnh yên ngựa có treo một cây phác đao (phác đao - một loại binh khí cũ, lưỡi dài, hẹp, cạn ngắn, sử dụng bằng hai tay). Viên chiến tướng mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo. Người đó chính là Tần Quốc trường công chúa Triệu Lam.

Không hiểu sao Đỗ Văn Hạo thoáng chột dạ, hắn liếc mắt nhìn Vương Nhuận Tuyết bên cạnh nhưng Vương Nhuận Tuyết lại giục cương ngựa tiến lên trước nói: "Triệu Lam tỷ. Sao tỷ lại tới đây?"

Triệu Lam lớn hơn Vương Nhuận Tuyết mười tuổi. Năm đó khi nàng xuất giá, Vương Nhuận Tuyết còn nhỏ tuổi. Sau này khi phu quân Triệu Lam thông đồng với giặc nên bị xử tử, Triệu Lam thành quả phụ trẻ, quay về Hoàng cung. Vương Nhuận Tuyết là nữ nhi của Tể tướng nên thường xuyên tới chơi với Triệu Lam. Hai người trở thành tỷ muội tâm giao.

Triệu Lam liếc nhìn Đỗ Văn Hạo một cái rồi nói: "Ta nghe mẫu hậu nói hôm nay Đỗ tướng quân tổ chức diễn tập quân sự. Ta rất thích náo nhiệt, ta bảo mẫu hậu cho phép tới xem. Còn muội? Muội trở thành phu nhân Đại tướng quân kiêm đội trưởng đội hộ vệ sao?"

"Công phu mèo quào của muội sao có thể làm hộ vệ? Muội cũng tới xem náo nhiệt như tỷ vậy".

Đỗ Văn Hạo nhìn nhị nữ nói: "Sắp tới giờ mão rồi. Ta muốn vào thăng trướng điểm tướng. Hai người ở bên ngoài chờ ta".

Nhị nữ cùng kêu lên: "Không. Chúng ta cũng muốn vào".

"Thôi được" Đỗ Văn Hạo không muốn nói nhiều: "Nhưng mà khi thăng trướng điểm tướng, hai người phải ở sau bình phong, không được xuất hiện".

"Được".

Ở hậu viện của tam nha có một trường điểm tướng. Ở giữa nổi lên chóp của một chiếc lều lớn. Bây giờ đang ở kinh thành, đáng lý cũng không cần dựng đại trướng nhưng Đỗ Văn Hạo muốn gây khí thế nên sai thuộc hạ dựng một đại trướng hành quân.

Giờ phút này hơn mười tên Chỉ Huy Sứ của các quân doanh đang xếp hàng chờ bên trong.

Đỗ Văn Hạo bước vào đại trướng chủ soái, ngồi xuống rồi liếc mắt nhìn viên quan quân luật hỏi: "Mấy giờ rồi".

"Sắp tới giờ mão".

"Đã đến đông đủ sao?"

Viên quan quân luật cười xấu hổ nói: "Còn thiếu hai người nữa".

Đỗ Văn Hạo sầm mặt hỏi: "Còn hai người nữa? Đi đâu?"

"Không rõ lắm, hẳn là chờ một chút là tới".

"Chờ một chút? Ta đường đường là Trấn Quốc công, tam nha Đô Điểm Kiểm, một trong tám vị Tể Chấp. Trong quân còn ai to hơn ta? Vậy tại sao ta phải đợi hắn? Hãy đánh trống thăng trướng. Bản tướng quân muốn điểm tướng".

Lập tức ngay bên ngoài trướng tiếng trống trận nổi lên vang trời.

Sau hồi trống ai còn chưa tới chính là tới muộn.

Sau khi hết hồi trống vẫn không thấy ai tới, Đỗ Văn Hạo cười nhạt. Hắn mở danh sách trên bàn ra, bắt đầu điểm danh.

Sau khi điểm hết danh sách, quả nhiên có hai viên tướng vẫn chưa tới. Đỗ Văn Hạo gấp danh sách lại, đứng dậy nói: "Chư vị, hãy theo ta ra ngoài thành diễn binh" Tất cả chúng tướng chắp tay trả lời rồi quay người cùng Đỗ Văn Hạo rời khỏi trướng, lên chiến mã theo Đỗ Văn Hạo ra ngoài thành.

Ngay khi vừa tới cửa thành thì nghe tiếng vó ngựa vang lên dồn dập. Một người nhanh chóng cưỡi ngựa tới bên cạnh Đỗ Văn Hạo cười toét miệng nói: "Đại tướng quân, xin lỗi. Mạt tướng đã tới muộn".

Đỗ Văn Hạo ghìm cương ngựa, không quay người lại, lạnh lùng nói: "Ngươi có biết khi điểm tướng chưa tới là mắc tội gì không?"

"Điều này. Ha ha. Xin Đại tướng quân tha thứ. Tối hôm qua mạt tướng tiếp rượu Tào Vương gia, uống hơn hai chén nên tới chậm. Lần sau mạt tướng không dám nữa".

"Tiếp rượu Tào Vương gia?"

"Đúng vậy. Hôm qua là đại thọ Tào Vương gia nên mạt tướng uống mấy chén rượu. Ha ha, những lần điểm tướng trước đây mạt tướng chưa bao giờ tới muộn. Lần này xin Đại tướng quân khai ân bỏ qua cho mạt tướng".

Đỗ Văn Hạo chậm rãi quay người nói: "Không hẳn là không thể tha cho người. Bây giờ không phải là hành quân đánh trận nên cũng không cần nghiêm khắc quá mức".

Viên tướng nọ cười nói: "Đúng vậy. Đại tướng quân là người thông tình đạt lý. Tối nay mạt tướng xin thiết tiệc tạ tội với Đại tướng quân, được không?"

Đỗ Văn Hạo vẫn lạnh lùng nói: "Ta vẫn còn chưa nói hết, ngươi đừng vội vui mừng. Vốn có thể không cần xử phạt ngươi. Nhưng vấn đề là hôm nay ta lần đầu tiên thăng trướng điểm tướng, ngươi tới muộn ta không xử phạt. Sau này ai cũng làm theo ngươi. Ta sao có thể để chúng tướng tin phục đây? Quan quân luật, điểm tướng không tới thì nên xử trí thế nào?"

"Thời bình đánh ba mươi roi. Thời chiến trảm".

"Được" Đỗ Văn Hạo nhìn chằm chằm vào viên tướng nói: "Ngươi may mắn là không phải điểm tướng ở Kinh lược ti Hoàn Khánh. Nếu không cái đầu trên cổ ngươi đã rất khó giữ rồi. Người đâu! Đánh ba mươi roi!"

Lúc này Đỗ Văn Hạo mang theo cả một đội quân luật chuyên môn phụ trách kỷ luật quân đội. Mấy tiếng trả lời vang lên, năm, sáu tên lính quân luật đi tới kéo viên tướng kia xuống ngựa.

Viên tướng đó cực kỳ hoảng sợ, hốt hoảng cầu xin tha thứ nhưng vẫn bị binh lính quân luật đè xuống đất, vung gậy định đánh.

Viên tướng đó vội vàng gào lên: "Đại tướng quân, xin hãy nể mặt Tào Vương gia, tha cho mạt tướng lần này".

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi: "Nể mặt Tào Vương gia? Ngươi có quan hệ thế nào với Tào Vương gia?"

"Tào Vương gia là tỷ phu của mạt tướng".

 Chương 451: Diễn tập quân sự.

Đả liên kết sẻ được liên tục

Đỗ Văn Hạo cười, thì ra có hậu đài rồi, hỏi: "Ngươi tên gì?"

"Mạt tướng là Ngô Nhân, là chỉ huy sứ tiểu đội trà rượu quân Tư mã trước điện Công Chưởng"

Tiểu đội trà rượu tương đương với bộ phận hậu cần của quân Tư mã trước điện, thảo nào 'tai to mặt lớn'thế

Đỗ Văn Hạo thật không thể coi như không thấy hậu đài Tào vương gia của tên Ngô Nhân này. Hắn đã từng bắt cóc Tào vương gia, còn để lại trên cố người ta một vết cắt, sau còn làm cho anh tra người ta là Ung vương gia bị điên nữa chứ.

Có điều, Tào vương gia dù gì cũng là con trai của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao, vuốt mặt phải nể mũi thôi.

Do dự một lúc, hắn quay đầu nhìn đám tướng lĩnh cao cấp sau lưng, phát hiện ra có vài nụ cười ruồi chế giễu, rõ ràng là nói, ngươi đang bắt nạt lũ không có hậu đài như chúng ta, gặp người có hậu đài thật ngươi lại không mở to mắt ra!

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm, nếu không làm rõ chuyện này, thì về sau đừng mong chỉnh đốn quân kỉ.

Lúc này Vương Nhuận Tuyết cũng thì thầm: "Tướng công, khi dứt khoát mà không dứt khoát tất sẽ chịu hậu quả không lường!"

Đỗ Văn Hạo lại nhìn trưởng công chúa nước Tần Triệu Phong, hắn là chú ruột, xem nàng có biểu hiện gì không, Triệu Phong tươi cười, nhè lưỡi ra nghịch ngợm, nhưng cũng hơi gật đầu.

Với sự ủng hộ của hai mĩ nhân, quan trọng là mĩ nhân thứ ba, chính là Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao, với Cao Thao Thao, Đỗ Văn Hạo dám khẳng định, nàng nhất định sẽ ủng hộ mình, hơn nữa chỉ là em vợ của Tào Vương gia, chứ không phải họ hàng ruột

Vì vậy, Đỗ Văn Hạo quyết định ra tay, hơn nữa không nể mặt chút nào nữa

Hắn cười lớn, cố ý nói to: "Tào vương gia hiểu chuyện đại nghĩa, không thể bao dung cho hành vi vi phạm quân kỉ của ngài được, người đâu! Hành hình!"

Các quân binh túm lấy hắn đè xuống đất để đánh, Ngô Nhân bắt đầu xin tha, sau khi đánh thật, đành cắn răng chịu đựng, mọi người xung quanh ban đầu còn cười, nhưng sau thấy Đỗ Văn Hạo kiên quyết như vậy thì im hẳn, không gian chỉ còn tiếng gập đập vào da thịt người.

Đỗ Văn Hạo nhìn mấy quan quân lúc nãy còn biểu lộ sự mỉa mai lúc này mặt mũi tái mét, nụ cười chế giễu không biết chạy đâu mất, các quan quân khác nhìn cũng nghiêm túc hẳn lên.

Đỗ Văn Hạo biết chiêu vừa rồi đã phát huy hiệu quả rất tốt.

Sau khi kết thúc hành hình, Đỗ Văn Hạo cười nhạt: "Ngô Nhân, ngươi còn gì để nói không?"

Ngô Nhân đau đến nỗi cắn nát cả môi, hai chân đầy máu, nói không thở ra hơi nữa: "Mạt tướng...mạt tướng...tội đáng...!"

"Tốt biết sai là tốt, mong rằng ngươi nhớ bài học lần này!"

Đỗ Văn Hạo xuống ngựa, bảo thị vệ lấy túi thuốc cho mình, từ lần đi tuần quân doanh trước, sau chuyện một binh sĩ bị thương do sơ suất mà không có phương pháp điều trị thích hợp, Đỗ Văn Hạo vừa bồi dưỡng quân y các cấm quân về ngoại khoa, vừa dặn dò đội hộ vệ của mình lúc nào cũng phải mang theo túi thuốc đề phòng.

Hắn cầm lấy túi thuốc, đến bên Ngô Nhân đang nằm bẹp dưới đất để trị thương cho ông ta.

Cùng lúc đó quân y cũng vội vàng đến tiếp tay, Đỗ Văn Hạo xua tay cho bọn họ lui ra, tự mình mở túi thuốc, lấy kéo, cắt miếng vải nơi chân của Ngô Nhân bị thương, dung thuốc sát trùng rửa vết thương.

Ngô Nhân vội vàng nói: "Đại tướng quân, không được, vết thương này của mạt tướng không sao hết, về gọi lang trung là không sao mà!"

Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ vai ông ta: "Xem ngươi kìa, bị đánh như vậy mà không kêu một lời, được lắm! Bản tướng rất hài lòng, vì vậy đích thân trị thương cho ngươi. Đừng cử động!"

Đỗ Văn Hạo dung nước thuốc cẩn thận rửa vết thương, rồi lấy thuốc có chứa 7 phần kim thương dược do mình tự làm đắp lên, sau đó lấy vải quấn kín, đoạn nói: "Được rồi, chỉ là thương ngoài da, không có gì nghiêm trọng, có thể đi theo bản tướng tiếp tục thị sát không?"

Đường đường trấn quốc công, Tam Nha đô kiểm điểm, tể chấp đương triều, lại đích thân băng bó cho mình, Ngô Nhân cảm động đến rơi nước mắt, hắn ắp bắp nói: "Đại tướng quân...mạt tướng...dẫu có phải bò...cũng phải theo đại nhân đi thi sát...!"

"Được! Hay cho một hảo hán! Người đâu, mang một cái cáng mềm ra đây, khiêng vương gia đi thị sát với ta!"

Quân binh dạ rồi chạy đi tìm cáng, cả nhòm thị sát đi ra trong tiếng hoan hô của những người xung quanh.

Vương Nhuận Tuyết thì thầm mỉm cười với Đỗ Văn Hạo: "Tướng công, chiêu này của chàng được lắm, vừa chẩn chỉnh quân kỉ, chấp hành quân pháp, lại mua được lòng người. Thiếp dảm bảo, tên này về sau sẽ sống chết theo chàng! Những tướng quan khác cũng bị cảm kích, làm chủ soái vừa phải uy vừa phải gia ân, để người dưới vừa nể vừa sợ mới được"

Đỗ Văn Hạo cười đáp: "Ta lại không phải vì muốn mua chuộc hắn mới trị thương cho hắn, ta chỉ định đánh xong thì cho người khênh hắn về nhà để xem mồm mép hắn thế nào thôi, thấy hắn như vậy cũng có phần kính phục, vì vậy mới sơ cứu cho hắn"

"Thiếp thấy chàng quả là có tài thống lĩnh quân đội đó, làm như vậy quả không tồi!"

Đỗ Văn Hạo chỉ cười, hắn biết muốn xây dựng một đội quân lớn mạnh thì chỉ có như vậy thôi chưa đủ.

Ra khỏi thành chưa xa thì đến bãi diễn binh.

Đây là khu chuyên dung để diễn tập quân sự, có điều đã hoang phế nhiều năm không dung đến. Sauk hi Đỗ Văn Hạo ra quyết định quân diễn mùa thu thì nơi đây mới được dọn dẹp lại.

Lúc này bãi diến tập đã rất đông người, cờ hiệu được phất lên, các cấm quân được chỉ định tham gia diễn tập đều đã có mặt.

Đỗ Văn Hạo cùng các tướng lĩnh cấp cao lên đài duyệt binh ngồi, Vương Nhuận Tuyết và Triệu Phong dĩ nhiên không thể ngồi cùng Đỗ Văn Hạo, đành đứng phía sau với đội hộ vệ, bọn họ dung mạo xuất chúng, nhưng do đã giả trai nên không ai phát hiện ra họ trong đội hộ vệ.

Phía bên kia đài duyệt binh là một hàng dài m mấy quân lệnh binh, đều do Đỗ Văn Hạo chọn trực tiếp từ quân lệnh binh của cấm quân trong lần diễn tập này, họ chính là trọng tài trong lần diễn tập quân sự này.

Diễn tập gồm hai phần, phần thứ nhất là các đơn vị đô, doanh, quân tiến hành tấn công, rút lui, phòng ngự theo hiệu lệnh của chỉ huy, cùng các loại diễn luyện biến hình; phần thứ hai là diễn tập tổng hợp của tất cả các loại binh chủng.

Trong thời đại binh khí lạnh, việc nghe theo hiệu lện của chỉ huy rất quan trọng, một quân đội kỉ luật nghiêm minh hành động thống nhất mới có thể phát huy được sức mạnh chiến đấu của cả đội, có thể hình thành ưu thế binh lực cục bộ nhanh chóng trong trận chiến. Vì vậy, diễn tập quân sự cổ đại, quan trọng nhất là kiểm tra sự tuân theo hiệu lệnh của quân sĩ.

Nghe theo hiệu lệnh lại được chia làm hai phần: Phần 1 là mệnh lệnh thông thường, quân lệnh quan dùng cờ hiệu, quân nhạc thủ đánh la và thanh đồng phát ra những hiệu nhạc khác nhau. Binh sĩ căn cứ vào hiệu lệnh mà tiến hành tác chiến.

Khi tiến hành diễn tập theo đơn vị đô, do quân số chỉ có 100 người, vì vậy nghe hiệu lệnh sai rất ít, nhưng với đơn vị doanh, một doanh có 5 đô, mỗi đô lại có đội chỉ huy quân nhạc riêng, hiệu lệnh bị nhiễu, làm thế nào để hân biệt được nhạc hiệu quả là không đơn giản, số binh sĩ nghe nhầm hiệu lệnh tăng rõ rệt.

Mà lúc diễn tập theo đơn vị quân thì con số đó còn lớn hơn, có một số quân còn loạn cả lên, hoặc chen lấn xô đẩy, hoặc đứng trơ ra không biết phải làm gì.

Đỗ Văn Hạo sa sẩm mặt mày không nói.

Đến giờ ăn trưa, Đỗ Văn Hạo mới hạ lệnh tạm dừng diễn tập, ăn trưa nghỉ ngơi tại chỗ một tiếng.

Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng trong lều doanh trại khu diễn tập cho Đỗ Văn Hạo và các tướng lĩnh đi cùng, Đỗ Văn Hạo không ăn, hắn chắp tay sau lưng quan sát tình hình binh sĩ phía dưới, những binh sĩ khác dĩ nhiên cũng phải đứng theo hắn.

Binh sĩ đang ngồi trên đất ăn lươg khô đã chuẩn bị trước mang theo, thấy bọn họ đi đến liền đứng dậy hành lễ. Đỗ Văn Hạo...bắt tay hỏi han những binh sĩ lúc nãy diễn tập xuất sắc, những ai nổi trội hẳn còn hỏi cả tên, quân hiệu, đơn vị trực thuộc, việc này được mấy sử quan đi sau ghi chép lại.

Đỗ Văn Hạo thấy binh sĩ nào cũng nhồm nhoàm bèn cười hỏi: "Hương vị thế nào?"

Binh sĩ a đều toét miệng cười gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nhìn xung quanh, thấy binh sĩ đều ăn một loại bánh khô như nhau mới hỏi: "Đây là loại cả quân đội cấp đồng loạt sao?"

Phó đô chỉ huy sứ Lý Phố vội đáp: "Dạ, đây là lương khô được phát đồng đều trong tác chiến ạ"

"Mỗi lần có thể mang theo bao nhiêu?"

"Thoe quy định, đơn binh chỉ được mang nhiều nhất cho 5 ngày, mang nhiều hơn sợ rằng mang không nổi"

Đỗ Văn Hạo gật đầu, rồi chìa tay ra phía một anh lính nói: "Cho ta thử tí"

Anh lính đó sợ hãi đưa miếng bánh đang ăn dở cho Đỗ Văn Hạo, xong cảm thấy có gì đó không đúng nên lấy từ trong túi ở dây lưng ra một chiếc bánh mới nguyên đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhận lấy, cắn một miếng, mùi vi thật không ra gì, khiến hắn nhớ lại cái bảnh Tuyết Lôi Nhi đưa cho lúc vừa đến thế giới này.

Đỗ Văn Hạo làm ra vẻ như không có gì, ăn sạch cái banh đó, binh sĩ thấy đường đường là tể chấp mà có thể ăn hết cái loại bánh kho nuốt của quân đội, ai nấy đều kính phục ngước nhìn. Đỗ Văn Hạo cầm lấy 1 chai nước, uống ừng ực, đó đâu phải là phong thái của 1 tể chấp, giống một anh nông dân đi lính thì đúng hơn.

Uống xong hắn đưa tay quẹt miệng, hỏi anh lính ban nãy đưa bánh cho mình: "Loại bánh này ăn ngon không?" Anh lính đó do sự rồi gật đầu.

Đỗ Văn Hạo cười lắc đầu nói: "Ngươi nói dối, nói thật đi!"

Các binh sĩ xung quanh đều nhìn nhau rồi mới nói: "Có thể nuốt được, chỉ kém hương vị do vợ làm chút xíu"

Mọi người đều rộ lên cười.

 Chương 452: Gánh nặng đường xa.

Đỗ Văn Hạo cũng cười: "Ngươi nói có thể nuốt được chứng tỏ ngươi chịu được khổ, nói thật, thứ này khó ăn thật"

Binh sĩ đều cười ngặt nghẽo.

Đỗ Văn Hạo quay người sang nói với bọn Lý Phố: "Cần tập trung nhân lực giải quyết vấn đề lương khô của binh sĩ, phải làm ra một loại được ép mỏng nhất có thể, mà khẩu vị phải chấp nhận được, để binh sĩ vừa thích ăn vừa có thể amgnt heo với số lượng lớn, ta chuẩn bị thành lập một bộ phận chuyên lo về hậu cần, gọi là hậu cần tổng bộ. Bộ phận này chuyên phụ trách vẫn đề ăn mặc đi lại của quân sĩ. Một đội quân lớn thế này, không đảm bảo về hậu cần thì thắng trận sao nổi! Không biết trân trọng họ thì không phải là tướng quân tốt!"

"Đúng" không biết là anh lính nào dám to gan hét to lên như vậy, rồi lập tức có vài người hét to theo, rồi tất cả thao trường đều đồng thanh, giống như tiếng sấm vậy.

Đỗ Văn Hạo lại bảo anh lính vừa rồi đưa cho mình cái bánh lương khô, giơ cao lên, nói với các quan binh đang theo sau mình: "Yêu binh như con, không thể chỉ nói bằng khẩu hiệu, phải hành động từ mỗi tướng soái, phải từ những vấn đề nhỏ nhất như ăn mặc! Từ hôm nay, chỉ cần là hành quân tác chiến, kể cả diễn tập, binh sĩ ăn gì, chúng ta ăn đó. Ngay từ bây giờ, mỗi người cầm lấy hai cái bánh, tất cả cùng ăn, ai muốn 'đặc biệt' thì bản tướng sẽ cách chức người đó, để hắn về binh doanh nấu cơm cho các binh sĩ!"

Tất cả binh sĩ đều vỗ tay ủng hộ

Đỗ Văn Hạo vừa nhai chiếc bánh khó nuốt, vừa đi tuần trong tiếng vỗ tay hoan hô của quân sĩ, không ngừng vỗ vi khích lệ những binh sĩ diễn tập xuất sắc, những tướng lĩnh cao cấp kia nhăn nhó ăn bánh bám theo hắn.

Tuần hành xong cũng là lúc nghỉ ngơi, hắn lúc này mới chịu quay về khan đài duyệt binh, tuyên bố tiếp tục diễn tập.

Buổi chiều tiếp tục diễn tập binh chủng tống hợp, cổ đại gọi là hoa thức diễn luyện.

Binh chủng thời cổ đại dĩ nhiên ít hơn thời hiện đại, bao gồm kị binh khinh giáp, kị binh trọng giáp, trường thương binh, thuẫn bài binh, cung nỏ binh và pháo binh công kích địch bằng đá. Việc diễn tập tác chiến tổng hợp này là gần giống thật nhất, và cũng loạn nhất, thậm chí còn nhầm quân lệnh, gây nên thương tích.

Sau đó, Đỗ Văn Hạo còn ra quyết định thêm diễn tập đối kháng, nhưng hắn nhanh chóng thất vọng. Vì quân Tống đã lâu không diễn tập, thậm chí là chưa từng tổ chức, cho dù yêu cầu của hắn rất đơn giản.

Kết quả là, những động tác lúc diễn tập đơn binh, thấy kị binh hỗn loạn xông lên, thế trận rất hỗn loạn, cho dù hiệu lệnh phát ra rất rõ ràng, binh sĩ vẫn rất loạn, không biết đối kháng thế nào, có một số chạy lung tung bị ngựa dẫm hải.

Đỗ Văn Hạo tức tím mặt, còn chưa phải là diễn tập chính thức, àm chỉ là mô phỏng tập sơ sơ, nếu tác chiến thật mà như thế này thì bị dẫm chết bẹp hết rồi.

Đỗ Văn Hạo không can tâm, gọi chỉ huy sứ cấp doanh trở lên, nói rõ yêu cầu diễn tập, động tác của mỗi bên, thậm chỉ cả các bước, yêu cầu động tác kĩ thuật, để quân sĩ làm lại lần nữa. Kết quả vẫn loạn như trước.

Nguyên nhân chỉ có 1, quân Tống chưa bao giờ diễn tập đối kháng, vì vậy đến kịch cũng không biết diễn. Đỗ Văn Hạo cuối cùng đã hiểu, tại sao quân Tống có nhiều binh thư như vậy, lại có hẳn 1 trường học dạy binh thư, nhưng rút cuộc cũng chỉ là lí thuyết suông. Diễn tập quá ít, nếu tác chiến thật thì chiến bại là chắc.

Thoáng cái đã xẩm tối, Đỗ Văn Hạo đành hạ lệnh kết thúc diễn tập, để mấy quân lệnh binh căn cứ vào hiệu quả diễn tập để cho điểm, xếp hạng.

Tuy phần diễn tập đối kháng cuối cùng không được như mong đợi, nhưng những phần trước cũng tạm được như ý Đỗ Văn Hạo, ngoài diễn tập tổng hợp có hơi hỗn loạn, còn lại diễn tập đơn theo đơn vị doanh cũng không tồi. Điều này chứng tỏ hai tháng luyện tập bắt đầu có kết quả.

Đỗ Văn Hạo xem kết quả rất kĩ, xem xong mới hằm hằm đưa cho các tướng lĩnh khác xem, rồi triệu tập mọi người họp.

Đợi các quan binh xem xong mới nói: "Chư vị, đây là đội quân mà chúng ta dẫn dắt! 20% quân số nghe sai quân lệnh! Thành thục nhất cũng chỉ có 40%. Lúc nãy các vị cũng thấy rồi đấy, mỗi đô quân cơ bản đều qua được phần nghe hiệu lệnh, cấp doanh cũng tàm tạm, chỉ có cấp quân, khi hiệp đồng tác chiến, cả đội đều hỗn loạn. Như vậy làm sao quân ta thắng trận được?"

Các tướng lĩnh đều cúi đầu.

Đỗ Văn Hạo ừ từ đứng dậy nói: "Ta cầm binh, tuyệt đối không cho phép chuyện chỉ bàn lí thuyết! Là cấp quân thì càng quan trọng. Ta đề nghị, cách chức chỉ huy quan cấp quân không hoàn thành trọng trách! Các vị có ý kiến gì không?"

Các tướng quan đều đỏ mặt không ho he gì.

Đỗ Văn Hạo dằn giọng nói: "Đừng ngại ngần như đàn bà con gái thế, ai đồng ý thì giơ tay!"

Các quan nhìn nhau, rồi từng người đỏ mặt giơ tay.

Đỗ Văn Hạo nhìn quan nói: "Tốt lắm! Tất cả thông qua quyết định xử phạt này, đây là lần đầu tiên nên khoan nhượng, chỉ miễ nhiệm với chỉ huy sứ của quân có số điểm cao nhất từ dưới lên thôi!"

Mọi ánh mắt đều đổ về tên thị vệ Phi Mạnh đô chỉ huy sứ bộ quân thứ hai.

Đỗ Văn Hạo nói: "Chỉ huy sứ cấp đô, thăng lên nhiệm doanh chỉ huy sứ, doanh chỉ huy sứ thăng lên làm quân chỉ huy sứ, trong đó, doanh chỉ huy sứ có số điểm cao nhất sẽ đảm nhận Phi Mạnh đô chỉ huy sứ bộ quân thứ hai!"

Thị vệ Phi Mạnh đô chỉ huy sứ của bộ quân thứ hai đơ mặt ngồi đó, cúi đầu không nói. Đỗ Văn Hạo nhìn hắn chậm rãi nói: "Ngươi, từ hôm nay, đến quân viện bắt đầu học lại xem phải chỉ huy quân đội thế nào, sau khi học xong, bắt đầu làm từ đô chỉ huy sứ cho ta! Lần sau diễn tập, ngươi chỉ có thể đứng thứ nhất mới mong được phục chức, rõ chưa?"

Tên tướng quan đó hổ thẹn đứng dậy chắp tay đáp: "Mạt tướng đã rõ"

Đỗ Văn Hạo nhìn mọi người nói: "Hôm nay chỉ có 1 phần rất nhỉ cấm quân tham gia diễn tập, về sau mỗi mùa diễn tập 1 lần, mỗi đội tham gia ít nhất 1 lần, chuyện này ta sẽ tự sắp xếp, xây dựng 1 thang điểm đàng hoàng, phân ra ưu đạt và không đạt. Đô, doanh, quân đều có tiêu chuẩn xếp loại riêng, người không đạt tiêu chuẩn sẽ bị đào thải như hôm nay, binh sĩ nghe hiệu lệnh có vấn đề, cách chức đô chỉ huy sứ; quân đội hiệp đồng có vấn đề cách chức doanh hoặc quân chỉ huy sứ, sẽ cắt cử người dưới ưu tú hơn thay thế!"

Lá gan của tướng lĩnh dường như xẹp xuống

Trên đường về nhà Đỗ Văn Hạo dò hỏi Vương Nhuận Tuyết và trưởng công chúa thấy thế nào.

Vương Nhuận Tuyết lắc đầu nói: "Quá xa so với tiêu chuẩn của binh pháp, không ngờ quân độic ủa ta lại bạc nhược như vậy, sức chiến đấu như vậy thật khó làm người ta mong có chiến thắng"

Triệu Phong nói: "Đúng vậy, ta cứ nghĩ là sẽ náo nhiệt có nhiều thứ hay để xem, sớm biết thế này ta đã không đến xem. Xem như ngươi còn kiềm chế tốt, nếu là ta, thì đã cho mấy tên đó vài trăm gậy rồi"

Đỗ Văn Hạo cười khổ sở: "Quân lực suy yếu, không phải vấn đề của cá nhân ai, đây là vấn đề tồn tại trong thời gian quá dài, thậm chí không thể giải quyết trọn vẹn trong thế hệ chúng ta, có khi phỉ đợi đến thế hệ sau thôi"

Triệu Phong nói: "Lâu vậy, không thể đẩy nhanh tốc độ lên sao?"

"Cái gọi là tích trọng nan phản, vẫn là quân đội ở gần kinh thành, sức chiến đấu có thể coi là tạm ổn, chỉ sợ cấm quân toàn quốc càng kém hơn. Muốn nâng cao sức chiến đấu đồng đều trên toàn quốc thì không phải là chuyện 2, 3 năm. Ta đã nghĩ kĩ rồi, cần phải có đại cương tác chiến mới, tăng cường hạng mục diễn tập đối kháng, chấp hành nghiêm túc theo tiêu chuẩn. Cần phải xem xét chỉ huy sứ cấp quân trở lên, ai không đạt tiêu chuẩn thì cách chức đi, tiêu chuẩn ban đầu có thể thấp một chút sao cho hầu hết đều qua được. Sau khi nâng cao được sưc chiến đấu thì sẽ nâng tiêu chuẩn lên, hơn nữa đội đặc chủng ta định xây dựng, sẽ do Lý Phổ tuyển chọn trong cả nước, ta sẽ trực tiếp dẫn dắt đội quân đó"

"Thời gian này có quá gấp không?"

Đỗ Văn Hạo thở dài: "Đúng vậy, qua buổi diễn tập hôm nay ta mới hát hiện, có rất nhiều nhiệm vụ không có khả năng hoàn thành"

Sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo đã đến Tam Nha giải quyết công việc.

Hôm qua những chỉ huy sứ không tham gia diễn tập đều sợ hãi đợi trước cửa Tam Nha.

Thấy hắn đến, mấy vị đó khum người cháo hỏi: "Đại tướng quân, mạt tướng đến trễ, xin đại tướng quân tha tội!"

Đỗ Văn Hạo không thèm đáp, đến bàn làm việc ngồi, lạnh nhạt nói: "Tha tội! Vậy lí do của các ngươi là gì? Ta cho các ngươi cơ hội, phải nói thật! Nếu không hậu quả khó lường!"

"Dạ, không dám giấu đại tướng quân, mạt tướng...về phương Nam hồi dịch, vốn định về tham gia diễn tập, không ngờ trên đường về đèo lở cản đường, phải đi đường vòng mất 1 ngày, vì vậy làm lỡ cuỗ diễn tập"

"Đi làm ăn? Thái Hoàng Thái Hậu không phải có chỉ dụ, triệu tập tất cả quân đội đi hồi dịch về sao? Ngươi dám vi phạm chỉ dụ?"

"Mạt tướng không dám...chỉ là mạt tướng muốn giải quyết nốt một số việc, không nỡ bỏ đó, vì vậy xử lí nốt. Sau này tuyệt đối không làm nữa. Không ngờ chỉ vè đường sá mà nhỡ chuyện, mạt tướng về sao không dám nữa"

 Chương 453: Ly biệt.

Đỗ Văn Hạo nói: "Diễn tập không đến, lại hồi dịch, quá thời hạn cùa Thái Hoàng Thái Hậu và tịch thu toàn bộ tài sản kiếm được do hồi dịch, quá thời hạn mà ngươi vẫn chưa nộp lại, chỉ biết nói ngươi mãi không tỉnh ngộ. Vì chút lợi lộc mà ngươi lơ là quân bị, ngươi đã đánh mất sự giác ngộ và tầm nhìn nên có của một chỉ huy sứ cấp cao, ta đành phải xử theo quân pháp thôi! Người đâu, đem hắn ra ngoài đánh 30 quân trượng cho ta!"

Hộ vệ đồng thanh dạ một tiếng, mặc cho hắn khẩn thiết cầu xin, hộ vệ đã kéo hắn ra ngoài để xử theo quân pháp rồi.

Tướng sĩ của Tam Nha đều ra hóng hớt, tên chỉ huy sứ này vẫn ocnf thua xa Ngô Nhân hôm trước, 30 trượng đó đủ khiến hắn kêu trời

Đánh xong, thị vệ khênh hắn vào công đường trước mặt Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo vẫn câu nói đó: "Ngươi còn gì để nói?"

Tên chỉ huy sứ này gắng gượng lên tiếng, như sắp chết đến nơi vậy: "Mạt tướng biết sai rồi, xin đại tướng quân tha tội"

"Ngươi đã biết tội thì ta sẽ cho ngươi cơ hội lập công chuộc tội, cho ngươi thêm một ngày. Nhớ, đây là cơ hội cuối cùng. Trưa mai ta sẽ đưa người đên quân doanh của ngươi thị sát. Nếu các ngươi không chịu thay đổi, ta sẽ cách chức ngươi! Rõ chưa?"

Tên chỉ huy sứ đó vừa kêu đau thảm thiết vừa dạ luôn miệng.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới chịu cho thi vệ khiêng hắn ra ngoài.

Sau đó 1 ngày, Đỗ Văn Hạo sai người đi thị sát, quả nhiên tên đó đã xử lí hết toàn bộ 'dấu vết'. Đỗ Văn Hạo thầm đắc ý, xem ra nghiêm một chút lại hay.

Chiều hôm đó,

Cục an ninh cho Thẩm Thăng Bình đến báo, nguyên gián điệp chính đã phản bội Hàn Chẩn đã bị bắt. Đỗ Văn Hạo vui mừng, lập tức đi thẩm vấn Hàn Chẩn.

Hàn Chẩn lại cũng rất vui, thấy Đỗ Văn Hạo đã bắt ngự sử trung thừa Lý Thường, hơn nữa đã bắt hắn nhận tội.

Đỗ Văn Hạo lập tức báo cho Cao Thao Thao.

Hôm sau Cao Thao Thao hạ chỉ xử trảm Hàn Chẩn, tịch thu tài sản, phạt Lý Thường 50 trượng, đày đi xa kinh thành 3000 dặm. Đồng thời hạ chỉ ban bố toàn thiên hạ sắc lệnh xử tử những đại phu mà Tống Cao Tông, Tống Thần Tông và mình đã ban ra. Từ đó làm vững chắc thêm những quy định việc sĩ phu phản quốc. Đối với gián điệp của Tây Hạ, Cao Thao Thao lại không xử tử, cũng không xử phạt gì. Điều nà khiến Đỗ Văn Hạo rất đau đầu, nhưng hắn cũng chẳng có thời gian để đi hỏi 'người đẹp', vì sở quân khí đến báo hỏa pháo và lô toại phát thương thứ hai đã hoàn thành.

Vương Nhuận Tuyết cũng ton ton đi hóng chuyện, Đỗ Văn Hạo cùng với hộ vệ và Vương Nhuận Tuyết đến sở quân khí. Quả nhiên, cỗ đại pháo hùng dũng nằm đó, ngoài ra còn có 3 chiếc toại phát thương mới toanh nữa.

Đỗ Văn Hạo thử hỏa pháo trước.

Hắn nhồi thuốc súng vào, ban đầu nhồi ít, sau đó dùng da hươu tẩm dầu bọc thành viên rồi nhét vào ống thân, lần này chỗ nấp được làm khá xa, hơn nữa bên trên còn có miếng gỗ che. Sau này Đỗ Văn Hạo mới biết đó là thừa, vì trong hỏa pháo chỉ toàn thuốc súng, không thể bằng thuốc nổ hiện đại được, cho dù có nhồi thật chặt cũng chỉ có thể làm vỡ ống pháo.

Hắn châm dây dẫn xong rồi cũng chạy về chỗ nấp, chỉ nghe thấy tiếng nổ rõ to, đến nỗi làm tai mọi ngươi lung bùng mãi không thôi.

Đỗ Văn Hạo vội chạy ra xem, viên pháo đó được đưa đi xa đến mười mấy thước, mà thân pháo không hề bị rạn.

Mới xa được mười mấy thước dĩ nhiên là uy lực chưa đủ, Đỗ Văn Hạo nhồi thêm thêm thuốc súng vào để bắn thử lần nữa, lần này được mấy chục thước; hắn lại nhồi thêm thuốc, sau vài lần thử cuối cùng pháo đã nổ.

Khi lần thử cuối cùng nổ, khoảng cách đã là gần 100 thước.

Đỗ Văn Hạo nói: "Tạm được! Chỉ là chất liệu thân pháo không tốt lắm, bên trong không mài kĩ, cần tiếp tục nghiên cứu, mục tiêu là khoảng cách hơn 1 nghìn thước mới đạt"

Bọn Thiếu giám Lý Hoành nhìn nhau, đây là lần thứ hai họ được nhìn thấy vũ khí dùng thuốc súng làm động lực, cái pháo phiếc gì này thua xa máy bẩy đá, mỗi lần có thể đẩy được một viên đã cỡ nhỏ khoảng 10kg nhẹ nhàng đi xa hai trăm thước, công thành dùng đá nặng cũng đi được 100 thước. Loại pháo này chỉ đi được một nửa, thao tác phức tạp, dùng được mấy lần đã bỏ, lại còn tốn sắt và thuốc súng. So ra thì máy bẩy đá vẫn hơn, sao lại tốn thời gian vào loại máy này cơ chứ.

Nhưng Đỗ Văn Hạo đã hạ lệnh, bọn họ có cách nhìn khác thì cũng phải tuân theo thôi.

Đỗ Văn Hạo lại thử thương được làm thừ đồng xanh.

Kết quả, một cây thương không nổ, hai cây còn lại rất thuận lợi, nhưng chưa được ăn khớp lắm, đạn vừa ra khỏi nòng thì đã tiếp đất. Tiền trang thương lại không có vấn đề gì về độ khớp, ống thương sau khi dùng đồng thay thế lại không có khoang dẫn nổ.

Tức nhất vẫn là, hoàng đồng thương càng thử thì khoảng cách càng ngắn lại, xem xét lại mới phát hiện ra thuốc súng bị biến dạng do nhiệt độ cao và sức nén lớn, làm cho sự ăn khớp giảm dần.

Đỗ Văn Hạo tức hết nói, hắn không hiểu lắm về súng ống, nhưng cũng biết nên cải tiến thế nào, nhưng chỉ phát hiện ra vấn đề để các thợ về tự xem xét cải tiến thế nào.

Hắn yêu cầu thợ 2 vấn đề: 1 là tầm bắn, ít nhất cũng phải bằng cung nỏ; thứ hai là vấn đề khoang dẫn nổ, phải đảm bảo bắn được hơn 1 nghìn phát mà không bị giảm ma sát. Ngoài ra phải quan tâm đến tiền trang thương, sau đó là hậu trang thương.

Hỏa pháo cũng có yêu cầu tương tự. Dù bọn Lý Hoành không hiểu tại sao Đỗ Văn Hạo lại nhất quyết chế tạo những loại vũ khí này, nhưng kiểu gì cũng là một nhiệm vụ được giao nên đành vâng dạ quyết tâm hoàn thành.

Rời sở quân khí hắn kiền nhận được khẩu dụ của Cao Thao Thao nên lập tức vào cung.

Đỗ Văn Hạo vừa đến cung là hia người lại ôm ôm ấp ấp. Sau đó Cao Thao Thao bá cổ Đỗ Văn Hạo nói: "Lương Thái hậu Tây Hạ mời chàng đến Hưng Khánh phủ làm khách, chàng có hứng không?"

"Đùa gì vậy, bây giờ chúng ta còn đang nghĩ cách giết lão yêu bà đó"

"Người ta không phải là lão, còn trẻ hơn thiếp mấy tuổi đó"

"Nàng là tiên nữ giáng phàm, mụ ta là yêu nữ, sao so sánh được!"

Cao Thao Thao cười thích thú: "Có lẽ chúng ta không cần động thủ nữa, vì bà ta mắc trọng bệnh, sắp quy tiên rồi"

"Thật không? Tốt quá, có điều trước khi bà ta chết ngắc ngoải thì phải giúp Huệ Tông đế giành lại hoàng quyền mới được. Nếu không sau Lương thái hậu còn có Lý thái hậu, Trương thái hậu độc ác hơn, sẽ không có lợi cho chúng ta"

"Nhưng Lương thái hậu phái sứ thần đến mời chàng đến chữa bệnh. Nếu được Tây Hạ tình nguyện xưng thần, chấp nhận sắc phong của Đại Tống, và tiến cống công chúa cho hoàng thượng làm phi, đời đời hữu hảo không binh đao. Để tỏ lòng thành, còn nói Tây Hạ sẽ lập tức rút 100 dặm, không để quân cắm lại ở biên giới Tống Hạ! Đương nhiên cũng xin chúng ta ngừng tấn công và rút 100 dặm, hai bên thông thương lại như ban đầu.

Nếu như có thể chữa khỏi bệnh cho Lương thái hậu, Tây Hạ đồng ý mỗi năm bán cho chúng ta số lượng chiến mã của Đan Sơn gấp đôi, giá cả vẫn như trong đất Tây Hạ"

Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nếu có thể mua được số lượng chiến mã lớn thì có hi vọng đạt được mục tiêu: "Thật không?"

"Ừm, sứ thần vừa đến lúc trưa, sau khi thương lượng xong ta liền cho ngươi gọi ngươi tới. Ngươi thấy sao?"

Chuyện Huệ Tông của Tây Hạ sai mật sứ đến lien minh xưa nay không hề có tin tức gì, nay đột ngột chính thức phái sứ thần đến thỉnh cầu Đỗ Văn Hạo trị bệnh cho Lương thái hậu, lại đưa ra điều kiện hấp dẫn như vậy, Đỗ Văn Hạo rất bất ngờ, mới hỏi: "Nàng quyết định thế nào?"

Cao Thao Thao bá chặt lấy cổ hắn nói: "Bọn họ đến mời ngươi đi chữa bệnh, ta dĩ nhiên không thể quyết định thay ngươi, nên mới gọi ngươi đến để hỏi xem"

Đỗ Văn Hạo chưa tiến mà đã muốn lui, hỏi: "Bọn họ không nói nếu không chữa được thì sao à? Có phải sẽ giao tranh mãi không? Thậm chí là khử ta?"

"Ta cũng lo nên đã hỏi rồi. Sứ thần nói, nguyện phái em trai Huệ Tông, con trai của Lương thái hậu đến làm con tin. Cho dù có không chữa được thì cũng trả ngươi về Đại Tống. Hơn nữa có không chữa được cũng sẽ gả con gái cho hoàng thượng. Đồng thời con trai Lương thái hậu cũng sẽ lấy công chúa Đại Tống làm phi"

Đỗ Văn Hạo gật gù nói: "Đây chẳng phải chuyện tốt sao?"

Cao Thao Thao cười nói: "Ngươi thấy chuyện này rất tốt đúng không?"

"Đương nhiên! Quân ta nay yếu thế hơn, nên kết thân là kết quả cả hai bên cùng thắng, chúng ta không chỉ có biên giới hòa bình, có thời gian củng cố quân đội, thành lập một đội kị binh hùng mạnh. Cứ cho là không chữa được bệnh cho Lương thái hậu thì cũng có thể mượn cơ hội này tùy cơ ứng biến, giúp Huệ Tông đoạt lại hoàng quyền. Kiều gì cũng có lợi. Vì vậy đây là cơ hội ngàn năm có một, không thể bỏ lỡ!"

"Vậy là ngươi đồng ý?" Cao Thao Thao cười hơi miễn cưỡng, "Nhưng ta không nỡ để ngươi đi"

Đỗ Văn Hạo dỗ dành: "Ta trị bệnh cho Lương thái hậu xong rồi sẽ về,ó đi luôn đâu!"

"Được rồi, ngươi hãy cẩn thận"

"Yên tâm đi, có con trai Lương thái hậu làm con tin, bọn họ sẽ không làm khó ta đâu"

"Ta vẫn không yên tâm, để ta phái trọng giáp kị binh đi hộ tống ngươi nhé?"

Đỗ Văn Hạo véo nhẹ cái mũi của Cao Thao Thao: "Không cần đâu! Tây Hạ nếu thực sự muốn làm khó ta thì một đội trọng giáp kị binh không làm được gì đâu, mà nếu họ không có dã tâm thì mang trọng giáp kị binh theo há chẳng phải trò cười sao"

"Nhưng ngươi đi một mình ta không yên tâm!"

"Đừng lo, ta còn có đội hộ vệ nữa cơ mà"

"Mang theo cả thiếp yêu Lâm Thanh Đại nữa, nghe tiên đế nói cô ấy võ nghệ cao cường, gặp khó khăn cũng sẽ giúp được ngươi"

"Được, ta nghe nàng, cứu người như cứu hỏa, không thể chậm trễ, ta sẽ lập tức chuẩn bị"

Cao Thao Thao ôm chặt lấy Đỗ Văn Hạo, nước mắt ứa ra như sắp có chuyện gì xảy ra vậy, chỉ muốn giây phút này mãi dừng lại.

 Chương 454: Nghìn năm có một.

Đây đúng là cơ hội ngàn năm có một!

Đó là cảm tưởng đầu tiên của Đỗ Văn Hạo.

Hắn vẫn chưa thỏa thuận được với Huệ Tông, nhưng giết được Lương thái hậu, đổi thành Hạ Huệ đế. Chuyện này vốn là hi vọng của Đại Tống, vì vậy dù không có thỏa thuận gì, Đỗ Văn Hạo vẫn lợi dụng cơ hội này, giết Lương thái hậu, thay đổi toàn cục lịch sử!

Sau khi giết được Lương thái hậu, hắn sẽ có hai lựa chọn, một là giúp Huệ Tông đoạt lại hoàng quyền, hai là biến Huệ Tông thành hoàng đế bù nhìn! Cái này còn phải xem Huệ Tông có điều kiện gì đã.

Đỗ Văn Hạo từ chối chuyện Cao Thao Thao cho trọng giáp kị binh hộ tống đi Tây Hạ là muốn Tây Hạ lơi là cảnh giác, không đoán được ý đồ của hắn, do đó hắn muốn huy động đội quân đặc chiến mới.

Đội quân này vẫn chưa được luyện tập gì bài bản, không biết có thể hoàn thành nhiệm vụ hay không, trong lòng lo lắng không yên. Hắn quyết định cho luyện tập trong nửa ngày.

Vì vậy sau khi diện kiến sứ thần Tây Hạ, lấy lí do là chuẩn bị ch chuyến đi, hắn lui giờ khởi hành đến sang hôm sau, và luyện tập cho đội đặc chiến kia.

Sau khi rời hoàng cung, hắn đến Tam Nha trước, triệu Lý Phố lại, hỏi về tình hình xây dựng đội đặc chiến.

Lý Phố cho Đỗ Văn Hạo biết, hiện nay đã chọn được 2 nghìn người, tinh nhuệ và tuyệt đối trung thành.

Đỗ Văn Hạo nói với Lý Phổ âm mưu của hắn nhân dịp Lương thái hậu mời hắn sang chữa bệnh để phát động nội chiến trong hoàng cung Tây Hạ. Lý Phố thấy kế hoạch này tuy có mạo hiểm, nhưng lại là cơ hội rất hiếm có. Đỗ Văn Hạo hỏi hắn nên có kế hoạch tác chiến như thế nào.

