Tống Y 5
Tống Y
Tác giả: Mộc Dật
Chương 287: Hồi tâm chuyển ý
Vương An Thạch "Khụ khụ" hai tiếng không nói gì, Dụ Cáp Nhi đành phải tiến lên nói: "Vị đại ca này, chúng ta tìm một người trong thôn lên là Lý Trung, hắn có ở đây không?"
Nam nhân này thấy Dụ Cáp Nhi dáng vẻ xinh xắn, ăn mặc cũng thập phần diễm lệ. Nghĩ tới nữ nhân ở cái nơi không sạch sẽ tới tìm Lý Trung, thời gian gần đây trong thôn đã có lời đồn là lão bà của Lý Trung mắc một loại quái bệnh rất kinh khủng, Lý Trung liền đi ra bên ngoài tìm kỹ nữ ở đâu đó để cùng chung chăn chiếu, trong thôn có miêu tả qua, những nữ nhân này tướng mạo cùng trang điểm chắc không khác lắm so với cô gái đang đứng trước mặt.
Dụ Cáp Nhi thấy ánh mắt của anh chàng chăn trâu nhìn mình đột nhiên trở nên rất quái dị, trong mắt lộ vẻ căm ghét cùng khinh thường, điều này làm cho Dụ Cáp Nhi cực kỳ khó chịu.
Đương nhiên! Loại ánh mắt này Vương An Thạch cũng đã nhìn thấy, trước đó lão cũng đã nghe Ninh công công nói tên Lý Trung cũng không phải là kẻ tốt đẹp gì, hút hít, gái gú chuyện gì cũng đều làm. Chắc hẳn người kia hiểu sai về Dụ Cáp Nhi. Nghĩ tới đây, Vương An Thạch quay đầu nói với Dụ Cáp Nhi: "Tôn nữ. Đi thôi, người này chắc là không biết tỷ tỷ của ngươi đang ở chỗ nào, chúng ta đi tìm thôi".
Một tiếng 'tôn nữ' của Vương An Thạch thật sự là có chút đột ngột, Dụ Cáp Nhi đang tự hỏi tại sao ánh mắt của nam nhân kia lại nhìn mình như vậy, đột nhiên nghe thấy Vương An Thạch gọi mình như thế, liền 'A!' một tiếng, cũng không có nói thêm lời nào.
Nam nhân sau khi nghe xong lời của Vương An Thạch, cảm thấy có phần không đúng, hai người đã là ông cháu, thì làm sao có thể là loại người đó, dù sao loại người này làm việc cũng phải tránh người nhà, nếu không thì làm sao có thể ngẩng mặt lên nhìn họ.
Hán tử kia vội vàng mỉm cười chỉ vị trí nhà của Lý Trung, thốt lên: "A! Thì ra ngươi là muội tử của Tiểu Liên! Ha ha, ta còn tưởng rằng, tưởng rằng.... Các ngươi tiến về phía trước, đi đến một lối rẽ khá rộng, sau đó rẽ trái một đoạn ngắn, gặp một cái sân nhỏ ở phía trước có một hàng đào thì đó là nhà Lý Trung.
Chờ người nọ bỏ đi, Dụ Cáp Nhi đi đến trước mặt Vương An Thạch, thấp giọng hỏi: "Hắn tưởng rằng ta là gì?"
Vương An Thạch cười thầm, nói: "Hắn tưởng rằng người là ... Ha ha, là gì đó của Lý Trung".
Dụ Cáp Nhi là người thông mình, nghe Vương An Thạch gợi ý một chút, nàng lập tức hiểu rõ, lập tức quát to một tiếng, phẫn nộ nói: "Thật là quá đáng. Hắn xem ta là loại người gì cơ chứ, ta phải đi tìm hắn làm cho ra lẽ".
Vương An Thạch, nói: "Được rồi! Người không biết không thể trách, muốn trách thì trách tên súc sinh Lý Trung này làm bậy, làm ảnh hưởng tới suy nghĩ của người khác. Đi thôi!" Nói xong, bản thân Vương An Thạch đi trước cất bước vào thôn.
Dụ Cáp Nhi đi ở phía sau đột nhiên cảm thấy tiểu lão đầu này cũng rất tốt, vừa rồi nếu không phải có câu gọi 'tôn nữ' của lão thì người kia còn đi nói xấu sau lưng mình. Nghĩ tới đây, cuối cùng Dụ Cáp Nhi cũng hé miệng cười, vội vàng đuổi theo đi song song cùng lão.
Hai người đi tới vị trí mà nam tử chăn trâu kia chỉ dẫn, trước cửa còn có một hồ nước nhỏ, Vương An Thạch đi tới trước cổng thấy cổng tre khép chặt, ba gian nhà cỏ hướng về phía Nam Bắc triều, mảnh sân nhỏ được quét dẹn cực kỳ sạch sẽ, chỉ cần nhìn qua là biết Tiểu Liên chăm lo cho cái nhà này hết sức gọn gàng ngăn nắp. Một nữ tử tốt như vậy cũng không cần đến, mắt của nam tử kia quả thật là bị mù mà.
Trong nội viện dưới một cây đào có xích một con chó đen lớn, nó đang uể oải nằm dưới tàng cây lim dim đôi mắt, nghe tiếng bước chân lập tức nghểnh mõm lên sủa.
"Có ai ở nhà không?" Dụ Cáp Nhi hướng về trong sân gọi lớn, nhưng không có người trả lời.
"Vương chưởng quỹ, Tiểu Liên nói thời gian gần đây Lý Trung rất ít về nhà. Chắc là còn không biết lão bà của mình đã rời nhà đi ra ngoài đâu.
"Đồ khốn nạn!" Vương An Thạch phẫn nộ thấp giọng mắng nhiếc.
Một gia đình bên cạnh nghe thấy có tiếng người nói chuyện, cùng với âm thanh chó sủa, liền thò đầu ra xem thì thấy hai người xa lạ mặc áo gấm, đeo đai ngọc, người này liền bước ra cửa. Chỉ vào nhà của Lý Trung nói với Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi: "Các ngươi tìm Lý Trung phải không, hắn không ở nhà. Hẳn là đến nhà Vương Ngũ đánh bài rồi".
Dụ Cáp Nhi hỏi: "Xin hỏi nhà Vương Ngũ ở nơi nào vậy?"
Người nọ đi tới trước cổng, cẩn thận đánh giá Dụ Cáp Nhi. Dụ Cáp Nhi sợ người này giống như anh chàng chăn trâu trước cổng làng nghĩ mình là loại nữ nhân không đàng hoàng, cho nên vội vào quay đầu chỉ vào Vương An Thạch, nói: "Ta cùng gia gia ta tới để tìm Tiểu Liên".
Trong lòng Vương An Thạch cười thầm, tiểu nha đầu này cũng có thể gọi một tiếng gia gia thân thiết như vậy.
Người nọ "A!" một tiếng, lắc đầu nói: "Ài! Cái tên Lý Trung này thật sự là kẻ có phúc mà không biết hưởng, các ngươi không cần phải đi tìm Tiểu Liên, Tiểu Liên đi rồi, cái nhà này không thể tiếp tục ở lại nữa rồi, nếu còn ở nữa, thì e rằng sẽ bị thằng nhãi Lý Trung này đập chết tươi cũng chưa biết chừng".
"Con mẹ nó, kẻ nào nói xấu lão tự vậy!" Từ phía sau truyền tới thanh âm của một người đàn ông, người ở cách vách biến sắc, vội vàng chạy vào trong nhà, "Rầm!" Một tiếng, cửa được đóng lại.
Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi cùng quay lại nhìn, chỉ thấy một thanh niên cường tráng, áo mở phanh ra, ống quần vén lên cao, trên nét mặt lộ ra vẻ nghi ngờ hướng về phía bọn họ đi tới.
Đi đến trước mặt, người nọ đầu tiên là nhìn vào Vương An Thạch, sau đó con mắt nhìn chằm chằm vào Dụ Cáp Nhi, lập tức lộ ra hào quang. Khóe miệng lệch sang một bên, bộ dáng lưu manh, tiền bước đi đến gần Dụ Cáp Nhi ghé sát vào ngửi ngửi. Dụ Cáp Nhi nhíu mày, vội rút lui hai bước tới núp ở sau lưng của Vương An Thạch.
Xem ra, người này đúng là Lý Trung.
"Các ngươi tìm ai vậy?" Trong miệng Lý Trung ngậm một cây cỏ đuôi chó. Bộ mặt vốn khá bảnh trai lại lộ ra thần sắc tục tĩu, miệng thì nói chuyện mà ánh mắt lại nhìn chằm chằm vào Dụ Cáp Nhi, nhìn từ trên xuống dưới không bỏ sót chỗ nào.
Vương An Thạch tiến lên một bước ngăn ở trước mặt Dụ Cáp Nhi. Mở miệng nói với giọng lạnh lùng: "Chúng ta đến để tìm ngươi".
Lý Trung khoa trương "A!" lên một tiếng, dừng bước lại, đi đến trước mặt Vương An Thạch, nói: "Nhìn qua trang phục của hai vị thì đều là người có tiền, các ngươi không tìm lộn người chứ. Lý Trung ta dường như không có thân thích như các ngươi".
Vương An Thạch mỉm cười, chỉ vào phòng, nói: "Người tới thì đều là khách, tại sao ngươi không mời chúng ta vào nhà nói chuyện?"
Lý Trung hừ một tiếng, nói: "Hừ! Các ngươi nhất định là lão bản của Vạn Xuân Viên tới đây để đòi tiền đúng không. Ngươi về bảo với bà ta rằng: Lý Trung không phải là kẻ qua đêm với cô nương nhà người ta mà không trả tiền, cho ta vài ngày, chờ hôm nay ta thắng tiền nhất định sẽ đích thân đưa tiền tới trả cho các ngươi".
Sau khi nghe xong, Dụ Cáp Nhi chán ghét nhổ một bãi nước miếng lên mặt đất, nói: "Cái miệng của ngươi buông lời sạch sẽ chút cho ta, cái gì mà Vạn Xuân Viên chứ, chúng ta tới đây là tìm ngươi để phân xử".
Lý Trung vừa nghe vậy, biết người mới đến không có quan hệ cùng Vạn Xuân Viên, trong lòng cũng không lo lắng nữa, nhưng vừa nghe hai chữ 'phân xử', thì lại cảm thấy khó hiểu.
"Dường như ta không quen các ngươi, các người từ đâu tới?"
Phơi nắng dưới ánh mặt trời gay gắt làm cho đầu óc Vương An Thạch cũng có phần choáng váng. Đứng ngoài đường lâu như vậy, một lão nhân như Vương An Thạch có phần không chịu được, thấy Lý Trung cũng không có ý mời bọn họ vào nhà, liền nói: "Ngươi đã không muốn để cho chúng ta vào nhà nói chuyện, chúng ta tìm một chỗ nào râm mát ngồi nói chuyện một chút".
Lý Trung có phần mất kiên nhẫn, người ở nhà bên lại thò đầu ra nghe trộm, Lý Trung lo sợ rằng hai người này tìm tới đây là có việc gì đó. Lo lắng người nhà bên nghe được sẽ đi loa truyền lung tung, có thể sau này mình sẽ không thể nào ở Lý gia thôn nữa, Lý Trung phất tay, ý bảo hai người Vương An Thạch và Vương An Thạch vào cửa.
Lý Trung dẫn Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi tới một cái phòng ở phía Đông, xem ra đành là nhà chính, nhưng mà trong này cũng chỉ có một cái bàn và bốn cái ghế dài, bên tường đặt một số nông cụ, ngoài ra không có vật gì khác.
Dụ Cáp Nhi thấy thần sắc Vương An Thạch mệt mỏi, liền nói với Lý Trung: "Cho chúng ta xin chén nước".
Lý Trung vốn định phát tác, nhưng thấy người nói chuyện là một cô nương xinh đẹp. Dù sao thì cô nương này so với những cô gái đầu bảng ở Vạn Xuân Viên thì còn xinh đẹp hơn vài phần, cho nên hắn đáp lời: "Lão bà của ta không biết đi chết nơi nào rồi. Trong nhà chưa chắc đã có nước, để ta đi kiếm xem". Nói xong liền đi ra cửa, rất nhanh sau đó bưng về hai bát nước.
"Vận khí của hai người không tệ, chỉ còn có hai bát, uống xong rồi nói gì thì nói đi, ta còn phải đi đánh bạc thắng lại tiền của ta".
Vương An Thạch bưng bát nước lên uống. Chỉ thấy Dụ Cáp Nhi liền ngăn lại, lấy một cái trâm màu bạc từ trên đầu xuống khuấy khuấy trong chén. Thấy màu sắc không bị biến đối, lúc này mới để cho lão uống.
Lý Trung thấy vậy mất hứng nói: "Người làm vậy là có ý gì, ta có lòng tốt cho các ngươi uống nước, ngươi còn lo lắng trong đó có độc hay sao?"
Dụ Cáp Nhi mỉm cười, nụ cười này làm cho mắt của Lý Trung trợn tròn lên, một tiểu mỹ nhân thật mê người, "ực!" Hắn nuốt nước miếng một cái, nghĩ thầm: Nếu có thể chung chăn với nàng một đêm, lão tử chết sớm mười năm cũng cam tâm.
"Nghe nói trước kia ngươi là một người làm lụng chăm chỉ mà! Tại sao giờ đã lại chơi bời, cờ bạc, gái gú như vậy?"
Dụ Cáp Nhi thấy Vương An Thạch đã uống xong thì đưa bát nước của mình cho lão uống.
"Ngươi uống đi! Ta hết khát rồi!" Vương An Thạch từ trước đến nay rất ít chú ý đến tiểu cô nương này, hôm nay mới phát hiện ra rằng: Thì ra là nàng cũng cẩn thận và chu đáo như vậy, trong lòng không nhịn được mà cảm động.
"Gia gia người uống đi. Cháu không khát, đi đường xa như vậy, chắc hẳn là rất mệt mỏi".
Vương An Thạch liếc nhìn nàng, thấy ánh mắt nàng chân thành tha thiết, trong nội tâm có phần cảm động, liền nhận lấy bát nước uống một ngụm.
Lý Trung ngồi ở trên ghế dài, một chân bắc lên ghế, Dụ Cáp Nhi trầm mặt lại, còn chưa mở miệng, Vương An Thạch đã nghiêm nghị nói: "Không có quy củ, ngươi bỏ chân xuống cho ta!"
Lý Trung ngẩn ra, bản thân đang muốn phát tác, bỗng nhìn thấy ánh mắt sắc bén của lão nhân kia, toàn thân phát ra khí thế uy nghiêm, lời muốn rời khỏi miệng của hắn bị chặn lại. Nghĩ một chút, sau đó đem chân đặt xuống dưới, trong lòng khó hiểu. Hai người này từ đâu tới đây, tại sao lại còn quản tới việc mình ngồi như thế nào chứ.
"Ta hỏi ngươi điều này". Dụ Cáp Nhi nói: "Tại sao ngươi lại đuổi nương tử của ngươi ra khỏi nhà?"
Lý Trung vừa mới khôi phục tinh thần. Thì thào nói: "Ta! Ta làm gì, cần các ngươi quản đến hay sao?"
Dụ Cáp Nhi than nhẹ một tiếng: "Không phải ngươi làm gì thì chúng ta đều quản đến, mà là một gia đình êm đẹp như vậy lại chính bản thân ngươi phá hoại, ngươi không cảm thấy rất là đáng tiếc hay sao?"
Lý Trung hừ một tiếng. Vốn định tiếp tục bắc chân lên ghế, nhưng vừa thấy vẻ mặt của Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi, đành phải buông tha cho ý muốn này: "Chuyện của nhà chúng ta liên quan gì đến các ngươi, lại nói về lão bà của ta thì không thấy còn tốt, nếu nhìn thấy thì lại tức giận, vừa nhìn thấy đã cảm thấy chán ghét".
Vương An Thạch buông bát nước xuống, nghiêm nghị nói: "Vợ của ngươi thì đáng ghét cái gì hả? Người ta cũng là do ngươi cam tâm tình nguyện cưới hỏi đàng hoàng rồi mới bước vào nhà ngươi, hầu hạ cha già, rồi còn sinh con cho ngươi, trước đó tại sao ngươi không chán ghét?"
Lý Trung tức giận, từ ghế đứng lên, hung dữ nói với Vương An Thạch: "Ngươi rốt cuộc là ai, dựa vào cái gì đến nhà ta rồi còn nói với ta những lời như vậy, ta ghét bỏ nàng ta thì sao nào, ngươi có thể làm gì ta hả?"
Dụ Cáp Nhi tiến lên, nhìn chằm chằm vào vẻ mặt đang tức giận của Lý Trung, cười nhạt một tiếng, nói: "Ngươi ghê tởm cái bướu trên cổ nàng, làm cho nàng không được xinh đẹp như trước kia, phải không?"
Lý Trung ngẩn ra. Không biết tại sao vừa nhìn thấy mỹ nhân này thì mình không thể tức giận nổi.
"Ta! Chuyện của ta không cần các ngươi quản tới, ngươi cũng đã hiểu rằng nàng ta không còn dễ nhìn như trước kia, sao còn hỏi ta làm gì?"
"Người vợ cùng chịu cảnh nghèo hèn với mình không thể ruồng bỏ, đạo lý này mà ngươi cũng không hiểu hay sao?" Vương An Thạch nói.
Lý Trung cười gằn một tiếng, đáp lời: "Thật đúng là bã cám, xấu như vậy khiến cho Lý Trung cả ngày phải sống với một quái vật, ta thà chết còn hơn".
Dụ Cáp Nhi nghe xong lời này, cũng tức giận mà quát lên: "Cái tên cặn bã nhà ngươi, vậy ngươi chết đi cho ta! Ngươi nhìn lại mình xem, một đại nam nhân. Cả ngày ngoại trừ việc tham hoa háo sắc, bài bạc rượu chè, không làm được việc gì cho đàng hoàng, ngươi thì có cái gì mà chê nàng chứ".
"Ngươi! Ngươi là cái quái gì chứ, vì sao ngươi muốn ta chết thì ta phải chui vào chỗ chết chứ".
"Ha ha, là tự ngươi nói muốn chết đó chứ, có phải ta bảo ngươi đi chết đâu, chỉ là nhìn bộ dáng hoảng sợ của ngươi, chỉ dám nói mà không dám làm, nếu thật sự bảo ngươi đi chết, không khéo lại mới chỉ làm xước tý da đã làm ầm ĩ khiến cho tất cả mọi người trong thôn đều biết".
"Ta là một đại nam nhân, không đến mức yếu ớt như ngươi nói đâu, xem đây!" Nói xong hắn vén tay áo của mình lền, chỉ thấy trên cánh tay trái có một vết sẹo từ rất lâu, quanh co ngoằn nghoèo giống như một con rết bò trên đó vậy.
"Vết sẹo này là do lúc trước, sửu quý xấu xí kia mang thai em bé muốn ăn táo chua, ta lên núi đi hái không cẩn thận mà bị té xuống từ trên núi, lúc đó xương cốt lộ ra có thể thấy được, nhưng ta ngay cả một tiếng rên cũng không phát ra".
Vương An Thạch giật mình, thấy bộ dáng tức giận của Lý Trung, nói: "Xem ra ngươi cũng không phải là loại người tội ác tày trời giống như người khác kể lại, ta cảm thấy Tiểu Liên nói cũng đúng, nàng kể rằng trước kia ngươi đối với nàng rất tốt, hiểu rằng ngươi cũng không phải là một kẻ vô tình. Ài! Đáng tiếc đã muộn rồi, nếu nàng biết rằng bây giờ ngươi vẫn còn tốt với nàng thì cũng không nghĩ đến việc tìm con đường chết".
"Cái gì! Ngươi bảo Tiểu Liên... nàng làm sao hả?" Lý Trung lập tức đứng lên, thoáng cái đã đứng trước mặt Vương An Thạch, cơ hồ muốn nâng cổ lão của tiểu lão đầu này lên.
Dụ Cáp Nhi hiểu được ý tứ của Vương An Thạch, liền theo ý của lão mà nói tiếp: "Ngươi hàng ngày hết đánh rồi mắng chửi người ta, người ta làm sao mà chịu được, không phải là người hỏi chúng ta là nàng giờ thế nào sao? Ta cho ngươi biết, Tiểu Liên của ngươi đã giao Bảo Nhi cho chúng ta nuôi dưỡng, chúng ta chỉ đến báo trước cho ngươi một tiếng mà thôi".
"Tiểu Liên, nàng ra sao rồi?" Trên trán của hắn lộ gân xanh. Con người chính là như vậy, bình thường thì chán ghét không quan tâm đến, nhưng lúc mất đi mới hiểu được sự quý trọng.
Vương An Thạch hai tay dang ra, vô tội nói: "Chúng ta không biết! Nàng chỉ nói là sống không còn ý nghĩa gì nữa, trước kia ngươi đối xử với nàng rất tốt. Giờ đây ngươi không còn tốt với nàng như lúc trước nữa, nàng cảm thấy sống không còn ý nghĩa, chi bằng tự tìm cái chết để giải thoát!"
"Tiểu Liên!" Lý Trung khàn giọng gọi, xông tới cửa, sau đó lại chạy trở lại: "Nàng ở đâu? Tại sao các ngươi không cứu nàng? Những kẻ giàu có như các ngươi lại có tâm địa độc ác như vậy, trông thấy người ta tìm đến cái chết mà không khuyên can, các ngươi cút ra ngoài cho ta!" Lý Trung phẫn nộ túm lấy cổ áo Vương An Thạch kéo ra ngoài, Dụ Cáp Nhi sợ rằng Lý Trung sẽ làm cho Vương An Thạch bị ngã cho nên tiến tới ngăn lại. Lý Trung đang trong cơn tức giận, đâu thèm để ý tới một nữ tử chân yếu tay mềm, vung tay đánh ra một quyền, Dụ Cáp Nhi nghiêng người tránh né, bắt lấy cánh tay hắn, dựa vào thế đang tiến mà đẩy Lý Trung ra xa, thân thể hắn nặng nề đập vào vách tường.
"Ngươi! Một tiểu cô nướng như ngươi tại sao lại có sức mạnh như vậy? Các ngươi rốt cuộc là rốt cuộc là ai? Trả lại Bảo Nhi cho ta". Lý Trung một lần nữa nhào về phía Dụ Cáp Nhi.
Ai ngờ vừa đón đỡ vùa nói: "Xem ra không phải ngươi lo lắng cho Tiểu Liên mà là sợ Lý gia các ngươi không còn người hương khói chứ gì? Ta đã nói ngươi không phải là hạng người tốt lành gì. Thế mà gia gia ta còn bảo rằng ngươi không phải là kẻ xấu".
Lý Trung đã được kiến thức về quyền cước của Dụ Cáp Nhi, không dám tùy tiện động thủ nữa, khóc lóc nói: "Xin các ngươi, nói cho ta biết Tiểu Liên đang ở nơi nào?"
Lúc này ở ngoài cửa có người hô lớn: "Lý Trung có ở nhà không?"
Dụ Cáp Nhi nghe thấy giọng của Ninh công công, liền bước ra cửa, Lý Trung chạy theo ra xem có chuyện gì, chỉ thấy một nam tử đứng ngoài của, bên người còn có một nữ nhân ôm một bọc tã, Lý Trung vừa nhìn thấy. Lập tức kinh hỉ, còn tưởng là ảo giác, không nhịn được mà vuốt vuốt cặp mắt của mình.
Dụ Cáp Nhi vừa cười vừa nói: "Nhìn không rõ thì tiến lên mà xem đi, nhìn xem là ai đã trở lại".
Lý Trung vừa nghe xong lời của Dụ Cáp Nhi, quả nhiên lập tức tiến tới gần hơn quan sát vợ con của mình, nhìn thấy trên cổ nàng được bọc một lớp vải trắng, cái bướu thịt dọa người kia đã không còn nhìn thấy, lại khôi phục khuôn mặt thanh tú động lòng người trước kia. Lý Trung nhất thời không biết nói cái gì cho phải nói cái gì cho phải, chân tay luống cuống đứng ở trong sân, hai người một ngoài một trong đứng đối mặt nhau. Đều cảm thấy tâm tình rất kích động.
"Lý lang, thiếp đã trở vể. Trong mắt Tiểu Liên rưng rưng lệ, khóe miệng run rẩy, mỉm cười nhìn nam nhân trước mặt đang xấu hổ, ôn nhu cất lời.
Vương An Thạch tiến lên phía trước, vỗ vỗ bả vai của Lý Trung, chỉ vào Tiểu Liên mà nói: "Đại phu của chúng ta đã giúp nương tử của ngươi cắt đi cái bướu trên cổ, sau này vết sẹo cũng không quá nửa tấc, tóc hoặc là cổ áo cao là có thể che khuất. Ta thấy ngươi cũng có lòng ăn năn nên không dạy dỗ ngươi một trận, sau này đối xử cho tốt với vợ con".
"Ngươi còn đứng đó làm gì, chẳng lẽ còn muốn cho Tiểu Liên tiếp tục bỏ nhà ra đi sao?" Dụ Cáp Nhi đi đến bên cạnh Lý Trung trêu chọc nói.
Lý Trung lúc này mới hồi phục lại tinh thần, vội vàng mở cửa ra, bước nhanh tới đón, đi đến trước mặt Tiểu Liên, chăm chú nhìn bàn tay nhỏ bé của thê tử, nghẹn ngào nói: "Cái bướu trên cổ nàng đã không còn nữa! Thật sự như vậy sao?"
Tiểu Liên mỉm cười gật nhẹ đầu.
Lý Trung mừng rỡ như điên, đưa tay ôm lấy Tiểu Liên cùng với hài tử vào trong lồng ngực của mình, nói: "Vậy là tốt rồi! Vậy là tốt rồi! Ta cuối cùng cũng không phải lo lắng người trong thôn nói rằng nương tử của ta là một quái vật. Ha ha! Cuối cùng cũng không sợ bị kẻ khác xem thường nữa rồi! Ha ha ha! Tiểu Liên nàng không xảy ra chuyện gì là tốt rồi, vừa rồi ông cụ kia nói rằng nàng đã chết, dọa cho ta sợ chết khiếp!"
"Ngươi còn muốn cho Tiểu Liên đi tìm chết à?" Dụ Cáp Nhi thấy một nhà đoàn tụ cũng vạn phần xúc động, đứng ở bên người Vương An Thạch vừa cười vừa nói.
Lý Trung nói: "Đương nhiên ta không nỡ để nàng tìm đến cái chết rồi, chỉ là trong thôn có một số tên khốn nạn thường xuyên cười nhạo cái bướu thịt trên cổ Tiểu Liên, ta cũng bị bọn họ chê cười, trong lòng cảm thấy khó chịu, cho nên càng nhìn Tiểu Liên thì lại càng thấy không vừa mắt".
Vương An Thạch vuốt vuốt chòm râu cất lời thành khẩn: "Ai cũng có lúc bị bệnh hay gặp tai họa, vợ chồng hai ngươi nên ủng hộ đùm bọc lẫn nhau, còn ngươi ngược lại không đi tìm người chữa bệnh cho nàng mà còn hắt hủi ngược đãi nàng, lại còn đánh đập, đó không phải là điều mà nam nhân không nên làm ra".
"Đúng vậy! Lão nhân gia ngài dạy rất đúng!" Lý Trung có phần ngượng ngùng, nói.
"Giờ đây Tiểu Liên đã trở lại, sau này sống cho tốt. Không nên đánh đập mắng chửi nàng, nữ nhân bên ngoài dù xinh đẹp thì cũng chỉ là chồng hờ vợ tạm, một đêm vui vẻ, ngươi nói có đáng không?" Ninh công công mở lời.
Lý Trung liên tục gật đầu, nói: "Cảm ơn các vị đã cứu nương tử cùng hài tử của ta, ta cũng không biết các vị là ai, vừa rồi có chỗ nào mạo phạm thì kính xin lão nhân gia cùng vị cô nương này đừng nên trách cứ".
"Không sao! Mục đích chuyến đi này của chúng ta đã đạt được, chúng ta cũng nên đi thôi".
Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi đi ra cửa sân, đã thấy xe ngựa Ninh công công đưa tới cách đó không xa.
"Các vị là đại ân nhân của Lý gia chúng ta, tại sao có thể cứ như vậy mà bỏ đi, Tiểu Liên nhanh sang nhà Lý thẩm ở cách vách xin ít thực vật, để cho các vị ăn chút gì rồi đi cũng không muộn".
"Không được! Chúng ta phải sớm trở về. Bướu thịt trên cổ Tiểu Liên tuy đã được cắt bỏ, nhưng thân thể vẫn còn yếu đuối phải nghỉ ngơi an dưỡng vài ngày, cần thoa thuốc ngoài da và uống thuốc của chúng ta mang đến, ngươi phải nhớ kỹ mà chăm sóc cho nàng mới được".
Lý Trung không biết nói như thế nào mới tốt, lập tức quỳ gối xuống dưới chân Vương An Thạch, dập đầu liền ba cái, Ninh công công đưa tay đỡ hắn lên, nói: "Được rồi! Mang theo hài tử cùng nương tử của người vào nhà đi".
Lúc này, cách đó không xa có ba nam nhân đang ngó ngó nghiêng nghiêng, trong đó có một người hô lớn: "Lý Trung, chúng ta đang chờ người tới đánh bài, nhanh lên nào!"
Lý Trung quay đầu lại đáp: "Không đánh, sau này ta cũng không đánh nữa".
Vương An Thạch nhìn Dụ Cáp Nhi cùng Ninh công công, ba người hiểu ý gật đầu mỉm cười. Vào lúc này, mặt trời đã ngả về phía tây. Mục đồng cũng đã trở về.
Tâm tình bọn họ rất vui vẻ, nhưng ở trong huyện thành thì Tống Thần Tông cùng Đỗ Văn Hạo thì lại hết sức buồn bực.
Mấy người Vương An Thạch đi rồi, Đỗ Văn Hạo đem chuyện buổi sáng mình tới hiệu thuốc Huệ Dân nói với Tống Thần Tông. Sau khi Tống Thần Tông nghe được việc tiệm bán thuốc của huyện nha lại có thể giả dối làm hại đến Cam lão hán, thiếu chút nữa thì tan cửa nát nhà, thì đột nhiên trở nên giận dữ, cầm lấy ấm trà trong tay ném mạnh xuống đất, một riếng "Rầm!" vang lên khiến cho chưởng quầy cũng phải chạy tới, Đỗ Văn Hạo không mở cửa, chỉ nói là không có chuyện gì, chưởng quầy lúc này mới rời di.
Tống Thần Tông thở hồng hộc đứng bên cửa sổ, nhìn ánh nắng mặt trời chiều lên giường, trong nội tâm lo lắng: "Là ta điều động vật tư từ các nơi thị dịch ti, giá cả đã được định trước, hiện tại lại trở thành phương tiện để bọn chúng bóc lột dân chúng, trở thành tai họa của nhiều người! Thật là đáng cười! Ta muốn đem cả nhà bọn sâu mọt này, tịch thu tài sản giết kẻ phạm tội. Phóng thích sự buồn bực trong lòng ta".
Đỗ Văn Hạo không dám có ý kiến, loại vấn đề quốc gia đại sự này hắn không nên xen vào, "nan đắc hồ đồ" (ít khi hồ đồ) bốn chữ nãy dễ nói, nhưng chính thức làm thì không phải ai cũng làm được, rất nhiều người chỉ sợ người khác không biết mình thông minh, lại thông minh không đúng lúc. Kết quả là thông minh quá sẽ bị thông minh hại.
Tống Thần Tông ở trong phòng đi đi, đi lại mấy vòng, sau đó đứng lên, trầm giọng nói: "Không được! Chuyện này không thể nghe lời từ một phía, ta không tin, đường đường là quan nha mà lại làm ra việc hại dân hại nước như vậy! Văn Hạo, ngươi đi một chuyến, làm rõ chuyện này cho ta. Cần phải nắm được chứng cứ rõ ràng!"
Đỗ Văn Hạo khom người nhận lệnh, suy nghĩ một chút rồi thấp giọng nói: "Ngũ gia! Có câu bắt kẻ thông dâm thì bắt cả hai, bắt giặc thì bắt vương, muốn phân biệt thật giả chỉ cần đến hiệu thuốc Huệ Dân thì sẽ hiểu rõ".
Chương 288: Buông lưới
"Lúc chúng ta đi trên đường, không phải là những nạn dân đã nói rồi sao, muốn buôn bán cùng thị dịch ti thì chỉ cần đút lót là có thể được tham gia. Bỏ ra một số vốn có thể kiếm được rất nhiều tiền, chỉ là tiền này đều là của triều đình. Lúc ấy ta không thể nào tin được là quan phủ lại làm ra loại sự việc này, hiện giờ gặp phải chuyện Cam lão hán cùng tiệm bán thuốc Huệ Dân, ta đã có phần tin rồi. Hiện tại chỉ thiếu bằng chứng, tự mình đi xem là có thể phân biệt được thật giả".
" Ý của ngươi là?"
" Ngũ gia. Thần đã nghĩ kỹ, ta đến dược phô mua thuốc giả Huệ Dân. Sau đó đưa hối lộ để xem có thể đem những thuốc này bán cho thị dịch ti hay không, tiếp theo lại bảo Vương đại nhân đi mua hàng, xem có thể đưa nhóm hàng này trở vể hay không, chẳng phải như vậy là có bằng chứng rồi sao?"
" Rất tốt!" Tống Thần Tông vỗ tay hô lớn: "Biện pháp này rất hay. Ngươi lập tức đi lo liệu ngay! Lập tức!"
"Vâng!" Đỗ Văn Hạo lĩnh mệnh xoay người bước ra, Tống Thần Tông đột nhiên gọi hắn quay lại: "Ta đi cùng với ngươi! Bọn chúng chỉ là một tiểu huyện nha, không có người nào nhận ra ta. Ta muốn tận mắt nhìn xem nhìn xem bọn súc sinh này bóc lột dân chúng như thế nào!"
Đỗ Văn Hạo có phần do dự, thấp giọng nói: "Ngũ gia, người muốn đi thì nên bình tĩnh, đừng quá tức giận, hai chúng ta thì không thể chống lại được nhiều nanh vuốt như vậy, muốn trị bọn chúng, thì chỉ cần sau khi điều động nhân mã, bọn chúng không thể chạy thoát được."
" Yên tâm. Trong lòng ta hiểu rõ!"
Hai canh giờ sau, Tống Thần Tông trong mắt lửa giận đùng đùng, chân bước nhanh ra khỏi nha môn, dẫm lên con đường ốp đá xanh tạo nên những tiếng thình thịch. Đỗ Văn Hạo đi theo đằng sau, trong ngực hắn ôm một chồng ngân phiếu, đây là do vừa rồi bọn họ đem mấy xe dược liệu trà trộn vào bán cho dịch tư nha môn mà đổi được tiền. Đương nhiên, điều này là do trước đó Đỗ Văn Hạo dùng phương pháp đưa tiền cho La chưởng quỹ của dược phô Huệ Dân nhờ hắn giúp đỡ đưa hối lộ để kết giao. Dùng tiền nhanh chóng có thể làm cho tất cả quan lại lớn nhỏ của thị dịch ti đồng ý.
Vị quan tai to mặt lớn Đề Cử đại nhân của thị dịch ti trông thấy số tiền lớn của Đỗ Văn Hạo, hai con mắt nhỏ sáng lên, vừa quen biết một lúc đã xưng huynh gọi đệ, rất thống khoái mà mua toàn bộ dược liệu của Đỗ Văn Hạo với giá cao gấp đôi so với ngoài thị trường, mà ngay cả liếc mắt cũng không thèm liếc qua một cái, lập tức phân phó đưa dược liệu vào trong kho hàng.
Đây là lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo đưa hối lộ, mới đầu có chút gượng gạo, nói chuyện có phần lo lắng không yên tâm. Nhưng lúc đưa tiền ra, hai mắt đối phương sáng rực lên tiếp nhận, lại cảm thấy quá dễ dàng. Tống Thần Tông đóng giả làm người hợp tác. Nghe cuộc đối thoại của Đỗ Văn Hạo từ đầu đến cuối, lửa giận bốc tới đỉnh đầu. Hàm răng Tống Thần Tông cắn chặt lại, lúc này mới có thể áp chế lửa giận không bộc phát, sau khi ra khỏi đại môn của nha môn, thì cũng bất chấp mình là vua của một nước mà buông ra câu chửi tục.
Hiện tại chỉ cần chờ bọn Vương An Thạch trở về, đóng giả làm người mua thuốc đi tới tìm những dược liệu đó, để xem có thể mua dược liệu về hay không.
Vương An Thạch, Dụ Cáp Nhi cùng Ninh công công trở lại dược phô, Vương An Thạch nghe Đỗ Văn Hạo kể những sự việc vừa trải qua, lão không có tức giận, bởi vì lão căn bản tin rằng không thể có loại chuyện này, lão và Tống Thần Tông suy nghĩ cũng không khác nhau là mấy. Một đường đi tới chức vụ hiện nay, sau khi thi cử đề danh lão cũng chưa từng trải qua chuyện này, nếu không có bằng chứng xác thực thì lão không tin thế gian lại có loại sự việc xấu xa tới mức này, chỉ ngây như phỗng mà trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo. Dường như là không hề tin vào việc này. Sau đó nhìn tới sắc mặt tái nhợt vì tức giận của Tống Thần Tông mới biết rằng đây là sự thật.
Thấy Vương An Thạch như vậy. Đỗ Văn Hạo hiểu rõ tính cách của lão phu tử này, chỉ sợ lão sẽ không kìm nén được sự phẫn nộ. Vận nhất mà đả thảo kinh xà chẳng phải sẽ trở thành kiếm củi ba năm thiêu một giờ sao? Lo lắng lão đi nhập hàng sẽ lộ tẩy, cho nên sau khi bàn bạc thì quyết định để cho La chưởng quỹ của dược phô Huệ Dân dẫn lão đi, nhưng dặn dò lão tận tức tiết kiệm lời nói, không được tiết lộ thân phận, Vương An Thạch cũng biết đại sự quan trọng, nhất định phải coi trọng đại cục, đành phải gặng gượng đè ép lửa giận rồi tính sau.
Sau khi La chưởng quỹ biết được Đỗ Văn Hạo chính là ngũ phẩm ngự y đại phu. Hắn ta sợ muốn chết, đương nhiên không dám trái lời Đỗ Văn Hạo, nghĩ thầm lúc này cố gắng cũng là một cơ hội lấy công chuộc tội, tương lai có thể được xem xét, cho nên đầu tiên là giúp Đỗ Văn Hạo đưa hối lộ bán dược, sau đó lại thu xếp mang theo Vương An Thạch đi thu dược.
Đến khi trời tối, Vương An Thạch cùng La chưởng quỹ trở về mang theo một xe dược liệu, Đỗ Văn Hạo lập tức kiểm tra. Quả nhiên chính là số dược liệu mà buổi trưa bọn họ vừa bán cho thị dịch ti nha môn.
Tống Thần Tông lại lần nữa không nén được lửa giận đang sôi sục, lạnh lùng hạ lệnh cho Vương An Thạch đi tới nơi đóng quân tiết lộ thân phận, điều khiển quân đội tới bao vây nha môn, bắt hết toàn bộ bọn quan lại liên quan tới thị dịch tư.
Không đợi Vương An Thạch đáp ứng thì ở bên ngoài chợt nghe tiếng ở huyên náo rối loạn ngoài cửa sổ, âm thanh khóc cha gọi mẹ liên tục vang lên. Dụ Cáp Nhi vội vàng chạy đến bên cửa sổ nhìn ra bên ngoài, vui vẻ nói: "Không cần đi điều binh lính nữa. Phía dưới có rất nhiều binh sĩ đã tới!"
Mọi người vừa nghe vậy đều nhanh chóng chạy tới cửa sổ quan sát, vừa nhìn quả nhiên là thấy rất nhiều binh lính cầm vũ khí nhanh chóng tiến đến.
"Tiểu Trữ Tử. Ngươi đi xuống dưới lầu hỏi chưởng quầy của khách điếm xem xảy ra chuyện gì vậy?"
"Ngũ gia. Bây giờ ta có cần phải đi tìm người điều binh tới không?" Vương An Thạch mở miệng hỏi.
"Tạm thời không cần. Để xem dưới lầu xảy ra chuyện gì rồi tính sau". Khuôn mặt Tống Thần Tông trở nên âm trầm, Vương An Thạch biết điều lui xuống.
Rất nhanh Ninh công công chạy tới, thần sắc khẩn trương tới trước mặt Tống Thần Tông thấp giọng muốn nói, ai ngờ Tống Thần Tông đang lúc tức giận, quát lớn: "Nói lớn một chút cho ta. Ngươi lâu ngày không có miếng cơm nào vào bụng hay sao thế?"
Thời gian gần đây, Tống Thần Tông rất hay nổi nóng. Ngay cả Ninh công công cùng Đỗ Văn Hạo, hai người bình thường rất ít bị mắng cũng không thể không hầu hạ cẩn thận hơn.
Ninh công công vừa nghe, vội vàng điều chỉnh giọng nói, nói lớn: "Là người dân vây công thị dịch ti. Tiếp theo là binh lính tiến tới dùng vũ lực để trấn áp, bắt hết bọn họ tới nha môn, bởi vì người quá đông nên tạm thời giam ở hậu viện".
"Nói cái gì! Hỏi nguyên nhân vì sao, vì sao vô duyên vô cớ mà nhiều người như vậy tới bao vây nha môn?"
"Đã hỏi rồi. Cư dân nói là Thị Dịch Ti thu mua lương thực cùng rau dưa với giá cao, làm cho giá thị trường tăng cao đột ngột, không ít tiêu thương bị phá sản, dân chúng không mua được thực phẩm cho cuộc sống hắng ngày cho nên mới xảy ra tình trạng như vậy".
"Phản! Phản, cái loại quan này giữ lại làm gì, đợi ta đi tìm người bắt bọn cẩu quan này". Còn không đợi Tống Thần Tông bốc hỏa, Vương An Thạch đã không kiềm chế được, ngay lập tức xông ra ngoài cửa.
Vương An Thạch vừa mới phát hỏa, Tống Thần Tông lại bình tĩnh trở lại, quát: "Ngươi quay lại cho ta".
"Vương ái khanh nói rất đúng, nhưng ngươi không thể đi một mình, ngươi hãy mang theo Lâm cô nương để phòng ngừa vạn nhất".
"Ngũ gia, ta nghĩ nên để Lâm cô nương ở lại bên cạnh ngài, để cho Dụ Cáp Nhi đi cùng ta là được rồi, ta nghĩ nàng có thể phụ trách được. Không riêng mồm miệng lanh lợi, công phu của nàng cũng không tồi, hơn nữa ta sẽ để lộ thân phận, hẳn là sẽ không xảy ra vấn đều gì lớn".
"Ngũ gia. Ta cảm thấy Vương chưởng quỹ nói có lý, hãy để cho Thanh Đại tỷ tỷ cùng ta ở lại bên cạnh ngài thì hay hơn". Đỗ Văn Hạo cũng nói.
Tống Thần Tông nghĩ một chút rồi phất tay, Vương An Thạch yêu cầu dẫn theo Dụ Cáp Nhi ra ngoài, Tống Thần Tông lại nói: "Dụ Cáp Nhi, ngươi đi đi, các ngươi nhớ cẩn thận".
"Ngài yên tâm. Ta sẽ chiếu cố tốt cho Vương đại nhân". Dụ Cáp Nhi hiểu Tống Thần Tông muốn nói gì, liền biểu lộ thái độ.
Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi vừa đi, Tống Thần Tông ngồi ở phía trước cửa sổ nhìn tình cảnh hỗn loạn dưới lầu, thần sắc nghiêm túc, không nói một lời nào. Ba người Đỗ Văn Hạo cũng chỉ yên lặng mà đứng một bên chờ tin tức của Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi.
Thời gian phảng phất như đọng lại, trôi chậm chạp như đang trải qua một thế kỷ, cuối cùng Tống Thần Tông cười một tiếng làm cho bọn họ tỉnh lại giống như vừa một phen du ngoạn chốn thần tiên. Mấy người Đỗ Văn Hạo, lúc này eo đã mỏi chân đã tê rần, Tống Thần Tông đang lạnh lùng như vậy đột nhiên cười làm cho Ninh công công suýt nữa thì ngã chổng vó.
"Ngũ gia, tại sao ngài lại cười ạ?" Ninh công công vịn thành cửa sổ cận thận quan sát thần sắc của Tống Thần Tông, lo ngại trong nụ cười này còn mang theo ý tứ gì.
Tống Thần Tông liếc nhìn ba người bọn họ, thấy bộ dáng mệt mỏi của mỗi người, vừa cười vừa nói: "Tại sao các ngươi lại đứng, nhanh ngồi xuống đi".
Giống như là tội phạm được đặc xá, Đỗ Văn Hạo là người đầu tiên ngồi xuống, miệng không nhìn được mà "ôi!" một tiếng, thấy Tống Thần Tông nhìn mình, có phần xấu hổ, vội vàng giải thích: "Mấy ngày trước đây không cẩn thận bị sái lưng, cho đến giờ vẫn chưa khỏi hẳn".
"Ừm! Ta biết ngươi không phải là người hay kêu ca, các ngươi có biết tại sao ta cười không?"
"Không biết!" Ba người cùng trả lời.
Tống Thần Tông chỉ chỉ Lâm Thanh Đại, ở bên ngoài Lâm Thanh Đại ngoại trừ khi ở trước mặt Đỗ Văn Hạo nói nhiều hơn một chút, thì dọc theo con đường này kể cả khi ở chung một phòng với Dụ Cáp Nhi cũng rất ít nói chuyện. Cùng với ba nam nhân khác thì càng ít nói hơn. Thấy Tống Thần Tông đột nhiên chỉ vào mình. Chẳng biết tại sao khuôn mặt thoáng cái đỏ hồng lên.
"Ta cười vì ba chuyện, chuyện thứ nhất là về Lâm cô nương".
"Ngũ gia, ta... ta có cái gì đáng cười?" Lâm Thanh Đại trộm liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn thấy hắn ù ù cạc cạc, trong nội tâm càng cảm thấy khó hiểu.
"Cười tỉnh cảm của ngươi đối với Văn Hạo cất giấu rất sâu, nếu con mắt mà cũng biết nói dối thì ai có thể nhận ra chứ?"
Lâm Thanh Đại vừa nghe vậy, khuôn mặt càng đỏ hơn. Đỗ Văn Hạo vẫn đang suy nghĩ, rốt cuộc là Tống Thần Tông cười điều gì, vì sao tự nhiên lại có thể thoải mái nói giỡn với mọi người như vậy, khiến cho hắn cảm thấy kỳ quái, hắn vốn là một người hiểu lòng người. Làm sao có thể giấu diếm được hắn, hẳn là phía sau câu chuyện này có điều gì đó không ổn.
"Làm cho Ngũ gia chê cười rồi, vẫn là không thể gạt được con mắt của Ngũ gia, chuyện đáng cười thứ hai là gì vậy?" Đỗ Văn Hạo cố ý chuyển chủ đề, để cho Lâm Thanh Đại khỏi phải xấu hổ tới mức tìm cái lỗ nào mà chui xuống.
"Việc thứ hai, tất nhiên là cười Dụ Cáp Nhi cùng Vương lão phu tử".
Ba người vừa nghe xong đều mỉm cười, Tống Thần Tông nói tiếp: "Đừng thấy lão phu tử hàng ngày nét mặt khó gần, ngoại trừ tính tình hơi nghiêm túc thì tấm lòng rất tốt. Nhưng thấy Dụ Cáp Nhi dám hỗn với hắn cho nên mới tức giận! Ta thì theo ý của hắn mà mắng cho Dụ Cáp Nhi một trận, thứ nhất là cảnh tỉnh Dụ Cáp Nhi, với tính cách của nàng thì sau này ở hậu cung sẽ phải chịu khổ, ta tuy chưa bao giờ hỏi đến việc hậu viện nhưng ta cũng biết 'nhiều nữ nhân thì nhiều chuyện thị phi'. Không thể để cho Dụ Cáp Nhi muốn làm gì thì làm. Thứ hai là nhân cơ hội này để cho bọn họ hiểu thêm về đối phương, các ngươi xem hôm nay bọn họ rất thân thiết, ngay cả tiếng gia gia cũng đã gọi. Các ngươi nghĩ lại xem, quả thật là lão phu tử chiếm được tiện nghi rất lớn, Dụ Cáp Nhi gọi hắn là gia gia, như vậy chẳng phải bối phận so với ta còn lớn hơn hay sao?"
Mọi người lại cười, Ninh công công thấy trong lời nói của Tống Thần Tông cũng không có gì nghiêm trọng, liền vội vàng hỏi tiếp: "Điều thứ ba đáng cười là gì?"
Tống Thần Tông đột nhiên ngừng cười, đứng dậy chỉ xuống dưới lầu, trầm giọng nói: "Cười chính mình, cười vậy mà cả ngày ngồi ở trên Kim Giám Điện tưởng rằng trăm họ an khang sung túc, nghe văn võ bá quan cả ngày ca tụng công đức của ta, ta liền cho rằng đó là sự thật, liền lấy làm tự hài lòng, thật ra ta sai rồi, trên thế gian này thì kẻ đáng cười nhất chính là bản thân ta. Ếch ngồi đáy giếng, tầm nhìn hạn hẹp".
Ba người vừa nghe, vội quỳ trên mặt đất, Đỗ Văn Hạo nói: "Hoàng Thượng, đây không phải là lỗi của ngài, kẻ sai là những người trong nội tâm có một chữ 'tham', không thấy được lòng tốt của ngài đối với họ, 'ăn công lương cầm bổng lộc' lại làm việc trái với tấm lòng của ngài. Đây không phải là lỗi của ngài".
"Hoàng Thượng, Đỗ đại nhân nói rất đúng, không phải lỗi của ngài". Khi mà Ninh công công còn chưa dứt lời, đột nhiên ở cửa ra vào vang lên một tiếng "rầm!", Lâm Thanh Đại quát một tiếng lao ra khỏi cửa, chỉ thấy một bóng đen lóe lên sau đó nhảy xuống lầu.
Lâm Thanh Đại trở lại gian phòng, nói với Tống Thần Tông: "Ngũ gia, xem ra chúng ta không thể ở lâu lại nơi này, lời của chúng ta vừa có khả năng đã bị kẻ khác nghe thấy".
Thần tình của Tống Thần Tông hờ hững, lắc đầu nói: "Không! Chúng ta cứ ở chỗ này chờ Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi, ta muốn ở xem bọn họ biết thân phận thực sự của ta rồi còn muốn làm gì nữa".
"Hoàng Thượng chúng ta nên đi thôi, Lâm cô nương nói rất đúng. Bây giờ chúng ta chỉ có bốn người. Mặc dù Lâm cô nương võ công lợi hại, nhưng cũng là ít người không đánh lại được nhóm đông", Ninh công công khuyên.
"Các ngươi đừng nói thêm gì nữa, ta ở chỗ này chờ, ta đường đường là hoàng đế của Đại Tống, lẽ nào không thể chống lại được bọn rùa đen rụt đầu?"
Mọi người thấy không thể khuyên bảo, đành phải đóng cửa lại, Lâm Thanh Đại đứng phòng thủ ở cửa ra vào, Đỗ Văn Hạo thì đứng ở cửa sổ quan sát tình thế bên dưới.
Sau nửa canh giờ, dưới lầu đột nhiên truyền đến một loạt tiếng bước chân dồn dập: "Ngũ gia! Ngũ gia! Không hay rồi, dưới lầu đột nhiên có rất nhiều nạn dân đang xông tới. Nói là muốn lấy tiền của Ngũ gia mua lương thực để phát cháo, các vị nhanh đi đi".
Lâm Thanh Đại mở cửa ra xem xét, thì ra là lão bản của khách điếm, chỉ thấy thần sắc lão bản bối rối, vào cửa xong vội vàng đồng cửa lại, đi đến trước mặt Tống Thần Tông, nói: "Không biết là ai nói Ngũ gia ở đây, nhanh lên kẻo không còn kịp, ngài đi ra trước, ta sẽ sai tiểu nhị ngăn cản một lúc, chỉ sợ rằng ngăn cản cũng không được lâu đâu".
Không kịp nghĩ nhiều, Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại bước qua lão bản của khác điếm, quan sát phía dưới, quả nhiên thấy ở phía dưới khác điễm có nhất nhiều nạn nhân đang hùng hổ tiến tới, sắp xông lên đến nơi.
"Hoàng Thượng hãy để cho Thanh Đại tỷ đưa ngài đi trước theo hướng cửa sau", Đỗ Văn Hạo vội vàng nói.
Tống Thần Tông gặp phải tình thế này cũng không thể không đi được nữa, đứng dậy đang muốn rời đi cùng Lâm Thanh Đại, đột nhiên cửa sau mở ra, mấy người Đỗ Văn Hạo khẩn trương nhìn lại, không ngờ lại là hai người Vương An Thạch cùng Dụ Cáp Nhi.
"Hoàng Thượng, chúng ta đã trở về". Dụ Cáp Nhi vọt tới trước mặt Tống Thần Tông.
"Người các ngươi gọi tới đâu?" Tống Thần Tông nhìn phía sau họ không thấy người nào, lòng trầm xuống, âm thanh nói chuyện có chút run rẩy.
"Hoàng Thượng đừng vội, chúng ta đã tìm được người, bọn họ đang trên đường tới đây, Dụ Cáp Nhi cùng ta đều lo lắng cho an nguy của người nên vội vàng trở về trước, ai ngờ khi định bước vào cửa thì phát hiện tình huống không ổn cho nên vội vàng vào theo cửa sau".
Ninh công công sốt ruột nói: "Đáng lẽ các ngươi nên tìm vài người đi theo, làm sao bây giờ? Có kẻ loan tin Ngũ gia có tiền, làm cho rất nhiều nạn dân tới đây gây rối loạn muốn Hoàng Thượng mua lương phát cháo, việc này phải làm sao cho tốt đây?"
"Ta nghĩ muốn mua lương phát cháo là giả, có người phát hiện Hoàng Thượng cải trang là thật, là muốn thừa dịp hỗn loạn mà muốn làm phản mới là mục đích chính".
"Văn Hạo nói rất đúng, hiện tại ra ngoài tìm người cũng không hợp với tình hình, ta nghĩ đi cũng không thể đi rồi, bọn chúng dám đến tất nhiên là đã có chuẩn bị, cửa sau cũng đã không thể đi được, không bằng ở lại chờ viện binh thôi", Tống Thần Tông nói xong lại ngồi xuống.
"Hoàng Thượng, vừa rồi chúng ta phát hiện một thân ảnh quen thuộc trong đám người này, người này là kẻ cầm đầu gây ra hỗn loạn", Vương An Thạch đột nhiên nghĩ tới điều gì, đi đến trước mặt Tống Thần Tông nói.
"Thân ảnh quen thuộc? Ngươi nhận ra? Là ai vậy?" Tống Thần Tông cảm thấy sự tình có phần kỳ lạ, Vương An Thạch nhận biết thì hẳn phải là kẻ làm quan, đã là kẻ làm quan, vậy chuyện này nhất định không phải là ngẫu nhiên xảy ra.
"Lữ Huệ Khanh!"
Tống Thần Tông suy nghĩ, trong triều quan đã ngoài tứ phẩm thì nhiều vô số, cái tên Lữ Huệ Khanh một điểm ấn tượng cũng không có: "Lữ Huệ Khanh hiện tại có chức vụ gì?"
"Khi trước là thủ hạ vi thần, về sau vì biến pháp mà trở mặt, làm thủ hạ của người khác, là kẻ tiểu nhận bội bạc, tên tiểu nhân này là kẻ ầm ĩ nhất trong đám người, không biết chuyện này có liên quan gì đến hắn hay không".
Tống Thần Tông trầm ngâm một lát, rồi nói: "Ta nhớ ra rồi, trước kia ngươi ở trước mặt ta hết lòng nói tốt cho người này, lúc đó nói với ta những gì nhỉ?"
Vương An Thạch xấu hổ, ngượng ngùng nói: "Vi thần từng nói Huệ Khanh là người có đức có tài, mặc dù là nho giả đời trước nhưng không thể xem nhẹ. Người học đế vương chi đạo có thể sử dụng, chỉ có Huệ Khanh mà thôi".
"A! Xem ra con người này đã thay đổi, mặc kệ chuyện này có phải là hắn là người khởi xướng hay không, lát nữa cũng không thể để hắn chạy thoát".
"Vâng!"
Đang nói, đột nhiên nghe thấy thanh âm ầm ĩ từ xa tới gần ngoài hành lang , có người lớn tiếng hô: "Chúng ta đi bảo Ngũ gia kia bỏ tiền mua lương thực cho chúng ta, những kẻ có tiền này cả ngày rượu chè phè phỡn, còn chúng ta thì sắp chết đói đến nơi, không thể để cho hắn ngồi yên thấy chết mà không cứu, ngồi yên không quan tâm đến, các ngươi nói có đúng hay không?"
"Đúng vậy, đúng vậy, tiền bạc của những kẻ như vậy đủ cho chúng ta ăn uống trong một năm".
"Đi, chúng ta đi tìm Ngũ gia yêu cầu cấp cái ăn cho chúng ta".
"Đi! Chúng ta đi tìm bắt hắn mua lương thực cho chúng ta".
Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại liếc nhìn nhau, Dụ Cáp Nhi tiến tới nói với Lâm Thanh Đại: "Tỷ tỷ, tỷ ở bên cạnh bảo vệ hoàng thượng, công phu của ta không cao nên chỉ có thể cùng Đỗ đại nhân ngăn cản ở lối ra vào, nếu như ngăn cản không nổi thì tỷ lập tức mang theo hoàng thượng nhảy ra cửa sổ chạy trốn, không cần lo cho chúng ta".
"Dụ Cáp Nhi nói rất đúng. Hiện tại quan trọng nhất là phải bảo vệ an toàn cho hoàng thượng, nàng đi đi". Đỗ Văn Hạo nói với Lâm Thanh Đại.
Lâm Thanh Đại vừa mới đi tới bên người Tống Thần Tông, đột nhiên cửa bị đẩy bung ra, Vương An Thạch quan sát thì kẻ cầm đầu chính là tên tiểu nhân Lữ Huệ Khanh kia!
"Các ngươi muốn làm gì?" Vương An Thạch đi tới trước cổng hét lớn một tiếng, dùng ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm vào Lữ Huệ Khanh.
Đôi mắt ánh mắt gian tà của Lữ Huệ Khanh nhìn vào người trong phòng, mặc kệ Vương An Thạch nói gì, đột nhiên chỉ vào Tống Thần Tông, nói: "Người này chính là Ngũ gia, mọi người lên cho ta, nếu hắn không chịu trả tiền, chúng ta liền cướp đoạt". Nói xong xông về phía Tống Thần Tông.
Lâm Thanh Đại thấy Lữ Huệ Khanh vọt tới, đưa chân lên đá một cước. Không ngờ Lữ Huệ Khanh cũng biết chút công phu, sớm có phòng bị, hắn lắc eo một cái, cúi thấp đầu lập tức tránh thoát một cước của Lâm Thanh Đại, lại lao thẳng về phía Tống Thần Tông.
Lâm Thanh Đại trở tay bắt lấy Lữ Huệ Khanh, lăng không ném hắn văng ra ngoài, Lữ Huệ Khanh không ngờ rằng bên người Tống Thần Tông còn có một cao thủ như vậy, lảo đảo mấy bước mới có thể đứng vững, lạnh lùng nói: "Xem ra các ngươi không muốn giao tiền ra, mọi người tiến lên cướp cho ta!"
Các nạn dân nào biết rằng người mà bọn họ muốn cướp chính là đương kim Hoàng Thượng, nghe Lữ Huệ Khanh thét lên một tiếng như vậy, đều chen chúc tràn lên, tình cảnh lúc này cực kỳ hỗn loạn.
Văn Hạo cùng Dụ Cáp Nhi bảo hộ Vương An Thạch cùng Ninh công công, người thật sự là quá nhiều, Đỗ Văn Hạo nhanh chóng lấy lại sự tỉnh táo. Hắn phát hiện có một số người không phải là dân chạy nạn, bởi vì bọn chúng không phải đang lao về phía tiền tài mà tay cầm vũ khí, xem ra là muốn lấy mạng bọn họ. Phát hiện ra điểm bất thường này, Đỗ Văn Hạo không hề hạ thủ lưu tình, dùng phân cân thác cốt thủ mà Lâm Thanh Đại giao cho hắn nhanh chóng đâm trúng nhiều người tạo ra một lối đi thẳng tới vị trí của Lâm Thanh Đại. Lữ Huệ Khanh biết công phu của mình không bằng Lâm Thanh Đại, không có biện pháp bắt Tống Thần Tông ở sau lưng nàng, đang muốn móc ám khí trong ngực ra. Ai ngờ sau lưng vang lên tiếng gió, bả vai đột nhiên đau đớn kịch liệt, hắn 'a' một tiếng, phi tiêu trên tay rơi xuống mặt đất.
"Tất cả không được vọng động. Chúng ta là mệnh quan triều đình, ta là ngũ phẩm ngự y, ai còn dám động chân động tay, ta lập tức bắt hết bọn ngươi".
Dân chạy nạn vừa nghe là người của triều đình thì thần sắc lập tức trở nê lo lắng, "bịch bịch!" mấy tiếng, tất cả đều quỳ xuống. Lữ Huệ Khanh cười lạnh một tiếng, nói: "Ngươi sai người tới bắt chúng ta? Người của ngươi đâu? Ngươi nói người là ngũ phẩm ngự y, ngươi có bằng chứng không?"
Đỗ Văn Hạo ra hiệu bảo Lâm Thanh Đại bảo vệ Tống Thần Tông cho tốt, lo sợ có người nhân cơ hội ra tay đối với Tống Thần Tông, sau đó móc từ trong ngực ra lệnh bài ngũ phẩm ngự y, mọi người thấy thế, càng không dám vọng động.
Lữ Huệ Khanh cười lớn một tiếng, nói: "Chỉ sợ là các ngươi nhặt được từ nơi nào đó, hừ! Mọi người không nên tin vào những kẻ này".
Lữ Huệ Khanh còn chưa dứt lời, từ ngoài cửa rất nhiều binh lính tay cầm tấm chắn cùng với côn đi tới, cầm đầu là một quan quân, vọt tới trước mặt Tống Thần Tông quỳ xuống: "Hoàng Thượng! Mạt tướng hộ giá chậm trễ, tội đáng muôn chết".
Lữ Huệ Khanh cùng những kẻ bên cạnh thấy tình thế không ổn, đang muốn chạy trốn, Đỗ Văn Hạo chụp lấy cánh tay Lữ Huệ Khanh. Lữ Huệ Khanh đang muốn phản kháng, một chưởng vỗ lên ngực Đỗ Văn Hạo, đột nhiên cảm thấy bàn tay đau đớn như bị vật gì đó đâm vào, nhanh chóng hạ xuống, hét lớn một tiếng, ngã ngồi trên mặt đất.
Quan quân ra lệnh cho thủ hạ đuổi hết dân chạy nạn đi, mọi người lúc này mới thở dài một hơi, Tống Thần Tông cũng bị dọa tới mức đổ mồ hôi lạnh. Lâm Thanh Đại lui qua một bên, mọi người đều quỳ gối trước mặt Tống Thần Tông. Tống Thần Tông tiến tới. Hai tay đưa lên, sang sảng nói: "Chúng ái khanh hộ giá có công, tất cả đứng dậy đi, lần này cải trang vốn định xem hiến pháp Thanh Miêu sau khi được áp dụng thì dân chúng sẽ được hưởng phúc như thế nào, không ngờ lại gây ra sự việc tai hại như vậy, trời đất trong sáng thanh minh liêm khiết, vậy mà đột nhiên xuất hiện nhiều sự việc khiến cho người ta nhìn vào mà giật mình, loại tham quan như vậy không trừng trị thì dân chúng không có ngày yên ổn tốt đẹp. Giang sơn Đại Tống ta sớm muộn gì cũng bị hủy hoại trên tay những người này, cho nên những kẻ đáng chết thì phải chết, nên chét thì phải chém, không thể nương tay".
Tống Thần Tông đi đến bên người Lữ Huệ Khanh, lúc này Lữ Huệ Khanh đã không còn dáng vẻ kiêu ngạo như hồi nãy, mà giống như một con chó bị nhúng nước ngồi xụi lơ trên mặt đất, đầu cúi thấp tận ngực, mồ hôi lạnh nhỏ từng giọt trên mặt đất, không dám ngẩng đầu nhìn Tống Thần Tông ở trước mặt.
"Ngươi chính là Lữ Huệ Khanh?"
"Bẩm hoàng thượng, chính là tội thần".
"Ta nhớ ra rồi. Ngươi đã từng nhiệm chức Thái Tử Trung Doãn, Sùng Chính Điện Thuyết Thư (chuyên giảng giải cho Hoàng Đế những vấn đề về sử sách), kiêm chức Kinh Diên Quán Các, là người kiểm nghiệm văn tự của ba điều lệ(quy hoạch kinh tế quốc gia, cải cách hiến pháp cũ, ban bố phát hành tân pháp), quan chủ quản của Tư Nông Tự, Quốc Tử Giám và Quân Khí Giám, Vương ái khanh, trẫm nhớ có nhầm không?"
"Hoàng Thượng, ngài không có nhớ nhầm ạ".
"Hoàng Thượng, tội thần biết sai rồi, tội thần đáng chết, tội thần là do bị người khác sai khiến, kính xin Hoàng Thượng tha cho tội thần một mạng này".
Tống Thần Tông khinh miệt nhìn Lữ Huệ Khanh, nói: "Ta vốn cũng muốn tha cho ngươi một mạng, vì dù sao ngươi cũng là một kẻ có tài".
"Đa tạ ân không giết của Hoàng Thượng, tội thần nhất định sẽ tận tâm tận lực phụ tá Vương đại nhân, toàn lực thực hiện biến pháp, để không phụ đại ân đại đức của Hoàng Thượng". Lữ Huệ Khanh vội vàng tỏ rõ thái độ.
"Ngươi đừng có gấp, lời của trẫm còn chưa nói hết, vốn không muốn giết ngươi, vốn không muốn giết người, nhưng trẫm không thể dùng loại tiểu nhân bỉ ổi hay vẫy đuôi làm bộ thương xót, ngươi tay có tài, nhưng không có đức, cho nên người như ngươi giữ lại sớm muộn gì cũng để lại tai họa cho muôn dân, người đâu! Lôi đi cho ta!"
"Hoàng Thượng, xin tha mạng! Hoàng Thượng, xin tha mạng!"
"Vương An Thạch".
"Có thần!"
"Lệnh cho ngươi lập tức đem người đến bắt tri huyện về tra hỏi cho ra thân phận những kẻ ăn hối lộ ở Thị Dịch Ti, phải tra xét cho bằng được".
Tống Thần Tông hạ lệnh chém đầu toàn bộ những quan lại nhận hối lộ tại Thị Dịch Ti. Sau khi trở lại kinh thành, hạ chỉ chém đầu cả nhà Lữ Huệ Khanh, tịch thu tài sản.
Chương 289: Phương thuốc tuyệt diệu
Quả thật là không lớn, là bởi vì tính mạng người không đáng lo ngại, chỉ là bỏng do nước nóng, nói sự việc không nhỏ là bởi vì người này là Triệu Hú nhi tử của Chu Đức Phi, Lục hoàng tử của đương kim hoàng thượng.
Triệu Hú từ nhỏ rất nghịch ngợm, theo như lời bà vú kể lại thì hắn thường hay cắt quần áo của phi tần, cung nữ. Đợi đến khi người ta mặc vào thì phát hiện ra một cái lỗ lớn trên mông. Ngoài ra còn hay bắt con rết hay con kiến bỏ vào dưới chăn đệm của họ. Cung nữ trông thấy Lục hoàng tử như vậy vừa lo lắng vừa sợ hãi, mỗi lúc trời tối đều phải kiểm tra cẩn thận mới dám lên giường đi ngủ. Nhưng lần này Lục hoàng tử không hại được ai, mà lại tự làm cho mình bị thương.
Nói ra rất dài dòng, Lục hoàng tử ghét nhất là đến trường, đối với Thái Tử Thái Phó thì tới mức nghiến răng nghiến lợi, vốn người này là lão sư của hoàng Thái Tử nên chuyên môn dạy bảo cho Thái Tử mà thôi, nhưng thời gian gần đây lão sư này còn kiêm dạy học cho các thái tử khác khiến cho Lục hoàng tử hậm hực vô cùng. Đó là do nhất thời không thể tìm được người phù hợp, nhưng bọn nhỏ không thể không học hành, cho nên hoàng hậu tập trung các hài tử lại một chỗ, tạm thời cứ để cho Thái Tử Thái Phó dạy dỗ rồi tính sau.
Thái Tử Thái Phó này không thể không nói qua, từ trước là viện sĩ Hàn Lâm Viện, là một lão đầu hơn năm mươi tuổi, tính cách cổ quái, là người ngay thẳng, là kẻ tài hoa hơn người, rất được Tống Thần Tông xem trọng, một lòng muốn lão dạy dỗ Thái Tử thành một vị minh quân làm cho đất nước hưng thịnh. Những điều này không cần nói nhiều nữa, lại nói vào ngày đi học đầu tiên, Lục hoàng tử để phân trên chiếc ghế của lão sư. Lão sư không hề hay biết đặt mông ngồi xuống. Kết quả không cần nghĩ cũng có thể đoán ra, buổi học không có thành công. Lão sư bị một thân hôi thối, cảm giác ghê tởm vài ngày không tiêu tan, khóc lóc chạy tới cáo trạng với Thái Hoàng Thái Hậu cùng Hoàng Thượng. Chu Đức Phi bị lưỡng cung hậu chỉ mắng cho tới tấp mặt mày, nhưng mà không nỡ đánh nhi tử của mình. Trong lòng Lục hoàng tử cuồng hỉ, bị mắng thì cũng có thể chịu được, chỉ cần không bị đánh là tốt rồi. Lục hoàng tử làm lại chiêu cũ, ngày hôm sau cưa mất một chân của cái ghế mà lão sư ngồi. Lần này thật đáng thương cho lão sư, mắt không được tinh tường, chỉ nhìn mặt trên của ghế, đâu hiểu được phía dưới có vấn đề, sau lần ngã xuống thì lão sư nằm trên giường trọn bảy ngày mới có thể ngồi dậy. Vốn là Lục hoàng tử tưởng rằng lão già kia hẳn là sẽ không đi dạy nữa. Ai ngờ sau bảy ngày thì đích thân Thái Hoàng Thái Hậu dẫn lão sư đến đây, Lục hoàng tử vốn rất sợ Thái Hoàng Thái Hậu nên không dám gây chuyện nữa. Thời gian gần đây ngồi nghe giảng nhưng không để tâm vào sách vở mà chỉ lo nghĩ làm sao để trị lão già kia, làm cho hắn không thể đến đây nữa. Mà lão sư cũng có ý mượn việc công báo thù tư, chuyên môn đưa ra câu hỏi cho Lục hoàng tử, không trả lời được thì lập tức ăn thước. Vào một buổi sáng, tay Lục hoàng tử đau tới mức cả chiếc đũa cũng không đưa lên nổi.
Chu Đức Phi đau lòng vô cùng, nhưng mà cũng không dám nói gì, dù sao thì lão sư này đối xử với học trò thế nào đều được, Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền như vậy thì ai còn dám ý kiến?
Lục hoàng tử nghĩ ngợi nửa ngày, cuối cùng cũng nghĩ ra được một tuyệt chiêu rất cay độc, hắn sai thái giám bưng một chậu nước sôi đặt lên cửa, nửa đóng nửa mở, hắn muốn chậu nước này úp lên cái mặt dày của lão sư. Thế là Lục hoàng tử ngồi trên ghế, hai tay chống má, vui thích nghĩ tới thảm trạng của lão nhân đáng chết kia.
Ai ngờ, Thái Tử Thái Phó thông minh hiểu rằng Lục hoàng tử sẽ không dễ dàng buông tha cho mình, thế là bèn tới sớm hơn mọi khi rất nhiều, trốn ở một gốc cây đại thụ gần đó quan sát, cho nên toàn bộ quỷ kế của Lục hoàng tử đều lọt vào mắt, thế là nghĩ ra một kế. Vẻ mặt âm hiểm đi về phía phòng học.
Lúc này Lục hoàng tử đang vui vẻ ngồi ở hàng ghế thứ nhất, lão sư đi tới cửa, Lục hoàng tử thấy trong tay lão sư cầm một cái bình dế. Đây chính là trò chơi mà mình thích nhất, lại nghe tiếng dế kêu ở bên trong, biết đó là một con dế cụ, do ham chơi nên quên mất cái bẫy đặt trên cửa.
Lão sư đi tới cửa, cũng không đẩy cửa ra, mà là lớn tiếng kêu lên: "Lục hoàng tử, trong tay lão sư có quá nhiều sách vở, ngươi mau tới giúp lão sư cầm lấy cái bình được không?"
"Ta đến đây!"
"A!" Một tiếng hét thảm vang lên, tất cả hài tử trong phòng đều sợ hãi, không còn kịp ngăn trở, sự tình cứ như vậy diễn ra. Cũng may chiếc chậu không lớn, nước sôi trên cửa cũng đã nguội đi nhiều, nếu không Lục hoàng tử còn thảm hại hơn.
Lão sư quỳ gối trước mặt Thái Hoàng Thái Hậu khóc lóc kể lể, nói rằng bản thân mình cũng không biết ở trong chậu có nước sôi, nếu như biết thì tuyệt đối sẽ không đùa giỡn như vậy, Thái Hoàng Thái Hậu cũng biết là lão sư sẽ không làm như vậy, dù sao sự tình cũng đã xảy ra, giải quyết vấn đề như thế nào mới là quan trọng.
Tìm ai đây?
Thái Hoàng Thái Hậu cùng Chu Đức Phi đều chỉ tin tưởng Đỗ Văn Hạo, nhưng hắn không có ở đây, nói là về nhà thăm người thân, tất nhiên bọn họ không biết là hiện tại hắn đang theo Hoàng Thượng cải trang vi hành.
"Thái Hoàng Thái Hậu, có câu danh sư xuất cao đồ; hay là chúng ta tìm đồ đệ của Đỗ đại nhân thử xem". Chu Đức Phi thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của nhi tử khóc đến mức thê thảm vô cùng, con mắt sưng húp lên giống như quả mật đào, khuôn mặt cũng sưng phù lên, cực kỳ khó coi, nên vội vã nói với Thái Hoàng Thái Hậu.
"Ài, được rồi, vậy hãy cho người xuất cung một chuyến đem đồ đệ của Đỗ Văn Hạo đếm xem xét thử xem, giờ đây thái y trong nội cung, không có người nào có thể làm tốt. Đi thôi, nhanh nào, vết thương của hài tử không thể chậm trễ".
Hôm đó, Tiền Bất Thu đã bị triệu vào cùng, nơm nớp lo sợ, trong lòng lo lắng, khi vào cửa cung trống ngực nện thùng thùng, sau khi vào cửa thì lảo đảo muốn ngã, trong lòng thầm mắng mình không có tiền đồ, không phải là chỉ xem bệnh cho một hài tử thôi sao. Nhưng mà sau khi thấy vết thương của Lục hoàng tử cũng giật nảy mình.
Mười ngày sau, mấy người Đỗ Văn Hạo trở về mới biết được chuyện này, Chu Đức Phi nghe kể mới vỡ lẽ ra là Đỗ Văn Hạo và Hoàng Thượng cùng đi một chuyến đến huyện Đông Minh, thế là vội vàng cho người gọi hắn tiến cung, bảo hắn khám lại cho Lục hoàng tử.
Đỗ Văn Hạo vào cung, đi thẳng tới nội cung của Chu Đức Phi. Từ sau khi trị bệnh cho Chu Đức Phi, Chu Đức Phi cảm thấy không thể rời xa vị đệ đệ này. Bất cứ chuyện tình lớn nhỏ cũng không tìm Tống Thần Tông, mà đều đi hỏi ý kiến của Đỗ Văn Hạo, quan hệ của hai người rất tốt.
Mới vào cửa, liền gặp Chu Đức Phi thân bận một bộ y phục màu lam vô cùng xinh đẹp, thân thiết uốn éo đi tới đón chào.
"Văn Hạo, ta còn tưởng rằng thật sự là ngươi đi thăm người thân, còn đang rất lo lắng, ngươi chưa từng nói qua cho tỷ tỷ về thân thích của ngươi đó! Tai sao không nói với tỷ tỷ một tiếng đã ra đi, thì ra là đi cùng Hoàng Thượng làm chính sự, nhanh tới đây, để cho tỷ tỷ xem một chút". Nói xong thì lập tức vươn tay ra sờ lên khuôn mặt của Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo mỉm cười trong nội tâm có chút xấu hổ nhưng cũng không trốn tránh.
"Vừa nhìn thoáng qua đã biết ngươi ở bên ngoài không có ai chiếu cố, nên mới gầy như vậy, để ta chuẩn bị cho ngươi một số điểm tâm ngươi thích, còn yến xào nữa, còn nhiều thứ thật bổ dưỡng".
"Đa tạ Đức Phi nương nương".
"Ta bảo ngươi gọi ta là tỷ tỷ cơ mà. Đi ra ngoài một chuyến là quên mất rồi". Chu Đức Phi thân mật kéo tay Đỗ Văn Hạo đi vào nội viện.
"Thương thế có Lục hoàng tử ổn định rồi chứ?"
"Nhắc tới cũng thật là kỳ lạ, Tiền đại nhân lau lên khuôn mặt bỏng nặng của Hú nhi một lớp thuốc mỡ, cũng không có mùi gì kỳ lạ, sau không tới mười ngày thì Hú nhi đã khỏi hẳn".
Đỗ Văn Hạo cảm thấy kỳ quái, nghe nói bị phỏng rất nghiêm trọng, tại sao không tới mười ngày mà đã khỏi hẳn rồi?
"Đã khỏi rồi tại sao tỷ tỷ còn gọi ta tới khám lại?"
Chu Đức Phi cười nhẹ một tiếng, dừng bước lại, tiến đến bên người Đỗ Văn Hạo nhỏ giọng nói: "Tỷ tỷ không nói thế thì ngươi không đến đây rồi!"
Đỗ Văn Hạo nở nụ cười. Qua một cái cái cầu nhỏ, gặp một đám hài tử đang vui đùa, Chu Đức Phi vội vàng hỏi cung nữ đang đi ở một bên: "Tại sao lại để cho Lục hoàng tử xuất môn, không phải đã bảo rằng trong thời gian này không được ra khỏi cửa hay sao? Tiền đại nhân nói, thời gian này không được ra ngoài ánh nắng mặt trời, bảo nó vào nhà đi, nói rằng Đỗ đại nhân tới khám lại vết bỏng".
Cung nữ nghe xong, chạy tới chạy tới túm lấy Lục hoàng tử kéo vào nhà.
"Ài, Hú nhi luôn làm cho ta lo lắng, ngươi nói xem khi nào nó mới có thể hiểu chuyện?"
"Tỷ tỷ cũng chớ quá sốt ruột, nam hài tử lúc nhỏ phải nghịch ngợm một chút mới tốt". Đỗ Văn Hạo an ủi nói.
Vào phòng, Lục hoàng tử thấy Chu Đức Phi cùng Đỗ Văn Hạo bước vào cửa, vội vàng từ trên ghế đứng dậy, chạy đến bên người Đỗ Văn Hạo thân thiết nói: "Văn Hạo thúc thúc, Hú nhi nhờ người lắm, đã lâu rồi người không đến chơi với ta".
Đỗ Văn Hạo thấy trên mặt Lục hoàng tử quả nhiên là không có bất kỳ dấu vết nào chứng tỏ là bị phỏng, trong nội tâm không nhịn được mà âm thầm cảm thấy kỳ lạ. Bị bỏng thì cũng như các vết thương khác, sau khi liền da thì cũng phải để lại một chút vết sẹo chứ, tùy vị trí mà độ sâu cạn không giống nhau mà thôi. Hơn nữa phần da còn có thể hơi nhăn nhúm so với bình thường, nhưng trên mặt của Lục hoàng tử một chút dấu vết cũng không thể nhìn ra, thật đúng là thần kỳ.
"Văn Hạo thúc thúc, người đang suy nghĩ gì đấy?" Lục hoàng tử đối với những người khác vẫn luôn hờ hững không quan tâm, chỉ duy đối với Đỗ Văn Hạo thì rất yêu thích, đại khái là nội tâm của hài tử có loại tôn sùng anh hùng, cảm thấy Đỗ Văn Hạo rất giỏi bởi vì có thể chữa trị tốt cho nhiều người mà những đại phu khác không thể chữa trị nổi, với lại cùng mẫu thân của mình có quan hệ tốt như vậy, có câu 'yêu ai yêu cả đường đi' cho nên mới như vậy.
Đỗ Văn Hạo nghe Lục hoàng tử gọi mình, lúc này mới hồi phục tinh thần, vừa cười vừa nói: "Ta suy nghĩ, tại sao trên mặt cháu không có một vết sẹo nhỏ nào, thường thường thì tình huống như vậy đều lưu lại vết sẹo".
Lục hoàng tử kéo tay Đỗ Văn Hạo để cho hắn ngồi xuống, sau đó ngồi cạnh Đỗ Văn Hạo, cất lời: "Đó là bởi vì Tiền đại nhân là đồ đệ của Văn Hạo thúc thúc! Mẫu thân nói danh sư xuất cao đồ mà lại!"
Đỗ Văn Hạo cùng Chu Đức Phi nở nụ cười, Chu Đức Phi trìu mến xoa xoa đầu của Lục hoàng tử, nói với Đỗ Văn Hạo: "Ngươi hãy xem xét lại cho nó một lần nữa, có gì khác thường không, ta vẫn chưa yên tâm lắm".
Đỗ Văn Hạo đành phải một lần nữa cho bắt mạch cho Lục hoàng tử, thì quả thật là vết bỏng đã khỏi hẳn, càng cảm thấy hiếu kỳ.
Từ hoàng cung trở về, Đỗ Văn Hạo không có về thằng nhà, mà là trực tiếp đi đến nơi ở của Tiền Bất Thu, hắn nóng lòng muốn biết rốt cuộc Tiền Bất Thu dùng phương thuốc thần kỳ nào mà lại có thể triệt để trừ đi vết sẹo trên khuôn mặt của Lục hoàng tử.
Nhà của Tiền Bất Thu cách Ngũ Vị Đường không xa, chỉ cách một con sông, đi qua cầu là tới.
Tiền Bất Thu thấy là Đỗ Văn Hạo đến đây, vội ra khỏi cửa đón tiếp, sai người trong nhà giết gà chuẩn bị rượu thịt, mời Đỗ Văn Hạo vào phòng ngồi xuống.
Sau khi nói chuyện phiếm một lúc, Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào vấn đề: "Ta vừa mới xem xét lại cho Lục hoàng tử, thấy nó đã hoàn toàn khôi phục".
"Hẳn là không để lại vết sẹo".
"Nhưng có một điều ta nghĩ mãi không ra, ngươi cho Lục hoàng tử dùng thuốc gì mà lại được như vậy, trước kia ta cũng từng trị liệu cho người bị bỏng nhưng không có hiệu quả tốt như vậy, ngươi nhanh nói cho ta biết đi".
Tiền Bất Thu đắc ý cười, dâng trà thơm lên cho Đỗ Văn Hạo, vuốt vuốt chòm râu, nói: "Không cần vội vàng, không nên vội vàng, lát nữa chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện".
Đỗ Văn Hạo làm sao mà không vội được cơ chứ, cũng không uống nước, đặt chén trà xuống, nói: "Ngươi đừng có mà thừa nước đục thả câu nha! Biết rằng ta đang rất sốt ruột mà cứ kéo dài thời gian".
Tiền Bất Thu cười to: "Cũng được, không nói sợ là đợi lát nữa rượu ngon cùng thức ăn ngon đưa lên đây lại ảnh hưởng tới tâm tình thưởng thức của ngài, ngài phải biết là lần này ta lấy ra Nữ Nhi Hồng đã lên men nhiều năm, bình thường không có nỡ uống đâu".
"Ngươi làm cho ta sốt ruột rồi đó". Đỗ Văn Hạo nghiến răng nghiến lợi nói.
Tiền Bất Thu mỉm cười đứng đậy nói: "Đi! Đưa ngài đi xem thứ kỳ diệu này".
Tiền Bất Thu dẫn theo Đỗ Văn Hạo đến thư phòng của mình, nơi này ngay cả các phu nhân Tiền Bất Thu cũng không cho đi vào.
Đóng cửa lại, Tiền Bất Thu tiến đến bên giá sách lấy ra một bình thuốc nhỏ màu lam đưa cho Đỗ Văn Hạo: "Ngài mở ra nhìn xem".
Đỗ Văn Hạo vặn mở nắp bình, cũng không phải là không có mùi hương gì như lời Chu Đức Phi nói, ngược lại ẩn ẩn có mùi hương thoang thoảng bay ra.
"Không biết đây là cái gì, sao không có vị thuốc nhỉ". Đỗ Văn Hạo nói, sau đó cẩn thận đóng kín nắp bình đặt lại trên giá sách.
"Ngồi xuống cái đã, rồi ta sẽ từ từ nói cho ngài biết".
Hai người ngồi xuống, Tiền Bất Thu lúc này mới thong thả nói: "Khi ta còn trẻ bị nước nóng đổ vào người, làm cho bụng bị phỏng rộp cả da. Người nhà dẫn ta tìm một lão thái thái trong thôn xin một thứ thuốc, kết quả là vết phỏng khỏi hẳn mà không lưu lại vết sẹo. Việc này đã qua nhiều năm, sau đó ta ngẫu nhiên biết được phương thuốc này được truyền cho người anh kết nghĩa của ta, liền đăng môn cầu phương. Vừa vặn lúc này Lục hoàng tử bị nước nóng gây thương tích, liền đem ra dùng".
"Thần kỳ như vậy ư? Vậy ngươi còn không mau nói cho ta biết dùng cái gì để làm ra thứ thuốc đó?"
Tiền Bất Thu nhìn Đỗ Văn Hạo cười một cách quỷ dị, nói: "Con chuột!"
Đỗ Văn Hạo lập tức há to miệng, con mắt so với bình thường cũng mở to hơn rất nhiều. Trợn mắt há hốc mồm mà nhìn sang Tiền Bất Thu: "Ngươi dùng con chuột làm thuốc để bôi lên mặt của Lục hoàng tử?"
Tiền Bất Thu mỉm cười gật đầu.
Đỗ Văn Hạo ngồi không yên, đang muốn đứng dậy nói chuyện, đột nhiên phu nhân của Tiền Bất Thu ở ngoài cửa, nhẹ giọng gọi: "Lão gia, đã chuẩn bị xong rượu và thức ăn rồi, ngươi cùng Đỗ đại nhân vừa ăn vừa nói chuyện nha".
Tiền Bất Thu đứng dậy nói với Đỗ Văn Hạo: "Nào, chúng ta đi uống rượu trước, rượu nguội uống sẽ không ngon".
Đỗ Văn Hạo làm sao mà bằng lòng cơ chứ, đừng yên một chỗ không đi, Tiền Bất Thu cười to đưa ngón út về phía Đỗ Văn Hạo, nói: "Ngài ấy! Đúng là một si y, đi thôi, chúng ta vừa ăn vừa nói, dù sao ngài biết được rằng lấy con chuột làm thuốc cũng không cảm thấy buồn nôn, đi thôi". Nói xong, đưa tay kéo Đỗ Văn Hạo ra cửa.
Sau khi ngồi xuống, rượu thơm thịt ngon đã được bày sẵn, tất cả nha hoàn đều lui ra. Tiền Bất Thu nâng chén nói: "Trước tiên kính sư phụ một ly, xem như tẩy trần cho ngài".
Đỗ Văn Hạo luôn luôn là một kẻ thích rượu ngon, rượu ngon mà không uống thì quả thật là phí phạm, Tiền Bất Thu vừa lên tiếng, Đỗ Văn Hạo đã uống một hơi cạn sạch, sau đó cảm khái nói: "Hảo tửu! Quả là hảo tửu".
"Được rồi, rượu đã uống, nói rồi ăn, nói đi".
"Ngài đó..." Tiền Bất Thu mỉm cười lắc đầu.
"Đơn thuốc này quả thật là được chế thành từ con chuột nhỏ không có lông sơ sinh".
"Không phải chứ. Sao buồn nôn vậy?" Đỗ Văn Hạo cắt đứt lời nói của Tiền Bất Thu. Đôi mày hơi nhíu lại.
"Chính là do ngài muốn nghe, ta đã nói rồi, nên ăn cơm trước".
Đỗ Văn Hạo đành phải đầu hàng: "Được rồi, được rồi, ngươi nói tiếp đi ta sẽ không cắt lời nữa, tốt nhất là ngươi nên nói một hơi cho xong luôn đi".
Tiền Bất Thu bằng lòng gật nhẹ đầu, tiếp tục nói: "Nhất định phải là phải nhớ rõ, phải là không có lông mới có hiệu quả, sau khi đạt được điều kiện trên, thì ngâm vào dầu vừng trong".
"Nhưng làm sao có thể tìm được con chuột nhỏ không lông?" Đỗ Văn Hạo hỏi.
"Chuột nhỏ không lông rất khó tìm, nhưng ở nông thôn vào lúc thu hoạch vụ thu, có thể dễ dàng tìm được".
"Thì ra là như vậy. May mà ta hỏi ngươi cẩn thận, ngươi tiếp tục nói đi".
"Sau đó đem bịt lại thật kín, mặt khác trước đó phải cho vào trong bình một lượng vừa phải vỏ cây táo, vỏ cây lựu, Mã Xỉ Hiện được nghiền nhỏ trộn lẫn vào nhau. Sau khi ngâm một thời gian dài thì có thể dùng được, phương pháp: Dùng bông khử trừng nhúng vào dầu vừng, sau đó lúc bôi chỗ đau thì nhất định phải bôi từ ngoài vào theo từng vòng tròn, dần dần cho đến khi mỡ cao bao trùm cả mặt phỏng, một ngày mười ba lần, phương pháp trị liệu này nếu như cường độ bị phỏng càng nhẹ thì càng có hiệu quả".
Đỗ Văn Hạo nghe xong liên tục thở gấp, nói: "Ngươi thật đúng là lợi hại, hơi một chút lại đem ra một kỳ chiêu, nhưng mà nếu như để cho Chu Đức Phi cùng Lục hoàng tử biết được rằng cái thứ ngươi bôi lên mặt Lục hoàng tử là thứ này thì.... Ha ha, hẳn là ngươi sẽ thảm đó".
Tiền Bất Thu ha ha cười hai tiếng: "Bọn họ có thể không để cho ta dùng phương thuốc này sao? Vậy thì trên mặt Lục hoàng tử phải lưu lại vết sẹo suốt đời rồi".
"Ngươi đùng có mà đắc ý!" Đỗ Văn Hạo làm ra bộ dáng hung dữ, nhưng trong nội tâm lại vô cùng vui vẻ, có thêm một phương thuốc có thể trị bệnh cứu người đương nhiên là tốt, mặc kệ nó là vật gì, có thể chữ bệnh cứu người là thứ tốt, con chuột không lông vạn tuế, ha ha!
Chuyện này khiến cho Đỗ Văn Hạo một lần nữa hiểu hơn về đạo lý, đó chính là người mạnh còn có người mạnh hơn, bản thân còn có rất nhiều thứ cần phải học tập, quyết không thể thỏa mãn với chút thành tích nhỏ bé trước mắt, hắn còn muốn cố gắng để giỏi hơn nữa.
Đỗ Văn Hạo vừa về đến nhà lại bắt đầu bận rộn, giờ đây Ngũ Vị Đường hắn không có thời gian quan tâm tới nữa, trong nội cung không phải vị nương nương này khó chịu, tâm hoảng khí đoản; thì vị nương khác cả đêm không sao ngủ được, tất cả đều phải do Đỗ Văn Hạo tới xem xét.
Hôm nay, Đỗ Văn Hạo giống như thường lệ, mỗi ngày tiến cung đều tới xem qua cho Thái Hoàng Thái Hậu, đã thành thói quen. Nếu như không đi, Thái Hoàng Thái Hậu nhất định sẽ cho người đến gọi, trải qua mấy tháng điều trị thì thân thể của Thái Hoàng Thái Hậu đã khá hơn nhiều, tinh thần càng lúc càng tươi tốt.
Từ trong nội cung của Thái Hoàng Thái Hậu thì gặp một tiểu thái giám cách đó không xa đang đi đi, đi lại ở một cái ngõ nhỏ. Hai tay của hắn đan vào nhau xoa xoa bóp bóp, bộ dáng vô cùng gấp gáp.
"Đỗ đại nhân. Ngài đã đi ra rồi, chủ tử nhà ta đang tìm ngài khắp nơi. Biết được rằng ngài đang ở trong nội cung của Thái Hoàng Thái Hậu, nô tài mới không dám quấy rầy mà ở đây chờ". Tiểu thái giám gặp Đỗ Văn Hạo đi ra, vội vàng tiến lên nghênh tiếp, nói với dáng vẻ lo lắng.
"Ngươi ở trong nội cung của ai?" Trong nội cung quả thật là có quá nhiều người. Đỗ Văn Hạo làm sao có thể nhớ rõ nhiều người như vậy.
"Ở trong nội cung của Lâm Tiệp Trữ nương nương".
"A, là lão thái thái cảm thấy không được khỏe ư?"
"Không phải, là Thập Tứ Hoàng Tử không được khỏe, Tiệp Trữ nương nương lo lắng cho nên mới...."
Còn chưa tới cửa đã nghe thấy tiếng Lâm Tiệp Trữ khóc thút thít, trong lòng Đỗ Văn Hạo cảm thấy căng thẳng, chẳng lẽ mình đã tới chậm, nếu quả thật là bệnh nghiêm trọng thì tại sao bọn thái giám lại không dám đi vào bẩm báo, nhân mạng mới là quan trọng. Cước bộ của Đỗ Văn Hạo không kìm được mà nhanh hơn, ba bước xông vào gian phòng của Thập Tứ Hoàng Tử Triệu Quật.
Chỉ thấy Lâm Tiệp Trữ đang ngồi ở trước giường của hài tử, giống như trước mặc một thân y phục trắng thuần, trên búi tóc buộc một dải lụa màu trắng phấn. Trên mặt còn có mấy giọt lệ châu, theo tiếng khóc của Lâm Tiệp Trữ mà rung động.
"Nương nương, hài tử làm sao vậy?" Đỗ Văn Hạo tiến tới, chỉ thấy một hài từ chừng năm tuổi, sắc mặt tái nhợt, hai mắt nhắm nghiền nằm trên giường, Lâm Tiệp Trữ thì nắm chặt lấy bàn tay bé nhỏ của hài tử, tay không ngừng gạt lệ.
Lâm Tiệp Trữ thấy Đỗ Văn Hạo tiến tới, càng thương tâm hơn, che mặt mà khóc, khóc không thành tiếng.
Bà vú ở bên cạnh Thập Tứ Hoàng Tử nhỏ giọng nói: "Đều là ta khong tốt, không kịp thời mặc thêm áo ấm cho Thập Tứ Hoàng Tử, cho nên mới khiến Thập Tứ Hoàng Tử bị cảm lạnh. Ta thật đáng chết".
"Nương nương đừng khóc nữa, trước tiên hãy đứng dậy để cho ta kiểm tra bệnh tình của Thập Tứ Hoàng Tử, được không?" Mỗi lần nhìn Lâm Tiệp Trữ, trong nội tâm Đỗ Văn Hạo đều sinh ra một loại cảm giác khó nói. Dường như nữ nhân này được sinh ra từ nước, một câu thơ, một khúc nhạc, một lời nói cảm động, khiến cho người ta không nhịn được mà thương tâm rơi lệ. Nam nhân yêu mến sự nhu nhược của nữ tử này, bản thân không nhịn được mà sinh ra một loại dục vọng muốn bảo vệ nữ tử này. Có thể làm được thì có thể thỏa mãn lòng hư vinh thật lớn của một nam nhân, nàng ta bao giờ cũng như vậy, một chút sóng gió cũng không chịu nổi, động một chút lại thúc thủ vô sách. Nhưng nam nhân cũng rất e sợ, bởi vì nữ nhân như vậy sẽ làm cho nam nhân vô cùng động tâm.
Lâm Tiệp Trữ nghe lời Đỗ Văn Hạo nói, bà vú ở một bên vội vàng dìu dắt Lâm Tiệp Trữ tránh sang một bên. Đỗ Văn Hạo ngồi xuống bắt mạch cho Thập Tứ Hoàng Tử.
"Hài tử có triệu chứng gì không?" Đỗ Văn Hạo hỏi.
Bà vú đáp: "Có đó! Bị tiêu chảy".
Sau khi Đỗ Văn Hạo bắt mạch cảm thấy hài tử cũng không lo ngại, chỉ là mùa này lúc thì lạnh lúc thì nóng, phải ăn mặc theo thời tiết. Tiểu hài tử bị cảm lạnh nên sinh ra tiêu chảy là chuyện bình thường.
"Nương nương không nên lo lắng, không có gì trở ngại đâu".
"Sao lại không sao? Hài tử nằm trên giường không thể ngồi dậy, ngươi lại bảo là không có chuyện gì?" Lâm Tiệp Trữ có phần không tin vào lời nói của Đỗ Văn Hạo.
Lúc này Thập Tứ Hoàng Tử nghe được tiếng người khác nói chuyện, liền mở hai con mắt, nhỏ giọng nói: "Nương, đau bụng quá".
Lâm Tiệp Trữ nghe thấy hài tử gọi mình, vội đứng dậy tiến lên đi đến bên giường ngồi xuống, cố gắng nở nụ cười, sờ lên trán hài tử, an ủi: "Ngoan. Đỗ đại nhân sẽ trị chứng đau bụng cho Quật nhi".
Thập Tứ Hoàng Tử tên là Triệu Quật, Lâm Tiệp Trữ cùng Tống Thần Tông cũng gọi nó là Quật nhi.
Thập Tứ Hoàng Tử nghe nói thái y, thần sắc lập tức trở nên khẩn trương. Cẩn thận kéo chăn sang, phủ kín thân thể mình, đôi mắt tràn ngập địch ý gườm nhìn Đỗ Văn Hạo.
"Ta không đau nữa. Ta không cần phải uống thuốc, đắng lắm!" Triệu quật yếu ớt nói.
Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa nói: "Thập Tứ Hoàng Tử sợ phải uống thuốc sao?"
"Nói thừa, đánh chết ta cũng không uống thuốc đắng".
Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rồi nói: "Cũng được, sẽ không uống thuốc, chúng ta uống nước đường cũng được".
"Ngươi gạt người!"
"Ta là người lớn, ta sẽ không lừa gạt người, nếu không tin lát nữa ta đưa nước đường lên là được, trước tiên cháu uống trước một ít nếu cảm thấy dễ uống thì uống cho hết, như vậy có được không?"
Thập Tứ Hoàng Tử suy nghĩ, nhìn nét mặt Đỗ Văn Hạo thì cũng không có ý trêu đùa mình, lúc này mới gật đầu đồng ý.
Đỗ Văn Hạo đứng dậy, Lâm Tiệp Trữ vội vàng đi theo ra ngoài, kéo Đỗ Văn Hạo ra xa căn phòng hơn một chút lúc này mới oán trách nói: "Hài tử không hiểu chuyện, ngươi đã lớn rồi mà còn theo nó gây rối, đêm qua nó đã bắt đầu tiêu chảy rồi, ngươi không nhanh cho nó uống thuốc còn uống nước đường làm gì?"
Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Tiệp Trữ vì ái tử mà lo lắng, vội giải thích: "Mùa này hài tử tuổi nhỏ không chịu nổi khí trời lúc tốt lúc xấu, cho nên mới sinh ra đau bụng, hài tử đều không thích uống thuốc, vốn đã khó chịu nếu như bắt ép thì càng thêm không hay, ta có biện pháp khiến cho Thập Tứ Hoàng Tử hết tiêu chảy, người yên tâm đi". Nói xong, Đỗ Văn Hạo bước ra.
"Ngươi... nhưng... điều này". Lâm Tiệp Trữ không biết phải nói gì cho phải, lúc này Diệp công công tiến tới, trấn an nàng: "Nương nương đã tin tưởng Đỗ đại nhân có biện pháp thì cứ để hắn chữa bệnh cho Thập Tứ Hoàng Tử đi. Lão nô tin tưởng hắn sẽ không làm ẩu đâu".
Chương 290: Dạo chơi ngoại thành
Chỉ chốc lát sau, đã thấy Đỗ Văn Hạo bưng tới một cái chén, cười tỉm tỉm bước vào.
Đi đến bên giường của Thập Tứ Hoàng Tử, Đỗ Văn Hạo thấy Thập Tứ Hoàng Tử nhìn mình với vẻ mặt hoài nghi, hắn ra hiệu bảo cung nữ đỡ Thập Tứ Hoàng Tử ngồi dậy, sau đó chỉ vào một chén nước màu hồng còn đang bốc khói nghi ngút, nói: "Thử xem, mùi hương rất dễ chịu không?"
Thập Tứ Hoàng Tử đưa sát vào ngửi ngửi. Đôi mắt sáng lên, nói với Lâm Tiệp Trữ: "Nương, thơm quá đi! Là mùi gì vậy?"
Lâm Tiệp Trữ nghe thấy cũng ngồi xuống xem, lắc đầu nói: "Thơm quá, lại có hương trà, Đỗ đại nhân, ngài cho cái gì vào vậy? Thật sự có thể chữa khỏi bệnh cho Quật nhi sao?"
Đỗ Văn Hạo gật nhẹ đầu, nói với Thập Tứ Hoàng Tử: "Cháu uống một ngụm đi, uống xong sẽ có thể khỏi bệnh".
Thập Tứ Hoàng Tử nghe nói thuốc hay như vậy cũng có phần động tâm, cho dù có đắng một chút, nhưng chỉ uống một ngụm thì cũng không sao cả, chỉ cần mình đưa thuốc uống thật nhanh là được. Nghĩ vậy liền nhận lấy chén thuốc từ tay Đỗ Văn Hạo, một hơi uống hai ba ngụm, cung nữ tiến lên dùng khăn ướt nhẹ nhàng lau đi nước dây bên khóe miệng của Thập Tứ Hoàng Tử.
"Nương, thật sự là rất dễ uống đó, lần sau nếu hài nhi có bệnh thì sẽ mời Đỗ đại nhân tới xem bệnh cho hài nhi, thuốc của hắn là thứ dễ uống nhất trong các phương thuốc của thái y đó".
Đỗ Văn Hạo thấy nó đã uống xong thuốc, lúc này mới nói lớn: "Mùa này trẻ em rất dễ cảm lạnh, cho nên tiêu chảy không phải là vấn đề gì lớn, sau này nếu như lại gặp tình trạng như vậy thì dùng một nhúm nhỏ Ngạnh Mễ, nhen lửa rang khô cho đến khi nào chuyển sang màu vàng. Sau đó đem hầm cùng với lá trà, đường đỏ. Nấu nhừ thành Hồng Đường Trà Diệp Chúc, để nguội rồi dùng. Ăn liên tục ba ngày, hiệu quả vô cùng tốt. Không cần cho hài tử uống thuốc, hài tử đều sợ thuốc mà".
Lâm Tiệp Trữ lúc này mới chợt hiểu ra, khó trách Quật nhi lại thích uống như vậy, quả nhiên là không giống phương thuốc bình thường. Được Đỗ Văn Hạo giải thích một hồi, trong lòng Lâm Tiệp Trữ yên tâm, vội vàng nói lời cảm tạ Đỗ Văn Hạo.
Đêm đó, Thập Tứ Hoàng Tử không có tiếp tục bị tiêu chảy.
Trở lại kinh thành, chớp mắt đã trôi qua nửa tháng, Tống Thần Tông cho phép Đỗ Văn Hạo nghĩ hai mươi ngày, do hiểu rằng chuyến đi vừa rồi hắn vô cùng vất vả. Vừa bận rộn xem bệnh cho người ta, lại vừa có công hộ giá. Sự tán thưởng của Tống Thần Tông đối với hắn càng gia tăng. Trải qua một thời gian mệt mỏi như vậy, Đỗ Văn Hạo cũng nhân cơ hội tranh thủ thời gian nghỉ ngơi cho tốt vài ngày cùng với người nhà.
Mấy ngày nay thời tiết rất tốt, mấy ngày liên tiếp đều là đêm mưa ngày ngừng, ban ngày có ánh mặt trời ấm áp chiếu xuống, cũng không cảm thấy nóng bức, thời tiết như vậy dạo chơi thì thật là tốt, vốn cả nhà chuẩn bị vui vẻ mà du ngoạn vùng ngoại thành một phen. Đỗ Văn Hạo không có ở Ngũ Vị Đường, mặc dù không có hắn chẩn bệnh nhưng sinh ý của nơi đây cũng vẫn ngày càng phát đạt. Ngũ Vị Đường vẫn cả ngày được người ta vây chật nước không ngấm qua được, muốn làm ăn không phát cũng chẳng được, Lâm Thanh Đại còn chuẩn bị thuê thêm hai tiểu nhị giúp việc.
Sinh ý tốt hơn, tất nhiên mọi người đều rất bận rộn, vì bận rộn nên tất cả mọi người đều có phần không quan tâm tới Đỗ Văn Hạo, chỉ có khi trời đã tối mới có người rảnh rỗi trò chuyện cùng hắn, cùng hắn uống rượu, Đỗ Văn Hạo cũng không cảm thấy bất mãn.
Tống Thần Tông vừa từ huyện Đông Minh trở về đã trừng trị tham quan, những nơi khác tiếp tục thực hiện biến pháp Thanh Miêu, những kẻ ở đó cũng không dám gây rối nữa, quy quy củ củ mà án theo điều mục làm việc, dân chúng đều cảm thấy biến pháp Thanh Miêu thật sự là có lợi cho bản thân. Tất cả đều không bỏ đi tỵ nạn nữa mà đều trở về nhà làm ruộng. Tống Thần Tông cùng Vương An Thạch cũng rất vui vẻ, hai người bọn họ cũng không có rảnh rỗi, có lẽ cả thiên hạ giờ đây cũng chỉ có Đỗ Văn Hạo là thảnh thơi. Hắn cảm thấy rất thích ý. Có rượu ngon, có giai nhân, chẳng phải là sẽ rất sung sướng hay sao?
Lại trải qua một đêm mộng đẹp, khi tỉnh lại thì trời đã sáng rồi, thời gian gần đây hằng đêm hắn đều có Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, Lâm Thanh Đại uống rượu cùng, thời gian trôi qua khoái hoạt như thần tiên. Buổi sáng nếu như muốn ngủ nướng thêm một lúc thì cũng không có ai thúc giục tiến cung, điều này đối với Đỗ Văn Hạo mà nói, quả thật là một việc hết sức hạnh phúc.
Lười biếng duỗi cái lưng mệt mỏi. Cũng không muốn mặc lại quần áo, hắn đi đến bên cửa sổ mở cửa ra, trong sân bọn tiểu nhị cùng nha hoàn đang bận rộn, không ai chú ý tới việc Đỗ Văn Hạo đã thức giấc.
"Có ai không!" Đỗ Văn Hạo khoa trương hét lớn một tiếng, lập tức có người quay đầu lại nhìn.
"Thiếu gia, ngài đã dậy. Ta sẽ lập tức gọi phu nhân tới". Tiểu nhị nói xong vội vàng chạy đi, rất nhanh sau đó Bàng Vũ Cầm đã đi tới.
"Tướng công, chàng đã thức dậy?" Bàng Vũ Cầm sắc mặt hồng nhuận, cất lời.
Đỗ Văn Hạo gật nhẹ đầu, ngáp một cái: "Ta vừa tỉnh giấc, nàng mặc quần áo cho ta đi".
Có nha hoàn nghe thấy vậy bưng miệng cười trộm, Bàng Vũ Cầm oán trách nói: "Chàng thật là xấu, lớn như vậy rồi còn đòi người ta mặc quần áo cho, ta đang bận lắm. Gọi Phi Nhi đến đây đi".
"Không, muốn nàng mặc cho ta kia". Đỗ Văn Hạo thấp giọng làm nũng Bàng Vũ Cầm.
"Văn Hạo, có người đến từ trong nội cung".
Lâm Thanh Đại đi tới, thấy Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm đang đứng đó liếc mắt đưa tình liền nói lớn.
"Không phải chứ, còn chưa tới hai mươi ngày" Đỗ Văn Hạo kinh hô.
Bàng Vũ Cầm che miệng cười khẽ, nói:"Ta đi lấy nước rửa mặt cho chàng, chàng nhanh mặc y phục đi". Nói xong liền đi ra.
Đỗ Văn Hạo thở dài một tiếng, thấy Lâm Thanh Đại vẫn đứng nơi đó không có rời đi, liền hỏi: "Là ai vậy! Là người của Hoàng thái hậu sao?"
Lâm Thanh Đại lúc này mới đến gần, nói: "Không phải, là người của Lâm nương nương, nói là có chuyện cùng chàng thương lượng".
"Ta không muốn đi, mặc cho bọn họ nói ta khó tính". Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu giở trò làm nũng.
Lâm Thanh Đại ghé sát vào nói nhỏ: "Ta không phải là Cầm nhi hay là Phi Nhi, làm nũng đối với ta, không có tác dụng đâu!"
Đỗ Văn Hạo cười tý tởn, nói thăm dò: "Còn không phải đều giống nhau hay sao?"
Lâm Thanh Đại vội quay đầu nhìn nhìn sau lưng, sợ là có người nghe thấy, hiển nhiên cũng không dám vươn tay đánh Đỗ Văn Hạo, chỉ là khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ ửng lên. Nhỏ giọng nói: "Không biết xấu hổ, ai thèm để ý tới ngươi". Nói xong, phất ống tay áo, nhẹ nhàng lướt đi.
Một canh giờ sau, Đỗ Văn Hạo xuất hiện ở trước mặt Lâm Tiệp Trữ.
"Đỗ đại nhân, thật là xấu hổ, lại phải gọi ngươi tới đây". Lâm Tiệp Trữ ngồi ở trước sân nhỏ dưới mái đình nghỉ mát, trên tay cầm một quyền sách , phía trước có một ly hương trà, dộ dáng cực kỳ thanh nhã.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười, nói: "Không có vấn đề gì".
Trong nội tâm thì thầm nghĩ, dù sao ngươi cũng đã gọi ta tới, còn xấu hổ cái gì nữa.
Hôm nay Lâm Tiệp Trữ mặc một bộ y phục bằng lụa mỏng màu quả vải, trên cần cổ thon dài đeo một chuỗi hạt ngọc trai trắng tinh khiết, làm nổi bật nước da trắng nõn của nàng.
"Không biết nương nương tìm vi thần là có chuyện gì cần phân phó?"
"Là như thế này". Lâm Tiệp Trữ buông sách, đúng dậy nói: "Hôm nay mẫu thân cảm thấy khí trời rất tốt, muốn đi dạo ngoại thành, ta không muốn làm bà cụt hứng, nhưng lại lo lắng mẫu thân đi ra ngoài mệt nhọc, cho nên mới nghĩ tới Đỗ đại nhân".
Đỗ Văn Hạo lập tức hiểu ra, đã đến đây rồi, người trong nhà cũng rất bận rộn, chi bằng cùng Băng mỹ nhân này xuất môn một chuyến, tuy chỉ nhìn mà không sờ được, nhưng cũng cứ coi như là cảnh đẹp ý vui đi.
Đạp thanh du,
Thập thúy tích,
Miệt la cung giáo liên bộ niểu
Yêu chi lan thảo khinh diệu,
Hành quá thượng lâm xuân hảo.
Ở vùng ngoại thành cách đây không xa có một nơi rất tuyệt hảo để đi chơi tết thanh minh, xem ra là mấy người Lâm Tiệp Trữ không thường xuyên tới đây. Hôm này hoàng thân quốc thích nhân ngày đẹp trời xuất cung ra ngoài rất là có khí thế, gia nhân mang theo đồ ăn cùng vật dụng cần dùng, Lâm Tiệp Trữ mang theo dưỡng mẫu Phùng thị cùng với tiểu nữ nhi Hình Quốc công chúa và hai mươi mấy người hầu. Đoàn xe được ky mã hộ vệ xung quanh cuồn cuồn đi ra khỏi thành, không có mất nhiều thời gian đã đi tới một vùng đất xinh đẹp hoa cỏ thơm ngát, chim chóc hát ca.
Mọi người xuống xe, Lâm Tiệp Trữ đặt nữ nhi xuống để cho bà vú chăm sóc, cánh tay nàng hơi mở ra, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời xanh lam, hít sâu một hơi. Không kìm được mà đọc lên câu thơ:
"Lục xuất phi hoa nhập hộ thì,
Tọa khán thanh trúc biến quỳnh chi".
Dịch thơ:
Sáu cánh hoa vừa hé,
Trúc biếc hoá cành quỳnh.
Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Tiệp Trữ tâm tình rất tốt, liền mỉm cười tiến lên phía trước, đọc tiếp:
"Lục thủy phong sơ noãn,
Thanh lâm lộ tảo hi.
Mạch lũng duy triêu sồ,
Tang dã nhân mộ quy.
Bách thiệt bi hoa tẫn,
Bình vu lai khứ phi.
Nương nương ta cảm thấy phong cảnh ở đây rất đẹp, người có thấy phù hợp hay không?"
Lâm Tiệp Trữ cười một tiếng, khóe miệng hình trăng non hơi nhếch lên, gật đầu nói: "Hay lắm, không ngờ Đỗ đại nhân còn là một người yêu mến thi từ".