Lý Phổ nói, Tây Hạ từ ngày lập quốc, toàn bộ chính trị quân sự đều mô phỏng theo Đại Tống, kể cả về kiến trúc. Đặc biệt là bố trí hoàng cung và kinh thành, giống như bản thu nhỏ của Khai Phong vậy. Có thể lấy hoàng cung để diễn tập cũng được. Có điều nơi ở của hoàng thượng và phi tần không giống

Đỗ Văn Hạo lập tức lấy bản đồ hoàng cung ra xem, cùng Lý Phố đến bộ lễ tìm một người từng nhiều lần đi sứ Hưng Khánh phủ, các quan lại đã từng ra vào hoàng cung Tây Hạ, để bọn họ đánh dấu lên bản đồ vị trí của tẩm cung hoàng thượng, thái hậu và các phi tử; vị trí thường trực của ngự lâm quân và thị vệ đại nội; đồng thời chỉ ra những điểm khác nhau giữa hoàng cung đại Tống và Tây Hạ.

Những viên quan này từng đi sứ Tây Hạ, rất hiểu mấy chuyện này, đánh dấu các vị trí rất rõ ràng, cũng nói ra chính xác từng điểm khác biệt. Chỉ có điều họ không hay nhìn thấy ngự lâm quân và thị vệ đại nội, cũng không biết nên đánh dấu thế nào.

Đỗ Văn Hạo cùng Lý Phổ đến nơi luyện tập của đội đặc chiến ngoài kinh thành, tiếp kiến hai nghìn đội viên đội đặc chiến mới. Đỗ Văn Hạo nói: "Ngày mai ta cần 500 người đi nhận một nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm, có thể sẽ phải chết, ai đi hãy tiến lên 1 bước!"

Hai nghìn binh sĩ đều tiến lên phía trước!

Khi thành lập đội này, Đỗ Văn Hạo đã nói rõ mục đích thành lập và yêu cầu với Lý Phố. Và khi chọn thành viên, điều kiện đầu tiên của Lý Phổ là không sợ chết. Vì vậy tất cả đều xung phong. Đỗ Văn Hạo gật đầu mãn nguyện, chọn ra 500 người, nhìn qua trông rất bình thường, trà trộn vào đám đông chắc không ai nhận ra, hơn nữa trông nhỏ nhắn nhanh nhẹn.

Hắn chia 500 người đó thành 10 đội, mỗi đội 50 người, để tự chọn ra thủ lĩnh. Hắn và Lý Phố cầm đầu 10 thủ lĩnh đó, thay đổi trang phục thị vệ đại nội, dẫn bọn họ đến hoàng cung. Sau khi bọn họ xem xong bản đồ đã được đánh dấu, hắn dẫn bọn họ đi dạo hoàng cung vài vòng để thuộc hết các vị trí.

Sau cùng Đỗ Văn Hạo cho 500 người đó mặc thường phục, không mang theo bất kì vũ khí gì, rồi qua biên giới Tây Hạ bằng nhiều thân phận khác nhau, đi suốt ngày đêm đển kinh thành Tây Hạ để thực hiện nhiệm vụ.

Đỗ Văn Hạo điều động 20 chiếc xe lớn từ hoàng cung, nói với sứ thần Tây Hạ là vàng bạc châu báu lụa là nghênh thân của Đại Tống, đồng thời để sứ thần xem vài rương. Thực ra những chiếc rương đó đều có hai tầng, chỉ có tầng trên là vàng bạc châu báu, tầng dưới là vũ khí.

Khi Đỗ Văn Hạo sắp xếp ổn thỏa thì đã chạng vạng, hắn về nhà, gọi tất cả các bà vợ lại, nói là sắp đi Tây hạ công tác, muốn Lâm Thanh Đại đi cùng.

Kha Nghiêu nằng nặc đòi đi, Đỗ Văn Hạo rắn mặt không đồng ý, Vương Nhuận Tuyết cũng muốn đi cho vui, nói xưa nay chưa được đi Tây Hạ. Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rồi cũng đồng ý, là cho Kha Nghiêu lải nhả mãi không thôi.

Vì không muốn làm người Tây Hạ chú ý, Đỗ Văn Hạo cố ý chỉ mang 10 hộ vệ, đều là đội tinh nhuệ, có thể 1 chọi 10, do Hứa Văn Cường dẫn đầu.

Sáng sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại, Vương Nhuận Tuyết, và 10 hộ vệ lên 20 chiếc xe lớn xuất phát cùng sứ thần Tây Hạ.

Đồng hành còn có hai viên quan bộ lễ, 500 điện tiền ty ngự lâm quân để hộ tống thân vương Tây Hạ, một đoàn người ngựa đi không quản ngày đêm, không đến 1 ngày đã đến kinh lược ty Hoàn Khánh.

Đỗ Văn Hạo là chủ soái quân Tây chinh, tổng chỉ huy tiền địch Lã Công Trứ và phó tổng chỉ huy Khúc Trân mang quân đến đón từ xa hơn trăm dặm, định thiết tiệc khoản đãi. Đỗ Văn Hạo muốn nhanh chóng đến thủ đô Tây Hạ để chữa bệnh cho Lương thái hậu, làm gì có tâm trạng tiệc tùng, thậm chí còn chẳng thèm nghe báo cáo chiến sự.

Nhưng có một chuyện hắn nhất định phải làm, đó là gặp thân thúc của Thái Kinh Thái đầu đang ở Tây Hạ làm ăn. Hiện nay Thái Đầu đã vươn lên cục an toàn quốc gia Đại Tống, nhận chức sở trưởng.

Tên Thái đầu này là người rất biết làm ăn, nhìn tướng cũng biết, mặt bóng nhẫy, mắt cười tií, gật đầu cúi người ra vẻ cung kính, gặp măt Đỗ Văn Hạo là đã có bao nhiêu lễ vật gặp mặt. Đỗ Văn Hạo tuy không xem trọng các lễ vật đó, nhưng cảm giác đầu tiên là "thằng cha này chơi được".

Vì vậy Đỗ Văn Hạo không muốn nói nhiều, để hắn cùng mình đến Tây Hạ một chuyến, đồng thời cho phép hắn mang theo hàng hóa để buôn bán tại các thị trấn của kinh thành Tây Hạ. Tên đó vội vàng chuẩn bị xe đồ rồi nhập vào dòng người đoàn Đỗ Văn Hạo rồi tiến về phía thủ đô Tây Hạ.

Sứ thần Tây Hạ đã cho người về trước để báo cáo với thân vương Bỉnh Sinh, thân vương đã cho người ra đợi đón tiếp. Khi Đỗ Văn Hạo đến thì hai bên gặp mặt mà đưa ra chiếu thư làm bằng.

Thân vương Bỉnh Sinh quỳ xuống gào khóc thảm thiết, cầu xin Đỗ Văn Hạo hãy cứu lấy tính mạng của mẫu hậu. Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là đồng ý ngoài miệng. Bỉnh Sinh sẽ do 500 ngự lâm quân vào đến đất Khai Phong Đại Tống, Tây Hạ cũng phái 300 trọng giáp kị binh đến đón tiếp đưa Đỗ Văn Hạo về Hưng Khánh Phủ kinh thành Tây Hạ.

Vào đến đất Tây Hạ, khí hậu phong tục cũng khác, trên đường đi, Đỗ Văn Hạo thấy đàn ông đều cạo trọc đầu, tai đeo khuyên lớn bằng bạc, rất giống trong phim 'Thiên long bát bộ', xem ra đạo diễn hiểu rõ về trang phục kiểu tóc của Tây Hạ cổ đại!

Người ở vùng lòng chảo chủ yếu ở nhà đắp bằng đất, khi đi vào vùng sa mạc hảo nguyên thì mọi người lại sống chủ yếu trong lều, chăn bò dê cừu theo đàn, nhìn xa trông như những đám mâ trắng trên thảo nguyên, khiến người ta như nhìn thấy ảo giác.

Đỗ Văn Hạo không có tâm trạng mà ngắm cảnh nữa, chuyện này can hệ tới tương lai Đại Tống, vì vậy hắn cho người đi ngày đi đêm để kịp công chuyện.

Chỉ có điều giao thông thời cổ đại quá lạc hậu, cho dù bọn họ đi ngày đi đêm nhưng khi cách Hưng Khánh phủ hai ngày đường nữa, thì đã nhận được tin bài thái hậu kia qua đời rồi!

Quan bộ lễ Tây Hạ đều quỳ xuống thống khóc.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên không khóc rồi, nhưng hắn vẫn giả vờ lau nước mắt, trong lòng có bao nhiêu dự định.

Lương thái hậu đột ngột băng hà, làm đảo lộn kế hoạch, phải làm thế nào đây?

Đỗ Văn Hạo lập tức cho Thái Đầu đến kinh thành trước nghe ngóng xem Huệ Tông đế đã đích thân nắm quyền chưa, hay đã có người thay quyền vị của Lương thái hậu.

Bọn họ lại đi thêm 1 ngày nữa thì gặp đội do thám trên đường về, kinh thành giờ cảnh giới nghiêm ngặt, nhưng đến nay vẫn chưa có tin Huệ Tông đế nhiếp chính, cũng có bất kì thánh chỉ nào được đưa xuống. Quân chính tạm thời do con trai của em trai Lương thái hậu Lương Ất đảm nhiệm.

Đỗ Văn Hạo liền hiểu ra, Huệ Tông Tây Hạ vẫn không có được hoàng quyền như mong muốn. Nếu như vậy, Huệ Tông nhất định sẽ cho người lien lạc với mình. Đỗ Văn Hạo quyết định nằm im quan sát đã, không thể mạo hiểm được, đợi chờ cơ hội ra tay tốt nhất.

Quan bộ lễ của Tây Hạ khóc lóc rồi gấp gáp trở về kinh, một đoàn người đi bất kể ngày đêm hồi kinh.

Khi đến Hưng Khánh phủ, Lý Phố mang theo vài đội viên đội đặc chiến, giả làm người trong phường Thái Đầu đến nghênh tiếp, hợp với đoàn Đỗ Văn Hạo cùng vào kinh thành.

Hưng Khánh Phủ không thể náo nhiệt bằng Khai Phong, càng không rộng lớn và đông dân bằng. Nhưng đây lại là thành phố lớn nhất Tây Hạ.

Lúc này, từ hàng chục dặm bên ngoài kinh thành đã có ngự lâm quân của Tây Hạ chốt giữ, sau khi bọn Đỗ Văn Hạo vào thành, có quan bộ lễ ra nghênh đón hết sức khách khí.

Trên các đường phố đều đông nghịt binh sĩ đi tuần thành nhóm, không khác gì khi Tống Thần Tông qua đời, người ra vào thành đều bị kiểm tra nghiêm ngặt.

Đỗ Văn Hạo là sứ thần Đại Tống, lại là người đi cùng quan viên bộ lễ Tây Hạ, vì vậy được miễn kiểm tra, đi lại không có trở ngại gì. Đỗ Văn Hạo mừng thầm vì đã giấu vũ khí vào những rương lễ vật.

Đỗ Văn Hạo yêu cầu được gặp Hạ Huệ Tông, cũng bị khách khí từ chối, nói bây giờ đang có tang sự, lúc thích hợp sẽ bố trí gặp.

Bọn Đỗ Văn Hạo hành động không có hạn chế gì, ngoài việc hoàng thành không được vào, còn lại có thể tự do hoạt động trong kinh thành. Ít nhất không có cảm giác bị tù túng, có điều đi đâu cũng có ngư lâm quân với quan bộ lễ đi cùng.

Vương Nhuận Tuyết và Lâm Thanh Đại rất tò mò về kinh thành Tây Hạ, nhéo nhéo đòi Đỗ Văn Hạo đưa đi chơi. Đỗ Văn Hạo chưa có việc gì đành đưa bọn họ đi dạo phố chơi.

 Chương 455: Thuê đất.

Cho dù hai nước giao tranh thì dân chúng vẫn có thể đi lại bình thường_ hòa ước này đã bị dừng lại do chiến tranh bùng nổ. Nhưng mua bán trên thực tế giữa nhân dân hai nước vẫn hết sức nhộn nhịp. Vì vậy người Hán của Đại Tống đến Hưng Khánh phủ làm ăn rất đông. Cũng có một số người Hán sinh sống ở đây lâu đời. Bọn Đỗ Văn Hạo trà trộn vào đám người đó, đương nhiên đó là lúc không nhìn thấy quan bộ lễ hay ngự lâm quân.

Thái Đầu nắm rõ Hưng Khánh Phủ, cũng có một số tiệm ăn nên làm gia ở đây, hắn dẫn bọn Đỗ Văn Hạo vòng quanh Hưng Khánh phủ. Vương Nhuận Tuyết thích mua sắm, lúc đi hai tay không, lúc về đến hộ vệ cũng túi lớn túi nhỏ.

Lòng vòng chán chê, bọn họ lại qua về hoàng cung.

Ba người đang sôi nổi bình luận về hoàng cung và kinh thành Tây Hạ trong phòng thì bỗng có người gõ cửa. Đỗ Văn Hạo đi ra, Thái đầu dẫn theo một người phụ nữ bịt mặt đi vào, ở Tây Hạ thường có gió cát và bão cát, vì vật phụ nữ thường trùm mặt

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên nhìn Thái đầu, muốn hỏi là ai, Thái đầu chỉ cười, người phụ nữ trung niên đó bỏ khăn che mặt ra. Đỗ Văn Hạo định thần nhìn, người đến thì ra là sứ thần bí mật của Hạ Huệ Tông lần trước đến gặp đưa ra đề nghị liên minh với Đại Tống giết Lương thái hậu, tên là Ngôi Danh Thiện Ly Cống Mã (gọi tắt là Ngôi Mã)

Quả nhiên không ngoài dự liệu. Đỗ Văn Hạo cười, chìa tay mời ngồi, hai người ngồi xuống rồi Đỗ Văn Hạo mới nói: "Ngôi đại nhân, từ lần từ biệt trước không có tin gì từ ngài, khiến người ta thật lo lắng"

Ngôi mã có phần ngại: "Lần trước quay về Lương thái hậu đã bệnh rồi, mà bệnh rất nặng, hoàng thượng nói đợi xem bệnh của thái hậu thế nào rồi mới tính"

"Ra vậy, ta hiểu rồi. Ý của hoàng thượng là nếu thái hậu băng hà do trọng bệnh thì mọi người sẽ không cần đến bọn ta nữa, đúng không? Bây giờ mụ phù thủy đó tiêu rồi, các ngài đến tìm chúng tôi làm gì?"

Ngôi Mã càng bối rối hơn: "Cái này...Tể chấp đại nhân hiểu nhầm rồi, hoàng thượng chúng tôi tuyệt đối không có ý đó. Bây giờ tuy Lương thái hậu đã băng hà, nhưng quyền nhiếp chính vẫn trong tay cháu họ thái hậu. Hoàng thượng chúng tôi vẫn quyết định tiếp tục liên minh với Đại Tống. Xin đại nhân giúp hoàng thượng chúng tôi đoạt lại hoàng quyền, chỉ có điều kiện này có thể thương lượng lại không..."

Đỗ Văn Hạo trộm nghĩ, ngươi đã chủ động đến tất có chuyện cầu cạnh ta, lúc này mà còn muốn kì kèo, đúng là tên ngốc nhất quả đất này, bèn nói: " trước nay không nói hai lời, giá lần trước đưa ra là tốt nhất rồi. Được là được, không được thì thôi, đợi chúng tôi viếng Lương thái hậu xong, nếu vẫn tiếp tục hòa thân thì chúng tôi sẽ thương lượng với người nhiếp chính chuyện nghênh thân. Nếu không chúng tôi đành phủi đít đi về vậy!"

Ngôi mã cười nói: "Tể chấp đại nhân, bãi chăn ngựa Đan Sơn thực sự rất quan trọng với chúng tôi, không thể thiếu được. Thế này vậy, chúng tôi cắt toàn bộ phía Nam Hoàng Hà cho Đại Tống, được không?"

Mảnh đất đó không bao gồm bãi chăn thả, diện tích chủ yếu là hoang mạc, Đỗ Văn Hạo không thích chút nào. Cái hắn ngắm tới là bãi chăn thả cơ, lập tức xua tay nói: "Miễn bàn! Chúng ta không làm chuyện ám muội, điều kiện không thể thay đổi được!"

Ngôi Mã nói: "Không dám giấu, chúng tôi cũng thương lượng với Đại Liêu rồi, cái giá Đại Liêu đưa ra thấp hơn nhiều, nhưng hoàng thượng chúng tôi thân Tống, muốn kết thân với Tống hơn, vì vậy không đến nước bất đắc dĩ thì không huy động binh mã của Đại Liêu"

Quả nhiên lại dùng đến chiêu này, Đỗ Văn Hạo đã sớm tính đến trường hợp này, hắn mỉm cười nói: "Chúng tôi không quan tâm đến việc các vị có dựa vào Liêu để giành lại vương vị hay không, vì Tống Liêu đã kết giao hơn trăm năm nay, và cũng không vì Liêu Hạ kết minh mà ảnh hưởng đến Đại Tống. Vì vậy chuyện này thành thì thành, không thành thì chúng tôi cũng không thiệt hại gì, nếu Ngôi đại nhân không còn chuyện gì nữa thì mời quay về cho. Lúc này tôi đã đi quanh các phố nên cũng đã mệt, muốn nghỉ ngơi chút"

Ngôi Mã sững lại, hắn không ngờ Đỗ Văn Hạo trả lời kiên quyết vậy, hơn nữa sau đó lại có lời tiễn khách, hắn không khỏi bối rối.

Hắn trâm ngâm đôi chút, chắp tay nói: "Vậy được, chúng tôi sẽ nhường bãi chăn thả Đan Sơn cho các vị, nhưng không bao gồm Cam Châu, Lương Châu, hơn nữa tiền cống hằng năm phải trả gấp hai trước, hòa thị lập tức phải khôi phục lại, vĩnh viễn không thay đổi!"

Tiền cống mỗi năm là nguồn thu tài chính quan trọng của Tây Hạ, hòa thị lạ càng quan trọng hơn, các loại hương liệu, vải vóc, thuốc men, lá trà, và cả các loại kim khí đều nhập từ Đại Tống về.

Đặc biệt là lương thực, Tây Hạ chủ yếu là chăn nuôi gia súc, vì vậy rất thiếu lương thực, phải dựa nhiều vào Đại Tống.

Còn Tây Hạ bán cho Đại Tống chủ yếu là ngựa, bò, cừu, và hồ tiêu, kì tử, đại hoàng, cũng là nguồn thu tài chính quan trọng, chỉ nguyên muối, Tây Hạ mỗi ăm đã bán sang Đại Tống 10 vạn thạch.

Vì vậy đương thời người Tống vẫn nói người Hạ trông chờ hòa thị như trẻ con ngóng sữa mẹ, mỗi lần hai bên giao tranh hòa thị bị ngắt quãng, vật giá ở Tây Hạ tăng cao, nạn đói lại hoành hành.

Đỗ Văn Hạo rất hiểu chuyện này, gấp đôi công nạp, chuyện này chẳng bõ bèn gì với Đại Tống, nhưng hắn hơi lo chuyện cắt đất. Chỉ cần là vô cớ đưa tiền thì hắn tức, bàn nói: "Tuyệt đối không đươc!"

"Tại sao?"

"Rất đơn giản, kết minh là kết minh, hai bên phải bình đẳng, Đại Tống cớ gì mỗi năm phải đưa cho các vị hàng chục vạn tiền cống nạp? Chúng tôi sẽ được gì? Tại sao các vị lại không cống nạp tiền cho chúng tôi?"

Ngôi Mã nói: "Cái này do chúng tôi xưng thần với Đại Tống, là các vị cho chúng tôi mà..."

"Ban thưởng cho nước ngoài là khi nước ngoài tiến cống, chỉ có thể do hoàng thượng quyết định tùy vào lễ vật cống, có nên thương không, thưởng bao nhiêu, thưởng khi nào. Làm gì có chuyện khế ước mỗi năm phải có tiền cống? Không phải ép người thì là gì? Vì vậy, ta đã nói rồi, chỉ cần ta là tể chấp một ngày, khoản tiền tiến cống đó ta kiên quyết phản đối. Không thể kết minh thế này được! Đừng nói là gấp đôi, mà một xu cũng không được!"

Đỗ Văn Hạo càng nói càng tức giận, đứng lên nói: "Còn nữa các vị chỉ nhượng cho chúng tôi bãi chăn thả Đan Sơn, không có Lương Châu Cam Châu, nhưng Đan Sơn lạ nằm ở biến giới Tây Hạ - Thổ Phiên (cao nguyên Thanh Tạng ngày nay), cách Tống hàng trăm dặm, chúng tôi đến Đan Sơn bắt buộc phải qua Lương Châu, các vị không nhượng Lương Châu thì chúng tôi quản thế nào đây? Chẳng nhẽ lại bay qua?"

"Chúng tôi sẽ nhượng cả thông đạo rộng 5 dặm kéo dài từ phía Nam bãi chăn thả và biên giới Thổ Phiên đến biên giới Đại Tống, như vậy các vị có thể trực tiếp quản lí Đan Sơn rồi"

"Cái gì?" Đỗ Văn Hạo tròn mắt lên, "Thông đạo rộng năm dặm? Bên trái là Thổ Phiên, bên phải là Tây Hạ, rộng năm dặm dài hàng trăm dặm, giống như sợi mỳ vậy, thông đạo này sơ sẩy là có thể vượ ra khỏi ranh giới, ngài bảo chúng tôi quản thế nào đây? Các vị lấp thông đạo đi, hàng chục vạn con ngựa chúng tôi nuôi sẽ lại là của các vị sao? Các vị tính toán không tồi đâu! Để chúng tôi làm Bạch Mã Ôn cho các vị, chúng tôi nuôi ngựa, còn các vị hưởng thành quả, đúng không? Đủ thấy là các vị không hề có thành ý rồi! Tiễn khách!'

Ngôi Mã hết sức bối rối nhìn Thái Đầu.

Thái Đầu hiểu ý, vội vàng nói lấp liếm: "Quốc Công đại nhân bớt giận, có gì từ từ nói, cái gì cũng có thể thương lượng mà..."

Đỗ Văn Hạo giận giữ nói: "Thương lượng gì chứ? Giờ là lúc nào rồi? Lương thái hậu vừa băng hà, Lương Ất Thông vừa nhiếp chính, ngồi chưa ấm chỗ, đây chính là lúc đoạt lại hoàng quyền, muộn 1 ngày là đối phương có thêm 1 ngày để chuẩn bị. Các vị không vội, thì chúng tôi vội gì!"

Ngôi Mã thấy ong ong, Đỗ Văn Hạo nói hoàn toàn có lí, thời gian mới là cái quan trọng nhất, không phải lúc kì kèo, lúc này hắn mới hạ giọng: "Vậy được! Tể chấp đại nhân, thế này vậy, chúng tôi lại nói ngài nghe thử xem, nếu không được nữa thì tôi chỉ có thể về bẩm báo để bề trên quyết định vậy"

Đỗ Văn Hạo biết là đã có kết quả, trong lòng thầm mừng, nhưng mặt vẫn lạnh tanh, hắn ngồi phịch xuống, không thèm nhìn Ngôi Mã.

Ngôi Mã chắp tay: "Tể chấp đại nhân đã kiên quyết như vậy thì chúng ta đổi phương thức khác, ngài xem thế nào? Tây Hạ chúng tôi sẽ cắt Đan Sơn và thông đạo cho các vị, Cam Châu Lương Châu coi như các vị thuê mượn, hàng năm các vị trả tô đất, số tiền gấp hai lần số tiền cống nạp trước đây. Ngài thấy được không?"

Tạm được, Đỗ Văn Hạo nghĩ, kết quả này là đáng mong đợi rồi. Hoàng vị vốn dĩ là của Hạ Huệ Tông, giúp hắn lấy lại hoàng vị là có lợi cho Đại Tống. Tây Hạ cắt Đan Sơn cho Tống là ngoài mong đợi rồi, lại còn cho thuê Lương Châu Cam Châu, hai mảnh đất này chiếm 1/10 Tây Hạ, hơn nữa lại có vùng đồng bằng phì nhiêu.

Tiền thuê gấp đôi số tiền cống nạp trước cũng có thể coi là hợp lý, vì đất đai phì nhiêu, sản vật thu được chắc chắn sẽ hơn số tiền đó rất nhiều. Vụ làm ăn này lời to rồi!

Đỗ Văn Hạo trong bụng đã đồng ý rồi, nhưng mặt vẫn tỉnh bơ: "Thuê bao lâu?"

"Mười năm? Hết hạn 10 năm, các vị trả lại cho chúng tôi"

"Vậy thành quả lao động của chúng tôi ở trên đó tính thế nào?"

"Nhà đi theo đất, dĩ nhiên sẽ là của chúng tôi. Do hai mảnh đất đó rất lớn, số tiền thuê như vậy đã rẻ lắm rồi"

"Ha ha, các vị tính toán cũng được lắm, 10 năm, đủ để chúng tôi xây dựng xong, nếu trả lại cho các vị cả đất lẫn nhà thì coi như là làm thuê không không cho các vị rồi!"

 Chương 456: Kỳ Binh

Vẻ mặt Khắc Mã tỏ ra vô cùng đau khổ hỏi: "Vậy tể chấp dự định thế nào?"

Đỗ Văn Hạo vung tay lên, dứt khoát nói: "Thời gian là rất quý giá, ta cũng không muốn chúng ta bị chậm trễ. Chúng ta không cần nhiều như vậy, cắt bớt lại một chút đi. Đi như vậy, từ mã trường Sơn Dan hướng tới biên cảnh Thổ Phiên, đường lớn rộng rãi, dài cả trăm dặm được rồi. Ngoài những chỗ mã trường Sơn Dan cắt lại cho chúng ta, Cam châu, Lương châu và các địa phương còn lại thì cho chúng ta thuê trong năm mươi năm, vậy là tốt lắm rồi. Tiền thuê tính theo kim ngạch tiến cống, gấp đôi lên là được. Những hiệp nghị cống tiến hàng năm từ trước tới nay vẫn sẽ không hề có các điều khoản gì khác. Ngoài ra, song phương những quân dân bắt được trước đây đều không phải trả lại. Đại Tống ta theo quy củ từ xưa, sắc phong Huệ Tông các ngươi là Hạ Quốc vương. Các ngươi nếu cống tiến đầy đủ, chúng ta sẽ có ban thưởng, cho phép giao thương, còn có thể tùy thuộc vào điều kiện mà gia tăng khai mở bến cảng. Cứ như vậy quyết định đi!"

Sở dĩ Đỗ Văn Hạo định ra cái hạn cho thuê năm mươi năm là bởi vì hắn tin tưởng rằng thời hạn đó đủ để cho Đại Tống sửa trị quân đội. Mà trong lịch sử, hơn bốn mươi năm sau, Đại Kim quốc đã quật khởi, hơn nữa còn diệt Đại Tống. Thời gian còn lại của Đại Tống đã không đủ năm mươi năm. Do đó, phải trong vòng năm mươi năm đó trở nên cường đại, còn không, ngoài khoảng thời gian này cũng không còn nhiều ý nghĩa.

Khắc Mã suy nghĩ một chút, Lương Châu cùng Cam Châu mặc dù là chỗ sông lớn trong bình nguyên nhưng lại đa phần chưa được phát khởi khai hoang, hơn nữa lại rất gần biên cảnh của Đại Tống, chịu cảnh chiến tranh liên miên, dân cư ở đây đã bỏ đi nhiều. Ruộng đồng mặc dù phì nhiêu nhưng cũng bị hoang phế vì không có người làm, giá trị không còn đến dưới một nửa tệ, vậy mà bây giờ lại có thể cho thuê với số tiền gấp hai lần tiến cống. Điều này rõ ràng đối với dân cư Tây Hạ vốn thưa thớt rất có lời, mặc dù cũng sẽ mang lại cho Đại Tống không ít tiện nghi.

Nghĩ một hồi, Khắc Mã gật đầu nói: "Được, cứ quyết định như vậy đi! Để ta trở về bẩm báo Hoàng Thượng, đích thân người viết xuống một đạo mật chỉ, đóng Ngọc vọng đại ấn cho các ngươi làm bằng chứng. Đổi lại, các ngươi phải giúp Hoàng thượng chúng ta đoạt lại hoàng quyền, song phương khi đó sẽ chính thức ký kết lại hiệp nghị."

"Tốt! Một lời đã định. Hiện tại Lương Thái hậu đã chết, các người còn cần chúng ta làm gì?"

"Nguyên bổn Lương Thái hậu cùng đệ đệ Lương Ất Mai hai người chuyên quyền, Lương Ất Mai đã chết từ mấy tháng trước rồi, Lương Thái hậu sau khi bệnh nặng liền nhường lại tất cả quyền binh to lớn cho con của Lương Ất Mai là Lương Ất Thông. Tên Lương Ất Thông này so với Lương Ất Mai còn muốn ngang ngược, khó đối phó hơn rất nhiều. Chúng ta chính là muốn các ngươi giúp đỡ giết chết Lương Ất Thông."

"Một chuyện tình đơn giản như vậy, các ngươi sao không phái một sát thủ giết hắn là xong hết sao?"

Khắc Mã cười khổ: "Nếu đơn giản như vậy thì tốt rồi, Lương Ất Mai nắm giữ binh quyền, đương nhiên hộ vệ bên người rất nhiều, người khác căn bản không thể đến gần được! Hơn nữa, bên người Hoàng Thượng hiện nay thật không ai có khả năng làm được việc này. Còn nữa, gia tộc của Lương Thái hậu còn có nhất bang đảng vũ, các ngươi cũng nhất định phải giúp chúng ta nhất tịnh tiễn xuất, giải quyết hết mấy đám này, đồng thời tuyên bố sắc phong hoàng vị Tây Hạ vương. Có Đại Tống ủng hộ, Hoàng thượng của ta nhất định sẽ thuận lợi tiếp chưởng quân sự và đại quyền chính trị."

Sắc phong cho Tây Hạ vương là chuyện tình Thái Hoàng Thái Hậu đã đồng ý rồi, trực tiếp mình có thể tuyên bố chuyện này không thành vấn đề, sử dụng chính thân phận của mình là được. Xuất kỳ bất ý giết chết Lương Ất Thông cũng không phải là chuyện tình không có khả năng, nhưng chuyện mấu chốt lại chính là muốn nhất tịnh tiễn xuất Đảng vũ của Lương Ất Thông. Phải biết rằng để làm chuyện này thì không thể tránh khỏi cái chuyện đánh rắn động cỏ, nếu sau đó muốn có biện pháp một mẻ hốt gọn là cực kỳ khó khăn, cần phải hảo hảo cân nhắc kỹ lưỡng để ra một kế hoạch hoàn hảo.

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta hiểu chuyện này. Riêng việc giết Lương Ất Thông không phải là chuyện khó. Tuy nhiên, muốn đem toàn bộ đảng vũ diệt trừ thì thật có chút phiền toái. Có thể có một biện pháp, ví dụ như tìm cách tập trung bọn họ đến một địa điểm như hoàng cung chẳng hạn, rồi ra tay nhất loạt tiêu diệt toàn bộ."

Giác Mã nghe vậy thì vừa mừng vừa sợ, thấp giọng hỏi: "Các ngươi đã phái người tới đây rồi sao?"

"Chuyện này các ngươi cũng không cần phải quan tâm làm gì. Các ngươi cứ đem tình hình của Lương Ất Thông cùng với vây cánh, thân tín của hắn như thế nào nói hết một lượt cho chúng ta biết. Đúng rồi, các ngươi cũng phải nói rõ cho ta về tình huống bố trí cảnh giới trong hoàng thành. Càng kỹ lưỡng càng tốt."

"Được. Để ta về bẩm báo với Hoàng Thượng, an bài tốt mọi việc, sau đó ta sẽ trở lại, mang cả bản đồ cảnh giới cho các ngươi."

Hai người thương lượng thỏa đáng xong xuôi đâu đấy thì Giác Mã lại thay đổi trang phục thành nữ, đi theo Thái đầu ra ngoài.

Buổi tối hôm đó, Đỗ Văn Hạo trong lúc rất sốt ruột chờ tin tức thì Huy Mã rốt cục cũng trở về. Theo lời hắn nói với Đỗ Văn Hạo, Hạ Huệ Đế và Lương Ất Thông đã thương lượng với nhau khá ổn thỏa, ngày mai, quần thần cử hành nghi thức chúc thọ cho Lương Thái Hậu, Lương Ất gia tộc cùng với đảng vũ và tất cả đại thần đều phải có mặt đông đủ. Lương Ất Thông cũng đã đáp ứng, để cho Đỗ Văn Hạo đại biểu cho Đại Tống tham gia nghi thức trên tế điện. Vì giữ bí mật, Hoàng Thượng không cho các đại thần thân cận biết về việc này, toàn bộ đều do bọn Đỗ Văn Hạo xử lý.

Khắc Mã tiếp đó cũng mang bản đồ hoàng cung tới. Trên tấm bản đồ này có tiêu chú khá rõ ràng các vị trí của thị vệ đại nội cùng ngự lâm quân. Những chi tiết này so với cái bản đồ của Lễ bộ Tống triều còn muốn cụ thể và rõ ràng hơn nhiều. Có tấm bản đồ này, trong lòng Đỗ Văn Hạo trở nên bình tĩnh hơn rất nhiều.

Cung đình chính biến (chính biến trong cung đình) thực tế chỉ là các thế lực trong Hoàng gia tranh đấu với nhau. Đối với quần thần cùng quân đội mà nói, ai làm Hoàng Thượng thì theo chân của bọn họ không có quan hệ lớn lắm, dù sao cũng chỉ là phận bề tôi. Chính vì vậy, gặp phải loại chính biến này, những kẻ khác thường chỉ cầu tự bảo vệ mình, cũng không chủ động nhúng tay vào trong đó. Cho nên, phát động cung đình chính biến thì binh lực thực sự không quan trọng nhiều mà phải đảm bảo tinh (tinh nhuệ), tốt nhất là đảm bảo trong thời gian thật ngắn có thể nhanh chóng khống chế đối thủ trong tay. Cũng chính vì thế mà bản đồ này đối với Đỗ Văn Hạo có ý nghĩa rất lớn.

Sau khi người của Khắc Mã dời đi, Đỗ Văn Hạo lập tức cho gọi Lý Phổ và Từ Hoa Cường vào để cùng thương lượng kế hoạch hành động. Căn cứ và tin tức Khắc Mã cung cấp, trong hoàng cung Tây Hạ có tất cả gần hai ngàn thị vệ điện tiền đại nội, ngự lâm quân nội trú trong kinh thành cũng có trên vạn người. Trong khi đó chiến đội đặc biệt mà Đỗ Văn Hạo mang tới cũng chỉ có năm trăm người. Số lượng cách xa không chỉ có thể dùng lời mà nói được, nếu muốn thủ thắng, thật sự chỉ có xuất thần binh!

Cũng may đã có được bản đồ bố trí binh lực của hoàng cung và kinh thành. Thêm vào đó Tây Hạ Huệ Tông đế lại vừa triệu tập tất cả quần thần vào trong điện, bao gồm cả đảng vũ của Lương Ất Thông. Nhưng điểm mấu chốt nhất sẽ chính là việc người Tây Hạ không hề hay biết ngay giữa trái tim của bọn họ đã có một chi quân đội tinh nhuệ tiềm nhập.

Nhưng nói gì đi nữa thì việc thành bại lúc này cũng chưa có gì chắc chắn nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và vô cùng cẩn trọng.

Cả ba người ngồi bàn luận với nhau, cân nhắc đi lại rất nhiều lần phương án tác chiến. Về việc làm thế nào có thể giấu binh khí trong các rương lễ vật để cho binh lính mang vào trong thành, Đỗ Văn Hạo đã có sự chuẩn bị. Hắn đã sai Thái đầu mang vài chiếc xe ngựa lớn cùng với hàng hóa đến phủ Hưng Khánh, hơn nữa lại cùng nhau đến khách điếm hoàng gia trước, mục đích chính là sử dụng địa điểm này để hoán đổi hàng hóa và vũ khí. Nguyên lai hàng hóa ra khỏi khách điếm của Hoàng gia không phải kiểm tra. Chính vì vậy, sau khi mang hàng hóa vào trong khách điếm, Đỗ Văn Hạo sẽ cho thay chỗ hàng hóa đó bằng vũ khí.

Thế nhưng khó khăn nhất lại chính là chuyện làm thế nào trà trộn vào trong cung. Cái này thật sự rất khó giải quyết, bởi vì sau khi Lương Thái hậu băng hà, Lương Ất Thông nhiếp chính liền chuyển tất cả vào trong hoàng cung ở. Mà trong hoàng cung thì việc phòng bị vô cùng sâm nghiêm, chuyện ra vào luôn luôn bị tra xét phi thường nghiêm khắc, nếu muốn bí mật đem mấy trăm ngươi tiến vào trong cung thật sự là một chuyện vô cùng khó khăn. Nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng phương án tối ưu nhất có thể lựa chọn chỉ là đem các thành viên của chiến đội đặc nhiệm này vào trong các rương chở sính lễ mừng thọ. Nhưng một khi trà trộn vào trong cung thì sẽ vô cùng nguy hiểm, thế nên mọi người phải chuẩn bị kế sách hết sức cẩn thận, làm sao để không bị phát hiện, mà nếu bị phát hiện thì sẽ phải làm sao.

Ngay lúc ba người đang vắt hết trí óc để chế định kế hoạch tác chiến thì Nhiếp chính vương Lương Ất Thông phái người cho mời Đỗ Văn Hạo vào thương nghị chuyện hòa thân.

Đỗ Văn Hạo nhất thời choáng váng, lúc này tiến cung, đặc biệt là khi các thành viên trong chiến đội đặc biệt của mình vẫn chưa kịp sắp xếp đâu vào đấy, ngay cả binh khí cũng chưa kịp tới khách điếm hoàng gia để phân phát cho các chiến đội viên. Thế nhưng lại không thể không đi bởi trì hoãn sẽ khiến đối phương sinh nghi. Mà trong lần tác chiến này, mấu chốt của mọi vấn đề chính là tuyệt đối không để Lương Ất Thông sinh nghi điều gì.

Ba người đương nhiên đều hiểu điểm này, vì vậy cũng chỉ thương nghị nhanh chóng thêm một lúc, quyết định sẽ hành sự tùy theo hoàn cảnh. Trước mắt Lý Phổ sẽ phụ trách việc chuẩn bị cho chiến đội đặc biệt. Trong lúc buổi sáng, vào thời điểm lâm triều bắt đầu ở tế điện, sẽ mang thành viên của đội giấu trong các hòm lớn, giả làm lễ vật cúng tiến để đưa vào cung. Nếu như bị phát hiện, chỉ còn duy nhất một cách là mạnh mẽ liều chết đột phá thẳng vào trong.

Đỗ Văn Hạo cũng lấy lý do muốn dẫn thê thiếp cùng đi để yêu cầu tên quan viên của Tây Hạ tới mời vào cung chờ đợi một lát. Khi nghe Đỗ Văn Hạo nói rằng đó là ý chỉ của Thái Hoàng Thái hậu, muốn cho các nàng có cơ hội chứng kiến công chúa Tây Hạ thế nào, nên mới đặc biệt cho phép vào cung Tây Hạ cùng Đỗ Văn Hạo, tên quan viên nọ liên thanh gật đầu nói nên vậy, nên vậy.

Đỗ Văn Hạo cho gọi Vương Nhuận Tuyết và Lâm Thanh Đại tới, nói gắn gọn kế hoạch cho hai nàng, cũng giải thích rằng muốn hai nàng tiến cung lần này để làm nội ứng. Hai người lúc này mới rõ ràng, lần này họ tới đây không phải là du lịch ngắm cảnh, mà là chấp hành một nhiệm vụ đặc thù quan trọng bậc nhất. Nghênh đón bọn họ trước mắt, đương nhiên là một hồi chiến đấu cam go. Bất quá, thường những kẻ tài cao thì gan cũng lớn, nhị nữ từ thủa nhỏ đều là tập luyện võ nghệ, tuy thân không trải qua kháng chiến nhưng cũng không phải là sợ hãi gì mấy chuyện này.

Đỗ Văn Hạo biết Lâm Thanh Đại có thói quen mang theo đoản đao bên người, nên lần này đã nói nàng phải để lại, không thể mang vào cung, tránh trường hợp gặp phải lục soát thì bại lộ sẽ khiến đối phương thêm cảnh giác.

Tiếp đó Đỗ Văn Hạo mang theo nhị nữ đi ra, sai Hứa Hoa Cường làm hộ vệ tới gặp tên quan viên của Tây Hạ. Tên quan này thấy vậy vội lắc đầu kính cẩn nói: "Đại nhân, Lương đại nhân hiện tại ở trong Hoàng cung, một lát nữa khi ngài tiến cung, thật sự sẽ vô cùng an toàn, chúng ta có thể đảm bảo vấn đề này. Cho nên, khi đó, thị vệ của ngài chỉ có thể đứng chờ ở ngoài cửa cung, không thể vào trong. Xin đại nhân lượng giải."

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì ban đầu cũng tỏ ra có chút khó chịu, nhưng sau đó cũng gật đầu đáp ứng. Hắn nói với viên quan này rằng Thái hoàng Thái hậu có sai chuẩn bị một chút lễ vật để chúc mừng, chờ tới khi trời sáng sẽ đưa vào trong cung. Sau đó Đỗ Văn Hạo mang theo nhị nữ cùng mười tên hộ vệ, đi theo viên quan của Tây hạ, trực tiếp tiến tới ngoài hoàng cung, lưu lại đội hộ vệ rồi chỉ dẫn theo nhị nữ đi vào trong cung.

Nhị nữ cũng học theo cách của các nữ nhân Tây Hạ, dùng khăn sa che mặt lại, đi theo sau Đỗ Văn Hạo vào cung.

Vào tới bên trong, binh sĩ phụ trách cảnh giới trong hoàng cung phân biệt nam nữ quan viên rõ ràng rồi tiến hành kiểm soát vô cùng nghiêm khắc với Đỗ Văn Hạo và nhị nữ.

Thấy tình cảnh này, Đỗ Văn Hạo trong lòng lại càng cảm thấy sầu lo, chờ một lát nữa chiến đội đặc biệt của mình tiến vào, làm thế nào có thể lọt qua đây?

Hoàng cung Tây Hạ so với Biện Lương Khai Phong nhỏ hơn một chút. Giờ phút này bên trong là tầng tầng lớp lớp phòng thủ, so với lúc bình thưởng tưởng còn muốn sâm nghiêm hơn mấy lần, nếu muốn trà trộn vào đoàn người tiến vào, quả thật là chuyện không tưởng.

Đỗ Văn Hạo cùng nhị nữ đi theo viên quan nọ đi tới Phúc thọ cung bên cạnh Nhân chánh điện. Nơi này chính là chỗ Nhiếp chính vương Lương Ất Thông ở tạm. Mà trước khi vào đây lại phải trải qua thêm một lần kiểm tra rất cẩn thật nữa.

Trong đại điện, có một người tai to mặt lớn, thân thể mập mạp ngồi ngay ngắn ở vị trí chính giữa, bên cạnh là một thanh niên với khuôn mặt u sầu. Ngồi bên cạnh người này là một nữ tử dung mạo đoan trang. Cả ba người này đều mặc một thân quần áo tang trắng toát, trên mặt âm tình bất định.

Hai bên đại điện có hai hàng thị vệ đại nội đeo đao đứng ngay ngắn.

Xem bộ dáng thì vị mập mạp ngồi giữa đại điện kia hẳn là Lương Ất Thông.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo lại thêm một phen phát lạnh. Tên Lương Ất Thông này thật sự vô cùng giảo hoạt mà, hắn đã đề phòng có người thừa loạn đoạt quyền, cho nên ngay cả ở đại điện cũng sắp xếp rất nhiều hộ vệ. Chỉ sợ lần này muốn đánh cũng sẽ phiền lớn.

Ngay lúc đó, viên quan dẫn dắt cũng giới thiệu một hồi, quả nhiên người ngồi ở chính giữa chính là Tây Hạ Nhiếp Chính vương Lương Ất Thông. Người thanh niên có bộ dáng sầu khổ ngồi bên cạnh chính là người phái sứ thần đến cùng mình liên minh, Tây Hạ Huệ Tông đế. Nữ tử còn lại chính là Hoàng hậu của hắn, cũng họ Lương.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Sứ thần Đỗ Văn Hạo, mang theo thê thiếp Vương thị, Lâm thị, xin ra mắt!"

Lương Ất Thông cười lạnh một tiếng: "Ngươi, thằng nhãi này, thật là vô lễ, nhìn thấy Hoàng thượng, cư nhiên dám đứng thẳng không quỳ, còn nói chúng ta là man di? Ta xem các ngươi mới thật sự là những kẻ không biết lễ tiết!"

 Chương 457: Ngọc Lan công chúa

Đỗ Văn Hạo sửng sốt, không thể tưởng tượng được tên Lương Ất Thông này lại có thể ăn nói lỗ mãng đến như vậy, cười lạnh một tiếng: "Ta là quan đại thần của Đại Tống, làm sao có thể quỳ lạy quân vương của Tây Hạ các ngươi được? Còn nữa, chính là các ngươi mời ta tới chữa bệnh cho Lương Thái hậu, nói gì thì cũng là khách. Như vậy chẳng lẽ phong cách đãi khách của quý quốc từ trước tới nay vẫn thế sao?"

Thấy Đỗ Văn Hạo có vẻ tức giận, Huệ Tông đế khoát tay cười bồi nói: "Hai vị không nên tranh chấp nữa, ở xa tới đương nhiên là khách, mau ban ghế ngồi."

Lương Ất Thông cố gắng di chuyển cái bụng to đại của mình, hướng về phía Huệ Tông đế trợn trừng mắt nói: "Chỗ này nói chuyện tới phần của ngươi sao? Muốn nói thì tự đi tìm một chỗ nào đó vắng vẻ mà tự nói một mình đi."

Huệ Tông đế nghe vậy thì đỏ lựng mặt, lập tức không lên tiếng nữa, cúi đầu xuống.

Lương Hoàng hậu, cũng là huynh muội của Lương Ất Thông, là nữ tử của Lương Thái hậu, nghe vậy, lập tức cũng cười khẽ một tiếng: "Quốc tương nói cũng phải, Mẫu hậu trước khi băng hà đã hạ ý chỉ, sai Quốc tương làm nhiếp chính. Hoàng Thượng người cũng không nên tùy tiện can thiệp vào, làm khó cho Quốc tương."

"Dạ!" Huệ Tông đế vẻ mặt đầy cầu xin, đáp ứng một tiếng.

Nội thị hai bên hiển nhiên sẽ không mang ghế lại cho Đỗ Văn Hạo ngồi. Thế nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn giữ vẻ mặt giễu cợt, tự mình đi tới chỗ chiếc ghế lớn, kéo tới đặt đối diện với Huệ Tông đế, vén y bào ngồi xuống chính giữa, ý bảo nhị nữ cũng ngồi xuống hai bên của mình.

Lương Ất Thông giận tím hết cả mặt, hét lớn lên: "Ngươi làm cái gì vậy?"

"Lỗ tai ngươi có bị điếc không vậy?" Đỗ Văn Hạo cười lạnh nói, "Ngươi không nghe thấy Hoàng Thượng của các ngươi nói ban cho ngồi đó sao? Chẳng lẽ ở Tây Hạ các ngươi Nhiếp Chính vương là lớn hơn so với Hoàng Thượng?"

Vương Nhuận Tuyết và Lâm Thanh Đại vốn dĩ đang rất khẩn trương, thấy tình hình căng thẳng như vậy tì đã rất sẵn sàng ứng chiến rồi, thế nhưng nhìn vẻ mặt của Đỗ Văn Hạo vẫn thất rất ung dung, hồn nhiên, đương nhiên đem sinh tử để sang một bên thì không khỏi bội phục vô cùng.

Lời này thực sự khiến cho Lương Ất Thông uất ức nghẹn cứng lời, mắt trợn trắng dã, thế nhưng lại không thể nói gì, vì căn bản Đỗ Văn Hạo nói không có sai. Một lát sau, không biết làm gì khác, Lương Ất Thông đành nói tránh đi: "Chúng ta bảo ngươi mau tới chữa bệnh cho Thái hậu, ngươi nên đi ngay lập tức, tại sao còn chần chừ tới chậm, làm hại bệnh tình của Thái hậu nặng thêm, phải xử tội gì đây?"

Đỗ Văn Hạo nghe hắn nói như thế, tựa hồ căn bản trong lòng không hề có chủ tâm hòa thân, cũng không quan tâm Bỉnh Sinh vương gia ở Đại Tống bình sinh sống chết ra sao. Nhãn châu của Đỗ Văn Hạo xoay động một lát, ngay lập tức minh bạch, lập tức ngửa mặt lên trời cười to.

Lương Ất Thông vừa cả giận vừa có chút ngạc nhiên: "Ngươi cười cái gì?"

"Quả nhiên là Tư Mã Chiêu chi tâm, người qua đường ai cũng đều biết!"