"Xấu hổ. Chỉ là học đòi văn vẻ, không tính là yêu mến". Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, khi mình còn học đại học, mình cũng yêu thích cổ tử và cũng có chút bản lĩnh thế mà không thể làm lay động tâm hồn thiếu nữ.
"Hay cho một câu chỉ là học đòi văn vẻ, nói thật là hay! Đây là lần đầu tiên ta nghe có người nói như vậy, thật là thú vị".
Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhớ tới, lời này được nói ra đầu tiên trong Quan Trường Hiện Hình Ký của tác giả Lý Bảo Gia , trong hồi 42 của ông ta có viết: "Thích chiếm tiện nghi, âm mưu lén lút, học đòi văn vẻ, tranh thủ thời gian". Nhưng mấy câu trên không thể để cho Lâm Tiệp Trữ nghe thấy được.
Đỗ Văn Hạo cũng không hay đi sâu nghiên cứu, dù sao chỉ cũng hơi hiểu chứ không thể nói ra tỷ mỉ, đành phải làm bộ thưởng thức cảnh đẹp bốn phía, lúc này Hình Quốc công chúa ở cách đó không xa gọi Lâm Tiệp Trữ: "Nương, con cùng với Tiểu Thúy bắt được một con sâu rất nhiều chân, người mau tới đây xem đi".
"San nhi, không được tùy tiện bắt sâu chơi. Có thể là sâu biết cắn người đó". Lâm Tiệp Trữ vội đi về phía Hình Quốc công chúa, Đỗ Văn Hạo cũng nhanh chóng đi theo ở phía sau.
Khi đến gần xem xét, sắc mặt của Lâm Tiệp Trữ lập tức thay đổi, chỉ thấy trên tay của cô bé bốn tuổi là một con rết.
"Trời ơi, con nhanh buông nó ra, vật này..." Lâm Tiệp Trữ còn chưa kịp nói hai từ 'có độc'. Thì Đỗ Văn Hạo đã nhẹ nhàng mà giật giật ống tay áo của nàng, nàng quay đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, chỉ thấy ánh mắt của hắn ra hiệu bảo mình không nên làm đứa bé sợ.
"Công chúa ngoan ngoãn, không nên dùng sức nắm con sâu đó, chân của nó sẽ bị đau, cháu hiểu không?"
Đôi mắt ngây thơ của Hình Quốc công chúa mở lớn ngây ngô nhìn Đỗ Văn Hạo rồi gật gật đầu, bàn tay hơi nới lỏng một chút, con rết lập tức ngo ngoe cử động. Lâm Tiệp Trữ nhịn không được mà hét lên một tiếng, bị dọa cho sắc mặt trở nên trắng bệch.
"Công chúa đã từng thấy sâu khiêu vũ chưa?" Đỗ Văn Hạo tận lực làm cho giọng nói của mình trở nên thoải mái, bởi vì con rết trên tay công chúa dài chừng một gang tay, nếu như nó mà cắn thì hậu quả thật sự là không tưởng tượng nổi.
Hình Quốc công chúa lắc lắc đầu.
"Cháu đặt nhẹ nhàng đặt nó lên một một mảnh lá cây, sau đó nó sẽ khiêu vũ cho cháu xem, nhưng lúc đó cháu phải thu tay về cho thật nhanh, nếu không sẽ không thấy được nó khiêu vũ, cháu hiểu không?"
"Vâng ạ". Hình Quốc công chúa nghe lời ngồi xổm người xuống, đem con rết trong tay đặt lên một mảnh lá cây, sau đó bàn tay nhỏ bé nhanh chóng đưa lên, quả thật là con rết vươn đầu định cắn, cũng may Hình Quốc công chúa đưa tay lên rất nhanh, con rết liền vặn vẹo thân hình mấy cái muốn bò đi.
Lâm Tiệp Trữ cảm kích nhìn Đỗ Văn Hạo, sau đó vội vàng bế nữ nhi lên, nhấc chân lên muốn dẫm chết con rết.
"Nương nương không nên làm thế, con rết cũng là một vị thuốc tốt, nhất là con rết dài như vậy càng khó có được". Đỗ Văn Hạo tiến lên ngăn cản. Sau đó móc ra một cái khăn rồi để con rết leo lên cái khăn, sau đó tìm một cái tăm trúc xâu từ đầu tới đuôi con, tiếp đó cẩn thận đưa lên.
"Đỗ đại nhân, ở cùng một chỗ với ngài thật sự là học thêm được rất nhiều kiến thức, vậy ngài nói cho ta nghe một chút đi, con vật độc hại này còn có ích lợi gì?" Lâm Tiệp Trữ hiếu kỳ mà hỏi thăm.
"Dứt phong trị chuột rút, công độc, tán kết, thông kinh mạch, giảm đau, tục ngữ có nói: Lấy độc trị độc. Lời này dùng để chỉ về con rết là vô cùng đúng đắn. Nói ví dụ về việc lấy độc trị độc thì tán nhỏ cùng với Hùng Hoàng pha với mật ong chế thành thuốc cao. Thoa ngoài da thì vết thương độc hại cùng với sưng phù nhiễm khuẩn, thì có tác dụng rất lớn".
Lâm Tiệp Trữ gật đầu tán thành: "Vậy có phải là trên thế gian này, thì vạn vật đều có tác dụng của bản thân nó".
Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rồi nói: "Hẳn là vậy, chỉ là có rất nhiều thứ chúng ta chưa phát hiện ra được công hiệu của nó mà thôi".
"Các ngươi thật là giỏi, hiểu biết thật nhiều thứ". Trong mắt của Lâm Tiệp Trữ lộ ra thần sắc hâm mộ.
"Nương nương không nên chỉ nhìn thấy người khác tài giỏi, Hoàng Thượng từng nói trong hậu cung chỉ có nương nương là tài hoa xuất chúng, có thể cùng Hoàng Thượng ngâm thơ tác phú, đàn cầm và đàn sắt cùng phối hợp".
Lâm Tiệp Trữ cười khổ một tiếng, đem hài tử trong tay giao cho bà vú, sau đó chỉ chỉ về dòng suối nhỏ cách đó không xa, nói: "Đỗ đại nhân.. Chúng ta đến bên kia nói chuyện một lát được không".
Hai người đi đến bên dòng suối nhỏ, sau đó tìm một phiến đá sạch sẽ, Đỗ Văn Hạo lấy chiếc khăn ra lau cho sạch mặt đá rồi mời Lâm Tiệp Trữ ngồi xuống, chính mình thì tìm một tảng cách đó chừng một mét ngồi xuống.
Suối chảy róc rách, gió nhẹ nhàng thôi. Hương hoa thơm mát, Đỗ Văn Hạo có chút thất thần, tình thơ ý hoạ như vậy, nếu như đi cùng Lâm Thanh Đại đến đây thì thật là tốt.
"Đỗ đại nhân đang suy nghĩ gì vậy?" Lâm Tiệp Trữ thấy Đỗ Văn Hạo nhìn chằm chằm vào nước suối, ánh mắt có phần thất thần, liền mở miệng hỏi.
"A, Không có suy nghĩ gì cả thưa nương nương". Mặt Đỗ Văn Hạo đỏ lên, vội vàng nói.
Lâm Tiệp Trữ mỉm cười, than nhẹ một tiếng, chỉ vào con cá đang tự do bơi đùa trong nước, bỗng nhiên dâng lên một nỗi buồn vô cớ, cất lời: "Chúng nó thật là hạnh phúc".
"Trong mắt của nương nương, mọi vật đều tốt, chỉ có mình là không được khoái hoạt hay sao?"
"Không dối gạt Đỗ đại nhân, ta không thích hợp để làm một nữ nhân trong thâm cung, lời này ta cũng chỉ dám nói với ngài".
Trong nội tâm của Đỗ Văn Hạo dâng lên một niềm xúc động, một nữ nhân cao ngạo như vậy, gặp ai cũng không muốn hạ thấp mình để cùng tâm sự, dù là với nam nhân của mình là Hoàng Thượng , cũng rất ôn hòa, không thân cũng không lạnh nhạt. Nhưng lại đối đãi với bản thân mình như với bằng hữu, Đỗ Văn Hạo không nhịn được mà thở dài một hơi, cũng không biết nên nói cái gì.
"Nghe Hoàng Thượng nói, ba vị phu nhân của Đỗ đại nhân đều những tuyệt sắc giai nhân tài sắc vẹn toàn".
Đỗ Văn Hạo ha ha gượng cười hai tiếng, lúc này không nên nói về nữ nhân khác, lúc này bất cứ là ai hẳn đều làm như vậy. Kiêng kị, tuy quân tử thẳng thắn vô tư, nhưng hắn cũng không muốn nói về vấn đề này.
"Không phải ba vị, Thanh Đại tỷ tỷ còn đang để tang, cho nên chưa có thành thân".
"Chỉ cần trong lòng có nhau là đủ. Chỉ là phải đợi Lâm Thanh Đại một thời gian nữa". Lâm Tiệp Trữ nói.
Dường như câu chuyện có phần nặng nề. Đỗ Văn Hạo vội vàng đổi đề tài: "Đúng rồi, mấy ngày hôm trước nghe Trữ công công, người cùng Dụ Cáp Nhi ở cùng với nhau rất vui vẻ, như vậy là tốt rồi, nương nương có thêm một người bầu bạn đỡ buồn chán".
Lâm Tiệp Trữ nghe đến Dụ Cáp Nhi liền mỉm cười. Nàng cùng Lâm Thanh Đại giống nhau, khuôn mặt rất ít khi tươi cười. Xem ra Dụ Cáp Nhi quả thật là có bản lãnh làm cho một nữ nhân lạnh lùng sinh lòng yêu thích, Đỗ Văn Hạo cười khổ mà nghĩ thầm.
"Nàng ta là một nha đầu tinh quái vô cùng, từ trước đến giờ ta vẫn cho rằng trong hậu cung chỉ có ta như vậy, hôm nay gặp nàng mới biết thì ra cũng có một nữ tử giống như ta, không tranh quyền đoạt lợi, không oán, không nghĩ, không âm thầm mưu mô... Nhưng mà cuộc sống của nàng so với ta thì đặc sắc hơn nhiều".
Đỗ Văn Hạo hiểu rằng nửa câu còn lại nàng muốn nói đến cái gì, đích xác trong thâm cung có những việc như vậy. Không hề khổ tâm để suy nghĩ làm sao mà giữ Hoàng Thượng bên cạnh mình, lúc trên đường đi tới huyện Đông Minh hắn cũng phát hiện ra, mặc dù Dụ Cáp Nhi đối với Tống Thần Tông rất tốt, nhưng trong lòng của nàng ta thì cũng không chỉ có Tống Thần Tông. Nàng không phải là một nữ tử bình thường, "buồn giận mừng vui không hề hiện lên nét mặt" đây không phải là điều mà với độ tuổi của nàng bây giờ có thể thể làm được, thế mà nàng lại thể hiện một cách suất sắc.
"Nương nương, không biết người có đồng ý với ý kiến này của vi thần". Đỗ Văn Hạo nói.
"Đỗ đại nhân cứ nói, đừng ngại".
"Mỗi người đều có cách sống của riêng mình, hạnh phúc cũng giống như vậy. Chỉ cần lúc này ngươi cảm thấy mình rất hạnh phúc, thì đó chính là khoái hoạt mà không ai bằng" .
Đôi mắt của Lâm Tiệp Trữ sáng lên, dùng ánh mắt kỳ quái nhìn Đỗ Văn Hạo: "Suy nghĩ của Đỗ đại nhân thật là kỳ lạ, không giống như những người khác, nhưng mà ta lại cảm thấy rất đúng, nhưng điều kỳ lạ này ngài biết được từ đâu vậy?"
Đỗ Văn Hạo mỉm cười. Tất nhiên là hắn không thể nói rằng, đây là điều mà hắn được học vào năm thứ hai đại học, cô gái mà hắn thầm mến đã nói cho hắn biết, về sau cô bé đó chết, chết vì bị bệnh máu trắng, trước khi cô bé đó chết còn cho rằng còn sống tức là hạnh phúc.
"Là tự mình nghĩ như vậy, hi vọng nương nương sẽ không chê cười".
Lâm Tiệp Trữ nở nụ cười. Hôm nay, nàng cười rất nhiều. Đỗ Văn Hạo nghĩ hẳn là chính nàng ta cũng cảm thấy kỳ lạ.
"Thật là kỳ lạ. Không ngờ nói chuyện cùng với Đỗ đại nhân lại thoải mái như vậy, làm cho ta cảm thấy trong lòng rất nhẹ nhõm".
"Đó là vinh hạnh của vi thần". Đỗ Văn Hạo cảm thấy những lời này có phần quá mức hiện đại. Nhưng mà cũng may vẻ mặt của Lâm Tiệp Trữ cũng không hiện lên nét kinh ngạc, dù sao nữ nhân này đọc nhiều sách vở kiếm thức uyên bác, hiểu biết rộng rãi, mặc dù chưa từng nghe qua, nhưng hẳn là rất nhanh có thể hiểu được.
Lâm Tiệp Trữ quay đầu quan sát cách đó không xa, thấy Phùng Thị một thân một mình ở dưới tàng cây hóng mát, có chút không đành lòng, liền đề nghị đi tới đó.
Hai người vừa đi vừa nói.
"Đỗ đại nhân, tuổi còn trẻ mà biết nhiều điều như vậy, không biết chứng thấp khớp của mẫu thân ta có phương pháp nào có thể trị liệu hay không?"
Đỗ Văn Hạo cũng biết khắp cơ thể Phùng Thị đều mắc bệnh tật, rất hay đau nhức, thời gian gần đây mình liên tục điều dưỡng cho bà ta cho nên giờ đây mới đỡ hơn chút ít.
Hiện này chứng thấp khớp tại ngón tay thuộc dạng bệnh viêm khớp mãn tính, loại bệnh này phần lớn sinh ra do người bị bệnh thường hay dầm nước lạnh, hoặc là do cảm lạnh mà không xử lý sớm, hàn khí theo càng lâu thì càng xâm nhập sâu, lúc này mới thành bệnh, loại bệnh này rất là không dễ chịu! Đối với người bệnh mà nói thì là một sự thống khổ không thể diễn tả được. Đau tới mức các đốt ngón tay cũng không thể duỗi thẳng ra, loại đau nhắc ở trong tận trong xương tủy, chỉ có bản thân người bị bệnh mới có thể cảm nhận được một cách sâu sắc.
"Đương nhiên là có".
Lâm Tiệp Trữ cho rằng Đỗ Văn Hạo nói đùa với mình: "Không phải chứ? Thật sự chữa được ư?"
Đỗ Văn Hạo chỉ chỉ một mảnh hoa cây cải dầu rất lớn ở bên cạnh, gọi hai người hầu tới phân phó bọn họ vào bên trong bắt mấy con ong mật.
"Không phải ngài lại tiếp tục lấy độc trị độc đấy chứ? Ong mật có độc đó". Lâm Tiệp Trữ cảm thấy hôm nay được chứng kiến rất nhiều điều mới lạ, nam tử anh tuấn phong lưu phóng khoáng trước mặt không chỉ có y thuật rất cao minh, biết nhiều hiểu rộng lại thông thuộc đạo lý, không phải chỉ có trong sách cổ mới có nam tử hoàn mỹ như vậy ư? Nghĩ đến đây Lâm Tiệp Trữ có phần xấu hổ sờ lên mặt của mình, phát hiện đã nóng rần lên.
"Lát nữa nương nương quan sát sẽ biết liền, có phải là nương nương cảm thấy nóng bức. Nhanh tới ngồi dưới gốc cây, hôm nay thời tiết cũng còn hơi nóng, bị cảm nắng sẽ không tốt đâu". Đỗ Văn Hạo sai người hầu đặt một cái ghế ở bên cạnh Phùng Thị, sau đó bảo Lâm Tiệp Trữ ngồi xuống đợi.
Lâm Tiệp Trữ nghĩ đến chuyện tình không nên nghĩ, trong nội tâm chột dạ không dám nhìn Đỗ Văn Hạo, mà ngoan ngoãn vâng lời ngồi xuống.
Chỉ chốc lát sau, người hầu quả thật đã mang về hơn mười con ong mật đặt ở trong một cái lồng dế mang tới.
"Phùng nương nương, tay của người gần đây rất đau nhức phải không?"
Phùng Thị gật nhẹ đầu, khó khăn cử động nhấc tay lên, cất lời: "Ăn cơm cũng phải có người giúp đỡ, ài, ta đã trở thành phế nhân rồi".
Đỗ Văn Hạo xem xét tay của Phùng Thị, phát hiện các đốt ngón tay sưng phồng lên thì hiểu rằng rất là đau đớn, liền trấn an: "Không có gì đáng ngại, ta thử dùng ong mật để châm vào các chỗ sưng trên đốt ngón tay của người, để xem người có dễ chịu hơn không".
"Đỗ đại nhân, làm vậy mẹ của ta có bị đau hay không?" Lâm Tiệp Trữ lo lắng hỏi thăm.
Đỗ Văn Hạo nhìn nàng mỉm cười, không nói thêm lời nào, Lâm Tiệp Trữ cảm thấy có chút ngượng ngùngs, vội quay đầu làm bộ nhìn mấy cung nữ đang chơi đùa cùng nữ nhi.
"Đừng lo lắng, Đỗ đại nhân làm việc rất đúng mực, ta thà rằng để cho ong mật châm vào tay còn hơn cả ngày đau tới mức cơm nước không muốn uống, đêm không thể ngủ, loại cảm giác này thật sự là sống không bằng chết, Đỗ đại nhân, ngươi cứ làm đi". Phùng Thị nói.
Đỗ Văn Hạo bẻ gãy cánh của ong mật, nhẹ nhàng mà kề sát vào các đốt ngón tay của Phùng Thị. Sau đó cầm một cọng cỏ nhẹ nhàng mà giật giật cái đít nhọn của ong mật, chỉ nghe Phùng Thị kêu nhỏ một tiếng. Lâm Tiệp Trữ đang muốn nói chuyện, chỉ thấy Đỗ Văn Hạo liếc nhìn mình, lúc này mới vội vàng bưng kín miệng mình lại.
Một lát sau, Đỗ Văn Hạo đem ong mật thay đổi một vị trí khác. Cũng dùng phương pháp tượng tự mà tiếp tục cho nọc ong đâm vào đốt tay Phùng Thị. Mấy lần như vậy, hơn mười con ong mật đã châm lên bảy tám chỗ trên các đốt ngón tay sưng phù của Phùng Thị, càng về sau Phùng Thị càng không kêu lên nữa, ngược lại vẻ mặt lại càng thêm thoải mái.
Nhìn ong mật trên đất, Đỗ Văn Hạo lại nhìn bộ dáng của Phùng Thị, biết bà ta thoải mái hơn rất nhiều, liền đứng dậy nhẹ nhàng mà xoa xoa cái chân đang ê ẩm của mình, cất tiếng hỏi: "Phùng nương nương, người cảm giác đã khá hơn chút nào chưa?"
"A!" Phùng Thị thở dài một hơi: "Thật là thoải mái! Quả thật là Đỗ đại nhân có biện pháp, lão thân thật sự không đau, tại sao có thể như vậy , thật kỳ diệu".
"Thật ra cũng không có gì, cổ nhân đã sớm dùng biện pháp này để trị bệnh thấp khớp, mỗi lần như vậy dùng ong mật châm lên quanh các đốt ngón tay bị sưng, theo như trung y Kinh Lạc Huyệt Vị, mỗi lần đâm vào năm huyệt vị, nếu có thể chịu được đau, hiệu quả sẽ rất nhanh chóng, nương nương có thể chịu nhiều ong mật châm vào như vậy, vi thần rất là bội phục đó!"
"Lúc đầu đúng là hơi đau, nhưng về sau cảm thấy vị trí bị sưng thoải mái hơn nhiều, mặc dù lúc ong châm vào thì đau nhưng giờ đây cảm thấy thoải mái". Nói xong, vươn ngón tay ra cho mọi người xem, quả nhiên các đốt ngón tay đỡ sưng hơn nhiều.
Chương 291: Ninh công công
Lúc này đây dạo chơi ngoại thành cũng coi như là đã thỏa thích mà trở về, chỉ là khi hồi cung Đỗ Văn Hạo mượn cớ trong xe quá nóng thế là hắn cưỡi ngựa đi cùng người hầu. Trong nội tâm Lâm Tiệp Trữ có chút mất mát, cũng không biểu lộ ra ngoài, đành phải hờn dỗi dìu Phùng Thị lên xe. Trên đường còn thỉnh thoảng mượn cớ là quá nóng nực, mấy lần vén rèm xe lên vụng trộm đưa mắt nhìn thân ảnh của Đỗ Văn Hạo ở phía trước, miệng nở nụ cười e ấp, trong nội tâm phát ra sự ngọt ngào.
Hôm nay, Thái Hoàng Thái Hậu mang theo Đỗ Văn Hạo cùng mấy vị nương nương đi vào hậu hoa viên ngắm hoa, Dụ Cáp Nhi cũng tới. Trong các nương nương thì nàng có bối phận thấp nhất, thận phận cũng chỉ là một Tài Nhân nhỏ bé, những người khác thấp nhất cũng là Tiệp Trữ. Nhưng mà dường như Thái Hoàng Thái Hậu rất thích nghe nàng hát điệu hát dân gian xứ Giang Nam, kể chuyện xưa của Giang Nam. Đương nhiên điều này một phần cũng là do tuổi nàng còn nhỏ, thứ hai cũng có liên quan tới tính cách của Dụ Cáp Nhi.
Đỗ Văn Hạo là người cảm thấy ít vui vẻ nhất, cùng một đám nữ nhân đi dạo thì có gì vui thú chứ? Đúng vậy, vấn đề đi tản bộ không riêng gì người hiện đại đi dạo phố, mà người xưa cũng có dạo hoa viên hay là đi dạo thành thị. Đó là việc mà nam nhân không thích nhất, Đỗ Văn Hạo tổng kết ra một điều, đó chính là phàm việc gì có liên quan đến dạo chơi thì nữ nhân đều không biết mệt mỏi là gì, cả đám líu ríu nói chuyện suốt ngày. Ở cùng với cả một đám nữ nhân của người khác trong thời gian lâu như vậy, dù không muốn thì chuyện thị phi cũng rất dễ xảy ra.
Hôm nay Đỗ Văn Hạo cũng giống như vậy, trước đó đã từ chối Thái Hoàng Thái Hậu một phen. Thấy Thái Hoàng Thái Hậu đang rất cao hứng, không để cho mình trở về, còn nói lát nữa thuận tiện giảng giải cho các nương nương làm sao có thể dưỡng nhan, dưỡng sinh...v v.. Đỗ Văn Hạo âm thầm kêu khổ, liên tục nháy mắt cho Tiêu công công. Ai ngờ Tiêu công công là kẻ rất khôn ngoan, lúc này mà giúp Đỗ Văn Hạo thì không phải là tự mình tìm lấy phiền toái sao? Thế là làm bộ như là không hiểu Đỗ Văn Hạo đang ra hiệu điều gì! Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo tức giận vô cùng, đi ở sau lưng Thái Hoàng Thái Hậu còn quay đầu đưa tay chỉ vào mũi Tiêu công công, môi mấp máy mắng thầm mấy câu. Tiêu công công không cần đi theo, tất nhiên là vô cùng mừng rỡ, ở một bên không ngừng cười trộm, dáng vẻ cười trên nỗi đau của người khác.
"Dụ Tài Nhân, ngươi thuộc nhiều điệu hát dân gian xứ Giang Nam như vậy, nếu ai không biết thì còn tưởng ngươi được sinh ra từ gánh hát?" Triệu quý phi nghe thấy Thái Hoàng Thái Hậu ở bên mình mặt tươi như hoa đang kể về chuyện của Dụ Cáp Nhi, lập tức hếch cái môi mỏng của mình để 'đưa tay che ánh dương quang' (đây là chỉ ghen ghét nên làm kẻ cản trở moi móc nói xấu người khác).
Vài nương nương bên cạnh vốn đều không có được sự yêu thích của Thái Hoàng Thái Hậu, giờ đây có người nói như vậy tất nhiên là sự tức giận trong lòng được giải tỏa, đều phá lên cười.
Dụ Cáp Nhi quay đầu lại nhìn Triệu quý phi mỉm cười, nói: "Không phải thế đâu, lúc trước Hoàng Thượng cũng hỏi ta như vậy. Lúc trước, có một gánh hát ở sân sau nhà ta, từ lúc nhỏ ta thường cùng vài mấy ca ca cũng nhau trèo lên đầu tường để xem hát".
"Hừ! Một nữ hài tử không ở trong nhà học tập nữ công gia chánh cho tốt, còn trèo lên tường để nghe người ta hát, thật không ra thể thống gì". Hoàng hậu khinh thường nói.
"Hoàng hậu nương nương nói rất đúng. Lúc nhỏ ta cũng không hề ra khỏi khuê phòng một bước". Lưu quý phi nói.
Thái Hoàng Thái Hậu hiểu rằng các nương nương đang cố ý nhằm vào Dụ Cáp Nhi, thế là liền đưa mắt để xem xét phản ứng của nàng ta, chỉ thấy nàng không hề tức giận. Hoàng hậu nương nương nghe lời này liền "ừ!" một tiếng tỏ vẻ đồng ý, sau đó nói với Lưu quý phi: "Thảo nào mà làn da của tỷ tỷ trắng trẻo xinh đẹp như vậy".
Lưu quý phi đắc ý đưa tay sờ lên khuôn mặt của mình, đáp lời: "Đúng vậy đó!"
"Thì ra nguyên nhân là do cả đời không có bước ra ánh nắng mặt trời cho nên mới trắng như vậy!" Dụ Cáp Nhi buột miệng nói.
Mọi người đầu tiên là ngẩn ra, sau đó bật lên tiếng cười so với lúc nãy còn lớn hơn rất nhiều, ngay cả Thái Hoàng Thái Hậu cũng không nhịn được mà cười khanh khách. Đỗ Văn Hạo ở gần đó nghe bọn họ gièm pha lẫn nhau. Miệng lưỡi của Dụ Cáp Nhi trên đường đi tới huyện Đông Minh, mấy người Đỗ Văn Hạo đều đã được lĩnh giáo qua rồi. Những nữ nhân trong hậu cung này trong mắt Đỗ Văn Hạo thì phần nhiều chỉ là những bình hoa để ngắm cho thích mắt. Nhưng mà Dụ Cáp Nhi thì rất bất đồng, tuy rằng phụ thân của nàng là một Tri phủ, nhưng trong việc dạy dỗ con cái không phân biệt nam nữ, ở thời cổ đại một phụ thân như vậy rất hiếm gặp. Thế là từ nhỏ Dụ Cáp Nhi đã cùng với các đại ca học và chơi đùa cùng nhau, ví dụ như cưỡi ngựa bắn cũng thì phụ thân của nàng cũng để cho nàng học, cho nên tính cách của nàng mới trở thành như bây giờ, điều này cũng là do Lâm Thanh Đại nói cho hắn biết. Đỗ Văn Hạo thấy Dụ Cáp Nhi đâm cho Lưu quý phi một câu như vậy, trong lòng không kìm được mà cảm thấy lo thay cho nàng. Trong hậu cung, tốt nhất là không nên đắc tội với bất cứ người nào, đó mới là thượng sách.
"Ngươi... ngươi sao dám nói với ta như vậy, ngươi chỉ là một Tài Nhân nhỏ nhoi, ngươi...." Lưu quý phi vọt tới bên người Dụ Cáp Nhi, hùng hổ nói.
Thái Hoàng Thái Hậu vừa cười vừa nói: "Được rồi, 'người không phạm ta thì ta cũng không phạm người', là do người bảo Dụ Tài Nhân là con hát, người ta mới nói ngươi như vậy, lại nói Dụ Tài Nhân cũng không nói gì thêm mà còn khen người trắng. Chính ngươi cũng thừa nhận mà".
Lưu quý phi thấy Dụ Cáp Nhi có Thái Hoàng Thái Hậu làm chỗ dựa, cũng không dám nói cái gì nữa, chỉ tức giận ném cái khăn lụa trong tay.
Thái Hoàng Thái Hậu thì nói với Dụ Cáp Nhi: "Được rồi! Ai gia vẫn còn muốn nghe những điệu hát dân gian của người, chúng ta tiếp tục hát xướng nào".
Dụ Cáp Nhi nhìn trộm Lưu quý phi đang giận tới mức sắc mặt tái nhợt, nàng nhếch cái miệng nhỏ thì thầm nói với Thái Hoàng Thái Hậu: "Thái Hoàng Thái Hậu. Để con đi xin lỗi Lưu nương nương đã. Con không phải cố ý, sống trong nhà dưỡng thành thói quen như vậy. Nghĩ cái gì thì nói cái đó, Hoàng hậu nương nương nói rất đúng, tính cách của con như vậy là không tốt, nhất định phải sửa đổi, miệng nói lung tung như vậy rất đễ đắc tội với nhiều người".
Thái Hoàng Thái Hậu thấy Dụ Cáp Nhi hiểu việc như vậy, liền vỗ vỗ tay nàng, nói: "Tốt lắm! Không ngờ con còn ít tuổi mà biết nghĩ như vậy, vậy con đi đi".
Dụ Cáp Nhi nhu thuận "dạ" một tiếng, khi đi qua Hoàng hậu còn cung kính mỉm cười với nàng ta, Hoàng hậu cũng mỉm cười với Dụ Cáp Nhi, xem như là động viên nàng mạnh dạn lên.
Dụ Cáp Nhi đi đến trước mặt Lưu quý phi, cúi người thật thấp khiêm nhường nói: "Lưu nương nương, vừa rồi là muội muội không tốt, không nên nói ra lời xúc phạm người như vậy, bây giờ tới đây để người quở trách".
Lưu quý phi thấy Dụ Cáp Nhi chủ động tiến đến nhận lỗi, cảm thấy đã lấy lại được mặt mũi, có phần đắc ý cười khẽ một tiếng, nói: "Hiểu mình sai là tốt rồi, khi tỷ tỷ tiến cung sợ rằng muội còn mặc quần yếm đó, đừng tưởng rằng có người sủng ái ngươi, thì người không cần biết trời cao đất dày là gì. Phải biết rằng hậu cung là nơi tôn nghiêm, nói chuyện với những quý phi như ta thì phải khách khí một chút".
Bởi vì tất cả mọi người đều dừng bước, cho nên Đỗ Văn Hạo bất tri bất giác cũng tiến tới gần, hắn thấy Dụ Cáp Nhi hơi khom người. Mặt quay về phía mình, rõ ràng trong ánh mắt ngấn lệ.
"Muội muội đã hiểu, sau này nhất định sẽ chú ý tới điều này". Thanh âm của Dụ Cáp Nhi có phần biến đổi, có thể nghe ra là nàng đang nghẹn ngào khóc.
"Ơ! Ta chỉ là dạy dỗ ngươi một chút, ngươi cảm thấy ủy khuất cái gì hả?" Lưu quý phi tất nhiên cũng nghe ra, chưa phát giác ra thanh âm của mình quá lớn, giống như là muốn cho toàn bộ mọi người trong hậu hoa viên nghe thấy mình dạy dỗ Dụ Cáp Nhi.
"Muội muội không dám. Lưu nương nương dạy bảo rất đúng". Nước mắt của Dụ Cáp Nhi rơi lộp bộp trên chiếc giày của chính nàng, in thành một đóa nước mắt.
Mọi người vốn đều đang đứng xem kịch vui, bỗng phát hiện nét mặt của Thái Hoàng Thái Hậu trầm xuống, có mấy người vội vàng bước ra giả vờ làm người tốt, cất lời hòa giải.
"Được rồi, được rồi. Hôm nay chúng ta cùng Thái Hoàng Thái Hậu dạo chơi hoa viên, Dụ Cáp Nhi đã hiểu sai rồi thì coi như đã xong việc, chúng ta vừa đi vừa nói, Thái Hoàng Thái Hậu còn muốn nghe Dụ Tài Nhân hát xướng nữa".
"Đúng vậy! Đúng vậy! Ở nơi này thật là nắng nóng, chúng ta tìm chỗ nào râm mát nghỉ ngơi một lúc".
Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo suy nghĩ, hôm nay Dụ Cáp Nhi này làm sao vậy. Trong mắt của hắn Dụ Cáp Nhi là một nữ tử rất kiên cường, cho dù là đánh nhau với nam nhân, nếu như thua cũng sẽ không khóc. Chẳng lẽ là do sống giữ một đám nữ nhân tranh quyền đoạt lợi, không chịu nổi áp lực sao?
"Được rồi, Dụ Tài Nhân đến bên cạnh ai gia (tiếng thái hậu hoặc hoàng hậu tự xưng mình sau khi chồng mất), trò chuyện cùng ai gia". Thái Hoàng Thái Hậu ôn nhu nói.
Dụ Cáp Nhi lại cung kính khom người trước Lưu quý phi một cái, sau đó lui ra sau ba bước, lúc này mới đến bên người Thái Hoàng Thái Hậu, nâng cánh tay của Thái Hoàng Thái Hậu lên, cái múi còn khẽ thút thít, trong hốc mắt vẫn còn ngấn nước.
"Hừ! Ngươi giả bộ giỏi lắm!" Lưu quý phi thì thầm một tiếng.
Tuy là nói thầm, nhưng mà Thái Hoàng Thái Hậu và vài vị nương nương cùng với hoàng hậu ở phía trước đều nghe được. Thái Hoàng Thái Hậu đột nhiên dừng bước lại, quay đầu lại trừng mắt nhìn Lưu quý phi, lớn tiếng quát lên: "Phụ mẫu của ngươi dạy dỗ ngươi đối nhân xử thế như vậy ư? Không nên quá ích kỷ như vậy, thật là không rộng lượng chút nào".
"Con... con cũng không có nói gì mà". Lưu quý phi ngập ngừng nói.
Hoàng hậu thấy Thái Hoàng Thái Hậu muốn phát tác, vội đẩy nhẹ Lưu quý phi, thấp giọng nói: "Đúng rồi, ngươi đi về trước đi. Không phải ngươi nói rằng lúc xế chiều còn phải đi tới Linh Ẩn tự sao?"
"Ta... ta nói muốn đi khi nào...". Lưu quý phi vẫn chưa nói xong thì Hoàng hậu đã ra hiệu thái giám ở bên người mời Lưu quý phi ra khỏi đám người.
Đỗ Văn Hạo ở cạnh đó thấy Lưu quý phi bị thái giám mời đi, hắn phát hiện trong ánh mắt của Lưu quý phi bắn ra những tia cười hận, hắn không nhịn được mà một lần nữa lo lắng cho cô nàng Dụ Cáp Nhi lỗ mãng này.
"Thái Hoàng Thái Hậu, Dụ Cáp Nhi hát cho người nghe một điệu hát dân gian Giang Nam nha". Dụ Cáp Nhi không đành lòng làm hỏng sự hào hứng của mọi người, thế là nàng nén lệ, vừa cười vừa nói.
"Hay lắm! Vậy thì hát một bài nào. Đi! Phía trước có một hành lang uốn khúc, chúng ta tới đó ngồi nghe". Thái Hoàng Thái Hậu lại cao hứng chỉ vào một cái hành lang uốn khúc ở gần đó, ở phía trên hoa tường vi màu hồng nhạt mọc kín, mọi người cũng không dám làm Thái Hoàng Thái Hậu tức giận nữa.
Đi đến dưới hành lang gấp khúc. Dụ Cáp Nhi đặt chiếc khăn của mình lên ghế đá, sau đó dìu Thái Hoàng Thái Hậu ngồi xuống, những vị nương nương khác đều ngồi xuống vây quanh Dụ Cáp Nhi.
"Đỗ ái khanh, tới đây, trên đường đi ngươi cũng không có nói chuyện, nhanh tiến tới bên cạnh ai gia, gọi cho chúng ta một ít trà và bánh, ta thấy chỗ này không tồi. Chúng ta ở chỗ này nghe Dụ Cáp Nhi ca xướng một lúc, vừa uống chút trà giải nhiệt".
Chu Đức Phi ngồi ở bên cạnh Hoàng hậu vội đứng dậy đi phân phó bọn thái giám làm đưa trà bánh tới.
Đỗ Văn Hạo thấy mấy vị nương nương nghỉ ngơi, bản thân cũng đang muốn tìm một chỗ mà ngồi xuống. Không ngờ Thái Hoàng Thái Hậu nhìn thấy mình, thế là đành phải đi tới ngồi bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu.
" Bột cưu, ngân bột cưu chi phi lai phi khứ phi nghĩa ô.
Nghĩa ô kiều đầu tài căn bồ ( hồ lô bồ )
Đại bồ tiểu bồ đô đả ( trích ) liễu thặng điểm bồ chủy ( đế thỉnh trượng phu thông
Trượng phu hiềm ngã bồ thang khổ thanh thủy uyển trà hiềm ngã hồn,
Bạch mễ chử phạn hiềm ngã ô tế sa chức bố hiềm ngã thô,
Thế đầu lạc phát tố ni cô.
Ni cô tố vật thành. Hoa hoa nhai cẩu xả bố quần
Bố quần xả cá khuyết. Y thường lão sư bổ vật chuyển.
Tam nguyệt tam, tứ nguyệt bát, sơn lý bà nương bái bồ tát.
Chu bính mãn hoài tắc ( niệm sát ) thanh sài hôi mãn diện sát,
Trường mao hoa, mãn đầu sáp, mãn cước hoa hài đái hài bạt.
Thượng giai duyên hảm tiểu thẩm. Hạ giai duyên uy ( khiếu ) đại mụ ( niệm mã ) thông
Lộ tẩu khứ ngô lạp oa, xuất cước lưu khứ trượng thất bát,
Hồi đầu hoàn yếu mạ ngã tam bá điền ngạn hiệp.
Vật tri tự kỷ cước bản khoát vật khoát?
Hoành hướng lượng lượng thất thốn tam, trực hướng lượng lượng nhất xích bát.
"
(DG: Híc phần bài hát dân gian này mình chả hiểu gì, nhờ ai cũng hem dịch được, mình copy bản hán việt đây, ai thích tìm hiểu thì nghiên cứu nhá. )
Rất nhanh trà bánh được đưa lên, mọi người say sưa ăn điểm tâm xem Dụ Cáp Nhi ở bên cạnh hát xướng, còn có thể nhảy múa nữa. Bất tri bất giác làm cho mọi người quên đi chuyện tình không vui vẻ vừa rồi.
"Dụ Cáp Nhi, trí nhớ của muội thật là tốt, nếu như đổi lại là tỷ, thì không thể nhớ rõ nhiều ca từ như vậy đâu". Chu Đức Phi đứng dậy đích thân đưa tới cho Dụ Cáp Nhi một chén nước, Dụ Cáp Nhi vội vàng khom lưng nói lời tạ ơn.
Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: 'Vẫn là Đức Phi tỷ tỷ biết đối nhân xử thế. Khó trách Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng thái hậu cùng hoàng hậu đều yêu mến nàng như vậy. Hôm nay, xem ra muốn sống trong hậu cung thì không thể giống như Lưu quý phi, mà nhất định phải cẩn thận, thông minh và còn phải ăn nói khéo léo, mới có thể trụ được ở nơi này.
"Từ nhỏ đến lớn muội nghe hát rất nhiều, đương nhiên sẽ nhớ kỹ trong đầu, tỷ tỷ chúng ta cùng hát một khúc đi".
Chu Đức Phi sửng sốt một chút, chỉ thấy hoàng hậu vừa cười vừa nói: "Đúng đó, như vậy rất hay, ta cũng đã từng nghe muội hát bài 'ánh trăng' nào đó nghe cũng rất êm tai".
Chu Đức Phi đỏ mặt lên. Đi đến trước mặt hoàng hậu làm nũng: "Tỷ tỷ nghe muội hát lúc nào? Về ca hát muội một điểm cũng không thông".
Hoàng hậu vươn tay ra, nhẹ nhàng cốc lên cái trái của Chu Đức Phi, nói: "Ngày sinh nhật của Hoàng Thượng, lúc đó có ta cùng với Lâm Tiệp Trữ đều ở trong nội cung uống rượu. Không phải muội đã hát cho Hoàng Thượng nghe sao. Muội mà nói là đã quên mất, ta thì nhớ kỹ lắm đó".
"Nhưng... nhưng.." Chu Đức Phi có phần thẹn thùng, lắp bắp.
Thái Hoàng Thái Hậu vừa cười vừa nói: "Tại sao? Chỉ muốn hát cho Hoàng Thượng nghe, lại không muốn hát cho chúng ta nghe vậy?"
Chu Đức Phi "Ôi chao!" hai tiếng, giận dỗi dậm chân, quay đầu đưa tay khẽ đánh Dụ Cáp Nhi, oán trách: "Ngươi thật là xấu, được rồi! Đợi lát nữa tỷ tỷ hát xong, nhất định sẽ thu thập ngươi".
Dụ Cáp Nhi thì che miệng cười khúc khích, đi đến ngồi bên cạnh Đỗ Văn Hạo.
"Nguyệt lượng xuất lai lượng đường đường đả khai lâu môn tẩy y thường, tẩy đắc bạch bạch đích, sái đắc thúy thúy đích. Nguyệt nhi loan loan tượng tiểu thuyền đái yêm nương lưỡng khứ thải vân chi nam. Phi liễu thiên lý vạn lý lộ phượng hoàng lạc tại ngô đồng thụ thông phượng hoàng phượng hoàng nhất bãi đầu tiên cái ngõa ốc hậu cái lâu thông đông lâu tây lâu đô cái thượng tái cái nam lâu già thái dương".
Dịch nghĩa:
"Ánh trăng chiều sáng, mở cửa đi ra giặt quần y phục và xiêm áo, giặt giũ cho sạch sẽ, để phơi nắng cho khô. Mặt trăng hình lưỡi liềm như chiếc thuyền nhỏ lướt trên mây đi về phía Nam, bay qua ngàn dặm đường. Phượng Hoàng ở trên cây ngô đồng, Phượng Hoàng! Phượng Hoàng! Đầu tiên bay trên mái ngói, bay qua Đông Lâu, Tây Lâu, rồi sau đó cho ánh mắt trời ở Nam Lâu."
Đỗ Văn Hạo có phần kinh ngạc, đây là lần đầu tiên hắn nghe Chu Đức Phi tỷ tỷ ca hát. Tuy không phải là tuyệt vời vô cùng, nhưng cũng có thể nói là: véo von như chim hoàng oanh, lảnh lót động lòng người. So với Dụ Cáp Nhi thì có nhiều hơn một phần nhu tình cùng ý vị thành thục.
Dụ Cáp Nhi sau khi nghe xong, đầu tiên là đưa tay vỗ liên hồi, hầu hết mọi người đều có ý nghĩ giống như Đỗ Văn Hạo, đều bị giọng hát của Chu Đức Phi làm cho kinh ngạc đến ngây người. Mọi người đều quên vỗ tay, sau khi Dụ Cáp Nhi dẫn đầu lúc này tiếng vỗ tay mới vang lên ào ào.
"Đỗ đại nhân, Ninh công công nói là có chuyện muốn tìm ngài, phiền ngài qua đó một chuyến". Chẳng biết lúc nào, một tiểu thái giám đi đến sau lưng của Đỗ Văn Hạo nhỏ giọng nói.
"Ninh công công? Là Hoàng Thượng tìm ra sao?" Đỗ Văn Hạo nhìn tiểu thái giám, cất lời.
"Nô tài không biết".
Thái Hoàng Thái Hậu liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, sau đó nói: "Được rồi. Ngươi đi đi, ta biết ngươi ở đây cũng cảm thấy khó chịu, bứt rứt. Tất cả đều là nữ nhân, không có ai nói chuyện cùng ngươi, nếu như Tiểu Ninh Tử gọi ngươi thì hơn phân nửa là hoàng thượng tìm ngươi có việc gì đó, cứ đi đi, chúng ta nghỉ ngơi ở đây là được rồi".
Đỗ Văn Hạo như là được đại xá, vội đứng dậy. Sau đó vẫn không quên nhắc nhở: "Lão nhân gia, một lát nữa phải nhanh chóng trở về, gió sắp thổi rồi, đầu của người không thể thụ phong được".
Thái Hoàng Thái Hậu mỉm cười gật nhẹ đầu, phất phất tay áo. Đỗ Văn Hạo nhìn Chu Đức Phi, hai người nhìn nhau mỉm cười, sau đó đó Đỗ Văn Hạo lập tức cất bước, rời khỏi hậu hoa viên.
Ra khỏi hậu hoa viên, thấy một thái giám đứng chờ sẵn ở cửa ra vào, bên người còn có một cỗ kiệu.
"Mời Đỗ đại nhân lên kiệu". Thái giám cung kính xốc màn che lên, làm một thủ thế mời vào.
"Tại sao còn phải ngồi kiệu, đi bộ không phải là nhanh hơn sao? Có phải xuất môn đâu?" Đỗ Văn Hạo khó hiểu hỏi.
"Bởi vì là phải đi đến nhà của Ninh công công, cho nên lúc này mới phải mời ngài lên kiệu, ra khỏi cửa cung sẽ có xe ngựa đón ngài".
Đỗ Văn Hạo bước lên cỗ kiệu nói với thái giám: "Tại sao? Ninh công công không ở trong cung ư?"
"Vâng! Không ở trong cung. Ninh công công bị bệnh, đã nằm ở nhà hai ngày nay rồi. Thật sự là đau đớn không thể chịu được, cho nên lúc này mới phải cho người tới mời ngài tới xem xét".
'Hắn bị bệnh khi nào, sao ta không biết?' Đỗ Văn Hạo tự nhủ. Bất tri bất giác, cỗ kiệu đã ra khỏi hoàng cung, quả nhiên có một chiếc xe ngựa đang chờ ở đó, trên xe là một người mặc trang phục quản gia, thấy cỗ kiệu đi đến, lập tức xuống xe nghênh đón.
"Đỗ đại nhân, làm phiền ngài rồi, lão gia nhà ta thật sự là là đau nhức không chịu được cho nên mới phải mời ngài tới xem. Nô tài họ Tưởng, là quản gia của Ninh phủ.
Đỗ Văn Hạo đáp một tiếng rồi lên xe, xe ngựa đi rất nhanh từ cửa cung hướng về phía trung tâm mua bán.
Từ xưa dường như trong phủ đệ của thái giám đều có tam thê tứ thiếp. Đỗ Văn Hạo suy nghĩ, những thái giám này nghiêm khắc mà nói thì đều là những quái vật không phải nam cũng chẳng phải nữ, quan trọng nhất là không còn công năng cơ bản nhất của một người đàn ông, vậy những nữ nhân kia sao còn cam tâm tình nguyện chịu làm thê thiếp. Chẳng lẽ bọn họ xem trọng tiền bạc hơn ham muốn của thân thể hay sao?
Đỗ Văn Hạo đang đoán mò, đột nhiên xe ngựa dừng lại. Tưởng quản gia vén màn xe lên, nhìn Đỗ Văn Hạo cười lấy lòng: "Đỗ đại nhân, đã đến rồi! Mời ngài xuống xe". Nói xong, đưa tay đỡ Đỗ Văn Hạo xuống xe.
Chỉ thấy ở trước mặt là hai đầu sư tử lớn được điêu khắc bằng đá cẩm thạch, trong miệng có ngậm viên châu, hai mắt trừng trừng, rất có khí thế. Trên cửa ra vào có một tấm biển, ở phía trên có khắc hai chữ ' Ninh phủ', tường xanh ngói đỏ, đại thụ xanh biếc tỏa bóng râm, đúng là một nơi rất tốt để tĩnh dưỡng.
Lúc này đã thấy Ninh công công Ninh Đức Tài thân mặc một bộ y phục tơ lụa màu trắng, đích thân ra khỏi cửa tiếp đón, sau lưng còn có bốn năm nữ tử xinh đẹp trẻ tuổi đi theo, mỗi người đều có vài phần tư sắc, còn chưa đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo, đã hai tay ôm quyền, cười lớn một tiếng rồi cất lời: "Xấu hổ quá! Đỗ đại nhân, nghe nói ngài đang cùng Thái Hoàng Thái Hậu đi dạo hoa viên, thật sự là ta không còn cách nào khác cho nên mới phải mời ngài đến xem bệnh cho ta".
Đỗ Văn Hạo thấy sắc mặt của Ninh công công tái nhợt, đôi môi cũng không có tý huyết sắc nào, mí mắt xanh xám, xem ra thật sự là bị bệnh rồi.
"Ninh công công đã mắc bệnh như vậy rồi, sao còn rời giường làm gì. Đi! Đi nhanh một chút, nhanh về nằm đi. Để cho ta xem ngài rốt cuộc là bị làm sao.
Ninh công công thân mật nắm lấy tay của Đỗ Văn Hạo, mấy phu nhân ở phía sau thì khon người làm lễ, đều õng ẹo hô lên: "Tham kiến Đỗ đại nhân".
Đỗ Văn Hạo không nhịn được mà cảm thấy phần da phía sau lưng nổi lên rần rật, toát mồ hôi lạnh, hắn cố cười hai tiếng. Thấp giọng nói vào bên tai Ninh công công: "Công công diễm phúc thật không cạn nha! Các vị phu nhân dung nhan đều xinh đẹp như hoa, thật là làm cho Đỗ mỗ hâm mộ không thôi".
Ninh công công cười to, đột nhiên ôm lấy bụng mình, bàn tay đang giữ Đỗ Văn Hạo cũng nắm chặt hơn, mấy nữ nhân vội vàng tiến lên tranh nhau đỡ lấy Ninh công công, tranh nhau hỏi han: "Lão gia, ngài làm sao vậy?"
Ninh công công đẩy họ ra, không hề vui vẻ cất lời: "Các ngươi một ngày ít dùng tiền bạc của ta đi, thì sẽ không đau nữa".
Đỗ Văn Hạo nhịn cười, thấy mấy nữ nhân nhanh chóng thối lui sang một bên, không dám nói tiếp nữa.
Ninh công công kéo tay Đỗ Văn Hạo vào cửa chính. Đỗ Văn Hạo quan sát ngôi nhà, chiếm diện tích ước chừng trăm mẫu, liền âm thầm suy nghĩ Ninh công công cũng không phải là đèn đã cạn dầu không biết dùng tiền của trong nội cung. Nhà cửa như vậy so với những vị quan nhị phẩm tam phẩm chỉ hơn chứ không kém.
"Đỗ đại nhân, ngài vừa mới nói mấy vị phu nhân của ta xinh đẹp. Huynh đệ chúng ta nói vui vài lời, ngài cũng đừng quá để ý". Đại sảnh, Ninh công công phân phó người dâng trà cho Đỗ Văn Hạo, sau đó vừa cười vừa nói.
"Ninh công công không cần khách khí như thế, cứ nói đi đừng ngại". Đỗ Văn Hạo quan sát bình trà cùng với chén trà đều là những đồ sứ tốt nhất, phẩm chất hoàn toàn có thể so sánh với đồ sứ ở trong hoàng cung.
"Ngài nên nói về Thanh Đại tỷ tỷ của ngài kia kìa, đó mới gọi là tuyệt sắc giai nhân, mấy vị phu nhân của ta chỉ là dong chi tục phấn (hạng phấn son tầm thường). Đâu đáng để thưởng thức".
Đỗ Văn Hạo có phần mất hứng, một thái giám lại nói về Thanh Đại tỷ tỷ như vậy, nhưng hắn là người ẩn giấu thái độ rất tốt, chỉ cười cười, nói: "Được rồi, ta vừa rồi thấy ngài đau, dường như là ở dạ dày". Nói xong, mang hòm thuốc lấy ra chiếc gối bắt mạch đi đến bên người Ninh công công ngồi xuống, ra hiệu hắn đặt tay lên gối.
"Nói ra cũng có chút không phải, đã lâu lắm rồi, Đỗ đại nhân cũng biết. Ở bên người hoàng thượng, thường thường là ăn bữa hôm, bỏ bữa mai, cứ như vậy thời gian dài cho nên mới sinh ra căn bệnh này. Cũng đã tìm vài tiểu thái y xem qua, cũng để cho bọn họ khai phương bốc dược, nhưng đều không có tiến triển gì. Cho nên lúc này mới phải cầu tới ngài".
Đỗ Văn Hạo gật nhẹ đầu, dấu hiệu tắc mạch, hiểu rằng Ninh công công là bị bệnh loét dạ dày, loại bệnh này trước kia hắn đã nghe Diêm Diệu Thủ nói qua một phương thuốc trị liệu rất hay, đó chính là lấy gan của con ba ba còn tươi sống, tiếp đó dùng lửa nhỏ rang cho thành màu vàng ngói, sau đó nghiền thành bột, tiếp theo ngâm vào rượu trắng, (Ước Khuyến Hào Thăng), đóng nắp bình. Mỗi ngày lúc lắc vài lần cho nó nhanh hòa tan hơn, ngâm như vậy mười ngày. Sau đó, mỗi ngày vào buổi sáng và buổi tối lúc bụng đói uống một thìa, dùng liên tục cho đến lúc khỏi bệnh.
Đỗ Văn Hạo ghi lại phương thuốc này cho Ninh công công. Ninh công công lập tức xem qua, những thứ ghi trên đó cũng không khó tìm. Thế là vội vàng phân phó hạ nhân đi chuẩn bị. Quả nhiên, Ninh công công sau khi đã dùng phương thuốc này của Đỗ Văn Hạo, thì đại khái một tháng sau, dạ dày không còn đau nhức nữa.
Chương 292: Ngũ Canh tả
Thật ra nói cho chính xác thì thời điểm này là mùa hè, nhưng mà năm nay khí hậu ẩm ướt, mặc dù trời rất ít mưa nhưng cũng không có nóng nhanh như năm trước.
Trời không mưa cho nên có cảm giác rất oi bức, mấy ngày nay mỗi ngày Đỗ Văn Hạo mang theo Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi cùng Lâm Thanh Đại đi dạo chơi, vào lúc tiếng gà gáy sáng cất lên lần đầu tiên đã cùng ba cô gái đánh xe ra khỏi thành, sau đó gửi xe ở một khách điếm nhỏ dưới chân núi, sau đó cả bốn người đi bộ lên núi.
Hôm nay, khi đến giữa sườn núi thì lại có mưa tí tách từ trên bầu trời rơi xuống, mưa như sợ tóc khẽ vuốt ve lên khuôn mặt của mỗi người, mát lạnh rất là thoải mái, những mệt mỏi trước đó giống như là đã bay theo mưa phùn, không khí rất nhanh trở nên ẩm ướt, đồng thời trên bầu trời cũng có những tia chớp lóe lên. Những hạt mưa bao trùm cả tòa núi làm cho lòng người càng thêm vui vẻ.
"Tướng công, thiếp đi không nổi nữa". Thân thể của Bàng Vũ Cầm sau đợt sảy thai lần trước, tuy nói rằng đã khôi phục không ít, nhưng vẫn không chịu nổi vất vả bôn ba như vậy.
Đỗ Văn Hạo đứng ở trên mỏm nhô ra của một tảng đá. Đang ở đó nhìn xuống cảnh đẹp dưới núi, chỉ thấy Bàng Vũ Cầm đứng ở cạnh một lùm trúc, thân mặc một chiếc váy sa mỏng màu xanh biếc, giống như muốn nhỏ ra những chất lỏng màu lục, gió nhè nhẹ lướt qua chiếc váy làm cho nó bay lất phất hài hòa cùng cảnh núi, cảnh này cùng cây cỏ cùng tương hỗ, từ trên nhìn xuống cảm thấy rất thú vị.
Lâm Thanh Đại đi ở cuối cùng, thật ra nàng là người đi nhanh nhất, nếu nàng muốn đi lên trước thì sẽ không có người nào có thể theo kịp cước bộ của nàng.
"Cầm nhi, muội đứng ở đó. Ta tới dắt muội đi".
Lâm Thanh Đại không biết hái được từ đâu một nhánh hoa dại đỏ rực như lửa, thân mặc một bộ váy dài bằng vải bố, mái tóc của nàng bị sương sớm trong núi làm ướt át, ánh mắt trời chiếu xuống hai gò má, nét mặt vui vẻ, xem ra hẳn là đang ngắm nhìn Đỗ Văn Hạo.
Tuyết Phi Nhi đứng ở bên người Đỗ Văn Hạo, hai tay đang giữ chặt cánh tay Đỗ Văn Hạo cũng hơi buông lỏng, leo một chặng đường như vậy nhưng nàng cũng chỉ khẽ thở dốc.
"Các nàng đó! Ta xem sau này mỗi ngày đều phải luyện tập thân thể một chút mới có thể leo núi, các nàng đều mệt rồi sao?" Đỗ Văn Hạo cười lớn nói.
"Chỉ có Cầm nhi tỷ tỷ không chịu được, còn muội cùng Thanh Đại tỷ tỷ thì không có vấn đề gì", Tuyết Phi Nhi nói.
Lâm Thanh Đại đi đến bên người Bàng Vũ Cầm thấy nàng rất mệt mỏi, mồ hôi trên trán không ngừng chảy xuống, liền tiến tới nắm lấy cánh tay của nàng, cất lời: "Đi thôi, Văn Hạo! Chúng ta đi chậm thôi, Cầm nhi đã ra rất nhiều mồ hôi, trên núi gió lớn coi chừng bị lạnh".
"Được rồi, phía trước có có một lều cỏ, chúng ta dừng lại nghỉ ngơi một lúc đi, dù sao vẫn còn sớm". Đỗ Văn Hạo nói xong, lại nắm tay Tuyết Phi Nhi đi lên phía trước.
"Hay là mọi người đi lên phía trước đi, muội thật sự là rất mệt mỏi. Để muội ở đây nghỉ ngơi một lát, chờ mọi người xuống núi rồi cùng trở về là được", Bàng Vũ Cầm cất lời.
"Nói cái gì vậy, cùng tiến lên thì tất nhiên phải đi cùng tới đỉnh núi. Không sao đâu! Nếu mệt mỏi thì chúng ta không đuổi theo bọn họ, chúng ta đi từ từ là được mà!" Lâm Thanh Đại cổ vũ Bàng Vũ Cầm hai người nắm tay thong thả đi lên núi.
"Tỷ tỷ, thời gian tỷ thủ hiếu đã sắp xong chưa?" Bàng Vũ Cầm hỏi.
"Hỏi điều này làm gì, còn lâu mà", Lâm Thanh Đại trả lời.
"Để xong rồi thì cùng tướng công thành thân".
Lâm Thanh Đại "a" lên một tiếng, kinh ngạc nhìn Bàng Vũ Cầm, chỉ thấy Bàng Vũ Cầm đang nhìn mình mỉm cười. Mặt Lâm Thanh Đại nóng lên, thì thào nói: "Cầm nhi, đừng có nói lung tung".
Bàng Vũ Cầm cười khanh khách, sau đó dừng bước. Ở phía trước Đỗ Văn Hạo cùng Tuyết Phi Nhi đã không còn thấy bóng dáng.
"Muội... muội cười cái gì. Cười đến mức làm lông tơ trong người ta dựng ngược hết rồi đây này", Lâm Thanh Đại rốt cuộc chột dạ, mở miệng nói nhỏ.
"Đừng cho là muội không biết gì nha! Khuôn mặt tỷ đỏ bừng rồi kìa, để lúc nào muội phải nhắc nhở tướng công một câu, chàng ngày ngày để bận rộn chuyện tình trong nội cung, lại ủy khuất tỷ tỷ phải chờ đợi".
Mặt Lâm Thanh Đại càng nóng lên, nàng làm bộ lau mồ hôi mà đưa tay lên che khuôn mặt của mình: "Cầm Nhi, muội..."
Bàng Vũ Cầm cười khẽ, vỗ lên tay của Lâm Thanh Đại, lại nói tiếp: "Nếu không có tỷ, tướng công cũng sẽ không ở lại Ngũ Vị Đường, như vậy muội cũng sẽ không quen biết chàng, cho nên muội còn phải cảm ơn tỷ nữa là. Giờ đây Tuyết Phi Nhi cũng đã xuất giá, thân thể của muội cũng không còn khỏe mạnh như trước. Tướng công đáng ra đã có một hài tử, nhưng muội..." Nói tới chỗ này, thanh âm của Bàng Vũ Cầm có phần nghẹn ngào.
"Đừng nghĩ nhiều như vậy, chuyện lần trước chỉ là xảy ra ngoài ý muốn, muội còn trẻ như vậy, còn có rất nhiều cơ hội".
"Ài, không nói nữa, chúng ta đi nhanh một chút đừng để bọn họ chờ chúng ta quá lâu". Bàng Vũ Cầm cắt đứt lời Lâm Thanh Đại, sau đó nắm tay nàng tiếp tục tiến về phía trước.
"Tỷ tỷ, hai người đi nhanh một tý, chúng ta đã đến rồi". Âm thanh dễ nghe của Tuyết Phi Nhi cách đó không xa vọng tới, lúc xa lúc gần, vang vọng ở trong núi một lúc lâu không dứt.
Trở lại Ngũ Vị Đường, Lâm Thanh Đại tìm một cơ hội đem chuyện về Bàng Vũ Cầm nói với Đỗ Văn Hạo, nàng cảm thấy trong lòng vẫn còn có chút khúc mắc, bảo Đỗ Văn Hạo nên tìm cách khuyên giải nàng, nếu không sau này lại trở thành tâm bệnh.
"Không nên lo lắng, lòng nàng ta hiểu mà. Đợi đến lúc mang thai hài tử thứ hai, tâm tình của nàng hẳn sẽ tốt lên", Đỗ Văn Hạo không cho là đúng, đáp lời.
Lâm Thanh Đại cũng không biết nói gì nữa. Lúc này Ninh công công sai người tới gọi, nói là Hoàng Thượng lệnh cho Đỗ Văn Hạo tiến cung. Đỗ Văn Hạo không dám ở lâu, chỉ đành đánh ứng buổi tối trở về sẽ tìm Bàng Vũ Cầm nói chuyện, sau đó vội vàng ra đi.
Đỗ Văn Hạo vào cung, trên đường gặp phải Dụ Cáp Nhi mang theo hai cung nữ tiến vào.
"Đỗ đại ca, huynh muốn đi vào bên trong à?" Dụ Cáp Nhi thích xưng hô với Đỗ Văn Hạo như vậy, dù sao mọi người đã sống chung với nhau hơn mười ngày, Dụ Cáp Nhi rất tán thưởng cách đối nhân xử thế của Đỗ Văn Hạo.
"A! Nương nương muốn đi đâu vậy?" Đỗ Văn Hạo dừng bước lại, thấy Dụ Cáp Nhi bận y phục màu hồng, mái tóc buông dài rất xinh đẹp. Thân thể thon dài, chiếc eo nhỏ nhắn mê người, tuy còn chưa tới tuổi thành thục nhưng môi son thanh đạm cùng với khuôn mặt nhuận hồng tản ra sức sống thanh xuân, giống như là một nụ hoa sinh cơ dạt dào đang chờ tới thời điểm hé nở. Da thịt mềm mại, thần thái thong dong, đôi mắt xinh đẹp linh hoạt, má đào còn mang theo nụ cười hàm ẩn như u lan tỏa hương, quả thật là một cô bé động lòng người.
"Chuẩn bị trở về, vừa từ trong cung của hoàng hậu đi ra, hai ngày trước hoàng hậu đến nhà nói rằng rất yêu thích chiếc gối thêu, cho nên hôm nay ta đưa đến cho tỷ ấy".
Đỗ Văn Hạo không khỏi than dài trong lòng, nói thật, một cô nương còn ít tuổi như nàng có thể làm cho Thái Hoàng Thái Hậu cùng hoàng hậu yêu mến thật không dễ dàng. Bởi vì nếu như một nữ nhân nào đó được sủng ái, bình thường mà nói, hoàng hậu rất ghen ghét và căm thù những nữ nhân khác mà được Hoàng Thượng thượng yêu mến.
"Ta đi gặp Hoàng Thượng một chuyến, nghe nói có chuyện gì đó cần tìm ta", Đỗ Văn Hạo chuẩn bị cáo từ.
"Có phải là chuyện sáng sớm nay Phú đại nhân sinh bệnh?"
"Cái gì, Phú đại nhân bị bệnh ư?"
Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: Khó trách lại gọi mình tới, thì ra là Phú Bật bị bệnh.
"Sáng nay khi lâm triều, Phú đại nhân nghe Hoàng Thượng cùng chúng đại thần thương nghị hiến pháp Thanh Miêu thì có phần kích động, bất ngờ tại đương trường vãi phân ở trong quần rồi lâm bệnh".
"Nương nương, tin tức thật là linh thông", Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa nói, dù sao thì bãi triều mới chỉ trong chốc lát, Dụ Cáp Nhi đã biết lúc thượng triều chuyện gì xảy ra, ở kinh thành nàng không thân không thích, người làm quan ngoại trừ Ninh công công thì còn ai có thể cho nàng biết?
Dụ Cáp Nhi cười một tiếng, đưa khăn thơm lên nhẹ nhàng che trước mũi, nhỏ giọng nói: "Ta cũng không phải là người thứ nhất biết được chuyện này, là hoàng hậu nói cho ta biết, nói là lúc ấy Hoàng Thượng cảm thấy quá thối nên không tiếp tục thương nghị xong việc, vội vàng sai người khiêng Phú đại nhân đi, bãi triều sớm hơn mọi ngày. Vừa lúc ta đến nơi ở của hoàng hậu cho nên mới biết được".
Đỗ Văn Hạo sợ ở bên kia Hoàng Thượng chờ sốt ruột cho nên vội vàng cùng Dụ Cáp Nhi cáo từ.
"Đúng rồi! Đỗ đại ca, lát nữa huynh xong việc rồi thì đến chỗ ta một chuyến nha, lần trước Thanh Đại tỷ tỷ nói là ưa thích mật hoa hồng, ngày hôm trước Thái Hoàng Thái Hậu cho một ít, huynh tới lấy về cho tỷ tỷ nha".
"Hay là nương nương giữ lại mà dùng đi".
"Nhiều lắm, đưa cho tỷ tỷ một ít nếm thử, một mình ta dùng cũng không hết", nói xong, Dụ Cáp Nhi mang theo cung nữ rời đi.
Đỗ Văn Hạo cũng không để tâm nữa, lập tức bước nhanh.
Đến Càn Thanh cung, không có trông thấy Hoàng Thượng, chỉ có Ninh công công cùng vài thái giám với Phú Bật. Đỗ Văn Hạo bước vào cửa cũng không ngửi thấy 'hương hoa tuyệt vời', chắc hẳn là đã tắm rửa thay quần áo.
Sau khi Đỗ Văn Hạo thỉnh an Phú Bật thì lập tức ngồi xuống xem mạch cho Phú Bật.
Thấy Phú Bật đại nhân nằm ở trên giường tinh thần không tốt, uể oải hơi thở không thịnh, trong lúc xem mạch lại phát hiện giống như là 'tỳ thận dương hư'. Nhận tiện hỏi: "Có phải là đại nhân có thói quen tiêu chảy vào mỗi sáng sớm hay không?"
Phú Bật gật nhẹ đầu, yếu ớt nói: "Ài, mỗi ngày vào lúc gà gáy sáng thì liền rời giường vào cầu tiêu. Hôm nay.... Ài". Nói tới đây Phú Bật ảo não thở dài, hung hăng đấm vào cái gối bên giường: "Đều là do cái bụng hại người này, làm cho ta xấu mặt".
Lần này đi đến huyện Đông Minh, Đỗ Văn Hạo nghe Vương An Thạch nói về vị Phú Bật đại nhân là người không hề kiêu căng ngạo mạn, là một vị quan chính trực thanh liêm, yêu thiện ghét ác, có đủ bốn đức tính của kẻ làm quan: ' chân, chân, anh, thần'; tính tình lại vô cùng hiếu thảo, hiểu lễ nghi. Nhưng mà cùng Vương An Thạch bất hòa bởi vì không đồng ý với biến pháp Thanh Miêu. Tống Thần Tông là một vị vua yêu mến hiền tài cho nên cũng không vì Phú Bật không đồng ý với biến pháp của hắn mà nổi giận với Phú Bật.
"Phú đại nhân không nên lo lắng, mọi người đều có lúc không khỏe, lại về căn bệnh của ngài, ty chức cho ngài một đơn thuốc chỉ cần dùng đều đặn một thời gian là không sao nữa".
"Ngươi chính là vị Đỗ thái y Đỗ Văn Hạo mà Ninh công công nói đến đó sao?" Đây là lần đầu tiên Phú Bật gặp Đỗ Văn Hạo. Ngày thường Đỗ Văn Hạo ở phía sau cùng, vì vậy đương nhiên là văn võ đại thần trong triều rất ít khi gặp hắn, đều chỉ nghe thấy danh tiếng thôi, ít khi gặp mặt.
"Chính là tại hạ", Đỗ Văn Hạo trả lời.
Phú Bật điềm đạm mỉm cười, nói: "Tuổi trẻ đầy triển vọng".
"Ty chức chỉ làm hết phận sự của mình thôi, còn phải học tập rất nhiều".
"Tốt lắm, không nên kiêu ngạo, cũng không nên tự phụ, y học cũng phải học hỏi không ngừng".
"Phú đại nhân nói rất đúng", Đỗ Văn Hạo nói liền xong đứng dậy đi đến bàn viết phương thuốc.
Phú Bật hỏi: "Tại sao phải như vậy? Dạ dày của ta từ trước đến nay vẫn không tốt, cái tật xấu này hình thành ý niệm trong đầu, buổi tối dù là ăn bất cứ thứ gì, trời vừa sáng là không thể ngủ nữa, muốn không dậy cũng không thể được".
Đỗ Văn Hạo mỉm cười, sau đó lại ngồi xuống, nói với Phú Bật: "Trung y cho rằng đây là do 'tỳ thận dương hư' mà tạo thành bệnh này, bởi vì thận dương là gốc rễ của dương khí, bệnh này có tên là tả vào buổi sáng hay còn gọi là Ngũ Canh tả.
"Ngươi nói là bệnh này không phải do dạ dày tạo thành, mà là có liên quan tới tỳ thận? Tạo sao thế?" Phú Bật không cho là đúng, hỏi Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo kiên nhẫn giải thích: "Ngũ Canh tả còn gọi là 'Thận tả'. Đã từng có một danh y nói rằng vào lúc gà gáy sáng đến rạng sáng 'là dương trong ngày, âm trong dương'(thiên chi âm âm trung chi dương dã). Bởi vì dương khí lúc này không thịnh, hư tà lưu lại mà không tan, dẫn tới tả vào sáng sớm".
Thật ra những lời này là của một danh y vào triều Thanh nói, nhưng mà Đỗ Văn Hạo hiểu rằng Phú Bật hiển nhiên là sẽ không biết, sau Đại Tống còn có Nguyên, Minh, Thanh...Ở triều đại này không biết còn có dân quốc, sự biến đổi về hợp tác cùng Tây An, càng không biết về kính râm, quần jean cùng đặc khu kinh tế, cho nên không cần phải nói ra. Chỉ cần trị bệnh cho tốt là được rồi.
Lại nói về căn bệnh Ngũ Canh tả này, là liên quan đến cách tính thời gian bằng tiếng gà gáy sáng ở thời cổ đại. Thời cổ, một ngày được chia làm sáu khoảng thời gian: Rạng sáng, trong ngày, xế chiều, hoàng hôn, buổi tối, kê minh (thời điểm gà gáy sáng). Trong đó: 'Rạng sáng, trong ngày, xế chiều thì thuộc về dương. Hoàng hôn, buổi tối, kê minh thì thuộc về âm'. Mà lúc gà gáy sáng là thời điểm chuyển hóa âm dương. Ý tứ của các bậc tiền bối là vào lúc gà gáy sáng hay là Canh Năm là thời điểm bị tiêu chảy, bởi vì dương khí lúc này chưa xuất hiện mà âm khí thì đang dần biến mất, từ đó làm cho âm khí trong bụng thịnh, còn dương khí thì suy yếu. Bởi vì dương khí thì ấm áp, mà trong bụng không đủ độ ấm thì thức ăn ở trong dạ dày hấp thu khí lạnh, dạ dày và ruột không được làm ấm. Không thể giữ được các vật ở bên trong nên dẫn tới tiêu chảy.
Phú Bật nghe xong, nửa hiểu nửa không, dù sao bản thân lão cũng không phải là đại phu cho nên không hiểu cũng là chuyện bình thường. Nhưng mà Phú Bật này có một tật xấu, đó chính là rất hay truy hỏi cặn kẽ, kỹ càng sự việc. Tuy rằng lão không có nghiên cứu về y thuật nhưng cũng rất muốn biết nguyên nhân gây ra căn bệnh này của mình.
"Đỗ đại nhân, ngài có thể nói cho ta biết sẽ trị căn bệnh này như thế nào hay không, bản thân ta rất ghét uống thuốc, có phải là sẽ phải dùng thuốc trong một thời gian rất dài không?"
Đỗ Văn Hạo mỉm cười trả lời: "Có một phương thuốc tên là Tứ Thần Hoàn, chuyên trị loại tiêu chảy này, ngài sợ uống thuốc thì ta sẽ cho thêm vào trong thuốc một ít mật ong như vậy sẽ không đắng nữa".
Ninh công công ở một bên nghe vậy cười trộm, cảm thấy giống như là Đỗ Văn Hạo đang dỗ một đứa bé uống thuốc vậy.
Phú Bật thấy Ninh công công cười mình, liền lên tiếng: "Ngươi cười cái gì?"
"Không, không cười gì cả, ta chỉ muốn nói: Sớm biết có thể cho mật ong vào trong thuốc thì lần trước ta khi ta bị bệnh đã yêu cầu Đỗ đại nhân làm vậy, vì ta cũng sợ đắng".
"Ta vốn bị tiêu chảy nên không dám uống mật ong, vì sợ đắng nên không dám uống thuốc, nếu không hôm nay làm sao mà bị xấu mặt như vậy chứ". Phú Bật cau mày, vẻ mặt khổ sở vô cùng.
"Không có gì đáng ngại, tràng vị của ngài không có vấn đề". Đỗ Văn Hạo giải thích.
Phú Bật nghe vậy thì vui mừng, lập tức ngồi dậy nói với Đỗ Văn Hạo: "Từ trước đến giờ ta cũng rât thích xem sách y thuật, tuy rằng không thấu triệu được như ngài, nhưng cũng có phần hứng thú. Ngài có thể nói cho ta biết Tứ Thần Hoàn rốt cuộc là bốn vị thuốc nào không?"
Ninh công công ở một bên cất lời: "Tại sao Phú đại nhân lại biết được rằng trong đó có bốn vị thốc".
"Đúng vậy! Có bốn thuốc chính, Phú đại nhân nói không hề sai", Đỗ Văn Hạo nói.
Phú Bật đắc ý nhìn Ninh công công, nói: "Ta đã nói rồi, ta có xem qua y thư mà".
Đỗ Văn Hạo cùng Ninh công công liếc nhau, không nhịn được mà đều nở nụ cười.
Đỗ Văn Hạo nói: "Bốn vị thuốc chủ yếu trong Tứ Thần Hoàn là: Phá Cố Chỉ, Nhục Đậu Khấu, Ngũ Vị Tử, Ngô Thù Du, ngoài ra còn có hai vị thuốc là gừng cùng táo đỏ, hai vị này dùng để điều hòa. Trong tất cả các bài thuốc trong cổ thư có nói: 'Đây là Túc Thiểu Âm dược'. Túc Thiểu Âm chính là 'Túc Thiếu Âm Thận kinh', trong đó có nói rằng đây là bài thuốc bổ thận. Đại phu Uông Ngang thời Thanh nói: 'Hễ là tả lâu dài thì đều là do tính hỏa của thận suy yếu, không thể chuyên trách tì vị, cổ nhân có nói về tả như thế này: 'Nước ra không thể khống chế, thận là thủy trong Ngũ Hành, tỳ là là thổ trong Ngũ Hành, có câu thổ khắc chế thủy..."
"Ta hiểu ý của ngài rồi, cái này giống như chúng ta thường nói: 'Binh tới tướng đỡ, nước tới đắp đất chặn'. Cho nên muốn bổ tỳ thì phải khống chế thủy trong cơ thể. Có đúng vậy hay không?" Phú Bật cướp lời, nói.
Đỗ Văn Hạo bội phục gật đầu.
Phú Bật cao hứng. Lại hỏi: "Phá Cố Chỉ là thứ gì, có phải là những giấy vụn, giấy loại của sách cũ không cần dùng đến không?"( Phá Cố Chỉ là tên 1 loại thuốc, nhưng mà nếu dịch ra nghĩa thì nó có nghĩa là: Trang giấy rách nát. Cho nên Phú Bật mới hỏi như vậy).
Đỗ Văn Hạo nhịn không được mà cười to, lão thái giám ở một bên cũng cười theo, nhưng Phú Bật vẫn không hề tức giận, hỏi tiếp: "Đó là cái gì? Nhanh nói cho ta biết, lần sau có người bị bệnh như lão phu, thì ta cũng có thể khai phương bốc dược cho hắn".
"Phú đại nhân có lòng hiếu học, thật là khiến cho ty chức bội phục vô cùng. Phá Cố Chỉ là danh xưng thật sự là Bổ Cốt Chi, vốn nó là một loại quả họ đậu, người xưa còn gọi nó là Bổ Cốt Chi, Phá Cố Chỉ hoặc là Hắc Cố Tử. Trong y thư cổ đại ' Bản thảo cương mục' có nói rằng vị thuốc này có thể giúp 'tráng hỏa ích thổ'.
"Ồ, thật là hay. Giờ ta đã hiểu được rồi, không cắt lời ngài nữa, ngài tiếp tục nói đi".
"Nhục Đậu Khấu làm ầm tỳ thận, hơn nữa 'Sáp tràng chỉ tả', có thể nói là vị thuốc gốc của phương thuốc, Ngô Thù Du làm ấm tỳ vị hơn nữa 'tán hàn lợi thấp', Ngũ Vị Tử có thể làm ấm tràng vị, 'sáp tràng chỉ tả', đó là bốn vị chủ yếu của phương thuốc này. Từng có danh y nói rằng, đây là bốn loại thuốc thần kỳ, trị thận tiết niệu như thần vậy. Cho nên mới gọi là Tứ Thần Hoàn, ngoài bốn vị thuốc chính này thì còn có hai vị thuốc: Gừng, táo. Ở trong Thương Hàn Luận đại phu Trương Trọng Cảnh thường xuyên dùng tới hai vị thuốc này, nói hai vị thuốc này dùng chung có thể dùng điều hòa Doanh Vệ. Gừng có thể ' tán hàn hành thủy'. Táo có tác dụng tẩm bổ tỳ vị, cũng có tác dụng với bệnh Ngũ Canh tả. Cho nên tổng hợp cả phương thuốc gồm có sáu vị thuốc, có thể nói là đã rất đầy đủ.
Phú Bật không ngừng gật đầu. Trên khuôn mặt cũng lộ ra vẻ khâm phục Đỗ Văn Hạo.
"Giảng thật là hay, khó trách Hoàng Thượng không gọi ai khác mà chỉ hỏi ngài, quả là không hề sai, sau này lão phu cũng chỉ tìm ngài để xem bệnh cho ta".
Ninh công công tiến lên trêu đùa: "Phú đại nhân, ngài nghe đã hiểu rõ ràng chưa?"
Phú Bật "ừ!" một tiếng xem như trả lời.
"Để cho Đỗ đại nhân 'khai căn kê đơn' cho ngài, ngài nằm xuống nghỉ ngơi cho tốt đi".
"Được rồi, vậy làm phiền Đỗ đại nhân vậy".
"Phú đại nhân, ngài khách khí rồi! Để ty chức kê đơn cho ngài".
Từ Càn Thanh cung đi ra, Đỗ Văn Hạo liền gặp Tiểu Tề là thiếp thân nha hoàn của Dụ Cáp Nhi, hẳn là cô nương này đã đứng chờ ngoài cung từ trước. Thấy Đỗ Văn Hạo đi ra, vội vàng mỉm cười tiến lên nghênh tiếp.
"Sao ngươi lại ở chỗ này?" Đỗ Văn Hạo hỏi.
"Nương nương lo rằng ngài quên không qua lấy mật hoa hồng, cho nên sai nô tỳ ở đây chờ ngài". Tiểu Tề có khuôn mặt tròn, con mắt nho nhỏ, cười cho người ta cảm giác đôi mắt không đẹp, nhưng hàm răng thì mọc rất đều lại trắng nõn.
Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: Đã lo ta quên thì sao không bảo Tiểu Tề đưa đến luôn, cần gì nhất định phải gọi mình qua lấy, xem ra Dụ Cáp Nhi tìm mình có việc gì đó.
Tiến tới Nhạc Đồng Cung của Dụ Cáp Nhi, Đỗ Văn Hạo còn đang suy nghĩ không biết Dụ Cáp Nhi tìm mình có việc gì, khi bước vào cửa không chú ý tới bậc cửa tý thì ngã nhào.
"Đỗ đại nhân, ngài đi thong thả một chút". Tiểu Tề không dám cười, vội vàng tiến tới đỡ.
Đỗ Văn Hạo vội bám lấy khung cửa, vừa cười vừa nói: "Đại khái là do mệt nhọc, thời gian gần đây hơi vất vả".
Tiểu Tề dìu Đỗ Văn Hạo bước vào cửa, Nhạc Đồng Cung này so với các cung điện của những quý phi khác thì nhỏ hơn rất nhiều. Nghe nói nơi này từ trước là nơi ở của một mỹ nhân rất được Hoàng Thượng yêu mến, về sau mỹ nhân kia vì khó sinh mà chết, chỗ này từ trước đến nay không hề dùng đến. Các phi tử khác đều không muốn ở, ngược lại Dụ Cáp Nhi không để ý đến việc này, thế là Tống Thần Tông liền sai người tu sửa lại nơi này làm chỗ ở cho Dụ Cáp Nhi.
Trong vườn có rất nhiều cây trúc, cũng chưa lớn lắm, đại khái là sau khi Dụ Cáp Nhi đến ở mới được trồng, nhưng mọc rất tươi tốt.
"Mời Đỗ đại nhân đến lương đình chờ nô tỳ đi gọi nương nương tới", Tiểu Tề nâng váy, chạy vào trong nhà.
Đỗ Văn Hạo một mình đừng trong vườn quan sát khắp nơi, ngắm đình đài lầu các, nghe chim hót, ngửi hương hoa. Một lát sau, đột nhiên nghe sau lưng có tiếng người nói: "Ta đã sai công tượng tu sửa lại giống như nhà của ta ở Giang Nam, Đỗ đại ca xem có được không?"
Đỗ Văn Hạo không quay đầu lại, chỉ nói một tiếng 'đẹp', lúc này Dụ Cáp Nhi đã tiến đến bên cạnh, Đỗ Văn Hạo ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng giống như hoa nhài.
"Thân thể của Phú đại nhân không trở ngại rồi chứ?"
"Đã tốt rồi, không có gì trở ngại nữa, đã khai phương bốc dược cho hắn rồi, dùng vài lần là sẽ khỏi hẳn".
Hai người vừa nói chuyện vừa đi tới đình nghỉ mát ngồi xuống, cung nữ nhanh chóng bưng tới một ít hoa quả cùng điểm tâm sau đó lui xuống.
Dụ Cáp Nhi lấy một quả anh đào trên mâm trái cây đưa cho Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo vội vàng tiếp lấy nhưng không có ăn.
"Tại sao không ăn? Sợ ta hạ độc trong quả anh đào này ư?" Dụ Cáp Nhi nhìn Đỗ Văn Hạo, giống như cười mà không phải cười, cất lời.
"Ngươi nói như vậy, chẳng phải là ngươi chuẩn bị hạ độc vào quả anh đào này sao?"
Dụ Cáp Nhi nở nụ cười. Đỗ Văn Hạo cho quả anh đào vào miệng, quả nhiên hương vị ngọt ngào vô cùng.
"Ăn ngon chứ?"
Đỗ Văn Hạo gật nhẹ đầu trả lời: "Ngon lắm!"
"Hôm nay ta đến hậu cung, nghe hoàng hậu nói Lưu quý phi đã mang thai". Vẻ mặt của Dụ Cáp Nhi có phần cô đơn.
Đỗ Văn Hạo hiểu rằng Dụ Cáp Nhi đã đi vào vấn đề chính, cũng không vội tra hỏi mà muốn để cho nàng nói hết lời.
"Vài ngày gần đây hoàng thượng đều ở trong nội cung của các phi tử khác, ta không gặp được hắn".
Đỗ Văn Hạo vẫn không nói gì, bởi vì căn bản là hắn không biết nói cái gì cho phải, Dụ Cáp Nhi cũng không phải là gì của mình, hắn biết nói gì đây?
Dụ Cáp Nhi thấy Đỗ Văn Hạo chỉ cúi đầu uống trà, không nói lời nào, bèn nói tiếp: "Thật ra ta không muốn làm phiền ngài, thật sự là vậy".
Ngay cả từ "ngài" cũng đã nói, xem ra chuyện mà Dụ Cáp Nhi muốn mình lo liệu hẳn là tương đối 'xương' đây.
"Nương nương không nên khách khí, chỉ cần là có thể làm được, ta sẽ cố gắng hết sức". Đỗ Văn Hạo lưu lại cho mình một đường lui, thầm nghĩ: 'Ta không nói nhất định sẽ làm được mà chỉ nói là sẽ cố gắng hết sức'. Bài học này là hắn học được ở trong nội cung.
"Chỉ cần ngài muốn làm, thì nhất định sẽ làm được", Dụ Cáp Nhi làm ra dáng vẻ đáng thương, nói.
"Xin nương nương nói rõ".
"Ta muốn ngài nói với Hoàng Thượng là Lưu quý phi thật ra không có mang thai, chỉ là mắc một thứ kỳ quái nào đó".
Đỗ Văn Hạo ngẩn ra. Nếu như mình làm vậy thì chẳng khác nào một tên Phó Hạc thứ hai. Chẳng lẽ Dụ Cáp Nhi muốn bước vào vết xe đổ của Trần mỹ nhân ư?
Chương 293: Dụ Cáp Nhi
"Vậy có phải Lưu Quý Phi thật sự mang thai không?" Đỗ Văn Hạo biết rõ rồi nhưng vẫn hỏi lại.
Dụ Cáp Nhi cười, đẩy mâm đựng hoa quả đến trước mặt Đỗ Văn Hạo: "Việc này không cần ngươi phải quan tâm, ta chỉ cần khi Lưu Quý Phi tìm ngươi để xem bệnh thì ngươi nói ả hoàn toàn không có mang thai là được rồi."
"Nương nương hận Lưu Quý Phi?" Đỗ Văn Hạo nói thẳng, không muốn Dụ Cáp Nhi đi quá xa, đến lúc ấy không còn cơ hội quay đầu lại.
"Đúng vậy, ta hận ả." Dụ Cáp Nhi không phải là loại người nói vòng vo.
Dụ Cáp Nhi thẳng thắn như vậy, Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy nàng vẫn không phải là một người toan tính thủ đoạn, chẳng qua chỉ là muốn báo thù, vì hôm đó Lưu Quý Phi đã chế nhạo nàng là một con hề nên nàng mới tức giận mà thôi.
"Ta đã đoán được nương nương muốn làm gì rồi, nhưng người nương nương nhờ có đáng tin không?"
Dụ Cáp Nhi mỉm cười, trong nụ cười ẩn chứa một luồng sát khí: "Ta nghe nói trước khi ta đến đây hậu cung có một người là Trần Mỹ Nhân, sau đó vì tranh sự sủng ái mà bị đầy vào lãnh cung, kết quả rất thê thảm, trước là điên, sau đó là chết, đúng không?"
"Nương nương làm việc, vi thần không dám hỏi nhiều, chỉ là hi vọng nương nương đừng quá tính toán, dù sao đứa trẻ trong bụng Lưu Quý Phi cũng là cốt nhục của Hoàng Thượng." Đỗ Văn Hạo còn muốn nói thêm là: Hoàng Thượng đã sủng ái người như vậy, người nhẫn tâm làm Hoàng Thượng đau lòng ư. Nhưng hắn không nói, hắn cảm thấy mình đã hơi nhiều lời rồi.
Dụ Cáp Nhi có ý bảo Đỗ Văn Hạo ăn quả anh đào, mình cũng ngậm một quả trong mồm, rồi nhẹ nhàng nhỏ hạt ra lòng bàn tay, nói với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ đại ca, người ta nói quả anh đào ăn ngon nhưng khó trồng, có phải không?"
Đỗ Văn Hạo không nói gì cả.
"Con người cũng như vậy. Hãy nhìn đám phi tử cả ngày oanh ca yến hót, trang điểm như những cành hoa, làm như vậy là để cho ai xem? Chẳng phải là để cho một nam nhân xem sao, nhưng nam nhân này lại chỉ có một đôi mắt, hắn còn phải nhìn giang sơn của mình, nhiều mĩ nhân như vậy hắn lại không thể nhìn hết, Hoàng Hậu cũng chỉ có một, những người khác bất kể lúc nào cũng có thể bị rơi vào quên lãng. Có những người cả đời có lẽ cũng chỉ gặp được Hoàng Thượng một lần rồi mãi mãi không nhìn thấy nữa, ngươi nói xem, cuộc sống như vậy thì có ý nghĩa gì chứ?"
Đỗ Văn Hạo không biết nên nói như thế nào mới tốt, lại là một nữ nhân oán trách chốn thâm cung, lại là một nữ nhân đang cố ngoi đầu dậy, đáng tiếc nàng không biết nàng cho sù thông minh cũng không thể giữ được lòng của một nam tử; đừng nói là Hoàng Thượng, cho dù là một nam nhân bình thường cũng sẽ không cả đời chỉ hướng tâm tư về một nữ nhân.
"Nương nương bây giờ không phải đang rất tốt sao?" Lời nói của Đỗ Văn Hạo có chút cứng nhắc, không có bất kì sức thuyết phục nào.
"Ta nghĩ ta có thể tốt hơn. Ta phải mang thai cốt nhục của Hoàng Thượng trước Lưu Quý Phi." Dụ Cáp Nhi hận thù nói.
"Đa tạ sự tín nhiệm của nương nương, chỉ sợ vi thần lực bất tòng tâm."
Dụ Cáp Nhi không cười nữa, nàng nhìn Đỗ Văn Hạo, ánh mắt u ám mà kiêm định: "Ta sẽ không để ngươi làm phó hạc thứ hai đâu, vì ta sẽ không ngu ngốc như Trần Mỹ Nhân, ta sẽ không một thân một mình, ta thậm chí sẽ để Hoàng Hậu cam tâm tình nguyện nhường vị trí đó cho ta."
Những âm thanh rất quen thuộc, Đỗ Văn Hạo nhớ lại Trần Mỹ Nhân đã từng nói những lời này với mình trong lúc sám hối. Năm đó Trần Mỹ Nhân cũng lòng đầy tự tin như thế này, tưởng rằng có được Hoàng Thượng sẽ có được cả thiên hạ, nàng hi vọng có thể một mình mà đoạt được "kê khuyển thăng thiên" (cả họ được nhờ) (*), nàng hi vọng ba nghìn sự sủng ái sẽ thuộc về mình, những điều nàng hi vọng quá nhiều, cuối cùng lại chẳng có một thứ gì, chỉ có cô lẻ bóng hình dưới ánh đèn xanh, cô đơn lẻ bóng.
"Vậy người cho ta thời gian để suy nghĩ đi." Đỗ Văn Hạo không muốn chọc giận nữ nhân đang nôn nóng có được thành công này, nữ nhân này quả thật không giống Trần Mỹ Nhân, nàng không khoa trương như thế, cũng không thể hiện rõ ràng, nhưng đều là người, thời gian dài một chút, nàng còn không ẩn chứa lòng dạ lang sói sao?
Dụ Cáp Nhi thở dài. Lúc này Tiểu Tề đang xách một chiếc làn trúc đi tới, đặt lên trên chiếc bàn đá, Dụ Cáp Nhi ra hiệu cho nó lui xuống, rồi nói với Đỗ Văn Hạo: "Bên trong là đồ ta cho Thanh Đại tỷ tỷ, làm phiền Đỗ đại ca mang về cho tỷ ấy, còn có một ít anh đào cũng mang về cho ba tỷ tỷ thưởng thức."
Đỗ Văn Hạo liền đứng dậy cảm tạ.
Dụ Cáp Nhi đích thân tiễn Đỗ Văn Hạo ra cổng, nói: "Cho ngươi thời gian ba ngày để suy nghĩ, ta sẽ không ép ngươi, vì ta biết ngươi và Thanh Đại tỷ tỷ là người tốt, ta sẽ không ép người tốt làm chuyện xấu."
Đỗ Văn Hạo xách chiếc làn và cong lưng cúi chào, thấy Dụ Cáp Nhi bước vào cửa, mới quay người lên kiệu, trong lòng lại nghĩ: Dụ Cáp Nhi à, Dụ Cáp Nhi, thông minh như ngươi, biết rõ là chuyện không tốt tại sao lại còn muốn làm chứ?
Tiễn Đỗ Văn Hạo ra cổng xong, Dụ Cáp Nhi bước vào cửa, thấy Tiểu Tề bước tới hỏi: "Nương nương, Đỗ đại nhân nói như thế nào?"
"Nếu như hắn đã đồng ý thì ta sẽ cảm thấy coi thường hắn."
Tiểu Tề không hiểu: "Chuyện này không phải là bớt một người biết thì càng an toàn hơn một chút sao?"
"Là ta cố ý để hắn biết, ta muốn xem xem lúc ta gặp nguy nan hắn có đưa tay ra tương trợ không." Giọng của Dụ Cáp Nhi có chút lạc đi.
Tiểu Tề đỡ Dụ Cáp Nhi lên đình nghỉ, thấy khuôm mặt Dụ Cáp Nhi có chút buồn bã liền nhẹ giọng an ủi: "Đỗ đại nhân là người tốt, nhất định sẽ..."
Dụ Cáp Nhi cắt lời Tiểu Tề, nói: "Cái gì là người tốt?"
Tiều Tề không nói được gì nữa, đáng thương nhìn chủ nhân của mình, có chút bối rối không biết nên làm thế nào.
"Ta chỉ cảm thấy hắn không phải là người thấy lợi quên nghĩa, Tiểu Tề, ngươi phải nhớ kĩ, trên thế giới này không có người tốt và người xấu tuyệt đối."
"Nương nương, người nói nô tì nghe không hiểu."
Dụ Cáp Nhi cười nhạt, kéo tay Tiểu Tề, nói: "Ngươi còn năm năm nữa là có thể xuất cung rồi, nếu như có thể, ta sẽ cầu xin Hoàng Thượng ban ân, sớm thả ngươi ra ngoài để thành thân."
Tiểu Tề cảm kích nói với Dụ Cáp Nhi: "Nương nương, đa tạ người."
Lúc này nụ cười của Dụ Cáp Nhi đột nhiên biến mất, nàng nắm thật chặt tay Tiểu Tề, Tiểu Tề đau quá mà nhăn cả mặt, kêu "Ai" một tiếng.
"Ta đối tốt với ngươi thì ngươi cũng phải toàn tâm trng thành với ta, nếu không ta sẽ làm cho ngươi khó mà sống nổi."
Tiểu Tề tuy nói là lớn hơn Dụ Cáp Nhi ba tuổi, nhưng từ sau khi được điều từ cung Chu Đức Phi đến đề làm cung nữ hầu hạ bên cạnh thì từ đáy lòng nàng thật sự có chút sợ vị nương nương trước mặt người khác thì cười, sau lưng thì lại lạnh lùng này.
"Nương nương yên tâm, Tiểu Tề không dám."
"Không dám thì tốt, ở bên cạnh ta thì hãy cất cái gan ngươi thật cẩn thận vào trong lòng, ta chỉ cần tim của ngươi, sự trong thành của ngươi. Hiểu chưa?"
"Nô tì hiểu rồi." Một cơn gió thổi qua, Tiểu Tề không khỏi run người lên, cảm thấy trái tim như đã bị ngọn gió này làm cho lạnh cóng........................
Đỗ Văn Hạo trở về đến nhà. Đưa chiếc làn cho Lâm Thanh Đại, rồi một mình ngồi đóng cửa trong thư phòng đến tận khi dùng bữa tối, Tuyết Phi Nhi đến cửa thư phòng gọi hắn, hắn mới bước ra.
Ra đến cửa liền ngửi thấy mùi thơm của bánh hoa hồng, thấy Tuyết Phi Nhi đang cầm một miếng ăn, khoé miệng còn dính một chút vụn bánh.
"Ăn gì mà ngon thế, cũng không biết cầm một ít đến cho ta." Đỗ Văn Hạo nói nói chọc đùa, rồi cúi đầu gặm một miếng bánh trong tay Tuyết Phi Nhi.
"Á á á, Thanh Đại tỷ tỷ không phải là có quen biết vị Dụ nương nương hay ở bên cạnh Hoàng Thượng đó sao. Mật ong hoa hồng mà người cho còn thơm hơn mật ong mà chúng ta mua ngoài chợ, Thanh Đại tỷ đã để lại một ít để tẩm bổ cho Cầm tỷ tỷ, chỗ còn lại thì mang đi làm bánh hương hoa hồng rồi." Tuyết Phi Nhi vừa ăn vừa cười nói, thấy trong tay chỉ còn một miếng nhỏ thì vội cho hết luôn vào mồm, đắc ý nhìn Đỗ Văn Hạo.
Quả nhiên là cả mồm đầy mùi thơm. Đỗ Văn Hạo cảm thấy cũng có chút đói, liền dắt Tuyết Phi Nhi đến phòng dùng cơm.
Khi đến đó thì thấy ngoài bánh hương hoa hồng ra thì còn có nhiều thức ăn ngon miệng, Bàng Vũ Cầm và Lâm Thanh Đại đã ngồi vào vị trí của mình đợi họ.
"Tướng công, chàng bận gì vậy, cả buổi chiều không thấy bóng dáng đâu." Bàng Vũ Cầm mỉm cười rồi đứng dậy nhường chỗ cho Đỗ Văn Hạo.
Sau Đỗ Văn Hạo ngồi xuống thì ba nữ nhân mới ngồi. Đỗ Văn Hạo thấy trước mặt mình có một đĩa anh đào tươi ngon, không cần hỏi cũng biết đó chính là những thứ Dụ Cáp Nhi đã sai Tiểu Tề đặt vào trong chiếc làn.
"Xem sách, ngủ." Đỗ Văn Hạo trả lời ngắn gọn.
Lâm Thanh Đại thấy dáng vẻ chẳng có tinh thần của Đỗ Văn Hạo liền cười nói: "Được rồi, mọi người đều đã đói, ăn trước đi đã."
Tuyết Phi Nhi đột nhiên đề nghị uống rượu, Đỗ Văn Hạo đang không vui, mượn rượu giải sầu cũng tốt, liền đồng ý.
Bàng Vũ Cầm cũng thất tinh thần Đỗ Văn Hạo không tốt nên cũng không hỏi nhiều nữa! Bốn người không ăn mấy thức ăn mà chỉ thấy bình rượu cũng đã cạn đến gần đáy.
Tuyết Phi Nhi vừa uống rượu mặt đã đỏ lên, cảm thấy cả cổ như đều đỏ, không không để ý Bàng Vũ Cầm và Lâm Thanh Đại đang ngồi cùng, liền dựa vào vai Đỗ Văn Hạo, mắt nhắm lại, rượu Dương Mai quện với hương vị của bánh hoa hồng làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy có chút rượu không làm người say mà người lại tự say rồi.
"Rượu ngon, rượu ngon!" Tuyết Phi Nhi giơ chén rượu lên đổ vào mồm mình, không cẩn thận nên đã đổ vào người Đỗ Văn Hạo, cũng không giúp lau đi, xem ra đã say rồi.
Lâm Thanh Đại cười nói: "Là muội tự mình đòi uống rượu, thế mà lại say đầu tiên, đúng là không biết xấu hổ."
"Phi Nhi ngoan, ăn chút thức ăn đi, không uống nữa, tửu lượng của muội vốn không tốt mà." Bàng Vũ Cầm yêu thương giành lấy chén rượu của Tuyết Phi Nhi
Tuyết Phi Nhi nghe thấy lời này liền ngồi thẳng dậy, cười một cách ngu ngốc với Bàng Vũ Cầm, đứng dậy, lảo đảo, suýt nữa ngã xuống đất, Bàng Vũ Cầm vội vàng chạy ra đỡ.
"Bảo nha hoàn đưa Phi Nhi về phòng đi, ta thấy nàng ấy say rồi đấy." Đỗ Văn Hạo nói
"Không cần, dù sao thiếp cũng thấy hơi say rồi, thiếp sẽ cùng về với Phỉ Nhi, để Thanh Đại ngồi với chàng." Bàng Vũ Cầm nói rồi đỡ Tuyết Phi Nhi ra cửa.
"Cầm Nhi, nàng đừng ngủ vội, đợi một lát ta sẽ đến." Đỗ Văn Hạo nghĩ tới lời của Lâm Thanh Đại, nên nói như vậy với Bàng Vũ Cầm.
Bàng Vũ Cầm nghe vậy liền dừng lại, nhưng không quay đầu, không nói lời nào, lại đỡ Tuyết Phi Nhi đi.
Lâm Thanh Đại đến ngồi bên cạnh Đỗ Văn Hạo, tiếp đầy rượu cho hắn, rồi lại nhìn hắn, thấp giọng nói: "Là Dụ Cáp Nhi làm cho chàng không vui?"
Đỗ Văn Hạo nhìn Lâm Thanh Đại, cầm chén rượu một hơi uống cạn, ăn một miếng thức ăn, rồi gật gật đầu.
Lâm Thanh Đại mỉm cười nói: "Nếu như chàng cảm thấy không dễ nói chuyện với Dụ Cáp Nhi thì để ta hẹn gặp với nàng ấy, giữa nữ nhi với nhau thì dễ nói chuyện hơn."
"Nàng có biết cần phải nói gì không?" Đỗ Văn Hạo hỏi lại.
Lâm Thanh Đại lắc đầu. Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy nàng tìm ả để nói gì?"
Lâm Thanh Đại lại rót đầy rượu cho Đỗ Văn Hạo, lần này thì tự giơ chén rượu của mình lên nói: "Chàng không nói sao thiếp biết được, nào, uống đi." Nói rồi chạm chén vào chiếc chén trong tay Đỗ Văn Hạo, rồi tự uống hết.
Đỗ Văn Hạo cười cười, ba nữ nhân này trong nhà có ba tính cách khác nhau, Bàng Vũ Cầm hiền lành ôn hoà, Tuyết Phi Nhi hoạt bát đáng yêu, nhưng họ đều chỉ có thể yêu thương mà không thể làm tri kỉ, tục ngữ nói rất hay: Cuộc đời mà có được một tri kỉ là đủ rồi, còn theo Đỗ Văn Hạo, một Lâm Thanh Đại luôn lạnh lùng trước mặt người khác lại là người hợp với tâm ý mình nhất, đây lẽ nào chính là tri kỉ trong truyền thuyết nói sao?
"Văn Hạo, chàng cười gì vậy?" Lâm Thanh Đại đặt chén rượu xuống, nhìn Đỗ Văn Hạo đang nhìn mình cười.
Đỗ Văn Hạo nắm tay nàng, nàng vội vàng quay đầu nhìn, thấy đối diện có hai nha hoàn đang đi tới, liền hất tay ra, nhẹ giọng nói: "Có người!"
Đỗ Văn Hạo biết Lâm Thanh Đại rất kiêng kị việc bị người khác đàm tiếu sau lưng, cho nên cũng không miễn cưỡng nữa, đợi sau khi hai nha hoàn đi rồi Đỗ Văn Hạo lại nói: "Sắp rồi, sẽ rất nhanh có thể trước mặt người hầu nắm tay nàng.
Lâm Thanh Đại ngại ngùng, nói: "Được rồi, nói chuyện chính đi."
Đỗ Văn Hạo cũng nghiêm túc lại, ngồi thẳng người dậy, nhìn Lâm Thanh Đại nói: "Lấy nàng về chính là chuyện chính của ta."
Đôi mắt Lâm Thanh Đại lấp lánh vẻ cảm động, khoé miệng nàng mím mím, làm ra vẻ tức giận: "Nếu như chàng còn không nói thì ta sẽ đi đấy, một lát nữa chàng còn phải đi tìm Cầm Nhi mà, ta không ở đây cùng nói chuyện ba hoa với chàng đâu, để người khác nhìn thấy lại cười cho."
"Ta không phải là không nói, chỉ là lo nói ra nàng cũng không giúp được gì." Đỗ Văn Hạo nói.
Lâm Thanh Đại nghe xong thì đứng lên, lạnh nhạt nói một câu: "Vậy được rồi, ta không ở đây với chàng nữa." Nói xong thì định bước ra cửa.
Đỗ Văn Hạo đương nhiên hiểu tính cách của Lâm Thanh Đại, vội gọi lại: "Được rồi, quay lại đây, ta nói cho nàng rồi sẽ đi."
Lâm Thanh Đại lúc này mới cười cười, đi về phái Đỗ Văn Hạo, ngồi xuống: "Nói đi."
Đỗ Văn Hạo liền mang chuyện nói với Dụ Cáp Nhi sáng nay kể tỉ mỉ cho Lâm Thanh Đại nghe một lượt.
"Văn Hạo, chuyện này quả thật là khó giải quyết." Lâm Thanh Đại nghe xong cũng không vui vẻ gì.
"Rất khó giải quyết, nhưng Dụ Cáp Nhi chỉ cho ta thời gian 3 ngày để suy nghĩ."
"Chàng có dự tính gì không?"
"Tạm thời chưa nghĩ ra."
"Vậy để thiếp đi nói chuyện với nó, nhưng sẽ không nói chuyện đó. Chỉ nói chuyện nhà cửa thôi."
Đỗ Văn Hạo cười, véo nhẹ chiếc mũi của Lâm Thanh Đại, khích lệ nói: "Biết là nàng sẽ hiểu lòng ta mà, nhưng đừng để nàng ta nhìn ra ý đồ nhé."
"Chàng yên tâm, đúng lúc ta vừa làm một ít bánh hương hoa hồng, mượn hoa hiến phật, là một lý do tốt nhất."
"Vẫn là Thanh Đại của ta lợi hại!"
"Nhưng Văn Hạo, ta cảm thấy chúng ta nên chuẩn bị trước." Lâm Thanh Đại còn lo lắng.
"Ta hiểu ý của nàng. chỗ Lưu Quý Phi ta nghĩ chúng ta không thể đi trước, như vậy lại thấy rất kì quặc, từ phía hậu cung bây giờ mà nói, Lưu Quý Phi chắc sẽ mời ta đến trước khi Dụ Cáp Nhi tìm ta.
"Vậy thì tốt."
"Được rồi, vậy chúng ta chia ra hành động."
Linh Ẩn tự.
Đây là nơi mà Dụ Cáp Nhi đã nói, dùng lời của nàng mà nói lại thì đó chính là lý do tốt nhất để ra vào cung. Nàng còn hẹn gặp Hoàng Hậu nhưng nàng biết Hoàng Hậu sẽ không đi, vì nàng đã gài tay chân của mình bên cạnh Hoàng Hậu, đó là một người cùng quê nàng, ở Lạc Dương đồng hương Giang Nam cũng không nhiều, nhưng thật là may mắn khi bên cạnh Hoàng Hậu lại có một người Giang nam, cho nên nàng rất nhanh đã có thể làm quen được, hơn nữa còn luôn mang đến những lợi ích cho hắn, thời gian dài, thái giám đó đương nhiên đã trở thành thân tín của Dụ Cáp Nhi, đây chính là đặc điểm của nàng, "không phí sức thổi tro", dễ dàng mà thu nhập được môn hạ của mình.
Trước đây nàng đã từng nghe thái giám đó nói Hoàng Thượng hai ngày nay sẽ đi đến chỗ Hoàng Hậu, cho nên Hoàng Hậu rất an tâm, chuyên tâm đợi chờ, đây là lúc mà trừ khi thiên vương lão tử ra thì ai cũng không thể gọi Hoàng Hậu đi, vì vậy Dụ Cáp Nhi mới đi, đương nhiên Hoàng Hậu không thể đi được, lại cũng không thể không để Dụ Cáp Nhi đi, nếu như để nàng trong cung của mình, rồi để Hoàng Thượng nhìn thấy, nói không chừng lại không để tâm đến mình nữa, cho nên Hoàng Hậu vội vàng để cho nàng ra ngoài, còn nhờ nàng giúp mình quyên 200 lạng bạc làm tiền hương hoả cho miếu tự.
Lâm Thanh Đại ngồi trong thiền phòng tiếp khách phía hậu viện của Linh Ẩn tự, Đỗ Văn Hạo và trụ trì của Linh Ẩn Tự có quan hệ không tồi, cho nên trụ trì đương nhiên sẽ không tiếp đại bạc bẽo với người bên cạnh Đỗ Văn Hạo.
Bây giờ đã là giờ ngọ, ánh mặt trời chiếu thẳng xuống tán cây xanh ở trong sân, tường viện ánh lên màu vàng hạnh nhân, nóc điện mày xanh xám, những cây cổ thụ tán rậm che cả bầu trời màu xanh biếc...tất cả đều đắm chìn trong sắc đỏ của hoa hồng.
Một tiểu sa di (hoà thượng mới xuất gia) chắp hai tay bước vào cửa, thấy Lâm Thanh Đại đang ngồi nhắm mắt vê hạt châu trước cửa sổ, miệng lẩm bẩm mấy từ, trên bàn đặt một cuốn kinh thư. Trong chiếc lò hương phảng phất một mùi thơm mát, tiểu sa di nhẹ giọng nói: "Nữ thí chủ, nương nương đã đến cửa lớn rồi."
Lâm Thanh Đại lúc này mới mở mắt ra, nhẹ nhàng nhếch khoé miệng, ừ một tiếng, tiểu sa di liền lui đi.
Lâm Thanh Đại ra khỏi thiền phòng, thì thấy ở phía xa có một nữ tử trẻ tuổi đang đi đến, thấy nàng mặc cả người trang phục màu xanh, cổ ngọc thon dài, bộ ngực nõn nà như bạch ngọc nửa che nửa hở, được lớp áo trên ngực quấn lại, mộ đôi chân thon dài cân xứng như ẩn như hiện dưới lớp váy, ngay cả cành sen thanh tú đẹp đẽ cũng phải im tiếng trước vẻ đẹp này. Nữ tử này trang điểm ăn mặc vô cùng lộng lẫy, nhưng vẻ đẹp này lại trái ngược với thần thái, dường như kém hơn rất nhiều. Đôi mắt to hàm chứa nụ cười, hàm chứa sự thanh tú và yêu kiều, nước che sương bao quanh, hàng mi dập dờn, khoé miệng xinh xắn, môi đỏ hơi hé, đây là một nữ tử đẹp từ cốt đẹp ra, dường như nàng có thể hấp dẫn nam nhân, lay động thần kinh nam nhân bất cứ thời khắc nào. Lâm Thanh Đại thầm nghĩ, có điều mới có mười mấy tháng sao lại có thể thay đổi lớn như thế, một Dụ Cáp Nhi thanh thuần có tài, nhiệt tình giản dị ở huyện thành Đông Minh đã đi đâu mất rồi?
Lâm Thanh Đại vội bước lên trước chắp thay thi lễ, Dụ Cáp Nhi cười cười rồi vội vàng đích thân đỡ Lâm Thanh Đại lên, thân thiết nắm cánh tay Lâm Thanh Đại, nói: "Biết ngay là tỷ tỷ nhất định sẽ nhớ ta, cho nên không ngừng đi ngựa tới đây."
Lâm Thanh Đại nghĩ, Linh Ẩn tự này là ngôi chùa cách kinh thành gần nhất, cho dù xuất cung đi đường từ từ thì cũng sớm phải đến rồi, cái câu không ngừng ngựa của ngươi chắc chắn có cái vẻ của nương nương, cho nên mới để mình đến từ sớm và đợi đến bây giờ.
"Vất vả cho nương nương rồi, vốn nghĩ mang đồ vào trong cung cho nương nương nhưng ta quả thật có chút cảm giác sợ hãi khi tiến cung." Lâm Thanh Đại giải thích.
"Ra ngoài cũng tốt, ta cúng muốn ra ngoài đi lại một chút, ở trong cung buồn đến muốn phát bệnh ra." Dụ Cáp Nhi vui mừng nắm tay Lâm Thanh Đại nhưng vẫn chưa bước vào thiền phòng, mà còn gọi tiểu sai di lúc nãy đến sai bảo: "Ta và Thanh Đại tỷ tỷ muốn lên núi đi dạo, các ngươi hãy chuẩn bị cho chúng ta một chút thức ăn chay ngon miệng, một lát chúng ta xuống núi sẽ dùng."
Tiểu sa ni đó có lẽ rất ít khi nhìn thấy một nữ tử xinh đẹp mà ăn mặc nóng bỏng như vậy, nên không dám ngẩng đầu, chỉ dám cúi đầu tuân lệnh, rồi quay người lui đi.
"Các ngươi không cần phải đi theo, chúng ta một lát sẽ xuống." Dụ Cáp Nhi quay người nói với mấy thị vệ ở phía sau, rồi kéo tay Lâm Thanh Đại bước lên núi.
Con đường nhỏ quanh co thông tới hậu sơn vắng vẻ, ở giữa còn có thiền phòng bị hoa cỏ che phủ.
Sơn quang trong suốt, tiếng chim ca xướng hoan hỉ, những đầm nước sâu đổ bóng càng làm người ta cảm thấy được cảnh kì ảo trong trái tim. Vạn vật như đang yên lặng, chỉ nghe thấy tiếng vang vọng lại của chuông chùa.