"Ngươi có ý tứ gì?"

"Ta là sứ thần của Đại Tống, ngươi đối đãi với ta vô lễ, lại làm khó dễ như vậy, cố tình làm nhục ta. Ha ha, chắc là Lương Thái hậu cho ngươi làm nhiếp chính, ngươi muốn dùng phương pháp này đối với ta để cho Đại Tống của ta cũng sẽ đối đãi như vậy với Bỉnh Sinh vương gia, tốt nhất là khiến cho hắn vĩnh viễn không thể trở về, khi đó mới không thể uy hiếp với quyền vị nhiếp chính của ngươi, đúng không?"

Lương Ất Thông sửng sốt, cười lạnh nói: "Ta lo lắng Bỉnh Sinh hắn có thể cướp đoạt vị trí nhiếp chánh của ta? Nực cười! Ta ngay cả Hoàng Thượng cũng không sợ, tại sao lại phải sợ Bỉnh Sinh hắn?"

"Lời này nói cũng có lý!" Đỗ Văn Hạo nói rồi quay sang Vương Nhuận Tuyết nhẹ nhàng nói: "Biết không? Cái này gọi là nô tài lớn khinh chủ đó!"

"Ngươi nói cái gì?" Lương Ất Thông không nghe rõ ràng, hỏi lại, "Có chuyện gì thì nói to lên, đừng có cái kiểu chút chít méo mó kiến cắn lỗ tai như vậy!"

"Không có gì, ta chỉ khen ngươi to gan lớn mật thôi, à không, khen ngươi năng lực lớn lao."

Lương Ất Thông biết Đỗ Văn Hạo đang nói bậy chính mình, thế nhưng lại không có cớ gì để bắt bẻ hắn cả, chỉ trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo thở phì phì.

Đỗ Văn Hạo thực ra cũng không thể lý giải nổi chuyện tại sao Lương Ất Thông lại dám vô lễ với sứ thần Đại Tống như vậy. Kỳ thật, Tây Hạ đối với sứ thần Đại Tống thái độ luôn có sự thay đổi tùy thời. Muốn chọn một sự tình để lấy cớ phát động chiến tranh, thì đơn giản cũng chỉ là cố ý làm khó dễ sứ giả, đặc biệt là khi những người này là các thượng quan của Đại Tống cử đến.

Bệnh tình của Lương Thái hậu vào lúc nghiêm trọng nhất, bọn họ muốn Đỗ Văn Hạo tới chữa bệnh, đương nhiên là lễ kính sẽ có phần gia tăng. Thế nhưng khi Lương Thái hậu không đợi được Đỗ Văn Hạo, chết trước khi hắn tới, thêm vào đó hai quốc gia đang ở thế giao chiến, Tây Hạ lại đang bị ở thế hạ phong, Lương Ất Thông mặc dù vậy cũng không nóng lòng cầu hòa, cho nên ăn nói lỗ mãng, thập phần vô lễ. Chuyện hòa thân là do Lương Thái hậu định ra, nhưng lại băng hà trước khi mọi chuyện được sắp xếp ổn thỏa, tự nhiên sẽ có trở ngại nếu muốn tiếp tục. Mà mấy tháng nay đột nhiên quân Tống lại thay đổi chiến lược, thay vì tấn công cấp tập như ngày xưa, nay lại tấn công chậm rãi, tới đâu chắc tới đó. Tiền tuyến theo đó cũng không phải là quá gay gắt, song phương cùng hòa đàm đối với Tây Hạ cũng là chuyện có thể chấp nhận được, tận dụng cơ hội này nghĩ biện pháp từng bước phá giải quân Tống. Bởi vậy, Lương Ất Thông mới quyết định tiến hành đàm phán với Đỗ Văn Hạo.

Nhưng là, quân Tống đích xác tiến từng bước từng bước, rất chậm chạp, còn lâu mới có thể khiến cho Tây Hạ rơi vào tình thế hoảng sợ. Do đó, thực chất việc hòa thân cùng hòa đàm không phải là mục tiêu chính của Tây Hạ, mà chỉ là chấp hành di chiếu của Lương Thái hậu mà thôi, nhân tiện cũng giảm bớt sức ép từ tiền quân của Đại Tống. Lương Ất Thông vừa là tân nhiếp chính, trong tay lần đầu tiên nắm giữ hoàng quyền chí cao vô thượng, hắn lại là người vô cùng kiêu ngạo, hiển nhiên không nhịn được chuyện gọi sứ thần Tống triều đến để thị uy một hồi.

Lương Hoàng hậu thấy ca ca của mình tỏ ra kinh ngạc thì lạnh lùng nói xen vào: "Quốc tương, cũng không cần phải nói vòng vo làm gì, Tống Sử, đêm nay chúng ta gọi ngươi đến, chính là muốn thương lượng chuyện hòa thân. Ngươi có lẽ không biết, bắt đầu từ ngày mai, Hoàng Thượng muốn đóng cửa tụng kinh, siêu độ cho các vong hồn liên tục trong sáu sáu ba mươi sáu ngày, cho nên, muốn đẩy nhanh chuyện này trước."

Trong lòng Đỗ Văn Hạo lại một phen cả kinh, cảm giác đầu tiên lúc này chính là việc Lương Ất Thông muốn giam lỏng Hoàng Thượng ba mươi sáu ngày! Tụng kinh siêu độ là giả, mục đích thật sự chính là đem Hoàng Thượng giam lỏng, trong khi đó mình tận dụng cơ hội thực hiện việc củng cố quyền lực, tiếp tục khống chế quyền lực của Tây Hạ."

Nghĩ vậy, Đỗ Văn Hạo nhún nhún vai: "Vậy sao? Đến Tây Hạ các ngươi, ngay cả cái ghế ngồi ta cũng phải tự mình mang tới đây, nơi này ở thêm một ngày ta cũng không muốn, chẳng khác gì một tên ngốc, nên chỉ muốn nhanh chóng quyết định. Dù sao thì Lương Thái hậu cũng đã băng hà rồi, ta cũng không làm cái chuyện chữa bệnh gì đó nữa. Nên bắt đầu thương lượng ngay chuyện thứ hai. Nếu đồng ý hòa thân, đưa người cho ta, ta hộ tống trở về, nếu không đồng ý thì ta sẽ đứng dậy rời đi luôn."

Lương Ất Thông cười hắc hắc nói: "Muốn, đương nhiên muốn hòa thân rồi. Người đâu! Mau mời công chúa đi ra đây."

Nội thị nghe vậy vội đáp ứng, đi vào hậu đường thông tri.

Rất nhanh, từ phía sau đưa tới hàng loạt âm thanh oanh oanh yến yến của không ít phụ nữ, đám người này ai cũng mặc hiếu y màu trắng toát, ai cũng có một chiếc khăn sa che mặt, nhưng không giấu được một vẻ tuấn tú của mỗi người. Thêm vào đó ngọn đèn có chút yếu ớt, ai cũng mặc quần áo cùng màu, khiến cho Đỗ Văn Hạo không thể phân biệt ai là công chúa cả.

Sau khi chúng nữ đi tới gần đại sảnh, mấy nữ nhân phía trước bắt đầu tách ra hai bên, lộ ra một người ở giữa. Nữ nhân này, hiển nhiên cũng là trong bộ trang phục hiếu y trắng toát, ánh mắt buồn rầu, kính cẩn khoanh tay, chân thành đối với Huệ Tông đế hạ thấp người phúc lễ: "Hoàng huynh!"

Hoàng huynh? Chẳng lẽ vị này chính là công chúa sao?

Đỗ Văn Hạo chăm chú nhìn đánh giá từ trên xuống dưới một chút. Vị công chúa này thoạt nhìn có vẻ mười bảy mười tám tuổi, tướng mạo thật đúng là không có gì đặc biệt, nói gì đến chuyện chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn gì đó. Ngay cả nói là xinh đẹp cũng có phần hơi quá, nhiều nhất cũng chỉ là có vóc người thon thả, thêm một chút tư sắc ưa nhìn mà thôi. Chỉ là trên trán nàng ta lúc này ẩn chứa một vẻ ưu sầu, phảng phất như có rất nhiều tâm sự, khiến người khác nhìn không khỏi có chút thương cảm.

Lương Hoàng hậu nói: "Đây chính là hoàng chủy thân muội muội của ta, Ngọc Lan trưởng công chúa."

Huệ Tông đế tuổi xem chừng cũng chỉ khoảng hơn hai mươi một chút, nữ nếu có cũng còn nhỏ, cho nên đem muội muội để hòa thân. Đại Tống cũng trong tình trạng như vậy, Tống Triết Tông chưa thành thân, ngay cả muội muội cũng không có, hiển nhiên không thể dùng nữ nhi để hòa thân, cho nên cũng chỉ có thể dùng tỷ tỷ để hòa thân, nhưng cụ thể xác định vị công chúa nào, thì trước khi đi Đỗ Văn Hạo cũng không có biết.

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, Ngọc Lan công chúa trưởng? Như thế nào lại không dùng tên công chúa súp lơ nhỉ? Hắc hắc, tên này cũng không hẳn là quá mức không hợp mà.

Huệ Tông đế sau khi gật đầu, rốt cục lên tiếng nói: "Ngọc Lan, tiến lên chào Tống Triều sứ thần Đỗ đại nhân đi."

Mi mắt Ngọc Lan công chúa khẽ động một cái, đưa nhanh sang liếc Đỗ Văn Hạo, rồi ngay lập tức hạ mí mắt xuống, tiến lên phúc lễ nói: "Xin chào sứ thần đại nhân."

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc hai tiếng, ôm quyền thi lễ nói: "Công chúa không nên đa lễ, bên cạnh ta đâ chính là hai vị ái thiếp của ta. Theo chi mệnh của Thái Hoàng Thái Hậu, người muốn các nàng của ta nói chuyện cùng công chúa, chủ yếu là nhằm mục đích xem công chúa có thích hợp với Hoàng Thượng Đại Tống của chúng ta hay không. Mặc dù chỉ là vị chí phi tần, nhưng cũng là người ở bên Hoàng Thượng, nên phải cẩn thận một chút."

Ngọc Lan công chúa trên mặt không có chút thay đổi, thậm chí cũng không buồn gật đầu, chỉ đứng như vậy, bộ dáng sẵn sàng nói chuyện.

Đỗ Văn Hạo nhìn Lương Ất Thông cười lạnh: "Chẳng lẽ người Tây Hạ các ngươi ngay cả công chúa của mình cũng không ban cho ghế ngồi?"

Lương Ất Thông đưa tay lên chặn mấy tên thị vệ đang định mang ghế tới: "Không cần! Các ngươi dù sao cũng đã gặp qua công chúa, như vậy được rồi. Ở đây sẽ không có lựa chọn khác, chỉ có thể là đồng ý hay không. Cũng không phải là chợ bán thức ăn, bán món ăn mà muốn hay không muốn. Các ngươi muốn nói chuyện gì thì chờ sau đại tế ngày mai, chúng ta sẽ đưa nàng tới khách điếm cho các ngươi mang đi, nếu cảm thấy chướng mắt, không đồng tình thì cũng tùy các ngươi. Giờ thì cút đi! Tiễn khách."

Dứt lời, Lương Ất Thông phất tay áo một cái, đứng dậy tỏ ý muốn đi.

Đỗ Văn Hạo thật sự vất vả mới có cơ hội vào tới đây, đúng là thời cơ tuyệt hảo để bố trí nội ứng, bây giờ nghe thấy Lương Ất Thông hạ lệnh trục khách, sao có thể cứ như vậy rời đi được, vội bề bộn khoát tay nói: "Quốc tương xin dừng bước!" "Làm gì?" Lương Ất Thông quay người lại hỏi.

Đỗ Văn Hạo sớm đã nghĩ biện pháp tốt đẹp rồi, đứng dậy tiến lên hai bước, trên dưới đánh giá một chút về Lương Ất Thông, hắc hắc cười nói: "Ta thấy Quốc tương đại nhân khí sắc bất hảo. Chắc hẳn quý thể có chuyện không ổn. Ta dù bất tài cũng là một ngự y có chút thành tựu, nguyện ý thay Quốc tương bắt mạch xem qua một chút khuyết điểm."

"Ngươi mới là có bệnh đó!" Lương Ất Thông trợn trừng hai mắt, "Ta biết ngươi là ngự y, hơn nữa tại Đại Tống cũng có chút xú danh khí, cho nên Thái hậu mới mời ngươi đến chẩn bệnh. Bất quá lão tử ta không có bệnh tật gì, mà dù có bệnh gì đi chăng nữa thì thái y của Tây Hạ chúng ta cũng có không ít người tài, không cần ngươi phải lộ vẻ thương hại!"

Đỗ Văn Hạo thấy Lương Ất Thông tai to mặt lớn như vậy, chắc chắn ở cái tuổi trung niên này sẽ có không ít tật xấu, liền nghĩ bắt mạch cho hắn một chút, tìm được một vài tật xấu hay bệnh chứng gì đó, thổi phồng hù dạo một chút, mượn cơ hội trì hoãn thời gian. Nếu Đỗ Văn Hạo dùng chiêu này đối phó với mấy tên ma ốm hoặc lão nhân thì chắc chắn sẽ rất công hiệu, nhưng tên Lương Ất Thông này lại mới có hơn ba mươi tuổi, thân thể lại rất khỏe mạnh, ít đổ bệnh, cơ hồ chẳng bao giờ phải uống thuốc thang gì. Bây giờ hắn ta lại đang đảm nhận vị trí Nhiếp Chính vương, tinh thần lại càng thêm đa nghi và ương bướng, làm sao có thể tin tưởng lời Đỗ Văn Hạo nói?"

Mắt thấy Lương Ất Thông lại muốn đi, Vương Nhuận Tuyết ở bên nóng nảy, uyển chuyển cất giọng oanh vàng nhẹ nhàng nói: "Quốc tương xin dừng bước!"

Vừa nghe thấy thanh âm này, thân thể Lương Ất Thông lập tức chấn động, chỉ cảm thấy một cỗ nhiệt lưu mạnh mẽ lan ra khắp thân thể, không tự chủ được quay người lại nhìn. Hai mắt hắn tỏa sáng nhìn về phía Vương Nhuận Tuyết.

Vương Nhuận Tuyết giơ ngón tay ngọc lên, nhẹ nhàng đem chiếc khăn sa che mặt gỡ xuống, thở ra một hơi: "Ôi, dùng cái khăn sa này thật là bực mình, Tây Hạ nữ nhân của các người không hiểu sao có thể quen với việc này được nhỉ!"

Lương Ất Thông nhất thời cảm thấy trên trời nổ một tiếng sầm thật to, một ánh sáng như làn sét giáng thẳng một chùy vào tim hắn, khiến thân thể béo ục ịch run rẩy không ngừng. Trên đỉnh đầu các vì tinh tú bảy màu không ngớt quay cuồng bốn phía, trong lỗ tai thì chẳng nghe ra âm thanh gì, chỉ là những tiếng lùng bùng vô nghĩa.

Vẻ mặt hắn trở nên si si ngốc ngốc nhìn Vương Nhuận Tuyết, trong lòng thì không ngớt kinh hô lão thiên: Ông trời của ta ơi, lão Vương lão tử của ta ơi, trên đời này dĩ nhiên lại thật sự có một tuyệt thế mỹ nhân như vậy sao? Không không, khẳng định đây không phải là nữ tử của phàm trần, nhất định là tiên nữ giáng trần! Dưới gầm trời này làm sao đào đâu ra nữ tử xinh đẹp như vậy chứ? Coi như mười mấy nữ nhân của mình cũng được gọi là xinh đẹp đi, nhưng cho dù có cộng cả ba nghìn cung nữ trong cung cộng lại, cũng so ra chưa bằng một cái ngón út của đại mỹ nhân này!

Lão thiên gia! Ta muốn chết! Mỹ nhân như vậy, đừng nói là được hôn nhẹ một cái, cho dù chỉ có thể chạm nhẹ vào móng tay nhỏ bé của nàng một chút, có chết cũng cam tâm mà! Ai nha, nàng nếu có thể theo ta, Nhiếp Chính vương tính làm gì, Quốc tương tính làm gì? Ngay cả Tây Hạ quốc cũng chẳng là cái gì, thậm chí cả Thiên Vương lão tử cũng không tính nốt!

 Chương 458: Bản sắc trư ca

Hai mắt hắn nhìn thẳng vào Vương Nhuận Tuyết, không chút thần thái, hắn thấy miệng đắng ngắt, hắn chép miệng, giống như có gì đó trong miệng vậy. Nhưng hắn không nỡ rời mắt đi, vẫn tòm tèm nhìn Vương Nhuận Tuyết.

Lương hoàng hậu đang đứng bên lại ho hắng một tiếng, chằm chăm nhìn vào anh trai: "Tướng quốc, hãy ngồi xuống đã hãy nói"

Lương Ất Thông như điếc rồi vậy, hắn nuốt nước bọt nói: "Tiểu nương tử tên gì vậy?"

Đỗ Văn Hạo cười ha ha: "Nhiếp chính vương gia, người nhìn chằm chằm vào vờ người khác như thế, không sợ mất thể diện sao?"

Đỗ Văn Hạo cười lớn vậy mà Lương Ất Thông vẫn cứ như người đnag mơ vậy, 3 hồn 7 vía hắn sớm đã quấn lấy Vương Nhuận Tuyết, máu mũi vẫn chảy ra là hỏng cả tấm áo tang: "Tiểu nương tử, sao nàng không nói gì vậy? Nàng tên gì?"

Vương Nhuận Tuyết thấy Đỗ Văn Hạo không làm Lương Ất Thông tỉnh lạj được, nếu bị đuổi ra khỏi cung thì nhiệm vụ nội ứng sẽ toi, nàng bèn lên tiếng, thử dùng mĩ nhân kế xem, nàng biết đàn ông rất ít người không động lòng trước vẻ đẹp của nàng. Không ngờ lại thành công, Lương Ất Thông vốn đã là tên háo sắc, đã đến tuổi trung niên mà trong nhà có những mười mấy thiếp, lại còn có không biết bao nhiêu thị nữ hầu hạ phòng the, đi đến đâu cũng bẻ hoa bắt bướm, bây giờ gặp Vương Nhuận Tuyết sắc nước hương trời, làm sao mà kháng cự lại nổi, giống như hoa rơi vào chú ếch dưới đáy giếng vậy.

Vương Nhuận Tuyết thấy bàn tay mũm mĩm của hắn muốn nắm lấy tay mình, thấy bộ dạng háo sắc của hắn, nàng chỉ muốn tát cho hắn một cái nhưng cố kìm lại, đành lùi lại vài bước, giả bộ cười e thẹn.

Nụ cười đó khiến cho máu trong người Lương Ất Thông nóng lên như nước sôi vậy, hắn tiến lên muốn nắm tay Vương Nhuận Tuyết.

Vương Nhuận Tuyết rũ tay áo, Lương Ất Thông lảo đảo: "Vương gia, mũi của ngài, hi hi, nên lau đi!"

Câu nói đó hết sức yểu điệu yếu ớt, nhưng Lương Ất Thông lại nghe thấy ngay, rất rõ là khác, hắn "a" một tiếng rồi lấy tay áo lau lau, bị mất mặt trước người đẹp, hắn vội vàng dặn thị nữ mang khăn lại cho hắn. Nhưng trên đại điện lấy đâu ra khăn, có một tên thị nội nhanh nhẹn bèn xé toạc áo ra rồi đưa cho Lương Ất Thông lau mũi.

Nhưng Lương Ất Thông vẫn đổ nhiều máu cam, không làm cách nào để máu ngưng chảy được, nên có một nội thì cắt lấy một miếng áo nhỏ, cuộn tròn lại rồi nht vào lỗ mũi hắn.

Cuối cùng thì máu cũng ngừng chảy, Lương Ất Thông vẫn dán mắt vào Vương Nhuận Tuyết, không ngừng hỏi nàng quý danh quê quán.

Vương Nhuận Tuyết nắm lấy tay Đỗ Văn Hạo nói: "Đây là phu quân thiếp, thiếp họ Vương.

Lương Ất Thông như không nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, vẫn dán mắt vào Vương Nhuận Tuyết: "Thì ra là Vương cô nương, nàng đến Tây Hạ sao không chào hỏi một tiếng, nếu vương gia ta biết nàng đến thì nhất định sẽ đến biên giới đón. Nói cho ta biết nàng muốn gì, dù là sao trên trời ta cũng lấy xuống cho nàng"

Vương Nhuận Tuyết thấy khuôn mặt đẫy đà của hắn cười như nuốt được ruồi xanh vậy, độc ác mà lại dâm, nhưng vẫn cố nặn ra nụ cười thục nữ: "Đa tạ vương gia, nhưng ta lịa không muốn sao trên trời, lại phải bắt vương gia bắc thang lên trên, phiền phức lắm, thiếp nghe phu quân nói Tây Hạ rất thú vị, đặc biệt là hoàng cung Tây Hạ, được dát vàng ngọc lộng lẫy, hơn hoàng cung Đại Tống nhiều, trong lòng hiếu kì, vì vậy muốn theo phu quân đi xem, vừa mới bước vào đã muốn ngài đưa chúng thiếp đi xem rồi! Ngài lại muốn chúng thiếp đi, haizz, thôi vậy, phu quân, chúng ta đi thôi"

"Ấy đừng" Lương Ất Thông chân tay luống cuống lên trước đón đầu Vương Nhuận Tuyết, mũi vẫn bịt bằng miếng vải cuộn tròn: "Vương cô nương trách oan ta rồi. Ta đuổi nàng đi bao giờ? Đi! Chúng ta đi! Nàng nói nàng muốn đi đâu thì ta đưa nàng đi đó! Nàng muốn chơi đâu trong hoàng cung cũng được! Vừa ý chứ?" Nói rồi hắn nắm lấy tay Vương Nhuận Tuyết.

Vương Nhuận Tuyết lại rũ ra, lần này còn dùng lực nhiều hơn, hắn chịu không nổi bị đẩy lùi lại vài bước rồi ngã phịch xuống đất, bốn vó chổng lên trời.

Bọn thị vệ nhìn nhau, nhưng bọ thị vệ đại nội lại rút kiếm ra vây lấy 3 người Vương Nhuận Tuyết, Đỗ Văn Hạo và Lâm Thành Đại

Lâm Thanh Đại thấy lo, qua cách di chuyển cũng nhận ra đây toàn cao thủ, nếu chúng đồng loạt xông lên thì không dễ đối phó chút nào.

Lương Ất Thông nằm trên đất gào lớn: "Dừng tay! Cút hết ra! Ai bải các người xông lên hả! Cút!"

Bọn họ vội lui xuống thu kiếm lại.

Bọn cung nữ chạy lại đỡ hắn dậy, Lương Ất Thông thở hổn hển, đang định nói thì Vương Nhuận Tuyết tươi cười nói: "Ai da Vương gia, ngài béo quá, đến đi đứng cũng khó khăn, ngài ngã có đau không?"

Lương Ất Thông thấy Vương Nhuận Tuyết quan tâm hỏi đến mình thì mừng như mở cờ trong bụng, cười hở lợi đáp: "Không sao! Không sao mà, Vương cô nương, chúng ta đi nhé? Đến ngự hoa viên, thăm các tẩm cung, rồi đến cả Nhân Chính cung của ta xem biết bao vật báu nữa, nàng thích gì cứ lấy, được không? Hi hi"

Vương Nhuận Tuyết thấy hắn chảy nước dãi như lợn vậy mà muốn ói, nhưng gương mặt vẫn gắng nở một nụ cười, nàng ôm lấy tay Đỗ Văn Hạo nói: "Phu quân và chị thiếp cũng muốn đi xem, đi một ngày đàng học một sàng khôn, chúng ta cùng đi nhé, được không?"

Lương Ất Thông hậm hực: "Chỉ có hai chúng ta đi thôi! Bọn họ nói chuyện với hoàng thượng và trưởng công chúa là được rồi! Nhanh đi thôi! Trong phòng ta có rất nhiều thứ hay!" vừa nãy bị Vương Nhuận Tuyết làm ngã hắn vẫn còn nhớ, rút kinh nghiệm không dám nắm tay nàng nữa, đành cúi gập lưng xuống tươi vười mời.

Vương Nhuận Tuyết lắc đầu: "Không, thiếp muốn đi cùng bọn họ, bọn họ không đi thì thiếp cũng không đi"

Lương Ất Thông quay đầu nhìn Đỗ Văn Hạo miễn cưỡng nói: "Vậy cũng được vậy...vậy thì đi! Đỗ tể chấp, Vương cô nương, mời!"

Vì Vương Nhuận Tuyết mà hắn thay đổi cả cách xưng hô với Đỗ Văn Hạo!

Đỗ Văn Hạo dù không muôn Vương Nhuận Tuyết dùng đến hạ sách này, nhưng cũng chẳng còn cách nào tốt hơn, hắn chỉ có thể nhẫn nhịn, đến lúc đó thanh toán cả vốn lẫn lãi với tên này cũng không muộn! Đỗ Văn Hạo cười đáp: "Được thôi, ta cũng đang muốn xem hoàng cung Tây Hạ. Chỉ có điều chúng ta phải giải quyết chuyện chính trước đã, chúng tôi đã gặp Ngọc Lan công chúa rồi, không có vẫn đề gì, có thể nghênh thân được. Lễ vật nghênh thân chúng tôi đã mang tới rồi, ta đã dặn dò hộ vệ mang vào cung. Đợi qua tế điện, chúng tôi sẽ đón công chúa về triều. Nhưng haongf cung canh phòng cẩn mật, chúng tôi không đem lễ vật vào được"

"Cái này dễ thôi, ta bảo bọn họ cho vào là được"

"Đa tạ vương gia!"

Lương Ất Thông gọi người vào, đưa chỉ thị xuống, sao đó tươi cười nói với Vương Nhuận Tuyết: "Vương cô nương, chúng ta đi được chưa?"

Vương Nhuận Tuyết gật đầu, cầm tay Đỗ Văn Hạo đi ra khỏi điện, đến trước cổng hoàng cung, Lương Ất Thông muốn đi gần Vương Nhuận Tuyết, ai ngờ Lâm Thanh Đại đã chen lên. Đỗ Văn Hạo cười nói: "Vương gia, xin dẫn đường"

"Được được!" Lương Ất Thông đành đi lên trước, không ngừng chỉ đông chỉ tây hương dẫn.

Nhờ thị vệ cung nữ thái giám dẫn đường, Lương Ất Thông đưa ba người đi dạo gần như toàn bộ hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo quan sát cẩn thận, quả nhiên bố trí rất khác hoàng cung Đại Tống, nhưng nhỏ hơn, cũng không hào hoa bằng hoàng cung Đại Tống. Ở những góc khuất đền có bố trí thị vệ cảnh giới, ai cũng được trang bị vũ khí.

Tây Ha dựng nước trên lưng ngựa, quân vương cũng không kị đao kiếm, huống chi đây đang là lúc căng thẳng, trong hoàng cung bố trí dầy đặc trọng binh, có một số bộ thử không giống với miêu tả của Ngôi Mã, xem ra cách bố trí cũng thay đổi thường xuyên.

Vương Nhuận Tuyết cố ý kéo dài thời gian, hỏi này hỏi nọ, ra vẻ ta đang rất hiếu kì, Lương Ất Thông tuy sốt ruột lắm rồi nhưng cũng không dám giục, cố gắng tươi cười tháp tùng người đẹp tham quan hết hoàng cung.

Loanh quanh cũng đã đến nửa đêm, Lương Ất Thông nói: "Vương cô nương, chúng ta đến cho bản vương đi, có nhiều báu vật ở đó lắm"

Vương Nhuận Tuyết cũng mệt rồi: "Được thôi! Thiếp là người tham lam, thiếp ma nhắm phải thứ già thì vương gia đừng có tiếc đấy nhé!"

Mỗi nụ cười của Vương Nhuận Tuyết đều khiế Lương Ất Thông hồn bay phách lạc, chỉ muốn đánh đổi tất cả để có được nụ cười của mĩ nhân, nhưng Vương Nhuận Tuyết cứ bám chặt lấy tay Đỗ Văn Hạo, lại còn dùng đèn lồng ngăn cách, chẳng có lấy 1 chút cơ hội. Nghe Vương Nhuận Tuyết đồng ý đến Nhân Chính cung của mình hắn vui như mở cờ trong bụng.

Đây là nơi ở tạm thời của Lương Ất Thông sau khi Lương thái hậu băng hà, nhưng bảo vật ở đó thực ra đâu phải của hắn, nhưng được nhiếp chính hắn coi cái gì cũng là của mình, nhưng gì hắn vừa mắt là hắn đem tất về nơi ở của mình.

Vừa đến tẩm cung, hắn lập tức dẫn 3 người vào nội thất, mở từng hòm ra khiến người ta lóa mắt.

Vương Nhuận Tuyết đường đường là khuê nữ của tể tưởng, bảo vật gì cũng đã từng thấy, nàng chẳng hứng thú gì với mấy thứ này, nhưng tỏ ra thích thú như lần đầu tiên nhìn thấy vậy, xem này xem nọ nhằm kéo dài thời gian.

Lương Ất Thông đảo mắt theo mĩ nhân hỏi: "Lúc nãy đi nhiều vậy, Vương cô nương chắc đói rồi, hay ta cho người bày tiệc rượu, chúng ta vừa ăn uống vừa nói chuyện?"

Vương Nhuận Tuyết và Đỗ Văn Hạo nhìn nhau, Đỗ Văn Hạo nói: "Thái hậu vừa băng hà, chúng ta không nên uống rượu đâu?"

Tuy Lương thái hậu là cô hắn, hơn nữa hắn vừa mới nắm quyền, nhưng hắn nà để ý, hắn khoát tay nói: "Không sao, uống trong phòng ta, bên ngoài biết sao được"

Vương Nhuận Tuyết hỏi dò Đỗ Văn Hạo: "Phu quân, chàng thấy sao?"

Đỗ Văn Hạo cười đáp: "Được thôi, vương gia đã không kiêng cữ, vừa may chúng ta đang đói, uống chút rượu cũng tốt"

 Chương 459: Chuốc rượu

Lương Ất Thông vui mừng, dặt dò kẻ dưới chuẩn bị tiệc rượu, chẳng mấy chốc mà mọi thứ đã xong, hắn vào phòng trong thay áo tang ra rồi mới vào bàn.

Hắn bây giờ thân là nhiếp chính vương, danh phận còn cao hơn cả hoàng thượng, kẻ dưới dĩ nhiên không dám can ngăn, bàn tiệc đã sẵn sàng, cao lương mĩ vị đủ cả.

Lương Ất Thông giành lấy tự mình rót rượu, Đỗ Văn Hạo thấy bình rượu liền mừng thầm, lập tức hiểu gã này muốn làm gì, bình rượu này có hai tầng, có thể đựng hai loại rượu khác nhau, ở chỗ miệng vòi rót có hai lỗ nhỏ để phân biệt hai loại rượu. Chiêu này Đỗ Văn Hạo cũng đã áp dụng với thủ hạ của Ung vương gia rồi.

Đỗ Văn Hạo cười thầm mà mặt lạnh tanh ngồi xuống bàn tiệc, Vương Nhuận Tuyết ngồi xuống bên cạnh, Lương Ất Thông muốn ngồi cạnh Vương Nhuận Tuyết nhưng Đỗ Văn Hạo kéo tay hắn lại: "Vương gia, ngài là chủ nhân, nên ngồi ở vị trí của chủ nhân!" nói rồi kéo hắn ngồi xuống cạnh mình.

Lương Ất Thông tuy có thừa cân, nhưng với nội công luyện được với Lâm Thanh Đại sau một thời gian thì vẫn có thể nhẹ nhàng kéo Lương Ất Thông ngồi xuống.

Lương Ất Thông đành ngồi xuống, nhìn Vương Nhuận Tuyết như hoa như ngọc mà không đành lòng, ậm ực nuốt nước bọt, nâng ly rượu lên: "Nào! Để hoan nghênh hai vị, chúng ta hai nâng ly!"

Vương Nhuận Tuyết nâng ly lên, tươi cười đon đả, nhìn những thị vệ và cung nữ thái giám đang hầu hạ nói: "Vương gia, 3 người chúng ta ngồi đây uống rượu, ngài để họ đứng đây, chúng ta muốn nói chuyện cũng không tiện, thật mất hứng!"

"Đúng đúng" Lương Ất Thông hoàn toàn bị Vương Nhuận Tuyết chinh phục, hồn phách đã sớm siêu lạc, gân cốt mềm nhũn, hắn vội váng bảo bọn người hầu: "Đi ra! Đi ra hết cho ta! Ta không gọi thì đừng có vào!" thị vệ đại nội và cung nữ thái giám đều cúi người vâng dạ lui ra, rồi đóng cửa lại.

Lương Ất Thông lại nâng ly lên: "Nào! Hãy uống cạn ly này trước!"

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: "Ly rượu này nhỏ quá, vương gia chưa nghe ăn thịt miếng to, uống rượu bát lớn sao? Haiz! Hay người Tây Hạ các vị tiếc rượu, không muốn cho chúng tôi uống?" Nói rồi hắn lấy ly rượu trong tay Lương Ất Thông đổ vào cái bát lớn, rồi đổ cả 3 ly của bọn họ vào bát, rồi lấy bình rượu, mở nắp ra, đổ toàn bộ rượu vào.

Để che mắt người khác, loại bình rượu này phần mắt thường nhìn thấy đều đựng rượu bình thường, tầng kẹp giữa đựng rượu độc, mỗi lần cho mộ ít là được, như vậy khi uống hết rượu thêm rượu vào trong mới không bị lộ.

Lương Ất Thông có 3 người uống rượu độc, rót cho bản thân rượu bình thường, nhưng bị Đỗ Văn Hạo trộn hết lên như vậy, lại đổ tất cả vào bình, rượu thường cũng thành rượu độc rồi.

Lương Ất Thông không biết Đỗ Văn Hạo đã phát hiện ra bí mật của chiếc bình rượu, vẫn cho rằng gã này chỉ là muốn ăn to uống lớn, lại cho rằng mình say vợ gã, muốn dùng rượu chuốc say mình, tên tiểu tử này tuy háo sắc nhưng tửu lượng rất tốt. Bây giờ không thể dùng rượu độc được nữa thì đành phải dùng cách chuốc say hắn thôi, hắn bèn hào hứng nói: "Được lắm! Chúng ta sẽ uống rượu bát ăn thịt miếng to! Đổi bát! Người đâu! Mang một bình nữ nhi hồng ra đây"

Thị vệ bên ngoài vội đáp rồi mang rượu đến.

Đỗ Văn Hạo sợ tên này làm càn, vội ngăn lại: "Để ta!"

Bình rượu này lại không liên quan gì cả, Lương Ất Thông đã quyết chuốc say 3 người này, vì vậy không tranh với Đỗ Văn Hạo nữa.

Đỗ Văn Hạo mở bình rượu ra, đổ ra 4 bát, hương thơm xộc lên cả phòng: "Rượu ngon!"

Lương Ất Thông cười ha ha, nâng bát trước mặt mình lên nói: "Nào! Lương mỗ xin cạn trước!" hắn uống ừng ực từng ngụm, cạn hết cả bát rượu!

Đỗ Văn Hạo tròn mắt ra, không ngờ tên này tửu lượng khá vậy, tên này không hՠlà tửu sắc 1 nhà.

Đỗ Văn Hạo cười lớn, bưng bát rượu lên, cũng uống cạn, còn dốc bát cho Lương Ất Thông xem!

Rượu cổ đại nặng độ hơn rượu thời hiện đại nhiều, Đỗ Văn Hạo cũng là sâu rượu, tửu lượng không tồi, bát rượu đó chẳng nhằm nhò.

Lương Ất Thông ngạc nhiên, không ngờ tửu lượng Đỗ Văn Hạo lại khá vậy, làm hắn nổi máu lên, lại đổ thêm hai bát: "3 bát thành người nhà, có dám uống liền 3 bát không?"

"Sao lại không dám?" Đỗ Văn Hạo không nói hai lời, bưng bát lên uống hết sạch.

"Tửu lượng khá lắm!" Lương Ất Thông cũng uống cạn.

Hai người rót ra thêm bát nữa rồi uống sạch, nhìn nhau cười ha ha, đều khâm phục trước tửu lượng của đối phương.

Hai người chỉ mải uống rượu mà không biết rằng Vương Nhuận Tuyết và Lâm Thanh Đại không hề uống 1 giọt rượu. Lương Ất Thông thầm nghĩ, thế này không ổn, xem ra không dễ gì chuốc say tên Đỗ Văn Hạo này, hai đại mĩ nhân cũng phải chuốc say, nếu không chẳng nên cơm cháo gì: "Vừa nãy hai chúng ta uống, hai vị phu nhân cũng uống đi, mời!"

Vương Nhuận Tuyết cười đáp: "Thiếp tửu lượng không được bằng vương gia, không dám uống nhiều vậy, hơn nữa uống rượu là để thưởng thức, chứ đâu phải uống như trâu?" nghe Vương Nhuận Tuyết nói vậy, hắn thấy xẩu hổ muốn chết, hắn uống cạn hai bát rượu lại bị mĩ nhân gọi là uống như trâu, mặt hắn đỏ ửng lên: "Vậy Vương cô nương có ý gì đâu, uống rượu thế nào thì hay?"

"Muốn có ý, dĩ nhiên là quyển hành lệnh, lại rất tận hứng, lại không bị say nhanh, nếu không say mèm lại nằm dưới gầm bàn gáy o o, có gì hay ho chứ?"

Lương Ất Thông vỗ đùi đen đét: "Vẫn là Vương cô nương nói có lí! Đúng đúng! Chỉ có như vậy mới có hứng! Chúng ta chơi đoán số hành lệnh"

Đỗ Văn Hạo thấy Vương Nhuận Tuyết nói ra ý này liền biết là nàng muốn kéo dài thời gian, trong lòng thầm khen Vương Nhuận Tuyết không chỉ là tuyệt sắc giai nhân mà còn túc trí đa mưu. Hôm nay nếu không có Vương Nhuận Tuyết thì không thể ở lại trong hoàng cung Tây Hạ.

Trò này thời cổ đại không đơn giản như thời hiện đại, xem hồng lâu mộng là biết liền, quy cách rất giống, một thông lệnh ra, nửa ngày mới uống một li, cũng là mộ trò giết thời gian.

Lương Ất Thông tuy rất vội, nhưng không dám làm mất lòng Vương Nhuận Tuyết, đành chiều ý người đẹp, 4 người quay tròn lại bắt đầu chơi.

Chập sáng.

Hoàng cung Tây Hạ đóng chặt cửa, bên ngoài phòng bị nghiêm cẩn, cách cửa lớn mấy chục bước có thị vệ kiểm tra với những người ra vào cung.

Bên ngoài trạm gác có mấy chục chiếc xe ngựa, bên trên có treo cờ hình tam giác bay phấp phới, có thêu chữ Tống to tướng lên trên, đứng đầu là Hứa Văn Cường thị vệ của Đỗ Văn Hạo và Lý Phố.

Hai người đang tranh cãi với thị vệ, Lý Phố nói: "Đây là lễ vật đính ước của Tống, tất cả đều được niêm phong, ngài muốn bóc ra kiểm tra, thiếu gì ai chịu trách nhiệm?"

Tên thị vệ đó tỉnh bơ nói: "Cái này chúng tôi không biết, tuy nhiếp chính vương đã hạ chỉ cho qua, nhưng theo quy định, bắt buộc phải bóc ra kiểm tra, nếu không không thể tiến công! Đây cũng là chỉ thị của nhiếp chính vương Lương tướng quốc!"

"Những chiếc rương này đều đã được niêm phong khóa lại, không thể mở được ở đây, nếu thiếu sót gì thì chúng tôi biết bẩm báo lại làm sao! Hay thế này đi, nếu các vị không yên tâm thì phái thêm người đi theo chúng tôi vào trong, đến nơi giao cho người của các vị, kiểm tra xem lễ vật có khớp với giấy tờ không, mà các vị cũng kiểm tra được luôn, được không?"

Tên thị vệ vẫn lắc đầu: "Không được, không qua kiểm tra, thì không được tiến cung bất kì vật gì! Đây là nghiêm lệnh của nhiếp chính vương, chúng tôi không thể vi phạm!"

Lý Phố tức bốc hỏa: "Ngươi đầu óc thật bã đậu! Nói thế nào cho ngươi hiểu được bây giờ? Các ngươi không kiểm tra không được, nhưng rương hòm mở ra rồi thì chúng ta càng khó ăn nói hơn, không mang được vào trong, ảnh hưởng đến chuyện nghênh thân, hai bên trách tội xuống, cả hai chúng ta đều không sống nổi mất!"

Hứa Văn Cường nói: "Hay thế này, ngươi đi vào hỏi ý kiến nhiếp chính vương xem thế nào hãy quyết định, lúc đó có thể mời quan nội vụ đến nhận lễ phẩm tại cửa hoàng cung, chúng tôi bàn giao xong rồi các vị kiểm tra được chứ?"

Tên thị vệ này thực ra cũng sợ bị trách tội, nghĩ thế cũng tốt, có chỉ lệnh của nhiếp chính vương, có vấn đề gì cũng không liên quan đến mình, hắn gật đầu: "Được! Ta đi xin chỉ thị! Các vị chịu khó đứng đây đợi"

Nói rồi hắn hớt hải chạy vào cung, hỏi Lương Ất Thông ở đâu rồi chạy đến thẳng Nhân Chính Cung.

4 người uống thâu đêm, Lương Ất Thông đã say mèm, đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không khá hơn là bao, mà Vương Nhuận Tuyết với Lâm Thanh Đại mặt cũng đỏ gay, may là hai người tửu lượng kém nên không dám uống nhiều, Lương Ất Thông sĩ diện không dám ép hai người đẹp uống, chỉ định chuốc say Đỗ Văn Hạo, ai dè Đỗ Văn Hạo không phải tay vừa, hai người đấu cả đêm, kết quả là hai bên ngang sức.

Khi thị vệ đến bẩm báo thì đầu óc Lương Ất Thông đã bị rượu làm cho lú lẫn rồi, định đứng dậy đi tra xét nhưng không dậy nổi, thấy trời đất quay cuồng, muốn nôn thốc nôn tháo ra.

Sợ xấu mặt trước mặt mĩ nhân, hắn vội ngồi xuống, nhưng tên thị vệ nói có chuyện gấp nên cho vào để hỏi.

Tên thị vệ vào quỳ xuống báo: "Khởi bẩm nhiếp chính vương, lễ vật nghênh thân của Đại Tống đã đến ngoài cửa cung, nhưng không cho kiểm tra, tì chức theo chỉ lệnh của nhiếp chính vương, không kiểm tra không cho tiến cung, nhưng họ dùng dằng mãi không thôi, tì chức không dám tự quyết định nên đến đây bẩm báo xin chỉ thị của vương gia!" Lương Ất Thông chau mày nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo đã say mèm, nói chẳng ra hơi: "Vương gia, những lễ phẩm này...đều là vàng bạc châu báu...trước...kh...i ra...khỏi...Đại Tống đều...đã được kiểm kê...niêm phong lại, ai cũng không dám...động vào, phải đích thân...bàn giao rồi...kiểm...kiểm tra lại, chỉ sợ...nếu mở ra ngoài cửa cung...hì hì...thì sẽ có..."

"Cái này..." Lương Ất Thông quay sang nhìn Vương Nhuận Tuyết.

 Chương 460: Điệu hổ li sơn.

Kết thúc cuộc dội bom nhân ngày nhà giáo

Vương Nhuận Tuyết lạnh nhạt cười nói với Đỗ Văn Hạo: "Được rồi, phu quân, đừng làm khó vương gia nữa. Vương gia sợ rương hòm của chúng ta có gì mờ ám, tiến cung trộm đồ trong cung của vương gia chăng! Để vương gia kiểm tra cho xong đi, thừa thiếu gì chúng ta chịu là được mà!"

Lương Ất Thông luống cuống, lưỡi líu ríu nói: "Vương cô nương thật là...như vậy là coi thường ta rồi ta rồi, ta...ta mà có ý đó thì thiên lôi đánh chết! Hì, Vương cô nương đích thân mang lễ vật đến, còn gì phải lo nữa! Cho qua, lập tức cho qua! Đưa vào quốc khố, đợi qua tang lễ sẽ kiểm sau! Hãy tiếp đón các an hem cho cẩn thận, mọi người trên đường vất vả rồi, đều là người của Vương cô nương, các ngươi thật có mắt không tròng...!"

Tên thị vệ giật mình, vội vâng lệnh, rồi lui xuống vài bước mới dám quay người đi ra.

Vương Nhuận Tuyết tươi cười: "Vương gia đúng là hảo hán! Làm việc quyết đoán, Vương Nhuận Tuyết đây vô cùng kính phục, xin kính vương gia 1 ly!"

Tối đó Vương Nhuận Tuyết chỉ có hành tửu lệnh, chứ không chủ động chúc rượu, đây là lần đầu tiên chúc rượu Lương Ất Thông, điều này khiến hắn cười đến tận mang tai, hằn lảo đảo đứng dậy, bưng bát rượu lên nói: "Đa tạ Vương cô nương! Vương cô nương đẹp tựa tiên giáng trần, kính Lương mỗ ly này là cái phúc...cái đức...bản vương...cảu bản vương! Được...ta uống, rượu Vương cô nương mời sao ta lại không uống!"

Hắn uống ừng ực hết bát, nhưng tửu lượng của hắn đã đến giới hạn, làm sao mà trôi hết bát rượu đó nữa chứ, chỉ uống được nửa bát đã cho ra hết!

Vương Nhuận Tuyết bịt mũi chạy ra rõ xư, Lâm Thanh Đại và Đỗ Văn Hạo cũng nhăn nhó tránh xa.

Lương Ất Thông nôn hết cảm thấy dễ chịu hơn nhiều, hắn uống nốt nửa bát còn lại, rồi chùi mép, hắn đang định nói gì đó thì bên ngoài có tiếng cấp báo: "Vương gia! Đại điện tế lễ đã sẵn sàng, hoàng thượng mời ngài ra chỉ trì"

Bây giờ Lương Ất Thông mới nhớ ra có chuyện phải làm, hắn vứt bát rượu trong tay xuống, xiêu vẹo đi ra ngoài, còn quay lại nói với Vương Nhuận Tuyết: "Vương cô nương...cứ ngồi...đợi chút, ta...đi giải quyết công việc rồi...sẽ quay lại...uống với các vị

"Chúng tôi là sứ thần Đại Tống, cũng nên đến đại điện mới phải phép"

Lương Ất Thông vui mừng nói: "Đúng đúng! Vương cô nương, mời!"

Vương Nhuận Tuyết lấy mạng che mặt, đi cùng với cả Lâm Thanh Đại và Đỗ Văn Hạo ra ngoài, hương đến đại điện.

Trên đại điện, bá quan văn võ đã có mặt đông đủ, ai cũng mặc áo xô gai, cúi đầu, ngoài đại điện dày đặc thị vệ đại nội 3 vòng trong 3 vòng ngoài. Màu trắng tang tóc bao phủ khắp đại điện, hương án trên linh đường nghi ngút, bên cạnh đang có vài người đang quỳ khóc.

Huệ Tông đế và Lương hoàng hậu đứng ở vị trí chính giữa, đang nhìn ra cửa đại điện đợi nhiệp chính vươngL ương Ất Thông.

Lương Ất Thông luôn miệng nói chuyện với Vương Nhuận Tuyết trên đường đi, Vương Nhuận Tuyết chỉ cười mà không thèm để ý.

Đỗ Văn Hạo đi cũng xiêu vẹo, Lâm Thanh Đại phải dìu hắn, nhưng nàng vẫn trnah thủ quan sát bố trí thị vệ xung quanh.

Lương Ất Thông đi xuyên qua quần thần, mùi rượu nồng nặc, đi đứng không vững, rõ là say mềm rồi mới đến, là nhiếp chính vương mà không giữ phép tắc, lại say mèm, thật không ra gì, Quân thần đều chua mày lắc đầu, nhưng quyền thế của hắn lớn, ai dám nói gì?

Lương Ất Thông đi lên bậc đường, Lâm Thanh Đại rũ nẹh tay áo, một viên đá nhỏ bay ra, nhằm đúng vào chân Lương Ất Thông.

Hắn lảo đảo ngã nhào rồi lăn xuống khỏi bậc thềm.

Bọn Đỗ Văn Hạo đứng sau hắn, khi hắn lăn xuống vội tránh ra, nhếch mép cười, thấy hắn lăn xuống kêu đau thả thiết mà không thèm lại đỡ.

Thị vệ đại nội vội cảnh giới hai bên, đứng hai bên đều là bá quan văn võ, thấy vậy đều trố mắt ra, đám thân tín của hắn vội chạy đến để đỡ, nhưng hắn đã lăn xuống đến tận chân bậc thềm rồi.

Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết nhìn nhau rồi ngầm nhớ mặt những người đỡ hắn dậy.