"Tỷ tỷ, mới chỉ có mấy tháng không gặp mà tỷ tỷ hình như gầy hơn một chút?" Dụ Cáp Nhi nhìn Lâm Thanh Đại, ân cần hỏi han.
"Vậy sao?" Lâm Thanh Đại xoa xoa khuôn mặt mình và hỏi lại.
Dụ Cáp Nhi cười, hai người đi tới nửa sườn núi thì thấy một chiếc đình nghỉ, Lâm Thanh Đại thấy cơ thể của Dụ Cáp Nhi đâu phải dành cho việc leo núi, nhất định đã cảm thấy mệt rồi, liền kiến nghị vào trong đình nghỉ một lát rồi mới đi tiếp.
"Nương nương trong cung vẫn tốt chứ? Ta thấy thần sắc muội rất tốt."
"Tỷ tỷ hôm nay gặp ta không phải là định nói chuyện nhà chuyện cửa chứ?" Dụ Cáp Nhi nhìn vào đôi mắt của Lâm Thanh Đại, rồi kéo tay nàng ngồi xuống. Ở vị trí này có thể nhìn thấy cả đại điện của Linh Ẩn Tự.
Lâm Thanh Đại trong lòng cả kinh, Dụ Cáp Nhi này xem ra quả thật không có nhìn ra, Lâm Thanh Đại mỉm cười, lấy từ trong chiếc bọc vải ra một chiếc hộp gấm, đưa cho Dụ Cáp Nhi, bảo nàng mở ra xem.
Dụ Cáp Nhi nhận chiếc hộp và mở ra, chỉ thấy bên trong đặt bốn miếng bánh hương hoa hồng. Bánh có màu hoa hồng, tám cạnh giống như những cánh của hoa hồng vậy, bên trên bề mặt còn tạo hình hoa hồng, trông có vẻ rất tinh sảo, còn có cả hương thơm phưng phức.
"Đây là dùng mật ong hoa hồng mà muội cho ta đấy, không ngờ muội vẫn còn nhớ ta thích hương vị này, cho nên ta đã làm một ít bánh hương hoa hồng để cho muội nếm thử, hi vọng muội không chê là tốt rồi." Lâm Thanh Đại đương nhiên sẽ không nói về mình trước mà tìm một đạo cụ khác để tung gạch nhử ngọc.
Dụ Cáp Nhi vẻ mặt mừng rỡ, cẩn thận cầm một miếng bánh lên và nhẹ nhàng cắn một miếng, chậm rãi nhai, không khỏi gật đầu liên tục, rồi cho cả cái vào mồm ăn.
"Ừm, thật là ngon quá, có mùi vị của quê nhà chúng ta." Dụ Cáp Nhi không ăn tiếng mà đóng chiếc hộp lại, đặt lên chiếc bàn đá.
"Thích ăn thì tốt, sau này ta sẽ làm rồi bảo Văn Hạo mang một ít vào trong cung cho muội ăn, dù sao bảo muội ra ngoài cũng không tốt." Lâm Thanh Đại cố ý nhắc đến Đỗ Văn Hạo.
"Đỗ đại ca gần đây khoẻ không?" Dụ Cáp Nhi quả nhiên hỏi.
Lâm Thanh Đại cười nói: "Hôm kia ta đến huyện thành gần đó mua thuốc, hôm qua mới trở về, Cầm Nhi đưa mật ong hoa hồng cho ta, nói là nương nương bảo Văn Hạo mang về, lại không nhìn thấy bóng dáng của Văn Hạo, ta muốn muội nên bảo Cầm Nhi đi bảo người chuyển lời, thật là mệt mỏi."
Dụ Cáp Nhi đương nhiên sẽ không tin Lâm Thanh Đại và Đỗ Văn Hạo chưa gặp nhau, nhưng nàng không hỏi gì cả, mà nói: "Hôm kia ta có tìm Đỗ đại ca, ta muốn đại ca mang mật ong này giao cho tỷ, tỷ nhất định sẽ tìm gặp ta, vì huynh ấy không muốn đắc tội hoặc làm hại ta, cho nên bảo tỷ tỷ ra mặt."
"Hai người sao vậy? Văn Hạo đã đắc tội với nương nương sao? Chẳng trách Cầm Nhi nói hôm qua Văn Hạo sau khi trở về nhà giao mật ong cho muội ấy thì một mình ra ngoài uống rượu, ta đợi đến tối muộn cũng không đợi được, nên đã nói với Cầm Nhi là ta muốn gặp nương nương, bảo muội ấy chuyển lời đến nương nương một tiếng." Lâm Thanh Đại tỏ ra rất kinh ngạc, làm cho ai nhìn thấy cũng sẽ không nghĩ là nàng đang giả vờ, bây giờ hình như ngay cả Dụ Cáp Nhi cũng đã tin rồi.
Chương 294: Trùng hợp
Lâm Thanh Đại thở dài: "Ta đã nói rồi mà, Văn Hạo cái gì cũng tốt, chỉ có điều tính cách quá thẳng, nếu như thật sự đắc tội với nương nương thì ta nghĩ đó cũng là do vô tâm, có điều chỉ là giúp đỡ thôi thì ta nghĩ chàng chắc sẽ không từ chối."
"Tỷ tỷ nếu thật sự không biết thì hôm nay tìm muội đến lẽ nào chỉ là muốn ta thưởng thức bánh thôi sao?" Dụ Cáp Nhi còn có chút không tin.
"Nếu như không phải thì nương nương cho rằng một thảo dân như ta còn có thể có chuyện gì tìm nương nương chứ?"
"Ta còn tưởng rằng tỷ tỷ và ta giống nhau, nếu không có chuyện sẽ không lên tam bảo điện."
"Sao cơ, nương nương tìm ta có chuyện à?"
"Tỷ tỷ theo ta đến đây." Dụ Cáp Nhi dắt tay Lâm Thanh Đại đi ra ngoài đình, chỉ về phía hoàng cung ẩn hiện phía không xa, nói: "Tỷ tỷ chắc cũng biét, ta thực ra không muốn đến nơi đó."
"Tỷ tỷ biết."
Dụ Cáp Nhi có chút kinh ngạc, tiếp tục mỉm cười nói: "Đúng vậy, ai cũng biết nơi đó là nơi sẽ ép người ta đến mức người không ra người, quỷ không ra quỷ, nhưng muội muội vẫn đến đó, vì muội không còn cách nào khác."
"Nghe Văn Hạo nói, nương nương trong cung quan hệ rất tốt với mọi người, Hoàng Thượng cũng đối với nương nương không tồi."
Dụ Cáp Nhi thuận tay bứt một cành hoa dại nhỏ bên cạnh: "Người cũng giống như bông hoa này vậy, hoa có một mùa, người có một đời, vô cùng ngắn ngủi." Ngữ khí c nàng có lộ chút bi thương.
"Ta thấy nương nương không phải là một người bi quan, gần đây tâm trạng không tốt sao? Nếu đã biết đời người chỉ có mấy chục năm, tại sao không vui vẻ mà sống?" Lâm Thanh Đại an ủi nói.
"Ta cũng nghĩ như vậy, nhưng ta bây giờ không thể làm như thế." Nói rồi, Dụ Cáp Nhi bóp nát bông hoa trong tay, làm cho cánh tay trắng nõn của nàng bị dính một ít màu xanh của cành.
"Tại sao không thể?"
"Ồi, được rồi. Không nói những chuyện này nữa, hôm nay tỷ tỷ đã rất vui, nhắc đến những chuyện không vui không tốt, cho nên không nói vẫn tốt hơn, chúng ta tiếp tục đi, phong cảnh ở đây thật đẹp, trước đây ta chưa từng đến nơi nào ở kinh thành mà đẹp như nơi này." Nói rồi Dụ Cáp Nhi đột nhiên chuyển chủ đề, kéo tay Lâm Thanh Đại tiếp tục đi về phía trước.
Lâm Thanh Đại lòng thầm nghĩ Dụ Cáp Nhi quả thật là một người kì lạ, lúc nóng lúc lạnh làm cho người ta khó có thể hiểu được, có điều không được nóng vội, chẳng phải là còn một bữa cơm cần ăn với nhau sao, đến lúc đó nói tiếp cũng không muộn, cho nên cũng không nói nhiều nữa mà đi theo Dụ Cáp Nhi.
Cùng lúc đó.
Đỗ Văn Hạo đã hẹn gặp phục chẩn cho Phú Bật đại nhân, cùng lúc bước vào cửa thì hắn nghe thấy tiếng chuông của Linh An tự, vang vọng xa xăm...
"Đỗ đại nhân, ngài đến thật đúng giờ." Quản gia của Phú Bật nhận được thông báo của người gác cổng nên đã vội vàng chạy ra nghênh tiếp, cung kính nói.
Đỗ Văn Hạo nghe thấy nội viện có tiếng náo động, lại thấy ngoài cửa có mấy chiếc xe ngựa và kiệu thì nghĩ chắc trong nhà Phú Bật hôm nay có khách.
"Hình như ta đến không đúng lúc, hay là ngày mai ta lại đến, dù sao bệnh của Phú đại nhân ta thấy cũng đã tốt hơn nhiều rồi, đến muộn một ngày cũng sẽ không sao." Nói rồi Đỗ Văn Hạo chuẩn bị cáo từ bước đi.
"Chớ đi, Đỗ đại nhân. Lão gia nhà tiểu nhân đã dặn dò, nói nếu ngài đến thì đưa ngài vào phòng lớn dùng trà trước, rồi tiểu nhân sẽ đi mời lão gia đến." Quản gia vội vàng giữ lại.
Đỗ Văn Hạo đành phải đi theo quả gia vào trong phòng lớn.
"Trong nhà hôm nay thật náo nhiệt nhỉ." Đỗ Văn Hạo thấy nha hoàn gia đinh không ngừng bê bát đĩa ra vào rồi mổ gà một vịt ở trong phòng cơm và nhà bếp.
"Đó là lão gia mới mấy người bằng hữu tốt đến dùng cơm, đều là những đại thần sấp xie tuổi với lão gia, có lẽ cũng sắp tan rồi."
Bước vào phòng lớn, quản gia ò người hầu dâng trà lên cho Đỗ Văn Hạo, rồi đi gọi Phú Bật.
"Đỗ đại nhân, lão gia mời ngài tới ngay, nói Tư Mã đại nhân đột nhiên bị ngất." Một nha hoàn lảo đảo chạy tới phòng, một tay bám cửa, một tay đỡ ngực, chạy nhanh đến mức thở hổn hển.
Đỗ Văn Hạo nghe thấy liền xách hòm thuốc đi theo nha hoàn ra cửa.
Trong phòng cơm quả nhiên có mười mấy vị đại thần đang đứng, thấy Tư Mã Quang nằm dưới đất, mười mấy lão nhân vừa nãy còn đang bê rượu hoan hỉ chúc mừng thì bây giờ lại luống cuống không biết làm thế nào.
Phú Bật kéo Đỗ Văn Hạo đến chỗ Tư Mã Quang, gấp gáp nói: "May mà ngài ở đây, lúc nãy ngài ấy vẫn bình thường, sao đột nhiên lại ngã từ trên ghế xuống, chúng ta không dám làm gì khác, đành phải chờ ngài đến."
"Các vị đại nhân tạm thời lui ra ngoài trước đi, để cho Tư Mã đại nhân có chút không gian, bảo ngươi mở hết tất cả các cửa sổ ra." Đỗ Văn Hạo dặn dò nói, rồi quỳ xuống, nhìn thấy khuôn ặmt Tư Mã Quang đã tái nhợt, hai môi ngậm chặt, lông mày nhíu lên, có thể ngửi thấy mùi rượu thoang thoảng.
Nha hoàn vội vàng mở tất cả các cửa sổ ra, không khí trong phòng lập tức tươi mát thoáng đãng hơn rất nhiều, các vị đại thần cũng không giúp được gì nên đành nghe theo lời Đỗ Văn Hạo mà lui cả ra, chỉ có Phú Bật là vẫn lo lắng đứng bên cạnh Đỗ Văn Hạo và Tư Mã Quang.
"Phú đại nhân, Tư Mã đại nhân sao lại bị ngất vậy?" Đỗ Văn Hạo vừa hỏi vừa dùng tay mở mắt Tư Mã Quang ra xem, rồi bắt mạch cho ắhn.
"Đang nói đến chuyện biến pháp thì ngài ấy đã xảy ra tranh cãi với Vương đại nhân, thực ra cũng không thể coi là tranh cãi, tuy mấy người chúng ta bình thường trong triều sẽ luon giữ vững ý kiến của mình nhưng đều sẽ không thật sự ghi thù, nếu không mỗi tháng hội hào anh chúng ta cũng sẽ không thể tụ tập lại được.
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, từ mạch có thể thấy Tư Mã Quang có lẽ không phải là do vấn đề về tim và đại não: "Tư Mã đại nhân đã uống rượu?"
Phú Bật có chút ngại, giống như một đứa trẻ đã làm việc xấu vậy, cong lưng thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: "Vốn chúng ta không để cho ông ấy uống, nhưng ông ấy cứ cố chấp đòi uống, chúng ta cũng không cho ông ấy uống rượu mạnh, chúng ta uống Nữ Nhi Hồng, còn ông ấy chỉ uống Hoa Điêu, hơn nữa vẫn chưa uống hết một bình. Ôi chà, sớm biết thế đã...đều tại ta."
"Phú đại nhân không cần phải tự trách mình. Vốn các ngại tuổi cũng đã cao, uống ít rượu cho vui vẻ cũng được."
"Đúng, đúng, đúng." Phú Bật liên tục nói ba lần, rồi chỉ vào Tư Mã Quang: "Văn Hạo, Tư Mã đại nhân cứ để nằm đây có được không? Chúng ta không dám động vào ông ấy."
"Mang đệm và gối đến đặt lên trên và dưới của ngài ấy, bây gi vẫn không thể động nhiều vào ngài ấy, đợi ngài ấy tỉnh lại ti chức sẽ hỏi rõ tình hình rồi đưa lên giường nằm cũng không muộn."
"Được ồi, ta sẽ gọi người mang tới ngay." Phú Bật bước nhanh ra cửa ra lệnh cho người hầu đi làm.
Không lâu sau, Tư Mã Quang cuối cùng cũng khó khăn mở mắt dậy, trong mơ hồ dường như cảm thấy cơ thể mình đang bay bay ở khắp nơi: "Có phải ta đã chết rồi không?"
Đỗ Văn Hạo ngồi trên chiếc ghế bên cạnh Tư Mã Quang, nghe thấy lời này liền đứng dậy và quỳ xuống bên cạnh hắn, thấy Tư Mã Quang đã mở mắt, liền nói: "Tư Mã đại nhân, là ta, Đỗ Văn Hạo, ngài đã khoẻ hơn chưa?"
Tư Mã Quảng nhìn chăm chú vào khuôn mặt đối diện mình, mày rậm mắt to mũi thẳng, vẻ mặt ân cần, người này hình như mình đã từng gặp ở đâu, Đỗ Văn Hạo? Đúng rồi, đó là vị Thái Y đã từng xem bệnh cho mình, lẽ nào mình chưa chết?
"Ta đang ở đâu đây?" Tư Mã Quang nhìn bốn phía, thấy mọi thứ thật lạ lẫm, không phải là nhà của mình, cũng không phải là phán sinh của triều đình.
Đỗ Văn Hạo ngửi thấy trong miệng Tư Mã Quang có một mùi gì đó giống như là mùi của thứ gì đã thối rữa, lòng không khỏi kinh ngạc.
Phú Bật bước tới trước, nắm bàn tay lạnh của Tư mã Quang, áy náy nói: "Tư Mã đại nhân, đây là nhà ta, ngài vừa mới bị ngất ngã xuống đất, may mà Đỗ đại nhân lại đến xem bệnh cho ta, nếu không chúng ta đều lo lắng chết mất."
Tư Mã Quang đã hiểu ra, đột nhiên ôm bụng kêu đau, hắn kêu lên một tiếng, rút tay của mình ra khỏi bàn tay của Phú Bật, hai tay ôm chặt bụng, mồ hôi toát ra trên trán.
"Tư Mã đại nhân, ngài có phải là đau dạ dày không?" Đỗ Văn Hạo thấy dáng vẻ của Tư Mã Quang như vậy thì đã hiểu ra một chút.
"Ôi, không phải xem bệnh cho lão phu đâu, xem rồi cũng vô dụng." Tư Mã Quang thở dài, ôm bụng ngồi dậy.
"Cái lão hồ đồ này lại nói cái gì vậy, có lẽ là bệnh đau dạ dày của ông lại tái phát, thêm nữa là tranh cãi với Vương đại nhân, tức đến mức máu trào lên nên mới bất tỉnh, cái gì mà không xem bệnh chứ, Văn Hạo, ngài đừng nghe lão hồ đồ này nói linh tinh." Phú Bật tức giận nói.
Đỗ Văn Hạo ra hiệu cho nha hoàn bên cạnh cùng mình đỡ Tư Mã Quang lên ghế, hai tay của Tư Mã Quang vẫn ôm chặt bụng, khoé miệng hơi nhăn lại, cảm giác có vẻ đau rất ghê gớm.
Đỗ Văn Hạo cầm kim châm vào huyệt hổ khẩu của Tư Mã Quang, Tư Mã Quang lúc này mới từ từ trở lại bình thường.
"Không giấu gì các ngài, trước đây khi ta bị đau rất nghiêm trọng thì Hoàng Thượng đã sai Thái Y đến xem cho ta rồi."
"Vậy họ nói thế nào?" Đỗ Văn Hạo thấy Tư Mã Quang đã đỡ hơn, liền thu kim lại.
Tư Mã Quang cười khổ hai tiếng, xua xua tay, làm ra vẻ bất lực: "Nói ta nhiều nhất cũng chỉ có thể sống thêm được hai thàng, cho nên không cần phải xem nữa, thật đấy."
Phú Bật nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn không có chút biểu hiện kinh ngạc nào, thầm nghĩ chắc Đỗ Văn Hạo cũng đã nhỉn ra, nghĩ đến đây thì mũi có chút cay cay, lão ta mượn cơ ra ngoài đi vệ sinh, rồi vội vàng ra ngoài lau nước mắt.
"Tư Mã đại nhân không cần phải quá bi quan. Mệnh là của mình, người khác nói không tính, ngài cứ kiên trì uống thuốc châm cứu, ta thấy hai tháng không phải là người khác nói cũng coi là đúng được." Đỗ Văn Hạo thực ra trong lòng cũng hiếu căn bệnh này của Tư Mã Quang nhất định là rất nghiêm trọng, nhưng hắn đã có một hói quen, đó là không thích để bệnh nhân của mình nói đến cái chết, hơn nữa chứng ung thư đều có thể dựa vào ý chí của mình mà kháng cự lại được, Tư Mã Quang tại sao lại không thể chứ?
Qua một lúc, Phú bật đỏ hai mắt bước vào, miễn cưỡng tạo ra một nụ cười, trông còn khó coi hơn cả khóc.
"Văn Hạo, hay là để Tư Mã đại nhân nghỉ ngơi một lát trước đã, ta thấy hình như ông ấy đã không còn đau nữa rồi." Phú Bật muốn có mấy lời nói với Đỗ Văn Hạo.
"Đúng vậy, ta muốn ngủ một chút. Phú đại nhân tìm cho lão phu một gian phòng nhé, ngài chắc sẽ không lo lắng ta chết ở đây sẽ làm cho gia đình ngài không may mắn chứ?"
Họng Phú Bật nhưu có cái gì đang chặn lại, hắn khó khăn lớn mới nuốt được nước bọt, giả vờ tức giận nói: "Cái lão già này, mắc bệnh mà còn chọc giận được ta, ta chẳng thèm để ý đến ông, người đâu, đỡ Tư Mã đại nhân vào phòng khách nghỉ ngơi, tìm hai người đến hầu hạ."
Tư Mã Quang cười lớn, chỉ tay vào Phú Bật nói: "Ta biết ngay là ngài sợ nhất ta kích ngài mà, được rồi, ta đi ngủ đã, làm phiền Đỗ đại nhân rồi." Nói rồi liền đứng dậy, nha hoàn bên cạnh vội chạy đến trước đỡ Tư Mã Quang ra ngoài.
Trong căn phòng lớn chỉ còn lại hai người Đỗ Văn Hạo và Phú Bật, Phú Bật đi đến chỗ Đỗ Văn Hạo và vỗ vào vai hắn, trầm giọng nói: "Kết quả của ngài có giống với kết quả của các vị Thái Y khác không?"
Đỗ Văn Hạo biết mấy lão đại thần này có tình cảm rất tốt với nhau, bây giờ đều là lão nhân vào tuổi thất thập rồi, thấy ai sinh bệnh trong lòng cũng khó chịu, cho nên liền an ủi: "Bệnh của Tư Mã đại nhân quả thật là rất nghiêm trọng, nhưng ta nghĩ nếu như có thể cắt bỏ được một phần dạ dày mắc bệnh của ngài ấy thì tình hình có lẽ sẽ tốt hơn."
Phú Bật rất kinh ngạc: "Ngài nói là cắt bỏ phần dạ dày có vấn đề trong bụng lão già đó sao?"
Đỗ Văn Hạo biết Phú Bật sẽ ngạc nhiên, vì cho dù là những người có kinh nghiệm nhất trong Thái Y Viện cũng sẽ kinh ngạc, dù sao phẫu thuật ngoại khoa ở cổ đại vẫn chưa thành thục, thậm chí ngoài một số vết thương bên ngoài còn chưa có ai dám mổ bụng mổ ngực để cứu chữa cho tính mạng một người.
"Đúng vậy." Đỗ Văn Hạo bình tĩnh nói.
Phú Bật hiển nhiên là có chút kích động, khi nói chuyện đầu lưỡi không ngừng nghỉ: "Nhưng ông ta, ông ta tuổi đã cao như vậy, sao có thể chịu nổi sự dày vò như vậy, ta thấy không do đâu."
Phú Bật kích động nên đã nói từ "không cần đâu" thành "không do đâu", lúc này Đỗ Văn Hạo cũng hiểu rõ được tâm trạng của Phú Bật, nên không cười, mà cũng không cưởi nổi.
"Phú đại nhân cứ yên tâm, ta sẽ về suy nghĩ thật kĩ, cố gắng nhanh nhất có thể tìm ra phương án giải quyết, ta cũng biết bệnh của Tư Mã đại nhân không thể kéo dài được nữa."
Quản gia của Phú Bật tiễn Đỗ Văn Hạo tới cửa, thấy dáng vẻ đầy tâm sự nặng nề của Đỗ Văn Hạo, liền bước lên nói: "Đỗ đại nhân đang suy nghĩ về bệnh tình của Tư Mã đại nhân phải không?"
"Đúng vậy." Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu lên trời thở dài một tiếng.
"Ngài cũng không cần phải quá đau buồn, sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên, tất cả đều là số mệnh."
Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu, không nói gì nữa, chắp tay làm lễ, xoay người xách hòm thuốc bước ra cửa.
Quả nhiên, Đỗ Văn Hạo vừa từ trong nhà Phú Bật đi ra thì bên Lưu Quý Phi đã phái người đưa xe đến Ngũ Vị Đường đợi.
Lâm Thanh Đại còn chưa trở về, Đỗ Văn Hạo không biết tình hình tiến triển bên nàng thế nào, đành phải đến chỗ Lưu Quý Phi xem một chút rồi tính tiếp.
Hai canh giờ sau.
Lâm Thanh Đại đã trở về Ngũ Vị Đường, nghe Anh Tử nói Đỗ Văn Hạo cũng mới trở về, liền vội vàng đến thư phòng của Đỗ Văn Hạo để tìm hắn.
"Văn Hạo!" Lâm Thanh Đại lớn tiếng gọi, Đỗ Văn Hạo từ trong thư phòng bước ra.
"Là một nữ nhi thì đừng hét lớn như vậy, làm ta giật mình suýt nữa ngã từ trên ghế xuống." Đỗ Văn Hạo mở cửa đứng ra trước cửa cười nói.
Lâm Thanh Đại che miệng cười, bước vào trong. Đỗ Văn Hạo đang định đóng cửa vào thì Lâm Thanh Đại vội nói: "Mở cửa ra, ta nói xong sẽ đi."
Đỗ Văn Hạo lại mặc kệ, vẫn đóng cửa lại, Lâm Thanh Đại đang muốn đứng lên ngăn cản thì Đỗ Văn Hạo lại bước tới trước cửa sổ, mở cửa ra, rồi làm trò nói: "Như thế này thì nàng chắc đã yên tâm ta sẽ không trêu chọc gái nhà lành rồi chứ."
Lâm Thanh Đại ngồi trước cửa sổ, rót cho mình một chén trà, một hơi uống hết rồi lau miệng, nói: "Không thèm ba hoa với chàng. Bên chàng có tiến triển gì không?"
Đỗ Văn Hạo bước tới, ngồi trước mặt Lâm Thanh Đại, nhìn nét mặt Lâm Thanh Đại, nói: "Một tin tốt và một tin xấu, nàng muốn nghe tin nào trước?"
Lâm Thanh Đại trừng đôi mắt to tròn xinh đẹp lên nhìn Đỗ Văn Hạo: "Đáng ghét, tốt trước, xấu sau."
Đỗ Văn Hạo làm ra vẻ thần bí, đứng dậy ghé sát vào tai Lâm Thanh Đại, nhìn xung quanh không thấy có người liền nhân cơ hội thơm một cái vào tai nàng.
Lâm Thanh Đại không phòng bị, giật nẩy mình lên. Khuôn mặt nàng cũng đỏ rực, đang định giơ tay lên đánh lại thì thấy đối diện có hai nha hoàn đang đi tới, đành phải buông tay xuống, giả vờ lau mồ hôi.
"Được rồi, nói tin tốt trước, đó là Lưu Quý Phi thật sự không có thai."
Lâm Thanh Đại vừa nghe thì cả người chấn động, cánh tay không cẩn thận đập vào chén trà trên bàn, "choang" một tiếng, chén trà rơi xuống đất vở thành nhiều mảnh.
"Được lắm, đây là chiếc chén được làm từ sứ thanh hoa thượng hảo, nàng làm vỡ một chiếc thì đã không còn hoàn chỉnh nữa, nàng phải đền ta một chiếc giống y hệt mới được." Đỗ Văn Hạo lớn tiếng nói.
"Chàng nói nhỏ thôi, chàng sợ người ta không biết ta đang ở trong thư phòng của chàng sao, mau nói cho ta biết đi, đây rốt cuộc là chuyện gì?"
"Sáng nay ta đến nhà Phú Bật đại nhân trước, lại đúng lúc Tư Mã Quang đại nhân đổ bệnh, hơn nữa bệnh cũng không nhẹ."
"Đây chính là tin xấu mà chàng muốn nói cho ta sao?"
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, nói tiếp: "Xem ra Tư Mã đại nhân phải dùng đến phẫu thuật rồi, ôi, ta cũng không nắm chắc, việc này ta phải suy nghĩ cho cẩn thận, không nói cho ông ấy vội. Sau đó khi từ trong phủ Phú Bật đại nhân đi ra đến cửa thì thấy xe ngựa của cung Lưu Quý Phi đang đợi trước cửa, cho nên ta đi luôn. Đến cung Lưu Quý Phi, hoá ra nương nương vốn muốn ta kê cho một ít thuốc an thai, cho nên ta tiện thể bắt mạch luôn cho, mới phát hiện ra nương nương hoàn toàn không mang thai."
"Vậy ai đã nói người mang thai?" Lâm Thanh Đại hỏi.
"Ta cũng đã hỏi, nương nương nói mình tự cho rằng như vậy, vì hai tháng nay không thấy kinh nguyệt, còn thường xuyên thích ngủ, miệng thèm đồ chua, đây đều là biểu hiện của mang thai, cho nên nương nương đã cho rằng mình đã mang thai rồi.
"Việc này thì tốt rồi, tránh cho chàng phải khó xử." Lâm Thanh Đại vui mừng nói.
"Đúng vật, có điều Lưu Quý Phi lại uổng công vui mừng một trận, ta thấy dáng vẻ kinh ngạc như sắp ngất đi của người, trong lòng cũng thấy khó chịu."
Lâm Thanh Đại không hiểu, nghi hoặc hỏi: "Vậy tại sao người lại xuất hiện những phản ứng giống như mang thai mà chàng vừa nói?"
"Ta đã bắt mạch cho Lưu Quý Phi, quả thật là không thấy mạch hỉ, có lẽ là khoảng thời gian trước mắc phong hàn, thêm nữa là tác dụng của thần kinh, tưởng rằng được Hoàng Thượng sủng ái hai lần liền có thai, thực ra chẳng qua chỉ là trong cung lạnh lẽo và ăn uống không ngon miệng thôi. Ta đã kê cho người ít thuốc, chắc tháng sau sẽ trở lại bình thường."
"Haizz", Lâm Thanh Đại thở dài một tiếng: "Nữ nhân trong hậu cung một ngày ngoài việc nghĩ đến làm thế nào để làm cho Hoàng Thượng được vui thì chắc chỉ nghĩ đến có thể duy trì hương hoả cho Hoàng Thượng mà thôi."
"Sớm biết thể đã không để nàng đi gặp Dụ Cáp Nhi." Đỗ Văn Hạo nói.
Lâm Thanh Đại như chợt nhớ về điều gì đó, nói: "Hôm nay thực ra đi gặp nó, trong lòng cũng mới biết được rất nhiều truyện, hiểu được sự khổ sở của một tiểu cô nương."
"Nó có nói cho nàng chuyện của Lưu Quý Phi không?"
Lâm Thanh Đại lắc đầu, nói: "Không có, từ đầu đến cuối không hề nhắc đến cái tên này."
"Xem ra chúng ta thật sự xem nó rồi." Đỗ Văn Hạo cảm khái nói.
"Ta cảm thấy cũng đúng, thực ra nó và Trần Mỹ Nhân không giống nhau. Trần Mỹ Nhân là đắc sủng mà kiêu ngạo, còn nó lại đem tất cả tâm sự cất giấu ở trong lòng, không hề lộ ra, trái tim nó rất to, là sự to lớn mà những người như chúng ta không thể tưởng tượng nổi."
"Vậy về tình cảm, cả một ngày mà hai người không nói ra được kết quả ư?" Đỗ Văn Hạo cười nói.
"Cũng không phải, nó nói với ta, thực ra nó không phải là muốn có hài tử với Hoàng Thượng, mà là muốn giống như Lâm Tiệp Hảo sống tự do tự tại không tranh đoạt ở trong cung."
Đỗ Văn Hạo cười nhạt, khinh thường nói: "Một Thanh Đại thông minh như vậy mà cũng để một tiểu cô nương che mắt, có thể sao? Nếu thật sự như vậy thì nó sẽ không đối phó với Lưu Quý Phi nữa."
Lâm Thanh Đại đập nhẹ vào tay Đỗ Văn Hạo đang đặt trên bàn, trách nói: "Chàng đừng có sốt ruột, ta vẫn chưa nói xong mà."
Đỗ Văn Hạo ngáp một cái, rõ ràng là không có hứng thú tiếp tục, muốn dừng lại. Hắn đứng lên, nói: "Thôi, chúng ta không nói về nó nữa, dù sao Lưu Quý Phi cũng không có mang thai thì không có chuyện gì phải nghĩ cả. Cũng không còn sớm nữa, nghỉ ngơi đi." Nói rồi liền làm ra bộ dạng chuẩn bị ôm lấy Lâm Thanh Đại. Lâm Thanh Đại vội vàng tránh người ra khỏi cánh tay của Đỗ Văn Hạo, chuồn tới cửa, đắc ý đứng nhìn Đỗ Văn Hạo.
"Là chàng không nghe, sau này đừng có hối hận đấy!"
"Không hối hận, không hối hận. Nữ nhân các nàng đều giống nhau, khẩu thị tâm phi!"
"Hừ, không nói với chàng nữa, có điều nếu Lưu Quý Phi không có mang thai thì sáng sớm ngày mai chàng hãy vào cung nói với Dụ Cáp Nhi nhi." Nói rồi, Lâm Thanh Đại nhảy lên, biến mất vào không trung.
"Xem nàng kia, ta cũng sẽ không thật sự "ăn" nàng, vậy mà còn ở trước cửa nhà mình giở võ công ra với ta, chẳng có hứng thú gì cả." Đỗ Văn Hạo lầm bẩm mất hứng nói.
"Ta đúng là sợ chàng ăn ta đấy, có bản lĩnh thì đuổi theo ta đi! Ha ha." Giọng của Lâm Thanh Đại không biết từ nơi nào truyền vào, Đỗ Văn Hạo cũng biết là giọng của nàng đang ở nơi xa vọng vào như đang ở bên tai, nên cũng không tưởng thật, tự mình cười ngốc nghếch mấy tiếng rồi bước ra khỏi thư phòng, đi về phía gian phòng của Bàng Vũ Cầm.
Trong Ngự Hoa Viên
"Ngài nói cái gì, ngài nói Lưu Quý Phi không mang thai, không phải là ngài đang muốn đùa ta vui chứ?" Dụ Cáp Nhi mặc một bộ y phục lục mỏng màu vàng, eo buộc chiếc đai màu trắng, bên trái eo còn kết hình bươm bướm, tóc búi cao, lộ ra chiếc cổ trắng mịn, trên cổ có đeo một một chiếc vòng dương chi, xem ra giá trị không nhỏ.
Đỗ Văn Hạo đứng đối diện với Dụ Cáp Nhi, hơi cong lưng, thấp giọng nói phải, rồi không nói thêm gì nữa.
Dụ Cáp Nhi cười lớn mấy tiếng, làm cho chú chim nhỏ trên cây cũng phải giật mình tỉnh giấc, phập phập mấy tiếng bay từ trong cây ra.
"Vậy tại sao ả ta lại nói khắp nơi là đã mang thai? Ngài chắc không phải là không đành lòng nên lừa ta chứ?" Dụ Cáp Nhi vẫn không tin, ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm vào Đỗ Văn Hạo.
"Nương nương nếu như không tin có thể tìm Thái Y khác đi xem." Đỗ Văn Hạo hờ hững trả lời.
Dụ Cáp Nhi thấy vẻ mặt Đỗ Văn Hạo không chút thay đổi, biết lời mình nói đã không đúng, cho nên vội đổi một bộ mặt khác, bước tới chỗ Đỗ Văn Hạo, thân thiết nói: "Ta sao lại có thể không tin Đỗ đại ca ngài chứ? Chỉ là nhất thời vui mừng thôi. Đúng rồi, vậy Lưu Quý Phi đó bây giờ tốt không?"
Đỗ Văn Hạo nghe thấy trong lời nói của Dụ Cáp Nhi có mấy phần đắc ý, liền đáp: "Tâm trạng e là không tốt."
Chương 295: Tiểu lão nhi
Đỗ Văn Hạo nghĩ, bất kể ai cũng không phải là người đáng thương, nhưng người ai đó lại là người đáng thương nhất, cho nên nói: Nữ nhân tội gì phải đi làm khổ nữ nhân?
Hai người đang nói chuyện, Tiểu Tề vội vàng bước tới, đến bên cạnh Dụ Cáp Nhi, thì thầm mấy tiếng vào tai, làm cho Dụ Cáp Nhi mặt mày hớn hở. Đỗ Văn Hạo nghĩ chắc là Dụ Cáp Nhi đã sai Tiểu Tề đi chứng thực chuyện của Lưu Quý Phi.
Quả nhiên, Dụ Cáp Nhi che miệng cười: "Xem ngài kìa, hay là đi xem người ta đi. Nghe Tiểu Tề nói tối qua Hoàng Thượng có tới, nói không có hoả, lại không lưu lại qua đêm ở đó, mà đến chỗ Chu Đức Phi, cho nên Lưu Quý Phi chỉ trong một đêm qua đã đổ bệnh rồi, vừa mới tuyên Thái Y đến xem bệnh, ta cũng qua đó xem thế nào."
Đỗ Văn Hạo không muốn không muốn thêm rắc rối nữa, dù sao cũng chẳng có quan hệ gì với mình, liền lấy lí do đi đến chỗ Tư Mã đại nhân xem bệnh cho ông để cáo từ.
Dụ Cáp Nhi mỉm cười một cái, gọi Tiểu Tề lui xuống, đến bên hồ thì dừng bước, quay lại nhìn Đỗ Văn Hạo vẫn đứng ở chỗ cũ, khẽ gọi hắn đến bên hồ: “Đỗ đại ca, có phải ngài cũng thấy ta đã thay đổi nhiều?”
“Đâu có, nương nương.”
“Kỳ thực là ta tin tưởng ngài nên mới có thể trước mặt ngài mà không giấu diếm, che đậy gì cả, vì đại ca ta cũng tầm tuổi ngài, từ nhỏ có gì ta đều nói với đại ca ta, nhưng năm ta lên chín tuổi thì đại ca ta đã mặc bệnh nặng mà mất rồi, từ đó những lời tự đáy lòng mình ta chẳng tìm được ai để chia sẻ được nữa.”
Đỗ Văn Hạo không hề chú tâm nghe, mặc Dụ Cáp Nhi tự độc thoại một mình, mà lúc này điều quan trọng nhất với nàng là cần có người nghe.
“Mấy ngày này không biết vì sao Hoàng thượng không đến tẩm cung của ta nữa, ta không giống bọn họ, ta sẽ không mua chuộc Ninh công công để lấy được lòng Hoàng thượng.”
“Nhưng người không vui.” Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng nói ra một câu.
“Đúng, ta không vui, bởi lúc này ta như con chim hoàng yến trong lồng sắt, chỉ có những khi người làm chủ nhân nhớ đến ta mới đến bên lồng sắt chơi đùa với ta trong chốc lát, nhưng chim hoàng yến của người nhiều quá, mà Dụ Cáp Nhi ta lại mãi mãi không phải là một con chim hoàng yến đẹp đẽ lộng lẫy nhất.”
“Thực ra khi chưa tiến cung người cũng đã biết sẽ như thế này rồi, không phải sao?”
“Ngươi đang nói là ta tự chuốc lấy cực khổ, tự tìm nỗi buồn sao?” Dụ Cáp Nhi lạnh lùng nhìn Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo cung kính đáp: “ Vi thần không dám.”
Dụ Cáp Nhi chỉ thở dài một tiếng nói: “Thanh Đại tỷ tỷ nói rất đúng, mỗi người có một mệnh, nếu mệnh ta đã như vậy, ta sẽ nhận mệnh ấy.”
“Xin nương nương bớt lo buồn, vi thần xin cáo lui.” Đỗ Văn Hạo không muốn nghe những lời lẩm bẩm, than vãn của Dụ Cáp Nhi nữa, đành nói lại một lần là mình phải đi.
“Ngài biết không? Cô cô của ta trước đây là thê thiếp của Thuỵ Vương gia đấy, sau khi mang cốt nhục của Vương gia, vì nhận được sự yêu thương sâu đậm của Vương gia mà bị các thê thiếp khác ghen ghét, nên bị hãm hại, chưa đến 30 tuổi mà đã phải lìa đời.” Dụ Cáp Nhi như thể không nghe thấy lời cáo từ của Đỗ Văn Hạo, vẫn cứ một mình ở đó mà nói không ngừng.
Đỗ Văn Hạo nhìn Dụ Cáp Nhi mà không nói một lời, cũng không dám bước đi, chỉ đứng ở đó mà nghe nàng tiếp tục lẩm bẩm.
“Trời cao có mắt mà!” Dụ Cáp Nhi hét lớn lên một tiếng, khiến Đỗ Văn Hạo giật cả mình, nghĩ rằng đây mới là từ Trảo Oa quốc gọi trở về. Không biết sao nàng lại bỗng nhiên hét lên một câu không đầu không cuối như thế, hắn kinh ngạc nhìn nàng nhưng nàng lại không nói gì cả.
Lát sau, Dụ Cáp Nhi quay đầu nhìn Đỗ Văn Hạo một lúc rồi mỉm cười khó nhọc mà phất phất tay, Đỗ Văn Hạo cũng không biết là Dụ Cáp Nhi nói gì, chỉ biết là mình đã có thể đi, vì vậy mà liền khom người lui xuống.
Tiểu Tề đến bên Dụ Cáp Nhi, nhìn Dụ Cáp Nhi đang trông theo con cá chơi đùa trong hồ nước, hai tay nắm chắt lấy chiếc vòng bảo hộ bằng đá mà như thế nắm lấy một thứ có thể cứu được mệnh cỏ cây. Lông mày nàng không chút rung động, đôi lông mi dài chớp chớp, khuôn mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào.
“Nương nương, Đỗ đại nhân hình như có vẻ không yên lòng.”
“Đã nhận ra rồi, nên mới bảo hắn ta đi.” Dụ Cáp Nhi cuối cùng cũng buông lỏng tay ra, giờ mới nhận thấy mười ngón tay đều đỏ lên rồi, nàng đưa hai tay chà xát nhẹ nhàng vào nhau, nhìn hình ảnh Đỗ Văn Hạo dần dần đi xa, trong ánh mắt hiện lên một tia thương cảm.
Cung Càn Thanh
Ning công công cẩn thận bước đến án tiền của Hoàng thượng, đem một tập tấu chương đặt xuống một bên góc của trác án, thấy Tống Thần Tông một tay cầm bút lông đỏ thắm đang viết không ngừng cái gì đó, một bay thì nhẹ nhàng buông xuống theo bờ vai, Ninh công công bước lên phía trước, buông cây phất trần trong tay xuống, nhẹ nhàng nói: “Hoàng thượng, nô tài đến đấm lưng cho người.”
Tống Thần Thông hạ cây bút trong tay xuống. Xoa xoa đôi mắt mệt mỏi, suốt một đêm, những ngón tay của ngài đều phải phê duyệt các tấu chương từ khắp nơi gửi đến.
Sau khi mặc thường phục vi hành, Tống Thần Tông càng không dám lười nhác một chút nào.
Ngài trước sau tin rằng bản thân biến pháp không có vấn đề mà vấn đề là ở người chấp hành biến pháp, ngài biết rằng những gì trong lần vi hành này nhìn thấy được chỉ là một bộ phận cực nhỏ những tham quan ô lại, ngài cũng đoán được còn có rất nhiều những tham quan ô lại phá hỏng biến pháp như thế, giang sơn này không thể để mất từ tay mình được, nhưng mà, nên xử lí vấn đề này như thế nào thì vẫn chưa tìm ra được biện pháp tốt, chung quy vẫn không thể bãi hết chức các quan này được, thật khổ não.
Ngài mệt mỏi dựa lưng vào thành ghế, cảm nhận lực đấm của Ninh công công đang đấm trên vai mình: “Tiểu Ninh tử, Đỗ Văn Hạo sao còn chưa đến?”
“Hồi bẩm Hoàng Thượng, đã đi gọi rồi ạ, nói là đang cùng các thái y khác đang bàn về bềnh tình của Tư Mã đại nhân tại thái y viện.”
“À, vậy không nên thúc giục hắn. Họ phải bàn bạc cẩn thận một chút mới đúng.”
“Nô tài cũng nghĩ vậy. Nên nếu bọn họ đã thống nhất thì sẽ tới đây thôi ạ.”
“Ừ, hắn làm việc là yên tâm rồi.” Nói xong, Tống Thần Tông mệt mỏi mà ngáp một cái.
“Hoàng thượng, người cả đêm không chợp mắt, nô tài thấy mà đau lòng, hay là người lên giường nghỉ ngơi chốc lát, chờ Đỗ đại nhân đến rồi nô tài lại gọi người cũng chưa muộn.”
Tống Thần Tông lắc đầu, vừa nghe đã đứng dậy mỉm cười nói: “Đỗ Văn Hạo đến rồi.”
Ninh công công không tin, đi tới phía cửa mở cửa ra, quả nhiên thấy Đỗ Văn Hạo đang bước mạnh mẽ về phía thư phòng.
“Hoàng thượng, người đúng là thần rồi. Sao người biết là Đỗ đại nhân đến rồi?” Ninh công công kinh ngạc quay đầu nhìn Tống Thần Tông.
Tống Thần Tông hiểu ý cười, nói: “Những người khác đền đều nhẹ nhàng mà bước, sợ làm phiền ta, chỉ có Đỗ Văn Hạo mỗi lần đến đều bước những bước mạnh gây ra tiếng như vậy, hơn nữa đi đến cửa là dậm dậm hai chân phủi bùn đất, làm như thể sợ người khác không nghe thấy vậy, ha ha.”
Đang nói chuyện dở thì đã thấy Đỗ Văn Hạo đi tới cửa, Ninh công công nhìn sang quả nhiên Đỗ Văn Hạo đang chà chà hai chân vào bậc cửa, rồi sau đó mới bước vào môn hạm quỳ xuống đất hành lễ.
“Tham kiến Hoàng thượng.” Đỗ Văn Hạo cao giọng nói.
Tống Thần Tông đưa mắt nhìn vẻ mặt kinh ngạc của Ninh công công, nhìn cười mà cho Đỗ Văn Hạo đứng dậy, gội Ninh công công mang đến cho hắn một cái ghế: “ Đỗ ái khanh, nghe nói gần đây ngươi bận nhiều việc hả?”
“Hôm nay khí trời thay đổi thất thường, cho nên trong cung rất nhiều nương nương thân thể không khoẻ, thần lúc này quả có chút bận rộn.”
“Bận chút cũng tốt, ngồi xuống nói chuyện đi.” Vừa nói, Tống Thần Tông đi về chỗ của mình, đang định ngồi xuống thì Đỗ Văn Hạo nói.
“Nghe thị vệ ngoài cửa nói Hoàng thượng đã mệt cả một đêm, vi thần có một thỉnh cầu.”
“Nói đi.” Tống Thần Tông ngồi xuống, một tay vung lên.
“Hoàng thượng nên yêu quý thân thể của mình, thân thể mệt nhọc như vậy không chịu nổi đâu, ý của vi thần là người nên ăn chút gì đó sau đó vi thần và Ninh công công sẽ cùng người đi dạo ngự hoa viên.
Tống Thần Tông chỉ vào đống tấu chương cao như núi, nói: “Trẫm sợ là không có thời gian đi dạo nữa, người cũng nhìn thấy đấy, dân chúng khắp thiên hạ đều trông chờ vào cây bút này của ta mà có cơm ăn áo mặc.”
Đỗ Văn Hạo chắp hai tay nói “Hoàng Thượng cũng biết người không phải chỉ là Hoàng Thượng của thần và Ninh công công mà còn là Hoàng Thượng của Thái Hậu, Hoàng Hậu, là Hoàng Thượng của tất cả dân chúng thiên hạ này, cho nên sức khoẻ của người là quan trọng nhất, nếu như người mệt mỏi thì chẳng phải dân chúng ngay cả cơm ăn áo mặc cũng không thể dựa vào người được ư?”
Tống Thần Tông cười lớn. Ninh công công cũng thừa dịp bước lên trước nói: “Hoàng thượng, người xem nô tài khuyên người cũng không nghe, Đỗ Văn hạo đại nhân là đại phu, đây là chén cơm manh áo của người ta, lẽ nào người không tin lời đại phu?”
“Được rồi, được rồi, tai Trẫm bị lời nói của hai ngươi làm cho rối tung lên rồi, thôi được, vậy sẽ ăn chút gì đó rồi sau đấy đi dạo một lát, về sẽ xem sau.”
Ninh công công vui vẻ dìu Tống Thần Tông, sau đó nói với Đỗ Văn Hạo: “Sớm biết đại nhân có tiểu pháp này, hôm qua nên gọi ngài đến rồi.”
Đỗ Văn Hạo hết nhìn Tống Thần Tông lại nhìn Ninh công công, ba người không hẹn mà cùng nở nụ cười.
Sau khi ăn cơm xong, Tống Thần Tông dẫn Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đến ngự hoa viên tản bộ, mặt trời không lớn, ánh mặt trời ấm áp chiếu lên người, Tống Thần Tông cảm thấy hai bên vai cũng thoải mái hơn nhiều.
“Văn Hạo này, bệnh của Tư Mã đại nhân thực sự không có thể điều trị được nữa như các thái y nói sao?” Tống Thần Tông vẫn gọi Đỗ Văn Hạo như vậy từ lúc ở huyện Đông Minh.
“Thưa Hoàng thượng, từ sớm vi thần và các thái y của thái y viện đã bàn bạc kĩ rồi, mọi người đều cho rằng không có thuốc nào cứu được, nhưng mà lại không đồng ý biện pháp của thần.”
Tống Thần Tông phất phất tay, nói: “Không nên nghe theo ý kiến của họ. Bon họ là việc trong cung lâu rồi, đều luôn lo sợ, e dè, cái dũng cảm đã bị mất vì chén cơm và cái mũ ô sa rồi, thậm trí có người còn lo sợ đến mức ngay cả đầu mình cũng đánh mất, bởi thế điều đầu tiên bọn họ làm không phải là chữa bệnh cứu người mà là nghĩ cách bảo vệ cho mình, không nghe lời bọn họ, Trẫm chỉ nghe lời của ngươi. Ngươi vừa nói biện pháp của ngươi mạo hiểm, ta muốn nghe xem đó là biện pháp mạo hiểm như thế nào.”
“Chính là, chính là mổ bụng Tư Mã đại nhân để xem tình hình rốt cuộc nghiêm trọng như thế nào.” Đỗ Văn Hạo muốn nói là làm phẫu thuật, nhưng hắn biết giải thích cái này còn phiền toái hơn, tốt hơn là nên nói thông tục dễ hiểu một chút.
Quả nhiên sự kinh ngạc của Tống Thần Tông không có thấp hơn với so với Phú Bật lúc trước, chỉ cần nhìn hắn mở to hai mắt, há hốc miệng, giơ quạt trong tay lên không trung một hồi lâu mới như từ trong mộng tỉnh lại, nhìn Đỗ Văn Hạo nghi hoặc mà nói: “Cái, cái gì, ngươi định mổ bụng một người hơn 60 tuổi ra xem sao?”
Cho dù Đỗ Văn Hạo đã giúp con trai Tống Thần Tông chữa lành vết thương nhưng Tống Thần Tông vẫn không thể quen với loại y thuật này, đặc biệt là đối với việc mổ bụng của một người già.
Đỗ Văn Hạo nghĩ lời mình nói đã làm Hoàng thượng kinh hoàng, cười một cách khổ sở nói: “Thế nên các quan thái y mới không đồng ý ý kiến quả thần, nhưng vi thần rất muốn thử một lần.”
“Không được. xương khớp của một người già như thế không thể chịu đựng nổi vết dao lăn qua lăn lại như vậy được. Ngươi cho rằng là giết thị heo sao?”
“Hoàng thượng” Ninh công công vội vàng nhắc Tống Thần Tông những lời này có chút không ổn.
Tống Thần Tông cũng phục hồi tinh thần lại, dùng quạt đập đập vào đầu mình: “Đúng, đúng, không được nói như vậy, nhưng mà ý thì cũng chẳng khác là bao, dù sao biện pháp này của nhà ngươi cũng quả thật quá mức mạo hiểm.”
“Vậy vi thần hiểu rồi.” Đỗ Văn Hạo nhẹ giọng nói.
Tống Thần Tông than nhẹ một tiếng: “Trẫm biết người muốn tốt cho Tư Mã Quang, nhưng dù sao ngươi cũng đừng làm cái đó với hắn, cố gắng để hắn còn hai tháng được sống, nếu như ngươi, trẫm chỉ sợ,”
“Vi thần tưởng rằng có hi vọng vẫn luôn tốt hơn không có hi vọng. Bây giờ các thái y đã hết cách rồi vậy sao không để vi thần thử một lần?”
“Trẫm cũng biết cái đạo lý này, nhưng mà”, ôi!
“Vi thần hi vọng có thể trưng cầu ý kiến của Tư Mã đại nhân, nếu ngài ấy đồng ý cho thần được thử, thần sẽ không từ bỏ biện pháp này. Dù sao đây cũng là hi vọng cuối cùng của Tư Mã đại nhân.
Tống Thần Tông trầm ngâm một lúc lâu, gật đầu nói: “ Ừ, được rồi, trẫm biết cứ gặp bệnh nhân là cái tính bướng bỉnh của ngươi lại dâng lên. Trẫm cũng không nói thêm gì nữa, hỏi hắn một chút cũng tốt, dù sao thân thể cũng là của chính hắn.”
“Dạ, vi thần biết rồi.”
“Nhưng mà Văn Hạo này, trẫm tin ngươi mới đem lão già của Tư Mã đại nhân giao cho ngươi, ngươi nhất định không được làm ta thất vọng đấy.”
Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người nói: “Vi thần sẽ tận tâm tận lực, không phụ thánh ân.”
Từ hoàng cung đi ra, trời bông nhiên âm u lại, gió Bắc hướng phía dưới chiếc áo choàng mà thổi, những cánh lá trên đường bị cuốn lại, bay lượn khắp không trung, có người hô lớn: “Sắp mưa rồi, mau về nhà thu dọn xiêm y thôi.”
Vốn tâm trạng đang nặng nề, Đỗ Văn Hạo nghe thấy âm thanh này, như thể nhìn thấy Đường Tăng luôn lẩm bẩm trong “Nguyệt quang ngọc hạp”, không khỏi đứng trước cỗ xe ngựa mà cười một cái, có người từ phía sau đâm phải Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo quay đầu lại, chỉ nhìn thấy một người phụ nữ đang ôm một đứa bé, cúi thấp đầu bước về phía trước, không để ý đâm phải chính mình, xấu hổ cười với Đỗ Văn Hạo, rồi lại vội vàng ôm đứa bé chạy đi.
“Văn Hạo, chàng đứng đơ người ra đó làm gì vậy?”
Đỗ Văn Hạo nghe tiếng chỉ thấy Lâm Thanh Đại trong một bộ đoản trang, một đôi giày hoa hồng đế đen, thoạt nhìn táp sảng anh tư, như một nam nhi tuấn tú.
Bầu trời đột nhiên ầm ầm lên một tiếng nổ lớn, một tia chớp loé qua chân trời, có người có chuyện vui mà uống hét to lên, từ chỗ Đỗ Văn Hạo bọn họ mà đi qua. Đỗ Văn Hạo không kịp giải thích cho Lâm Thanh Đại vội kéo nàng lên xe hướng về phía đông thành.
Mưa đã rơi xuống rất nhanh, lách tách mà rơi lên mái xe, trên dường khắp nơi đều là người đi đường chạy trốn mưa.
“Văn Hạo, sao chàng lại đi ngược đường thế?” Lâm Thanh Đại mở rèm cửa sổ ra xem phát hiện thấy phương hướng không đúng.
“Ta đang do dự không biết có nên đến phủ Tư Mã đại nhân một chuyến không, vừa lúc gặp được nàng, nàng cùng ta đi một chuyến.”
“Tại sao cần ta đi cùng ngươi, vậy Tư Mã Quang đại nhân có phải một hung thần tàn ác không?”
Đỗ Văn Hạo cười to: “Người ta là nhà nho lớn đương đại, học phú ngũ xa, sao có thể là hung thần tàn ác được?! ông ấy mà nghe nàng hình dung về ông ấy như vậy, thể nào cũng kinh hoàng đến trợn trừng mắt, ha ha” hô to một tiếng điều khiển, xe ngựa thẳng đến Tư Mã Quang phủ.
Đến trước phủ của Tư Mã Quang, sau khi gõ cửa, cửa mở ra rồi, một người dưới trong Tư Mã Quang phủ đang cầm ô đứng trước cửa: “Ai đấy? mưa to thế này, thật là!” Chỉ nhìn thấy một đôi nam thanh nữ tú đứng trước cửa, trên người cũng bị nước mưa làm cho ướt hết cả.
“Các người làm gì thế?” Người dưới không chút hiếu khí nói.
“Làm phiền báo cho Tư Mã đại nhân một tiếng là Đỗ Văn Hạo cầu kiến.”
Miệng người dưới không biết lầm bầm gì, xoay người vào trong đóng cửa lại.
Đỗ Văn Hạo kéo Lâm Thanh Đại đến dưới mái hiên trú mưa, Lâm Thanh Đại oán giận nói: “Nhìn chàng kìa, đến lúc nào không đến, cứ muốn đến lúc mưa đi, đấy nhìn xem cái mùi thối của bọn hạ nhân cậy thế nhà.”
“Trời mưa, cả trời và người đều yên tĩnh lại, hơn nữa nếu là lúc ánh nắng tươi sáng đến nói không chừng hoả xa của Tư Mã đại nhân bốc lên thành nóng nảy.”
Lâm Thanh Đại bĩu môi, nói: “ Giờ ta mới biết là khám bệnh cũng cần xem thời tiết đấy, thật buồn cười!”
Lúc này cửa mở ra rồi, chỉ nhìn thấy võng tài cái người dưới kia mang ra hai cái ô vẻ mặt tươi cười đi tới chỗ Đỗ Văn Hạo, đem ô cung kính mà đưa cho hắn: “Đỗ đại nhân, vừa rồi đã đắc tội nhiều, lão gia nhà tôi đang trong đại sảnh chờ ngài và tôn phu nhân.”