Mấy người đó đỡ Lương Ất Thông dậy, thấy trán chảy máu, mũi bầm tím, hắn đã say sẵn, lại bị ngã trận này nữa, hắn thấy hoa mắt, nôn thốc nôn tháo, nhằm thẳng vào mặt các đại thần mà nôn, làm mọi người tỏng đại điện muốn buồn nôn.

Những đại thần bình thường không ưa hắn tuy ngoài mặt không có biểu hiện gì nhưng trong lòng vui như Tết.

Đỗ Văn Hạo cười thầm, dùng tay ra hiệu khen Lâm Thanh Đại.

Lương Ất Thông đã say đến lú lẫn, cũng không biết sao mình lại ngã, cho là mình say quá nên vẫn vịn tay vào mấy tên thân tín rồi tiếp tục tiến vào đại điện.

Huệ Tông thấy vậy, trong lòng thầm mừng, nhưng ngoài mặt tỏ ra hết sức quan tâm: "Quốc tướng sao vậy? Ngã có đau không? Ngự y! Ngự y mau đến xem cho quốc tướng mau!"

Lương Thái Hậu thấy huynh trưởng ngã như vậy, lại say mèm nữa, quần áo mặt mũi toàn vết nôn, vừa tức vừa xót, cúng gọi ngự y, nhưng lại bảo ngự y mang thuốc giúp tỉnh rượu đến, và bảo cung nữ mang áo cho hắn thay.

Ngọc Lan công chúa cũng quỳ trước đại điện, cũng không thấy nàng khóc, nàng đờ người ra như tượng vậy.

Đại điện loạn hết cả lên, mấy thị vệ chạy lại bẩm báo: "Quốc tướng gia, hoàng thượng, cháy rồi!"

Kiến trúc cổ đại hầu hết là gỗ một màu, đặc biệt là hoàng cung, kể cả cham trổ trên cột cũng là gỗ, nhưng việc chữa cháy lại rất kém, chỉ cần một ngọn lửa là thiêu rụi tất cả.

Vì vậy mọi người trong điện đều rất hoang mang, vội vàng chạy ra xem, quả nhiên ngự thiện phòng đang bốc khói nghi ngút, rõ ràng là ngọn lửa không nhỏ! Ai ai cũng tái mét mặt.

Huệ Tông lập tức biết ai gây ra biến, vội nhìn sang hắn, Đỗ Văn Hạo nháy mắt với hắn, rồi quay ra ngoài, Huệ Tông hiểu ý, liền gào lớn: "Nhanh, mau đi chữa cháy ngay! Còn trơ ra đấy làm gì, ngự lâm quân và thị vệ mau đi chữa cháy ngay!"

"Khoan!" Lương Ất Thông hổn hển nói, "Chưa vội..."

Lâm Thanh Đại nhanh tay, nàng lại dùng chiêu cũ, cho Lương Ất Thông một viên đá vào sau đầu!

Lương Ất Thông mê man bất tỉnh tại chỗ luôn, nội thị, ngự lâm quân và đại thần thân tín vội lại đỡ hắn, nhưng hắn béo quá, không đỡ dậy được còn kéo mấy người nữa ngã theo, Huệ Tông không biết làm sao hắn lại ngất đi bèn nói: "Tướng quốc say rồi, mau dìu vào trong nghỉ ngơi và chuẩn bị canh giải rượu cho tướng quốc ngay! Các ngươi đi cứu hỏa đi, nếu cháy lớn thì sao? Nhanh lên!"

Lương thái hậu linh tính có gì chẳng lành, nhưng mọi chuyện quá đột ngột, thêm vào nữa lại có vụ hỏa hoạn lớn thế này nên không chú ý nữa, cũng giục thị vệ đi cứu hỏa.

Thị vệ trong ngoài đại điện và ngự lâm quân chia nhau ra đi cứu hỏa, ngự y thì bận rộn chăm sóc Lương Ất Thông, nhưng Lương Ất Thông vẫn bất tỉnh.

Đỗ Văn Hạo cũng bon chen vào chữa trị, hắn là thần y do thái hậu mời đến, dĩ nhiên mọi người hi vọng hết vào hắn, nhưng hắn đâu có làm cho tướng quốc tỉnh lại.

Bên ngoài điện, quần thần đều kiễng chân hóng chuyện cứu hỏa, không ngờ lửa cháy ngày càng to, mấy cung bên cạnh cũng bị lây lửa, văn võ bá quan đều hoảng sợ.

Huệ Tông chạy ra chạy vào, chỉ thị ngự lâm quân với thị nội, đến cung nữ thái giám cũng tham gia chữa cháy. Những người này vốn nghe theo Lương Ất Thông, nhưng hắn bất tỉnh thế kia, lửa thì không được người, lại là hoàng thượng ra chỉ thị nên ai nấy đều dạ vâng nghe theo. Chẳng mấy chốc trong ngoài điện đã loạn hết cả lên! Những người còn lại đều ngóng cổ chờ xem thế nào.

Đúng lúc này, thì nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của thị vệ bên ngoài điện: "Không xong rồi! Có thích khách!"

"Cẩn thận!"

Tiếng kêu thảm thiết không ngừng vang lên!

Bọn chân tay của Lương Ất Thông đều tái mét mặt, bọn họ không có vũ khí, hơn nữa trên đại điện thị vệ cũng không được mang vũ khí, ngoài quan tài ra thì muốn tìm mộ thanh gỗ để hộ thân cũng khó.

Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết nhìn nhau, cả hai đều phi thân lên, ra tay nhanh như chớp, Lâm Thanh Đại đối phó với thị vệ, còn Vương Nhuận Tuyết đối phó với thái giám và văn thần võ tướng.

Mấy tay thị vệ trên đại điện không trụ nổi, chỉ còn vài tên đang đấu với Lâm Thanh Đại.

Mấy tên võ tướng bị Vương Nhuận Tuyết hạ gục, số còn lại đâu phải đối thủ của nàng, bọn họ lần lượt bị hạ.

 Chương 461: Bất Thình Lình Xảy Ra Động Đất

Đỗ Văn Hạo nhìn thấy Lâm Thanh Đại đối phó với mấy đại nội thị vệ, chưa giải quyết xong. Những đội viên đội đặc chiến vẫn đang chém giết ở bên ngoài đại điện, chưa thấy tiến vào trong, hiển nhiên là đã bị đại nội thị vệ chặn lại. Lúc này Đỗ Văn Hạo vừa làm ra vẻ đang cứu tỉnh Lương Ất Thông vừa quan sát tình huống xung quanh.

Nhị nữ vừa ra tay, hắn cũng ra tay.

Đỗ Văn Hạo quỳ một chân xuống đất. Tay trái hắn vòng qua cổ Lương Ất Thông, ghìm chặt lấy, tay phải hắn nhanh chóng lấy ra một thanh tiểu đao để trong hòm thuốc, chặn ngang cổ họng Lương Ất Thông quát to: "Tất cả lui lại!"

Hai gã Ngự y bên cạnh sợ hãi tức mức co rúm người, cả hai luốn cuống quay lại phía sau.

Mấy tên thị vệ thấy vậy cùng gào lên: "Mau thả Tướng quốc ra" Nói xong chúng định xông tới. Đỗ Văn Hạo tức giận đưa lưỡi đao tiến lên, chích sâu vào cổ họng Lương Ất Thông một chút. Lập tức máu tươi chảy ra ròng ròng.

Một đao đó hiệu quả hơn nhiều so với việc bấm vào Nhân trung huyệt. Ngay lập tức Lương Ất Thông tỉnh lại, hắn muốn lên tiếng nhưng cổ họng hắn đã bị Đỗ Văn Hạo ghìm chặt, ngay cả thở còn khó khăn chứ chưa nói tới việc quát mắng.

Mấy tên hộ vệ lập tức ngừng lại, đứng yên.

Đột nhiên Vương Nhuận Tuyết đứng cách hắn không xa hoảng sợ kêu lên: "Phu quân cẩn thận!"

Đỗ Văn Hạo kinh hãi, lập tức hắn cảm thấy kình phong đang đổ xuống đầu mình. Trong lòng Đỗ Văn Hạo thầm kêu "không hay". Một tiếng "xoạt" vang lên, một thanh đao bổ xuống bả vai hắn.

Đỗ Văn Hạo vội quay đầu lại hắn nhìn thấy Lương Hoàng hậu đang nhìn hắn với ánh mắt kihn ngạc.

Đỗ Văn Hạo mặt nhuyễn giáp nên không thể đâm thủng nhưng điều này lại làm bùng lên sự phẫn nộ của Đỗ Văn Hạo. Hắn lập tức muốn ra tay lập uy, chấn nhiếp. Hắn không nghĩ ngợi nhiều, tay phải hắn cầm tiễn đao vung lên đâm vào huyệt Thái Dương của Lương Hoàng hậu.

Đỗ Văn Hạo nhanh chóng rút tiễn đao ra kề vào cổ họng Lương Ất Thông.

Máu tươi từ huyệt Thái Dương của lương Hoàng hậu chảy ra như suối. Lương Hoàng hậu không kịp kêu lên một tiếng, cả người mềm nhũng, ngã xuống đất chết.

Ngay lúc đó bất chợt tiếng sấm trên bầu trời vang lên đinh tai nhức óc nhưng muốn đục thủng màng nhĩ của mọi người.

Đại điện cũng không ngừng rung chuyển, giống như có thể đổ sụp xuống bất kỳ lúc nào.

Động đất!

Đỗ Văn Hạo cực kỳ vui mừng. Ông trời đã trợ giúp rất đúng lúc. Lúc này xảy ra động đất, tất cả náo loạn mới có thể giành thắng lợi nhưng nếu đại điện sụp xuống thì chỉ e cái mạng nhỏ của hắn cũng không giữ nổi.

Giây phút này trên đại điện vô cùng náo loạn. Tất cả chen nhau bỏ chạy ra ngoài đại điện. Lâm Thanh Đại và mấy tên thị vệ vẫn đang ác đấu. Nàng vừa lại đánh ngã được mấy người nhưng vẫn không sao thoát thân được. Vương Nhuận Tuyết cũng đang ác đấu với mấy võ tướng.

Đại điện rung động càng dữ dội. Ngói trên mái nhà đã bắt đầu rơi xuống. Thỉnh thoảng có người gào lên thảm thiết vì bị ngói rơi trúng.

Đỗ Văn Hạo biết khi động đất bắt đầu, nhà sẽ sụp đổ. Bình thường thì khoảng mười giây gì đó. Hắn đã lãng phí mất mấy giây trong khi đó bản thân hắn đang ở chính giữa đại điện, trong tay hắn vẫn đang khống chế một Lương Ất Thông béo như lợn, không ngừng giãy giụa nhưng hắn không dám buông ra. Nếu bây giờ mà bỏ chạy thì đúng là kiếm củi ba năm thiêu một giờ. Trong khoảng thời gian ngắn như vậy Đỗ Văn Hạo không thể quyết định có đâm chết Lương Ất Thông hay không.

Lúc này Lâm Thanh Đại cũng đang đánh nhau với thị vệ từ ngoài cửa xông vào. Nàng cách cánh cửa không xa lắm, muốn chạy trốn cũng rất dễ dàng. Vương Nhuận Tuyết cũng ở rất gần cửa sổ, chỉ cần phá cửa sổ là có thể thoát ra ngoài. Đỗ Văn Hạo bất chấp tất cả, hắn gào lên: "Phòng sắp sụp rồi. Thanh Đại, Tuyết nhị, chạy mau!"

Lâm Thanh Đại đánh một chưởng, đánh bay một gã thị vệ ra ngoài. Nàng quay đầu gào lên: "Không! Chàng mau chạy đi!" Nói xong nàng quay người muốn chạy tới cứu Đỗ Văn Hạo nhưng lại bị ba tên thị vệ khác ngăn cản.

Vương Nhuận Tuyết cũng gào lên: "Phu quân chạy mau đi!" Nàng vừa phân thân, bả vai đã trúng ngay một chưởng làm nàng lảo đảo té ngã trên mặt đất.

Ngay trong lúc đó, một tiếng nổ "ầm ầm" vang lên. Một góc nóc phòng đã sụp xuống, đổ xuống đúng ngay vị trí của Vương Nhuận Tuyết. Xà ngang vắt ngang, bụi đất, ngói bay toán loạn, không thể nào nhìn thấy bóng dáng xinh đẹp của Vương Nhuận Tuyết nữa.

"Tuyết nhi!"

Đỗ Văn Hạo điên cuồng gào lên.

Ngay lúc đó mái ngói đỉnh đầu hắn cũng sụp xuống. Một chiếc xà ngang nhắm đỉnh đầu hắn rơi xuống.

Theo phản ứng tự nhiên Đỗ Văn Hạo ôm Lương Ất Thông ra, nhào người về phía trước. Chiếc xà ngang nện vào chân trái của hắn.

"A" Đỗ Văn Hạo gào lên đau đớn.

Lương Ất Thông đang bị khống chế đột nhiên giãy giụa mạnh mẽ. Bên dưới Đỗ Văn Hạo vô cùng đau đớn, nhất thời hắn không khống chế được bản thân, tay phải hắn ấn mạnh tiểu đao vào cổ Lương Ất Thông rồi thuật thế xoáy mạnh một cái. Mấy tiếng "ọc ọc" vang lên. Đỗ Văn Hạo rút tiểu đao ra khỏi cái cổ đẫm máu của Lương Ất Thông. Máu tươi bắn ra như suối, bắn cả vào người Đỗ Văn Hạo.

"Tuyết nhi!"

Đỗ Văn Hạo điên cuồng gào lên trong lòng.

Tuyết nhi của ta! Nàng không thể chết được.

Đỗ Văn Hạo dồn sức hất thân thể nặng nề của Lương Ất Thông ra ngoài, quay người đẩy chiếc xà đang đè lên chân hắn, gắng sức rút chân ra để đứng dậy đi tìm Vương Nhuận Tuyết nhưng chiếc xà nhà to bằng một người ôm nên Đỗ Văn Hạo không thể đẩy nó nhúc nhích.

Ngay lúc đó trên bầu trời vang lên mấy tiếng sấm. Bầu trời như nứt ra.

Động đất cũng mạnh lên mấy lần. Đất trời quay cuồng, Đỗ Văn Hạo cũng quay cuồng giống như hạt thóc nằm trên sàng.

Cuối cùng cả đại điện đổ sụp xuống.

Đỗ Văn Hạo tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn. Hắn nhìn thấy vô số những viên ngói màu cùng cả một chiếc xà ngang đổ sụo xuống người hắn. Bên tai Đỗ Văn Hạo còn nghe thấy tiếng kêu đau đớn của Lâm Thanh Đại: "Văn Hạo, không!"

Hai mắt Đỗ Văn Hạo tối sầm, hắn không biết gì nữa.

Không biết trải qua bao lâu.

Đỗ Văn Hạo lo lắng tỉnh dậy. Trước mắt hắn cảnh vật mơ hồ, ánh sáng chói mắt. Đỗ Văn Hạo vội vàng nhắm mắt lại nhưng trong lòng thầm vui mừng. Mình chưa chết sao?

Bên tai hắn văng vẳng tiếng nói vừa vui mừng vừa sợ hãi của mấy người: "Văn Hạo! Phu quân tỉnh rồi sao? Văn Hạo!"

Đó là giọng nói của Vương Nhuận Tuyết.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui sướng như điên. Tuyết nhi không chết!

Đỗ Văn Hạo muốn kêu lên nhưng cả người hắn giống như bị rút hết xương cốt, không thể cử động được. Môi hắn cũng chỉ giật giật, không thốt lên nửa lời.

"Thanh Đại tỷ! Phu quân sống lại rồi! Cám ơn ông trời!" giọng nói kích động nghẹn ngào của Vương Nhuận Tuyết lại vang lên.

"Ừ. Cám ơn trời đất. Văn Hạo không việc gì".

Đó là giọng nói của Lâm Thanh Đại.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo lại mừng như điên. Hai người hắn yêu thương nhất nhất bình an vô sự. Bản thân hắn vẫn còn sống. Còn gì làm hắn hạnh phúc hơn điều này đây?

Trong lòng thoáng kích động, Đỗ Văn Hạo lại thấy trời đất quay cuồng, suýt chút nữa hắn lại ngất đi.

Tiếp theo đó Đỗ Văn Hạo lại nghe thấy tiếng gọi của mấy nam nhân gọi hắn là Quốc công gia. Đó là giọng nói của Đại tướng Lý Phố, Đội trưởng đội hộ vệ Hứa Văn Cường. Trưởng ban tình báo Thái Đầu và cả mấy hộ vệ thân tín. Mấy người đó cũng không việc gì làm tâm trạng Đỗ Văn Hạo càng vui mừng hơn.

Lúc đó Đỗ Văn Hạo cảm thấy có người nhẹ nhàng ôm lấy hắn, động tác êm ái giống như gió xuân thổi nhẹ. Hơi thở thơm tho cùng mùi hương của cơ thể lập tức cho Đỗ Văn Hạo biết người đó là Vương Nhuận Tuyết.

Tiếp theo Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng thìa va chạm vào bát, phát ra âm thanh rất vui tai. Một lát sau Đỗ Văn Hạo cảm thấy có vật gì nhẹ nhàng chạm vào môi mình. Bên tai hắn vang lên giọng nói êm ái của Vương Nhuận Tuyết" "Phu quân, nào, uống thuốc đi! Đây là Độc tham thang".

Đỗ Văn Hạo cố gắng há miệng. Một dòng nước ấm áp chảy vào miệng hắn, theo thực quả chảy xuống dưới. Dù nước thuốc hơi đắng nhưng Đỗ Văn Hạo lại có cảm giác ngọt như nước cam lộ, toàn thân thư thái.

Sau khi uống từng thìa thuốc một, Đỗ Văn Hạo cảm thấy sức lực dần trở lại với mình nhưng toàn thân hắn vẫn không thể nhúch nhích, đặc biệt là hai chân hắn giống như là không phải của hắn vậy.

Sau khi uống xong một bát thuốc, Đỗ Văn Hạo nằm trong ngực mềm mại, ngọt ngào như đường, mềm mại như bông gòn của Vương Nhuận Tuyết. Hai người thân thích của hắn bình an vô sự. Lý Phố, Hứa Văn Cường cũng bình an, trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy thư thái, nhất thời hắn lại chìm vào cơn mê.

Cảm giác ngủ lúc này thật thư thái. Tới khi Đỗ Văn Hạo mở mắt ra, hắn cảm thấy trong phòng tối đen thế nhưng trước mắt hắn cảnh vật không còn mơ hồ như ban đầu nữa.

Đỗ Văn Hạo chậm rãi chăm chú nhìn. Hắn nhận thấy chính mình đang nằm trên giường, trong một đại trướng. Ở giữa đại trướng có đặt một chiếc bàn tròn bằng gỗ lim. Đây là nơi nào vậy?

Cổ Đỗ Văn Hạo có thể cử động. Hắn quay đầu lại. Lúc này Vương Nhuận Tuyết ngồi bên giường đã ngủ thiếp đi. Lâm Thanh Đại ngồi trên ghế, gục xuống chiếc bàn tròn, cũng đã ngủ thiếp đi. Trên bàn là một chiếc đèn cung đình hình bát giác. Nến đỏ đã chá hết, chỉ còn ngọn đèn nhỏ chập chờn.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy rất kỳ quái. Hắn nhớ rõ trước lúc ngất đi, mấy người bọn hắn vẫn đang kịch chiến với đại nội thị vệ Tây Hạ. Bản thân hắn đã đâm chết Lương Ất Thông cùng Lương Hoàng hậu sau đó xảy ra một trận động đất kinh thiên động địa. Ngôi đại điện đổ sụp xuống.

Bây giờ hắn được đưa tới chỗ nào vậy? Trong lều vải. Động đất không làm sụp lều vải sao?

Môi Đỗ Văn Hạo giật giật, hắn gọi nhỏ: "Tuyết nhi!"

Âm thanh của hắn vo ve như tiếng muỗi, ngay cả chính hắn cũng không nghe thấy. Thân thể mềm mại gục trên bàn của Lâm Thanh Đại thoáng nhúch nhích rồi nàng tỉnh lại. Lâm Thanh Đại đi tới bên giường, khom người ôm lấy vai Đỗ Văn Hạo hỏi: "Văn Hạo, chàng tỉnh rồi sao? Cảm giác thế nào?"

Đỗ Văn Hạo gượng cười, hai mắt chớp chớp, gắng nói hai từ: "Tốt rồi".

Hai người vừa nói chuyện. Vương Nhuận Tuyết đang gục bên giường cũng thức dậy. Khi tỉnh lại, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, nàng thấy Đỗ Văn Hạo đã tỉnh lại, đang nói chuyện thì không kìm được cảm xúc bản thân. Nàng đưa tay đỡ Đỗ Văn Hạo nhưng khi nàng vừa cử động thì bật lên một tiếng 'ôi chao".

Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng kêu đau đớn của anngf thì kinh ngạc quay đầu nhìn nàng hỏi: "Có chuyện gì vậy?"

"Không có chuyện gì. Khi đại điện sụp xuống, đập trúng bả vai thiếp làm trật khớp nhưng Thanh Đại tỷ đã giúp thiếp".

"Ồ, sao ta lại ở đây? Đây là nơi nào?"

"Đây là Hoàng cung Tây Hạ. Chúng ta vẫn còn đang trong Hoàng cung. Có rất nhiều phòng đã sụp đổ. Một số phòng chưa sụp cũng không dám ở trong vì vậy tất cả mọi người dựng lều ở bãi cỏ để ở" Câu nói của nàng chứng tỏ bên hắn đã khống chế được cục diện nên Đỗ Văn Hạo cảm thấy an tâm, hắn liền hỏi: "Mọi người có việc gì không?"

Lâm Thanh Đại mỉm cười nói: "Không việc gì. Chỉ có chàng làm bọn thiếp rất sợ hãi. Thiếp thấy chiếc xà ngang chặn ngang chân chàng, không nhúc nhích được. Khi ấy thiếp vừa thoát khỏi mấy tên thị vệ đó, phòng lại sụp xuống, không kịp cứu hai người. Thiếp không thể làm gì hơn là đành tạm thời lui ra ngoài nên không bị thương. Lúc đó người của chúng ta đánh tới. Đám thị vệ không địch lại chúng ta, bị đánh phải rút lui. Bọn thiếp dỡ đám gỗ, đá cứu được nhị phu nhân ra. Tình trạng của nhị phu nhân khá tốt, khi ấy nhị phu nhân đang ờ cạnh cửa sổ nên xà nhà rơi xuống không đập vào người, chỉ bị gạch rơi vào thắt lưng, đùi và bả vai bị thương ngoài ra cũng không nhẹ. Cũng may khi ấy nhị phu nhân nằm sấp nên gương mặt như hoa như ngọc không bị tổn thương. Nếu không bây giờ không biết Văn Hạo chàng đau lòng như thế nào nhỉ? Hì hì".

 Chương 462: Tính kế

Lúc này Vương Nhuận Tuyết cũng cười khanh khách nói: "Khi ấy thiếp cũng ngất xỉu, khi Thanh Đại tỷ ấn vào Nhân trung huyệt, thiếp mới tỉnh lại rồi Thanh Đại tỷ như điên như khùng đào bới đống ngói vụn tìm phu quân. Thanh Đại tỷ vừa tìm vừa khóc, hất mọi thứ bay tán loạn. Bây giờ nghĩ lại thật buồn cười".

"Lại còn cười ta. Không phải lúc đó cũng giống ta sao" Lâm Thanh Đại mỉm cười nói với Đỗ Văn Hạo: "Lúc ấy nhị phu nhân quả thực mới nói là phát điên. Một bên phu nhân vừa gào tên chàng, hai tay vừa điên cuồng cào đống ngói vỡ. Một lát thì cả hai bàn tay đều chảy máu đầm đìa. Cả mười đầu ngón tay đều rụng hết móng. Chàng hãy nhìn tay phu nhân mà xem, bị thương rất thê thảm".

Đỗ Văn Hạo gắng sức quay đầu. Lúc này hắn mới nhận ra đôi bàn tay như hoa Lan của Vương Nhuận Tuyết, ngày thường mềm mại cây cỏ bây giờ quấn đầy vải trắng.

"Không việc gì".

Đỗ Văn Hạo đau xót nhìn đôi tay quấn đầy băng của Vương Nhuận Tuyết, hắn chậm rãi duỗi tay, cầm tay nàng, đặt vào ngực mình nói: "Tuyết nhi!"

Vương Nhuận Tuyết mỉm cười nói: "Không việc gì, chỉ là vết thương bên ngoài. Móng tay cũng nhanh chóng mọc lại. Quả thực lúc ấy hai người bọn thiếp rất lo lắng. Một đống đổ nát rất lớn. Bùi mù tứ phía, hai người bọn thiếp bò ra khỏi đống đổ nát mà cũng không thể nhận ra phương hướng, không thể biết được chỗ chàng bị vùi. Hơn nữa xung quanh còn có thị vệ Tây Hạ thỉnh thoảng bén lén tên, bọn thiếp còn phải đề phòng chúng. Hơn nữa có rất nhiều thị vệ cùng Ngự lâm quân chạy đi cứu hoả cũng quay lại đánh giết. Trong lúc bối rối lại càng không biết tìm chàng chỗ nào. Mấy người Lý Phố và Hứa Văn Cường còn phải đối phó với thị vệ Tây Hạ, không rảnh tay tới tìm chàng. May mắn khi đó có trưởng công chúa Ngọc Lan chỉ chỗ chàng bị chôn vùi nên mới nhanh chóng tìm được chàng".

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi: "Tại sao trưởng công chúa biết chỗ ta bị vùi?"

"Điều này cũng rất tình cờ. Khi đại điện sụp xuống, công chúa đang quỳ trước linh đường nên trốn ở dưới hương án chắc chắn, không bị tổn thương gì. Chiếc quan tài cao hơn đầu người đã đỡ chiếc xà nhà thay cho công chúa. Khi động đất kết thúc, công chúa chui từ cái khe đó ra, không thương tổn gì cả. Công chúa nói cho bọn thiếp biết công chúa nhìn thấy chàng đứng trước quan tài mấy bước mà quan tài lại lộ lên trên đám gạch ngói vỡ vụn. Bọn thiếp nhanh chóng tìm moi được chàng lên. Thật sự là cám ơn trời đất".

Vương Nhuận Tuyết nói liền một hơn mà trong lòng nàng vẫn còn sợ hãi. Bàn tay quấn băng vải của nàng ôm ngực, thở phào một hơi dài, giống như vừa tỉnh lại sau một cơn ác mộng. Cảm giác vô cùng thoải mái.

Lâm Thanh Đại cũng nói: "Đúng vậy. Lúc móc chàng ra, chàng không bộ dạng lúc đó của chàng đâu. Bất tỉnh nhân sự, mặt mũi đều là bụi đất, toàn thân là máu. Nhị phu nhân còn tưởng chàng đã chết, suýt chút nữa ngất xỉu. Thiếp cũng rất sợ hãi, sờ mạch ở cổ thấy vẫn còn nhảy mới yên tâm. Chàng bị xà ngang đè, rồi còn cả mấy cái xà khác chồng chất lên. Mấy người Lý Phố và Hứa Văn Cường phải tới giúp bọn thiếp, nâng xà ngang ra. Nhị phu nhân kéo chàng ra khỏi xa ngang. Khi đó thiếp mới kiểm tra người chàng. Trên người chàng dính toàn là máu nhưng là máu của người khác".

Đỗ Văn Hạo cười, gắng gượng nói: "Là máu của Lương Ất Thông. Hắn giãy giụa, chân của ta bị xà ngang đè, ta sợ hắn chạy thoát nên giết hắn".

Đột nhiên ngay lúc đó Đỗ Văn Hạo nhớ ra chân mình bị xà ngang đè. Bị một cái xà ngang to như vậy đập trúng, chỉ e cái chân đó của hắn đã tàn phế, nhất thời một cơn ớn lạnh chạy khắp người hắn. Hắn khó nhọc giãy giụa định đứng dậy. "Chàng đứng dậy làm gì?" Lâm Thanh Đại vội vàng đỡ Đỗ Văn Hạo ngồi dậy, dựa nghiêng vào đầu giường.

'Chân của ta. Mau vén chăn lên cho ta" Tay Đỗ Văn Hạo cầm đầu chăn nhưng hắn không có sức đề kéo ra.

Lâm Thanh Đại vội vàng kéo chiếc áo ngủ bằng gấm của Đỗ Văn Hạo ra, để lộ bắp đùi. Đỗ Văn Hạo nhìn thấy chân trái của hắn có một cái kẹp gỗ, dùng băng vải trắng quấn lại, hơn nữa hắn không thấy cảm giác gì cả thì trong lòng lại càng giá lạnh: "Chân ta có bị dập nát không?"

Lâm Thanh Đại dịu dàng nói: "Có nhưng chàng không cần quá lo lắng. Chỉ là gãy xương thông thường. Đã nối xương lại rất tốt, cũng dùng miếng gỗ kẹp lại".

"Thật vậy sao? Tại sao ta lại không có cảm giác gì vậy?'

"Đầu chàng bị gạch nện trúng nên bất tỉnh nhân sự. Thế nhưng Ngự y đã nói chàng chỉ bị chấn động thôi, không có vấn đề gì lớn. Nguyên nhân chủ yếu là khi chàng có mang theo rương thuốc, bên trong có thuốc mê. Thiếp đã lấy cho Ngự y Tây Hạ dùng nên chàng mới không có cảm giác".

"Thảo nào toàn thân ta không còn sức lực" Đỗ Văn Hạo cố gắng cử động ngón chân. Hắn cảm thấy có thể cử động được thì trong lòng thầm vui mừng. Rõ ràng thần kinh không tổn thương. Chỉ cần nhìn miếng kẹp chân. Chân của hắn đã được xử lý nẹp lại theo cách thường dùng. Hắn chỉ mong kỹ thuật của Ngự y không tồi, không biến hắn thành người què là được.

Dù gì người ta cũng là Ngự y, hẳn sẽ không có vấn đề gì.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ miên man. Đột nhiên hắn nhớ ra một vấn đề, hắn ngạc nhiên nói: "Ta nhớ cái xà đập trúng chân ta rất to, phải hai người ôm mới hết. Một cây cột to như vậy nhất định phải đập chân ta nát nhừ. Tại sao chỉ là gãy cương thông thường vậy?"

Lâm Thanh Đại cười nói: "Lần này chàng phải cảm tạ cẩu Tướng quốc dại gái Lương Ất Thông".

"Vì sao phải cảm tạ hắn?"

"Có cái chân mập mạp có hắn chống đỡ cây xà nhà cho chàng. Chân của hắn bị đập nát vụn nên lực tác dụng vào chân chàng mới nhẹ, chàng chỉ bị thương qua loa".

"Thật vậy sao?"

"Cổ của hắn bị chàng rạch hơn phân nửa, lại bị đống gạch ngói vụn đè lên nên đương nhiên là chết, cả Huệ Tông đế cũng đã chết".

"Hả?" Đỗ Văn Hạo kinh hãi hỏi: "Chết như thế nào?"

"Bị phòng sụp xuống đè chết".

"Vậy bây giờ Tây Hạ nằm trong tay ai?"

"Con trai của Huệ Tông đế tên là Kiền Thuận. Khi ấy xảy ra động đất, tất cả đều rối loạn. Thị vệ Tây Hạ vốn tấn công chúng ta nhưng phần lớn người của chúng bị toà đại điện đổ sụp cản lại bên ngoài, trong khoảng thời gian ngắn không thể tiến vào bên trong. Số người của chúng ở bên trong cũng không hơn chúng ta nhưng lực chiến đấu của chúng ta lại hơn chúng. Với lại bọn họ cũng phải moi Hoàng thượng, Lương Ất Thông, Lương Hoàng hậu bị chôn vùi dưới đống đổ nát nên cũng ngừng đánh nhau, cùng đào móc cứu người. Khi chúng ta tìm được chàng lên thì bọn họ cũng bới được thi thể của Lương Ất Thông ở bên cạnh lấy được thi thể của Lương Ất Thông lên thì lại tìm thấy Huệ Tông đế. Nhưng khi móc được hắn ra thì đã chết, chỉ cứu được con hắn là Kiều Thuận

Khi đó Huệ Tông đế ôm Kiền Thuận trong người nên nó không việc gì, không bị bất kỳ một vết thương nào. Tên tiểu gia hoả này cũng rất bình tĩnh, không phủ phục khóc trên thi thể, nhìn thấy chúng ta và thị vệ Tây Hạ tiếp tục đánh nhau, nó liền cầm một thanh đao, cắt ngay đầu của cữu cữu Lương Ất Thông. Nó trèo lên lan can đứng, giơ cao đầu của Lương Ất Thông nói: "Lương Ất Thông đã chết, phụ hoàng của nó cũng đã chết, bây giờ nó là Hoàng thượng. Nó lấy danh nghĩa Hoàng thượng ra lệnh cho tất cả dừng tay. Vừa nghe những lời này thị vệ Tây Hạ liền dừng tay, đương nhiên bọn thiếp cùng dừng tay".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đứa bé này cũng có bản lãnh".

"Đúng vậy. Ngay cả bọn thiếp cũng rất ngạc nhiên. Lúc đó mới biết Huệ Tông đế có một đứa con như vậy. Huệ Tông đế mới chết, đượng nhiên ngôi vị Hoàng đế do nó kế vị. Hơn nữa Lương Ất Thông cũng đã chết, không còn Nhiếp Chính Vương. Văn võ đại thần tranh thủ thời cơ tranh công nên lập tức quỳ xuống khấu đầu trước tân Hoàng đế. Hoàng đế Tây Hạ đã được lập như vậy. Phụ hoàng, mẫu hậu của tiểu Hoàng đế đã chết. Tổ mẫu Lương Thái hậu mới chết trước đó, không còn trưởng bối chính cing buông rèm nhiếp chính. Tân Hoàng đế liền chỉ định ngay tại chỗ sáu phụ chính đại thần, trợ giúp mình sử lý quốc sự. Sau khi tiểu Hoàng đế thương lượng với sạu vị phụ chính đại thần thì tuyên bố cải niên hiệu từ Thiên Nguyên sang Trì Bình".

Đỗ Văn Hạo thoáng thấy lạnh lưng khi nghe Lâm Thanh Đại kể lại. Hắn thầm nghĩ tên tiểu gia hoả này tuổi còn nhỏ mà đã xử trí tỉnh táo, quyết đoán làm người khác phải sợ hãi. Đột nhiên Đỗ Văn Hạo nghĩ ra một chuyện, hắn không khỏi rùng mình hỏi: "Ta đã giết chết mẹ của nó. Nó không hận ta sao? Bây giờ chúng ta đang ở đâu? Các huynh đệ ở đội đặc chiến ở đâu?"

"Đừng lo lắng. Mọi người vẫn an toàn. Khi ấy bọn thiếp thấy quần thần đều ủng hộ tiểu Hoàng đế, nhị phu nhân đã quyết định rất nhanh, bảo thiếp khống chế tiểu Hoàng đế, đổi lấy sự an toàn của chúng ta".

Vương Nhuận Tuyết tức giận, nàng bất bình nói: "Khi đó mẫu hậu của tiểu Hoàng đế muốn giết chàng nên chàng mới phản kích giết chết. Tại sao lại đổ tội lên đầu chúng ta?'

Lâm Thanh Đại nói: "Đúng vậy. Khi đó nó đối xử với chúng ta rất khách khí".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Đó là bởi vì nó trong tay chúng ta. Hắn tận mắt nhìn thấy mẫu hậu và cữu cữu của mình bị ta giết chết nhất định trong lòng nó hận ta thấu xương. Không được! Chúng ta phải lập tức rời khỏi đây, tránh để đêm dài lắm mộng".

Vương Nhuận Tuyết nói: "Không thể đi được. Trận động đất đã phá huỷ hơn một nửa kinh thành. Thiếp nghe nói đường xá cũng sụp, xe ngựa không đi được. Chân của chàng lại gãy, không để đi đứng, phải nằm yên tĩnh dưỡng nếu không lệch xương thì sẽ thành người què".

Lâm Thanh Đại cũng nói: "Chàng cứ yên tâm. Ngôi Mã đã được chỉ định làm phụ chính đại thần. Ông ta đã nói trước mặt tiểu Hoàng đế cùng các phụ chính đại thần khác rằng mấy người chúng ta cùng đội đặc chiến đều do Huệ Tông đế mời tới để đoạt lại Hoàng quyền. Ông ta cũng đọc chiếu thư của Huệ Tông đế tự tay viết cho chúng ta. Tiểu Hoàng đế nghe xong thì nói đây là ý định của Phụ hoàng, tự nguyện ở lại làm con tin của chúng ta. Hơn nữa tiểu Hoàng đế còn hạ chỉ tất cả thị v trong Hoàng cung ra ngoài cảnh giới, trong Hoàng cung chỉ để lại thái giám và cung nữ. Tường bao quanh Hoàng cung bị đổ cũng đã tu bổ lại suốt đêm. Tiểu Hoàng đế có nói chờ khi chân của chàng liền lại, sẽ tự mình hộ tống chúng ta tới biên giới. Bọn thiếp lo lắng tiểu Hoàng đế giở trò sau lưng nên đã cẩn thận đề phòng. Trận này chúng ta giết chết năm trăm người Tây Hạ. Bảy mươi huynh đệ của chúng ta chết trận. Hơn một trăm người bị thương. Số lượng này đã tính cả những người chết vì động đất. Các huynh đệ còn lại của đội đặc chiến đã được bố trí cảnh giới các nơi ở Hoàng cung. Tiểu Hoàng đế ở ngay trong lều vải bên cạnh lều của chúng ta. Trưởng công chúa Ngọc Lan, cô cô của tiểu Hoàng đế bên cạnh. Lý Phố chỉ huy các huynh đệ canh phòng bên ngoài. Trước mắt Ngôi Mã chủ trì chính sự. Ông ta vẫn cư xử rất hữu hảo với chúng ta".

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới thở dài nhẹ nhõm nói: "Chỉ mong tất cả đều là sự thật".

Vương Nhuận Tuyết thấy Đỗ Văn Hạo có vẻ uể oải khi nói chuyện thì dịu dàng nói: "Phu quân đừng nói nhiều nữa. Vết thương ở chân của phu quân chảy máu rất nhiều. Chuyện đã như này, nói nhiều cũng không có ích gì. Phu quân hãy đi ngủ đi, cũng để Thanh Đại tỷ chợp mắt một chút. Thanh Đại tỷ canh phu quân ba ngày chưa chợp mắt".

"Ta hôn mê đã ba ngày ba đêm sao?" Đỗ Văn Hạo kinh hãi hỏi.

"Đúng vậy".

 Chương 463: Lịch sử đến sớm

Lâm Thanh Đại cũng nói: "Nhị phu nhân cũng không ngủ được mà còn làm ra vẻ".

"Hì hì, phu quân hôn mê bất tỉnh. Có ai ngủ được không? Cám ơn trời đất phu quân đã bình an vô sự" Vương Nhuận Tuyết cười nói.

Đỗ Văn Hạo nhỏ nhẹ nói: "Không cần cám ơn ông trời. Tặc thiên đánh lén chúng ta, suýt chút nữa giết chết chúng ta. Ta cần phải cám ơn hai nàng. Nếu như không có hai nàng, ta đã chết".

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Bọn thiếp là thê thiếp của chàng. Chăm sóc chàng là bổn phận của bọn thiếp. Chàng muốn tạ ơn thì hãy tạ ơn trưởng công chúa Ngọc Lan. Nếu công chúa không kịp chỉ ra vị trí chàng bị vùi lấp. Bọn thiếp cứ tìm lung tung, tới khi tìm thấy chàng, chỉ e đã...".

Nói tới đây Vương Nhuận Tuyết lại cảm kích nhìn ra bê ngoài trướng giống như nàng có thể nhìn thấy tình cảnh của những ngày sắp tới nhưng rồi nàng lại lập tức nhớ tới chuyện phu quân của mình suýt chút nữa bị chôn sống dưới đống gạch ngói vụn, nhớ tình cảnh cảnh của Đỗ Văn Hạo khi moi được hắn lên, trong lòng nàng không khỏi sợ hãi. Vương Nhuận Tuyết cầm tay Đỗ Văn Hạo áp vào gương mặt mềm mại xinh đẹp của mình, khẽ hôn lên tay hắn: "Phu quân, hãy hứa với thiếp. Vĩnh viễn không được rời xa thiếp" Nói tới đây Vương Nhuận Tuyết lại thương tâm, đôi mắt phượng lại tràn ngập nước mắt.

Đỗ Văn Hạo gật đầu, bàn tay kia của hắn cầm tay Lâm Thanh Đại. Hai bàn tay nắm chặt nhau: "Ừ. Chúng ta bên cạnh nhau cho tới khi sông cạn đá mòn cũng không chia lìa".

Hơn một tháng sau đó Đỗ Văn Hạo nằm trên giường tĩnh dưỡng. Tiểu Hoàng đế Tây Hạ, Sùng Tông mấy lần cùng trưởng công chúa Ngọc Lan tới thăm hắn, ân cần hỏi thăm, tặng rất nhiều lễ vật.

Đội đặc chiến của Đỗ Văn Hạo vẫn khống chế Hoàng cung, kiềm chế Sùng Tông đế làm con tin. Thế nhưng Hoàng cung Tây Hạ đã bị đại quân Tây Hạ bao vây vòng trong vòng ngoài. Việc quân sự và chính trị của Tây Hạ nằm trong tay sáu vị phụ chính đại thần. Đỗ Văn Hạo hoàn toàn không biết tin tức bên ngoài nhưng quân Tây Hạ không tỏ ý thù địch, không quấy nhiễu. Hiển nhiên đây là ý tứ của Ngôi Mã.

Trong khoảng thời gian này Tây Hạ bận bịu nhiều việc. Sau thảm hoạ là trùng tu. Trùng tu Hoàng cung. Lương Thái hậu còn chưa đưa tang trong khi đó cìng phải lo tang lễ của Hạ Huệ Tông, Lương Hoàng hậu cùng Lương tướng quốc. Dù sao tiểu Hoàng đế vẫn còn chưa tự mình chấp chính, tất cả những việc quân sự và chính trị đều do sáu vị phụ chính đại thần xử lý. Việc tiểu Hoàng đế được thả ra hay không cũng chẳng quan hệ gì nên phía Tây Hạ cũng không cần vội vàng yêu cầu thả người.

Sáng sớm hôm nay. Đỗ Văn Hạo đang nằm nghiêng dựa vào đầu giường. Lâm Thanh Đại đang gọt hoa quả cho hắn ăn và cùng Vương Nhuận Tuyết nói chuyện với hắn để hắn giải khuây.

Một tên hộ vệ ở bên ngoài bước vào bẩm báo: "Quốc công gia, tiểu Hoàng đế Tây Hạ cùng phụ chính đại thần Ngôi Mã cùng tới thăm ngài".

Đỗ Văn Hạo vội vàng mời vào.

Sùng Tông đế bước vào lều trước. Bởi vì Sùng Tông đế mới kế vị, trong Hoàng cung lại xảy ra thảm hoạ nên không kịp may Hoàng bào cho hắn vì vậy Sùng Tông đế vẫn mặc cẩm bào của vương tử như trước. Ngôi Mã đi sau Sùng Tông đế cùng với nhũ mẫu và một lão già lưng gù. Lão già này mắt mờ, lưng còng xuống, bước đi run rẩy. Nhìn bước chân của ông ta gây cho người ta cảm giác đó là một cây gậy trúc bất kỳ lúc nào cũng gẫy gụp xuống.

Đỗ Văn Hạo cúi người, chắp tay nói: "Điện hạ, mọi người đã tới. Xin thứ cho bản sứ mang thương tích ở chân không thể đứng dậy hành lễ".

Giọng nói bập bẽ trẻ thơ nhưng làm ra vẻ của Sùng Tông đế vang lên: "Đỗ đại nhân không cần đa lễ. Hãy cứ nằm nghỉ, không nên cử động. Coi chừng chấn động vết thương. Trẫm chỉ tới xem thương thế của ngài và tiện thể nói chuyện một lát" Nói xong Sùng Tông đế chỉ vào lão già lưng gù nói: "Đây là Thượng thư bộ Hộ của ta".

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói với Lâm Thanh Đại: "Thanh Đại, hãy mau lấy ghế để mấy người Điện hạ ngồi".

Ghế được mang ra, bốn người liền ngồi xuống.

Sùng Tông đế kéo ghế ngồi bên cạnh giường của Đỗ Văn Hạo. Hắn học dáng vẻ cao quý của kẻ bề trên nói: "Đỗ đại nhân, thương thế ở chân như thế nào?"

"Tốt hơn nhiều. Đa tạ Bệ hạ quan tâm, lại còn phái Ngự ý chữa trị vết thương cho bản sứ".

'Đương nhiên cần phải như vậy" Sùng Tông đế nói: "Ta thật sự xin lỗi. Lần này tệ quốc gặp đại nạn, chưa kịp tu sửa Hoàng cung, chỉ có thể để Đỗ đại nhân ở trong lều vải trên bãi cỏ. Thật sự rất thất lễ".

"Đâu có! Ở như này rất mát, lại không cần lo dư chấn" Đỗ Văn Hạo cười nói nhưng khi nói tới đó Đỗ Văn Hạo mới nhớ ra. Hắn thấy trận động đất này rất kỳ quái. Chỉ xảy ra động đất một lần rồi thôi, ngay cả một dư chấn nhỏ sau này, thật sự rất hiếm thấy. Hắn lại hỏi: "Lần tai hoạ này dân chúng có thiệt hại nghiêm trọng không?"

'Ừ. Vùng kinh thành hết sức nghiêm trọng. Rất nhiều nhà cửa ở kinh thành bị sụp đổ, dân chúng chết một vạn người. Đường giao thông chủ yếu ở kinh thành gần như sụp hết. Có thể nói bây giờ kinh thành trở thành một toà tử thành. Cũng may ngoài kinh thành những địa phương khác không gặp tai nạn động đất, dân chúng an cư lạc nghiệp. Cũng coi là vạn hạnh trọng bất hạnh".

"Đúng vậy" Đỗ Văn Hạo gật đầu. Hắn chắp tay trước ngực, chân thành nói: "Đỗ mỗ đại diện Đại Tống gửi tới những người dân của quý quốc lời thăm hỏi chân thành, ân cần thăm hỏi những người chết trong tai nạn".

Tiểu Hoàng đế cùng Ngôi Mã chắp tay tạ ơn.

Sùng Tông đế suy nghĩ một lát rồi như đã hạ quyết tâm liền nói: "Đỗ đại nhân, hôm nay Trẫm tới đây là muốn thương lượng với đại nhân một việc".

"Bệ hạ có chuyện gì xin mời nói".

"Đỗ đại nhân, các người ở lâu trong Hoàng cung, lại ngăn cách với bên ngoài nhất định là không biết trong khoảng thời gian qua đã xảy ra chuyện gì".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đúng vậy. Trọng binh của Hoàng thượng bao vây xung quanh. Ngay cả con ruồi cũng không thể bay qua. Bọn ta sao có thể biết được tin tức bên ngoài. Ha ha ha".

"Xin đại nhân thứ lỗi vì chuyện này. Tất cả cũng do đã xảy ra một chuyện trọng đại".

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ. Một đứa trẻ con thì biết chuyện gì là trọng đại? Hắn cười hỏi: "Thật vậy sao? Đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Sùng Tông đế liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi chậm rãi nói: "Bộ lạc Nữ Chân khởi binh tiến đánh nước Liêu, thế như chẻ tre, đã đánh chiếm nhiều toà thành. Bây giờ đã tiến gần tới thành Thượng Kinh, kinh thành nước Liêu rồi".

Thân thể Đỗ Văn Hạo hơi nghiêng, suýt chút nữa hắn ngã xuống đất, động vào vết thương ở chân, đau điếng người. Đỗ Văn Hạo hít một hơi thật sâu hỏi: "Điện hạ nói cái gì? Người Nữ Chân khởi binh sao? Thủ lĩnh của chúng tên là gì?"

"Hoàn Nhan A Cốt Đả".

Đầu Đỗ Văn Hạo giống như bị trúng một côn. Hoàn Nhan A Cốt Đả sao? Vậy không phải là Kim Thái Tổ sao? Đây không phải là chuyện của bốn mươi năm sau sao? Tại sao bây giờ đã xảy ra? Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: "Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Sùng Tông đế quay đầu nhìn Ngôi Mã nói: "Khanh nói đi".

"Dạ" Ngôi Mã khom người đáp: "Ngay khi phủ Hưng Khánh của Tây Hạ chúng ta xảy ra động đất thì ngay trong ngày đó Thương Kinh của Đại Liêu cũng đồng thời xảy ra động đất. Hoàng đế Đại Liêu cùng rất nhiều đại thần, đại tướng bị nhà cửa đổ đè chết. Quân dân Đại Liêu cũng chết rất nhiều. Người Nữ Chân bộ Hoàn Nhan thừa dịp Đại Liêu lâm vào cảnh đại loạn đã khởi binh như gió cuốn, nhanh chóng quét sạch Đại Liêu tới mức quân đội bỏ trốn, dân chúng nổi lên hưởng ứng, khí thế mạnh như trở bàn tay. Quân Nữ Chân đã chiếm Trầm Châu, trọng trấn Đông Kinh. Quân tiên phong của Nữ Chân đang uy hiếp kinh thành Thượng Kinh".

Đỗ Văn Hạo trợn mắt há hốc mồm. Tình hình này thì Hoàn Nhan A Cốt Đả sẽ tiêu diệt Đại Liêu sau đó hắn sẽ xua quân xuôi nam đánh chiếm Đại Tống. Theo lý mà nói Hoàn Nhan A Cốt Đả sinh cùng thời với Tống Huy Tông. Lúc này Tống Huy Tông mới là một đứa trẻ thì đương nhiên hắn phải còn bé.

Đỗ Văn Hạo không hiểu điều gì đã khiến bánh xe lịch sử không quay như bình thường? Hắn lẩm bẩm: "Đã xảy ra chuyện gì? Tại sao lại như vậy?"

"Đúng vậy" Sùng Tông cất giọng trẻ thơ của mình, thở dài nói: "Thật sự là trời có gió thổi mây tan, người có hoạ phúc khôn lường".

Ngôi Mã cũng gật đầu nói: "Đúng vậy. Tây Hạ chúng ta cùng Đại Liêu có quan hệ sinh tử với nhau. Đại quân của bộ lạc Nữ Chân tới gần kinh thành Đại Liêu. Đại Liêu đã cầu viện Tây Hạ chúng ta nhưng Tây Hạ đang trong cơn đại nạn, ốc còn chưa mang nổi mình ốc nhưng vì môi hở răng lạnh, Tây Hạ chúng ta vẫn quyết định xuất binh. Vấn đề là chúng ta không thể xuất binh vì quân Nữ Chân đã đồng thời tấn công biên giới Tây Hạ".

"Thế lực của quân Đại Kim mạnh như vậy sao?" Đỗ Văn Hạo sợ hãi như nhìn thấy quỷ vậy. Hắn sợ không phải vì bản thân nước Đại Kim mà là vì lúc này không phải là lúc xuất hiện của nước Đại Kim. Thời gian xuất hiện của Đại Kim phải là ba, bốn mươi năm sau mới đúng. Bây giờ xuất hiện chính là lực lượng đến từ tương lai. Bản thân lực lượng này ẩn chứa sự khủng bố khủng khiếp.

"Đúng vậy" Ngôi Mã cùng Sùng Tông đế thấy vẻ sợ hãi trên gương mặt Đỗ Văn Hạo cùng thầm nghĩ: Nước Đại Kim dù lợi hại thì cũng không đáng phải sợ tới mức như vậy.

Ngôi Mã ho nhẹ một tiếng nói: "Đỗ đại nhân? Đỗ đại nhân?"

Khi Ngôi Mã gọi hai lần liền Đỗ Văn Hạo mới chợt bừng tỉnh, hắn "ừ" khẽ một tiếng.

Ngôi Mã nhìn Sùng Tông đế nói: "Hoàng thượng của chúng ta có một đề nghị, không biết Đỗ đại nhân có hứng thú không?"

'Có chuyện gì xin mời nói" Đỗ Văn Hạo có phần sợ hãi. Trong đầu hắn vẫn phảng phất ý nghĩ Hoàn Nhan A Cốt Đả cũng là người xuyên việt tới.

Ngôi Mã nói: "Hoàng thượng chúng ta muốn mời Đại Tống phái binh tương trợ, tập kích người Nữ Chân từ phía bắc. Hai nhà chúng ta liên hợp với Đại Liêu cùng đối phó với quân Nữ Chân, vinh nhục cùng hưởng, không biết ý đại nhân thế nào? Còn nữa tiên đế cùng đại nhân đã thoả thuận cho thuê Cam Châu và Lương Châu cùng nhượng lại trường nuôi ngựa Sơn Mã. Mấy ngày trước đây do bận việc trùng tu nên không quan tâm tới việc đó. Thật sự rất xin lỗi. Việc tiên đế đã định sẽ không thay đổi".

Vừa nghe Đỗ Văn Hạo bắt đầu tỉnh táo lại, lập tức hắn hiểu ra mọi chuyện. Lúc trước chính hắn và Huệ Tông đế ký kết hiệp ước cắt nhường trường nuôi ngựa Sơn Mã nhưng đối phương cứ trì hoãn không chịu thi hành nhưng bây giờ lại rất sảng khoái đồng ý. Mục đích của Tây Hạ rất rõ ràng. Trước tiên giải quyết vấn đề ngưng chiến với Đại Tống để tránh lưỡng bề thọ địch. Với lực lượng của Tây Hạ, chỉ đánh với một đối thủ đã cố hết sức chứ đừng nói tới chuyện đánh thắng cả hai cuộc chiến này. Hơn nữa Đại Tống còn khá yên tĩnh. Một khi liên kết đồng minh, Đại Tống có nghĩa vụ xuất binh trợ giúp Tây Hạ giáp công Nữ Chân.

Nếu nước Đại Kim xuất hiện sớm ba mươi năm, làm thay đổi bánh xe lịch sử. Lực lượng của chúng không kém Đại Tống, tuyệt đối không thể khinh thường. Có thể liên kết với Tây Hạ cũng phù hợp với lợi ích của Đại Tống. Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Điều này nkhông thành vấn đề. Ta tin tưởng Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng nhất định sẽ đồng ý. Ta có thể thay mặt họ đồng ý vấn đề này".

"Vậy tốt quá" Tiểu Hoàng đế vui mừng vỗ vỗ tay nói: "Hai nhà chúng ta liên minh cùng với tàn quân của Đại Liêu, muốn đánh thắng quân Nữ Chân dễ như trở bàn tay".

"Đúng vậy" Đỗ Văn Hạo cười nói. Hắn lại nhớ tới chính mình đã giết chết mẫu hậu và cữu cữu của tiểu Hoàng đế. Chuyện kết đồng minh nhất định sẽ giải khai việc này. Mấy lần trước tiểu Hoàng đế tới thăm dù không nói tới chuyện này, sắc mặt vẫn tự nhiên nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn cảm thấy bất an. Mấy lần đã định nói nhưng không sao nói được. Bây giờ hai bên kết đồng minh. Hắn muốn nhân cơ hội này xoá bỏ việc đó sau này hai bên gặp mặt

 Chương 464: Đầu cái thang

Đỗ Văn Hạo nói: "Hoàng thượng, ngày đó Đỗ mỗ làm tổn hại lệnh mẫu và lệnh quốc cữu. Dù chuyện đã xảy ra nhưng trong lòng vẫn còn cảm thấy áy náy".

Trên mặt của tiểu Hoàng đế hiện lên sự thê lương, hắn lắc đầu, cắt ngang lời Đỗ Văn Hạo: "Đỗ đại nhân không cần nói nhiều. Chuyện lúc đó rất rõ ràng, đúng như lời đại nhân nói. Chuyện tất phải xảy ra như vậy, không trách đại nhân được vì vậy chuyện này không cần phải nhắc lại nữa. Hai nhà chúng ta phải lấy đại cục làm trọng, cùng đồng tâm đối phó với người Nữ Chân".

Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động. Đứa bé này mới sáu tuổi mà đã khoan hồng độ lượng, trọng đại nghĩa, thành tựu tương lai là không thể đoán trước, nhất định sẽ là một địch thủ đáng gờm của Đại Tống.

Đỗ Văn Hạo nghĩ không sai. Trong lịch sử Sùng Tông đế Tây Hạ là một trong những Hoàng đế có thành tựu hàng đầu. Trong vòng mười năm đầu tiên khi Lương Thái hậu cùng Lương Ất Thông nắm quyền triều chính đã liên minh với Liêu đánh Tống. Dù binh ít nhưng liên tục động binh gây chiến với Đại Tống, có khi một năm tới sáu, bảy cuộc chiến tranh.

Sau khi Lương Thái hậu cùng Lương Ất Thông chết, Sùng Tông đế chính thức nắm quyền triều chính, đã làm Tây Hạ thịnh vượng hơn trước nhiều, được sử sách gọi là "Kiền Thuận thịnh thế". Khi nước Đại Kim quật khởi, sau khi diệt Đại Liêu đã đưa quân xuôi nam, Sùng Tông đế đã nhân dịp Đại Tống không còn sức để chú ý phía tây cũng đã xuất binh giáp công Đại Tống, cùng Đại Kim chia cắt Đại Tống, chiếm mấy ngàn dặm đất đai của Đại Tống.

Nhưng Đỗ Văn Hạo không biết rằng hàng động này của Sùng Tông đế cũng chính thức làm thay đổi lịch sử.

Tiểu Hoàng đế Sùng Tông nói: "Đỗ đại nhân cùng phụ hoàng đã thương nghị cắt trường nuôi ngựa Sơn Mã cùng cho thuê Cam Châu và Lương Châu nhưng lại không thương nghị chi tiết. Giới tuyến cắt đất cùng với phạm vi cho thuê, diện tích, đại nhân hãy thương nghị rõ ràng. Hai bên cần viết trong hiệp định, cũng cần phải có bản đồ rõ ràng".

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Đúng. Bệ hạ suy nghĩ rất chu đáo".

Tiểu Hoàng đế nói: "Căn cứ vào di chiếu của phụ hoàng, Trẫm đã định ra một đường phân chia cùng phần đất cho thuê. Xin Đỗ đại nhân hãy xem qua" Nói xong Sùng Tông đế liếc mắt nhìn lão già lưng gù, Thượng thư bộ Hộ.

Lão già lưng gù vội vàng lấy từ trong người ra một ống quyển màu vàng, cung kính đưa cho tiểu Hoàng đế.

Tiểu Hoàng đế nhận lấy, hắn liếc nhìn Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết, không mở ống quyển ra. Ngôi Mã ho khan một tiếng nói: "Hoàng thượng, Thượng thư bộ Hộ đại nhân và Đỗ đại nhân thương nghị chuyện cơ mật. Nhị vị phu nhân có thể tạm lánh ra ngoài không? Lão hủ cùng vú nuôi cũng ra ngoài".

Lâm Thanh Đại nhìn lão Thượng thư lưng còng như con khỉ ốm, không phát hiện ra điều gì bất thường liền đứng dậy ra khỏi trướng. Vương Nhuận Tuyết cũng vội vàng đứng dậy theo Lâm Thanh Đại ra ngoài. Ngôi Mã và vú nuôi cũng đi ra bên ngoài lều.

Lúc này tiểu Hoàng đế mới đặt quyển sách lên đùi Đỗ Văn Hạo để tay trái Đỗ Văn Hạo cầm lấy một đầu ống quyển. Tay trái của tiểu Hoàng đế cầm đầu bên kia, chậm rãi mở ra.

Bản đồ dần dần hiện ra.

Đồ cùng chuỷ kiến! (ý nói chân tướng sự việc đến cuối cùng rồi cũng bị bại lộ)

Không hiểu sao trong đầu Đỗ Văn Hạo đột nhiên hiện lên câu thành ngữ này.

Quả thật là xuất bản đồ thấy chuỷ thủ nhưng lần này chuỷ thủ không dấu trong ống trong bản đồ mà là dấu bên dưới bản đồ.

Bất ngờ tiểu Hoàng đế rũ tung bản đồ ra che mắt Đỗ Văn Hạo. Cùng lúc đó không biết từ khi nào bàn tay phải để bên dưới bản đồ đã xuất hiện một thanh chuỷ thủ loé hàn quang. Một tiếng xoạt vang lên, thanh chuỷ thủ đâm trúng bụng Đỗ Văn Hạo.

Thanh chuỷ thủ đâm xuyên qua áo nhưng chỉ tiến vào hơn một tấc rồi dừng lại. Đương nhiên là không thể đâm vào thân thể Đỗ Văn Hạo.

Tiểu Hoàng đế không nghe thấy âm thanh va chạm với áo giáp kim loại. Rõ ràng Đỗ Văn Hạo không mặc áo giáp nhưng tiểu Hoàng đế lại không biết vì sao đâm không vào người Đỗ Văn Hạo.

Trong lúc tiểu Hoàng đế còn đang ngẩn người, tay trái của Đỗ Văn Hạo đã nhanh như cắt đón đỡ. Lưỡi chuỷ thủ sắc bén lướt qua tay hắn, tạo thành một rãnh máu rất dài.

Cùng lúc với tiểu Hoàng đế ra tay động thủ, đôi mắt mờ của lão lưng gù đột nhiên loé tinh quang. Một trảo của lão nhanh như chớp giống như vuốt chim chụp vào cổ Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo đã học võ công với Lâm Thanh Đại từ lâu rồi nên đương nhiên một trảo này không thể làm khó hắn. Hắn khẽ vung tay đón đỡ, một trảo đó xượt qua cổ hắn.

Lão già lưng gù ồ lên một tiếng. Đương nhiên lão bất ngờ với đòn chống đỡ của Đỗ Văn Hạo. Chiêu đó của Đỗ Văn Hạo tuy lực yếu ớt nhưng vô cùng tinh diệu đã hoá giải được một trảo tinh diệu của lão. Lão lưng gù càng không chần chừ, tay trái lão vòng lại hướng vào cổ Đỗ Văn Hạo. Tay phải lão cũng đồng thời đánh ra như tia chớp chụp vào cổ Đỗ Văn Hạo.

Thanh chuỷ thủ của tiểu Hoàng đế cũng đâm vào phần đùi không thể cử động của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo chỉ có thể lựa chọn đón đỡ chiêu đánh vào cổ họng này mà thôi.

Đột nhiên ngay trong lúc đó giữa trán của lão già lưng còn tách ra, xuất hiện một mũi kiếm âm trầm. Một trảo của lão đánh vào cổ họng Đỗ Văn Hạo đã bị Đỗ Văn Hạo đẩy ra. Lão già muốn tiếp tục tấn công nhưng đã mất hết khí lực. Trước mắt lão tối sầm, cả người lão chìm vào bóng tối mênh mông.

Gần như cùng lúc đó trên đầu của tiểu hoàng đế cũng xuất hiện một chiếc vòng tay.

Gần một nửa chiếc vòng này đã đâm sâu vào đầu tiểu Hoàng đế.

Nhưng tiểu Hoàng đế vẫn chưa chết ngay lập tức. Hai mắt hắn mở trừng trừng, nhìn chằm chằm vào Đỗ Văn Hạo, giọng nói hung tợn, đứt quãng của hắn vang lên mấy từ: "Giết mẹ, mối thù không đội trời chung. Chết đi" Nói xong đầu hắn nghẻo sang một bên, tắt thở.

Tiếng gió vang lên, Lâm Thanh Đại bước tới bên cạnh Đỗ Văn Hạo. Nàng rút thanh đoản kiếm ở sau gáy của lão già lưng gù ra.

Vòng tay đánh ra lấy tính mạng của tiểu Hoàng đế cũng là của Lâm Thanh Đại. Ngay sau đó Vương Nhuận Tuyết cũng phi thân vào tới. Một cánh tay của nàng đầm đìa máu tươi.

Thì ra cùng lúc với việc Đỗ Văn Hạo gặp nạn, Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết cũng gặp nạn.

Khi nhị nữ sóng vai nhau bước ra ngoài lều, đột nhiên Lâm Thanh Đại nhìn thấy trưởng công chúa Ngọc Lan đứng ở cách đó không xa. Ánh mắt công chúa nhìn nàng với vẻ nghiêm trọng, tiếp đó ánh mắt công chúa chuyển tới bức tường Hoàng cung ở phía xa xa.

Lâm Thanh Đại thấy kỳ quái, theo bản năng ánh mắt nàng cũng nhìn về phía bức tường Hoàng cung. Nàng hốt hoảng "ôi" lên một tiếng.

Cùng lúc đó Ngôi Mã và vú nuôi đi theo sau hai người Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết liếc mắt nhìn nhau rồi cả hai lặng lẽ rút từ trong người ra một thanh chuỷ thuỷ, đâm vào sau lưng nhị nữ.

Sau lưng Lâm Thanh Đại như có mắt. Thắt lưng nàng khẽ uốn éo, thanh chuỷ thủ lướt qua áo nàng. Lâm Thanh Đại tiện tay đánh ra một chưởng. Cổ của vú nuôi kêu rănh rắc, cùng với tiếng kêu là xương cổ gãy vụn, vú nuôi ngã gục xuống đất nằm như một đám bùn nhão.

Đồng thời trong lúc đó Lâm Thanh Đại quay người đẩy người Vương Nhuận Tuyết. Một cú đẩy này đã cứu mạng Vương Nhuận Tuyết, khiến cho lưng của Vương Nhuận Tuyết tránh được một đòn hiểm của Ngôi Mã, chỉ rạch một vết rách ở cánh tay của nàng.

Ngôi Mã rút dao về rồi lại đâm tới nhưng võ công của Vương Nhuận Tuyết cao hơn Ngôi Mã rất nhiều. Nàng đã tránh được cú đánh lén. Giờ đây ông ta sao có thể gây khó khăn cho nàng. Đúng lúc đó nàng lại nghe thấy tiếng kêu kinh hãi của Đỗ Văn Hạo nên ra tay tuyệt đối không dung tình. Một quyền của nàng đánh thẳng vào ngực Ngôi Mã.

Ngôi Mã kêu "hự" một tiếng, nằm sõng soài trên mặt đất. Tim của ông ta đã bị một quỳên của Vương Nhuận Tuyết đánh nát.

Vương Nhuận Tuyết không thèm liếc mắt nhìn Ngôi Mã, nàng phi thân ngay vào trong lều.

Một chưởng của Lâm Thanh Đại đánh chết vú nuôi. Tay kia của nàng đã nhanh nhẹn rút đoản kiếm ra nhưng hai mắt của nàng lại nhìn về Đỗ Văn Hạo đang ở trong lều. Nàng nhìn thấy Đỗ Văn Hạo gặp nạn, tức thì lướt tới như đại bàng tung cánh. Nàng ở cách Đỗ Văn Hạo khá xa, không kịp cứu viện, đoản kiếm cũng không đánh tới nên trong lúc cấp bách, thanh đoản kiếm bay vụt khỏi tay nàng hướng tới đầu lão già lưng gù. Cùng với một chiêu đó, tay trái của nàng cũng vung lên. Một chiếc vòng ngọc ở cổ tay nàng cũng bắn ra nhằm vào gáy của tiểu Hoàng đế. Thế nhưng tiểu Hoàng đế này cực kỳ ngoan cường. Dù phải chịu một đòn trí mạng nhưng hắn vẫn còn có thể thốt ra mấy tiếng làm Đỗ Văn Hạo sởn cả gai ốc.

Nói thì chậm nhưng sự việc xảy ra rất nhanh. Gần như sự việc vừa mới bắt đầu lại đã nhanh chóng kết thúc. Mấy người Đỗ Văn Hạo không thể ngờ một tiểu Hoàng đế bình tĩnh suốt một tháng trời là để sắp đặt một vụ ám sát. Bọn họ càng không thể tưởng tượng một lão già Thượng thư bộ Hộ lại là một cao thủ võ công, càng không thể ngờ võ công của Ngôi mã và vú nuôi không kém cỏi chút nào.

Nếu Đỗ Văn Hạo không mặc nhuyễn giáp, lại học đánh cận chiến với Lâm Thanh Đại nên mới miễn cướng chống đỡ được một, hai chiêu. Nếu như Lâm Thanh Đại không cảnh giác, kịp thời cứu viện. Nếu không phải mấy người tiểu Hoàng đế muốn bắt Đỗ Văn Hạo làm con tin nên lão già lưng gù mới không dùng sát chiêu lấy mạng thì chỉ e người mất mạng là ba người Đỗ Văn Hạo.

Ba người thầm kêu may mắn trong lòng. Lâm Thanh Đại nhìn bốn thi thể, căm hận nói: "Ám toán. Hành động thật hèn hạ".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Hắn chỉ là một đứa bé con. Chính mắt mình nhìn thấy ta giết mẫu hậu, cữu cữu của mình. Trong lòng đương nhiên chỉ muốn báo thù".

Giờ phút này Vương Nhuận Tuyết mới toát mồ hôi lạnh. Nàng thầm nghĩ nếu Lâm Thanh Đại không đẩy nàng, nhất định nàng không thể tránh khỏi một dao đánh lén đó. Nàng nói vẻ sợ hãi: "Nguy hiểm thật. Thanh Đại tỷ, sao tỷ lại biết chúng đánh lén từ phía sau?"

Lâm Thanh Đại nói: "Là trưởng công chúa Ngọc Lan. Công chúa đã cứu chúng ta. Công chúa đã ám chỉ cho chúng ta. Khi đó ta nhìn thấy trên tường Hoàng cung có rất nhiều điểm đen, nhìn kỹ thì là thang bắc lên đầu tường vì vậy ta lập tức cảnh giác, cảm nhận được hàn khí của lưỡi dao đâm sau lưng".

Nói tới đây Lâm Thanh Đại dừng lại. Đột nhiên nàng nghĩ ra điều gì đó. Nàng liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo và Vương Nhuận Tuyết. Hai người cũng đồng thời nhận ra vấn đề, đồng thanh thốt lên: "Đầu thang?"

Ngay lúc đó bên ngoài lều vang lên một tiếng phịch giòn tan. Một cây pháo bông bay lên không trung nổ tung. Đó chính là tín hiệu của thái giám đi theo tiểu Hoàng đế phát ra.

Lập tức bốn phía Hoàng cung vang lên tiếng reo hò. Rất nhiều binh lính Tây Hạ bò lên thang leo lên tường Hoàng cung.

Nhưng ngay lúc đó một âm thanh còn to hơn nữa vang lên. Âm thanh ầm ầm long trời lở đất này phát lên từ trong lòng đất. Chỉ trong nháy mắt sau khi Lâm Thanh Đại giết Sùng Tông đế, âm thanh này đã xuất hiện nhưng khi đó âm thanh đó còn khá nhỏ, ba người không để ý tới. Cuối cùng âm thanh đó càng dữ dội, hoàn toàn áp đảo tiếng gào thét của quân Tây Hạ.

Hơn nữa âm thanh lúc này càng lúc càng lớn. Mặt đất bắt đầu rung lên, càng lúc càng mạnh, cuối cùng thì nghiêng ngả.

Lại xảy ra động đất!

Vương Nhuận Tuyết đứng không vững. Nàng giơ tay nắm lấy đầu giường.

Lâm Thanh Đại cũng muốn vươn tay nắm lấy đầu gường nhưng ngay lúc đó một tiếng răng rắc vang lên. Đất dưới chân nàng nứt ra thành một khe hở rộng hơn một thước.

Chân Lâm Thanh Đại không còn đất chống đỡ, nàng rơi xuống vực sâu đen ngòm.

 Chương 465: Thay mận đổi đào

Ngay khi thân thể của Lâm Thanh Đại bắt đầu rơi xuống hố sâu. Đỗ Văn Hạo nhìn thấy Lâm Thanh Đại sắp rơi xuống hố sâu nên không để ý gì tới vết thương ở chân, hắn vọt người tới ôm lấy ống tay áo của nàng.

Xoạt một tiếng, ống tay áo rách toang.

Thế nhưng chính nhờ sự lôi kéo của Đỗ Văn Hạo. Lâm Thanh Đại đã mượn lực vọt người lên, nhảy khỏi cái khe sâu.

Ngay khi nàng vừa mới vọt lên khỏi chiếc khe, chiếc khe ầm ầm khép lại. Lâm Thanh Đại sợ hãi tái nhợt mặt. Nếu chỉ chậm một chút thôi, nàng đã bị kẹp chết trong cái khe đó.

Âm thanh long trời lở đất vang lên không ngừng xung quanh. Mặt đất bốn xung quanh mấy người nứt ra từng mảng lớn. Mặt đất rộng lớn trông giống như xác một con rùa lớn.

"Mau lên giường" Đỗ Văn Hạo hét to. Đỗ Văn Hạo nằm trên chiếc giường lớn, mặt đất chỗ chiếc giường vẫn chưa nứt ra. Lập tức nhị nữ tỉnh ngộ, cả hai vội vàng nhảy lên giường, ôm lấy thành giường.

Ken két, ầm ầm.

Tiếng nổ long trời lở đất không ngừng vang lên. Cả mặt đất giống như một thùng nước sôi. Tất cả những vật trên mặt đất hoặc là bắn tung lên, hoặc là rơi xuống khe.

Quân đội Tây Hạ đã ngừng đánh vào Hoàng cung. Chúng cùng với những thành viên của đội đặc chiến đang chuẩn bị nghênh đón, các phi tần trong Hoàng cung, thái giám, cung nữ lắc lư, nghiêng ngả, bắn tung lên như những hạt thóc trên sàng. Rất nhiều người bị hất tung lên khỏi mặt đất rồi rơi tõm xuống những khe sâu. Những tiếng kêu la thảm thiết liên tiếp vang lên. Nhưng những tiếng kêu thảm thiết đó còn nhỏ hơn rất nhiều so với tiếng sụp đổ, nứt ra của đất nên rất khó nghe thấy.

Chiếc lều vải sụp xuống, bao phủ xung quanh mấy người. Bốn phía xing quanh đen ngòm. Khắp đất trởi chỉ vang lên những âm thanh ầm ầm như dời sông lấp biển.

Hai tay Đỗ Văn Hạo ôm Vương Nhuận Tuyết và Lâm Thanh Đại. Chiếc giường lớn của bọn họ trông giống như một chiếc thuyền con mỏng manh trong cơn sóng to gió lớn, lại như chiếc là quay cuồng trong cơn cuồng phong. Khi ở trong biến động kinh thiên động địa này, bọn họ mới thực sự cảm nhận được tính mạng của con người nhỏ bé, yếu ớt thế nào.

Không biết trải qua bao lâu, cơn cuồng phong khủng khiếp mới dừng lại. Lâm Thanh Đại cố sức hất vải lều trên đầu mấy người xuống. Nàng chỉ thấy trên đầu mình vốn là một khoảng không trống rỗng, ngàn dặm nhưng trong giây phút này mây đen mù mịt, dầy đặc giống như muốn đè xuống đỉnh đầu mấy người.

Ánh mắt nhìn ra bốn xung quanh thì thấy trên mặt đất đầy thi thể. Những kiến trúc vốn không bị sụp trước đó, đã được tu bổ bây giờ gần như sập hoàn toàn. Tiếng kêu la không ngừng vang lên bên tai. Trong đó đa phần là của quân Tây Hạ nhưng trong số đó cũng có thành viên đội đặc chiến của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhớ tới người đã cứu mấy người hắn, trưởng công chúa Ngọc Lan nhưng xung quanh không còn bóng dáng của nàng. Hắn khàn khàn gào lên: "Trưởng công chúa! Trưởng công chúa Ngọc Lan!"

Một tiếng "rầm" vang lên. Một bóng người từ trên cây đại thụ cách đó không xa nhảy xuống. Dáng vẻ xinh đẹp yêu kiều, sắc mặt u buồn đứng yên tại chỗ nhìn mấy người Đỗ Văn Hạo. Đó là trưởng công chúa Ngọc Lan.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Trưởng công chúa! Công chúa vẫn còn sống! Tốt quá. Mau tới đây. Trèo lên giường đi" nhưng khi nói vậy Đỗ Văn Hạo lại sực nghĩ không tiện lắm nên thòng thêm một câu: "Ở trên giường an toàn hơn. Mau lên giường đi!"

Chỉ cần một câu đầu tiên là đủ nên khi bồi thêm câu nữa thì chỉ là vẽ rắn thêm chân.

Trưởng công chúa Ngọc Lan vượt qua mấy khe nứt đi tới bên giường của ba người Đỗ Văn Hạo. Nàng khẽ vuốt mấy lọn tóc lộn xộn bên thái dương. Gương mặt trắng nõn ẩn chứa sự u buồn nhưng hoàn toàn không có sự sợ hãi, giống như trên thế giới này không có gì có thể khiến nàng xúc động. Đỗ Văn Hạo ôm quyền nói: "Công chúa thật thông minh, có thể trèo lên cây đại thụ tránh được trận động đất này. Cám ơn công chúa lúc trước đã nhắc nhở Thanh Đại, cứu tính mạng bọn ta. Cám ơn!"

Hàng mi dài của trưởng công chúa Ngọc Lan rủ xuống. Nàng khom người thi lễ nhưng không nói câu nào. Điều này làm cho Đỗ Văn Hạo không khỏi thầm thắc mắc. Từ ban đầu tới bây giờ hắn vẫn chưa nghe thấy trưởng công chúa Ngọc Lan nói câu nào. Có phải nàng là người câm điếc không?

Lâm Thanh Đại xé vạt sao, băng bó vết thương cho Đỗ Văn Hạo và Vương Nhuận Tuyết.

Lúc này mấy người Lý Phố và Hứa Văn Cường mới chạy tới. Hai người này võ công cao cường, tránh được thảm hoạ sụt đất, cả hai hấp tấp hỏi: "Quốc Công gia, ngài có sao không?"

"Ta không việc gì" Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua bốn phía xung quanh nói: "Tiểu Hoàng đế Tây Hạ muốn hành thích ta, còn có cả vú nuôi của tiểu Hoàng đế, Ngôi Mã và một người nữa. Ta và nhị phu nhân bị thương nhưng vết thương không nặng lắm".

Hai người Lý Phố, Hứa Văn Cường kinh hãi hỏi: "Vậy mấy người đó đâu?"

"Đã chết. Đã bị giết rồi".

Nói tới đây, đột nhiên Đỗ Văn Hạo nhớ ra tiểu Hoàng đế này là cháu ruột của trưởng công chúa Ngọc Lan. Trưởng công chúa Ngọc Lan cứu ba người hắn nhưng chính hắn lại giết cháu ruột của nàng nên áy náy, chắp tay nói: "Trưởng công chúa, tiểu Hoàng đế, cháu của công chúa muốn giết ta. Ta chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Ta rất xin lỗi".

Trưởng công chúa Ngọc Lan quay mặt nhìn binh sĩ Tây Hạ ở phía xa bắt đầu tấn công, nhàn nhạt nói: "Ta không phải là trưởng công chúa. Ta chỉ là một cung nữ".

"Hả? Là ly miêu tráo thái tử sao?" Đỗ Văn Hạo kinh hãi hỏi: "Tên Lương Ất Thông này đúng là một thằng khốn. Hắn dám dùng cung nữ lừa gạt chúng ta là trưởng công chúa. Hắn...hắn chết đáng đời lắm. Trưởng công chúa, à không, cô nương. Không phải ta coi thường cô nương. Ta chỉ tức giận tên Lương Ất Thông đó dám gạt chúng ta. Ta tuyệt đối không có ý xúc phạm cô nương".

Trưởng công chúa Ngọc Lan khẽ lắc đầu nhưng không nói gì nữa.

Nhưng khi nghĩ kỹ thì cũng chẳng có gì khó hiểu. Khi xưa Vương Chiêu Quân cống Hồ cũng vốn là do Hoàng đế Đại Hán không muốn gả công chúa nên mới tìm trong cung một người, ban thưởng là "công chúa" thay công chúa cống Hồ. Vương Chiêu Quân đồng ý, dùng thân phận công chúa lấy Thiền Vu.

Bây giờ Hoàng đế Tây Hạ dùng cung nữ giả làm công chúa thì cũng không có gì ngạc nhiên.

Lúc này bốn phía xung quanh lại vang lên tiếng reo hò. Lập tức Đỗ Văn Hạo sực nhớ tới lúc trước đại quân Tây Hạ mai phục bên ngoài Hoàng cung. Sau khi nhận được tín hiệu đã phát động tấn công nhưng gặp phải trận động đất. Nhưng bây giờ trận động đất đã kết thúc, chúng sẽ lại tiếp tục xông vào truy bắt. Bây giờ nhân dịp bầu trời tối đen phải rút ngay ra ngoài phủ Hưng Khánh. Đỗ Văn Hạo vội vàng sai Lý Phố đi triệu tập các thành viên đội đặc chiến.

Vương Nhuận Tuyết dìu Đỗ Văn Hạo đứng dậy. Vương Nhuận Tuyết thấy Lâm Thanh Đại vẫn đang đứng ngây người thì ngạc nhiên hỏi: "Nàng làm sao vậy? Sao lại ngây người như thế?"

"Phu nhân không cảm thấy có gì kỳ quái sao?" Lâm Thanh Đại quay đầu nói: "Lần trước chúng ta giết chết Lương Hoàng hậu cùng Lương Ất Thông, lập tức xảy ra động đất. Bây giờ ngay sau khi chúng ta giết chết mấy người tiểu Hoàng đế Tây Hạ thì cũng lại sinh ra động đất. Lần này còn to hơn lần trước. Hơn nữa lần trước Văn Hạo giết chết Lương Hoàng hậu cùng Lương Ất Thông thì cũng suýt chết. Lần này ta giết Sùng Tông tiểu Hoàng đế thì cũng suýt chút nữa rơi xuống khe sâu. Chẳng lẽ điều này là trùng hợp sao?"

"Ý của tỷ là ông trời nổi giận muốn trừng phạt chúng ta sao?"

"Không phải là trừng phạt chúng ta. Nếu không chúng ta đã không còn sống tới bây giờ. Ta chỉ muốn nói chuyện này rất kỳ quái".

Nghe xong mấy lời này, Đỗ Văn Hạo thoáng rùng mình. Đúng vậy, hai sự kiện này quả thực rất tình cờ, hắn nói: "Còn có một việc cũng rất trùng lặp mà nàng chưa nói. Đó chính là Đại Liêu. Đồng thời với lần chúng ta giết chết Lương Hoàng hậu và Lương Ất Thông, phủ Hưng Khánh xảy ra động đất, ở Thượng Kinh của Đại Liêu cách đây ngàn dặm cũng xảy ra động đất, người Nữ Chân thừa cơ khởi binh. Hơn nữa việc người Nữ Chân khởi binh hẳn là việc..." Đỗ Văn Hạo đang định nói là chuyện của ba mươi năm sau nhưng hắn chợt thấy không đúng lúc nên vội vàng dừng lại.

Đỗ Văn Hạo lại thoáng rùng mình khi nhớ tới điều này. Hắn nghĩ tới việc Đại Kim có thể nhân cơ hội tấn công Bắc Tống, lập tức lòng hắn như có lửa đốt, hắn chỉ hận không thể chắp cánh bay ngày về Đại Tống. Hắn vội vàng giục giã: "Thôi không nói điều này nữa. Chúng ta hãy mau quay về Đại Tống. Người Tây Hạ sẽ nhanh chóng đánh tới".

Vương Nhuận Tuyết nói: "Nhưng chân của phu quân vẫn chưa lành. Nếu cử động sẽ bị lệch xương".

"Không yếu như vậy đâu, đã hơn một tháng rồi. Lúc này có thể bước xuống đất đi lại nếu không các ngón chân sẽ cứng lại. Hãy tìm cho ta một cái gậy chống là được".

Đỗ Văn Hạo đã nói đương nhiên nhị nữ không dám nghi ngờ. Lâm Thanh Đại rút đoản kiếm, chặt một cành cây đại thụ, tước sạch sẽ làm thành gậy chống cho Đỗ Văn Hạo.

Đúng lúc đó bốn phía xung quanh âm thanh chém giết lại nổi lên. Dù âm thanh này yếu hơn nhiều so với lúc trước nhưng vẫn rất lớn. Hiển nhiên trận động đất vừa qua đã làm quân Tây Hạ thiệt hại nặng nề.

Bởi vì lúc này mây đen mù trời. Bầu trời tối đen không khác gì ban đêm. Hoàng cung Tây Hạ đã bị động đất san gần như thành bình địa nên quân Tây Hạ không thể tìm thấy vị trí của mấy người Đỗ Văn Hạo trong Hoàng cung rộng lớn như vậy vì vậy tiếng hô tìm kiếm vang lên khắp nơi.

Lý Phố và Hứa Văn Cường đã triệu tập các thành viên của đội đặc chiến tới chỗ Đỗ Văn Hạo nhưng không thấy Thái Đầu đâu, không biết hắn đã chết hay đã bỏ trốn. Trong trận động đất vừa qua, mấy chục thành viên của đội đặc chiến đã bị rơi xuống các khe nứt. Hơn nữa cộng thêm số người tử trận trong trận chiến lần trước, năm trăm thành viên của đội đặc chiến chỉ còn lại hơn hai trăm người.

Những thành viên này đều mặc trang phục của người Tây Hạ, rất nhiều thành viên còn mang thương tích trên người. Đỗ Văn Hạo vội nói: "Tất cả phân tán thành các nhóm nhỏ phá vòng vây. Sau khi ra khỏi thành năm dặm thì tập hợp lại".

Đỗ Văn Hạo chống gậy bước đi. Đột nhiên hắn nhìn thấy dáng người xinh đẹp động lòng người của trưởng công chúa Ngọc Lan vẫn đứng yên một chỗ. Y phục của nàng bồng bềnh, cuồng phong thổi mái tóc nàng rối tung, dáng vẻ vô cùng thê lương. Trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy thương xót. Nàng vốn là một cung nữ, được ban tước vị công chúa, trở thành trưởng công chúa. Trong khi hắn là sứ thần Đại Tống, liên tục giết chết tiểu Hoàng đế Sùng Tông Tây Hạ, Lương Hoàng hậu, Nhiếp Chính Vương Lương Ất Thông. Khi đại điện sụp xuống nàng còn chỉ chỗ cứu hắn. Mới rồi nàng còn cảnh báo quân Tây Hạ đột kích, lại một lần nữa cứu tính mạng hắn. Nếu có người biết được bí mật này, chỉ e nàng sẽ không thể thoát khỏi cái chết. Sao hắn có thể bỏ đi mà không quan tâm tới chuyện sống chết của nàng?

Đỗ Văn Hạo bước tới hai bước nói: "Cô nương, hay cô nương hãy đi cùng chúng ta".

Trên gương mặt u buồn của Ngọc Lan xuất hiện một nụ cười, nàng cảm kích gật đầu.

Vương Nhuận Tuyết vội vàng thân mật cầm tay nàng nói: "Vậy hay quá. Tên của cô nương là gì?"

"Mộ Dung Ngọc Lan".

"Mộ Dung? Cô nương là người Tiên Ti sao?"

"Đúng vậy".

"Ngọc Lan cô nương, cô nương hãy theo chúng ta về Đại Tống. Bây giờ cô nương dùng thân phận trưởng công chúa. Chuyện hoà hiếu kết giao giữa hai nước không thể vì chuyện này mà huỷ bỏ. Cô nương vẫn có thể kết hôn với Hoàng thượng".

Ngay khi Đỗ Văn Hạo vừa nói xong, gương mặt của Ngọc Lan lại trở nên u buồn, nàng nhạt nhẽo nói: "Chuyện này để sau hãy nói. Trước tiên chúng ta cần binh an quay về Đại Tống".

Lúc này bầu trời càng sụp xuống, thi thoảng có những tia chớp rạch mây đen bổ xuống, soi sáng mặt đất.

 Chương 466: Thiên hạ đại loạn 

Đội trưởng đội hộ vệ Hứa Văn Cường dẫn đội hộ vệ bảo vệ Đỗ Văn Hạo cùng nhị nữ.

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo nhớ tới tấm bản đồ mà khi trước tiểu Hoàng đế muốn cho hắn xem. Vì để Đỗ Văn Hạo không nghi ngờ nên tiểu Hoàng đế đã sử dụng bản đồ biên giới Tây Hạ thực sự. Đây là một tư liệu rất quan trọng nên Đỗ Văn Hạo quay đầu lại tìm.

Thi thể của tiểu Hoàng đế Sùng Tông và mấy người Ngôi Mã đã rơi xuống khe sâu. Cũng may tấm bản đồ đã mở ra tương đối nhiều nên rớt trên thành giường. Sau khi tìm được bản đồ, Đỗ Văn Hạo liền cất vào trong người.

Đỗ Văn Hạo đi cà nhắc dẫn theo tam nữ được Hứa Văn Cường và đội hộ vệ bảo vệ bắt đầu phá vòng vây ra ngoài.

Khắp nơi trên mặt đất đều là các khe sâu, phải cẩn thận né tránh. Một khi rơi xuống đó thì chỉ mất mạng.

Ngay khi tiến ra ngoài hoàng cung thì thấy bên ngoài Hoàng cung có rất nhiều binh lính Tây Hạ. Hứa Văn Cường cùng đội hộ vệ muốn nghênh chiến nhưng Đỗ Văn Hạo đã cản lại: "Không được liều mạng nếu không một khi quân địch phát hiện ra tung tích của chúng ta thì rất phiền toái. Hãy lập tức thay trang phục của quân Tây Hạ rồi đi ra ngoài".

hắp nơi trên mặt đất đều là thi thể của binh lính Tây Hạ bị chết vì động đất. Đội hộ vệ vội vàng thay đổi quần áo, Đỗ Văn Hạo cùng tam nữ cũng thay trang phục quân Tây Hạ, cầm đao kiếm sau đó hô loạn lên, tản ra xung quanh, ra vẻ tìm kiếm rồi bí mật đi ra ngoài.

Ngay lúc đó sấm chớp nổi lên ầm ầm, phá nát bầu trời. Những hạt mưa to như hạt đầu nành rơi xuống rồi sau đó mưa mỗi lúc một to, cuối cùng là mưa như trút nước.

Trận mưa này đã trở thành màn yểm hộ tốt nhất cho mấy người Đỗ Văn Hạo. Cho dù có đứng đối diện nhau cũng rất khó nhận ra đối phương. Đội hộ vệ vây xung quanh bốn người Đỗ Văn Hạo, dưới sự che trở của cơn mưa, tất cả nhanh chóng thoát khỏi Hoàng cung, lẩn vào trong đống đổ nát.

Trận động đất kinh thiên động địa này gần như san phẳng cả phủ Hưng Khánh. Khắp nơi toàn là dân chạy nạn may mắn sống sót kêu gào.

Dân chạy nạn bị thương cần cứu chữa ra cùng với thi thể của những người chết nằm ngổn ngang trên mặt đất, lẫn lộn với những đống đổ nát. Mấy người Đỗ Văn Hạo cũng muốn cứu người nhưng chỉ sợ đi cứu người thì bản thân mình không thể chạy thoát nên cũng chỉ đành kiên cường bước nhanh qua.

Tường thành cũng đã sụp xuống, trở thành một đống đất đá khổng lồ. Đám người Đỗ Văn Hạo đi qua đống đổ nát, đi qua sông đào bên ngoài thành đã bị đất đá vùi lập, cuối cùng cũng trốn thoát khỏi phủ Hưng Khánh.

Trên đường đi bọn họ gặp một toán kỵ binh Tây Hạ. Bọn họ lợi dụng trang phục quân Tây Hạ, chặn đám kỵ binh này lại sau đó đột nhiên ra tay, tiêu diệt đám kỵ binh đó, cướp lấy chiến mã rồi bỏ trốn về hướng nam.

Bởi vì Nhiếp Chính Vương Tây Hạ, tân Hoàng đế Sùng Tông đều bị chết. Tây Hạ lâm vào cảnh rắn mất đầu, lập tức hỗn loạn.

Hơn nữa bọn họ mặc quân phục của binh lính Tây Hạ nên dọc đường không bị kiểm tra ngặt nghèo.

Tấm bản đồ Đỗ Văn Hạo lấy được rõ ràng hơn rất nhiều so với bản đồ Đại Tống có được. Thậm chí trên bản đồ còn ghi rõ nơi đóng quân Tây Hạ. Trên đường đi nhóm người của Đỗ Văn Hạo vốn cẩn thận né tránh những nơi này. Nhưng điều làm người khác ngạc nhiên chính là những quân doanh đó không có quân Tây Hạ, ngay cả quân canh gác cũng không có, giống như đại quân trong quân doanh bị bốc hơi chỉ trong vòng một đêm.

Càng gần tới biên giới Đại Tống điều này càng rõ ràng.

Đỗ Văn Hạo không thể kiềm chế sự tò mò trong lòng mình. Hắn phái ra mấy tên hộ vệ, tìm bắt một binh sĩ Tây Hạ ở lại giữ quân doanh tra hỏi thì mới biết tất cả đại quân Tây Hạ trong quân doanh đều bị rút lên phía bắc chống lại quân Nữ Chân đang hung tợn tấn công. Đại bộ phận quân Tây Hạ vốn đóng ở biên giới Hạ Tống đã bị điều lên phía bắc.

Đỗ Văn Hạo cực kỳ vui mừng. Việc quân bộ tộc Nữ Chân tấn công Đại Liêu là có thật. Hơn nữa Đại Liêu đã đi tong, quân Nữ Chân bắt đầu tấn công Tây Hạ. Tây Hạ muốn liên kết đồng minh với Đại Tống để bảo toàn lực lượng đối phó với quân Nữ Chân nhưng tiểu Hoàng đế nóng vội báo thù, chỉ nghĩ tới điều trước mắt, ra tay hành thích hắn. Có lẽ tiểu Hoàng đế Sùng Tông muốn đổ cái chết của hắn vì động đất hay bị loạn dân giết chết. Đó chính là điều giải thích hợp lý nhất với Đại Tống nhưng không ngờ không thể báo thù mà còn bị giết.

Lúc này đại bộ phận quân Tây Hạ ở biên giới Tống Hạ đã được điều lên phía bắc. Đây chính là cơ hội ngàn năm một thuở. Lúc này Tây Hạ hứng chịu hai trận động đất, những nhân vật cầm quyền đều đã chết, trong nước đại loạn. Đây chính là cơ hội xuất binh trời ban vì vậy Đỗ Văn Hạo như có lửa đốt. Hắn chỉ muốn ngay lập tức quay về phủ Hoàn Châu, chuẩn bị thống lĩnh đại quân tấn công Tây Hạ.

Trên đường đi không bị cản trở nên chỉ sau một ngày đêm đã chạy về tới biên giới Đại Tống. Lúc này tất cả mọi người mới thở phào nhẹ nhõm. Tất cả cởi bỏ quân phục Tây Hạ, chuẩn bị vượt qua phòng tuyến bị phong toả.

Từ xa đã nhìn thấy chiến trại. Cứ mỗi năm trăm thước lại có một toà chiến trại. Với chiến thuật thận trọng tiến chắc về phía trước, bên trong chiến trại bố trí sàng nỏ bắn xa, Thần tý cung làm vũ khí hoả lực, lại còn có phong hoả đài báo động. Bên trong chiến trại cũng có rất nhiều lương thực và nước uống.

Đỗ Văn Hạo không dám tuỳ tiện tiên lên. Nếu cứ xông tới một cách bừa bãi, bị quân Tống ngộ thương mới là điều đáng tiếc nhất. Trước tiên Đỗ Văn Hạo cho các hộ vệ đứng bên ngoài tầm bắn của cung, nỏ, la lớn thân phận của hắn.

Thế nhưng bên trong những chiến tại đó vẫn không có phản ứng nào.

Lập tức Đỗ Văn Hạo cử hai hộ vệ giơ cao hai tay tiến về phía các chiến trại. Hai người vừa đi vừa gào to thân phận của hắn.

Từ xa Đỗ Văn Hạo thấy hai người đã tới gần chiến trại nhưng hắn vẫn không thấy bất kỳ động tĩnh nào từ phía các chiến trại. Trong lòng hắn cảm thấy rất kỳ quái sau đó hắn nhìn thấy hai người đi vào trong chiến trại.

Một lát sau hai người đi ra, vội vàng chạy về phía Đỗ Văn Hạo. Khi tới gần Đỗ Văn Hạo thấy sắc mặt ngơ ngác của hai người thì hỏi: "Có chuyện gì vậy?"

Một hộ vệ nói: "Hồi bẩm Quốc Công gia, chiến trại trống rỗng".

"Trống rỗng?" Đỗ Văn Hạo trừng mắt hỏi.

"Đúng vậy. Không có bất kỳ ai" Một hộ vệ thở hổn hển nói: "Vũ khí, trang bị cùng lương thực cũng không còn. Người không thấy đâu. Chỉ là một toà chiến trại trống rỗng. Hơn nữa bên trong rất lộn xộn".

Đỗ Văn Hạo, Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết đưa mắt nhìn nhau, ai nấy cũng cảm thấy lưng mình giá lạnh. Đỗ Văn Hạo lại ra lệnh cho mấy hộ vệ khác đi tới xem xét các chiến trại bên cạnh.

Các hộ vệ đó nhanh chóng quay lại. Kết quả đều giống nhau. Bên trong chiến trại trống rỗng, không có người, không vũ khí, không trang bị, không lương thực.

Đỗ Văn Hạo cau mày, hắn giục ngựa đi tới một chiến trại. Quả thật bên trong chiến trại trống rỗng, không có một người nào. Vương Nhuận Tuyết tái mặt hỏi: "Có phải là gặp quỷ không? Bọn họ đều bị quỷ bắt hết rồi hả?"

Đỗ Văn Hạo không nói. Hắn cẩn thận quan sát khắp chiến trại, không có vết máu. Rõ ràng không phải bị kẻ thù đánh chiếm rồi rút đi. Rất có thể là rút lui khỏi đây. Nhìn tình cảnh lộn xộn này có thể thấy khi rút lui rất vội vàng. Tại sao lại như vậy? Đỗ Văn Hạo không thể giải thích được, hắn trầm ngâm nói: "Hẳn là quân Tống chúng ta chủ động rút lui. Đi, chúng ta mau tới Hoàn Châu để xem rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì".