Lâm Thanh Đại a lên một tiếng. Khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ hết đến cả cổ, Đỗ Văn Hào trộm cười mở ô ra, cố ý tiến đến bên tai Lâm Thanh Đại nói: “Phu nhân, xin mời!”
Tư Mã Quang thần sắc mệt mỏi tựa vào một cái tháp trượng mềm, trên người đắp một cái chăn mỏng, bên cạnh là một người hầu bộ dạng như thư đồng đang ngồi trên ghế trúc dài, trước mặt là một cái tiểu án, bên trên có văn phong tứ bảo, xem ra đằng sau có vật gì đó.
Đỗ Văn Hạo bước vào cánh cửa. Lâm Thanh Đại đi theo sau. Bỏ ô xuống bên cửa, sau đó đến bên Đỗ Văn Hạo, không dám nhìn vào người đang nằm ở đối diện.
“Đỗ đại nhân, mưa lớn mà vẫn đến đây, hẳn là vì bệnh tình của lão phu?” Giọng nói của Tư Mã Quang rất nhỏ, lại thêm tiếng mưa ở ngoài nữa, Lâm Thanh Đại hoài nghi người đối diện chỉ là cử động môi thôi bởi vì nàng chẳng nghe thấy gì.
Đỗ Văn Hạo tiến lên mấy bước. Đi tới Tư Mã Quang tháp tiền, nhẹ nhàng tìm đến chỗ ghế dài ngồi cùng thư đồng đó. Sau đó quay lại ra ý bảo Lâm Thanh Đại cũng đến bên ghế ngồi xuống.
“Ty chức đúng là vì thân thể ngài mà đến.”
“Vừa rồi Ninh công công cũng đã đến.” Tư Mã Quang nhìn Lâm Thanh Đại đang ngồi gần cửa một lúc, thấy nửa người nàng ướt hết rồi, quay sang bên cạnh nói: “Đi gọi tiểu thư lại đây, bảo tiểu thư lấy bộ xiêm y nào sạch sẽ cho Đỗ phu nhân đây thay.”
Thư đồng đi ra khỏi cửa rồi.
“Nếu Ninh công công đã đến rồi, nếu vậy Tư Mã đại nhân cũng đã biết mục đích chuyến đi này của ty chức, không biết Tư Mã đại nhân nghĩ sao?” Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm nếu Ninh công công đã tới trước, như vậy sẽ không còn phải khó khăn mở miệng nói nữa.
Tư Mã Quang cười hai tiếng. Đột nhiên ho khan lên, khiến cả khuôn mặt già nua cũng đỏ cả lên, Đỗ Văn Hạo vội vàng đứng dậy đấm lưng cho hắn, lúc này mới đỡ nhiều.
“Ha ha, nhìn ta thân cốt thế này mà còn có nhiều người nhớ thương, buổi sớm trời chưa sáng Phú đại nhân đã tới rồi, ngài đoán xem lão già này đã mang đến cho lão hủ cái gì nào?”
Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu.
“Ngài chắc chắn không thể biết được, hắn mang đến cho ta một cuốn dạy nấu ăn, nói là món ăn nhà bếp nhà ta không bằng nhà bếp nhà hắn, ngài nói có buồn cười không chứ?”
Đỗ Văn Hạo có chút cảm động, trước giờ hắn vẫn cho rằng hai vị đại quan của triều đình này bất đồng chính kiến như Hoà Thân và Kỷ Hiểu Lam người nọ không muốn gặp người kia mà trong phim vẫn diễn. Thực tế hôm nay thấy lão nhân này mới biết nhân gian hoá ra vẫn có chân tình.
“Phú đại nhân thật là nhiệt tâm nhiệt tình.”
“Nói cho ngươi biết, ngươi đừng có nói lại với cái lão già kia, thật ra món ăn nhà bếp nhà lão nấu chẳng ngon tý nào, canh nhạt chỉ có nước không, soi vào có thể nhìn thấy cái mặt của lão già này.” Nói xong Tư Mã Quang cười lên một tiếng như một đứa trẻ vậy, Đỗ Văn Hạo cũng mỉm cười theo.
“Phải rồi, nói chuyện đi xa quá rồi. Ta nghe Ninh công công nói Hoàng thượng rất không đồng ý với biện pháp mà ngài muốn mổ bụng ta ra, còn nói các thái ý của thái y viện cũng đều không tán thành phương pháp này, ha ha, Đỗ Văn Hạo, ngài cũng có lúc cô lập không ai giúp, ha ha.”
“Cha, cha cho gọi con?” Một thiếu nữ e thẹn đứng bên cửa, cung kính nói.
Tư Mã Quang đang cười, bỗng nghe thấy tiếng người gọi mình, lại sặc lên một tiếng, vừa cười vừa ho khan nói: “Đứa con xui xẻo này, làm cha ngươi giật cả mình, mau mau, đưa Đỗ phu nhân đi thay xiêm y mới đi, đừng để Đỗ phu nhân bị lạnh.”
“Vâng, thưa cha, Đỗ phu nhân xin mời theo tiểu nữ.” Thiếu nữ xem ra là một người hay thẹn thùng, từ đầu tới cuối không dám nhìn lấy Đỗ Văn Hạo một lần, chỉ nói một câu với Lâm Thanh Đại rồi lui xuống.
Sau khi Lâm Thanh Đại và thiếu nữ lui ra, Tư Mã Quang đến bên Đỗ Văn Hạo ra vẻ thần bí nói nhỏ vào tai hắn: “Tiểu tử này diễm phúc cũng không nhỏ đâu, tìm được cả một phu nhân xinh đẹp như thế, ha ha.”
Đỗ Văn Hạo cười gượng một tiếng. Thầm nghĩ đúng là càng nhỏ rồi, tục ngữ nói chẳng sai, già rồi lại hoá trẻ con, như hôm nay từ Tư Mã Quang thì đúng là nhìn rõ được điều đó. Hơn nữa đã biết mình mắc phải chứng bệnh không cách cứu chữa, thật khiến người ta khâm phục.
“Tư Mã đại nhân ngài vẫn chưa nói ngài nghĩ như thế nào?”
Tư Mã Quang giảo hoạt cười: “Ngài đoán coi?”
Đỗ Văn Hạo thiếu chút nữa té xỉu: “Ty chúc không đoán được.”
“Ngài nếu đã không đoán được ta sẽ không cho ngài mổ bụng lão phu nữa.”
Đỗ Văn Hạo lại lần nữa suýt té xỉu, đây không phải là rõ ràng rồi sao, lão nhân này đã đồng ý cho mình giải phẫu cho hắn, hoàn lại cố ý cho mình là thừa nước đục thả câu, thật sự là một lão nhân đáng yêu.
Một chốc sau, Lâm Thanh Đại từ cửa bước vào, Tư Mã Quang lén lút lấy tay xoa xoa tay Đỗ Văn Hạo, miệng quay về hướng cửa, Đỗ Văn Hạo xoay người vừa nhìn, suýt nữa không nhận ra được.
Chỉ thấy Lâm Thanh Đại toàn thân mặc váy màu lam, khắp váy điểm xuyết những cánh hoa nhỏ màu tím như những ngôi sao, bên trong là lớp áo mỏng màu trắng sữa. Bên eo thắt một chiếc dây màu tím có cả trang sức. Hiện lên là một dáng người thon dài cân xứng. Mái tóc bị ướt từ nãy vẫn còn chưa khô, chiếc khăn dây màu trắng cố ý mà như vô tình được quàng lên phía sau lưng bay bay nhẹ nhàng, linh động vô cùng. Đôi lông mày cong cong không chút phấn thật làm mê lòng người, làm da trắng muốt. Đôi môi màu hồng nhỏ nhắn không điểm mà phảng phất như có mùi thơm dìu dịu, như thể một tiên nữ giáng xuống trần gian.
Lâm Thanh Đại để cho hai người đàn ông trước mặt nhìn đến mức tự xấu hổ mới giả vờ ho lên một tiếng, sau đó đi đến bên ghế ngồi xuống.
Đỗ Văn Hạo quen nhìn Lâm Thanh Đại trong bộ dạng của đoản trang nhã nhặn, bỗng chốc trang điểm thành một thiếu nữ thế này đúng là nhất thời không kịp phản ứng gì. Thấy Lâm Thanh Đại ho như vậy mới hồi phục tinh thần trở lại, cung Tư Mã Quang bốn mắt nhìn nhau, đều tự trộm cười một cái.
Từ đại sảnh của Tư Mã Quang đi ra, thiếu nữ ban nãy mới từ một bên sảnh bước ra, nhìn thấy họ lại như con thỏ nhỏ nhút nhát vội vàng trở vào.
Lâm Thanh Đại thấp giọng nói: “Lúc ta và cô nương này đi thay y phục phát hiện một bên chân của cô nương ấy lúc bước đi có chút khập khiễng, ta cũng không tiện hỏi, nhưng hỏi cô ấy rồi, vẫn chưa thành thân, một thiếu nữ xinh đẹp mà lại bị đôi chân làm liên luỵ, chả trách vẫn trong khuê phòng mà chưa đính hôn, chàng có thể xem chân cho cô ấy không?”
Đỗ Văn Hạo sau khi đã nghe xong thì nghĩ đằng nào cũng đã tới đây tiện thể xem chưa luôn đôi chân, liền gặt đầu, hai người bước quay trở lại đại sảnh nói với Tư Mã Quang: “Tư Mã đại nhân, nghe nói lệnh tăng có tật ở chân, có thể cho phép ta xem cho lệnh cơ một chút được không?”
Chương 296: Bàng mẫu mắc trọng bệnh
“Chứng bệnh của Tư Mã đại nhân để cho ty chức trở về trước hết suy nghĩ và chuẩn bị phương pháp trị liệu, sau đó sẽ tiến hành trị liệu. Thời gian cũng không lâu lắm. Nhưng về nữ nhi, nếu như đã có bệnh, đương nhiên phải chữa trị, ngài như thế nào lại không cố gắng mà cứ để cho nữ nhi bị mãi như vậy?”
Tư Mã Quang lắc đầu: “Quên đi, không có nhiều hy vọng nữa đâu!”
“Chân của Lệnh Thiềm đã từng bị thương sao?”
“Không phải. Không biết như thế nào nữa, tự dung đau quá nên trở thành như vậy. Đau ở đầu gối”.
“Đây có lẽ là một loại bệnh tật do di chứng của bệnh tật khác để lại, hay là để ty chức xem qua một chút đã?”
Tư Mã Quang lại lắc đầu thở dài: “Cũng không ích gì đâu.”
Đỗ Văn Hạo nhướng mày: “Đại nhân có vẻ không tin tưởng vào y thuật của ty chức?”
“Cứ xem như vậy đi.” Tư Mã Quang lại nói thẳng thắn không hề có ý che đậy, “Nếu trị không hết, cần gì phải phí công?”
Đỗ Văn Hạo quay đầu lại liếc nhanh ra phía ngoài cửa, chỉ thấy nữ tử kia đã đứng ở đó, hai mắt lệ lưng tròng lắng nghe những gì bọn họ đang nói.
Lâm Thanh Đại ở bên cạnh nhìn thấy tình cảnh này cũng không đành lòng, nói chen vào: “Tư Mã đại nhân, ngài hẳn phải biết, y thuật của Văn Hạo đây không như các y giả bình thường khác. Hắn chính là người am hiểu thần kỹ phẫu phúc chữa thương mà thế gian từ xưa tới nay chưa có ai làm được ngoài thần y Hoa Đà. Một người như vậy mà ngài không thể tin tưởng thì còn có đại phu nào đáng để đặt lòng tin nữa đây?”
Tư Mã Quang nghe lời của Lâm Thanh Đại thì có chút trầm ngâm, rồi liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, thở dài: “Đã như vậy thì làm phiền Đỗ đại nhân rồi”. Tiếp đó ngoắc tay nữ nhi nói: “Tuệ Nhi, mau lại đây, Đỗ đại nhân xem bệnh cho ngươi.”
Tuệ Nhi khập khiễng đi tới trước mặt bọn họ, nghiêm cẩn thi lễ, cúi đầu không nói lời nào.
Đỗ Văn Hạo chỉ chỉ nói nàng nằm xuống, vén tà váy lên. Sau đó hắn chậm rãi vén chiếc quần lót (quần lót này là cái quần lụa ở trong, không bé tí xíu như bây giờ đâu, nó vẫn dài quá gối đó, anh em đừng có tưởng bở) của nàng lên, chăm chú nhìn khu vực đầu gối khiến khuôn mặt nàng đỏ hồng lên mắc cỡ, rồi nghiêng đi một hướng khác không dám nhìn Đỗ Văn Hạo.
Dù sao chỗ đau của nàng cũng ở phía trên bắp đùi gần đầu gối, đây là một bộ vị rất nhạy cảm, tuyệt đối không thể cho nam nhân xem, trừ trượng phu của mình. Nhưng nói là vậy thì cũng hơi quá, trước đây cũng đã từng có nam nhân khác xem chỗ này của nàng rồi, chẳng qua đó là các đại phu lưng còng chân run, ngoài ra còn có nhiều nữ đại phu khác nữa. Còn nam tử trẻ tuổi thì Đỗ Văn Hạo chính là người đầu tiên.
Cũng chẳng biết Đỗ Văn Hạo có hiểu điều này không nhưng trên mặt hắn vẫn lạnh như tiền, không có biểu hiện gì khác lạ cả, bình tĩnh hỏi thăm: “Đau ở nơi nào?”
Tuệ Nhi lúc này mới xoay người lại chỉ chỉ vào chỗ đau nhưng vẫn không nói lời nào.
Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng xoa xoa bóp bóp chỗ nàng vừa chỉ, Tuệ Nhi ôi chao kêu lên một tiếng, khuôn mặt đỏ hồng lên. Tiêng kêu này không chỉ là đau đớn mà còn là sự sợ hãi thất thố, là tiếng kêu giải thoát cho bao kìm nén từ nãy tới giờ, dù sao đây cũng là lần đầu tiên trong đời nàng bị một nam nhân trẻ tuổi đụng vào. Thậm chí thân thể mềm mại của nàng cũng nhẹ nhàng run rẩy.
Nhưng tất cả diễn biến nội tâm của Tuệ Nhi đối với Đỗ Văn Hạo như chẳng có ý nghĩa gì, đơn giản chỉ là một tiếng kêu đau đớn. Hắn thấy đầu gối nàng sau vài động tác xoa bóp không hồng cũng không nóng lên, chỉ có chút thũng trướng liền một tay nâng mắt cá chân của nàng lên, một tay đè lên bắp đùi, chậm rãi giúp nàng vận động các khớp chân theo các hướng. Đỗ Văn Hạo phát hiện chân nàng không thể gập lại nhiều, sau mỗi lần co duỗi thì kêu lên rất đau đớn.
Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đau nhức thế này đã bao lâu rồi?”
Tư Mã Quang nói chen vào: “Đã nhiều năm rồi, ta nhớ khi nàng mười lăm tuổi thì ta cho đính hôn, chỉ sau một năm đã phát hiện bệnh rồi, thông gia nói với ta không thể lấy một người bệnh về làm vợ làm dâu được, nên trả về.”
“Cha!” Tuệ Nhi kêu lên, khuôn mặt đã trở nên trắng bệch. Nước mắt trào ra không ngớt. Hiển nhiên nàng đã bị cha động đến nỗi đau thầm kín và cay đắng nhất!
“Được, được, không nói không nói, cha không nói nữa.”
Trong lòng Đỗ Văn Hạo nổi lên một sự chua xót khó tả. Một cô gái như hoa như ngọc, chỉ vì một cái chân tật mà bị người ta thối hôn, sự đả kích này đối với nàng chắc chắn không phải tầm thường, khó trách nàng ta trở nên trầm mặc ít nói như vậy. Nếu như cái chân đau này không chữa khỏi, chỉ sợ cả đời này nàng sẽ trở thành một bà quả phụ suốt ngày buồn bực chán nản, câm lặng không nói một lời. Mà hiện giờ phụ thân Tư Mã Quang của nàng lại cũng bị mắc tuyệt chứng, một khi phụ thân mất đi, thật không biết nàng sẽ đối phó với sự nghiệt ngã của thế gian, của dư luận như thế nào đây? Nhất định phải tìm cách chữa thật tốt cho nàng!
Đỗ Văn Hạo lại hỏi nàng các cảm giác khác xuất hiện khi bị đau, lịch sử bệnh tật, cuối cùng mới xem lưỡi, chẩn mạch, rồi cúi đầu trầm tư.
Tư Mã Quang trong mắt cũng không hiện lên sự kỳ vọng gì, hắn đương nhiên không hề có ý nghĩ Đỗ Văn Hạo có thể chữa trị hết cho nữ nhi của mình. Ngược lại, trong đầu hắn lại có một ý rất kỳ lạ, hắn đã nhìn thấy Tuệ Nhi nhìn trộm Đỗ Văn Hạo, ánh mắt của nàng ta ngoài sự ngượng ngùng còn có một chút hưng phấn.
Đỗ Văn Hạo chậm rãi kéo quần trong (nói quần trong cho nó lành, các bác lại cứ tưởng tượng lung tung) của nàng xuống, vẻ mặt vẫn đầy trầm tư. Lát sau hắn từ từ đứng lên, cất giọng nói: “Chứng bệnh khiến cho Tuệ Nhi cô nương đây bị đau xưng ở đầu gối là một loại có tính chất giống với tý chứng. Nguyên nhân là do vệ khí suy yếu, khí huyết ngưng trệ, kinh mạch có dấu hiệu không thông, nói chung là tổng hòa nhiều yếu tố đó lại càng khiến cho bệnh nặng hơn. Điều quan trọng là tý chứng này đã xuất hiện lâu, trở thành mãn tính rồi.”
Tư Mã Quang nghe hắn nói như vậy thì khuôn mặt không hề giãn nở ra thêm chút nào, thở dài thườn thượt trong ruột, thầm nghĩ một tên đại phu trẻ tuổi có được danh tiếng nhiều khi may mắn đóng vai trò rất lớn. Nhưng bên ngoài thì vẫn lãnh đạm gật đầu: “Trước kia cũng có không ít đại phu nói như vậy, lời của ngươi tuyệt không sai lệch so với họ.”
Đỗ Văn Hạo vẫn lộ vẻ đăm chiêu: “Bọn họ dùng thuốc thế nào? Có đơn thuốc ở đây không?”
“Không có. Chúng ta không biết gì về y, giữ đơn thuốc làm cái gì đâu. Có bệnh thì cứ tìm đại phu, để các đại phu xem rồi tự khai đơn cấp thuốc là được rồi.”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì ngay lập tức lắc lắc đầu: “Đây là một thói quen rất không tốt. Ngài phải biết rằng, phàm những người có bệnh, được đại phu thăm khám và kê đơn thì sau đó nhất định phải lưu lại đơn thuốc để những đại phu tới chẩn lần sau có thể cân nhắc. Cái này không chỉ đối với việc chứng bệnh tái phát, mà ngay cả đối với những chứng bệnh khác phát sinh sau này. Phải biết rằng đa phần các loại bệnh tật đều có liên quan với nhau, nhiều khi cái sau bắt nguồn từ cái trước. Trên thực tế đã có nhiều trường hợp do dùng thuốc không đúng mà phát sinh bệnh mới từ một chứng bệnh cũ. Hơn thế nữa, việc chữa trị không dứt khoát một chứng bệnh hoàn toàn có thể là nguyên nhân gây ra hàng loạt chứng bệnh khác sau này. Đồng thời, việc chữa bệnh đa phần là phải chữa nhiều lần, sử dụng thuốc cũng khác nhau. Ví dụ đơn giản nhất là ban đầu dùng thuốc mạnh sau đó phải liên tục theo dõi, bệnh tình thuyên giảm thì thay đổi phương thuốc, dùng điều hòa, bồi bổ,… Chính vì vậy, việc lưu lại các đơn thuốc trước đó là rất quan trọng, tránh cho y giả lần sau không đi lại con đường của người trước. Bởi đa phần mỗi chứng bệnh có nhiều cách chẩn trị, dùng phương khác nhau, nhiều đường quanh co lắt léo, đôi khi y giả phải phỏng đoán, thậm chí thử sử dụng cách này rồi sang cách khác, đặc biệt đối với các nghi nan tạp chứng.”
Tư Mã Quang nghe Đỗ Văn Hạo giải thích một hơi dài lê thê như vậy thì có chút hiểu ra, nhưng cũng chỉ biết cười khổ mà nói: “Nói thật, ngài nói vậy thì ta cũng hiểu, nhưng là lão hủ này thân thể vẫn còn tốt lắm, từ nhỏ tới giờ lão hủ chưa biết mùi vị của chén thuốc nó như thế nào. Cho dù bây giờ tuổi cao, sức khỏe có phần giảm sút, nhưng bệnh tật hiện nay cũng chỉ là ngẫu nhiên dính phong hàn mà thôi. Bọn nhỏ trong nhà này cũng như vậy, thân thể đứa nào cũng mạnh khỏe, không cần đến thuốc thang. Duy chỉ có Tuệ Nhi của ta bị tật ở chân. Chính vì vậy mà nhà ta chưa bao giờ có thói quen lưu phương thuốc cả!”
Đỗ Văn Hạo cũng không quá thất vọng về việc không có đơn thuốc cũ, hắn bình thản nói tiếp: “Không sao. Ta cũng chỉ nói vậy thôi, có thì tốt, không có cũng không phải là quá xấu. Dù sao ta cũng có chẩn đoán của mình, nên sẽ tự mình kê đơn thuốc mới. Muốn trị tý chứng mãn tính này cần phải dùng Đan tham Dưỡng huyết để hoạt huyết. Phương thuốc hoạt huyết này dùng ý khí tương hợp để thông đạt khí huyết, thúc giục khí huyết vận hành để tán tật, hoạch đáp, trạch tả, kiện tỳ, lợi thấp. Mộc qua thư cân, nhị uy linh giúp hỗ trợ tiêu trừ phong hàn, thông lạc, thân cân thảo bổ trợ hoạt động của các chi, gân cốt, ngưu tất cũng có tác dụng làm mạnh mẽ gân cốt, mộc thông lợi ẩm, tiết nhiệt, tế tân hỗ phong chỉ thống.”
Chẳng hiểu sao Đỗ Văn Hạo lại có hứng nói một tràng giang đại hải cách thức chữa trị cũng những loại dược thảo cần dùng như vậy, trong khi hắn biết rõ người nghe có đến chín phần mười không hiểu và không cần nghe mấy cái đó. Quả thật Tư Mã Quang và nữ nhi của lão ngây ngốc nhìn Đỗ Văn Hạo, vẻ mặt trước và sau khi nghe hắn nói không có gì khác biệt. Lão rốt cuộc lắc đầu sau khi Đỗ Văn Hạo kết thúc bài giảng của mình: “Thôi được rồi, ngươi nói chúng ta không hiểu gì đâu, hay là cứ trực tiếp khai phương hạ dược đi, nói thế chứ nói nữa chúng ta cũng không sáng hơn được đâu.”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu, đi tới bên cạnh bàn, đề bút viết một đơn thuốc, đưa cho Tư Mã Quang: “Ta khai một đơn thuốc, gọi là Tuyên Tý thang gia giảm. Khi nấu thuốc, đun ba chén còn hai là được, chia làm ba lần sáng trưa chiều mà uống thuốc, nhớ phải uống nóng. Bã thuốc sau khi uống không được đổ đi, pha chế thêm khoảng sáu bát nước, đun thêm trong lửa nhỏ khoảng thời gian một ấm trà, chờ cho nước sôi liu riu, ước chừng còn khoảng năm chén nước thì dùng khăn lông sạch thấm nước đó lau rửa chỗ đau.
Trước tiên ta khai đơn dùng mười thang. Nếu có cải thiện, ta sẽ tới xem lại, điều chỉnh cách dùng cho những lần tiếp theo. Nếu không cải thiện, ta thực không có biện pháp nào khác, đành phải nhờ các đại phu cao tay hơn!”
Tư Mã Quang lắc đầu: “Không cần phải nhờ đại phu khác đâu, lão hủ ta tin ngươi là được. Bao nhiêu đại phu đã thử chữa trị nhưng có ai thành công đâu? Lần này nếu ngươi không chữa được thì coi như tiểu nữ không may mắn rồi, còn nếu ngươi chữa được, lão hủ nợ ngươi một món ân tình cả đời!”
“Không dám! Dù thế nào ty chức cũng gắng hết sức. Lát nữa ty chức sẽ cho người mang thuốc tới. Cáo từ!”
Rời khỏi phủ đệ của Tư Mã Quang thì trời cũng gần đến hoàng hôn, mưa nhỏ cũng đã ngừng, hai người điểu khiển xe nhàn nhã giẫm lên những tảng đá nhỏ trên đường mà hướng về nhà.
“Hôm nay sao có gì mà tỷ lại cao hứng như vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Thanh Đại từ lúc lên xe tới giờ không ngừng cười tủm tỉm liền tò mò cất tiếng hỏi.
“Ta cười mị lực của đệ a!” Lâm Thanh Đại đưa mắt kiều mị nhìn Đỗ Văn Hạo trợn lên, có ý trách móc cười nói: “Đệ đệ không phát hiện nữ nhi của Tư Mã Quang có ánh mắt khác lạ khi nhìn mình sao? Ha ha, đây là một loại ánh mắt sùng bái, nhưng lại có phần vui sướng, và tất nhiên xen chút hạnh phúc nữa.”
Đỗ Văn Hạo chỉ chỉ vào Lâm Thanh Đại nói: “Vẫn biết là tỷ không biết nói lời hay mà, ài, có câu gọi là miệng cái gì đó không nôn ra được răng ngà mà! Ôi chao, bớ người ta, cứu, cứu, có người mưu sát trượng phu. Ôi chao, cứu, không được đánh, đánh chết ta thì tỷ không có nam nhân rồi!”
Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo cứ rống lên to như vậy khiến nhiều người trên đường ghé mắt lại tò mò nhìn xem thì vừa tức vừa buồn cười, hung hăng nhéo một cái thật đau lên vai hắn, oán trách nói: “Ta bất quá chỉ đánh nhẹ đệ một cái, đệ xem phản ứng của đệ đi, sợ có ai đó trong cả thiên hạ này không nghe thấy sao? Đệ cứ chờ đấy, xem ta thu thập đệ thế nào đây.”
Lâm Thanh Đại nói rồi lại dùng tay đập đập nhẹ vào người Đỗ Văn Hạo. Là một người biết võ công và rất giỏi võ công, nhưng nàng cũng là một người phụ nữ cổ đại biết lễ giáo, nên đương nhiên khi đánh Đỗ Văn Hạo, chỉ là thâm tình yêu mến, chỉ là những cái vuốt ve hơi mạnh một chút của hai người trêu đùa nhau.
Tay đánh, còn miệng Lâm Thanh Đại không ngừng kêu “Ta sẽ thu thập đệ thật tốt, để lần sau không dám to mồm nữa này!” Đỗ Văn Hạo thì được thể kêu oai oái, bộ dáng muốn cho cái xe trở thành tâm điểm chú ý của tất cả mọi người đi trên đường.
Thanh Đại thì có vẻ ngày một bất lực trước cái mồm to và cái da mặt dày của Đỗ Văn Hạo: “Thật hết cách với đệ, chỉ là đánh nhẹ nhàng vậy mà cũng kêu oai oái lên là sao?”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy thì nhếch miệng cười, quay về phía Lâm Thanh Đại làm cái mặt quỷ: “Ôi chao! Cái gì? Tỷ nói đánh như vậy mà là nhẹ nhàng sao. Tỷ đừng quên mình là một võ lâm cao thủ, mỗi cái vung tay nhấc chân là có thể lấy đi tính mạng người khác rồi. Với một chưởng rồi của tỷ, ta đây ít nhất cũng bị nội thương không nhẹ rồi.”
Lâm Thanh Đại ngồi ở trong xe, thấy Đỗ Văn Hạo vẫn mở miệng cãi cố, liền duỗi chân ra đạp nhẹ vào mông hắn một cái. Đương nhiên cái đạp này chẳng có gì là nặng nề cả, Đỗ Văn Hạo quay lại cười híp mắt: “Sao lại có cảm giác co dãn thế nhỉ?”
Lâm Thanh Đại nghe hắn nói mà mờ mịt chưa hiểu đầu cua tai nheo gì: “Cái gì co dãn?”
Thấy Lâm Thanh Đại vậy, Đỗ Văn Hạo lại làm vẻ mặt ngờ nghệch: “Khi một cước của tỷ chạm vào mông của ta, ta cảm giác được nó thật mềm mại, co dãn. Những ngón chân của tỷ thật nhẹ nhàng, mềm mại không hề cứng nhắc, phối hợp cùng động tác vô cùng đáng yêu của tỷ, tất cả khiến ta thấy rất thoải mái. Ta nghĩ mông của mình nhiều thịt hơn những ngón chân của tỷ, đương nhiên tỷ cũng sẽ cảm nhận được nhiều sự co dãn hơn ta. Thực sự ta có thể cảm nhận được điều đó trong động tác của tỷ.”
“Biến đi, hừ, cái… của ngươi một chút thịt cũng không có, thoải mái gì mà thoải mái? Ngươi chỉ được cái nói năng lung tung. Mà thật ra ngươi nói cái mấy cái gì ta nghe cũng không hiểu lắm.”
Lúc này bên cạnh có một chiếc xe trâu trên xếp đầy ngói xanh vượt qua xe của Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại, trên xe có một tiểu hài tử nắm nắm tay mẫu thân ngồi bên cạnh liên tục cười đùa. Điều khiển xe trâu là một ông lão cùng mấy người trang hán, điệu bộ rất vui vẻ vừa đi vừa nói chuyện. Đương nhiên chuyện của những tráng hán này chỉ xoay quanh chủ đề về các cô nương. Bọn Đỗ Văn Hạo có thể nghe rõ tiếng họ đang bàn tán về hai cô nương mới gặp trên đường, một người mặt trắng hồng, một người thắt đáy lưng ong, hai người một thì xinh đẹp một thì dáng vẻ mị hoặc khiến những tráng hán ở đây gần như chia làm hai phía. Họ bàn luận rất sôi nổi, nhiều lúc trên mặt mấy nam tử trẻ tuổi còn hiện lên sự hưng phấn, có người còn nhảy hẳn xuống xe thao thao bất tuyệt như là đang bảo vệ nữ nhân của mình vậy.
Đỗ Văn Hạo một bên vui vẻ nhìn đoàn người đi qua, tay thì vòng qua ôm lấy eo lưng Lâm Thanh Đại: “Cái này gọi là cảm giác thần bí, hiểu không?” Lúc này sắc trời đã muộn, người đi trên đường đã ít đi rất nhiều. Lâm Thanh Đại thấy hành động của Đỗ Văn Hạo như vậy thì cũng không có ý tứ rõ ràng, nhẹ nhàng đưa tay xuống muốn gỡ tay hắn ra.
Đỗ Văn Hạo đương nhiên không dễ dàng buông tha như vậy. Hắn ghé sát đến bên lỗ tai Lâm Thanh Đại, thổi nhẹ nhàng. Lâm Thanh Đại đột nhiên cảm giác một luồng nhiệt khí ấm áp tràn vào trong tai, nàng nhận ra hành động của Đỗ Văn Hạo, trong lòng có chút xao động, trái tim giống như mặt trống đang bị gõ vang lên những tiếng bình bình. Mặc dù đây không phải là lần đầu tiên bọn họ gần gũi với nhau như vậy nhưng lần nào trống ngực nàng cũng gia tăng tốc độ rất nhanh.
“Ta không hiểu, không biết cái gì gọi là cảm giác thần bí gì gì đó, đệ tập trung lái xe đi, những người kia đang nhìn chúng ta đó!” Lâm Thanh Đại cũng không mạnh mẽ cự tuyệt, chỉ quay đầu đi hướng khác, ngượng ngùng nói.
Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Thanh Đại mắc cỡ, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ lựng lên, nghĩ cũng không nên làm quá, dù sao bên đường vẫn đang có người, liền ngồi thẳng dậy, ho khan hai tiếng nói: “Để ta đọc cho tỷ nghe một bài thơ ta rất thích nhé!”
Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo đã nghiêm chỉnh đứng đắn trở lại thì trên mặt cũng không còn màu đỏ hồng nữa. Nàng cũng ngồi thẳng lên, chỉnh lại thân thể một chút, nhưng vẫn không quên bảo trì một khoảng cách nhất định với Đỗ Văn Hạo, hỏi lại hắn: “Thơ gì? Do ai viết? Mà người viết là nam hay nữ?”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thoáng ngạc nhiên, cười nói: “Trời ạ, sao mà nhiều vấn đề vậy? Đến một vị giám khảo ở trường thi cũng không hỏi nhiều như tỷ đâu.”
Lâm Thanh Đại móc chiếc khăn thơm mát trong tay áo ra, nhẹ nhàng đưa lên miệng xoa xoa nhẹ khóe miệng, sau đó ghé mắt thoáng nhìn hắn, rồi ngay lập tức trở lại bộ dạng lạnh lùng, thản nhiên nói: “Được rồi, cũng không phải là quan trọng lắm, nếu là đệ thích, chắc sẽ không phải là một bài thơ kém cỏi, bất quá, quan trọng nhất vẫn là không phải đệ viết là được rồi!”
“Ta đâu có khả năng làm thơ cơ chứ? Tỷ tỷ thừa biết điều đó mà. Bảo ta ngoáy bút kê vài đơn thuốc thì còn được, chứ nói ta múa bút làm thơ thì ta chịu.” Đỗ Văn Hạo cũng biết mình biết người, thành thật nói.
Lâm Thanh Đại nghe vậy muốn cười lớn, nhưng cầm lòng được, cũng không thèm nhìn sang Đỗ Văn Hạo, vẫy vẫy cái khăn trong tay qua trước mặt hắn, nói: “Vậy đệ đọc cho ta nghe đi.”
“Vậy tỷ thực sự muốn nghe? Tốt lắm, khụ khụ.” Đỗ Văn Hạo ho ho vài tiếng để chuẩn bị đọc. Kỳ thật bài thơ hắn sắp đọc ra cũng chẳng phải là nổi tiếng gì, đơn giản là một bài hắn rất thích từ khi học đại học. Bài này do một tác giả cũng không phải là người cổ đại gì cả, mà là một phụ nữ bình thường, có tên là Tịch Mộ Dung sáng tác.
“Nhân nhược năng chuyển thế
Thế gian nhược chân hữu luân hồi
Na yêu, ngã ái
Ngã môn tiền sanh tằng kinh thị thập yêu?
Nhĩ nhược tằng thị giang nam tập liên đích nữ tử
Ngã tất thị nhĩ hạo oản hạ thác quá đích na nhất đóa
Nhĩ nhược tằng thị na cá đào học đích ngoan đồng,
Ngã tất thị tòng nhĩ đại trung điệu lạc đích na khỏa tiệm tân đích đạn châu,
Tại lộ bàng thảo tùng lý,
Mục tống nhĩ hào bất tri tình địa viễn khứ."
(Tạm dịch: "Người nếu có thể chuyển thế,
Thế gian nếu thật có luân hồi,
Như vậy, ta yêu.
Chúng ta kiếp trước từng là cái gì?
Nếu nàng từng là Giang Nam nữ tử,.
Ta nhất định là đóa hoa bị nàng bẻ gãy
Nàng nếu từng là đứa trẻ trốn học đi chơi,
Ta nhất định là viên ngọc rơi ra từ trong túi nàng
Tại bụi cỏ ven đường,
Đưa mắt dõi theo nàng dứt áo đi xa." – Ài, chẳng hay tí nào cả, bác nào có cao kiến thì dịch giùm bài thơ này nhé)
Đỗ Văn Hạo đọc đến chỗ này thì dừng lại. Hắn cũng không quay đầu lại xem vẻ mặt của Lâm Thanh Đại như thế nào, chỉ chăm chú nhìn con đường trước mặt rồi quay sang nhìn cái ngõ nhỏ dẫn vào nhà.
“Đã đọc xong rồi sao?” Rất lâu sau đó, khi chiếc xe đã rẽ vào ngõ nhỏ, những giác quan dường như mới quay trở lại với Lâm Thanh Đại giúp nàng thốt nên lời. Nàng nhướng đôi mi đen cong vút cất tiếng hỏi, thanh âm lộ rõ vẻ cô đơn.
“Vẫn chưa hết. Nhưng đệ nghĩ tỷ không muốn nghe cho nên thôi không đọc tiếp nữa”, Đỗ Văn Hạo trả lời. Đến lúc này hắn mới quay sang nhìn Lâm Thanh Đại. Giữa ráng trời chiều, khuôn mặt thon dài xinh đẹp của nàng lấp loáng trông thật xinh đẹp. Hàng mi thuôn dài, sống mũi thẳng, cao, đôi môi mọng quyến rũ, cằm hơi vểnh ra phía trước, làn da ở cổ trắng ngần. Ở Lâm Thanh Đại, mọi đường nét đều toát lên một vẻ quyến rũ khó tả.
Lâm Thanh Đại quay đầu lại đúng lúc Đỗ Văn Hạo đang chằm chằm nhìn vào nàng. Bốn mắt nhìn nhau khiến nàng ban đầu thấy sửng sốt, sau thì bối rối khôn tả. Nhưng Lâm Thanh Đại trấn tĩnh lại rất nhanh. Nàng nở nụ cười yếu ớt, cụp mắt, nhẹ giọng nói: “đó mà là một bài thơ sao?”
“Đúng vậy”.
“Nói bậy! Làm gì có bài thơ nào như vậy chứ! Ta tuy không biết làm thơ viết văn nhưng cũng biết chút ít về thơ Bình Khánh. Nghe những từ đệ vừa đọc chẳng giống ca từ trong một bài thơ chút nào”.
“Thế tỷ bảo nó là cái gì nếu không phải là thơ?”
Lâm Thanh Đại nhẹ nhàng: “Ta cũng không biết nữa. Nhưng những từ ngữ đó làm cho người nghe không khỏi cảm thấy chua xót, chỉ muốn đắm chìm luôn vào đó thôi. Đệ đọc tiếp đi, ta muốn nghe nữa”.
Đỗ Văn Hạo thầm thì vào tai nàng: “khi nào về đến nhà đệ sẽ nhớ lại rồi viết ra cho tỷ để tỷ có thể nghiên cứu dần dần”.
Đỗ Văn Hạo vừa nói xong thì xe đã dừng lại ở cửa Ngũ Vị Đường. Tuyết Phi Nhi đang đứng dựa cửa ngó quanh ngó quẩn, thấy Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại về thì vội quay đầu hô to: “Cầm Nhi tỷ tỷ, Văn Hạo ca ca với Thanh Đại tỷ tỷ đã về đến đây rồi.”
Tiểu nhị của Ngũ Vị Đường vội vàng chạy ra giữ lấy xe ngựa, chờ cho Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại đi xuống xe xong thì đem cả xe lẫn ngựa ra hậu viện cất.
Lâm Thanh Đại cố ý bước thật mau đi lên trước Đỗ Văn Hạo. Do đó hai người bọn họ một trước một sau tiến vào bên trong.
Tuyết Phi Nhi bước nhanh về phía Đỗ Văn Hạo, thân thiết kéo cánh tay hắn rồi thoải mái tựa đầu vào khuỷu tay hắn. Đỗ Văn Hạo đưa tay ra xoa xoa đầu nàng, nói: “nàng đứng ở cửa làm chi vậy?”
“Thiếp chờ chàng”.
“Nàng muốn ta hả? Thế hôn một cái nha?”
“Không phải bây giờ!” Tuyết Phi Nhi xoay mặt né tránh nụ hôn của Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Nãi nãi của Cầm Nhi tỷ tỷ bị bệnh. Nhị tỷ của Cầm Nhi tỷ tỷ sang đây báo, muốn chàng qua đó xem bệnh một chút. Thiếp đứng đây chờ chàng lâu lắm rồi đó, bụng đói bắt đầu réo ục ục rồi đây này. Thế mà chàng không tỏ ra chút thương xót nào sao?”, nàng phụng phịu.
Đỗ Văn Hạo thừa dịp chưa ai chú ý đến hai người bọn họ liền cúi đầu thật nhanh hôn phớt lên khuôn mặt tròn tròn xinh đẹp của Tuyết Phi Nhi rồi nói: “Thế này được chưa? Nàng cần gì phải chờ ta đâu, nhanh đi ăn chút gì đi cho khỏi đói. Ta đến chỗ Cầm Nhi xem có chuyện gì. Nãi nãi bệnh chắc nàng ta cũng sốt ruột”.
“Chàng thật là… ài, thôi được rồi. Nhưng sao chàng không đi vào cung mà lại cùng Thanh Đại tỷ tỷ đi đâu đến giờ mới về vậy?”
“Ta gặp tỷ ấy trên đường về. Thôi để nói chuyện sau. Giờ nàng mau mau đi ăn cơm đi. Kêu Thanh Đại tỷ tỷ đi ăn luôn nữa, tỷ ấy cũng chưa ăn gì đâu”.
Vừa nói, Đỗ Văn Hạo vừa nhanh chóng bước về phía phòng Bàng Vũ Cầm.
Vừa bước vào Đỗ Văn Hạo đã thấy Bàng Vũ Cầm hai mắt đỏ hoe, chắc là đã khóc nhiều. Ngồi cạnh nàng là Nhị tỷ Bàng Vũ Đình.
Thấy Đỗ Văn Hạo bước vào, hai tỷ muội vội vàng đứng dậy.
Đỗ Văn Hạo kêu lên một tiếng “Nhị tỷ” để chào Bàng Vũ Đình, sau đó đi tới bên cạnh Bàng Vũ Cầm, ôm lấy bả vai nàng nói: “Ta từ trong cung ra thì gặp Thanh Đại tỷ tỷ. Vậy nên ta đưa tỷ ấy đi cùng đến nhà Tư Mã đại nhân một chuyến để xem bệnh cho ông ta luôn. Ta về hơi muộn một chút, nàng với Nhị tỷ đã ăn cơm chưa vậy?”
Bàng Vũ Cầm nghe Đỗ Văn Hạo nói xong là bắt đầu xụt xịt. Nàng đưa khăn thơm lên chấm nước mắt, nghẹn ngào nói: “Nhị tỷ qua nói nãi nãi lại bị bệnh rồi. Đầu đau, toàn thân nhức mỏi, người nóng, nhưng cơ thể lại thấy rét. Nãi nãi lớn tuổi như vậy rồi không biết có nguy hiểm không nữa. Mà người lại chỉ tin tưởng chàng, muốn chàng đến xem bệnh thôi. Thiếp chờ mãi chờ mãi mà không thấy chàng về nên sốt ruột quá.
“Không sao, không sao, nàng đừng khóc nữa mà. Ta biết là ta sai rồi. Thôi giờ ta đã về đây rồi, chúng ta nhanh chóng qua chỗ nãi nãi xem người làm sao?”
“Nhưng chàng vẫn còn chưa ăn cơm mà?” Bàng Vũ Cầm hỏi, giọng đượm vẻ lo lắng cho tướng công của mình,
Đỗ Văn Hạo đưa tay lau giọt nước mắt ở khóe mắt nàng rồi lên tiếng an ủi: “ta không sao mà. Nhịn đói một bữa cũng có chết được ngay đâu. Chúng ta đi xem bệnh cho nãi nãi trước đã”.
Bàng Vũ Đình ngồi một bên nghe hai người bọn họ nói chuyện tình cảm nên không muốn xen vào. Giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói sẽ lên đường ngay nàng mới đặt chén trà đang uống dở lên bàn rồi đứng dậy nói: “Nếu không thì cứ đến nhà tỷ đi. Trong lúc Văn Hạo đệ xem bệnh cho nãi nãi, tỷ sẽ kêu người chuẩn bị cơm tối luôn”.
Nghe Bàng Vũ Đình nói vậy, Đỗ Văn Hạo chắp tay quay sang nói: “Vậy phải làm phiền Nhị tỷ rồi”.
Ra đến cửa, Đỗ Văn Hạo để ý thấy Bàng Vũ Cầm dường như có chuyện gì đó muốn nói với mình, nhưng cứ ngập ngừng định nói lại thôi. Tinh thần nàng cũng lộ rõ vẻ lo âu hốt hoảng.
Lên xe rồi, Bàng Vũ Cầm càng lộ rõ vẻ lo âu gì đó. Nhiều lúc Bàng Vũ Đình hay thậm chí cả Đỗ Văn Hạo nói nàng cũng có vẻ không nghe thấy và rõ ràng đang không để tâm vào câu chuyện. Thấy vậy, Đỗ Văn Hạo cất tiếng: Cầm nhi, nàng đang có tâm sự gì sao?”
Bàng Vũ Cầm bỗng trở nên hốt hoảng. Nàng quay sang nhìn Đỗ Văn Hạo, vội vàng lắc đầu nói: “không, không có gì cả. Thiếp làm gì có tâm sự nào đâu”.
Đỗ Văn Hạo nghĩ chắc nàng đang băn khoăn chuyện mình cùng Lâm Thanh Đại cùng nhau đi về như vậy, nhưng do trong xe còn có cả Bàng Vũ Đình nên hắn không tiện để giải thích thêm. Hắn chẳng còn biết làm gì khác, chỉ biết chấn an nàng: “nàng đừng lo, chắc nãi nãi sẽ không sao đâu”.
Ai ngờ Bàng Vũ Cầm vừa nghe xong những lời này thì lại nghẹn ngào thút thít khóc.
“Cầm nhi, thôi đừng có khóc mà. Nãi nãi sẽ không sao đâu”, Bàng Vũ Đình cũng lên tiếng an ủi.
Đỗ Văn Hạo cảm giác mọi chuyện không đơn giản như hắn nghĩ nữa, bèn thấp giọng hỏi: “Cầm nhi, rốt cuộc thì nàng làm sao vậy? Nhìn thần sắc nàng không được tốt cho lắm”.
Bàng Vũ Cầm nghẹn ngào, rốt cục cũng quyết định nói ra suy nghĩ của mình: “Cũng tại thiếp không tốt. Nếu không phải vì thiếp thì nãi nãi đã không đổ bệnh như vậy.”
Nghe những lời này, Đỗ Văn Hạo càng thấy ngạc nhiên hơn, nói: “Chuyện là thế nào vậy? Rốt cuộc nàng đã làm gì?”
“Lúc trước nãi nãi bị bệnh cho người đi tìm chàng thì chàng lại vừa tiến cung. Nãi nãi lại không tìn tưởng vào tay nghề hai người Diệu Thủ với Hàm Đầu nên thiếp đã chủ động đi xem bệnh cho nãi nãi rồi tự mình kê thuốc cho người uống. Cũng tại thiếp không tốt”, Bàng Vũ Cầm vừa khóc vừa nói.
Đỗ Văn Hạo vội nói: “nàng đi xem bệnh cho nãi nãi hôm nào vậy? Sao ta không biết gì về chuyện này?”
Bàng Vũ Cầm lúc này mới ngẩng đầu lên, nấc nghẹn muốn nói mà không thành lời. Lòng tràn đầy sự thương xót, Đỗ Văn Hạo đưa tay ra ôm nàng vào lòng, không còn nghi ngại việc Bàng Vũ Đình đang ngồi đối diện liệu có chướng mắt khi nhìn thấy hay không nữa. Hắn nghĩ dù sao thì Bàng Vũ Đình cũng là Nhị tỷ của Cầm nhi, chắc sẽ hiểu và thông cảm được.
Đỗ Văn Hạo an ủi một lúc Bàng Vũ Cầm mới nguôi ngoai được một chút, vừa khóc vừa nói: “khoảng mấy ngày trước đây, mấy hôm mà tướng công bận đi xem bệnh cho Lâm nương nương và Trữ công công ý, thiếp đợi mãi không thấy tướng công về nên sốt ruột một mình đi về nhà. Thấy nãi nãi đang phát bệnh, đầu đau thân nhức mỏi, ngoài nóng trong lạnh nên thiếp đoán chừng nãi nãi bị thương hàn. Thiếp nghĩ nếu làm gì đó khiến nãi nãi đổ mồ hôi thì sẽ giúp nhiệt cơ thể lan đi. Ai ngờ uống thuốc xong nãi nãi không những không bớt bệnh mà từ mấy ngày hôm nay bắt đầu khó ăn, khó uống, mắt cũng lờ đờ chậm chạp. Hôm nay Nhị tỷ qua nói ngay cả hơi thở nãi nãi cũng rất yếu ớt. Tẹo nữa tướng công xem thử xem, nếu là do thiếp làm bệnh tình của nãi nãi nặng lên thì đúng là thiếp không còn mặt mũi nào mà sống trên cõi đời này nữa”.
“Nàng đừng nói lung tung như thế chứ. Nói ta nghe bệnh tình nãi nãi lúc trước thế nào?’ Đỗ Văn Hạo hỏi.
“Người thì thấy lạnh nhưng cũng có những lúc nóng rần lên. Đau đầu nhức mỏi khắp toàn cơ thể. Nhưng lại không bị đổ mồ hôi. Sắc mặt tái nhợt, nói chuyện gì cũng không có tinh thần”.
Đỗ Văn Hạo nghe Bàng Vũ Cầm mô tả xong đã phần nào hình dung ra cơ sự.
Đi thêm một đoạn nữa, xe ngựa đã đến trước cửa Bàng Vũ Cầm nương gia.
Bàng mẫu nằm trên giường, mơ mơ màng màng dường như không còn nhận thức. Mọi người trong nhà đông đủ ngồi quây quần quanh giường Bàng mẫu. Đỗ Văn Hạo sau khi chào hỏi mọi người một vòng bắt đầu bắt tay vào chẩn bệnh.
Hắn bắt mạch, xem lưỡi, kiểm tra thôi hồi để chắc chắn về phán đoán của mình rồi lấy bút, vội vàng kê đơn và đưa cho Bàng Vũ Cầm tìm phương bắt dược bốc thuốc cho Bàng mẫu.
Bàng Vũ Cầm tiếp nhận đơn thuốc. Liếc qua đơn, nàng bất ngờ kêu “hả” một tiếng. Chỉ thấy trong đơn thuốc mà Đỗ Văn Hạo kê có một loại thuốc duy nhất là nhân sâm năm tiễn.
Bàng Vũ Cầm sợ hãi nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “phu quân, cái này… Nãi nãi bệnh nặng như vậy, nếu chỉ dùng một loại thuốc như vậy thì có tác dụng gì không?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “có được hay không thì phải thử mới biết được chứ!”
Phụ thân của Bàng Vũ Cầm là Bàng Cảnh Huy vuốt chòm râu dài nói: “Văn Hạo kê đơn thuốc luôn rất khác người nhưng lại vô cùng hiệu quả. Lần trước kê đơn cho di nương con cũng vậy. Thôi nhanh đi chuẩn bị nhân sâm cho nãi nãi đi”.
Trong nhà Bàng Cảnh Huy đương nhiên lúc nào cũng có sẵn nhân sâm nên không cần phải đi đâu khác mua. Trong chốc lát, loại nhân sâm tốt nhất đã được mang tới. Tự tay Bàng Vũ Cầm giúp nãi nãi của nàng ăn.
Sau đó, mọi người trong nhà lại quây quần ngồi xung quanh giường Bàng mẫu. Như một ngọn đèn đang lay lắt, lão nhân hai mắt nhắm nghiền, môi nhợt nhạt vô sắc, sắc mặt tái nhợt. Bàng Vũ Cầm ngồi dựa sát vào Đỗ Văn Hạo, định hỏi hắn điều gì đó nhưng lại do dự liền thôi.
Chỉ chốt lát sau đó, Bàng mẫu nhẹ giọng rên rỉ một tiếng rồi chậm rãi mở mắt ra.
“Nãi nãi tỉnh rồi”, Bàng Vũ Cầm vừa mừng vừa sợ, ôm lấy đầu của Bàng mẫu mà khóc lóc thảm thiết không thôi.
Bàng mẫu chậm rãi quay đầu nhìn từng người bọn họ, trên mặt lộ rõ vẻ vui mừng: “Cầm nhi à, còn có cả Văn Hạo sao, các con tới được là tốt rồi. Nãi nãi không sao đâu mà”.
Bàng Vũ Cầm nhìn mẫu thân mà lau những giọt nước mắt đang lã chã rơi. Rồi nàng đưa tay đắp lại chăn cho Bàng mẫu, ôn nhu nói: “Nãi nãi đương nhiên là không sao rồi. Đã có Văn Hạo ở đây, con ma bệnh sợ quá bỏ chạy mất rồi”.
Nghe Bàng Vũ Cầm nói, mọi người trong phòng không nén nổi mà cười ha hả.
Chương 297: Mang thai
Bàng Vũ Cầm vội vàng sai người mang nước ấm đến, rồi tự mình định giúp giữ cho Bàng mẫu uống. Đỗ Văn Hạo nói: “Để nãi nãi ăn thêm ít nhân sâm trước rồi uống nước cho trôi”.
Bàng Vũ Cầm nghe vậy thì vội sai hạ nhân mang thêm một ít nhân sâm nữa đến. Bàng mẫu ăn sâm, rồi uống nước ấm, một lúc sau đã thấy khỏe hơn, tinh thần minh mẫn hơn. Bà kêu người đỡ mình dậy, nửa nằm nửa ngồi dựa vào giường cùng Bàng Vũ Cầm bọn họ trò chuyện những câu chuyện thường ngày.
Người nhà Bàng gia thấy cảnh này thì vừa mừng vừa sợ, ai cũng trầm trồ khen Đỗ Văn Hạo y thuật như thần.
Đêm đó, vợ chồng Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm ở lại Bàng gia.
Nằm trên giường, Bàng Vũ Cầm tình cảm dựa sát vào phu quân nhẹ nhàng hỏi: “tướng công, nãi nãi rốt cuộc là bị bệnh gì vậy? Là thiếp đã kê đơn không đúng phải không?”
“Không phải, nàng kê đơn thuốc không sai mà”.
Bàng Vũ Cầm buồn bã nói: “Phu quân, chàng không cần phải an ủi thiếp đâu. Thiếp biết là chàng chỉ nói vậy để an ủi thiếp thôi mà”. Sống cùng Đỗ Văn Hạo bấy lâu nay, Bàng Vũ Cầm đương nhiên hiểu phu quân của nàng, nàng cũng cảm nhận được rõ ràng cách làm của mình có gì đó không ổn. Thế nhưng lúc này lòng nàng vẫn rối như tơ vò, thêm vào cảm giác hối hận khiến nàng không thể minh mẫn được.
“Không phải ta đang an ủi nàng đâu. Ta nói sự thật mà, nàng suy đoán đúng, và phương thuốc nàng kê cũng không sai”.
Bàng Vũ Cầm ngẩng đầu, hai mắt đã rơm rớm nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi: “Vậy tại sao thuốc đó lại không trị được bệnh cho nãi nãi mà còn làm cho bệnh tình của nãi nãi trở nên nặng hơn”.
“Bởi vì nàng chưa có nhiều kinh nghiệm kê thuốc, đặc biệt là kê thuốc cho người già. Người già cơ thể không được khỏe, không thể kê thuốc như cho những người bình thường được. Dù nãi nãi có biểu hiện của bệnh thương hàn, nàng không thể chỉ dùng những thứ thuốc thông thường để chữa bệnh đó. Phải dùng thêm tái tạo tán Đẳng Dược để bổ trợ cho Giải Biểu thì mới có tác dụng. Nàng liên tục cho nãi nãi dùng mỗi Giải Biểu thì không chỉ không có tác dụng mà thậm chí còn gây ra tác dụng ngược: mồ hôi toát ra nhiều khiến cơ thể mệt mỏi, thần khí suy giảm, ăn uống không được. Rồi miệng không thể nói, mắt lờ đờ không còn tinh nhanh. Khi tình huống này xảy ra, chỉ cần cho ăn thêm nhân sâm Thang Từ Phục khô sẽ giúp nguyên khí khôi phục, cơ thể có lại sức lực.”
Bàng Vũ Cầm trong chuyện vợ chồng lễ giáo là một người hiền thục, có chút phục tùng chồng, nhưng bản chất nàng là một người thông minh, nhanh hiểu. Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo giải thích, nàng hiểu ra ngay sự việc, rằng nàng kê thuốc thì không sai nhưng khi kê lại không để ý đến đặc điểm cơ thể của người bệnh nên thuốc Giải Biểu đã xảy ra tác dụng ngược, gây tổn thương đến dương khí của Bàng mẫu.
Bàng Vũ Cầm đi theo Đỗ Văn Hạo học y thuật đã gần một năm nay. Ngày thường nàng vô cùng chăm chỉ, cứ có thời gian rảnh là lại đọc sách về y thuật. Hơn nữa, nàng cũng được Đỗ Văn Hạo chỉ điểm thêm nên kỹ năng ngày một tốt hơn. Cảm thấy cũng khá tự tin vào tay nghề của mình, Bàng Vũ Cầm mới tự tin kê đơn chữa trị căn bệnh thương hàn đơn giản cho nãi nãi. Nhưng nàng không ngờ rằng việc kê đơn thuốc còn phụ thuộc vào thể trạng của bệnh nhân nên chút nữa đã gây ra đại họa. Kinh nghiệm lần này giúp nàng nhận ra rằng “kỳ hoàng nhất đạo, bác đại tinh thâm”. Y thuật không chỉ cần kiến thức mà còn cả kinh nghiệm nữa. Mình mới chỉ bắt đầu đặt chân lên một con đường dài bao la bất tận mà thôi.
Vẫn cứ nói là Trung y dễ học mà khó giỏi. Dễ bởi vì nó bắt nguồn từ những thứ rất đời thường, các phương thuốc đôi khi rất gần giống với những món ăn, thức uống hàng ngày, kiến thức cơ bản, các vị thuốc đơn giản cũng không khác là mấy so với các loại rau quả, dược thảo bình dân mà rất nhiều nhà đều trồng trong vườn. Tuy nhiên, Trung y lại rất khó để thành tài, bản thân nó đòi hỏi người học phải có sự trau dồi hàng ngày, có sự trải nghiệm không ngừng qua những kinh nghiệm thực tế. Nó không phải như Tây y, thuốc theo bệnh, cứ bị bệnh gì thì tìm đúng loại thuốc đó, ai cũng có thể mua, có thể bán được. Trung y mặc dù có đơn thuốc, có những bệnh chứng rõ ràng, nhưng là nó phụ thuộc vào mỗi giai đoạn bệnh, mỗi thể trạng của bệnh nhân. Với mỗi một loại bệnh, không những khác nhau ở các giai đoạn, mà còn khác nhau ở mỗi người bệnh.
Theo cách chẩn bệnh của Trung y, mỗi khi xem bệnh đều phải trải qua bốn giai đoạn, vọng (nhìn) - văn (nghe)- vấn (hỏi) – thiết (sờ - chẩn mạch). Điều này thể hiện là với mỗi người bệnh đều phải có sự tham khảo kỹ lưỡng, chẩn đoán chính xác các chứng bệnh, từ đó mới kê đơn, cho thuốc. Hơn nữa, sau mỗi lần điều trị, lại phải khám lại để thay đổi thuốc.
Lại nói ở thời đại của Đỗ Văn Hạo, mặc dù Trung y vẫn khá được coi trọng, nhưng thực tế số người theo học ngày một ít. Một phần cũng do yếu tố thị trường, mọi người đều có xu hướng muốn đơn giản, nhanh gọn, cái này thì Tây y hơn hẳn Trung y. Tây y bệnh gì nếu đơn giản thì cứ ra hiệu thuốc, mua đúng loại bệnh là được, vừa dễ mà vừa nhanh khỏi. Mặt khác, nguyên liệu cho Trung y ở thời hiện đại thì ngày một thiếu, chất lượng cũng không đảm bảo. Nhưng, điều khiến mọi người không đủ kiên nhẫn theo Trung y chính là sự rắc rối của phương pháp trị bệnh, sắc thuốc rồi uống thuốc. Việc chẩn mạch bằng tay dù là thầy thuốc giỏi đến mấy nhưng khi so với cái tai nghe của Tây y thì cũng không dám khẳng định rằng mình nghe đúng hơn.
Ngày thứ hai, sau khi uống thuốc đầy đủ, Bàng mẫu cơ bản đã khỏi hẳn, đã có thể xuống giường đi đi lại lại. Việc ăn uống nọ kia cũng đã dần trở lại như bình thường. Chờ đến tối, sau khi ăn uống xong xuôi, thấy cơ thể Bàng mẫu không có gì đáng lo ngại nữa vợ chồng Đỗ Văn Hạo mới cáo từ, lên đường về Ngũ Vị Đường.
Một ngày nữa lại trôi qua.
Sáng sớm hôm nay, Lâm Thanh Đại dậy rất sớm. Vừa rời giường nàng đã chuẩn bị đi đến rừng trúc ở hậu viện định đi vài đường quyền. Mở cửa phòng, nàng ngạc nhiên vô cùng khi thấy một tờ giấy được vứt ở ngoài cửa. Trên tờ giấy viết những dòng chữ nhỏ nhưng ngay ngắn như sau: “Hôm trước đệ đã đọc một phần bài thơ cho tỷ nghe rồi, phần còn lại của bài thơ đó như sau:
“Nhĩ nhược tằng thị diện bích đích cao tăng
Ngã tất thị điện tiền đích na nhất chú hương
Phần thiêu trứ
Bồi bạn quá nhĩ nhất đoạn tĩnh mục đích thì quang
Nhân thử, kim sanh tương phùng
Tổng an đắc hữu ta tiền duyến vị tẫn
Khước hựu ngận hoảng hốt
Vô pháp tử tế địa khứ phân biện
Vô pháp nhất nhất địa hướng nhĩ thuyết xuất."
(Tạm dịch: Nàng nếu từng nghĩ sẽ làm một vị cao tăng
Ta nhất định sẽ đến đại điện thắp một nén nhang thành ý
Nhang cháy dần…
Ta sẽ được làm bạn với nàng trong một khoảng thời gian
Bởi vậy, nếu kiếp này có gặp lại
Cũng là vì duyên phận chúng ta còn gắn kết với nhau
Tuy có đắn đo
Biết mình khó mà đón nhận
Cũng không thể dễ dàng thổ lộ với nhau)
Lâm Thanh Đại đọc xong người chợt thấy nóng bừng lên. Nàng xoay người bước trở lại vào trong phòng rồi đóng cửa lại. Qua cửa sổ, Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo từ trong thư phòng đi ra vội vàng cúi đầu ngồi xụp xuống ghế, người nóng bừng như thể vừa làm chuyện gì không tốt nên không dám nhìn thẳng vào người đối diện. Đến khi nhìn thấy vạt áo trường bào của Đỗ Văn Hạo đi xa dần khuất khỏi tầm mắt mình, rồi tiếng kẽo kẹt cánh cửa đóng mở vang lên, Lâm Thanh Đại mới vỗ vỗ ngực mình thở dài một cái. Nàng một lần nữa đọc những chữ cái dường như đang nhảy múa trên tờ giấy rồi thở dài.
“Ôi Văn Hạo, một đời hồng nhan Lâm Thanh Đại ta đã gắn bó với đệ. Ba cái dòng ngắn ngủi này làm sao mà đệ che được mắt ta. Tâm trạng ý tứ đệ thế nào chẳng lẽ ta lại không biết sao. Những lời đệ nói khiến tim ta loạn nhịp mất rồi”, Lâm Thanh Đại cười buồn. Nàng phóng tay buông rơi trường kiếm rồi buông mình ngã xuống giường, nhẹ nhàng đặt trang giấy với những câu thơ tình cảm lên ngực, sau đó nhắm nghiền hai mắt lại tận hưởng những phút giây hạnh phúc.
Là một người có thể nói là rất không may mắn, góa chồng khi chưa thực sự được làm vợ. Thế nhưng, lễ giáo cổ đại đã biến Lâm Thanh Đại thành một người cứng rắn, nàng tự đóng cửa lòng mình, chấp nhận số phận của mình để thờ chồng, chính xác hơn là thờ một thứ quan niệm cổ hủ của thời đại này. Thế nhưng, từ khi gặp Đỗ Văn Hạo, tư tưởng hiện đại của hắn đã ngày một ngấm vào những người sống cùng hắn, Lâm Thanh Đại cũng không phải là ngoại lệ. Cùng với y thuật cao thâm của hắn, đặc biệt là phẩm chất chân chính của một lương y đã thực sự khiến nàng phải động tâm. Không biết từ lúc nào, cánh cửa lòng của nàng đã trở nên yếu ớt trước sức ép mạnh mẽ từ bên trong, chỉ cần một tác động nhỏ, nàng có thể bùng nổ với những tâm trạng đã bị dồn nén bao lâu nay. Và thời điểm đó đã đến, chính là khi hai người ở với nhau dưới giếng khô. Kể từ đó, Lâm Thanh Đại đã thực sự trở lại với cuộc sống của một cô gái đang tuổi thanh xuân đẹp nhất của cuộc đời.
Khoảng lặng của Lâm Thanh Đại bị cắt ngang bởi tiếng gõ cửa. Lâm Thanh Đại thấp giọng che đi sự bực bội vì bị làm phiền không đúng lúc nói: “Ai đấy?”. Vừa nói, nàng vừa bước về phía cánh của để mở ra.
Chỉ thấy Đỗ Văn Hạo khuôn mặt tươi cười đang đứng trước cửa nhìn chăm chăm vào nàng, trên tay cầm hai cái nhu mễ cao (bánh bao hấp?) nóng hổi gói trong lá sen.
Lâm Thanh Đại bỗng chốc mặt đỏ dừ, ngập ngừng nói: “đệ…. Không phải đệ đã đi rồi sao?”
“Đệ cũng đi được một đoạn rồi, nhưng đi ra đến cửa thấy có người bán nhu mễ cao. Biết tỷ thích ăn món này nên đệ đã mua cho tỷ hai chiếc đây. Nào, đưa tay đây nào”. Nói xong, Đỗ Văn Hạo đặt hai chiếc nhu mễ cao vào tay Lâm Thanh Đại rồi quay người trực rời đi.
“Văn Hạo….”, Lâm Thanh Đại định nói câu gì đó, nhưng rồi lại ngập ngừng dừng lại.
“Có việc gì vậy?”
“Ừm, cũng không có gì. Thôi đệ mau mau vào cung bái kiến Hoàng Thượng đi. Nghỉ liền hai ngày rồi, không biết Hoàng Thượng có việc gì cần sai bảo không. Rồi còn các nương nương trong hậu cung, người bệnh nặng người bệnh nhẹ đang chờ đệ đến chẩn bệnh. Thôi đi mau đi”.
Đỗ Văn Hạo xoay người nhìn thẳng vào Lâm Thanh Đại cười: “thì đệ đang định đi đây mà”, rồi hắn khoát tay vội vã rời đi.
Đợi đến khi bóng dáng của Đỗ Văn Hạo khuất hẳn, Lâm Thanh Đại mới để cho cảm xúc của mình bung tỏa. Nàng cúi đầu, hít hà cái hương thơm không thể cưỡng lại của cái nhu mễ cao gói trong lá sen. Rồi nàng thấy cay cay nơi sống mũi, một giọt lệ đã rơi ra đậu lên chiếc lá sen, theo gân lá chảy tận vào bên trong chiếc nhu mễ cao.
"Ngã nhược tằng thị na giang nam thải liên đích nữ tử
Ngã hựu như hà xá đắc thác quá đích nhĩ giá nhất châm."
Lâm Thanh Đại cao hứng lẩm bẩm hai câu thơ yêu thích, rồi quyết định lui về phòng đóng cửa lại.
Đỗ Văn Hạo lên kiệu đi vào hậu cung. Vừa vào đến nơi, hắn đã nghe nói Chu đức phi đang muốn tìm mình có việc gấp.
Hắn với Đức phi đã kết bái tỷ đệ. Đỗ Văn Hạo biết tỷ tỷ kết nghĩa của hắn nếu không có việc gì gấp chắc chắn sẽ không làm phiền hắn. Giờ nàng ta sốt ruột tìm hắn như vậy nhất định là đã có chuyện gì đó xảy ra rồi. Đỗ Văn Hạo vội vã bước lên tấm thảm đỏ dẫn vào Chu đức phi tẩm cung.
Chỉ thấy Chu đức phi đang mặc một bộ quần áo lụa mỏng màu xanh biếc, trang sức trên đầu kêu rinh rinh có thể nghe thấy từ xa. Nàng đang đứng trước cửa, chắc là biết hắn đến nên ra trước để chờ.
“Nương nương tìm ta có chuyện gì vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Chu đức phi ánh mắt khẩn trương, chính mình cũng tự nhủ cần phải đi nhanh hơn nữa.
Chu đức phi ra dấu cho những cung nữ và thái giám đứng gần đó lui cả ra, rồi kéo Đỗ Văn Hạo đến chỗ cái ghế đá dài kê dọc theo hành lang. Khi cả hai đã yên vị trên chiếc ghế đó, Chu đức phi thấp giọng nói: “Văn Hạo, Lưu quý phi bị bệnh rồi”.
“Lưu quý phi ý hả? Ha ha, nàng ta mà bị bệnh thì tự khắc sẽ có người sốt ruột, không nhọc tỷ tỷ làm ơn. Nhìn tỷ tỷ kìa, sao mà phải cấp bách sốt ruột thế. Nàng ta mà bệnh thì thái y sẽ đến kiểm tra chữa trị mà”, Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa nói.
“Nếu chỉ có thế thì ta cần gì phải tìm đệ gấp gáp thế này. Ta vội vàng muốn nói cho đệ biết là bởi vì chuyện còn liên quan đến cả Dụ tài nhân nữa. Dụ tài nhân bị cho là cố ý ngã lên người Lưu quý phi, khiến quý phi bị động thai. Giờ không biết có giữ được hài tử đó không nữa. Hoàng Thượng đang tức giận lắm đó”.
“Hài tử nào cơ?” Đỗ Văn Hạo cả kinh. Mấy ngày hôm trước chính hắn đã đi kiểm tra sức khở cho Lưu quý phi, rõ ràng thấy nàng ta không mang thai, thế thì lấy đâu ra hài tử trong bụng cơ chứ? Không hiểu chuyện này rốt cục là như thế nào đây?
“Lưu quý phi không phải là đang mang bầu sao? Buổi sáng hôm nay, không biết trời xui đất khiến thế nào mà Dụ tài nhân lại vào ngự hoa viên chơi. Ta nghe cái người luôn ở bên hầu hạ Hoàng Thượng Trữ công công nói nàng ta gặp Lưu quý phi. Rồi không biết nói nhau những gì mà một lúc sau thấy Lưu quý phi ngã lăn ra đất, kêu gào thảm thiết”.
“Tại sao lại như thế được? Thế thái y chẩn bệnh nói sao?” Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy vô cùng ngạc nhiên.
“Đó… điều tệ nhất là Thái y viện nữ khoa thái y thừa Hạ Cửu Bà sau khi khám xong thì nói Lưu quý phi trong bụng đang mang thai một hài tử trong khi chính đệ là người khẳng định Lưu quý phi không hề mang thai.
Giờ thì Đỗ Văn Hạo đã hiểu ra mọi chuyện. Rõ ràng hắn đã khám cho Lưu quý phi cẩn thận, nên mới để Dụ Cáp Nhi khẳng định chắc chắn nàng ta không mang thai. Vậy chẳng lẽ Lưu quý phi thông đồng với Hạ Cửu Bà muốn hãm hại Dụ Cáp Nhi sao? Dù sao Lưu quý phi ở trong cung cũng được một thời gian khá lâu rồi, tất nhiên sẽ có quan hệ tốt với Thái y viện nên không thể loại trừ khả năng này. Bảo sao Chu đức phi lại vội vã tìm hắn đến thế. Chuyện này nếu không giải quyết cẩn thận khéo sẽ thành to chuyện đây.
Nghĩ xong, Đỗ Văn Hạo nói với Chu đức phi: “Đa tạ tỷ tỷ. Ta biết rồi.”
“Văn Hạo, rốt cuộc là có chuyện gì đang xảy ra hả? Ta thì ta tin tưởng vào đệ, nhưng những gì Hạ Cửu Bà nói thì… Ta không biết nghĩ sao cho phải nữa”.
“Tỷ tỷ không cần lo lắng quá. Đệ đi ngay đây, đừng để người khác nhìn thấy đệ vào đây mà rồi liên lụy đến tỷ tỷ”, Đỗ Văn Hạo vừa nói vừa đứng dậy chuẩn bị rời đi.
Chu đức phi kéo tay Đỗ Văn Hạo nói: “Ta sợ cái gì đâu. Cứ nói đệ đến đây xem bệnh cho ta là được chứ gì. Nhưng tốt nhất đệ cũng nên đi đi. Mấy người tay chân của nương nương chắc chắn đã thấy đệ đi vào đây rồi. Thể nào Hoàng thượng cũng cho người truyền gọi đệ ngay thôi”.
Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy cảm động, đang định thi lễ cảm tạ Đức phi thì bỗng thấy một cung nữ vội vã chạy tới, chỉ ra ngoài cửa nói: “Nương nương, Hoàng thượng phái người đến tìm Đỗ đại nhân, lệnh cho Đỗ đại nhân phải lập tức đến đồng cung Lưu quý phi”.
Chu đức phi vỗ vỗ vào vai Đỗ Văn Hạo nói: “Thôi đi đi, đừng sợ gì cả. Trong cung còn có tỷ tỷ ta đây. Nếu có người muốn gây khó dễ cho đệ, bất quá ta sẽ đến tìm Thái Hoàng Thái Hậu với Hoàng Thái Hậu để cầu xin cho đệ”.
Đỗ Văn Hạo hướng về phía Chu đức phi nở nụ cười cảm kích rồi cất bước đi về phía cửa.
Hắn vội vàng chạy tới chỗ Lưu quý phi đồng cung. Còn chưa vào đến nơi, tai hắn đã nghe thấy tiếng kêu như heo bị chọc tiết của Lưu quý phi: “Ôi chao Hoàng thượng ơi, thần thiếp đau đến chết mất thôi. Nếu đúng là thần thiếp đã mất đi hài tử trong bụng thì thần thiếp cũng không muốn sống nữa. Tiểu….”
Đỗ Văn Hạo đi qua cánh cửa, chỉ thấy Lưu quý phi tóc tai xõa xượi áo sống xô lệch nằm trên giường. Tống Thần Tông ngồi ở phía trước giường, mặt đượm vẻ u sầu. Dụ Cáp Nhi đứng gần phía cửa. Cạnh nàng ta không ai khác mà chính là Hạ Cửu Bà của Thái y viện.
“Vi thần tham kiến Hoàng thượng”, Đỗ Văn Hạo tiến lên thi lễ.
Tống Thần Tông ngẩng đầu lên nhìn Đỗ Văn Hạo nhưng vẫn chưa nói gì. Nhưng Lưu quý phi vừa nhìn thấy hắn đã kêu lên một tiếng vừa dài vừa thảm thiết nghe rất bi thương. Tống Thần Tông thấy vậy thì nhíu mày, đứng dậy bước về phía Đỗ Văn Hạo, trầm giọng nói: “Đỗ ái khanh, có đúng là mấy ngày hôm trước chính khanh đã thăm bệnh cho Lưu quý phi nương nương không?”
“Khởi bẩm Hoàng thượng, đúng là năm ngày trước vi thần có qua thăm bệnh cho Lưu quý phi nương nương”, Đỗ Văn Hạo vừa nói vừa nhìn qua chỗ Lưu quý phi, chỉ thấy nàng ta quay đầu qua lại, tiếp tục kêu lên những tiếng bi thảm.
“Lúc đó, hình như khanh đã kết luận là Lưu quý phi không hề mang thai?” Tống Thần Tông nói, hung hăng nhìn chằm chằm vào Dụ Cáp Nhi.
Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói mà không hề có chút do dự: “Đúng vậy. Lúc đó vi thần có nói với Lưu quý phi rồi. Bình thường thì nguyệt sự của người không đều và không hề có dấu hiệu đang mang thai long tử. Vi thần cũng có kê cho Quý phi một đơn thuốc giúp điều kinh”.
“Ta đã nói rồi, Quý phi thật sự không mang thai”, Dụ Cáp Nhi đứng gần đó thấp giọng nói.
“Ngươi câm miệng ngay cho ta”, Tống Thần Tông quát lớn. “Đỗ ái khanh, trẫm trước giờ vẫn tin tưởng vào y thuật của khanh, nhưng có khả năng nào là khanh lúc đó đã bắt mạch rồi chẩn bệnh nhầm cho Quý phi nương nương không?”
Đỗ Văn Hạo lãnh đạm cười một tiếng nói: “Tâu Hoàng thượng, nếu như ngay cả một hỉ mạch mà vi thần cũng không nhận ra thì vi thần quả không xứng để xưng làm ngự y”
Tống Thần Tông gật đầu, sắc mặt vẫn lộ rõ vẻ nửa tin nửa ngờ. Dù sao thì chuyện này cũng có dính dáng, liên lụy đến hài tử của chính mình. Tống Thần Tông liên tiếp đã có sáu bảy nam tử bị chết yểu nên ngài rất coi trọng sự an nguy khi có nương nương nào đó mang bầu.
Đỗ Văn Hạo dần hiểu ra mọi chuyện. Liếc mắt nhìn Lưu quý phi đang nằm trên giường, hắn cười nhẹ rồi cất tiếng: “Hoàng thượng, muốn biết Lưu quý phi có mang thai Long tử không vi thần có một biện pháp rất dễ dàng thực hiện.”
Tống Thần Tông lập tức nói: “Nói mau. Đơn thuốc gì cơ?”
Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn Hạ Cửu Bà. Khi đến bên cạnh bà ta, hắn vừa cúi khom người vừa cất tiếng nói: “bà nói Lưu quý phi đang mang bầu đúng không?”
“Đúng vậy”, Hạ Cửu Bà khẳng định một cách chắn chắn, rồi thản nhiên liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo lại đi về phía giường Lưu quý phi hỏi: “Mấy ngày trước đây khi ta kê đơn thuốc cho nương nương, nương nương có sử dụng qua chưa?”
“Rồi. Hạ đại nhân nói đơn thuốc mà ngươi kê đó một mặt có tác dụng làm hư thai!”
Tống Thần Tông nghe vậy chợt cau mày lại. Hành động này diễn ra rất nhanh, nhưng không thể qua mắt được Đỗ Văn Hạo. Trong lòng không khỏi bị chấn động, Tống Thần Tông trầm giọng nói: “nói như vậy chứng tỏ rằng chính là vì đơn thuốc của Đỗ Văn Hạo mà Lưu quý phi nương nương bị sảy thai sao?”
“Chắc Đỗ đại nhân không cố tình mà chỉ bất cẩn chút thôi. Người nào trong cuộc sống cũng có lúc phạm phải sai lầm mà”, Hạ Cửu Bà nhìn Đỗ Văn Hạo cung kính trả lời.
Đỗ Văn Hạo xoay người đối mặt với Tống Thần Tông nói: “Vi thần tự tay kê đơn thuốc nên không thể không rõ về nó. Nếu thật sự là Lưu quý phi đang mang thai, như vậy đơn thuốc của vi thần quả thật là có hiềm nghi”.
Tống Thần Tông nghe xong thì nhíu đôi mày rậm lại có vẻ không hiểu gì: “Đỗ ái khanh nói thế là sao trẫm không hiểu?”
Lưu quý phi vẫn đang kêu rên thảm thiết trên giường nhưng vẫn luôn để ý không bỏ qua lời nào trong câu chuyện của bọn họ. Vừa nghe Hoàng thượng nói vậy, nàng ta lập tức ngồi dậy nói: “Hoàng thượng, thần thiếp sớm biết Dụ Cáp Nhi với Đỗ đại nhân có quan hệ không bình thường, ai ngờ họ câu kết dở trò. Bởi vì một lần, thần thiếp không cẩn thận nên lỡ lời nói nàng ta một câu rằng nàng ta đang diễn trò. Chắc là vì thế nên Dụ Cáp Nhi vẫn ghi hận thần thiếp. Hơn nữa, thần thiếp cũng có nghe thấy người khác nói Dụ Cáp Nhi muốn tìm người gây hại cho hài nhi trong bụng thần thiếp. Ôi Hoàng thượng ơi, hài tử mà không còn thì thần thiếp không còn muốn sống nữa. Ngài phê chuẩn cho thần thiếp được chết đi. Đằng nào cũng sẽ có người thay thế rồi, thần thiếp có chết cũng không oán trách mà.
Tống Thần Tông nghe xong những lời này của Lưu quý phi thì đôi lông mày đang nhíu chặt đã giãn ra được chút ít. Ngài quay sang nhìn Đỗ Văn Hạo cất tiếng hỏi: “Đỗ ái khanh, trẫm muốn nghe khanh giải thích mọi chuyện xem nào?”
Đỗ Văn Hạo thần sắc không hề thay đổi, khom người nói: “Là như thế này, thưa Hoàng thượng…”
“Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu nương nương giá lâm! Chu đức phi nương nương giá lâm!” bỗng từ ngoài cửa có thanh âm bén nhọn cất lên.
Mọi người cả kinh, vội vàng tách ra đứng sang hai bên khom người thi lễ. Tống Thần Tông vội vàng ra ngoài nghênh đón, quả nhiên thấy Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu cùng Hoàng Hậu nương nương. Ngoài ra lại còn có thêm Chu Đức phi nương nương đang bước nhanh đến. Nhóm hộ tống của Hoàng thái hậu dẫn đầu là Tiêu công công thì đi sau đó.
“Nãi nãi, sao người lại đến đây vậy?” Tống Thần Tông vội vàng tiến lên thi lễ. Trong phòng Lưu quý phi lúc này đã im bặt những tiếng kêu thê lương.
Thái hoàng thái hậu đi vào trong phòng, liếc mắt thấy Lưu quý phi đang nằm trên giường thì cất giọng hỏi: “Mọi chuyện thực ra là thế nào vậy?”
Lưu quý phi nghe Thái hoàng Thái hậu hỏi như vậy, định mở miệng nói điều gì đó nhưng lại bị Dụ Cáp Nhi đưa tay lên giữ chặt miệng lại khiến nàng không thể nói nên lời.
Thái hoàng Thái hậu đi tới chỗ Đỗ Văn Hạo, hỏi: “ngươi nói xem có chuyện gì?”
“Bẩm Thái hoàng thái hậu, Lưu quý phi thật sự không mang thai. Hơn nữa, vi thần còn có biện pháp chứng minh cho kết luận này của mình”.
Thái hoàng Thái hậu nhìn hắn chăm chú trong chốc lát rồi gật đầu nói: “Ai gia tin tưởng ngươi không chẩn bệnh sai. Ngươi không cần phải lo lắng. Ngươi đứng sang một bên đi, Ai gia tự có lý luận của mình”.
“Vi thần tuân chỉ”, Đỗ Văn Hạo khom người nói.
Thái hoàng Thái hậu bước tiếp về phía Hạ Cửu Bà đang quỳ gần Hoàng thái hậu nói: “Hạ đại nhân, ngươi là thái y của Thái y viện. Mấy hài tử của Hoàng Thái hậu cũng đều do ngươi tiếp sinh đúng không?”
“Dạ đúng như vậy thưa Thái hoàng Thái hậu.” Hạ Cửu Bà kính cẩn trả lời.
“Ừ, nếu cũng đều là người của Thái y viện, loại chuyện này chúng ta hôm nay sẽ không thể không tra rõ ngọn ngành. Văn Hạo, ngươi mới nói có một đơn thuốc mang ra thử một lần, có thể biết ngay trong bụng Lưu quý phi có phải là đang mang hài tử hay không. Biện pháp đó là gì, hãy nói ra để mọi người cùng nghe một chút đi.”
“Vi thần tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo đáp lời Thái hoàng Thái hậu rồi thản nhiên nói tiếp, “nếu Lưu quý phi nương nương và Hạ đại nhân cùng nói là quý phi mang thai và hài tử trong bụng hiện không thể cứu được, vậy biện pháp của vi thần rất đơn giản, dùng đọa thai dược!” (Thuốc nạo thai đó bà con)
“Cái gì? Ngươi nói cái gì?” Hạ Cửu Bà nghe thấy vậy thì không nhịn được, kêu to lên, “thai nhi của quý phi nương nương chính là long thai đó…”
Thái hoàng Thái hậu phất tay nói: “Không cần lo lắng, Ai gia cảm giác là có thể, nếu không thể giữ được vậy đằng nào cũng thế thôi, đây chính là biện pháp tốt nhất để chứng minh Đỗ Văn Hạo trong sạch.”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy vô cùng cảm kích Thái hoàng Thái hậu, chắp tay tạ ơn rồi chỉ lên đầu mình nói: “Tạ ơn Thái hoàng Thái hậu, vi thân nguyện ý lấy đầu mình đảm bảo. Nếu sau khi dùng đọa thai dược, Quý phi nương nương sản ra hài tử, vi thần lập tức tự sát để tạ tội!”
“Tự sát? Ngươi cũng khôn đấy nhỉ!” Lưu quý phi đầy giọng oán hận nói, “Mình ngươi chết là đủ sao? Không mang cửu tộc nhà ngươi tru diệt thì làm sao có thể hả hết mối hận trong lòng ta?”
“Vi thần chấp nhận mọi sự trừng phạt!” Đỗ Văn Hạo lạnh lùng trả lời, “bất quá, đây là vi thần dùng tính mạng của người thân thích, họ hàng của mình ra đánh cược thì phải đảm bảo tuyệt đối công bằng. Vi thần kính đề nghị Thái hoàng Thái hậu chỉ định một người làm trọng tài, đồng thời cũng xin Thái hoàng Thái hậu cắt cử người tiến hành giới nghiêm toàn diện nơi tẩm cung của quý phi nương nương, nghiêm cấm không cho ai ra vào cho đến khi kết quả cuối cùng được công bố để tránh có người giở trò. Mặt khác, cũng mời mấy bà đỡ ở ngoài cung vào để làm chứng cho khách quan, những người này sẽ đồng thời kiểm tra hạ vật của nương nương, xác định xem đó có phải là thai nhi hay không!”
Lưu quý phi nghe vậy thì trợn ngược lên, hung tợn nói: “Thúi lắm! Ý ngươi đây là…”
Thái hoàng Thái hậu lập tức khoát tay chặn lại, thản nhiên nói: “Chủ ý này cũng có lý! Sự tình đến mức này rồi thì cứ làm như vậy đi, dù sao Đỗ đại nhân cũng đã mang cửu tộc của mình ra đảm bảo rồi. Vậy chuyện này cứ giao cho Hoàng hậu nương nương phụ trách làm đi, Hoàng Thượng nghĩ thế nào?”
Đỗ Văn Hạo chữa trị khỏi căn bệnh hành hạ Hoàng hậu cả chục năm trời, khiến nàng lại được sự ân sủng của Hoàng Thượng. Hoàng hậu đối với hắn muốn cảm kích rơi nước mắt, đương nhiên tình cảm thân thiết với hắn sẽ không ở mức bình thường. Thái hoàng Thái hậu tiến cử Hoàng hậu đương nhiên có tính đến việc này và đây cũng là việc khiến Đỗ Văn Hạo thêm phần cảm kích Thái hoàng Thái hậu.
Tống Thần Tông đương nhiên đối với Thái hoàng Thái hậu nói sao nghe vậy, càng huống chi Hoàng Thượng cũng muốn kết quả chính thức, nên không phải đối gì: “Được, nếu lão tổ tông cũng đã nói như vậy thì cứ theo đó mà tiến hành đi.”
Thái hoàng Thái hậu gật đầu rồi nói: “Trước khi tiến hành việc này, cũng cần phải nói rõ thêm, Đỗ Văn Hạo, theo ngươi thì chuyện này khi nào có thể tra rõ xong?”
“Hôm nay dùng đọa thai dược thì trong vòng ba ngày nhất định có kết quả.” Đỗ Văn Hạo nói rồi lại quay sang Hạ Cửu Bà nói: “Hạ đại nhân, ngươi có ý kiến gì không?”
Hạ Cửu Bà cũng không dám nói lung tung, cái trán mồ hôi lạnh lấm tấm, run run giọng nói: “Cái này… đại.. Đỗ đại nhân nói không sai.”
Tống Thần Tông cũng không để ý nhiều, hướng hai người Đỗ Văn Hạo và Hạ Cửu Bà nói: “Trong mấy ngày này Đỗ ái khanh và Hạ ái khanh không thể rời khỏi kinh thành, sẽ có người thủ hộ hai ngươi, tạm thời hai ngươi chịu ủy khuất một chút vậy.”
“Dạ bẩm Hoàng Thượng, vi thần thì không sao, nhưng chỉ sợ là bệnh của Tư Mã đại nhân không thể chậm trễ được.” Đỗ Văn Hạo vẫn cẩn thận nói.
“Không sao, chờ một chút không có vấn đề gì, lâu như vậy còn đợi được, giờ chỉ có ba ngày thôi, không phải lo lắng.”
Thái hoàng Thái hậu cũng tiếp lời: “Được rồi, cứ quyết như vậy đi, Đỗ đại nhân, ngươi mau mau cấp thuốc cho quý phi nương nương đi.”
“Vâng!” Đỗ Văn Hạo khom người đáp ứng.
Lưu quý phi lúc này mới thực sự hoảng sợ, lắp ba lắp bắp nói: “Thái hoàng Thái hậu…”
“Không cần phải nhiều lời! Ai gia đã quyết định làm như vậy rồi, không còn gì để bàn nữa.” Thái hoàng Thái hậu đứng dậy, quay đầu lại nhìn Lưu quý phi một chút, thấy ánh mắt nàng ta lộ rõ vẻ bối rối thì không khỏi cười lạnh một cái. Sau đó bà quay sang Hoàng hậu nương nương nói: “Nơi này giờ giao cho ngươi cùng tiểu Tiêu tử, phải nhớ rõ, cho dù là một con chuột nhắt cũng không được phép tới gần quý phi nương nương.”
“Vâng!” Hoàng hậu nương nương và thái giám tổng quản Tiêu công công đồng loạt khom người đáp ứng.
Thái hoàng Thái hậu đi tới bên người Đỗ Văn Hạo, nhẹ nhàng vỗ vỗ bờ vai của hắn rồi dẫn theo Dụ Cáp Nhi dời đi.
Hạ Cửu Bà vừa thấy bóng đoàn người của Thái hoàng Thái hậu rời đi khỏi tầm mắt thì vội vàng hướng Tống Thần Tông nói: “Hoàng Thượng, việc này không công bằng chút nào, thân thể Lưu quý phi bây giờ vô cùng bạc nhược, làm sao có thể chịu đựng được sự dằn vặt của thuốc đọa thai, hay là trước hết cứ tìm cách chữa khỏi bệnh cho nương nương đã?”
“Không nói nhiều nữa, làm theo ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu!” Tống Thần Tông thậm chí còn không buồn liếc mắt nhìn Hạ Cửu Bà một cái, phất tay áo bào rời đi ra cửa.
Lưu quý phi tuyệt nhiên không hề nghĩ mọi chuyện lại phát triển thành cái dạng này, vừa hận vừa sợ, bi thảm cất tiếng khóc xé gió gọi Hoàng Thượng: “Hoàng Thượng, Hoàng Thượng, người đừng đi, xin người đừng đi, người đi thần thiếp sẽ không sống được nữa đâu. Thái hoàng Thái hậu rõ ràng là thiên vị Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi, chính bụng của thần thiếp, thần thiếp phải biết rõ hơn người khác chứ?”
Tống Thần Tông nghe vậy thì dừng cước bộ, ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, nhưng không hề quay mặt lại, nói một câu: “Thái hoàng Thái hậu mang theo Dụ Cáp Nhi chính là vì không muốn cho nàng ta và Đỗ Văn Hạo có cơ hội tiếp xúc với nhau, ngươi không nên suy nghĩ nhiều. Nếu Thái hoàng Thái hậu đã để cho Hoàng hậu trông nom chuyện này, trẫm cảm giác không có gì gọi là không công bằng cả. Ngươi cứ yên tâm mà tĩnh dưỡng đi, nếu thật sự có người nghĩ muốn hãm hại hài tử của trẫm, trẫm quả quyết không buông tha, nhưng nếu không phải…” giọng Tống Thần Tông trở nên chậm rãi, chắc nịch, “trẫm cũng không để cho Đỗ ái khanh phải chịu ủy khuất!”
Dứt lời, Tống Thần Tông phất tay áo dứt khoát rời đi.
Hoàng hậu đợi cho Hoàng Thượng đi hẳn mới quay sang bọn cung nữ thái giám của Lưu quý phi, trợn mắt quát: “Còn không cuốn xéo ra khỏi đây? Chẳng lẽ các ngươi muốn bổn cung đem cả lũ ra đánh sao?”
Nghe lời này, cả đám nam nữ lập tức ôm đầu cúi người chạy ra như ong vỡ tổ.
Hoàng hậu khẽ phất tay lên một cái, lập tức đội cận vệ của Thái hoàng Thái hậu tự động tản ra, cứ ba bước một tốp, năm bước một trạm gác, đem tẩm cung của Lưu quý phi nương nương vòng trong vòng ngoài vây kín lại.
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã viết xong đơn thuốc cho đọa thai dược, đưa cho Hạ Cửu Bà xem qua, xác nhận không có nhầm lẫn gì mới giao cho viện thị ngự dược viên đi lấy thuốc, rồi sắc cẩn thận để mang tới cho Lưu quý phi.
Nhìn chén thuốc đọa thai trước mặt, Lưu quý phi đầy vẻ đáng thương đưa mắt nhìn Hoàng hậu, trong đầu suy nghĩ mọi cách làm sao để từ chối không uống chén thuốc này. Thế nhưng Hoàng hậu lạnh lùng nói: “Cho ngươi hai lựa chọn. Thứ nhất là tự mình đổ thuốc vào miệng mà uống, thứ hai là để người khác giúp ngươi uống.”
Để người khác giúp đương nhiên là trói giữ chân tay, mạnh mẽ bức há miệng rồi đổ thuốc vào, cái này chẳng sung sướng gì, kết quả cuối cùng vẫn là phải uống. Lưu quý phi hiển nhiên hiểu không còn cách nào khác nên bưng chén thuốc lên với vẻ mặt đau khổ cố gắng nuốt bằng hết.
Lúc này Đỗ Văn Hạo với mỉm cười, chắp tay sau lưng rời đi.
Trong phòng, Hạ Cửu Bà đứng dậy, đang muốn hướng tới bên giường Lưu quý phi thì nghe tiếng Hoàng hậu lạnh lùng: “Ngươi muốn làm gì? Ngươi mà bước gần thêm một bước nữa bổn cung sẽ kêu người dùng côn đánh tới chết!”
Hạ Cửu Bà nghe vậy thì vô cùng hoảng sợ, trong cung không ai là không biết tính tình của Hoàng hậu nương nương. Mặc dù hiện giờ căn bệnh của Hoàng hậu đã khỏi, nhưng không ai dám chắc cái tính nóng nảy bạ đâu đánh đó ngày trước đã khỏi hay chưa. Chính vì vậy, cẩn tắc vô áy náy, cứ giữ lấy cái mạng nhỏ của mình đã. Hạ Cửu Bà nghĩ vậy thì vội vàng lùi lại mấy bước, chỉ dám đưa mắt liếc nhìn Lưu quý phi, tỏ rõ sự bất lực.
Hoàng hậu nương nương chỉ vào Hạ Cửu Bà nói: “Người đâu, mang nàng ta ra ngoài, trông coi thật kỹ cho ta, nếu để xảy ra sơ suất gì thì bổn cung sẽ hỏi tội các ngươi.”
Hoàng hậu sau khi đuổi hết tất cả mọi người của Lưu quý phi ra ngoài, lại sai kiểm tra kỹ lưỡng còn ai hay không, có phát hiện dị thường gì hay không, bố trí cảnh giới đâu đó rồi mới quay sang Tiêu công công nói: “Nơi này giờ giao cho ngươi trông coi, Thái hoàng Thái hậu nói ngươi cũng đã nghe thấy rồi, xảy ra chuyện gì thì cả hai chúng ta đều không thoát đâu, khi ngủ cũng cố gắng mở mắt ra mà nhìn nàng ta! Có chuyện gì thì lập tức báo cho bổn cung.”
Tiêu công công kính cẩn tuân lời.
Hoàng hậu sau đó cũng rời đi khỏi phòng.
Chương 298: Nham biến (căn bệnh ung thư)
Lưu Quý phi hừ một tiếng rồi mát mẻ nói: “Ai dám làm phiền Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng hậu cơ chứ? Ta đâu dám để nô tài cao quý các ngươi chiếu cố đây?”
“Nương nương, thôi thì để mọi chuyện ổn thỏa, trước khi mọi chuyện rõ thực hư trắng đen, người cứ để đám nô tài chúng ta ở đây hầu hạ nương nương, mong nương nương chiếu cố.”
Lưu Quý phi nghe vậy thì khẽ giãy dụa ngồi dậy từ trên giường, tóc tai bù xù trông như một Mẫu Dạ Xoa, hai mắt trợn tròn hướng về phía Tiêu công công quát to lên: “Cái gì? Ngươi nói cái gì? Các ngươi sẽ hầu hạ ta sao? Ngay cả những thiếp thân cung nữ của ta cũng sẽ bị đuổi đi hết sao? Rõ ràng là ta bị ủy khuất, thế mà ta lại bị đối xử như là tội nhân vậy!”
Tiêu công công vẫn rất bình tĩnh. Ông ta không tỏ vẻ kiêu ngạo nhưng cũng không hề siểm nịnh Lưu Quý phi chút nào. Cúi khom người xuống, ông ta cất giọng: “Thiếp thân cung nữ của nương nương tạm thời không thể hầu hạ nương nương mấy ngày này, tạm thời thì cung nữ Ôn Bà của Hoàng hậu sẽ giúp nương nương. Nàng ta hầu hạ cũng tốt lắm, nương nương đừng lo”. Vừa nói, ông ta vừa vỗ tay mấy cái. Tức khắc từ ngoài cửa đi vào một người. Đó là một nữ tử cao lớn, vừa vào đã cất tiếng nói thô thô chào một tiếng “Nương nương”.
Lưu Quý phi thấy vậy thì ngẩn người ra. Đang định lên tiếng kêu gào thì thấy Ninh công công tay cầm phất trần, vẻ mặt vui vẻ bước vào, nàng ta bèn im bặt. Ôn Bà thấy Ninh công công bước vào thì cũng vội vàng bước sang một bên rồi khoanh tay đứng im đó.
Tiêu công công cùng Ninh công công đưa ánh mắt nhìn nhau một chút, rồi Tiêu công công nói: “Tốt lắm, ta sẽ đi xem còn có cái gì cần chuẩn bị nữa không. Ninh công công, ngài đến đây thật là tốt quá”. Nói xong, ông ta quay sang Ninh công công cười chào rồi bước đi ra cửa.
“Ninh công công, ông tới vừa đúng lúc lắm. Mau mau giúp ta đuổi mụ cung nữ hung thần ác sát này đi với. Ta không cần cung nữ nào khác đâu, chỉ muốn cung nữ của ta thôi. Ngươi đi nói với Hoàng thượng cho ta, tình cảnh của ta hiện giờ vốn rất đáng thương mà. Hài tử cũng không còn, vậy mà bọn họ còn đối xử với ta như vậy”. Lưu quý phi bù lu bù loa khóc tướng lên nói với Ninh công công, mong tìm được một sự trợ giúp nào đó.
“Nương nương hiện nay Hoàng thượng trong người cũng không được khỏe. Những chuyện thế này nô tài quả thật không dám làm phiền đến Hoàng thượng, mong nương nương thông cảm cho nô tài”, Ninh công công vẫn bình tĩnh, nhẹ nhàng đáp lời.
Lưu Quý phi vừa nghe xong tinh thần đã thấy rúng động, vội vàng hỏi: “Hoàng thượng có phải đang đau lòng cho ta không?”
“Đúng vậy, Hoàng thượng đương nhiên là rất đau lòng, nhưng lúc này người còn phải nhìn ý tứ của Thái hoàng Thái Hậu. Hoàng thượng dù sao cũng không thể bất hòa với Lão tổ tông của người được, nương nương nghĩ xem có đúng không ạ?” Ninh công công vừa nói vừa cười, đi tới bên giường Lưu Quý phi ngồi xuống.
Lưu Quý phi nghe xong những lời này nhất thời như bị chấn động tinh thần, co quắp ngồi liệt ở trên giường, mắt rưng rưng chuẩn bị khóc òa lên lần nữa. Ninh công công thấy thế, sợ rằng Lưu Quý phi sắp sửa khóc rống lên liền vội vàng đứng dậy, lùi ra xa một chút, khuôn mặt tươi cười rồi cất tiếng nói: “Hôm nay nô tài đến là muốn nói cho nương nương hay biết Ôn Bà là người do Hoàng Hậu chọn lựa và gửi đến đây hầu hạ nương nương. Hoàng Hậu sợ nương nương trong người đang không khỏe, đứng dậy, đi lại khó khăn nên phải chọn người to khỏe một chút. Ôn Bà sức khỏe hơn người, có thể nâng cả tảng đá nặng hai trăm cân ý chứ nên chắc sẽ hầu hạ được nương nương rất tốt. Nương nương không phải lo lắng nhiều đâu, cứ yên tâm nghỉ ngơi tĩnh dưỡng thôi”. Nói xong, ông ta phẩy tay, đảo phất trần rồi xoay người bước đi, mặt vẫn còn tủm tỉm cười.
Đi ra đến ngoài cửa, Ninh công công lập tức trầm mặt, kêu hai thái giám canh cửa cùng Ôn Bà đến rồi thấp giọng dặn dò: “Các ngươi làm việc cho nghiêm túc. Nếu có chuyện gì không hay xảy ra thì các người khó mà giữ được mạng sống của mình đó”.
“Nô tài hiểu rồi ạ”, tên thái giám nói.
“Nô tỳ hiểu ạ”, Ôn Bà cũng vội đáp lời.
Ninh công công đi xuống cầu thang. Trước khi rời đi, ông ta quay đầu, nhìn lại cửa phòng Lưu Quý phi cười lạnh một tiếng rồi thấp giọng tự nhủ: “Ngươi nghĩ ngươi là ai cơ chứ. Đỗ Văn Hạo thì là ân nhân của ta, tài nhân cũng đã cùng ta kết bái huynh muội! Ngươi mở to mắt xem đã chọc vào ai. To gan thật”, vừa nói, ông ta vừa nghênh ngang bước đi.
Đỗ Văn Hạo về nhà, phía sau hắn hôm nay có thêm mười mấy thị vệ. Ngày thường, Đỗ Văn Hạo luôn biết lấy lòng tất cả mọi người. Hắn thậm chí còn bỏ công xem bệnh miễn phí cho các thị vệ lẫn người nhà họ nên bọn họ đối với hắn ta luôn rất cảm kích. Hôm nay, tuy những thị vệ này đang làm cái việc canh giữ hắn, nhưng suốt dọc đường đi, bọn họ cùng Đỗ Văn Hạo nói chuyện rất vui vẻ. Cười cười nói nói một lúc đã về đến nhà.
Thủ lĩnh thị vệ vui vẻ vuốt cái bụng mình nói: “Đỗ đại nhân, tuy chúng ta đang làm việc thật nhưng bụng thì đói lắm rồi. Chúng ta chẳng ý tứ gì đâu, Đỗ đại nhân đừng có tiếc chúng ta chút thịt rượu đấy nhá”.
Đỗ Văn Hạo cười to nói: “ngày thường bao người trong nhà chẳng có ai chịu tiếp rượu ta cả, hôm nay các ngươi tới thật tốt quá, ta có cơ hội thỏa mãn cơn thèm rượu của mình rồi. Vậy chẳng phải hay lắm sao?”
Mọi người nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì đều phá lên cười, nói: “thế thì chúng ta phải cho Đỗ đại nhân sảng khoái một bữa mới được. Mười mấy huynh đệ hôm nay coi như nghỉ ngơi đi, chúng ta cùng Đỗ đại nhân thư giãn một bữa cho thật thoải mái nào”.
“Không có vấn đề gì. Chúng ta đi thôi”, Đỗ Văn Hạo nói rồi mời mọi người vào nhà.
Người ở Ngũ Vị Đường bỗng chốc thấy quan binh ở đâu đến nhiều như vậy thì bất ngờ, chưa biết phản ứng thế nào. Lâm Thanh Đại đang muốn tiến lên hỏi bỗng thấy Đỗ Văn Hạo cũng có mặt trong đám quan binh đó, tay còn bá vai, bá cổ mọi người, vừa đi vừa cười cười nói nói rất chi là vui vẻ.
“Văn Hạo, là khách của ngươi mời đến à?” Lâm Thanh Đại tiến lên hỏi Đỗ Văn Hạo.
“Tỷ mau mau vào kêu Cầm nhi thu xếp cho ta mười gian phòng hảo hạng để các vị huynh đệ đây nghỉ ngơi. Sau đó xuống nói nhà bếp chuẩn bị những món ăn ngon nhất, đem cùng những vò rượu hảo hạng nhất lên đây cho ta”.
Lâm Thanh Đại thấy nhiều người như vậy nên không tiện hỏi thêm. Tuy rất tò mò nhưng cũng đành bỏ đấy, vội chạy vào hậu viện chuẩn bị những việc mà Đỗ Văn Hạo vừa giao phó.
Ba ngày sau đó, trong cung cử người kêu Đỗ Văn Hạo vào ngay, nói Lưu Quý phi có chuyện.
Đỗ Văn Hạo ngay lập tức lên đường vào cung. Thái hoàng Thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng thượng, Hoàng Hậu, Dụ Cáp Nhi cùng Hạ Cửu Bà, tất cả những người liên quan đều đã có mặt đầy đủ.
Thái hoàng Thái hậu hòa ái hướng về phía Đỗ Văn Hạo vẫy tay nói: “Đỗ Văn Hạo, Ai gia đang chờ ngươi đó. Mau đến đây ngồi cạnh Ai gia đi”. Đỗ Văn Hạo vội vàng đi về phía Thái hoàng Thái hậu đang chỉ, bên kia người là chỗ của Hoàng thượng và Dụ Cáp Nhi.
Đỗ Văn Hạo tiến lên thi lễ chào Thái hoàng Thái hậu cùng mọi người, sau đó mới đi đến chỗ ngồi mà Thái hoàng Thái hậu dành cho mình.
“Tốt lắm, vậy là mọi người đều đã đến đông đủ cả rồi, Hoàng Hậu, ngươi có thể bắt đầu việc của mình rồi”, Thái hoàng Thái hậu quay về phía Hoàng Hậu nói.
“Dạ bẩm Lão tổ tông xin người chờ chút. Con sẽ kêu người mang những gì mà Lưu Quý phi thải ra ngay đây”, Hoàng Hậu sau khi nói xong câu này thì vội vàng móc từ trong túi ra một cái khăn thơm bịt kín mũi của mình lại.
Ngay sau đó, một người cung nữ nhưng bộ dạng có vẻ đã già từ trong nội thất cung Lưu Quý phi đi ra, theo sau bà ta là hai cung nữ khác. Một người trong họ cầm một cái thùng gỗ. Từ trong thùng bốc ra một mùi hôi thối vô cùng kinh tởm khiến tất cả mọi người trong phòng đều không thể chịu nổi. Tống Thần Tông vội lấy tay bịt mũi, tay kia phất phất như muốn xua cái mùi khó chịu đó đi, chán ghét nói: “các ngươi mang cái này vào đây làm gì, không mau vứt ngay đi, thối chết người đi được”.
Thái hoàng Thái hậu cau mày, bịt kín mũi nói: “Chớ vội. Hoàng thượng cũng cố nhịn một chút, hôm nay dù gì cũng phải làm rõ trắng đen mọi chuyện mới được”.
Hoàng Hậu lúc này đang cố đứng gần cửa cho đỡ mùi, lên tiếng nói: “Hoàng thượng, trong cái thùng đó là tất cả những gì thải ra từ trong bụng Lưu Quý phi trong ba ngày qua”.
“Nhanh nhanh nói rõ ra xem nào. Đừng có dài dòng như thế, Ngươi muốn đầu độc tất cả mọi người ở đây sao”.
Hoàng Hậu cười trộm: “vâng, mấy ngày hôm nay Ổn Bà là người hầu hạ Lưu Quý phi rất cẩn thận, tất cả những gì Lưu Quý phi thải ra đều được cất giữ trong cái thùng này. Hay là để bà ta nói cho công bằng”.
“Được rồi ai nói cũng được. Mau lên không ta sắp không chịu được nữa rồi”.
Ổn Bà nghe vậy vội vàng tiến lên phía trước, dập đầu nói: “Khởi bẩm Hoàng thượng, lão thân cùng năm cung nữ khác được Hoàng Hậu sắp xếp cho đến đây hầu hạ Lưu Quý phi, trong ba ngày đêm vừa rồi đã cố gắng hết sức hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trong mấy ngày đó không hề thấy nương nương bị đau bụng hay làm sao. Tất cả những thứ nương nương thải ra cũng không thấy có gì bất thường, không có dấu hiệu gì của thai nhi cả”.
“Các ngươi đã kiểm tra thật cẩn thận chưa đấy?” Thái hoàng Thái hậu nghiêm giọng, lên tiếng hỏi.
Nhận thấy thái độ đã có chút nghiêm trọng hơn mức bình thường của Thái hoàng Thái hậu, Ổn Bà vội vàng xoay người về phía Thái hoàng Thái hậu run run nói: “Lão thân thật không dám có chút sơ suất nào. Hàng ngày lão thân đều một mực chăm chú để ý đến Lưu Quý phi, một khắc cũng không dám rời. Lưu quý phi mà có kêu ca gì lão thân chắc chắn sẽ biết ngay lập tức. Nhưng thật sự là không có ạ”.
“Nếu như vậy, chúng ta đi ra chỗ nào khác nói chuyện thôi. Gian phòng này ô uế mùi không thể chịu được. Cho mang cái thứ uế vật kia đi ngay đi”, nói xong, Thái hoàng Thái hậu đứng ngay dậy, quay sang Đỗ Văn Hạo mỉm cười ra điều khích lệ rồi đưa tay khoát hắn đi theo, sau đó quay sang nhìn Tống Thần Tông một chút, rồi bước nhanh đi ra ngoài.
Tất cả mọi người cũng vội vàng đứng dậy đi theo Thái hoàng Thái hậu. Bước ra đến ngoài, Thái hoàng Thái hậu hít hà không khí tươi mát bên ngoài rồi lập tức sai cung nữ đóng cửa cung Lưu Quý phi lại cho thối khí khỏi bốc ra ngoài.
Thái hoàng Thái hậu dẫn mọi ngừơi tới ngồi ở Lương Đình Hạ. Tống Thần Tông thấy Hạ Cửu Bà đứng buông thong, nhưng không thấy rõ lắm vẻ mặt, nhân tiện nói: “Hạ Cửu Bà tiến lên đây ta hỏi chuyện”.
“Vâng, Hoàng thượng”, Hạ Cửu Bà nghe Hoàng thượng nói vội vàng tiến lên phía trước.
“Mới đó những gì Ổn Bà nói ngươi có nghe rõ không”.
Hạ Cửu Bà vội vàng quỳ phục trên mặt đất nói: “Hoàng thượng thứ tội, tất cả đều là lỗi của vi thần. Là do vi thần chẩn bệnh không đúng, vi thần tội đáng chết vạn lần”.
Dụ Cáp Nhi vừa cười lạnh vừa nói: “Hừ, Hạ Cửu Bà, lúc trước không phải ngươi một mực cam đoan trong bụng Lưu Quý phi có hài tử sao? Đỗ đại nhân còn hỏi lại ngươi thật cẩn thận, ngươi vẫn một mực khẳng định như vậy. Chính ngươi nói vì ta không may xô ngã nàng ta và vì Đỗ đại nhân cho nàng ta dùng Đọa thai dược nên nàng ta mới bị xảy mất hài tử trong bụng, có đúng như vậy không? Thế sao lúc đó ngươi không nói vi thần đáng chết mấy câu đầy vẻ thương hại này đi”.
“Vi thần… vi thần không biết ạ, chắc vi thần tuổi già vụng về nên chẩn bệnh không chính xác, mong nương nương rộng lượng mà….”
“Nếu tuổi già vụng về thì sẽ không muốn đi hại người như vậy. Ngươi hưởng bổng lộc của Hoàng thượng, vậy mà lại làm cái chuyện vô lương tâm này. Nếu không phải nhờ Đỗ đại nhân nghĩ ra cách kiểm tra như thế này thì chẳng phải mục đích xấu xa của ngươi đã thành hiện thực rồi sao?”
“Dụ Cáp Nhi”, Thái hoàng Thái hậu làm bộ nghiêm khắc mà trừng mắt nhìn Dụ Cáp Nhi một cái. “Mau lui ra, Hoàng thượng còn chưa lên tiếng ngươi đã ba hoa gì cơ chứ?”
“Dạ vâng”, Dụ Cáp Nhi nghe vậy bèn không nói năng thêm gì nữa, từ từ thối lui đứng sang một bên.
Tống Thần Tông trầm ngâm chốc lát rồi nói: “nói như vậy thì tất cả là do Hạ Cửu Bà chẩn bệnh nhầm, còn Đỗ ái khanh đã bắt đúng bệnh, có đúng không?”
“Dạ, đúng như thế ạ”, Hạ Cửu Bà lúc này mới dám ngẩng đầu lên một chút trả lời câu hỏi của Tống Thần Tông.