Sau khi mọi người nhìn thấy quang cảnh quái dị này thì không ai buồn nói chuyện, giục ngựa chạy hơn một trăm dặm thì rốt cuộc cũng tới trạm gác đầu tiên ở địa giới Hoàn Châu.

Khi mấy người tới bên ngoài thành Hoàn Châu thì đã giữa trưa nhưng khi mọi người đi tới chân thành thì cổng thành đã đóng chặt. Binh lính trên lâu thành gươm, đao sáng loáng, cảnh gác rất nghiêm ngặt.

Đỗ Văn Hạo càng kinh ngạc. Mặc dù Hoàn Châu gần biên giới nhưng vì biên giới có rất nhiều quân Tống, có chiến trại cùng quân doanh phong toả tầng tầng lớp lớp, quân Tây Hạ không thể vượt qua vì vậy ban ngày đáng lẽ phải mở cửa để dân chúng có thể tự do ra vào. B mới là giữa trưa, tại sao lại đóng cửa? Hơn nữa trên lâu thành có rất nhiều quân lính, lập thế trận sẵn sàng nghênh địch. Hình như là chuẩn bị đánh lại kẻ thù nhưng mà suốt dọc đường đi Đỗ Văn Hạo không thấy bóng dáng quân thù vậy thì nghênh đón kẻ thù nào đây? Quả thực rất kỳ quái.

Hứa Văn Cường cùng hộ vệ tiến lên trước kêu lớn: "Mau mở cửa thành ra. Quốc Công gia Đỗ Văn Hạo đã quay về".

Cửa thành nhanh chóng được mở ra.

Hứa Văn Cường giục ngựa quay lại nói: "Quốc Công gia, chúng ta vào thành thôi".

Đỗ Văn Hạo vẫn ghìm cương ngựa, nghi ngờ nhìn cổng thành.

Cổng thành đã rộng mở nhưng không ai ra ngoài nghênh đón. Theo lý mà nói, bản thân hắn đường đường là Tể Chấp, Quốc Công gia, lại còn là tổng chỉ huy quân tây chinh Tây Hạ. Nói cách khác, tất cả binh lính ở đây đều dưới quyền hắn. Tại sao không ai ra nghênh đón hắn?

Hắn đợi một lúc mà vẫn không thấy ai ra.

Đỗ Văn Hạo nói: "Hãy bảo với binh lính trên lâu thành mau gọi Lữ Công và Khúc Trân tới đây".

"Dạ!" Hứa Văn Cường giục ngựa đi tới trước cổng thành, lớn tiếng quát: "Quốc Công gia có lệnh. Lữ Công và Khúc Trân ra khỏi thành nghênh đón".

Một lát sau trên lâu thành có một viên tướng thò đầu ra ngoài nói to: "Lữ đại nhân cùng Khúc tướng quân đang thương nghị việc quân, không rảnh rỗi. Xin Quốc Công gia hãy vào trong thành gặp mặt".

Hứa Văn Cường giận tái mặt. Dù là việc quân khẩn cấp nhưng tổng chỉ huy đã tới cũng phải ra ngoài nghênh đón. Hắn liền giục ngựa quay lại.

Đỗ Văn Hạo đã nghe thấy câu trả lời, lại nhìn thấy cổng thành trống rỗng, hắn nhíu mày nói: "Tình hình không ổn. Tất cả mọi người hãy cẩn thận một chút".

Hứa Văn Cường nói: "Để thuộc hạ mang theo hai huynh đệ vào trong thành trước".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: "Không được. Các ngươi tiếp tục gọi Lữ Công và Khúc Trân ra đón. Chúng ta lui lại phía sau một chút. Rời khỏi tầm tên bắn" Nói xong Đỗ Văn Hạo giục ngựa quay lại.

Hứa Văn Cường trả lời rồi hắn giục ngựa quay lại, định nói với viên tướng trên lâu thành.

Đúng lúc này tên trên thành đột nhiên bắn ra như mưa hướng về phía đám người Đỗ Văn Hạo. Lâm Thanh Đại kinh hãi gào lên: "Văn Hạo cẩn thận! Chạy mau" Vừa nói nàng vừa rút đoản kiếm đánh bay tên hộ Đỗ Văn Hạo.

Cũng may do Đỗ Văn Hạo đã cảnh báo nên ai cũng cẩn thận đề phòng, lập tức rút trường kiếm ra đỡ tên.

Đỗ Văn Hạo không có bản lãnh đó nên hắn cúi thấp đầu hét to: "Mau rút lui!" Hai chân hắn thúc mạnh vào bụng chiến mã phóng đi. Tất cả mọi người cũng giục ngựa chạy theo. Đột nhiên trong lúc đó từ trong cổng thành có rất nhiều kỵ binh xông ra, binh khí trong tay, hung tợn xông tới chỗ đám người Đỗ Văn Hạo.

Khi mọi người chạy ra khỏi tầm tên bắn thì thấy có mấy thành viên đội đặc chiến và chiến mã trúng tên nhưng may mắn không trúng vào chỗ hiểm. Đỗ Văn Hạo nhìn thấy kỵ binh và bộ binh trong thành xông ra ngày một nhiều, hắn lập tức ra lệnh rút lui về phía Tây Hạ.

Tất cả mọi người đều cưỡi chiến mã nên rút lui rất nhanh, mọi người nhanh chóng chạy được hơn mười dặm nhưng quân Tống ở đằng sau vẫn truy đuổi gắt gao. Khi tiến vào con đường nhỏ hẹp, quân truy đuổi phía sau phải kéo dài đội hình ra, Đỗ Văn Hạo lập tức dừng lại đón đánh. Mỗi thành viên của đội đặc chiến đều vô cùng tinh nhuệ, quân Tống căn bản không phải là đối thủ khi một chọi một trên đường nhỏ hẹp nên nhanh chóng chết, bị thương và bị bắt làm tù binh mười mấy binh lính.

Quân Tống thấy không địch lại được nên thu binh nhanh chóng rút lui.

Đỗ Văn Hạo vội ra lệnh áp giải một tên tù binh tới thẩm vấn. Đây là một tên đội của quân Tống. Đỗ Văn Hạo quát hỏi: "Ngươi có biết ta là ai không?"

Tên tù binh quỳ trên mặt đất, hai tay bị trói, liên tiếp dập đầu nói: "Dạ biết. Đại tướng quân tha mạng.

"Đã biết ta là Đại tướng quân, vì sao còn xuất quân giết ta? Rốt cuộc có chuyện gì?"

Tên tù binh nhìn thấy những ánh mắt hung tợn xung quanh thì run rẩy nói: "Đây là lệnh của Lữ đại nhân".

"Lữ Công?" Đỗ Văn Hạo kinh ngạc nói: "Tại sao ông ta muốn giết ta? Ông ta muốn tạo phản sao?"

"Đây là lệnh của Lữ đại nhân. Tiểu nhân chỉ phụng mệnh làm việc, những việc khác tiểu nhân không biết".

"Ngươi không biết sao?" Đỗ Văn Hạo quất cho hắn một roi. "Ngươi không biết mà lại điên cuồng truy đuổi như vậy sao? Không phải ngươi muốn cắ đầu Lão Tử ta về lĩnh thưởng sao?"

"Tiểu nhân đáng chết. Cầu xin đại nhân thứ tội".

"Ta hỏi ngươi: Binh lính ở chiến trại đâu rồi?"

"Tất cả đã rút vào trong thành rồi".

"Tại sao?"

"Tiểu nhân cũng không biết chỉ nhận được lệnh như vậy nên rút quân quay về còn nguyên nhân tại sao thì tiểu nhân thật sự không biết. Cầu xin Đại tướng quân tha mạng".

"Hừ! Xem ra không dụng hình ngươi sẽ không nói" Đỗ Văn Hạo nhìn ra hiệu cho Lý Phố.

Lý Phố lập tức rút chuỷ thủ ra, bước tới cầm một tai tên đô đầu: "Ngươi cái gì cũng không biết. Cái lỗ tai này để cũng vô dụng. Cắt đi là xong!" Nói xong một dao của hắn cắt luôn một bên tai của tên đô đầu. Tên đô đầu đau đớn kêu gào thảm thiết.

Sắc mặt Lý Phố vẫn tỉnh bơ. Hắn đặt chiếc tai giơ trước mặt tên đô đầu, cầm lấy bên tai còn lại nói: "Ta hỏi lại ngươi một câu: Có nói không?"

Tên đô đầu rên rỉ nói: "Tiểu nhân...".

"Nói mau!"

"Lữ đại nhân ủng hộ Tào Vương gia làm Hoàng đế. Tào Vương gia hạ lệnh truy bắt Đại tướng quân".

Đỗ Văn Hạo thầm kinh hãi: "Ủng hộ Tào Vương gia làm Hoàng đế là có ý gì?"

"Tào Vương gia xưng đế. Lộ quân Tần Phụng và lộ quân Vĩnh Hưng ủng hộ Tào Vương gia xưng đế".

"Ủng hộ Tào Vương gia xứng đế? Tào Vương gia tạo phản sao?"

"Không phải là làm phản. Tào Vương gia nói mình mới là dòng dõi chính thống nên xưng Đế'.

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: "Đương kim Hoàng thượng vẫn tại vị. Hắn xưng đế, không phải tạo phản thì là gì?"

"Hoàng thượng đã băng hà rồi. Bây giờ thiên hạ rối loạn" Vành tai của tên đô đầu máu chảy dòng dòng, hắn rên rỉ nói.

Tất cả mọi người giật mình kinh hãi. Đỗ Văn Hạo càng kinh ngạc, hắn vội hỏi: "Hoàng thượng băng hà sao? Chuyện xảy ra như thế nào?"

"Cách đây hơn một tháng ở kinh thành có động đất. Rất nhiều người chết. Nghe nói Hoàng thượng cũng bị nhà đổ xuống đè chết'.

"Động đất?" Đỗ Văn Hạo, Lâm Thanh Đại, Vương Nhuận Tuyết không ai bảo ai cùng liếc nhìn nhau. Phủ Hưng Khánh xảy ra động đất, ở kinh thành Đại Tống cũng có động đất sao? Khi hỏi ngày thì cũng là một ngày đó, hơn nữa lại còn trùng cả giờ.

Cùng một ngày hôm đó, cùng một thời gian đó ở cả Tây Hạ, Đại Liêu và Đại Tống đều xảy ra động đất. Hoàng đế của cả ba nước đều chết trong trận động đất hôm đó.

Điều này còn tính là trùng hợp sao?

Đỗ Văn Hạo vội hỏi: "Vậy còn phủ đệ của ta? Thê thiếp và đồ đệ của ta thế nào?"

"Điều này tiểu nhân thật sự không biết".

Đỗ Văn Hạo vô cùng nóng nảy, hắn bước tới trước mặt những tù binh khác, lạnh lùng nói: "Kinh thành xảy ra động đất. Có ai biết tình hình của phủ đệ Trấn Quốc Công ta không? Người nhà của ta có việc gì không? Có ai biết không?"

Đám tù binh nhìn nhau. Một tên tù binh đánh bạo nói: "Có lẽ là không có việc gì vì Tào Vương gia đã phát công văn muốn bắt Đại tướng quân ngài và người nhà của ngài. Trên công văn còn có tên của thê thiếp của Đại tướng quân".

Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Nếu đã phát công văn thì nhất định là chưa chết. Hắn vội vàng hỏi: "Công văn đó như thế nào?"

Tên tù binh đó lắc đầu nói: "Tiểu nhân không nhìn kỹ vì tiểu nhân không có ý định bắt người nhà của Đại tướng quân".

"Trong các ngươi có ai khác nhìn thấy không?" Đỗ Văn Hạo lại hỏi.

Đám tù binh cùng lắc đầu.

Tên tù binh lúc nãy lại nói: "Trong thành Hoàn Châu có dán công văn nên tiểu nhân mới nhìn thấy".

Lâm Thanh Đại nói: "Văn Hạo, đừng lo lắng nữa. Buổi tối thiếp sẽ lẻn vào trong thành lấy trộm công văn là sẽ biết'.

"Không được. Một mình nàng lẻn vào rất nguy hiểm. Nếu là công văn của bộ Hình, nhất định những nơi khác cũng có. Chúng ta hãy tới chỗ khác, nghĩ cách lấy công văn".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo thầm yên tâm khi hắn biết thê thiếp của mình vẫn còn sống, hắn alị hỏi: "Có bao nhiêu người chết trong trận động đất ở kinh thành?"

"Có rất nhiều người chết. Nhà cửa ở kinh thành gần như sụp đổ hết. Ngay cả Hoàng cung cũng sụp đổ. Bỉnh Sinh vương gia của Tây Hạ tới nghênh hôn, cả trọng thần trong triều là Tư Mã Quang, Vương An Thạch, Thái Xác và Vương Giai cũng chết".

Vương Nhuận Tuyết run rẩy hỏi: "Cha ta đã chết sao?"

Tên tù binh quay đầu lại, lập tức hắn bị vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Vương Nhuận Tuyết hút hồn, ngơ ngẩn nhìn nàng.

Vương Nhuận Tuyết vội vàng la lên: "Nói mau! Cha ta thế nào rồi?"

Tên tù binh đó vẫn ngây gười. Sau khi hắn bị Hứa Văn Cường đứng bên tàn nhẫn quất một roi mới bừng tỉnh mộng, hắn ôm vết thương hỏi: "Phụ thân của cô nương là?"

"Tả Tể tướng Vương Giai! '.

"Ôi, nghe nói đã chết".

Thân thể Vương Nhuận Tuyết nghiêng đi, suýt chút nữa nàng té ngã. Đỗ Văn Hạo vội vàng đỡ nàng. Vương Nhuận Tuyết bật khóc.

Lâm Thanh Đại vội vàng giục ngựa tới, đỡ người nàng nói: "Nhị phu nhân không nên nôn nóng. Hắn cũng chỉ nghe nói lại".

Tên tù binh đó vội vàng nói: "Đúng vậy. Bọn tiểu nhân không nhìn thấy, chỉ nghe người ta nói".

"Nghe ai nói?"

"Dù sao đây cũng chỉ là tin đồn. Nghe nói lúc đó các đại thần đang chuẩn bị làm tang lễ cho Tống Triết Tông nhưng lại xảy ra động đất nên rất nhiều đại thần đã chết".

Đỗ Văn Hạo vội hỏi: "Ngươi nói cái gì? Hai trận động đất?"

"Dạ đúng. Trận động đất đầu tiên Triết Tông Hoàng đế băng hà. Thái Hoàng Thái Hậu làm chủ, Hoàng đệ của Hoàng thượng là Triệu Cát kế vị Hoàng đế. Thế nhưng khi tân Hoàng đế mới kế vị không bao lâu, kinh thành lại xảy ra một trận động đất. Trận động đất này còn lớn hơn, chết nhiều người hơn bởi vì xuất hiện rất nhiều vết nứt trên mặt đất, rất nhiều người rơi xuống những khe đó chết. Nghe nói tân Hoàng đế chết ngay trong trận động đất. Hình như là rơi xuống khe chết".

Đỗ Văn Hạo hỏi theo bản năng: "Trận động đất sau xảy ra lúc nào?"

Khi tên tù binh trả lời về thời gian, Đỗ Văn Hạo trợn mắt há hốc mồm. Đó là cùng với hôm mấy người hắn giết chết Sùng Tông đế Tây Hạ, hơn nữa còn trùng cả thời khắc.

Vậy là lại cùng một ngày, cùng một khác ở kinh thành Đại Tống và Tây Hạ lại xảy ra động đất.

Đỗ Văn Hạo vội hỏi: "Vậy còn Thái Hoàng Thái Hậu?"

"Mất tích rồi. Có lẽ đã rơi vào một vết nứt nào đó nên đã chết vì không tìm thấy thi thể. Sống thì không thấy người, chết thì không thấy tử thi" Tên tù binh nói những điều đó thấy Đỗ Văn Hạo dường như rất quan tâm nên hắn chủ động nói tiếp: "Cửu hoàng tử, thập nhất hoàng tử, thập nhị hoàng tử, thập tam hoàng tử, thập tứ hoàng tử đều đã chết. Các phi tần cũng chết, mất tích. Thái Hoàng Thái Hậu mất tích nên thiên hạ đại loạn. Ai cũng tự lập làm vua, không phục Tào Vương gia xưng đế. Đã mấy lần xảy ra xung đột, rất nhiều người chết. Tào Vương gia khống chế lộ quân Vĩnh Hưng cùng lộ quân Đông tây và lộ quân tây bắc cùng khu vực phụ cận kinh thành. Các đại tướng nắm các lộ còn lại đều tự lập Hoàng đế. Thậm chí có lộ còn có mấy Hoàng đế".

 Chương 467: Đầu sỏ gây hoạ 

Cả đám người Đỗ Văn Hạo đều sợ ngây người khi nghe tên tù binh nói. Bọn họ vừa mới rời khỏi Đại Tống chưa tới hai tháng mà đã xảy ra nhiều chuyện như vậy. Cục diện Đại Tống đã vô cùng hỗn loạn.

Đỗ Văn Hạo không biết rằng tất cả những điều này đều do chính một tay hắn mà ra.

Trong lịch sử, sau khi Hạ Huệ Tông băng hà, Sùng Tông đế kế vị nhưng trong mười năm đầu tại vị của hắn, hắn chỉ là một ông vua bù nhìn. Tất cả việc chính trị, quân sự của Tây Hạ đều nằm trong tay mẫu hậu là Lương Thái hậu cùng cữu cữu Lương Ất Thông. Đây chính là Lương Thái hậu thứ hai. Dưới sự cầm quyền của nàng, Tây Hạ và Đại Tống đã chinh chiến trong mười năm liền. Đây chính là một phần vô cùng quan trọng, không thể tách rời của lịch sử Tống Hạ. Thế nhưng mắt xích quan trọng đó đã bị Đỗ Văn Hạo cắt đứt.

Trước đó hắn đã giết chết Lương Ất Thông cùng Lương Hoàng hậu. Lịch sử cầm quyền mười mấy năm của hai người liền bị cắt đứt. Hướng đi của lịch sử bị hỗn loạn, thiên hạ lập tức đại loạn. Bây giờ mấy người hắn lại giết chết Sùng Tông đế nên thiên hạ lại càng đại loạn.

Bởi vì sau khi Lương Thái hậu và Lương Ất Thông chết, Sùng Tông đế tự mình chấp chính, hắn đã liên thủ với Đại Kim chia cắt Bắc Tống. Thời kỳ chấp chính của Sùng Tông đế kéo dài từ những năm cuối cùng của triều Bắc Tống và những năm đầu của triều Nam Tống, hơn mười năm. Hơn mười năm chấp chính của Sùng Tông đế ảnh hưởng tới bốn nước Tống, Hạ, Kim, Liêu. Đoạn lịch sử hơn mười năm này cũng bị cắt đứt nên thiên hạ càng biến động hơn nữa.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử quan (cách nhìn nhận chung của con người đối với lịch sử xã hội) của Mark cho rằng: Lịch sử là do con người sáng tạo nên, là nguyên nhân chính thúc đẩy bánh xe lịch sử đi tới. Vua chúa cùng các nhân vật quan trọng trong lịch sử chỉ là yếu tố bổ trợ, hay nói cách khác chỉ có những trường hợp cá biệt mới gây ra ảnh hưởng nhất định. Thế nhưng đối với cá nhân một con người xuyên thời gian tới làm thay đổi vận mệnh của dân chúng, giống như làn gió xuân thổi qua bánh xe lịch sử nhưng lịch sử sẽ không bởi vì thế mà thay đổi. Thế nhưng khi con người xuyên không gian đó quyết định tính mạng của một bậc đế vương hay một nhân vật quyết định tới lịch sử thì sẽ giống như một con trâu điên đánh mạnh vào bánh xe lịch sử. Rất có thể sẽ đẩy bánh xe lịch sử đi lệch với quỹ đạo của mình, lịch sử sẽ thay đổi. Hậu quả của việc thay đổi này thì không ai biết trước bởi vì phía trước chính là một giai đoạn lịch sử mới. Bây giờ sẽ không ai biết ngày mai sẽ như thế nào.

Mấy người Đỗ Văn Hạo giết chết Lương Hoàng hậu, Lương Ất Thông, đặc biệt là Sùng Tông đế Tây Hạ khiến cho vòng quay lịch sử trong vòng mười năm trở nên hỗn loạn, không còn là lịch sử như vốn có của nó, trong khi đó lại không biết con đường phía trước của nó là gì.

Thế nhưng không ai biết đoạn lịch sử này sẽ phát triển theo hướng nào, diễn biến của nó thế nào thì chưa có ai biết.

Hiển nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không biết. Hắn chỉ biết bây giờ lịch sử rất hỗn loạn. Nước Đại Kim chưa xuất hiện đã xuất hiện. Điều này cũng đồng nghĩa với sự diệt vong của Bắc Tống sắp xảy ra. Hắn không thể rốt cuộc ai là người sẽ chấm dứt giai đoạn lịch sử hỗn loạn này, không thể định đoạt lịch sử, tương lai năm mươi năm nữa, vận mệnh của quốc gia, của con người, lịch sử không còn nắm giữ nữa. Ngay cả tính mạng của hắn cũng không thể nắm giữ được nữa.

Hiện tai Đỗ Văn Hạo đã hiểu rõ vì sao không có đại quân Tây Hạ ở biên giới Tống Hạ. Thì ra trong Đại Tống xảy ra biến loạn lớn, hỗn chiến quân phiệt, không còn rảnh tay tây chinh, trong khi đó Tây Hạ bị nước Đại Kim của người Nữ Chân tấn công mạnh mẽ ở phía đông nên phải điều đại quân đi đối phó với người Nữ Chân.

Lúc này hắn cũng hiểu rõ vì sao Sùng Tông đế quyết định xuống tay với hắn mà không cần quan tâm tới quan hệ hai nước. Nguyên nhân của điều anỳ là hắn đã bị tân Hoàng đế, Tào Vương gia bãi nhiễm chức vụ, thông báo truy bắt. Sùng Tông đế muốn bắt hắn trao cho Tào Vương gia để đổi lấy viện binh của Đại Tống đối phó với quân Nữ Chân.

Các thành viên đội đặc chiến nghe nói Đại Tống đã phát sinh biến động lớn. Các lộ binh mã đang hỗn chiến với nhau. Những binh lính này gần như đều được tuyển từ các lộ binh mã lên. Bọn họ nghĩ lên kinh thành tham gia chiến đội đặc biệt làm vinh quang tổ tông. Bây giờ thiên hạ đại loạn. Suy nghĩ của mọi người là muốn quay về nhà để xem người nhà mình có an toàn hay không nên ngay lập tức sắc mặt ai nấy đều trầm tư.

Lý Phố nói với Đỗ Văn Hạo: "Quốc Công gia. Nếu bây giờ thiên hạ đại loạn, quần hùng quật khởi. Chúng ta cũng hãy dứt khoát khởi binh. Với uy danh cùng thân phận của ngài trong quân đội, nhât định sẽ được anh hùng bốn phương ủng hộ. Chúng ta cứ ra tay hành động".

Mấy người Lý Phố không biết thân phận xuyên thời gian của Đỗ Văn Hạo. Cũng chính Đỗ Văn Hạo là nguyên nhân gây ra hai trận động đất, thiên hạ đại loạn. Hắn đã mơ hồ đoán được hình vi giết chết Sùng Tông đế Tây Hạ, Lương Hoàng hậu và Lương Ất Thông đã làm lịch sử rối loạn. Nếu hắn tiếp tục làm rối loạn thì không biết lịch sử sẽ phát triển theo hướng nào, lại cũng không biết sẽ có bao nhiêu người sẽ chết vì hắn.

Sau khi bánh xe lịch sử đã bị cắt đứt, con người đã không thể khống chế được nữa rồi. Đây là điều mà Đỗ Văn Hạo không muốn xảy ra. Hắn buồn bã lắc đầu nói: "Dù ngươi coi trọng ta nhưng ta mới nhậm chức tam nha Đô Điểm Kiểm trong khoảng thời gian rất ngắn, không có nhiều uy tín. Hơn nữa ta lại không am hiểu quân sự. Nếu ta cầm quân đánh trận, chỉ e sẽ nắm chắc thất bại. Thôi quên đi, ta chỉ là một lang trung, không phải là một tướng quân. Vị trí của ta là ở trong dược đường, không phải ở trên chiến trường. Ta chỉ có thể giỏi chữa bệnh cho bệnh nhân của ta mà không phải là cầm đao kiếm. Ngươi đã có ý đó thì hãy cứ tự mình khởi binh đi".

Ánh mắt Lý Phố hiện lên sự buồn bã. Dù sao hắn cũng là quân nhiân chuyên nghiệp, nhìn thấy thiên hạ đại loạn, trong lòng không khỏi khó chịu. Nhưng Đỗ Văn Hạo đối xử với hắn tốt như vậy, hắn không thể bỏ Đỗ Văn Hạo mà đi.

Sau khi Đỗ Văn Hạo phân công áp giải tù binh đi ra ngoài, Đỗ Văn Hạo liếc nhìn mọi người xung quanh nói: "Bây giờ triều đình biến động lớn. Ta đã bị triều đình bãi miễn chức vụ. Nói cách khác bây giờ ta không còn là quan chỉ huy của các ngươi. Bây giờ ta muốn tới kinh thành tìm kiếm người thân của mình. Mọi người cũng đều đang lo lắng cho người thân của mình nên cũng có thể đi đi. Mặt khác Lý Phố tướng quân có ý muốn khởi binh. Nếu các ngươi muốn đi theo tướng quân làm nên sự nghiệp thì cứ đi theo. Lý Phố là một tướng quân cực kỳ xuất sắc. Nhất định sẽ làm nên chuyện".

Nghe vậy những binh lính liền thì thào bàn luận.

Lý Phố nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì càng khó xử. Hứa Văn Cường nói với Lý Phố: "Lý tướng quân. Quốc Công gia đã nói thật lòng. Nếu còn cứ chần chừ thì chỉ e không hay lắm".

Đỗ Văn Hạo cũng mỉm cười nói: "Đúng vậy. Sau này ngươi tạo dựng sự nghiệp, chúng ta có lẽ sẽ tìm tới nương tựa chỗ ngươi".

Lý Phố vô cùng cảm kích, hắn ôm quyền nói: "Nếu Quốc Công gia đã coi trọng mạt tướng, mạt tướng nhất định sẽ không phụ lòng Quốc Công gia. Các huynh đệ, Quốc Công gia đã đồng ý để chúng ta đi tạo dựng sự nghiệp. Nếu ai nguyện ý theo ta thì hãy đứng ra khỏi hàng".

Những thành viện đội đặc chiến đều vô cùng thiện nghệ, đều luyện tập vỗ nghệ từ nhỏ, chỉ có thể chinh chiến nơi sa trường, lập nên sự nghiệp. Dù trong lòng đều thắc thỏm về người nhà nhưng thân nam nhi, trí tại bốn phương. Sau khi nghe Lý Phố khẳng khái nói, tất cả đều nhiệt huyết dâng trào, bước ra khỏi hàng. Chỉ còn lại một bộ phận nhỏ thành viên đội đặc chiến tỏ vẻ tiếp tục đi theo Đỗ Văn Hạo.

Lý Phố dẫn theo đại bộ phận thành viên đội đặc chiến cáo từ Đỗ Văn Hạo rồi giục ngựa lên đường.

Đỗ Văn Hạo nói với Mộ Dung Ngọc Lan: "Mộ Dung cô nương. Đại Tống chúng ta xảy ra biến động lớn. Hai Hoàng thượng băng hà. Kể cả Triết Tông đế người cô nương sẽ lấy và Bỉnh Sinh Vương gia Tây Hạ cũng đã chết. Chuyện hôn nhân này đã không còn ý nghĩa. Cô nương tới kinh thành cũng không còn ý nghĩa gì nữa, hay cô nương hãy quay về Tây Hạ đi".

Mộ Dung Ngọc Lan không nói câu nào. Nàng lập tức quay ngựa đi về hướng bắc.

Lâm Thanh Đại suy nghĩ một lát rồi phóng ngựa đuổi theo hỏi: "Mộ Dung cô nương, nhà cô nương ở đâu?"

"Ta không có nhà. Phụ mẫu ta cũng đã chết".

"Hả? Vậy cô nương đi về đâu?"

Mộ Dung Ngọc Lan ngơ ngẩn ngẩng đầu nhìn. Đất trời mênh mông nhưng không biết đi về hướng nào.

Lâm Thanh Đại nói: "Nếu cô nương không còn chỗ nào để đi, hay đi cùng với chúng tôi".

Trên gương mặt Mộ Dung Ngọc Lan thoáng hiện lên sự vui mừng, nàng liền gật đầu.

Sở dĩ Đỗ Văn Hạo đuổi khách là sợ các thê thiếp của hắn đã nhiều. Bây giờ người ta không còn nhà để về, lại từng cứu mạng ba người hắn nên không thể quá đa nghĩ: "Nếu dã như vậy, Mộ Dung cô nương, chúng ta hãy cùng về kinh thành. Thế nhưng bây giờ các lộ quân phiệt đang hỗn chiến, trên đường đi nhất định sẽ rất gian khổ".

Mộ Dung Ngọc Lan cười cười lắc đầu, tỏ vẻ mình không quan tâm tới điều đó.

"Thôi được, đi thôi".

Đỗ Văn Hạo dẫn theo những thành viên còn lại của đội đặc chiến, đội hộ vệ của hắn đi vòng qua Hoàn Châu, đi về kinh thành.

Trong một toàn thành nhỏ, bọn họ đã tìm được công văn của bộ Hình. Đỗ Văn Hạo che mặt tiến tới đọc. Hắn thấy trên công văn ngoài tên của hắn, Lâm Thanh Đại và Vương Nhuận Tuyết, ba người ở bên ngoài những người ở lại kinh thành là Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, Liên nhi đều có tên làm hắn vô cùng yên tâm. Mặt khác đồ đệ Tiền Bất Thu, Hứa Văn Cường cùng tên và hình của đội hộ vệ cũng có trong công văn.

Bởi vì trên đường đi đều nằm trong phạm vi thế lực của Tào Vương gia, lại có công văn của bộ Hình nên bọn họ phải tránh thành thị, đi theo đường nhỏ. Cũng may để chống đỡ với người Nữ Chân tấn công ở phía bắc và thảo phạt các lộ quân phiệt ở phía nam nên Tào Vương gia chủ yếu bố trí đại quân ở biên giới phía bắc và vùng phía nam. Quân đội ở nội địa rất ít. Chiến tranh loạn lạc, dù có tuần tra canh gác thì cũng không lấy đâu mà nghiêm ngặt. Hơn nữa nhóm người của Đỗ Văn Hạo chỉ đi theo đường nhỏ nên trên đường đi rất thuận lợi.

Vào một ngày, cuối cùng cũng về tới kinh thành

Bốn phía xung quanh Khai Phong đều có trọng binh trấn giữ. Cổng thành thiết lập trạm kiểm soát. Người ra vào thành rất nhiều. Người chạy nạn, ăn mày, mang theo gia đình, xe kéo hàng hoá ra vào không ngừng nên kiểm tra cũng không nghiêm ngặt lắm. Đỗ Văn Hạo phân công hai thành viên đội đặc chiến ở lại ngoài thành coi ngựa còn mọi người đi lẫn với người dân vào thành.

Ngày xưa là một kinh thành phồn hoa. Bây giờ là một cảnh đổ nát, hoang tàn.

Trước mắt toàn là cảnh tường đổ vách xiêu. Khắp trên đường đều là lưu dân, ăn mày nằm hay ngồi. Trên những khu đất trống đều có lều vải hay những ngôi nhà tạm bợ. Cả thành tràn ngập xác người chết bốc mùi. Đó là những người chết vì động đất, chưa kịp chôn cất, thối rữa, bốc mùi.

Đám người Đỗ Văn Hạo vội vàng chạy về phủ Trấn Quốc công ở sau Hoàng cung.

Từ xa đã nhìn thấy tường thành Hoàng cung cao cao. Cứ nhìn mức độ cũ mới của bức tường cũng biết là mới trùng tu lại. Ngay cả bức tường bao quanh Hoàng cung cũng sụp đổ thì đủ biết mức độ của trận động đất khủng khiếp như thế nào.

Bốn phía xung quanh Hoàng cung có rất nhiều binh lính. Nhóm người của Đỗ Văn Hạo chỉ đừng nhìn Hoàng cung từ xa rồi lại quay nhìn về phủ đệ của hắn. Ở chỗ đó chỉ còn là một đống đổ nát, không còn ngôi nhà nào nguyên vẹn. Phủ Tể tướng và Thiên Ba phủ ở hai bên cũng bị san phẳng thành bình địa.

Toà phủ đệ đổ nát được chăng dây bốn xung quanh, có binh lính canh gác. Nhóm người Đỗ Văn Hạo không dám tới gần, chỉ có thể đứng nhìn từ xa. Cả toà phủ đệ đổ nát không một bóng người, không có một chiếc lều vải nào.

Lâm Thanh Đại thì thào: "Bây giờ phải làm gì?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta cũng không biết. Bây giờ phải tìm người nào đó hỏi mấy câu. Chỗ này gần Hoàng cung quá, canh phòng rất nghiêm ngặt. Chúng ta hãy tới Ngũ Vị đường, có lẽ sẽ tìm được người".

Mấy người đang định rời khỏi đó thì có một người trẻ tuổi đi tới trước mặt Đỗ Văn Hạo, cúi đầu nói nhỏ: "Sư tổ!"

Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu nhìn. Hắn thấy gương mặt người này bôi đen ngòm, chỉ có đôi mắt sáng và hàm răng trắng. Nụ cười của hắn làm Đỗ Văn Hạo đoán ngay ra là ai. Đó chính là đồ tôn Khờ Đầu.

Khờ Đầu là đồ đệ của Tiền Bất Thu, cũng chính là đồ tôn của Đỗ Văn Hạo. Trí nhớ của hắn cực tốt. Hắn học y căn bản chỉ dựa vào học thuộc lòng nhưng lại không biết cách linh hoạt biến hoá.

Trên mặt Đỗ Văn Hạo thoáng hiện lên sự vui mừng. Với dáng vẻ và trang phục này của Khờ Đầu hiển nhiên là muốn tránh ánh mắt nhòm ngó của mọi người, không thể tuỳ tiện gặp mặt. Bốn phía xung quanh đều có quan binh.

Khờ Đầu không đứng lại, hắn chỉ đánh mắt ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo rồi chậm rãi bước đi.

Đỗ Văn Hạo cũng không lên tiếng. Hắn đợi khi Khờ Đầu đi xa rồi mới chậm rãi bước theo.

Vương Nhuận Tuyết không nghe thấy hai người nói gì với nhau nên nàng khẽ hỏi: "Phu quân, chúng ta đi đâu vậy?'

"Đi theo, đừng hỏi".

Đỗ Văn Hạo lập tức hiểu ra khi nhìn thấy hướng đi của Khờ Đầu - quỷ trạch.

Toà quỷ trạch của Đỗ Văn Hạo là một trang viện lớn. Do bên trong có hồ nước, hàng đêm đều phát ra loại khí làm biến đổi thần trí con người, con người hít phải khí này sẽ sinh ra ảo giác, giống như gặp quỷ nên không ai dám tới gần.

Có rất ít người biết Đỗ Văn Hạo đã mua toà quỷ trạch này với giá cả rất phải chăng. Thế nhưng dù gì đi nữa toà quỷ trạch này cũng nằm trong kinh thành. Bọn họ đang bị triều đình truy nã, tại sao lại không chạy ra ngoài thành mà trốn ở quỷ trạch làm gì?

Thế nhưng lại có câu nói: Nơi nguy hiểm nhất lại là nơi an toàn nhất. Bọn họ chạy trốn vào quỷ trạch thật ra lại vô cùng bí mật, rất khó bị phát hiện.

Quả nhiên Khờ Đầu đi vào quỷ trạch. Tường vây xung quanh quỷ trạch đã sụp phần lớnm. Bởi vì toà quỷ trạch ở một nơi hẻo lánh, ít người qua lại nên rất dễ dàng quan sát phía sau có người theo dõi hay không.

Khờ Đầu vô cùng cẩn thận. Hắn đi nhanh một lát thì lại đột nhiên đứng lại một lát rồi lại chậm rãi bước đi. Vừa đi hắn vừa quan sát bốn xung quanh để xem có người theo dõi hay không. Khi đã tin tưởng không có người đi theo, hắn mới tiến vào quỷ trạch từ lỗ hổng của bức tường bao quanh.

Kiến trúc trong quỷ trạch cũng gần như bị sụp đổ. Cỏ dại mọc cao, những vết nứt tứ tung làm người ta phải vô cùng cẩn thận nếu không bất kỳ lúc nào cũng có thể ngã xuống một cái khe.

Khờ Đầu bước đi rất nhanh rồi hắn dừng lại trước một khu đất, quan sát xung quanh sau đó ngoắc Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo vội vàng chạy tới nói: "Khờ Đầu, tổ sư nương ở đâu?"

Khờ Đầu mỉm cười, hắn chỉ xuống mặt đất nói: "Ở ngay bên dưới".

Đỗ Văn Hạo vội vàng nhìn kỹ. Thì ra bên dưới đám cỏ dại cao cao đó là miệng một cái giếng. Lập tức Đỗ Văn Hạo nhớ ra. Đây chính là cái giếng mà khi Lâm Thanh Đại hít phải khí gây ảo giác, bị ảo giác làm hoảng sợ bỏ chạy và rơi xuống. Thảo nào Đỗ Văn Hạo thấy cảnh vật bốn phía xung quanh rất quen thuộc. Thì ra đây là cái giếng mà hắn đã từng tới.

Khờ đầu ghé xuống miệng giếng, tay hắn cầm một hòn đá, gõ mấy tiếng vào thành giếng. Lát sau từ dưới giếng cũng vang lên âm thanh đáp lại. Nghe âm thanh có nhịp điệu thì biết đó chính là tín hiệu đã hẹn trước.

Một lát sau từ dưới giếng vang lên tiếng lộc cộc rồi một cái giỏ lớn xuất hiện.

Khờ Đầu nói: "Sư tổ, người hãy ngồi vào trong cái giỏ này. Người bên dưới sẽ kéo người xuống".

Đỗ Văn Hạo nóng lòng gặp lại mấy người Bàng Vũ Cầm nên hắn không nói nhiều, ngay lập tức ngồi vào chiếc giỏ đi xuống dưới.

"Phu quân!"

Từ dưới giếng vang lên một giọng vui mừng lẫn sợ hãi. Đó chính là giọng nói của Bàng Vũ Cầm.

"Cầm nhi!" Đỗ Văn Hạo cực kỳ vui mừng. Bên dưới giếng tối đen như mực, không nhìn rõ, Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: "Cầm nhi, nàng ở chỗ nào?"

Bàng Vũ Cầm ở một chỗ bí mật gần đó. Nàng nhìn thấy Đỗ Văn Hạo nên vội vàng vẫy tay: "Thiếp ở đây".

Đỗ Văn Hạo mở to mắt. Rốt cuộc hắn cũng nhìn thấy mấy bóng người, tiếp theo đó hắn nghe thấy có người gọi.

"Lão gia!"

"Ca ca! '.

"Sư phụ!'

"Sư tổ!"

"Văn Hạo!"

Một chiếc đèn lồng xuất hiện. Chiếc giỏ của Đỗ Văn Hạo cũng xuống tới đáy. Đỗ Văn Hạo bước ra khỏi giỏ. Hắn liếc nhìn. Bốn phía xung quanh toàn là người quen. Bàng Vũ Cầm, Liên nhi, Tuyết Phi Nhi, Kha Nghiêu cùng thầy trò Tiền Bất Thu, còn có cả tiểu nhị Ngốc béo, Ngô Thông, Anh Tử, nha hoàn tỷ muội song sinh Nhược Vân, Nhược Vũ, mấy người Ngọc Trận. Tuyết chưởng quỹ, phụ thân của Tuyết Phi Nhi, phụ mẫu Bàng Cảnh Huy của Bàng Vũ Cầm, tiểu thiếp Lưu thị, Ngọc nhi, tứ cô nương Đậu nhi. Hơn nữa hắn còn thấy cả nhà của Tri huyện Trang Huýnh Mưu, cả em gái nuôi xinh đẹp Mị Nhi và cả tiểu hổ tiểu Khả nữa.

Đỗ Văn Hạo nhớ nước giếng này đã khô nhưng diện tích không lớn lắm, Bây giờ xem ra rất rộng rãi, còn có cả mấy phòng nữa, giống y hệt một cái hầm trú ẩn trong lòng đất.

Bàng Vũ Cầm cầm tay Đỗ Văn Hạo, nàng vui sướng khóc nói: "Thiếp lo lắng chết đi được. Sao tướng công đi lâu vậy? Lại còn xảy ra hai trận động đất, Hoàng thượng nối tiếp nhau băng hà, Thái Hoàng Thái Hậu cũng qua đời. Sau khi Tào Vương gia chết tiệt đó xưng đế đã hạ chỉ bắt bọn thiếp".

Đỗ Văn Hạo kéo nàng vào lòng, vuốt ve mặt nàng nói: "Đúng vậy. Chúng ta ở bên Tây Hạ cũng lâm vào cảnh thập tử nhất sinh. Cũng may tất cả mọi người đều an toàn".

Liên nhi, Tuyết Phi Nhi cũng nhìn Đỗ Văn Hạo, khóc vì sung sướng. Đỗ Văn Hạo lại nhẹ nhàng an ủi hai người rồi thi lễ với những người khác.

Chờ khi cả mấy người Lâm Thanh Đại cũng ngồi giỏ trúc xuống tới nơi, mọi người kéo nhau vào một gian hầm ngầm rộng. Trong này treo đèn lồng, trên mặt đất có trải đệm. Ai nấy đều khoanh chân ngồi xuống. Bàng Vũ Cầm và Vương Nhuận Tuyết ngồi hai bên Đỗ Văn Hạo. Tiểu Khả nằm trước mặt Đỗ Văn Hạo. Bây giờ mọi người mới bắt đầu hỏi han nhau.

Thì ra khi xảy ra động đất lần đầu tiên, Tống Triết Tông bị đè chết, khi quyết định ngôi vị Hoàng đế, Tào Vương gia được đám đại thần thân tín nhất quyết ủng hộ. Thái Hoàng Thái Hậu vì không có Đỗ Văn Hạo bên cạnh nên không có chủ ý gì. Mấy người Vương Giai nhất quyết ủng hộ Triệu Cát kế vị. Hai bên kiên quyết tranh chấp với nhau. Trong khi đó Đỗ Văn Hạo lại không có mặt, cấm quân tam nha cũng chia làm hai, suýt chút nữa xảy ra giao tranh. Thái Hoàng Thái Hậu bất đắc dĩ quyết định chọn Triệu Cát kế vị Hoàng đế, tức Tống Huy Tông, Tào Vương gia nhiếp chính, bản thân nàng không buông rèn nhiếp chính nữa. Nhiếp Chính Vương cũng tương đương với Hoàng đế nên chuyện hai phái tranh giành mới được dẹp yên.

Sau khi Tào Vương gia nhiếp chính, Đỗ gia lập tức lâm vào cảnh bất ổn. Trước kia Đỗ Văn Hạo đã từng bắt giữ Tào Vương gia, lại rạch một đao ở cổ hắn. Vì sợ Tào Vương gia trả thù, Bàng Vũ Cầm, Liên nhi, Tuyết Phi Nhi ba người đã cùng bàn tính kế sách. Ba người đã quyết định đào một hầm ngầm trú ẩn trong quỷ trạch. Mấy người Bàng Vũ Cầm hướng dẫn cho Ngô Thông, Khờ Đầu, Ngốc béo cùng với đám tỳ nữ thân tín Nhược Vân, Nhược Vũ bắt đầu đào bới.

Toà quỷ trach này không có ai ra vào, hết sức bí mật nên công việc đào hầm ngầm tiến triển thuận lợi. Sau khi hầm ngầm đào xong, mấy người Bàng Vũ Cầm lập tức cho chuyển vàng bạc, đồ châu báu về hầm ngầm cùng với việc tích trữ rất nhiều lương thực và nước uống.

 Chương 468: Trốn khỏi loạn thế 

Sau khi hầm ngầm dưới giếng được đào xong mấy ngày thì kinh thành lại xảy ra một trận động đất kinh thiên động địa. Lần này còn khủng khiếp hơn lần trước. Tống Huy Tông, các hoàng tử, các Vương tử và các đại thần đang ở đại điện tế lễ Tống Triết Tông đã gặp nạn. Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao, trưởng công chúa, Hướng Hoàng hậu mất tích.

Tào Vương gia thừa dịp khởi binh, cướp Hoàng quyền.

Cũng trong ngày xảy ra động đất, cả nhà Bàng Vũ Cầm cùng với Tuyết chưởng quỹ, Bàng Cảnh Huy, Trang Huýnh Mưu hẹ nhau ra ngoài thành làm lều bên cạnh đường để tiễn đưa linh cữu của Tống Triết Tông. Điều rất kỳ quái là động đất chỉ xảy ra trong kinh thành. Bên ngoài thành hầu như không xảy ra chuyện gì nên mọi người mới thoát nạn.

Sau khi xảy ra động đất, mọi người quay vào trong thành ngay. Khi đó cả kinh thành đã bị phá huỷ. Sau khi thăm dò tin tức mới biết tân Hoàng đế Tống Huy Tông đã chết, Tào Vương gia đã xưng đế. Ngay lập tức Tào Vương đã cho phong toả các cổng thành, lùng sục bắt người khắp nơi. Sau đó Tiêu công công cho người tới mật báo Tào Vương gia muốn bắt người nhà của Đỗ Văn Hạo, kể cả bằng hữu thân thiết Trang Huýnh Mưu.

Lập tức Bàng Vũ Cầm chuyển mọi người tới hầm ngầm ở quỷ trạch. Điều rất may mắn là trận động đất không gây tổn hại tới chiếc giếng và hầm ngầm đã đào. Bọn họ không dám quay về phủ nữa. Nhưng cũng may là bọn họ không quay về đó vì dù toà phủ đệ đã hoàn toàn đổ nát nhưng người của Tào vương gia vẫn lấy đi những gì còn quý giá sót lại, chờ ở đó ôm cây đợi thỏ.

Bàng Vũ Cầm phái Ngô Thông, Ngốc béo đi thăm dò tin tức. Sau khi hai người quay về thì biết Tào Vương gia đã hạ chỉ miễn toàn bộ chức cụ của Đỗ Văn Hạo, vu cho hắn tội cấu kết với Bạch Y Xã tạo phản, cho bộ Hình ra công văn truy bắt hắn và người nhà.

Lúc đó toàn thành đã bị giới nghiêm, căn bản là không thể ra khỏi thành. Tất cả chỉ có thể chờ đợi trong lo lắng ở hầm ngầm dưới giếng. Đồng thời ngày nào Bàng Vũ Cầm cũng phái người tới chờ gần Hoàng cung, chờ Đỗ Văn Hạo quay về bởi vì nàng biết Đỗ Văn Hạo nhất định quay về tìn mọi người.

Trong lúc đó Tào Vương gia hạ chỉ thay mới toàn bộ thống lĩnh chỉ huy lộ quân Hoài Nam. Viên thống lĩnh này đã lợi dụng hai lần xảy ra động đất ở kinh thành, kinh thành bị san thành bình địa, nạn dân ở khắp nơi, không ủng hộ hành động soán vị vủa của Tào Vương, dẫn binh khởi sự, giết thái giám truyền chỉ của Tào Vương.

Tào Vương tức giận phái binh tiến đánh. Văn thần cầm quân Tào Vương để bị thảm bại, không thể rút quân quay về kinh thành.

Trong lúc đó bộ lạc Nữ Chân ở Đại Liêu với thế mạnh như gió cuốn đã đánh chiếm phần lớn lãnh thổ Đại Liêu, bắt đầu quấy nhiễu biên giới Đại Tống. Tào Vương bất đắc dĩ triệu tập quân đội lên phía bắc đối phó với người Nữ Chân.

Các lộ quân khác thấy viên thống lĩnh này khởi binh thành công, tân Hoàng đế không thể làm gì được nên tất cả các lộ quân đều noi theo, tuyên bố thoát ly triều đình, tự lập làm vua. Tào Vương bất lực không làm gì được, không đánh dẹp được. Các lộ binh mã vì muốn mở rộng thế lực của mình mang quân đánh lẫn nhau. Thiên hạ trở nên đại loạn.

Đỗ Văn Hạo cũng kể cho mọi người nghe nguy hiểm gặp phải ở Tây Hạ. Tất cả mọi người đều trợn mắt há hốc mồm khi nghe nói trong cùng một lúc ở ba nước Đại Tống, Đại Liêu, Tây Hạ đều xảy ra động đất, ba Hoàng đế cùng gần như tất cả các văn võ đại thần đều mất mạng, trong lòng càng lo lắng hơn khi nghe nói bây giờ người Nữ Chân đã đánh chiếm Đại Liêu, trong khi đó thì Đại Tống rơi vào cảnh chia năm xẻ bảy.

Đỗ Văn Hạo nhớ tới hậu đãi của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao với mình, trong lòng hắn vô cùng buồn bã khi nghe nói bây giờ không biết nàng ở nơi nào. Dù Cao Thao Thao lớn tuổi hơn hắn khá nhiều nhưng tình cảm với hắn rất chân thành, tha thiết. Trong lòng Đỗ Văn Hạo vẫn cảm thấy áy náy nhưng lại không biết đi tìm nàng ở đâu. Hắn chỉ thầm mong nàng không rơi xuống khe nứt trong trận động đất, đang ở một nơi nào đó chờ hắn.

Trong hầm ngầm có rất nhiều người nên không thể sắp đặt ở theo gia đình vì vậy Đỗ Văn Hạo sắp xếp nam ở một nơi, nữ ở một nơi, một phòng sinh hoạt chung, còn có một phòng vệ sinh và kho.

Sau khi mọi người thương lượng với nhau, cảm thấy cứ ở trong hầm ngầm thì hoàn toàn không ổn, muốn nhanh chóng rời khỏi kinh thành đi về hướng nam, thoát ra khỏi phạm vi thế lực của Tào Vương.

Đỗ Văn Hạo sai Hứa Văn Cường dẫn theo hộ vệ, cải trang ra ngoài điều tra xem hiện tại các cổng thành canh gác rất nghiêm ngặt hay không. Không có khả năng để nhiều người cùng đi thoát khỏi thành vì vậy tất cả chỉ còn cách kiên nhẫn chờ đợi.

Vương Nhuận Tuyết khóc lóc thảm thiết khi biết tin phụ thân mình chết thảm, Hoàng thượng đã ân chuẩn chôn cất cùng Tống Triết Tông. Nàng muốn tới tế linh hồn nhưng bây giờ bên ngoài kiểm tra rất nghiêm ngặt nên đành thôi.

Cuối cùng Hứa Văn Cường ra ngoài điều tra đã quay về mang theo một tin vừa làm Đỗ Văn Hạo vui mừng lẫn sợ hãi. Hắn nói có rất nhiều nạn dân từ phương bắc tràn về, trong thành chật ních người, người ra vào cổng thành rất nhiều. Quan binh đã không còn kiểm soát được tình hình.

Đỗ Văn Hạo quyết định thừa dịp hỗn loạn này trốn ra khỏi thành.

Sau khi mọi người cải trang xong, thương lượng nơi tập trung sau khi ra khỏi thành, nhân dịp trời tối lần lượt ra khỏi quỷ trạch, lẫn vào những nạn dân trong thành tìm cách ra khỏi thành.

Từ quỷ trạch tới cổng thành phải đi ngang qua sở quân khí. Sở quân khí đã trở thành một đống đổ nát, các binh tượng cũng đã bỏ trốn hết. Khắp sở quân khí chỉ còn các tử khi thối rữa bốc mùi nồng nặc.

Đây chính là nơi Đỗ Văn Hạo ký thức giấc mộng nước giầu, binh mạnh. Bây giờ giấc mộng đã tan, chỉ còn lại một đống đổ nát.

Khi đi về phía trước đã nhìn thấy cổng thành mờ mờ ở phía xa, dòng người chạy nạn vẫn không ngừng ra vào. Sau khi nghe ngóng tin tức thì được bước dù việc kiểm tra đã tương đối nới lỏng nhưng vẫn ngăn cản dân chạy nạn ra khỏi thành. Trong khi đó dân chạy nạn vào thành càng nhiều. Tất cả đều bị ngẽn lại ở hai bên cổng thành.

Trong khi Đỗ Văn Hạo đang lo lắng thì hắn nghe thấy từ xa vang lên tiếng quát mắng: "Cút ngay! Cút ngay! Hoàng thượng tới, còn chưa cút mau! Muốn chết hả?"

Tiếp theo đó là tiếng quất của roi da và tiếng kêu gào thảm thiết. Dòng người chạy loạn nhất thời rối loạn. Người người chen chúc nhau giạt sang hai bên đường. Sau đó từ phía xa xuất hiện một toán kỵ binh đang phi tới. Nhiều người không kịp né tránh, bị ngựa giẫm chết.

Hứa Văn Cường và đội hộ vệ lập tức hình thành một vòng tròn, vây gia quyến của Đỗ Văn Hạo vào giữa.

Thấy vậy Đỗ Văn Hạo thầm kêu không hay rồi. Tào Vương rút lui khỏi kinh thành chứng minh quân Nữ Chân đã tiến gần tới kinh thành. Bây giờ mang cả nhà chạy trốn, căn bản không thể chạy nhanh được. Trong tình hình nhất định phải gấp rút đi nhanh thoát khỏi quân địch hay có thể gặp phải loạn quân nhưng chỉ dựa vào mười mấy hộ vệ, căn bản không thể đủ để bảo vệ người già và phụ nữ.

May mắn là bọn họ mới rời khỏi quỷ trạch, Đỗ Văn Hạo lập tức hạ lệnh cho mọi người tìm cách quay lại hầm ngầm dưới quỷ trạch.

Mọi người không biết lý do phải quay về nhưng vì Đỗ Văn Hạo đã quyết định nên đành nghe theo. Dưới sự hộ tống của đội hộ vệ, mọi người rời khỏi dòng người, rời khỏi đường phố chính, vượt qua những đống đổ nát, quay về quỷ trạch, lại theo thứ tự đi xuống hầm ngầm.

Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại cảnh giới không cho mọi người ra ngoài. Hắn mang theo Hứa Văn Cường và mấy hộ vệ quay trở lại đường phố chính.

Mất người nấp cạnh những đống đổ nát quan sát tình hình hai bên đường.

Lúc này trên đường cái đã xuất hiện rất nhiều đội binh lính, đứng thành hàng hai bên đường, đẩy dân chạy nạn sang hai bên. Tiếng la hét, kêu khóc vang trời. Vì có rất nhiều người chưa kịp tránh đi đã bị đánh chết, giẫm chết nên trên đường ngổn ngang thi thể của dân chạy nạn.

Hiển nhiên Tào Vương gia vẫn chưa đi ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo dẫn hộ vệ đi tới đống đổ nát ở sở quân khí. Hắn căn cứ theo trí nhớ của mình tìm tới khu thí nghiệm hoả khí.

Điều làm hắn vô cùng mừng rỡ trên khu thí nghiệm hoả khí có bảy, tám khẩu pháo đúc bằng sắt, bên cạnh còn có mấy hòm đạn pháo, có cả đạn bằng sắt nhưng cũng có cả đạn bằng đất sét, còn có cả mấy hòm thuốc nổ. Rõ ràng là khi xảy ra động đất, ở đây đang chuẩn bị thí nghiệm bắn hoả pháo.

Bởi vì các thợ thủ công đã chết trong trận động đất nên Tào Vương gia không biết hoả pháo dùng làm việc gì. Bọn họ chưa thấy vật này bao giờ, hơn nữa còn quá nặng nên vất ngay tại chỗ, không để ý tới. Dân chạy nạn cũng không hứng thú với những khẩu pháo nằm bất động nên chúng vẫn nằm tại chỗ cho tới giờ.

Đỗ Văn Hạo phân công hộ vệ chuyện hoả pháo lên các đống đổ nát. Từ nơi đó có thể bao quát cả đường phố.

Mặc dù có binh lính cảnh giới từ xa nhưng vì khi ấy hoả pháo vẫn chưa xuất hiện, những binh sĩ này chưa từng nhì thấy trước đó nên không biết mấy người Đỗ Văn Hạo đang làm gì. Khắp nơi tràn ngập dân chạy nạn đang tìm kiếm thứ gì đó nên binh lính cũng nghĩ mấy người Đỗ Văn Hạo cũng làm như dân chạy nạn nên chỉ đứng nhìn từ xa, không tới ngăn cản.

Sau khi cố định xong mấy khẩu hoả pháo, Đỗ Văn Hạo tự mình ra tay. Hắn cho thuốc nổ vào trong hoả pháo, nhắm ra ngoài đường phố.

Ngay khi mọi thứ chuẩn bị xong thì lại vang lên tiếng quát mắng né tránh. Từ xa xa một đội binh giáp đang tiến lại. Đội nghi thức đao kiếm sáng loáng, uy phong lẫm liệt.

Đỗ Văn Hạo thầm mắng chửi Tào Vương này. Chạy nạn mà còn bày trò sĩ diện. Lão Tử cho ngươi bày này!

Một lần nữa Đỗ Văn Hạo chỉnh khẩu đại pháo, hắn cầm một cây đuốc đứng đợi.

Cuối cùng một chiếc xe ngựa có ô lớn màu vàng xuất hiện. Đó chính là dấu hiệu của Hoàng đế.

Trong lúc này Tào Vương đang ngồi trong xe. Tâm trạng hắn rất nóng vội. Mới lúc trước hắn nhận được tin bẩm báo đại quân Nữ Chân đã xuôi nam, quân đội của hắn đã sụp đổ, bỏ trốn khắp nơi. Quân tiên phong của Nữ Chân đang thẳng tiến tới kinh thành. Bây giờ chúng chỉ còn cách kinh thành chưa tới một trăm dặm. Trong khi đó lòng quân của Cấm quân bốn xung quanh kinh thành đã dao động, chỉ e là không ngăn cản được đại quân Nữ Chân tấn công. Tào Vương tự biết hoàn cảnh của mình nên lập tức hạ lệnh chạy nạn về phương nam.

Khi đội ngũ ra tới ngoài, không hiểu tại sao trống ngực Tào Vương gia đập mạnh hơn nhiều. Tóm lại là hắn có cảm giác có cái gì đó không ổn. Có lẽ là tiếng kêu khóc của nạn dân hai bên đường, hay là tiếng quát mắng của binh lính. Tóm lại là một cảm giác rất khó chịu, Tào Vương gia cau mày, đẩy màn xe, thò đầu ra ngoài quan sát.

Ngay trong tích tắc đó, Tào Vương gia nhìn thấy ở trên đống đổ nát cách đó không xa có hoả quang loé lên. Một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên. Một vật tròn bay về phía hắn nhanh như chớp.

Tào Vương gia kinh hãi gào lên, theo tiềm thức hắn giơ tay che mặt nhưng hắn đã không biết rằng vật này là thứ không thể ngăn cản bằng tay.

Ầm một tiếng, vật hình tròn đó đập nát chiếc xe ngựa xa hoa của hắn. Một tiếng nổ vang lên, lập tức chiếc xa bốc cháy hừng hực.

Thì ra phát đạn pháo mà Đỗ Văn Hạo bắn ra là đạn cháy mà mấy người Lý Hoàng đã làm theo yêu cầu của hắn.

Ngọn lửa bao quanh người Tào Vương gia. Âm thanh kêu gào thảm thiết của hắn vang vọng. Tào vương gia nhảy khỏi xe, hai tay vung loạn xạ. Ngọn lửa đã nuốt trọn người hắn. Binh lính bốn phía xung quanh vội vàng chạy tới dập lửa.

Nhưng đúng lúc đó mấy tiếng nổ khác lại vang lên. Mấy viên đạn pháo khác bay tới nổ bốn phía xung quanh chiếc xe ngựa, biến bốn xung quanh Tào Vương gia thành một biển lửa.

Đỗ Văn Hạo cười ha hả. Hắn vốn định dùng đạn sắt hình tròn nhưng nếu đạn sắt bắn không trúng thì sẽ không gây thương tổn gì cho Tào Vương gia. Đỗ Văn Hạo đập nát một viên đạn đất sét, phát hiện bên trong viên đạn có lưu huỳnh, dầu lửa để đốt cháy đồ vật. Hắn biết viên đạn này là đạn cháy nên quyết định lắp đạn đất sét vào tất cả những khẩu pháo. Lúc trước đạn đất sét này chưa bắn thử, Đỗ Văn Hạo cũng không biết có dùng được không nhưng hắn vẫn cứ đánh cuộc, không ngờ lại thành công.

Những tiếng nổ chưa từng nghe thấy liên tiếp vang lên làm lũ ngựa hoảng sợ, hí lên rồi chạy loạn ra bốn phía xung quanh. Ngay sau đó những viên đạn cháy liên tiếp bay tới đốt cháy tướng sĩ và các đại thận đi theo Tào Vương gia, cả ngựa cũng bị ngọn lửa thiêu cháy. Thân mình còn chưa lo nổi nên không còn ai cố sức tới cứu Tào Vương gia.

Lúc này trời đã lạnh, Hoàng bào bằng tơ lụa của Tào Vương gia lại là chất dẫn lửa rất tốt, bên trong hắn lại còn mặc quần áo bông nên càng không thể cở ra nhanh được. Những thái giám và binh sĩ tới cứu hắn lại không thể nào tìm ra nước dập lửa chỉ trong khoảng thời gian ngắn nên Tào Vương gia nhanh chóng biến thành một ngọn đuốc sống đang nhảy múa.

Lúc này đội ngũ đã tán loạn. Toàn thân Tào Vương gia bốc lửa, vung chân múa tay kêu gào thảm thiết. Một chiến mã kinh hãi hất tung tên lính trên lưng xuống sau đó lồng lên bỏ chạy. Trước tiên chiến mã hất ngã Tào Vương gia rồi hai chân sau nặng nề giẫm nát lồng ngực Tào Vương gia.

Âm thanh thảm thiết của Tào Vương gia là kết quả của lửa thiêu cùng chiến mã giẫm nát ngực.

Sau chiến mã này còn mấy chiến mã khác cũng hoảng sợ chạy theo. Dưới vó ngựa hoảng loạn, Tào Vương gia bị giẫm nát nhừ.

Không biết khi đó có ai đó gào lên: "Quân Nữ Chân đã tới sát thành rồi. Chạy mau!"

Cả con phố lập tức vô cùng hỗn loạn. Dân chạy nạn trước đó bị binh lính đẩy sang hai bên đường, không còn nhẫn nhịn được, tất cả vùng lên đẩy binh lính, điên cuồng chạy ra ngoài thành.

Vô số bàn chân giẫm đạp lên thân thể hấp hối của Tào Vương gia. Tới khi dân chạy nạn bỏ chạy hết nhưng tên lính vô cùng sợ hãi khi nhận ra thi thể của Tào Vương gia đã bị giẫm nát, không còn nhận ra hình người.

Đỗ Văn Hạo vô cùng vui vẻ, hắn thừa dịp hỗn loạn dẫn theo hộ vệ rời khỏi đống đổ nát sở quân khí quay về hầm ngầm ở quỷ trạch.

Vào ban đêm, từ dưới giếng khô, bọn họ nghe thấy tiếng kêu là vang trời bên ngoài, tiếng kêu la vang lên không ngừng bên tai mọi người, kéo dài suốt một buổi đêm.

Ngày hôm sau âm thanh đó biến mất, Đỗ Văn Hạo vẫn không dám mạo hiểm ra ngoài kiểm tra. Hắn đợi sau hai ngày mới phái Hứa Văn Cường cùng hai gã hộ vệ thận trọng rời khỏi giếng khô ra ngoài điều tra tình hình.

Mấy người nhanh chóng quay lại báo tin, tâm trạng vừa vui mừng, vừa sợ hãi nói: Bên trong thành gần như không còn bóng người, ngoài trừ thi thể của những người đã chết và dân chạy nạn tàn phế. Sau khi hỏi thăm tình hình mới được biết khi quân Nữ Chân đánh vào thành đã xảy ra chém giết với quân Tống, chém chết rất nhiều quân Tống, quân Tống bỏ trốn, dân chạy nạn trong thành cũng chạy hết. Trong thành không còn một ngôi nhà nguyên vẹn, cũng không còn tài sản gì vì vậy quân Nữ Chân bỏ thành đánh về phía nam.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới quyết định rút đi.

Khi ra khỏi hầm ngầm, quả nhiên trên mặt đất có vô số thi thể. Các thi thể đã bắt đầu thối rữa. Mùi hôi thối, tanh tưởi của tử thi trong thành vô cùng nồng nặc, sộc vào mũi là con người rất khó chịu, không thở nổi. Đỗ Văn Hạo bảo mọi người dùng khăn bông ướt che miệng, khi đó mới dễ chịu đôi chút.

Trong thành không có bóng dáng binh lính. Đi trên những con đường đầy thi thể, nhóm người của Đỗ Văn Hạo rời khỏi thành. Đỗ Văn Hạo đi tới chỗ gửi ngựa trước đây nhưng nơi đó không còn bóng người nào. Nhất định là khi người Nữ Chân đánh tới, những thành viên đội đặc chiến coi ngựa bất đắc dĩ phải bỏ trốn.

Bây giờ người Nữ Chân đã làm chủ mảnh đất này. Nếu đi trên đường nói không chừng sẽ đụng phải quân Nữ Chân, Đỗ Văn Hạo quyết định đi theo đường nhỏ, tránh thành thị đi về hướng nam.

Trên đường đi cũng gặp phải quân cường đạo hay tặc phỉ nhưng nhóm của Đỗ Văn Hạo nhiều người, lại có đội hộ vệ và thành viên đội đặc chiến nên suốt đường đi vẫn hoàn toàn vô sự.

Nhóm người chạy nạn của Đỗ Văn Hạo bao gồm già trẻ lớn bé của mấy nhà. Trẻ nhỏ lần lượt là tiểu đệ đệ của Bàng Vũ Cầm, con của phụ thân Bàng Cảnh Huy và tiểu thiếp Ngọc nhi mới hai, ba tuổi, tiểu muội muội Đậu Đậu năm nay mới sáu tuổi, đứa con mới một, hai tuổi của Trang Huýnh Mưu, vẫn còn phải đang bế bồng trên lưng vẫn có thể trèo đèo vượt suối được nhưng vấn đề là Bàng lão thái thái tuổi đã cao, Bàng Vũ Cầm đã mang thai bảy, tám tháng, việc trèo đèo lội suối rất cực nhọc. Các thành viên đội đặc chiến làm hai chiếc cáng tre, chậm rãi cáng hai người đi trên những đoạn đường hiểm trở. Những đoạn đường bằng phẳng thì để hai người tự đi nên hai người cũng không quá mệt nhọc.

Dìu già dắt trẻ gian khổ hơn một tháng trời cuối cùng cũng vượt qua vùng đất khống chế của Tào Vương, tới nơi không có quân Nữ Chân xâm nhập. Lúc này Đỗ Văn Hạo mua mấy chiếc xe lớn, mọi người ngồi xe đi theo hướng tây nam, đi về phía nước Đại Lý.

Khi đi trên đường Hồ Nam, đi qua các trạm kiểm soát trên đường mới được biết đoạn đường này bị canh phòng rất nghiêm ngặt, lại là người của Bạch Y Xã. Hơn nữa Đỗ Văn Hạo còn biết thủ lĩnh của toán quân này là mười mấy người hắn thả lần trước.

Đỗ Văn Hạo không muốn lộ diện nhưng hắn nhớ ra lần trước Bạch Y Xã đã gửi ở chỗ hắn Thánh quyển chí bảo, hắn liền bảo Lâm Thanh Đại cầm Thánh quyển, lặng lẽ lẻn vào chỗ ở của Bạch Y Xã, để Thánh quyển lên thư án. Sau khi Lâm Thanh Đại nhìn thấy đối phương vô cùng vui mừng nhìn thấy Thánh quyển, phái người ra dò xét xung quanh mới lặng lẽ biến mất.

Nhóm người của Đỗ Văn Hạo tiếp tục lên đường. Trên đường đi nghe được tin tức rằng Tào Vương gia đã chết vì bị hành thích. Các lộ quân của hắn chia năm xẻ bảy, đều tự làm theo ý mình. Quân Nữ Chân đánh qua địa khu bình nguyên, chiếm kinh thành Khai Phong của Bắc Tống thì bị vùng núi ngăn trở, không tiếp tục xuôi nam nữa mà quay sang tấn công Tây Hạ.

Có thể nói Bắc Tống đã diệt vong thế nhưng không còn hình bóng của Nam Tống vì lịch sử đã hỗn loạn sau này có thể thành lập Nam Tống hay không thì vẫn chưa ai hay biết.

Đoàn người của Đỗ Văn Hạo một mạch xuôi nam.

Trên đời nếu không có sự trìng hợp thì không bao giờ có chuyện. Đỗ Văn Hạo nghe được tin tức của Lý Phố. Đội quân của hắn đã phát triển tới hơn một vạn người, khống chế một vùng đất rộng lớn, mà quãng đường tới Đại Lý không còn xa, chỉ mấy ngày đường nên Đỗ Văn Hạo hạ lệnh cho Hứa Văn Cường mang theo đội hộ vệ và thành viên đội đặc chiến đi tìm Lý Phố nương tựa, tạo dựng sự nghiệp, không nên theo hắn tới Đại Lý.

Ban đầu nhóm của Hứa Văn Cường không đồng ý. Đỗ Văn Hạo kiên trì thuyết phục. Hắn nói hai thiếp của hắn và Vương Nhuận Tuyết hoàn toàn có thể bảo vệ an toàn cho mọi người, hơn nữa đoạn đường này đã rất an toàn, trên đường đi rất trật tự, nghiêm chỉnh, không còn nạn thổ phỉ, không cần phải tới Đại Lý nữa. Hắn không muốn ngăn cản tiền đồ của mọi người.

Hứa Văn Cương nghe Đỗ Văn Hạo kiên quyết như vậy. Bản thân họ cũng muốn ra đi tạo dựng tương lai cho mình nên liền dập đầu cáo biệt. Hứa Văn Cường mang theo đội hộ vệ và những thành viên đội đặc chiến còn lại đi tìm Lý Phố.

Đỗ Văn Hạo cùng người nhà và người nhà của Bàng Cảnh Huy, Trang Huýnh Mưu tiếp tục đi về phía nam. Đoạn đường này không có gì đáng nói. Cuối cùng bọn họ cũng tiến vào đất Đại Lý.

Ở vùng biên giới có rất nhiều dân. Chạy nạn chạy vào Đại Lý. Đại Lý không còn phong toả dân chạy nạn nữa vì Đại Lý có rất nhiều đất chưa khai khẩn, cần rất nhiều nhân lực. Nhiều dân chạy nạn tới Đại Lý có thể làm gia tăng dân số lên rất nhiều nhưng cũng tăng thêm rất nhiều sức lao động quý giá vì vậy không những Đại Lý đã không ngăn cản mà còn cứu giúp những thứ cần thiết cùng với định rõ vùng đất khai khẩn cho dân chạy nạn.

May mắn là Bàng Vũ Cầm đã đoán trước tình thế không hay sắp tới nên cho đào hầm ngầm, đồng thời nàng đã cho di chuyển rất nhiều vàng bạc, châu báu nên khi ba nhà chạy tới Đại Lý vẫn rất sung túc.

Từ một Đại Tống binh mã loạn lạc đi vào một Đại Lý quốc thái dân an, nhìn cảnh chim hót, hoa nở, nam đồng ruộng, nữ dệt vải, thôn phụ giặt vải bên bờ sông, cảnh tượng điền viên đó làm mọi người vô cùng vui sướng.

 Chương 469: Cuộc sống mới 

Đoàn người nghỉ trưa ở một khách sạn bên ngoài một tiểu trấn. Mọi người uống trà, ăn bánh ngồi bên cửa sổ nhìn gió bắc đầu mùa thổi nhưng gió vẫn nhè nhẹ thổi, vẫn chưa có cảm giác lạnh run người.

Vương Nhuận Tuyết nói: "Phu quân, bây giờ chúng ta đi đâu vậy?"

Đỗ Văn Hạo trả lời: "Ta cũng không biết. Ta chưa từng tới Đại Lý nhưng ta biết phong cảnh ở Đại Lý rất đẹp nhưng không biết nơi nào phù hợp để sống. Thế nhưng ta không thích sống ở thành trấn lớn. Ta không muốn để người khác biết thân phận thực sự của chúng ta. Ta nghĩ chúng ta nên tìm một tiểu trấn có phong cảnh tuyệt trần để ở thì sẽ vô cùng thoải mái. Mọi người nghĩ thế nào?"

Tất cả mọi người cùng gật đầu.

Lâm Thanh Đại cũng nói: "Tuy là một tiểu trấn nhưng không được quá hẻo lánh. Khi đó ngay cả dược liệu cũng không mua được thì chúng ta mở dược đường sao được?"

"Thanh Đại tỷ quả thực là mệnh khổ" Bàng Vũ Cầm cười nói, nàng quay nhìn người xung quanh rồi mới nói nhỏ: "Với tài sản của chúng ta bây giờ, cả đời dùng cũng không hết. Chúng ta cần gì phải khó nhọc kiếm tiền làm gì. Không bằng chúng ta suốt ngày du sơn ngoạn thuỷ".

Kha Nghiêu cười nói: "Đúng vậy. Đại Lý vô cùng đẹp. Chúng ta hãy đi du ngoạn khắp nơi trong vòng nửa năm sau đó tìm một nơi phong cảnh tuyệt trần để ở. Chẳng phải như vậy rất rất ung dung tự tại sao?"

Lưu thị, mẫu thân của Bàng Vũ Cầm sẵng giọng nói: "Ngươi chỉ là đứa nhỏ ham chơi. Ngươi không nhìn chị dâu của mình xem, mang thai sắp tới lúc lâm bồn. Trên đường đi đã chịu đủ nguy hiểm rồi. Bây giờ sao còn có thể phải chịu mệt mỏi trên đường đi nữa?"

Kha Nghiêu lè lưỡi cười nói: "Thật sự xin lỗi. Đúng đúng, là cháu sơ sót. Trước tiên chúng ta hãy tìm một ngôi nhà ở tạm. Đợi khi chị dâu sinh hạ người nối dõi của Đỗ gia, chúng ta sẽ du ngoạn. Được không?"

"Muốn đi thì các người cứ đi" Bàng lão thái thái nghiêm mặt nói: "Ta già rồi, suốt một đoạn đường suôi nam đã mệt muốn chết. May nhờ có mấy tiểu tử khiêng đi, ta mới có thể tới đây nên ta không muốn đi du ngoạn nữa. Nếu muốn đi các người cứ đi là được. Hãy vất ta ở một chỗ nào đó, miễn là không chết đói là được".

Bàng Cảnh Huy, phụ thân của Bàng Vũ Cầm vội vàng cười nói: "Mẹ, nhìn mẹ kìa. Sao mẹ có thể nói vậy? Đi một đoạn đường dài ai nấy cũng mệt mỏi rồi. Bây giờ không phải là lúc du sơn ngoạn thuỷ. Trước tiên phải tìm một chỗ để ở. Chờ khi mọi sắp đặt xong, mẹ lấy lại tinh thần thì sẽ từ từ đi du ngoạn. Dù sao chúng ta vẫn còn nhiều thời gian".

Lúc này nụ cười mới xuất hiện trên gương mặt già nua của lão thái thái: "Các ngươi muốn đi du ngoạn cũng không sai nhưng trước tiên phải tìm một chỗ ở, thu xếp cho người già, trẻ nhỏ rồi khi đó các ngươi muốn đi đâu thì đi".

"Điều này...".

"Không có chuyện gì, chỉ cần ổ định xong việc nhà là được. Các ngươi muốn đi đâu thì đi. Bà già ta cũng không muốn làm vướng bận chân các người".

Kha Nghiêu lại lè lưỡi, nàng đi tới ngồi xổm bên người Bàng mẫu, cầm bàn tay của Bàng mẫu vì đường xa mệt nhọc mà xưng phù, đau lòng nói: "Lão thái thái, là cháu không tốt. Cháu chỉ biết ham chơi, không biết thân thể lão thái thái không tốt. Trước tiên chúng ta phải sắp xếp việc nhà, chờ khi mọi chuyện ổn định mới nói tới chuyện đi chơi".

Bàng mẫu cười nói: "Tiểu hài tử, nãi nãi không hẹp hòi với cháu. Mấy người các cháu tuổi còn trẻ nên háo hức. Bà đã từng có thời tuổi trẻ. Khi bà bằng tuổi cháu, bà cũng ham chơi như cháu, cũng bị phụ mẫu khiển trách nhiều lần, vẫn không nghe, chỉ điên khùng làm theo ý mình. Ha ha ha".

Câu nói của Bàng mẫu làm mọi người phá lên cười.

Con của Thư Điệp, tiểu thiếp của Trang Huýnh Mưu mới một, hai tuổi, không thể vứt bỏ con ở nhà để đi du ngoạn. Nàng nghe Kha nghiêu nói muốn đi du ngoạn thì cũng rất nóng vội nhưng khi nghe Bàng mẫu nói vậy, trong lòng thầm yên tâm. Nàng cười nói: "Kỳ thật đi du sơn ngoạn thuỷ là một điều rất hay nhưng bây giờ chúng ta đi đường rất mệt mỏi. Hay trước tiên chúng ta cứ tìm một nơi yên tĩnh ở lại, chờ khi con của ta lớn một chút thì hãy đi du ngoạn".

Em gái nuôi của Thư Điệp là danh kỹ thanh lâu Mị nhi năm xưa ở Đống Đạt huyện yêu kiều liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nói: "Muội cũng cảm thấy trước tiên chúng ta vẫn nên ổn định chỗ ở. Trong chúng ta Quốc Công gia là quan lớn nhất, hẳn là người đứng đầu của chúng ta. Hay Quốc Công gia hãy nói ra chủ ý của mình".

Đỗ Văn Hạo không dám đón nhận ánh mắt của nàng, hắn ngượng ngùng nói: "Ta có gì đâu mà đứng đầu, chỉ vì ta mà làm liên luỵ tới mọi người. Ở đây tất cả phải do nãi nãi làm chủ. Ta cũng muốn trước tiên ổn định cuộc sống đã. Ta muốn nói rõ rằng bảy nhà chúng ta cùng với Mộ Dung Ngọc Lan cô nương, mấy chục người già trẻ lớn bé cần phải ổn định chỗ ở. Lần này vì ta mà làm liên luỵ tới bảy nhà. Nếu không phải ta đắc tội với Tào Vương gia, Trang đại nhân và nhạc phụ đại nhân cũng không bị tịch thu gia sản vì vậy tổn thất của mấy nhà, chúng ta sẽ bồi thường. Thế này đi, Cầm nhi, nàng hãy chia tài sản mang theo ra làm bảy phần. Mỗi nhà một phần.

Bảy gia đình là: Nhạc phụ đại nhân, Tuyết chưởng quỹ, Trang đại nhân, Tiền Không Thu, Diêm Diệu Thủ, Khờ Đầu và nhà của chúng ta".

Phu nhân của sáu nhà Trang Huýnh Mưu phần lớn tỏ vẻ vui mừng. Thế nhưng mấy người Lưu thị còn có cảm giác xấu hổ, trong khi đó phu nhân Triệu thị của Tiền Bất Thu thì mặt mày hơn hở, hai mắt sáng rực, chỉ hận không thể ôm rương tiền vào người.

Trang Huýnh Mưu khoát tay nói: "Không, không. Không thể như thế. Lão hủ sao dám lấy tiền của Quốc Công gia".

Phó thị, phu nhân của ông ta khẽ kéo áo ông ta, nói nhỏ: "Hãy bớt tranh cãi đi. Hãy nghe Quốc Công gia" Rồi bà ta đay nghiến: "Ông không muốn sống nhưng người nhà của ông vẫn còn muốn sống".

Tiểu thiếp Thư Điệp ôm con trong lòng cũng nói nhỏ: "Đúng vậy. Chúng ta trong người không có đồng nào. Nếu không có tiền thì con cái chúng ta ăn cái gì?"

Trang Huýnh Mưu nhất thời không biết nói sao, chỉ đành thở dài, lắc đầu cười gượng.

Tuyết chưởng quỹ, phụ thân của Tuyết Phi Nhi nghe thấy Đỗ Văn Hạo muốn chia tài sản cho mọi người, ông ta cũng vui mừng cười toe toét, chắp tay thi lễ nói: "Đa tạ. Quốc Công gia trượng nghĩa khinh tài. Ta đã nói mà Tuyết nhi của chúng ta gả cho người như Quốc Công gia chính là phúc một đời. Ha ha" Tuyết Phi Nhi là thiếp của Đỗ Văn Hạo, ở thời cổ đại không được coi như vợ nên ông ta không có quyền gọi là hiền tế. Khi nói chuyện cũng khách khí.

Tuyết chưởng quỹ cười tít mắt nhưng khi ông ta nhìn thấy Tuyết Phi Nhi đang trừng mắt nhìn mình thì vội nghiêm mặt nói: "Thế nhưng tiền của Quốc Công gia cũng không phải từ trên trời rơi xuống nên không thể cho không chúng ta. Cứ coi như cho chúng ta mượn. Khi ta có tiền, tiếp tục mở Hằng Tường khách sạn. Sau này làm ăn có tiền nhất định sẽ trả lại Quốc Công gia".

Trang Huýnh Mưu cũng nói: "Đúng, chỉ coi là mượn. Sau này có tiền nhất định sẽ trả lại".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Ta nói thật lòng. Mọi người vì ta mà gia sản bị tịch biên. Tổn thất này ta nhất định đền bù".

Trang Huýnh Mưu đang định nói tiếp thì vợ ông ta đã kéo áo ông ta nói: "Ông đừng có làm hỏng chuyện. Chúng ta hãy nghe lời Quốc Công gia. Ở đây Quốc Công gia là người đứng đầu" Trang Huýnh Mưu bị vợ quát mắng, sắc mặt của vẻ khó chịu nhưng ông ta là người từ trước tới nay luôn sợ vợ nên không thể làm gì hơn, đành cười ngượng ngùng, không nói.

Triệu thị, vợ của Tiền Bất Thu mặt dầy cười nói: "Đúng vậy. Quốc Công gia quả nhiên là người có tấm lòng hải hà. Không ai để ý tới chuyện này nhưng quả thực ngẫm lại cũng thấy chúng ta đi theo tổ sư gia rất xui xẻo. Oan có đầu, nợ có chủ. Tổ sư gia đắc tội với Tào Vương gia, hắn muốn đối phó với tổ sư gia thì cứ đối phó sao còn lôi mấy nhà chúng ta vào? Cả nhà chúng ta cực nhọc, vất vả cả đời, tích cóp được chút tài sản".

"Câm miệng!" Tiền Bất Thu trừng mắt: "Con tiện nhân này lại đánh rắm loạn bậy cái gì vậy? Mau cút sang một bên".

Triệu thị vội vàng lui sang một bên. Con của bà ta cũng chuẩn bị trở thành một người lớn bèn nói: "Nương, cha tự có chủ ý của mình. Nương đừng có xen vào".

Triệu thị trừng mắt nhìn con nói: "Ngươi biết cái gì? Bây giờ không nói sau này chúng ta lấy gì mà ăn? Chẳng lẽ đi ăn mày sao?"

"Cha là thần y".

"Thần y cái rắm. Cả đời thần y kiếm tiền, một lần tịch biên gia sản mất hết. Ông trời ơi, sau này một nhà chúng ta sống thế nào đây?"

"Khóc lóc thảm thiết cái gì vậy?" Tiền Bất Thu tức giận nói "Muốn khóc thì ra ngoài khóc. Đừng đứng ở đây làm mất mặt người ta".

Đỗ Văn Hạo thở dài, hắn khoát tay nói: "Bất Thu, không nên mắng vợ mình. Lần này mọi người nói đúng. Là ta hại các người. Tiền cả đời tích cóp mất hết cả. Thôi được rồi, chuyện này cứ định như vậy đi. Ta bồi thường thiệt hại cho mọi người, không cần tranh cãi nữa. Ngươi đã gọi ta là sư phụ thì cũng nên nghe lời sư phụ'.

"Dạ, sư phụ" Tiền Bất Thu vội vàng chắp tay nói. Ông ta thấy Đỗ Văn Hạo kiên quyết thì không chối từ nữa, chỉ nói: "Sư phụ, vậy tiền này cứ cho đồ đệ mượn. Sau này có tiền sẽ trả lại. Nếu không đồ đệ không dám nhận".

Mấy người Bàng Cảnh Huy cũng nói là mượn tiền, một năm sau sẽ trả lại.

Đỗ Văn Hạo nói: "Thật sự không cần mọi người trả lại. Đây là ta bồi thường cho mọi người".

Mấy người bàng Cảnh Huy lại nói chỉ có thể mượn tiền, không được tính bồi thường. Hai bên tranh cãi mãi không xong.

Thịch thịch thịch!

Bàng mẫu nặng nề nện quải trượng xuống đất nói: "Có thể nghe bà già này nói mấy câu không?"

Ngay lập tức mọi người đều yên lặng.

Hai mắt Bàng mẫu đã khỏi, có thể nhìn thấy rõ cảnh vật. Bà liếc nhìn mọi người rồi chậm rãi nói: "Theo lý mà nói, Văn Hạo là cháu rể của ta. Số tiền này là do Vũ Cầm tính toán trước đoạt lấy từ hang hùm. Việc xử lý thế nào, lão thân vẫn có tư cách nói mấy câu. Nếu các ngươi còn coi trọng bà già này thì nghe lời ta. Còn nếu coi thường ta thì coi như bà già này nói linh tinh".

Ai nấy đều nói: Không dám, nghe lời lão thái thái nói.

Bàng mẫu chậm rãi nói: "Văn Hạo đắc tội với Tào Vương gia làm liên luỵ mọi người, gia sản bị tịch biên hết, đương nhiên nên đền bù tổn thất cho mọi người. Mấy năm nay Văn Hạo làm ăn buôn bán, kiếm không ít tiền. Trong đó cũng có không ít công sức của mọi người hỗ trợ làm ra. Nhiều tiền như vậy, cả nhà Văn Hạo không dùng hết, lấy ra một ít đền bù tổn thất cho mọi người, chí ít mọi người cũng có tiền vốn để an cư. Điều quan trọng là Văn Hạo là người bản tính phúc hậu, không coi trọng tiền bạc, vui vẻ trợ giúp mọi người, mọi người cũng không nên từ chối nữa. Chia ra bảy phần, mỗi nhà một phần. Cầm nhi, hãy lấy tiền ra chia đều cho mọi nhà".

Tịch thị, phu nhân của Diêm Diệu Thủ cười ngượng ngùng nói: "Đúng thế, đúng thế. Lão thái thái đúng là người hiểu chuyện".

Diêm Diệu Thủ không nói không rằng rút ngay giày vải dưới chân, quay người quật vào mặt vợ mình quát to: "Con tiện nhân lắm mồm. Cút!"

Tịch thị ôm mặt lui sang bên, nhìn thấy con mình ở bên cạnh đang nhìn mặt mình. Tịch thị liền lấy nó làm nơi trút giận. Tịch thị nhéo tai con rồi mắng nó: "Nhìn cái gì mà nhìn. Đừng có nhìn ta. Sau này không có ăn, đi ăn xin thì đừng để chó hoang cắn chết".

Đứa con ôm tai rồi đứng khóc.

Diêm Diệu Thủ tức giận không sao được, hắn giơ giày vải định đánh vợ thì Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói: "Thôi được rồi. Diệu Thủ ngồi xuống".

Diêm Diệu Thủ vội vàng đi lại giày vải, ngồi xuống ghế. Hắn chắp tay xin lỗi Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo khoát tay rồi nói với Bàng Vũ Cầm: "Nếu lão thái thái đã nói vậy thì cứ làm theo như thế. Đây là tiền bồi thường, không cần hoàn lại. Cầm nhi, nàng phân chia đi".

"Sư tổ chờ đã!" Đàm thị, vợ Khờ Đầu vội tiến lên hai bước, cười nói: "Con có mấy câu không biết có nên nói không?"

Khờ Đầu tưởng vợ mình cũng ăn nói linh tinh tức thì trợn mắt, vung tay muốn dạy vợ.

Bàng mẫu biết vợ Khờ Đầu là người thiện lương, sẽ không nói lung tung nên nói: "Tức phụ Khờ đại phu, có gì cứ nói".

Nghe vậy Khờ Đầu mới hạ tay xuống.

Đàm thị chắp tay nói: "Lão thái thái đã phân định như vậy làm mọi người cảm kích rơi nước mắt, cung kính không bằng tuân mệnh. Nhưng vấn đề là nhà của con chỉ có hai người mà nhà của tổ sư gia có những mười mấy người. Nếu chia đều thì nhà của con chiếm phần lợi hơn rất nhiều. Chúng con tuyệt đối không dám nhận".

Khờ Đầu nghe vợ mình nói vậy, nhất thời cao hắng nói: "Đúng, đúng. Tiện nội nói rất đúng. Hay cứ chia theo đầu người cho công bằng".

Đám người Tiền Bất Thu cũng gật đầu đồng ý.

Thế nhưng Tuyết chưởng quỹ lại không vui. Chia theo gia đình, một mình ông ta cũng tính là một nhà nhưng bây giờ chia theo đầu người, ông ta sẽ được ít nhất. Ông ta đang định lên tiếng phản đối thì bất chợt nhìn thấy ánh mắt của con gái Tuyết Phi Nhi đang trừng trừng nhìn mình. Bình thường ông ta sợ nhất con gái nên vội vàng nuốt lời nói của mình vào trong bụng. Trong lòng ông ta thầm suy nghĩ. Gia tài của Đỗ Văn Hạo có hàng vạn quan. Dù có chia theo đầu người thì để mở một khách sạn cũng quá đủ. Ông ta cũng không muốn cao sang gì cả, chỉ cần có tiền vốn mở một khách sạn, thu lợi nhuận nên không dám nữa.

Bàng mẫu nói: "Thế thì cứ phân chia theo đầu người. Cầm nhi, cháu hãy phụ trách việc phân chia".

Bàng Vũ Cầm trả lời rồi nàng sai mấy người Anh Tử mang những rương vàng bạc châu báu lên, bắt đầu phân chia.

Mọi người nhất trí với nhau. Gối như ý Thái Hoàng Thái Hậu ban cho Đỗ Văn Hạo, bức hoạ của Hướng Hoàng hậu, cùng cả chiếc quạt xếp khung bằng vàng, thêu hoa mai do cháu gái Tô thị của Tô Thức làm, hạt minh châu to bằng quả trứng gà do Dụ Cáp Nhi tặng hắn đều là kỷ vật riêng của Đỗ Văn Hạo nên không được tính vào phần phân chia. Đỗ Văn Hạo cũng không cưỡng ép.

Dựa vào ý kiến của Đỗ Văn Hạo, trước tiên chia cho Mộ Dung Ngọc Lan cô nương một ít vàng bạc, trang sức. Nàng ở trong nhà Đỗ Văn Hạo nên không tính vào diện được phân chia.

Bàng Vũ Cầm chia tất cả vàng bạc, châu báu còn lại, dựa theo số đầu người, chia làm bảy phần.

Tiền Bất Thu, Diêm Diệu Thủ, Khờ Đầu, Trang Huýnh Mưu, Tuyết chưởng quỹ, Bàng Cảnh Huy vô cùng cảm kích, liên tục nói "tạ ơn". Mấy người còn thầm nghĩ cho dù là đền bù thiệt hại thì Đỗ Văn Hạo cũng không đáng phải xuất ra một lượng tiền bạc lớn như vậy. Sau này khi kiếm ra tiền, khi con của Đỗ Văn Hạo sinh ra, đầy năm thì sẽ tìm một lý do tặng lại phần lễ vật tương xứng.

Kha Nghiêu nhìn thấy đống vàng bạc châu báu vơi đi hơn phân nửa thì cong miệng nói: "Ca ca. Nếu như này chúng ta không thể ngồi dưng ăn hoang nữa. Chúng ta hãy mở một cửa hàng. Bằng không chỉ dựa vào chút tiền này sẽ không thể nuôi nổi cả nhà chúng ta cả đời này".

Lâm Thanh Đại mỉm cười nói: "Vì vậy chúng ta sẽ lại một lần nữa khai trương dược đường Ngũ Vị đường. Yên tâm đi, với y thuật của ca ca muội, một lần nữa làm cho gia sản nhiều lên cũng không có gì khó".

Tuyết Phi Nhi cũng cười nói: "Đúng vậy. Chúng ta còn có thuốc gây mê, sau này có thể tiếp tục buôn bán, còn cả kỹ thuật giải phẫu ngoại khoa, còn cả thuốc trừ độc. Chúng ta tiếp tục bán như cũ thì chưa tới một năm, chúng ta có thể kiếm lại số tiền đó".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Không được".

Tuyết Phi Nhi hỏi: "Tại sao?"

"Chúng ta chạy nạn tới đây. Hoàng đế Đại Lý cũng chết trong động đất. Chúng ta còn không biết Hoàng đế mới có đối xử tốt với chúng ta hay không. Vì sự an toàn của mọi người, chúng ta nhất định không được để bại lộ thân phận. Không bán dược phẩm, thuốc gây mê. Chỉ cần mở dược đường khám chữa bệnh cho mọi người là được. Bây giờ chúng ta không nói gia sản nhiều thì không nhiều nhưng cũng chẳng ít, đủ để gia đình lớn chúng ta có đầy đủ cơm no áo mặc. Không cần phải liều mạng kiếm tiền".

"Dạ" Tuyết Phi Nhi trả lời rồi nàng hỏi tiếp: "Vậy thiếp và Vũ Cầm tỷ có cần phải tiếp tục chữa nữ khoa và sản khoa nữa không?"

"Đương nhiên".

"Vậy Kha Nghiêu muội sẽ làm gì?" Kha Nghiêu hỏi: "Nữ khoa có nhị vị tẩu tẩu. Nhi khoa có Tiền thần y. Nội khoa cùng ngoại khoa có ca ca tài giỏi. Hơn nữa ngoại khoa còn có nhị vị tẩu tẩu trợ giúp rất tốt vì vậy muội không biết làm gì".

Đỗ Văn Hạo nói: "Trước tiên muội hãy học kiến thức cơ bản, Sau khi học xong kiến thức cơ bản rồi thì muội giúp ta sao phương thuốc rồi sẽ học một môn chủ đạo nào đó".

Tuyết Phi Nhi cười khúc khích nói: "Đúng vậy. Chưa học bò đã đòi học chạy. Muội không chạy được đâu".

"Chạy được hay không cứ thử sẽ biết" Kha Nghiêu trừng mắt nói. "Phi Nhi tỷ, tỷ nên gắng sức lên đi, đừng để muội vượt mặt, khi đó đừng để xấu mặt nhé'.

"Được. Ở kinh thành chúng ta đánh cuộc vẫn còn chưa đã. Nào tiếp tục".

Đỗ Văn Hạo thấy hai người lại bốp chát với nhau thì cười nói: "Thôi được rồi. Hai người hãy yên nào. Chúng ta hãy thương lượng xem nên ở nơi nào?"

Trang Huýnh Mưu vuốt chòm râu bạc nói: "Khi lão hủ còn trẻ đã đi du ngoạn khắp nơi, đã từng tới Đại Lý. Đúng như lời Quốc Công gia đã nói, phong cảnh Đại Lý rất đẹp, khí hậu hợp lòng người, là đất địa linh nhân kiệt, nơi nào cũng có thể ở lại được. Thế nhưng lão hủ đặc biệt có ấn tượng sâu sắc với quận Tú Sơn. Phong cảnh ở đó vô cùng xinh đẹp, rất thích hợp để ở. Quốc Công gia, hay chúng ta tới đó ở?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nơi Trang đại nhân đề nghị nhất định sẽ rất đẹp. Chúng ta sẽ ở nơi này".

Bàng mẫu nói: "Lúc trước Văn Hạo nói muốn mai danh ẩn tích. Sau này không được gọi là Quốc Công gia, đại nhân gì nữa. Tất cả phải sửa lại".

"Đúng vậy" Đỗ Văn Hạo nói: "Khi tới quận Tú Sơn, chúng ta sẽ mở lại Ngũ Vị đường, mọi người chỉ cần gọi ta là Đỗ lang trung, Thanh Đại là chưởng quỹ".

Tuyết chưởng quỹ, phụ thân Tuyết Phi Nhi nói: "Ta cũng mở lại khách sạn Hằng Tường. Mọi người cứ gọi ta là Tuyết chưởng quỹ".

Bàng Cảnh Huy nói: "Trước đây chúng ta làm nghề gì thì cứ làm nghề đó. Thế nào?"

Mọi người vỗ tay tán thưởng.

Trang Huýnh Mưu nói: "Ta không có bản lãnh mở cửa hàng kinh doanh. Bây giờ không làm quan nữa, lại không biết kinh doanh. Ta sẽ mua một ít ruộng, cho thuê, thu tô là được".

Mọi người cùng cười.

Tiền Bất Thu nói: "Ba thầy trò chúng ta hãy theo sư phụ mở dược đường, làm đại phu toạ đường là được".

Đỗ Văn Hạo nói: "Tốt lắm. Thế nhưng chúng ta lại nước lạ cái tới vùng này, không quen biết bất kỳ ai, người nơi này cũng không biết chúng ta đường đường là Thái y của Hoàng cung Đại Tống vì vậy ban đầu mọi người không tin tưởng vào y thuật của chúng ta, người tới khám bệnh không nhiều. Diêm Diệu Thủ, Khờ Đầu, trước tiên hai người có thể buôn bán thêm dược liệu để dược đường có thêm thu nhập".

Hai người vội vàng trả lời.

Mị nhi, em gái nuôi của tiểu thiếp Thư Điệp của Trang Huýnh Mưu nói: "Ta cũng không muốn suốt ngày ngồi không trong phòng".

Đỗ Văn Hạo cười hỏi Trang Huýnh Mưu: "Trang lão gia, người đã đi qua Tú Sơn, vậy ở đó có sông, hồ không?"

"Ở đó có một hồ nước, tên gọi là hồ Tú Thuỷ. Sóng hồ lăn tăn, trong suốt tới tận đấy. Thuyền hoa bồng bềnh trên mặt hồ, ca múa thì rất thú vị".

"Vậy là tốt rồi" Đỗ Văn Hạo nói với Mị nhi: "Hay muội hãy mua một chiếc thuyền hoa rồi làm lão bản. Thế nào?"

Bàng Vũ Cầm xấu hắn một cái nói: "Phu quân còn nói ra chủ ý này này. Mị nhi đã sớm chán cái nghề đó rồi".

Trước đây Mị nhi là danh kỹ ở Đống Đạt huyện vì nàng trợ giúp Đỗ Văn Hạo chữa trị chứng bệnh đàn ông của Trang tri huyện nên Trang tri huyện chuộc nàng ra khỏi thanh lâu, lại còn để tiểu thiếp của mình nhận nàng làm em gái nuôi. Bàng Vũ Cầm nghĩ Mị nhị kiêng kỵ thanh lâu nên mới nói giúp nàng, không ngờ Mị nhi cười nói: "Hay, chủ ý của Hạo ca rất hay. Muội vốn là gái thanh lâu, không phải tiểu thư khuê các, có gì mà không thể? Hơn nữa muội ngoại trừ quen với nghề thanh lâu này thì không biết làm nghề gì khác. Thế nhưng muội lại không có tiền mở thanh lâu'.

"Ta có!" Trang tri huyện vỗ tay nói: "Ta không mua đất thu tô nữa. Ta sẽ mở một thanh lâu ở bên hồ, mua mấy chiếc thuyền hoa để trên hồ. Ta đầu tư làm chưởng quầy, Mị nhi làm lão bản. Hầu sư gia làm kế toán. Tiền kiếm được chúng ta ăn chia công bằng. Thế nào?'

Mi nhi vui mừng xen lẫn sợ hãi nói: "Hay quá. Vậy chúng ta quyết định nhé".

"Được. Cứ định vậy".

Trên mặt Triệu thị, Tịch thị hiện lên vẻ khinh thường. Hai người liếc mắt nhìn nhau rồi Tịch thị quay đầu cố ý phì nhổ: "Khạc, phì, phì".

Diêm Diệu Thủ quay đầu, trừng mắt nhìn Tịch thị quát: "Làm cái gì vậy?"

Tịch thị vội ngượng ngùng nói: "Không có việc gì. Mới rồi một con ruồi bay vào mồm thiếp. Buồn nôn quá. Phì phì!"

Khi Mị nhi là gái thanh lâu đã nhiều lần gặp trường hợp như này nên nàng không thèm để ý.

Sau đó mọi người cùng mơ về một tương lai sau này. Khi trời về khuya mới quay về phòng mình ngủ.

Sáng sớm hôm sau mọi người vô cùng phấn chấn khởi hành đi về quận Tú Sơn.

Chưa tới một ngày mọi người đã đi tới quận Tú Sơn.

 Chương 470: Mới tới

Quận Tú Sơn theo lời đồn đại vốn là một nơi thế ngoại đào tiên sau đó có hoàng thượng vân du bốn phương đi ngang qua đây thấy khung cảnh đẹp thì lưu lại. Dần dần ở đây có người ở, trở thành một thánh địa phật giáo. Nơi này có sơn thuỷ. Phía trước có hồ Tú Thuỷ, phía sau dựa vào núi Tú Sơn, thành trấn nằm ở giữa. Xung quanh thành là sóng nước, núi non xanh biếc làm thành một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.

Đương nhiên thực tế có được như vậy hay không thì vẫn chưa biết. Dù sao trên đường đi tới đó mọi người luôn để tâm về điều đó, bị cảnh đẹp đó làm rung động, hấp dẫn.

Trên đường đi, mọi người làm theo lời Đỗ Văn Hạo. Dù sao mọi người đi thành một đoàn, trong chốc lát cũng không thể sắp đặt xong công việc của dược đường cũng như kinh doanh thanh lâu và thuyền hoa. Trước tiên phải tìm một khách sạn ở tạm. Mọi người có thể vừa nghỉ nghơi, vừa đi lo công việc làm ăn của chính mình.

Trước tiên nói về khách sạn đó. Không ngờ khách sạn đó có liên quan tới Đỗ Văn Hạo. Nói vậy là vì, khách sạn đó có tên là "Vân Phàm". Vân Phàm không phải là tên chữ của Đỗ Văn Hạo sao? Hơn nữa chưởng quỹ của khách sạn này cũng ngẫu nhiên mang họ Đỗ. Đó là một nam nhân trung niên, khoảng hơn năm mươi tuổi, vóc người trung bình, dáng vẻ hiền lành, cả ngày vui cười làm người khác có cảm giác rất hiền hậu.

Chưởng quỹ này tên là Đỗ tam, chỉ cần nghe tên cũng biết trong nhà có rất nhiều huynh, muội nếu không thế thì sao cha mẹ không cả buồn đặt tên cho con cái của mình mà phải dùng số để thay tên. Sau khi Đỗ Văn Hạo nói chuyện với Đỗ chưởng quỹ này thì quả thực đúng như vậy.

Bởi vì bây giờ đã đầu đông nên việc làm ăn của khách sạn không tốt lắm. Đỗ tam, không uống rượu, không bài bạc, chỉ thích đánh cờ, gặp lúc Đỗ Văn Hạo cũng nhàn rỗi. Hàng ngày Đỗ Văn Hạo mang trà ngon tới, hai người ngồi lỳ ở trong đại sảnh lầu dưới đánh cờ, giống như một đôi thần tiên.

Thế nhưng vì tới quận Tú Sơn đã hơn mười ngày, sức khoẻ của Bàng mẫu đã hồi phục khá tốt. Bàng Vũ Cầm lại vô cùng sốt ruột, nàng không muốn sinh con trong khách sạn. Khi người phụ nữ mang thai, tính tình thường cáu bẳn, trong lòng có nhiều tâm tình, hiển nhiên gương mặt lúc nào cũng gắn một chữ hoả. Một đại phu nhân thường ngày vô cùng liền lành mà ngay tới Kha Nghiêu cũng không dám chọc.

Ngày ở đây vào đầu buổi tối thường có mưa. Mọi người nghe Đỗ chưởng quỹ nói khí hậu ở đây thay đổi bốn mùa. Đông ấm, hè mát nhưng chỉ có mưa là nhiều hơn.

Bởi vì dù sao ở đây cũng không giống như khi ở kinh thành. Nha hoàn đi theo mọi người vốn chỉ là nha hoàn thiếp thân. Vương Nhuận Tuyết thấy Bàng Vũ Cầm mấy ngày nay ủ rũ thì chuyển Nhược Vũ sang phòng Bàng Vũ Cầm và xuống nhà bếp của khách sạn làm những món ăn ngon để tâm trạng Bàng Vũ Cầm vui vẻ hơn. Tuy Nhược Vũ và Nhược Vân là tỷ muội song sinh nhưng tính tình lại không giống nhau. Nhược Vân tỉ mỉ như có vẻ cẩn trọng hơn Nhược Vũ, hơn nữa làm việc cũng nhanh nhẹn, biểu hiện bề ngoài ôn nhu hơn nhưng trên thực tế lại là một người hấp tấp.

Vì ở lại khách sạn lâu ngày nên mọi người đương nhiên quen biết chưởng quỹ, tiểu nhị của khách sạn. Đôi khi mấy vị phu nhân, nãi nãi không muốn ăn những món ăn do đầu bếp của khách sạn nấu, Anh Tử và mấy nha hoàn có thể đi chợ mua chút gì đó mà về nhà bếp làm. Đỗ tam không phàn nàn gì bởi vì bản thân ông ta đôi khi còn được ăn một bữa ngon, được thơm lây, quả là nhất cử lưỡng tiện.

Nhược Vân, Nhược Vũ đi chợ mua một ít rau cải mới lạ cùng hoa quả khô, khi hai người đi vào khách sạn thấy Đỗ Văn Hạo và Đỗ chưởng quỹ bắt đầu xếp bàn cờ để đánh cờ, hai tỷ muội cười đi tới thi lễ với Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo đặt quân cờ xuống, ngẩng đầu nhìn thì bắt gặp hai nha đầu với đôi mắt trong veo đang đứng cười hì hì trước mặt mình. Trên tay của mỗi người là một cái giỏ, trong giỏ có rau cải xánh biếc, trên rau lờ mờ những giọt nước trong suốt

"Đỗ chưởng quỹ, ngày nào ông cũng đánh cờ với lão gia của bọn nô tỳ, ỹ thuật đánh cờ của ông có tiến bộ không vậy?" Nhược Vũ mỉm cười, bên má trái nàng hiện lên một núm đồng tiền nho nhỏ.

Đỗ tam vuốt rầu cằm, cười nói: "Có có, lão gia nhà các cô quả thật rất lợi hại".

Đỗ Văn Hạo cũng cười, hắn cầm một quân cờ màu trắng trong tay, chỉ vào thức ăn trong giỏ nói: "Trưa nay chúng ta lại có món ăn ngon hả?"

Nhược Vân nói: "Lão gia, đây là do đại phu nhân bảo Nhược Vân mua làm riêng cho mình. Lão gia muốn ăn gì thì để lát nữa nô tỳ cùng tỷ tỷ làm xong món ăn cho đại phu nhân sẽ đi mua làm cho lão gia".

Đỗ Văn Hạo vười nói: "Các ngươi vất vả quá. Ngày trước đây không phải là việc của hai ngươi. Hôm nay Anh Tử lại giao cho các ngươi làm. À, đúng rồi, tại sao Anh Tử lại không làm? Còn nữa, phu nhân của Khờ Đầu cũng là người chịu khó cơ mà?"

Nhược Vân nói: "Sáng sớm nay Anh Tử đã ra ngoài với ngũ nãi nãi. Hôm qua nghe Bàng đại thúc nói tìm được trong thành một cửa hàng mặt tiền rất phù hợp, lại còn tìm được nguồn cung cấp dược liệu. Ngũ nãi nãi nóng lòng nói hôm hay muốn đi xem qua một chút. Hơn nữa vì thân thể của đại phu nhân ngày một nặng nề nên Khờ Đầu ca cùng phu nhân đi theo Kha Nghiêu tiểu thư và Ngũ nãi nãi đi tìm nhà ở".

Đỗ chưởng quỹ nói: "Đỗ lão đệ thực sự là người có phúc. Ngày trước ta thấy lão đệ dẫn theo nhiều người vào trọ trong khách sạn thì cảm thấy lo lắng. Ta thấy người của lão đệ có cả già trẻ, ta chỉ sợ xảy ra sơ sót gì. Hôm nay xem ra ta lo lắng là thừa".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng vô cùng xúc động. Bản thân hắn cả ngày không làm gì cả, giao tất cả việc mở cửa hàng cho mấy người phụ nữ làm. Nghĩ tới đây trong lòng Đỗ Văn Hạo thầm xấu hổ, càng nghĩ hắn càng cảm thấy bản thân mình có lỗi. Hắn bỏ quân cờ xuống, đứng dậy, cười nói với Đỗ tam: "Thôi, chơi cờ liên tục mười ngày, lão ca cũng nên để ta đứng dậy một chút".

Hiển nhiên Đỗ tam hiểu suy nghĩ của Đỗ Văn Hạo. Ông ta gọi tiểu nhị tới thu dọn bàn cờ và nói với Đỗ Văn Hạo: "Hay để ta dẫn lão đệ ra ngoài đi dạo".

Đỗ Văn Hạo nghĩ lại thấy mình đã tới đây mười mấy ngày nhưng chưa bước chân ra ngoài cửa, đột nhiên hắn nghĩ tới Vương Nhuận Tuyết liền hỏi Nhược Vân, Nhược Vũ: "Phu nhân của các ngươi đâu?"

"Bẩm lão gia, nhị phu nhân đang nói chuyện với Đại phu nhân ở trong phòng, còn có cả Mộ Dung Ngọc Lan cô nương".

Đỗ Văn Hạo vốn định dẫn Vương Nhuận Tuyết cùng Mộ Dung Ngọc Lan đi dạo, bây giờ hai người đang ở cùng với Bàng Vũ Cầm nên hắn lại hỏi: "Vậy còn Liên nhi và Phi nhi?"

Nhược Vũ nói: "Ngũ nãi nãi bảo hai người đó dẫn theo Tiền đại thúc ra ngoài ngoại thành. Ngũ nãi nãi nói ngài yêu thích những nơi tĩnh lặng vì vậy ra ngoài đó xem có thể mua một ngôi nhà ở vùng đó không".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Xem ra chỉ có mình ta là nhàn rỗi. Thôi, thôi. Lão ca, chỉ hai người chúng ta đi thôi".

Nhược Vũ nói: "Hay để nô tỳ gọi nhị phu nhân?"

Đỗ Văn Hạo khoát tay nói: "Không cần. Cứ để Tuyết nhi ở lại với Cầm nhi".

Nhược Vân, Nhược Vũ nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, cả hai vội vàng khom người tiễn Đỗ Văn Hạo và Đỗ tam ra khỏi cửa rồi mới đi vào nhà bếp.

Bởi vì quận Tú Sơn không phải là vùng đất rộng lớn, chỉ có hi vàp hè mới có một số du khách lên núi thưởng ngoạn, dâng hương, công việc làm ăn của khách sạn mới khá giả nên khách sạn Vân Phàm chỉ có một đầu bếp. Đó là một người cháu của Đỗ tam tên là Trụ tử, một chàng trai cao lớn, dáng vẻ thật thà phúc hậu, là một người trung thực.

Khi Nhược Vân, Nhược Vũ đi vào nhà bếp thì thấy Trụ tử đang dựa vào cánh cửa ngủ gà ngủ gật. Hai tỷ muội cười thầm, dón dén đi tới trước mặt hắn rồi đột nhiên hét toáng lên. Trụ tử giật nẩy mình nhỏm dậy làm hai tỷ muội cười rất vui vẻ.

Lại nói sau khi Đỗ Văn Hạo và Đỗ tam đi ra khỏi khách sạn. Vì hôm tới đây trời đã tối nên bây giờ Đỗ Văn Hạo mới có dịp quan sát, hắn phát hiện ra khách sạn của Đỗ tam ở một vị trí rất đẹp trên đường phố chính. Hơn nữa diện tích của khách sạn còn lớn hơn nhiều khi so với các cửa hàng, khách sạn khác.

"Lão ca, thật sự không ngờ khách sạn của lão ca ở một vị trí rất đẹp'.

Nhưng không ngờ Đỗ tam chỉ cười gượng lắc đầu, không nói gì.

Hai người đi về khu chợ trung tâm ở phía đông. Dọc đường đi Đỗ Văn Hạo háo hức nhìn xung quanh hai bên đường. Ở khu chợ tập trung rất nhiều người. Đỗ tam giải thích hôm nay trùng hợp là chợ phiên vào ngày mười lăm hàng tháng. Mọi người mang tất cả những gì trong nhà có thể bán, tiền bán được thì mua vật gì mà mình cần.

Con đường Đỗ Văn Hạo đang đi là từ đông sang tây. Con đường này từ đầu tới cuối dà khoảng chừng hơn năm trăm thước gì đó. Ngoài ra còn có ba phố nhỏ khác. Khách sạn của Đỗ tam nằm ở một vị trí rất đẹp. Mặt khác ở ba con phố nhỏ khác, chủ yếu chỉ có các cửa hàng ăn uống, cửa hàng gạo và một số cửa hàng nhỏ, còn cả nhà ở của người dân. Ở khu phố chính chủ yếu cũng chỉ kinh doanh vàng bạc, châu báu và một số cửa hàng tơ lụa, cũng nhộn nhịp hơn các con phố khác.

Nhưng có điều làm Đỗ Văn Hạo khó hiểu. Một nơi địa linh nhân kiệt, non xanh nước biếc tại sao lại không có một y quán, một cửa hàng bán thuốc. Chẳng lẽ khi sinh sống ở một nơi sơn thuỷ hữu tình thì sức khoẻ con người tự nhiên tốt lên, không sinh bệnh, không cần uống thuốc sao?

Đỗ tam nhìn thấy dáng vẻ nghi ngờ của Đỗ Văn Hạo, đang định hỏi thì thấy trước mặt có hai, ba người đi tới. Trong đó có một người mặc áo ngắn tay, cúc áo cũng không cài, phanh ngực. Bây giờ thời tiết đầu mùa đông, phần lớn người đi trên đường đã mặc thêm áo, một số người còn mặc thêm áo bông nhưng người này lại làm bộ, ưỡn ngực, nghênh ngang đi trên đường, có vẻ không có gì là lạnh cả.

Đỗ tam khẽ cau mày. Ông ta vội vàng kéo Đỗ Văn Hạo quay lại. Ngay khi Đỗ Văn Hạo vẫn còn chưa kịp phản ứng gì thì sau lưng hắn đã vang lên tiếng gầm như của sư tử. Chỉ cần nghe giọng nói đó cũng biết là người đó có luyện võ công.

"Đỗ lão tam, tại sao ngươi nhìn thấy Dương gia không chào hỏi đã bỏ đi hả?"

Nghe câu nói đó Đỗ tam đành phải đứng lại, ông ta cười vẻ miễn cưỡng, hai chân như có tảng đá nặng ngàn cân buộc vào, một lúc lâu mới quay lại được, khom người khẽ gật đầu nói: "Làm Dương gia chê cười. Tiểu nhân già rồi, mắt không nhìn rõ. Xin ngài tha thứ".

Đỗ Văn Hạo không quay người lại nhưng trong lòng hắn thầm nghĩ ở đâu ra cái loại du côn giữa đường phố thế này. Hắn chỉ đứng yên, quay lưng về phía người đó.

Người nọ bước tới, nâng tay muốn đập vào vai Đỗ tam, theo bản năng Đỗ tam lùi lại né tránh, không ngờ ông ta giẫm lên chân Đỗ Văn Hạo. Đỗ tam vội vàng quay người lại nhận lỗi với Đỗ Văn Hạo.

"Này Đỗ lão tam, sao ngươi không giới thiệu với Dương gia vị bằng hữu này hả?"

Rõ ràng Đỗ tam không muốn nói chuyện với người này. Ông ta chỉ lầm bầm mấy tiếng, không nói gì.

Đỗ Văn Hạo chậm rãi như rùa bò quay người lại. Người nọ sửng sốt khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo. Hắn thầm nghĩ rốt cuộc người này là nam hay nỠvậy nhỉ? Dáng người cao ráo, tuấn tú, mày rậm, mắt to. Mắt ngọc mày ngài. Nếu là con gái thì cũng được coi là một tuyệt sắc giai nhân.

Đỗ Văn Hạo không thèm nhìn người nọ, hắn nói với Đỗ tam: "Chưởng quỹ, không phải ông nói muốn dẫn ta đi xem nữa sao? Đi thôi" Nói xong Đỗ Văn Hạo đưa mắt ra hiệu cho Đỗ tam.

Thấy vậy Đỗ tam vội vàng chắp tay nói với người nọ: "Dương gia, thật xấu hổ. Nếu không có chuyện gì, ta xin cáo từ".

Nói xong Đỗ tam dẫn Đỗ Văn Hạo đi lên trước. Mấy người hầu đi sau người đó muốn bước tới ngăn cản hai người Đỗ Văn Hạo. Người nọ vung tay lên, mấy người hầu vội đứng lại. Một người hầu lớn tuổi nhất vội vàng lên tiếng: "Dương gia, rõ ràng người đó coi thường ngài. Hãy để tiểu nhân cho mấy người thu thập hắn, để hắn sau này không được để hai trong mắt của hắn lên đỉnh đầu nữa".

"Không được. Ta rất thích người này. Ngươi hãy xem người này cao ráo, xinh đẹp như vậy" Nói xong hai mắt hắn nhìn chằm chằm vào lưng Đỗ Văn Hạo, khoé miệng nở một nụ cười âm hiểm.

Ba đầu tên người hầu sửng sốt sau đó hắn cũng phá lên cười ha hả. Mấy người hâu bên cạnh dù không hiểu lý do gì cũng phá lên cười hùa theo.

Đỗ Văn Hạo và Đỗ tam đi tới một chỗ rẽ thì rẽ sang một phố khác.

Vừa đi Đỗ Văn Hạo vừa hỏi: "Đỗ chưởng quỹ, người đó là ai?"

Nghe Đỗ Văn Hạo hỏi vậy, Đỗ tam xấu hổ nói: "Đỗ lão đệ, nếu ta sớm biết chuyện đó làm lão đệ mât hứng, ta sẽ không rủ lão đệ ra ngoài chơi. Thật sự xin lỗi'.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Việc này không liên quan tới Đỗ chưởng quỹ. Ta chỉ muốn biết người đó là ai?"

Đỗ tam khinh bỉ quay người lại sau nhổ bọt nói: "Đó là một lũ chó cậy thế chủ. Người đó tên là Dương Quang, hắn là tay chân của Dương Thiên hộ ở trong thành. Ngày thường hắn chuyên môn làm xằng làm bậy, ỷ thế hiếp người. Dân chúng gặp hắn phải gọi hắn là Dương gia nhưng sau lưng lại gọi hắn là Dương bất hoạt, ý mong cho hắn chết sớm".

Hai người tìm một quán trà tĩnh lặng vào ngồi uống trà và ăn điểm tâm, trò chuyện.

Đỗ tam nói: "Vị Dương Thiên hộ đó không phải là người xấu, ngày thường vẫn cứu giúp cho dân chúng nhưng cái tên Dương bất hoạt này quả thực rất tàn ác".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Dương Thiên hộ không biết Dương bất hoạt làm điều ác ở bên ngoài sao?'

Đỗ tam nói: "Nhiều năm trước Dương Thiên hộ mắc một loại quái bệnh, nhiều năm nằm liệt giường. Ông ấy có hai con gái nhưng đều lấy chồng ở xa. Bây giờ chỉ biết dựa vào tên Dương bất hoạt này nên sao có thể biết được?'

Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy thương xót Dương Thiên hộ này. Trong đầu hắn xuất hiện một ý định. Hắn cười nhạt. Hắn cầm ấm trà lên rót đầy vào chung trà đã uống một nửa của Đỗ tam. Đỗ tam thấy vậy vừa vui mừng vừa sợ hãi, ông ta vội vàng đứng dậy cám ơn. Đỗ Văn Hạo khoát tay cười, ra hiệu cho Đỗ tam ngồi xuống.

"Đỗ lão ca, phiền lão ca hỏi thêm hộ ta mấy chuyện".

Đỗ tam gật đầu nói: "Có chuyện gì lão đệ cứ nói, cần gì phải nói tới hai chữ: Phiền toái?"

Đỗ Văn Hạo ra hiệu cho Đỗ tam ngồi sát vào hắn. Đỗ Văn Hạo thì thào mấy câu vào tai Đỗ tam, Đỗ tam liên tục gật đầu đồng ý.

Sau khi rời khỏi quán trà, Đỗ tam đưa Đỗ Văn Hạo quay về khách sạn rồi sau đó ông ta làm theo lời Đỗ Văn Hạo, đi ra ngoài hỏi thăm tin tức.

Đỗ Văn Hạo đi vào khách sạn, hắn thấy Bàng Vũ Cầm đang ngồi trong đình hóng mát ở hậu viện. Bên ngoài gió thổi nhè nhẹ mang theo hơi lạnh. Hắn thấy Anh Tử với dáng vẻ tội nghiệp, trong tay cầm chiếc áo choàng đứng ở bậc thềm. Đỗ Văn Hạo dám chắc Bàng Vũ Cầm đang tức giận nên Anh Tử không dám vào vì vậy hắn bước tới nhận chiếc áo choàng, cười ra hiệu cho Anh Tử quay về phòng rồi hắn đi vào chỗ Bàng Vũ Cầm.

Khi Bàng Vũ Cầm phát hiện ra chiếc áo khoác lên vài nàng, tức giận quay đầu lại nhìn nhưng khi nàng nhìn thấy gương mặt tươi cười của Đỗ Văn Hạo đang đứng nhìn mình thì vội vàng đứng dậy thi lễ.

Đỗ Văn Hạo cầm bàn tay nhỏ bé đã lạnh giá của nàng, một tay hắn ôm vai nàng, nói nhỏ: "Ngoan nào, ở bên ngoài lạnh lắm. Mau vào phòng ngồi đi".

Bàng Vũ Cầm bĩu môi, phản đối: "Ở trong phòng rất buồn bực. Thiếp không muốn".

Đỗ Văn Hạo cười hỏi: "Có ta mà vẫn buồn bực sao?"

Lúc này Bàng Vũ Cầm mới tươi cười, để Đỗ Văn Hạo dìu nàg đi lên lầu.

Khi quay lại phòng, Đỗ Văn Hạo nhận thấy trên bàn có đặt hai đĩa bánh ngọt, một màu vàng, một màu xanh rất đẹp nhưng hình như chưa động qua. Đỗ Văn Hạo đỡ Bàng Vũ Cầm tới giường. Anh tử vội vàng cầm tới một cái đệm để Bàng Vũ Cầm dựa lưng sau đó nàng cởi giầy, đắp chăn cho Bàng Vũ Cầm. Cuối cùng Anh Tử lén liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, ánh mắt hiện ra vẻ oan ức, Đỗ Văn Hạo ra hiệu cho nàng đi ra ngoài sau đó hắn đi tới ngồi xuống bên cạnh giường.

"Có ấm hơn không? Hay để Anh tử mang chậu than vào trong phòng?"

Bàng Vũ Cầm lắc đầu nói: "Không cần, không lạnh".

Đỗ Văn Hạo cùng ngồi dựa lưng, hắn để Bàng Vũ Cầm nằm trong lòng mình. Một lúc lâu sau Bàng Vũ Cầm mới buồn rầu nói: "Tướng công, thiếp xin lỗi. Không phải thiếp cố tình, thiếp chỉ...".

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo hiểu rõ thê tử của mình. Hắn biết nàng chỉ vô tình làm khó người khác. Lúc này tâm tình của nàng không tốt nên nhìn thấy ai cũng có cảm giác không vừa mắt mà thôi.

"Trong nhà này nàng là người khổ cực nhất thế nhưng nỗi khổ cực của nàng, chúng ta không ai có thể chia xẻ với nàng được vì vậy hông có ai oán giận hay trách cứ nàng câu nào. Ta nghĩ nếu chúng ta làm tốt việc của mình, nàng sẽ không buồn bực vì vậy khi nàng không vui đó là do chúng ta chưa làm tốt phần việc của mình. Đáng lý ra người nói xin lỗi phải là chúng ta, chứ không phải là nàng".

Nghe xong mấy câu này, Bàng Vũ Cầm vô cùng xúc động, nước mắt nàng rơi lã chã. Đỗ Văn Hạo vội vàng lấy khăn tay, nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng, nói nhỏ: "Ngoan nào. Tất cả mọi người đều biết nàng lo lắng, ai cũng muốn tìm ra cách nào đó nhưng vì ở đây lạ nước lạ cái. Nàng hãy cho mọi người thêm chút thời gian nữa, được không? Thôi được, đừng khóc nữa nếu không sau này bảo bối của chúng ta trông khó coi lắm".

Bàng Vũ Cầm nghe vậy thì ngừng khóc nhưng nàng vẫn nức nở nói: "Tất cả mọi người bận bịu như vậy thì chàng hãy mau làm cái gì đi".

Đỗ Văn Hạo đứng dậy, hắn đi tới bàn bưng một chén trà nóng cùng một đĩa điểm tâm đi tới trước giường, đưa cho Bàng Vũ Cầm nói: "Nàng vừa ăn vừa nghe ta nói".

Bàng Vũ Cầm cầm một cái bánh trong đĩa rồi cầm chén trà từ tay Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, hắn chậm rãi kể lại những điều chứng kiến ngày hôm nay cho Bàng Vũ Cầm nghe.

Bàng Vũ Cầm kinh ngạc nói sau khi nghe Đỗ Văn Hạo kể xong: "Trên đời này lại có người xấu xa như vậy. Tướng công hãy để Nhuận Tuyết và Thanh Đại đi thu thập đồ xấu xa đó. Tướng công, với thân thủ của chàng bây giờ cũng thừa sức đối phó với loại người đó, vì sao chàng?"

Đỗ Văn Hạo thấy sắc mặt Bàng Vũ Cầm tốt hơn nhiều sau khi ăn xong mấy cái bánh, hắn nói tiếp: "Nói thật, nàng vẫn làn người hiểu lòng ta nhất. Thế nhưng việc này không thể nóng vội. Nàng hãy nghĩ xem: Trong nhà chúng ta có nhiều người già, trẻ nhỏ. Chúng ta lại mới tới đây, không quen thung thổ. Chúng ta tới ở đây, còn nhiều thời gian thu thập đồ xấu xa đó. Thôi không nói với nàng chuyện này nữa kẻo nàng mất hứng. Bây giờ nàng hãy nói ta xem trước đó Nhược Vân, Nhược Vũ làm mấy món điểm tâm này cho nàng, sao nàng lại không ăn?"

 Chương 471: Hỷ Lai Bảo

Bàng Vũ Cầm có phần ngượng ngùng nói: "Tướng công, chàng đừng nhắc tới chuyện đó nữa, như vậy chẳng khác nào làm khó Cầm Nhi cả, về sau thiếp sẽ đến xin lỗi Nhuận Tuyết là xong chứ gì. Thôi, hay là thiếp đi luôn bây giờ vậy." Nói xong nàng định đứng dậy đi giày vào.

Đúng lúc đó bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa. Đỗ Văn Hạo đỡ Bàng Vũ Cầm nằm xuống rồi hắn đi ra mở cửa, vừa mở cửa ra hắn liền bật cười khì khì.

Bàng Vũ Cầm nằm nghiêng người nhìn, nàng cũng bật cười khi nhìn thấy Vương Nhuận Tuyết đứng trước cửa.

Đỗ Văn Hạo để Vương Nhuận Tuyết vào trong phòng, hắn đóng cửa phòng lại rồi cười nói: "Sau này không nhắc tới tên nàng nữa. Nàng xem, Cầm nhi mới nói muốn tới nhận lỗi với nàng, nàng đã tới đây. Hai tỷ muội đúng là ý hợp tầm đầu".

Lúc này Vương Nhuận Tuyết mặc một chiếc áo ngắn có thêu hoa hồng trắng, một chiếc váy lụa màu đen thướt tha, trông rất hấp dẫn. Mái tóc búi cao nhưng một lọn tóc vương xuống cổ trắng ngần của nàng càng làm tăng thêm vẻ quyến rũ.

"Thiếp nghe Nhược Vũ nói tướng công mới về vì vậy muốn tới gặp. Khi nghe thấy tiếng nói chuyện trong phòng của Vũ Cầm tỷ thì đoán đó là tướng công nên mới gõ cửa. Vừa rồi hai người nói gì về thiếp?"

Bàng Vũ Cầm bảo Vương Nhuận Tuyết tới giường ngồi bên cạnh mình, nàng cầm hai tay Vương Nhuận Tuyết nói: "Tay của muội muội lạnh quá. Hay lên giường ngồi cho ấm?"

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Không cần. Muội vốn nghe Nhược Vũ nói tâm tình của tỷ không tốt nên mới tới xem thế nào".

Bàng Vũ Cầm vội vàng nói: "Không có gì. Tất cả đều do tỷ không tốt, gần đây toàn như vậy. Thật sự không có liên quan gì tới Nhược Vũ. Đó là do tỷ cố ý bới móc ra, muội muội tuyệt đối không nên trách cứ Nhược Vũ".

Vương Nhuận Tuyết cười nói: "Thôi được rồi, không nói chuyện đó nữa, mà cũng nên sửa cho Nhược Vũ một trận. Tại muội lúc nào cũng nuôn chiều nên mới xảy ra chuyện này. Đúng rồi, lúc nãy Lâm Thanh Đại cũng đã quay về. Hay bảo tỷ ấy tới đây luôn?"

Bàng Vũ Cầm là người thích náo nhiệt. Trong thời gian gần đây mọi người đều bận bịu nên hình như cũng quên mất việc ngồi trò chuyện với nhau. Hơn nữa nàng biết sáng nay Lâm Thanh Đại ra ngoài tìm địa điểm mở Ngũ Vị đường nên cũng nóng lòng biết tin vì vậy Bàng Vũ Cầm vội gọi Anh Tử vào phòng.

"Anh Tử, hãy mau đi gọi Thanh Đại tỷ tới đây. Hãy nói tướng công và nhị phu nhân cũng ở đây".

"Dạ!" Anh tử trả lời rồi đi ra ngoài phòng.

Một lát sau, Lâm Thanh Đại cùng Kha Nghiêu, Liên nhi và Tuyết Phi Nhi bước vào phòng. Trên người Tuyết Phi Nhi còn mặc một chiếc áo khoác đỏ sẫm, viền vàng, hình như mới về vẫn chưa kịp thay áo, thoạt nhìn dáng vẻ thoải mái, tinh thần sảng khoái. Liên nhi cầm một cái giỏ, bên trên có đậy một miếng vải xanh, khi nàng đi qua người Đỗ Văn Hạo, hắn ngửi thấy một mùi hương rất mê người.

"Lần này Cầm nhi nhất định cao hứng rồi. Một lúc mà có rất nhiều người tới đây" Đỗ Văn Hạo cười nói.

Anh Tử bưng một chậu than đang đốt đi vào đặt ở chính giữa phòng sau đó Nhược Vân, Nhược Vũ mang bánh ngọt và trà vào rồi ba người đi ra ngoài đóng cửa lại, để mấy người ở bên trong ăn bánh, trò chuyện.

"Còn có một thứ làm Đại phu nhân rất cao hứng" Liên nhi bỏ cái giỏ trong tay xuống rồi rót trà cho từng người.

Bàng Vũ Cầm nóng nảy kéo tay Lâm Thanh Đại nói: "Thôi được rồi. Không nên dài dòng nữa. Hãy mau nói cho muội nghe nào".

Nhưng Lâm Thanh Đại lại không có ý định nói ngay mà ra hiệu cho Liên nhi mang cái giỏ tới. Liên nhi không bỏ miếng vải xanh đậy ra mà đưa cái giỏ cho Bàng Vũ Cầm.

"Đại phu nhân hãy xem qua một chút. Thanh Đại tỷ nói phu nhân nhất định sẽ thích ăn" Liên nhi nói.

Trước tiên Bàng Vũ Cầm đưa lên mũi ngửi, lập tức nàng vô cùng vui mừng nhìn Lâm Thanh Đại. Lâm Thanh Đại cười nói: "Nhìn ta làm gì? Liên nhi mua cho muội, lại còn sợ bị nguội nên mới mướn một chiếc xe ngựa vội vàng mang về cho muội ăn. Ăn nguội không ngon lắm".

Bàng Vũ Cầm nhấc miếng vải xanh ra. Đỗ Văn Hạo cũng tò mò ghé mắt nhìn xem đó là món ăn gì mà thơm đến vậy. Hắn chỉ thấy trong giỏ có một cái đĩa. Trong đĩa có bày bánh ngọt màu vàng rực rỡ. Đỗ Văn Hạo hỏi: "Đây là cái gì mà ngon vậy? Cầm nhi, hãy mau ăn thử xem".

Liên nhi đưa cho Bàng Vũ Cầm một đôi đũa. Bàng Vũ Cầm cẩn thận gắp một cái bánh bỏ vào trong mồm. Nàng chỉ cảm thấy hương vị vô cùng tinh tế, ngọt ngào nhưng không biết được làm bằng cái gì. Bàng Vũ Cầm thấy Đỗ Văn Hạo đang nhìn mình, tức thì nàng cười bảo Liên nhi lấy cho mỗi người một đôi đũa để mọi người cùng nếm thử.

Sau khi mọi người nếm thử xong, ai cũng thấy rất ngon, giục Liên nhi nói rõ ràng.

Liên nhi nói: "Liên nhi biết mọi người sẽ thích ăn món điểm tâm này nhưng món điểm tâm này chỉ có ở quận Tú Sơn, tên gọi rất dễ nghe là: Hỉ Lai Bảo, chỉ dùng để...".

Liên nhi vẫn còn chưa nói xong thì bên ngoài vang lên tiếng kêu la ầm ĩ.

"Lão gia, không hay rồi. Cháu của Đỗ chưởng quỹ đột nhiên ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự. Ngài hãy mau tới xem".

Người chạy vào nói chính là nha hoàn thiếp thân của Lâm Thanh Đại tên là Vân Yến. Mọi người nghe vậy vội vàng chạy ra ngoài. Đỗ Văn Hạo sợ Bàng Vũ Cầm kinh hãi nên bảo Anh Tử ở lại với nàng, không cho nàng rời khỏi giường rồi hắn đi ra ngoài cửa, mấy người Lâm Thanh Đại đi sau. Tất cả cùng xuống lầu xem đã xảy ra việc gì.

Đỗ Văn Hạo đi xuống dưới lầu. Hắn thấy tiểu nhị Triệu tứ thường ngày vẫn làm tạp dịch, rót nước ở đại sảnh đang ngồi xổm trên mặt đất. Bên cạnh hắn là Trụ tử đang nằm trên mặt đất, hai mắt nhắm nghiềm, tay chân có quắp, khoé miệng có máu trào ra.

Thấy Đỗ Văn Hạo đi ra, Tịch thị, vợ Diêm Diệu Thủ vội nói: "Mới rồi vẫn còn khoẻ mạnh. Ngài xem Đỗ chưởng quỹ không có ở đây. Bây giờ phải làm thế nào đây?"

Lâm Thanh Đại nói: "Đừng có nóng vội. Không phải có Văn Hạo ở đây sao? Có phải ngươi gấp quá tới mức hồ đỠrồi không?"

Tịch thị nhếch mép cười. Không biết là thị cười có ý tứ gì nhưng cái mặt béo phì trông rất buồn cười.

Triệu tứ nói: "Ngũ nãi nãi không biết chứ ở quận Tú Sơn của bọn tiểu nhân có một quy củ. Tất cả những người bị mắc bệnh chỉ được tới tìm Vương thần y ở tây thành xem bệnh. Nếu do người khác xem bệnh nhưng chữa không khỏi, Vương thần y đó sẽ không bao giờ xem bệnh cho người đó vì vậy...".

Nghe vậy Kha Nghiêu hừ một tiếng nói: "Thần y cái gì? Nếu thật sự là thần y vậy tại sao không tiếp tục chữa bệnh cho người bệnh mà người khác chữa không khỏi. Đây nhất định là dong y".

Nghe vậy, ánh mắt Triệu tứ trở nên vô cùng căng thẳng. Hắn nhìn xung quanh rồi nói nhỏ: "Cô nương tuyệt đối không được nói như vậy. Y thuật của Vương thần y này rất cao minh. Nếu lời nói của cô nương để Vương thần ý nghe thấy...'.

Kha Nghiêu không để Triệu tứ nói xong đã ngắt lời hắn: "Cẩn thận cái gì? Chẳng lẽ Vương thần y này còn có thể làm ta mắc bệnh sao?"

Vương Nhuận Tuyết nói: "Kha Nghiêu, không được làm ảnh hưởng tới việc xem bệnh của tướng công. Muội hãy bớt tranh cãi đi".

Nhưng không ngờ Triệu tứ giơ tay cản Đỗ Văn Hạo lại, Triệu tứ nói vẻ khó xử: "Đỗ lão gia, không phải tiểu nhân không tin tưởng y thuật của ngài mà vì bây giờ không có chưởng quỹ của tiểu nhân ở đây, vạn nhất xảy ra điều gì không hay, tiểu nhân không thể gánh tội được. Xin Đỗ lão gia hãy tha thứ".

Nghe vậy Kha Nghiêu tức giận bước tới gạt Triệu tứ ra. Triệ tứ không ngờ một thiếu nữ thoạt nhìn có vẻ gầy gò yếu ớt lại có sức mạnh như vậy, nên hắn nhất thời kinh hãi. Đỗ Văn Hạo lại không có thời gian để đôi co nên hắn ngồi xổm xem rốt cuộc Trụ tử bị làm sao.

"Các người làm cái gì vậy? Ta đã tử tế nói chuyện với các người, tại sao các người lại đánh ta" Lúc này Triệu tức đã tức giận nên giọng nói của hắn khá to.

Lâm Thanh Đại giơ tay nắm cổ áo của Triệu tứ, người còn cao hơn nàng cả một cái đầu đi ra hậu viện. Vừa đi nàng vừa nói: "Đi, ta với ngươi đi ra sân nói chuyện. Không nên ở đây làm ảnh hưởng tới việc xem bệnh của lão gia nhà ta".

Đúng lúc đó Trụ tử đã tỉnh lại. Hắn thấy bản thân mình nằm ngay đơ trên mặt đất, lại có rất nhiều người vây quanh mình thì ngơ ngác ngồi dậy

"Tại sao mọi người lại ở đây? Tại sao tiểu nhân lại nằm ở dưới đất?"

Đỗ Văn Hạo đang định nói thì Tịch thị ở bên đã nhanh nhảu nói: "Ai da. Lúc nãy ngươi doạ người khác chết khiếp. May mắn là Đỗ lão gia của chúng ta đã tới. Bằng không".

Kha Nghiêu trừng mắt nhìn Tịch thị nói: "Ngươi cũng muốn giống như Triệu tứ hả?"

Tịch thị biết tình tình Kha Nghiêu còn nóng nảy hơn cả Lâm Thanh Đại. Thị biết mình không nên chọc vào nàng nên đành bĩu môi đứng sang một bên.

Trụ tử đứng dậy, ngay lúc này Đỗ tam từ ngoài cửa đi vào, thấy mọi người đứng vây xung quanh cháu mình. Ông ta không hiểu có chuyện gì xảy ra nên đi tới hỏi.

Đỗ Văn Hạo thuật sơ qua cho Đỗ tam nghe. Đỗ tam cười nói: "Thì ra là vậy. Không sao. Đây là bệnh từ nhỏ của Trụ tử. Hôm nay vẫn còn là khá đó. Đôi khi nó ra ngoài đốn củi, hay đi lấy nước cũng gục xuống bất tỉnh rồi khi tỉnh dậy lại đi về nhà. Mẹ nó lo lắng nếu không cẩn thận ngã xuống sông chết đuối nên mới cho nó tới đây ở với ta".

Trước đó Đỗ Văn Hạo nhìn qua tình trạng của Trụ tử, hắn thấy giống như bệnh động kinh. Bây giờ hắn nghe Đỗ tam nói thì lại càng tin tưởng vào phán đoán của mình. Hắn thầm nghĩ: Bệnh động kinh kỳ thật rất nguy hiểm. Nếu như bất cẩn cắn phải đầu lưỡi của mình còn có thể gây nguy hiểm tới tính mạng. Nghĩ vậy hắn liền hỏi: "Vậy có tìm lang trung xem bệnh cho Trụ tử không?"

Đỗ tam mời mọi người ngồi xuống ghế. Lúc này Lâm Thanh Đại đã từ hậu viện quay lại, theo sau nàng là Triệu tứ, dáng vẻ vô cùng sợ hãi. Đỗ tam sai Triệu tứ và Trụ tử lấy trà Bột Hải pha mời mọi người. Chờ khi mọi người ngồi xuống, Đỗ tam mới nói: "Ai nói là không tìm? Chỉ vì căn bệnh này mà Trụ tử lớn bằng này tuổi mà vẫn chưa có hôn sự. Người bên ngoài nghe nói nó có căn bệnh đó, có ai dám gả con gái nhà mình cho nó không? Thế nhưng đã tìm rất nhiều lang trung, ngay cả Vương thần y giỏi nhất ở đây cũng đã xem bệnh. Ai'.

Kha Nghiêu nói vẻ khinh thường: "Lại còn nói là Vương thần y cái gì. Ta thấy y thuật cũng chẳng khá hơn ta".

Liên nhi và Tuyết Phi Nhi không nhịn được, cùng bật cười, Vương Nhuận Tuyết liếc mắt nhìn hai người sau đó nàng mỉm cười hỏi: "Đỗ chưởng quỹ, vậy Vương thần y đó nói thế nào?"

Đỗ tam nói: "Vương thần y nói đây là bệnh nhà giàu. Không được ăn nhiều, không được để tức giận, không được ăn quá no. Nói tóm lại có rất nhiều yêu cầu. Đỗ lão gia, ngài thấy Vương thần y nói vậy có đúng không?"

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Xem ra Vương thần y đã biết Trụ tử mắc bệnh gì vậy ông ta có kê cho Trụ tử phương thuốc nào không?"

Đỗ tam suy nghĩ một lát rồi nói: "Quả thật không kê đơn thuốc nào. Vương thần y có nói bệnh này chủ yếu dựa vào người bệnh".

Kha Nghiêu nói: "Ca, vậy ca hãy nghĩ xem bệnh này thì nên cho uống thuốc gì?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Vương thần y nói vậy cũng không sai. Nhưng ta có một phương thuốc có thể cho Trụ tử uống một thời gian xem sao?"

 Chương 472: Vỏ quýt dày có móng tay nhọn

Trụ tử ở bên cạnh nghe thấy vậy tức thì bật cười vui vẻ. Nhược Vũ liền nói: "Trụ tử, lão gia nhà ta kê cho ngươi một đơn thuốc, nói cho ngươi uống một thời gian ngắn. Hơn nữa ngươi vẫn chưa uống thuốc sao đã cười vui vẻ vậy?"

"Ha ha. Nhược Vũ cô nương không biết chứ trước kia Vương thần y đó không kê thuốc cho tiểu nhân uống. Ông ấy còn nói trước kia mẹ của tiểu nhân khi mang thai tiểu nhân bị sợ hãi gì đó. Loại bệnh này mắc từ trong bụng mẹ nên không thể chữa khỏi. Không ngờ hôm nay Đỗ lão gia vừa xem qua đã nói sẽ kê đơn cho tiểu nhân uống thuốc. Nếu như vậy thì bệnh này của tiểu nhân có thể chữa khỏi rồi".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Trụ tử, ngươi nói như vậy thì ta không dám kê đơn cho ngươi uống nữa"

Nghe vậy Trụ tử nóng nảy đi tới trước mặt Đỗ Văn Hạo. Hắn vừa xua tay, vừa dậm chân nói: "Đừng, đừng. Ngài ngàn vạn lần không nên làm như vậy. Ngài cứ yên tâm kê đơn cho tiểu nhân, ngài kê đơn gì tiểu nhân uống thuốc đó. Nếu không khỏi thì cũng không phải là lỗi của ngài. Mẹ tiểu nhân có nói khi mang thai tiểu nhân, trong thôn có một con chó đen rất to suýt chút nữa cắn mẹ tiểu nhân. Khi ấy mẹ tiểu nhân sợ quá nên ngã xuống ruộng nước. Muốn trách thì phải trách con chó đen to đó. Việc này không liên quan gì tới Đỗ lão gia".

Nghe Trụ tử nói xong mọi người đều không nhịn được bật cười.

Lâm Thanh Đại nói: "Trụ tử, ngươi hãy yên tâm. Lão gia nhà chúng ta sẽ tận tâm chữa bệnh cho ngươi. Thế nhưng ngươi cũng phải phối hợp chữa bệnh với lão gia chúng ta. Ngươi không nên tức giận cùng với kích động quá mức. Văn Hạo, vậy có đúng không?'

"Thanh Đại nói rất đúng".

Liên nhi cầm giấy và bút mực tới cho Đỗ Văn Hạo kê đơn. Đỗ Văn Hạo kê đơn xong giao cho Đỗ tam và căn dặn: "Căn bệnh này chủ yếu là thức ăn và tinh thần không được quá kích động. Nếu như uống thuốc một thời gian mà bệnh không tái diễn thì Diệu Thủ sẽ châm cứu, khi đó hiệu quả sẽ càng tốt hơn".

Đỗ tam và Trụ tử cuống quýt nói cám ơn. Đỗ tam giao đơn thuốc cho Trụ tử để hắn đi mua thuốc sau đó ông ta mời Đỗ Văn Hạo vào phòng mình nói chuyện.

"Đỗ lão gia, theo lời lão gia căn dặn, ta đã tới nhà của Dương Thiên hộ. Vừa hay là một em trai của ta có một đứa con gác cổng nhà Dương Thiên hộ. Ta tới hỏi nó thì được biết Dương bất hoạt đó có hai tật xấu. Đó là nữ nhân và bài bạc".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta cũng đoán được những người như vậy tất sẽ có tật xấu đó".

Đỗ tam nói: "Ta nghe người cháu đó nói hàng ngày Dương Bất Hoạt đều rời nhà vào buổi trưa, tới một kỹ viện ở đông thành là Phạm Xuân lâu, tìm một kỹ nữ có tên là Liễu nhi, cũng có đôi khi cũng đi đánh bạc. Ngày nào cứ vào buổi tối canh ba mới quay về nhà".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: #namouylar