Đỗ Văn Hạo ngồi một bên một mực yên lặng không nói câu nào. Kỳ thực, hắn sớm biết mọi chuyện sẽ xảy ra như thế này. Bình thường lúc trước Dụ Cáp Nhi dù có nói trời nói biển gì hắn cũng không mấy khi để tâm, mà quả thật lúc đó hắn cũng chẳng còn lòng dạ nào để nghe cả, nhưng bây giờ, càng ngày hắn càng nhận ra Dụ Cáp Nhi không phải là loại người thích dành ân sủng tranh đoạt quyền. Nàng mới vào cung trong một thời gian ngắn, có vẻ cũng được lòng mọi người nhưng tại sao lại gây thù chuốc oán gì với Lưu Quý phi để nàng ta phải nhằm đích xác Dụ Cáp Nhi mà hãm hại như vậy. Nhưng nghĩ lại, hành động của Lưu Quý phi nếu thành công thì quả thật là một mũi tên mà trúng hai đích, vừa đánh được Dụ Cáp Nhi mà còn hạ được cả hắn nữa. Có thể do Lưu Quý phi biết hắn cùng Dụ Cáp Nhi cùng có mặt trong chuyến đi đến Đông Minh nên cho rằng hắn cùng Dụ Cáp Nhi là một phe. Giờ mà hạ được cả hai một lúc thì không phải là quá tốt sao? Ôi lòng dạ của độc phụ này quả thật là hiểm ác.
“Văn Hạo, tại sao khanh cứ ngồi im không nói năng câu nào vậy?” Thái hoàng Thái hậu thấy Đỗ Văn Hạo ngồi im một bên thì lên tiếng hỏi.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chuyện được giải quyết rõ ràng như vậy thì tốt quá rồi. Nếu như lỗi không phải của thần với Dụ nương nương thì thần cũng có gì để nói đâu”.
Đỗ Văn Hạo không nói bởi vì hắn biết làm thái y mắc sai lầm đôi lúc vẫn có thể chấp nhận được. Vậy nên lần này Hạ Cửu Bà đã đứng ra giúp Lưu Quý phi thoát khỏi chuyện này rồi. Hắn cũng không muốn làm mọi chuyện ầm ĩ hơn vì hắn thật ra cũng không có chứng cớ gì chống lại Lưu Quý phi cả. Vậy nên tốt nhất là im lặng, chẳng dại gì chuốc thêm họa vào thân.
Tống Thần Tông đứng dậy nói: “vậy là chuyện đã rõ ràng rồi, Đỗ ái khanh cũng đã giải được nỗi oan khuất. Hạ Cửu Bà chẩn bệnh sai, nói năng lung tung đúng là đáng ghê tởm. Phạt đánh Hạ Cửu Bà năm mươi trượng, cắt bổng nửa năm. Lưu Quý phi chưa rõ mọi chuyện đã đổ lỗi cho Đỗ ái khanh, đúng là không nên, phạt lệ ngân ba tháng, chuyển chỗ đó thưởng cho Đỗ ái khanh.”
Hạ Cửu Bà vội vàng dập đầu tạ ơn. Quân thần trong cung là thế đó, dù Hoàng thượng có ban thưởng hay phạt thì cũng vẫn là ân điển của Hoàng thượng. Có bị phạt nặng chừng nào đi chăng nữa thì cũng vẫn phải tạ ơn.
Sáng sớm ngày thứ hai, tại phủ đệ tiền Tư Mã Quang.
Mội cỗ xe lớn đang dừng trước cửa. Mấy nữ nhân dùng xe đẩy đẩy Tư Mã Quang từ trong phủ ra. Đây là những nữ nhân làm y tá trong Ngũ Vị Đường của Đỗ Văn Hạo. Gần đây, Ngũ Vị Đường đã được sửa sang, có thể gọi đó là một phòng giải phẫu chính thức nên Đỗ Văn Hạo cho tuyển thêm mấy người làm y tá. Họ đều được tuyển chọn và đào tạo về chuyên môn rất kỹ càng.
Tư Mã Quang nằm ngửa ở trên xe đẩy, ánh mắt có chút gì đó lo lắng, băn khoăn.
Hôm nay Đỗ Văn Hạo cho người tới phủ đệ của Tư Mã Quang, thông báo hắn đã chuẩn bị xong cho việc giải phẫu nên sẽ đưa Tư Mã Quang sang để chữa trị. Dù sao đây cũng là một phương pháp trị liệu vô cùng lạ lẫm mà Tư Mã Quang chưa từng biết qua nên ông ta cũng không muốn công bố rộng rãi chuyện của mình. Ông ta chỉ đi sang có một mình, không có người thân hay bạn bè nào đi cùng. Những người này cũng không hề biết hôm nay Tư Mã Quang sẽ được phẫu thuật, thậm chí ngay cả Hoàng thượng cũng không hề hay biết.
Trong chuyện này Đỗ Văn Hạo cũng có cùng quan điểm với Tư Mã Quang. Hắn đột ngột sai người tới báo gấp cho ông ta rồi quyết định phẫu thuật ngay lập tức, cũng là muốn tránh cho mọi người tập trung đến xem náo nhiệt, ảnh hưởng đến sự tập trung của mình.
Đỗ Văn Hạo cũng đang đi theo xe đẩy. Hắn mỉm cười với Tư Mã Quang, nói: “Tư mã đại nhân, ngài cảm thấy sao rồi? Có lo lắng sốt ruột không?”
Tư Mã nghe xong mặt giãn ra một chút. Ông ta cười hắc hắc: “Lão hủ đã chuẩn bị chỗ chôn cho mình rồi thì có gì mà phải lo lắng nữa đây”.
“Vậy là tốt rồi, ông cứ yên tâm đi. Ta sẽ cố gắng hết sức, nhất định sẽ có thể chữa khỏi bệnh cho ông”, Đỗ Văn Hạo mỉm cười trấn an
Tư Mã Quang mắt nheo nheo mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo trêu chọc nói: “chữa không hết cũng không sao. Tiểu lão đệ chỉ cần vứt cái trái tim ở trong bụng ta đi thì cho dù có chết trên bàn mổ, biến thành quỷ liễu cũng không thể tìm đến ngươi mà đòi mạng được. ha ha”
Đúng lúc này, bỗng từ ngoài cửa xuất hiện một người vội vã chạy vào. Đó là một nam tử trung niên, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vừa thấy Tư Mã Quang nằm trên xe đẩy đã chạy vọt tới đứng bên cạnh lão rồi lắp bắp hỏi: “Lão gia! Lão gia ngài định đi đâu vậy?”
Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu lên để có thể nhìn kỹ nam tử đó hơn. Vừa thấy mặt hắn ta, Đỗ Văn Hạo đã giật mình sửng sốt. Lộ rõ trên mặt nam tử đó là một đạo đao ba trông rất đáng sợ, giúp Đỗ Văn Hạo nhận ran gay đây là người mình từng gặp qua. Mà đó không phải ai khác, chính là người đã theo dõi hắn lần trước, từ khi hắn bước lên xe ngựa cho đến khi hắn quyết định vào trà lâu rồi dùng kế kim thiền thoát xác để “cắt đuôi”. Lúc ấy đứng sau cánh cửa Đỗ Văn Hạo đã có cơ hội quan sát kỹ càng con người đó nên giờ đây hắn dễ dàng nhận ra ngay. Ngay những gì hắn ta vừa nói với Tư Mã Quang thì có thể thấy hắn chính là phó tòng của Tư Mã Quang.
Quả nhiên, Tư Mã Quang cười mà đáp lại lời hắn: “Ngươi đã trở về sao? Ta không có việc gì. Đỗ ngự y sẽ chữa bệnh cho ta, giờ ta đang chuẩn bị qua phủ hắn”.
“Đỗ đại nhân, vị này là quản gia ở phủ của ta, cũng là một người họ hàng thân thích. Anh ta cũng mang họ Tư Mã, tên chỉ có một chữ Đạo. Mấy hôm trước đây nhà anh ta có việc gấp nên phải lên đường về quê vài ngày”.
Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Hóa ra ngài là Tư mã quản gia, quả là biệt lai vô dạng”.
Tư Mã Đạo vừa mừng vừa sợ, vội chắp tay đáp lễ: “Đỗ ngự y sẽ giúp lão gia nhà ta chữa bệnh sao? Vậy thật tốt quá”.
“Đúng vậy. Chẳng lẽ lần trước ngươi theo dõi ta chính là muốn tìm ta đến xem bệnh cho lão gia nhà ngươi sao?” Đỗ Văn Hạo hỏi ngay.
“Ha ha đúng là như thế.” Tư Mã Đạo dáng vẻ ngượng ngùng đáp.
“Nếu thế vì sao không nói thẳng cho ta biết mà cứ hết lần này tới lần khác đi theo dõi ta từ xa?’
“Cái này…” Tư Mã Đạo có chút ngập ngừng chưa biết trả lời sao, mắt liếc sang nhìn cái xe đẩy cùng với Tư Mã Quang.
Tư Mã Quang cười nói: “Dù sao Đỗ đại nhân cũng thân thiết với những người ủng hộ cho biến pháp, dù ta không chắc ngài đối với biến pháp có thái độ ra sao. Lão hủ thì ngài biết rồi đấy, lúc nào cũng kiên quyết một mực phản đối biến pháp nên Tư Mã Đạo hắn cũng muốn thăm dò ngài một chút xem thái độ của ngài thật sự là thế nào rồi mới tìm cơ hội để nói chuyện nói ngài. Con người hắn lúc nào cũng cẩn thận thế đấy nhưng không hiểu thăm dò “khéo léo” đến mức nào mà lại làm cho ngài hiểu lầm ha ha”.
Đỗ Văn Hạo lúc này mới hiểu ra mọi chuyện, chắp tay nói: “không sao”.
Hắn trước giờ không để ý, nhưng giờ khi nghe Tư Mã Quang nói vậy, Đỗ Văn Hạo mới nghĩ lại về thái độ của hắn đối với biến pháp. Lâu nay hắn dường như chưa bao giờ thể hiện bất cứ thái độ nào đối với biến pháp cho người khác hay biết. Trước khi đi xuyên thời gian, lúc hắn còn học ở trung học thì sách vở đều viết về biến pháp với những lời lẽ rất tích cực, cho rằng ý tưởng của biến pháp về thực chất là rất tốt, rất tiến bộ.
Những người như Tư Mã Quang có thể nói là bảo thủ, lại chỉ chuyên nhìn một mặt của vấn đề nên cứ nhìn thấy vài nhược điểm của biến pháp là đã ra sức phản đối rồi. Nhưng Đỗ Văn Hạo đã có thời gian đi vi hành cùng Hoàng thượng, hắn chứng kiến được nhiều điều hơn, nghe được nhiều phía hơn nên nhận thức của hắn cũng tiên tiến hơn.
Mọi người lúc này đã đi ra khỏi phủ Tư Mã Quang. Xe đẩy của viện giải phẫu của Đỗ Văn Hạo cũng khá hiện đại, thiết kế có thể mở ra xếp lại, có bánh xe để đẩy đi chứ không cần nâng lên nâng xuống. Một lúc sau Tư Mã Quang đã được đẩy lên một cỗ xe ngựa to, Đỗ Văn Hạo cùng Tư Mã Đạo cũng ngay lập tức lên xe ngựa.
Đỗ Văn Hạo thật ra không muốn cho những người thân thích của Tư Mã Quang đi theo, sợ họ sẽ quấy rầy khiến hắn khó chuyên tâm vào việc phẫu thuật. Sau khi bàn bạc với Tư Mã Quang, quyết định chỉ có con trưởng của Tư Mã Quang là Tư Mã Dong cùng con gái là Tuệ Nhi đi theo. Bọn họ nhanh chóng lên xe và đoàn gồm 5 người lên đường đi tới Ngũ Vị Đường.
Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi ra nghênh đón Tư Mã Quang rồi đưa ông ta vào phòng giải phẫu, chuẩn bị cho buổi phẫu thuật.
Đỗ Văn Hạo lấy ra một bức “giải phẫu tri tình thư” (thư đồng ý cho phẫu thật). Mặc dù Tư Mã Quang đã đồng ý cho phẫu thuật nhưng hắn biết rõ khi giải phẫu có thể xảy ra rất nhiều những vấn đề ngoài tầm kiểm soát. Nếu không may có điều gì xảy ra với Tư Mã Quang thì ông ta làm sao mà đứng ra giải thích giúp hắn được nữa. Vậy nên hắn quyết định phải để người nhà của Tư Mã Quang ký vào bức thư này đề phòng trước.
Nghĩ vậy, Đỗ Văn Hạo đem giâỉ phẫu tri tình thư đưa cho con trưởng của Tư Mã Quang là Tư Mã Dong và nói: “Tư mã công tử, đây là thư đồng ý phẫu thuật, ngươi hãy xem qua đi. Trong đó có nói rõ mục đích của cuộc phẫu thuật, phương pháp cũng như những sự việc ngoài ý muốn có thể sẽ xảy ra trong quá trình phẫu thuật. Nếu như sau khi xem xong ngươi vẫn đồng ý cho ta làm phẫu thuật thì sau này, nếu những chuyện không may đó xảy ra ngươi cam đoan sẽ không truy cứu trách nhiệm. Khi đó, chỉ cần ngươi ký tên vào đây thì ta sẽ chuẩn bị phẫu thuật cho lệnh tôn. Còn nếu như ngươi không đồng ý thì ta không thể phẫu thuật được.”
Tư Mã Dong cầm bức thư xem qua một lượt, thân thể bắt đầu run rẩy, lo lắng. Hắn chỉ vào dòng chữ phía đầu bức thư nói: “Đỗ ngự y, chỗ này, chỗ này viết thế là có ý gì?”
“Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn vào chỗ Tư Mã Dong đang chỉ rồi nói: “Khi một người mắc phải thũng lựu (khối u) thì có thể có hai loại mà phải phẫu thuật ra mới biết được. Thứ nhất là lành tính thì chỉ cần phẫu thuật cắt đi là có thể khỏi được, nhưng nếu rơi vào loại thứ 2 là ác tính thì phẫu thuật cũng khó có thể khỏi được, nhất là khi đã bị di căn thì việc trị liệu sẽ vô cùng phức tạp, khó khăn. Nói cách khác, trong cơ thể lệnh tôn lúc này đã có nham tế bào rồi, đây là một dạng tà độc, không chừng đã di căn. Phẫu thuật có thể trị hết, cũng có thể sẽ đỡ được phần nào nhưng cũng có thể chẳng có tác dụng gì cả”.
Tư Mã Dong thưa dạ nói: “Nếu như vậy thì làm phẫu thuật để làm gì?”
“Tư mã công tử, giải phẫu không phải là vạn năng cũng giống như thuốc uống, không phải cứ một loại thuốc là trị được bách bệnh. Ta không thể đảm bảo với ngươi bất cứ chuyện gì được, chỉ có thể cố gắng làm hết sức mình mà thôi”.
Tuệ Nhi quay sang huynh trưởng của mình nói: “Ca, bệnh của cha tất cả các đại phu khác đều đã bó tay hết rồi, chỉ còn có Đỗ ngự y là còn cố phẫu thuật cho cha. Chúng ta làm gì có lựa chọn nào khác. Nếu như không phẫu thuật, cha cũng chỉ còn nước chờ chết, còn nếu phẫu thuật thì chúng ta vẫn còn có chút hy vọng”.
Tư Mã Dong rơi lệ nói: “chuyện này ta biết nhưng ngươi xem này, trên này có viết nếu phẫu thuật cũng có thể sẽ chết. Như vậy nếu không phẫu thuật thì còn có thể sống thêm vào bữa, nhưng nếu phẫu thuật có thể sẽ chết ngay, vậy nên ta mới băn khoăn.”
Tuệ Nhi nói: “Nhưng là, chẳng lẽ chúng ta cứ đứng trơ mắt nhìn phụ thân chết dần chết mòn sao?”
“Ta không có ý như vậy. Ta… ta chỉ không biết nên làm sao bây giờ?” Tư Mã Dong thống khổ mà ngồi chồm hỗm trên mặt đất, hai tay ôm đầu khóc hu hu.
Tuệ Nhi cũng ngồi xổm xuống đất bên cạnh anh mình, nói: “Ca, ta tin tưởng vào tay nghề của Đỗ ngự y, hai hôm trước hắn kê cho ta đơn thuốc chữa tật ở chân, mới dùng được vài ngày ta rõ ràng đã có cảm giác khá hơn rất nhiều, không những chân bớt đau mà giờ còn co duỗi được nữa. Ngươi cũng biết cái chân tật của tiểu muội rồi, tiểu muội đã phải chịu thiệt thòi với nó bao nhiêu năm nay, biết bao nhiêu đại phu thử chữa trị mà có ai giúp nó khá khẩm hơn tẹo nào đâu. Thế mà Đỗ ngự y trong có vài ngày đã giúp cho cái chân tật của ta tốt hẳn lên, ngươi xem đi”.
Tuệ Nhi đứng thẳng người lên, đi đi lại lại vài vòng trong phòng. Mặc dù vẫn có chút khó khăn nhưng so với lúc trước quả thật đã khá hơn rất nhiều, hoạt động cũng linh hoạt hơn. Tuệ Nhi quay qua Tư Mã Dong nói: “Ca, ngươi xem cái chân ta tốt lên được như vậy là minh chứng rõ nhất cho y thuật cao mình của Đỗ ngự y. Cho nên ta thật lòng tin tưởng hắn nhất định có thể làm được điều gì đó cho bệnh tình của phụ thân.”
Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên nghe Tuệ Nhi thổ lộ hết về cái chân tật của nàng cũng như tình trạng từ sau khi uống thuốc nen tâm lý không khỏi lấy làm vui mừng. Tuy nhiên, không thể so nó với việc giải phẫu. vậy nên hắn không thể thúc giục mà chỉ có thể đứng im nhìn bọn họ tự phân tích rồi đưa ra quyết định.
Tư Mã Dong mấy ngày hôm nay không có chú ý đến cái chân của tiểu muội hắn, phần là còn đang lo lắng cho bệnh tình của phụ thân. Giờ hắn mới chột dạ nhìn vào bước đi của tiểu muội thấy rõ ràng chân nàng ta đã tốt hơn rất nhiều. Hắn bỗng thấy vui mừng vô cùng, những lo lắng buồn bực cất chứa trong tim dần tan biến, vội đứng lên nói: “Tốt lắm. Ta sẽ không băn khoăn nữa. Xin mời Đỗ ngự y giải phẫu chữa thương cho phụ thân”.
Hắn cầm lấy cây bút, nhưng khi nhìn những dòng chữ về sự nguy hiểm và những sự việc ngoài ý muốn có thể xảy ra khi giải phẫu, hắn lại trùng xuống, nước mắt lại tuôi rơi. Tay hắn run rẩy, muốn hạ bút ký mà không thể làm được.
Tuệ nhi thấy vậy cũng nghẹn ngào, nói: “Ca, sinh tử do mệnh phú quý tại thiên”.
Những lời này làm cho Tư Mã Dong cả người chấn động. Hắn chậm rãi gật đầu rồi không do dự đặt bút ký và viết tên mình. Rồi hắn nhẹ nhàng trả lại cả tờ giấy lẫn cây bút, xoay người chắp tay nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ ngự y, tất cả trông chờ vào ngài”.
Đỗ Văn Hạo cũng chắp tay hoàn lễ: “Đỗ mỗ nhất định tận tâm tận lực, sẽ cố gắng hết sức chữa bệnh cho Tư mã đại nhân”.
Thong phòng giải phẫu, Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi đã làm tốt công việc chuẩn bị cho buổi phẫu thuật. Tư Mã Quang sau khi uống ma túy dược đã bắt đầu hôn mê, tất cả những gì trong dạ dày đã được tống ra, nước tiểu cũng đã được hút sạch. Sau khi dùng ma túy dược thì còn phải dùng thêm thuốc kháng khuẩn để chống nhiễm trùng.
Đỗ Văn Hạo bắt đầu bắt tay vào việc phẫu thuật. Hắn cố gắng giữ cho mình thật bình tĩnh nhưng sao vẫn không khỏi cảm thấy run run. Tuy hắn đã được học về giải phẫu, lý thuyết đã nắm rõ lắm rồi nhưng lần này lại là giải phẫu cho một trong những học giả vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc, người đã biên soạn nên bộ biên niên thể thông sử đầu tiên của Trung Quốc. Ông ta khi còn bé đã cơ trí hơn người, dùng trí đập bể chum cứu bằng hữu, chuyện nổi tiếng đó ở Trung Quốc không ai là không biết đến. Bây giờ, chính hắn lại đang chuẩn bị động dao phẫu thuật trị bệnh cho một danh nhân như vậy, nếu nói không lo lắng gì thì chỉ là nói xạo.
Hắn còn lo lắng vì một lý do nữa. Người bệnh này có chiến công hiển hách, nhưng giờ đây cũng đã là một lão nhân hơn sau mươi tuổi rồi. Lại còn mắc phải nham chứng, chứng bệnh tối nguy hiểm nữa chứ. Thông thường, con người ta ngoài năm mươi tuổi là phẫu thuật đã khó khăn rồi, đây lại còn là lần đầu tiên hắn phẫu thuật dạ dày nữa chứ nên lấy đâu ra kinh nghiệm gì. Nhưng lúc này Đỗ Văn Hạo không còn lựa chọn nào khác, chỉ biết hy vọng lão thiên gia không đẩy mình vào con đường khó khăn.
Ngừng thở, Đỗ Văn Hạo cầm trong tay con dao giải phẫu vững vàng đặt lên khoảng bụng khô gầy của Tư Mã Quang, từ chỗ bụng trên vạch một đường ở chỗ giữa tuyến hạ hành xuống.
Khi khoang bụng được mở ra, hắn liền trợn tròn mắt. Lão thiên gia quả là trêu ngươi, đã ban cho hắn một người bệnh vô cùng nguy cấp.
Tất cả các bộ phận quanh dạ dày của Tư Mã Quang đã có dấu vết của nham biến (mầm bệnh ung thư)!
Đỗ Văn Hạo bỗng như trầm xuống. Nham tế bào đã bắt đầu di căn.
Làm sao bây giờ? Tiếp tục giải phẫu hay đóng lại chờ chết?
Chương 299: Hoàng Thượng lâm bệnh
Làm nghề y, vấn đề rủi ro luôn luôn song hành. Ngươi có thể là một thầy thuốc giỏi, cứu được nhiều bệnh nhân, nhưng chắc chắn có những người ngươi không chữa được. Thực tế đã có rất nhiều trường hợp, thầy thuốc chữa khỏi bệnh thì được bệnh nhân cảm ơn, khen ngợi không ngớt lời, nhưng khi không chữa được, hoặc sai lầm khiến bệnh nhân bị nặng thêm hay bỏ mạng, thì dù chỉ là một lần duy nhất trong đời, cũng đủ khiến ngươi thân bại danh liệt. Vậy nên trong quy định của thời hiện đại, các thầy thuốc khi chữa bệnh đều phải nói rõ cho bệnh nhân hậu quả nếu có thể của việc chữa trị, với những trường hợp không chắc chắn thì bệnh nhân hoặc người nhà luôn được yêu cầu phải ký cam kết chấp nhận rủi ro.
Đỗ Văn Hạo đi tới bên cửa sổ, phía bên ngoài cửa sổ là khoảng sân hậu viện nơi Tư Mã Dong với Tuệ Nhi đang đứng. Gọi hai người bọn họ lại, hắn nói: “Bệnh của lệnh tôn quả thật còn nặng hơn những gì ta đã dự tính trước. Trong cơ thể người, tà độc đã bắt đầu di chuyển ra rất nhiều các bộ phận khác. Bây giờ có hai lựa chọn: một là ta sẽ dừng việc phẫu thuật lại, khi đó lệnh tôn sẽ sống nhưng nhiều nhất chỉ có thể là hai ba tháng. Cách thứ hai là tiếp tục giải phẫu, khi đó sẽ có hai khả năng: thứ nhất là trong khi giải phẫu hoặc trong vòng vài ngày sau khi giải phẫu, cơ thể không còn đề kháng đủ để chống lại những mầm bệnh ung thư, cái chết sẽ khó tránh khỏi, nhưng khả năng thứ hai là giải phẫu mà thành công tốt đẹp thì lệnh tôn sẽ còn có thể sống ít nhất là năm năm nữa”.
Một đằng là chết trong lúc đang phẫu thuật, chết sau khi phẫu thuật vài ngày hoặc ba tháng, với một đằng là sống được thêm năm năm, thoạt đầu ai nghe cũng muốn chọn ngay phương án sau. Tuy nhiên, xác suất cho khả năng đó lại rất thấp so với việc chết khi phẫu thuật.
Huynh muội Tư Mã Dong nhìn nhau buồn bã, ánh mắt đầy vẻ lưỡng lự. Tư Mã Dong nhất thời không biết quyết định sao, cất giọng hỏi muội muội: “Làm sao bây giờ?”
Tuệ Nhi cất tiếng bi ai: “Nếu như bây giờ đình chỉ việc giải phẫu, phụ thân nhiều nhất chỉ có thể sống được ba tháng, còn nếu tiếp tục giải phẫu, khả năng phụ thân sống thêm được tận năm năm. Cá nhân ta muốn chọn cách thứ hai. Chúng ta đã cố gắng như vậy, cho dù phẫu thuật có bị thất bại thì ở nơi cửu tuyền, phụ thân cũng sẽ có thể mỉm cười. Chúng ta liều lần này vậy, mọi người nghĩ sao?”.
Tư Mã Dong rơi lệ gật đầu: “Ta cũng cùng quan điểm như vậy. Đỗ ngự y, xin mời ngài tiếp tục giải phẫu cho cha ta”.
Đỗ Văn Hạo hiểu cảm giác của những người ở đây, họ thực ra đang đánh cuộc mạng sống của chính cha mình, nhưng lại đánh cuộc bằng khả năng của người khác – tức là Đỗ Văn Hạo chứ không phải là một cái gì thuộc sở hữu của mình. Do đó, bản thân họ cảm thấy có sự bất lực, và chỉ biết đặt niềm tin vào sự may rủi của số mệnh mà thôi.
Biết rằng lúc này có nói gì cũng không ý nghĩa, Đỗ Văn Hạo chỉ gật đầu rồi quay trở lại bàn giải phẫu.
Theo những quan sát về tình trạng của nham biến, hắn nhanh chóng quyết định các thủ thuật giải phẫu. Đầu tiên sẽ phải tách riêng phần dạ dày, các mạch máu phía bên trái sẽ phải phân riêng ra, khâu kết lại với nhau. Bởi vì các tế bào ung thư đã xuyên thấu tương mô, sẽ dùng băng gạc khâu trùm lại để tránh không cho tế bào ung thư ở khoang bụng di chuyển sang các bộ phận khác.
Tại phía trong khoang ổ bụng, cũng cần phải có giải pháp tẩy rửa kỹ càng, ngăn cách đại tràng, ruột với khu vực nham biến. Đỗ Văn Hạo trước khi tiến hành cắt bỏ khối u, cần phải xếp các bộ phận như ruột, tràng sang một bên, tạm thời dừng hoạt động của dạ dày và các bộ phận tiêu hóa để đảm bảo vệ sinh cũng như thuận tiện cho việc cắt bỏ khối u.
Các động mạch là khó khăn nhất, kỹ thuật thô sơ ở thời cổ đại này không cho phép Đỗ Văn Hạo sai sót, dù chỉ là một ly. Sau khi đã quan sát, nghiên cứu kỹ lưỡng, Đỗ Văn Hạo dùng dao mổ cẩn thận lách vào đầu của khối u, lúc này dính liền với thành dạ dày, được bao quanh bởi một lớp màng mỏng. Chỗ này cũng khá gần động mạch chính đi tới gan.
Tiếp đó, Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng cắt đứt toàn bộ những mạch máu nhỏ li ti nối liền khối u này với các phần dạ dày xung quanh, dùng cả dao và kéo mổ, cẩn thận tách rời khối u ra. Sau khi thấy phần khối u đã lộ hẳn ra ngoài, hắn mới dám bắt đầu xử lý đến phần chân khối u, nơi bám vào thành dạ dày.
Đây thực sự là đoạn khó giải quyết nhất. Ngoài phần thịt dính liền, khối u cũng được kết nối bởi không ít các mạch máu, bao gồm cả động mạch và tĩnh mạch. Do đó, chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể gây tổn thương lớn cho dạ dày.
Đỗ Văn Hạo nói Bàng Vũ Cầm dùng kìm mổ cẩn thận giữ chặt lấy khối thịt nhô ra, còn hắn thì hết sức thận trọng cắt từng chút từng chút một. Khối u này có màu trắng đục, khác với bề mặt dạ dày nên cũng không khó để phân biệt, khả năng cắt vào thành dạ dày là không cao. Tuy nhiên, vẫn là điều kiện dụng cụ thời đại này thực sự quá thiếu thốn, Đỗ Văn Hạo chỉ biết cẩn cẩn chú ý từng li từng tí một. Và rồi thì hắn cũng lôi được khối u đó ra.
Phần màng dạ dày bị thương tổn do khối u để lại được tẩy trùng cẩn thận.
Tiếp đó các bộ phận tiêu hóa và dạ dày được đưa trở về vị trí. Những cái kìm lúc trước dùng để chặn sự lưu thông trong ruột được bỏ ra, đảm bảo hệ tiêu hóa và dạ dày hoạt động trở lại bình thường.
Mặc dù không dám chần chừ mất thời gian, nhưng trước khi khâu ổ bụng lại, Đỗ Văn Hạo vẫn rất cẩn thận kiểm tra mọi thứ trong bụng của Tư Mã Quang, đảm bảo đều về đúng vị trí.
Bởi vì Tư Mã Quang đã già nên cơ thể không thể chịu được thời gian giải phẫu dài, Đỗ Văn Hạo đã rất chú ý việc này, luôn tiến hành các công việc theo kiểu đồng thời. Lúc trước, khi phải xử lý chuyện Lưu Quý phi trong cung mang thai giả, cũng nhân chuyện này, hắn đã có nghiên cứu kỹ đối với chuyện giải phẫu dạ dày. Hắn đã cẩn thận đem các bước thực hiện viết ra cụ thể, lại so sánh những gì mình học được với tưởng tượng của chính bản thân. Từ đó liên tục diễn luyện nhiều lần, các bước cũng xem xét để lược bớt, đảm bảo người bệnh có thể sống sót trong điều kiện kỹ thuật thấp kém ở thời cổ đại này.
Bản thân hắn đã đề ra mấy phương án giải phẫu khác nhau. Điều cơ bản là phải triệt để trừ bỏ khối u, tránh có những biến chứng về sau. Khi đảm bảo được điều đó, vấn đề đặt ra chính là tiến độ. Phải làm thế nào rút ngắn thời gian giải phẫu càng nhiều càng tốt. Chính vì vậy hắn đã có những sắp xếp trong đầu, với mỗi trường hợp thì sẽ làm như thế nào để việc rút bớt các công đoạn không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người bệnh.
Có thể nói công sức bỏ ra chuẩn bị mấy ngày nay không có uổng phí. Sau khi mở ổ bụng ra, những gì chứng kiến đều không nằm ngoài các tình huống hắn đã dự tính trước. Chính vì vậy, động tác của hắn vô cùng thuần thục, nhanh chóng, không một chút do dự. Người ngoài nhìn vào thì phảng phất cảm giác như hắn đã làm công việc này cả ngàn lần rồi.
Thế nhưng vẻ mặt của Tuyết Phi Nhi và Bàng Vũ Cầm thì vô cùng căng thẳng.
Lúc này, các giai đoạn chính đều đã cơ bản hoàn thành, việc của hắn giờ chỉ là chuẩn bị các công việc trước khi khâu ổ bụng.
Trước hết, hắn cần tới các dụng cụ hỗ trợ tiêu hóa, đặt ống thực quản. Đồng thời Đỗ Văn Hạo cũng cẩn thận đặt thêm các ống nhỏ vào khoang đại tràng, đề phòng trường hợp bị tràn dịch.
Cuối cùng, hắn thận trọng thực hiện súc rửa khoang bụng thật sạch sẽ rồi mới khâu đóng ổ bụng lại.
Giải phẫu hoàn thành, lúc này Đỗ Văn Hạo mới cảm thấy toàn thân mệt mỏi rã rời, giống như từng mảnh, từng mảnh thân thể một bực như nhau run lên cầm cập, chỉ muốn nằm lăn xuống đất. Nhưng hiểu rõ vai trò của mình lúc này, hắn mạnh mẽ chống chọi lại, nhìn sang phía Tuyết Phi Nhi đang làm nhiệm vụ giám sát bệnh nhân sau phẫu thuật, hỏi: “Thế nào?”
“Mạch bác, hô hấp ôn hòa, dường như bình thường! Không có vấn đề gì!”
“Tốt lắm! Quán thuốc vào cho bệnh nhân tỉnh dậy, sau đó đưa vào phòng bệnh đặc biệt, cắt cử người thay phiên trông coi, ngày đêm quan sát, tuyệt đối không được lơ là, chủ quan. Đợi sau khi người bệnh tỉnh dậy, lưu ý đặt nằm với gối kê cao, dốc xuống để các dịch vị trong khoang bụng chảy ra. Mặc khác, cũng trợ giúp cho hô hấp nhiều hơn, giảm các tác động tới vết khâu, vừa giúp vết thương mau lành, cũng tránh cho bệnh nhân đau đớn.”
“Ừ, thiếp rõ rồi.” Tuyết Phi Nhi gật đầu nói.
“Còn nữa, mọi người cũng nên giúp đỡ, khuyên bảo bệnh nhân hít sâu, càng nhiều càng tốt. Mỗi khi hô hấp đều nên hít thật sâu. Cũng không được nằm im suốt ngày, cần phải cử động, khi nào có thể thì mau xuống giường, vận động thân thể một chút. Quan sát cẩn thận lượng nước tiểu và các dịch vị khoang bụng chảy ra.”
“Vâng”
Bàng Vũ Cầm mặc dù cũng mệt mỏi, nhưng nàng mệt vì căng thẳng nhiều hơn là mệt mỏi về thân xác, giờ nhìn thấy Đỗ Văn Hạo mồ hôi nhễ nhại thì vô cùng thương xót, lấy khăn yêu thương lau mồ hôi, cười nhẹ: “Phu quân, những cái đó chàng đều đã dạy cho chúng thiếp rồi mà! Chàng yên tâm đi, mọi người cũng đã có nhiều kinh nghiệm chăm sóc bệnh nhân sau phẫu thuật rồi.”
Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ta đương nhiên biết vậy, chỉ là Tư Mã đại nhân đây có chút bất đồng, không chỉ về thân phận mà cả về chứng bệnh nữa, do đó mới muốn có chút quan tâm đặc biệt hơn.”
Tuyết Phi Nhi nghe vậy gật đầu nhẹ nhàng: “Thiếp hiểu! Để thiếp tự thân phụ trách hộ lý đi.”
Khi đưa Tư Mã Quang ra khỏi phòng giải phẫu, con trai Tư Mã Dong và nữ nhi của Tư Mã Quang cùng mấy người khác nhẹ nhàng chạy vội tới cửa đón. Mấy người nhìn phụ thân mình bất tỉnh thì đưa ánh mắt lo lắng có ý dò hỏi Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo nói: “Đến thời điểm này có thể nói là giải phẫu đã thành công tốt đẹp, tuy nhiên, mấu chốt vẫn là phải xem mấy ngày nữa tình hình Tư Mã đại nhân thế nào. Mấy ngày tới phải để ý thật kỹ lưỡng.”
Mấy người nghe vậy thì cũng cảm thấy mơ hồ, chưa biết cụ thể thế nào. Tư Mã Dong rốt cục sốt ruột hỏi thêm: “Đỗ đại nhân, vậy rốt cuộc gia phụ liệu có sống được thêm năm năm nữa không vậy?”
“Rất xin lỗi, ta thực sự chưa thể nói được vào lúc này. Chúng ta không có cách nào khác ngoài việc đợi thêm mấy ngày nữa. Tuy nhiên, chúng ta nhất định sẽ tận tâm tận lực chăm sóc cho lão gia.” Đỗ Văn Hạo cũng chỉ biết cười khổ mà giải thích.
Mấy người đi tới phòng nghỉ của Tư Mã Quang thì phu nhân Ngô thị cũng đã ở đó, ngoài ra còn có rất nhiều họ hàng, thân bằng hảo hữu nhận được tin báo cũng đang lo lắng ngồi chờ tin. Nhìn thấy Tư Mã Quang được đẩy đến, ít nhất là vẫn còn thở, còn sống, tâm lý vốn đang nặng nề như hòn đá tảng cũng được nhẹ nhõm đi phần nào. Họ líu ríu bước đến hỏi han không ngừng.
Đỗ Văn Hạo không muốn giải thích nhiều liền yêu cầu bọn họ toàn bộ rời khỏi phòng bệnh, mỗi lần chỉ hai người một có thể lưu lại thăm nom, rồi lại thay phiên nhau kẻ vào người ra. Thân bằng bạn hữu của Tư Mã Quang bắt đầu thảo luận xem làm cách nào để cắt cử người trông nom chăm sóc ông. Lão bà của Tư Mã Quang Ngô Thị thì mong muốn chính mình sẽ phụ trách việc này nên Đỗ Văn Hạo nói Bàng Vũ Cầm chuẩn bị thêm một cái giường trong phòng bệnh để Ngô Thị có thể thuận tiện lưu lại đó nghỉ ngơi chăm sóc chồng. Phiên đầu tiên đã được kết luận sẽ do Ngô Thị với nữ nhi Tuệ Nhi lo liệu, sau đó thì sẽ đổi cho những người khác để có thể nghỉ ngơi. Thảo luận xong, những người khác liền lui hết ra ngoài.
Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm lúc này bắt đầu cảm thấy mệt mỏi! Sau khi trở lại phòng mình, Đỗ Văn Hạo mới lấy bút kê một đơn thuốc đưa cho Bàng Vũ Cầm: “Nàng theo phương bắt dược, ban đầu thì cho thuốc qua đường ống xông, từ từ từng chút một. Đợi đến khi thông khí thì mới rút ống xông, uống thuốc như bình thường nhưng chú ý là uống ít một, chia làm nhiều lần.”
Bàng Vũ Cầm cầm đơn thuốc nhìn một chút: “đây là đơn thuốc giúp kháng khuẩn giảm sốt, nhưng những vị thuốc này còn tác động đến máu, rõ ràng giúp hoạt huyết hóa đờm tiểu thanh nhiệt giải độc, vì sao lại phải dùng trong trường hợp này vậy?”
Đỗ Văn Hạo nói: “Tư Mã đại nhân bị bệnh ở dạ dày, nói chính xác thì là “khiếu vị nham” (ung thư dạ dày), đối với loại bệnh này nguy hiểm nhất là những nham tế bào di căn sang các bộ phận khác. Điều này ta một lần đã nói với nàng rồi, nàng còn nhớ không?”
Đỗ Văn Hạo đã mang rất nhiều những kiến thức y học hiện đại ra dạy cho Bàng Vũ Cầm, kể cả những kiến thức về tế bào. Tất nhiên, Bàng Vũ Cầm là một người thông minh nên chưa quên ngay những kiến thức đó được, nàng gật đầu: “đúng là chàng đã nói, thân thể con người ta thực ra là do rất nhiều các tế bào nhỏ tạo thành”.
“Đúng vậy, cách giải thích đó là đơn giản nhất. Việc nham biến di căn là nguyên nhân chính khiến người mắc bệnh ung thư ngày càng nặng hơn, gây nên tử vong. Thường thì việc phẫu thuật chỉ có tác dụng trong khoảng ba năm, sau đó nham biến dạ dày sẽ có nguy cơ di căn tiếp, cho nên ngay sau khi giải phẫu phải áp dụng lập tức phương pháp trị liệu. Thêm nữa, việc phẫu thuật thường khiến cho các tế bào khác trong cơ thể yếu đi, dễ mắc bệnh hơn, khi đó, các tế bào ung thư thừa dịp mà vào, gây bệnh cho các tế bào khác, đó chính là di căn. Do đó, trong năm tiếp theo sau khi phẫu thuật, phải thật chú trọng vào các hiện tượng như đàm, lao, tụ độc. Đó là lý do tại sao ta phải kê thêm những thứ thuốc giúp hòa đàm, giải độc, hoạt huyết hóa tật. Nếu có thể tăng cường sức đề kháng chống bệnh cho cơ thể thì sẽ giảm được nguy cơ di căn của nham tế bào. Đó, tất cả là vậy đó!”
“Thiếp hiểu rồi. Vậy thì lý do chính của đơn thuốc mà phu quân kê này chính là để bồi bổ, hóa đàm, giải độc, hoạt huyết hóa cứu, nhằm mục đích ngăn ngừa sự di căn của nham tế bào.”
Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “không sai, toàn bộ dạ dày của Tư Mã đại nhân đã bị cắt đi rồi, ta phải dùng một phần ruột giúp ông ta làm thành dạ dày nhân tạo, đương nhiên sẽ không thể so với dạ dày nguyên lai được, việc ăn uống cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Hơn nữa việc phẫu thuật cũng đã gây tổn hại đến sức khỏe, sức đề kháng của cơ thể chắc chắn đã giảm đi rất nhiều. Do vậy, trong vòng một năm sau khi phẫu thuật phải thật chú trọng việc bồi bổ cơ thể, nâng cao sức khỏe. Những thứ thuốc này có mục đích vậy đó, mà tiếc rằng có vài loại thuốc vô cùng hữu hiệu khác nhưng ngoài kia không thấy có bán”
Bàng Vũ Cầm ngạc nhiên nói: “là thuốc gì ạ?”
“Đông trùng hạ thảo”. Đây là một loại dược liệu rất tốt, giúp bồi bổ cơ thể nhanh, đặc biệt hữu hiệu cho những người mà tuổi đã cao, thể chất yếu. Đông trùng hạ thảo có khả năng cải thiện hệ thống miễn dịch cho cơ thể người, tăng cường năng lực đối kháng với những nham biến. Nếu như có thể mua được loại dược liệu này thì sẽ là tốt nhất.
Bàng Vũ Cầm suy nghĩ một chút rồi nói: “sao từ trước tới giờ thiếp chưa bao giờ từng nghe đến loại dược liệu này nhỉ. Quả thật rất lạ tai?”
Thật ra, đông trùng hạ thảo cổ xưa đã có nhiều người biết đến. Sử sách Tấn triều có ghi lại là đông trùng hạ thảo được sử dụng làm dược liệu. Sau đó ở Minh triều, loại dược liệu này cũng được ghi lại là thứ thuốc truyền thống đông y hữu dụng. Sang đến Thanh triều, quyển “Thanh Triêu Đích” (một quyển sách trung dược) cũng có ghi lại. Nhưng những người ở Tống triều thì không mấy ai biết đến loại thuốc này.
Đỗ Văn Hạo cười nói: “thuốc này ở Trung Nguyên không có, chủ yếu chỉ có ở những vùng núi cao lạnh lẽo tuyết phủ quanh năm. Cho nên Trung nguyên y giả có rất ít người biết đến nó”.
“Vậy sao phu quân biết về nó?”
“Ta ý hả? Nàng không nhớ trước kia ta từng làm linh y bôn tẩu giang hồ sao? Một lần trùng hợp ta có gặp qua một người, nói đúng hơn là một tăng lữ, hắn ta có loại dược liệu này. Hắn có nói loại dược liệu này sẽ giúp tăng cường sức khỏe nên ta có mua thử một ít. Kiểm nghiệm thử thì thấy đúng là cái thứ đông trùng hạ thảo này tốt thật”.
Bàng Vũ Cầm gật đầu nói: “thuốc này tốt như vậy thật sao? Tiếc là Thổ Phiền cách Trung nguyên chúng ta đến hàng ngàn dặm, làm sao mà có thể đến đó mua được cơ chứ”.
“Đúng vậy”, Đỗ Văn Hạo gật đầu xác nhận. “thật ra, chúng ta cũng không nhất thiết phải đến tận Thổ Phiền để tìm mua đông trùng hạ thảo. Ngay ở phía tây của Thục Địa cũng có thể tìm thấy loại lược liệu này, có điều chất lượng không thể tốt như ở Thổ Phiền được”.
Hai người đang nói chuyện, đột nhiên tiểu nhị ở tiền đường vội vã chạy tới thông báo: “Tiên sinh, Ninh công công tới, nói có chuyện rất gấp, truyền cho ngài phải cùng ông ta vào cung ngay lập tức”.
Đỗ Văn Hạo nghe xong lấy làm kinh hãi. Ninh công công là thái giám lúc nào cũng thường trực ở bên cạnh Hoàng Thượng. Giờ hắn đột nhiên đích thân đến đây thế này chẳng lẽ trong cung có chuyện gì cấp bách lắm sao? Hắn vội vàng chạy ra ngoài tiền đường, chắp tay nói: “Ninh công công, có chuyện gì vậy?’
Ninh công công sắc mặt âm trầm, thấp giọng nói: “Ta sẽ nói cho ngài nghe trên đường đi. Còn giờ thì chúng ta lên đường nhanh cho kịp”.
Thậm chí không để cho Đỗ Văn Hạo kịp chuẩn bị xe hay gọi người khiêng kiệu, Ninh công công kêu hắn ngồi luôn lên xe ngựa của ông ta cùng tiến cung. Đỗ Văn Hạo chỉ kịp gọi Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi cùng Diêm Thiệu Thủ, Hàm Đầu, dặn dò bọn họ vài câu về việc chăm sóc cho bệnh tình của Tư Mã Quang rồi lập tức lên xe theo Ninh công công lên đường.
Đi được một đoạn, Ninh công công lúc này mới cất tiếng nói: “Hoàng Thượng ngã bệnh”.
“Hả? Chuyện khi nào?” Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi.
“Mới đây thôi”
“Có triệu chứng gì không?”
“Bất tỉnh không biết gì nữa cả. Cụ thể bệnh trạng thế nào thì chúng ta cũng không rõ ràng lắm. Chắc ngài phải đến xem thì mới biết được”.
“Nhưng nguyên nhân là vì sao?”
“Còn chuyện gì ngoài biến pháp cơ chứ!” Ninh công công trầm giọng nói. “Hoàng Thượng từ sau khi đi vi hành trở về thì không còn tin vào vị quan lại nào nữa. Người tự mình phái ra mật thám, cử đến các nơi ngầm hỏi dân chúng thái độ và suy nghĩ của họ về biến pháp. Mấy ngày hôm nay, những tin tức mật báo không ngừng đổ về. Hoàng Thượng xem ra tâm trạng không được tốt, người suy nghĩ rất nhiều. Lúc giữa trưa, Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng Thái hậu cầm một đống tấu chương đến tìm Hoàng Thượng, cũng lại là những tấu chương phản đối biến pháp, hơn nữa đều do Tri phủ tri châu từ khắp nơi gửi về và đều nói dân chúng địa phương đang tạo biến phản đối biến pháp rất dữ. Hoàng Thượng xem hết, nói đã biết rồi nhưng Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu vẫn chưa thôi. Họ thậm chí còn khóc lóc nhằm khuyên giải Hoàng Thượng phế bỏ tân pháp. Nhưng không biết làm sao mà Hoàng Thượng đột nhiên cảm thấy trời đất quay chuyển, đầu óc choáng váng rồi lập tức té xỉu”.
Đỗ Văn Hạo trầm giọng hỏi: “Hoàng Thượng trong khoảng thời gian này có uống thuốc thang điều độ và đầy đủ không?”
Ninh công công thở dài nói: “Hoàng Thượng lúc nào cũng nói mình không có bệnh gì cho nên thuốc thang người lúc uống lúc không, ta có nói mãi mà cũng không được.”
Đỗ Văn Hạo lấy làm kinh hãi: “tại sao lại thế, không phải ta đã nói lúc trước rồi sao, bệnh tình của Hoàng Thượng dường như càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn nên phải kiên trì chịu khó uống thuốc, chữa trị trong thời gian dài"
“Lần trước Hoàng Thượng cũng đã hứa sẽ làm như vậy rồi”.
“Nhưng giờ thì Hoàng Thượng không muốn uống. Ai có thể khuyên bảo ép buộc được ngài cơ chứ? Hoàng Thượng nói ngoại trừ việc ăn uống không thấy ngon miệng thì ngài chẳng thấy mình có bệnh gì cả. Cho nên ngài nói chúng ta không cần phải cuống lên làm gì”.
Đỗ Văn Hạo vội la lên: “Hoàng Thượng đang mắc phải bệnh viêm cầu thận mãn tính. Loại bệnh này thường chỉ ẩn bên trong nhưng đó không hề là một bệnh nhẹ đâu. Nhiều người chỉ đến khi bị bệnh phát tác, xuất hiện những di chứng vô cùng nghiêm trọng mới biết bệnh của mình nặng nhẹ như thế nào. Thêm nữa, bệnh này bình thường cũng không phát tác ngay, mà cũng rất dễ bị nhầm lẫn với những chứng bệnh khác, chẳng hạn như suy kiệt cơ thể, tiêu hóa kém hay các bệnh tương tự thế. Lần trước khi ta khám cho Hoàng Thượng đã phát hiện ra những triệu chứng ban đầu của chứng bệnh viêm cầu thận này ở người, cũng đã giải thích cho người nghe tình trạng và hậu quả của căn bệnh này rồi mà. Nếu người không kiên trì điều trị thì bệnh chắc chắn sẽ nặng hơn đó”.
Ninh công công cười cười mà nói: “Không nghiêm trọng đến mức đó chứ? Chúng ta ngày ngày vẫn hầu hạ bên cạnh Hoàng Thượng thấy người vẫn khỏe mạnh lắm mà. Còn vụ lần trước Hoàng Thượng té xỉu ngài cũng biết rồi, đó là do người cố tính làm vậy để tránh khỏi những khó xử khi các vị đại thần quỳ cả ngày đêm can gián chuyện biến pháp mà người thì vẫn chưa có biện pháp gì. Lần này ta nghĩ cũng vậy thôi, lý do phân nửa chắc cũng tại vì Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng Thái hậu đang cật lực than khóc phải đối nên người lại giả vờ lần nữa ý mà”.
Đỗ Văn Hạo vẻ mặt đau khổ nói: “Nhưng Hoàng Thượng cũng thật sự đang mắc bệnh đó. Ngài có nhớ câu chuyện của Thái Hoàng Công xưa kia không? Lúc bệnh còn nhẹ thì cứ chủ quan, không chịu chạy chữa ngay, để đến lúc bệnh phác tác nặng lên thì cứu chữa không kịp nữa rồi”.
Ninh công công sắc mặt trầm xuống, hỏi: “Đỗ đại nhân nghĩ thế nào mà lại đem tên hôn quân Thái Hoàn Công ra so sánh với Hoàng Thượng anh minh của chúng ta?”
“Ta không phải có ý so sánh như thế. Ta là đại phu, chỉ nghĩ về khía cạnh bệnh tật mà thôi. Suy cầu thận là một loại bệnh rất nghiêm trọng. Mắc phải bệnh này một khi đã đến giai đoạn phát tác thì rất khó chữa trị. Gặp tình huống đó chắc ta cũng phải bó tay thôi”
Ninh công công liếc mắt nhìn sang Đỗ Văn Hạo, nói: “Đại nhân không phải đang nghiêm trọng hóa vấn đề lên đó chứ?”
Đỗ Văn Hạo trả lời: “Thôi, quên đi. Chờ một lát ta trực tiếp thăm bệnh cho Hoàng Thượng xem sao đã. Nếu đúng là vẫn do bệnh đó khiến Hoàng Thượng ngất đi thì quả thật không thể chủ quan thêm được”.
Xe ngựa rất nhanh đã đi tới hoàng cung, dừng lại trước tẩm cung của Hoàng Thượng. Tống Thần Tông lúc này đang nằm trên long sàng, hai mắt nhắm nghiền. Thái hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu cùng Hoàng Hậu đứng một bên, lo lắng nhìn chăm chăm vào Hoàng Thượng.
Trước giường của Hoàng Thượng có kê một cái ghế dài, trên đó ngồi một người… Đó không phải ai khác mà chính là Chánh thị của Thái y viện Thừa Ngụy Triển. Lần này ông ta lại bị triệu tới, đang ngồi bắt mạch cho Hoàng Thượng mà vẻ mặt đầy đau khổ. Hiển nhiên là ông ta vẫn không thể phát hiện ra nguyên nhân tại sao mà Hoàng Thượng lại hôn mê như vậy. Chỉ bất quá, do đã có kinh nghiệm từ lần trước nên lần này ông ta không dám nói lung tung, chỉ cố gắng trì hoãn kéo dài thời gian chờ Đỗ Văn Hạo tới.
Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, Ngụy Triển thở phào nhẹ nhõm, vội vàng bước lên phía trước chắp tay cung kính: “Đỗ đại nhân, ngài đã tới rồi. Hoàng Thượng lại vừa té xỉu lần nữa. Ty chức y đạo nông cạn, hay là xin mời Đỗ đại nhân chẩn trị cho Hoàng Thượng xem sao”.
Đỗ Văn Hạo là ngự y của Hoàng Thượng nên không thể chối từ việc đó. Hắn ngồi xuống chiếc ghế dài, đưa tay ra bách mạch cho Hoàng Thượng. Quả nhiên, hắn cũng không phát hiện ra mạch đập có gì bất thường, hiển nhiên là Hoàng Thượng đang giả vờ bị ngất.
Lúc này, Đỗ Văn Hạo dự định sẽ lợi dụng cơ hội để nói về căn bệnh suy cầu thận mãn tính của Hoàng Thượng, từ triệu chứng, nguyên căn đến những hậu quả của nó. Hắn cũng dự định sẽ kêu Hoàng Thượng cùng Thái hoàng Thái hậu các nàng phải coi trọng chuyện đó, trị liệu sớm, đều, nghiêm túc theo những gì mà hắn kê ra, bằng không thì sau này sẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Nhưng trước hết phải làm cho Hoàng Thượng tỉnh lại đã.
Đỗ Văn Hạo từ trong túi cấp cứu lấy ra chiếc kim châm rồi bắt đầu châm vào mấy huyệt của Tống Thần Tông. Hoàng Thượng cũng biết ý nên cùng hắn phối hợp, chỉ chốc lát đã lo lắng tỉnh dậy. Nhưng rồi người lại tiếp tục nhắm mắt không nói gì, ánh mắt trông có vẻ rất đờ đẫn.
Nhưng chỉ cần Hoàng Thượng tỉnh lại là Thái hoàng Thái hậu mọi người đều đã có thể cảm thấy nhẹ nhõm. Thái hoàng Thái hậu thấp giọng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Hoàng Thượng bị làm sao vậy?”
Đỗ Văn Hạo quay sang Thái hoàng Thái hậu cung kính nói: “Lão tổ tông, Hoàng Thượng té xỉu chính là vì đã mắc phải chứng Thận lao sở.
“Thận lao sở?” Thái hoàng Thái hậu ngạc nhiên hỏi.
“Dạ đúng vậy”, Đỗ Văn Hạo thần sắc trịnh trọng, đứng dậy nói: “Hoàng Thượng ngày đêm quan tâm, lo lắng triều chính, đặc biệt là với biến pháp. Thường xuyên ăn uống thất thường, tinh thần không tốt, lao luyện quá độ khiến cho cơ thể rơi vào suy nhược. Bên ngoài thì phong nhiệt, gặp cơ thể yếu thì nhanh chóng ngấm vào. Lâu dài lan đến các tạng phủ, gây nên chứng viêm cầu thận, chánh hư từ thật, cơ thể nóng lạnh thất thường”.
Thái hoàng Thái hậu cau mày nói: “ngươi nói thế Ai gia thấy khó hiểu lắm. Thôi cứ nói thẳng xem bệnh tình của Hoàng Thượng có nặng lắm không?”
“Bắt đầu vào thời kỳ nghiêm trọng rồi đấy ạ”, Đỗ Văn Hạo cố gắng tỏ vẻ nghiêm túc để Thái hoàng Thái hậu có thể thấy được sự nghiêm trọng của vấn đề, nói: “Chứng viêm thận này có thể nói là một thứ bệnh mãn tính, đôi khi gây nên nhiều tác động nghiêm trọng, khiến tỳ thận suy bại, trọc âm không tiết, tính khí thất thường, ảnh hưởng đến tim mạch, bài tiết…”
Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng Thái hậu, Hoàng hậu không khỏi lo lắng nhìn nhau rồi quay qua hỏi Đỗ Văn Hạo: “nghiêm trọng vậy sao? Hoàng Thượng bình thường vẫn khỏe mạnh, không có gì đáng lo ngại mà. Hôm nay bất quá tức giận chút mà ngất đi, sao đến nỗi vậy?’
Đỗ Văn Hạo nói: “vi thần tuyệt đối không dám phóng đại sự thật đâu ạ. Lần trước khi chẩn bệnh cho Hoàng thượng, vi thần đã nhìn ra Hoàng thượng có mầm mống của bệnh này nên cũng đã khai phương kê dược cho Hoàng thượng dùng, nhưng người không chịu kiên trì uống thuốc gì cả. Vi thần cũng đã nói khi mắc phải bệnh này, Hoàng thượng nhất định không được để cơ thể mệt nhọc cũng không được tức giận. Tĩnh dưỡng là vô cùng cần thiết. Vi thần vừa phục chẩn thấy bệnh tình của Hoàng thượng so với lần trước có vẻ đang nặng lên, nếu không nghiêm khắc trị liệu thì sẽ gặp nguy hiểm đó”.
Thái hoàng Thái hậu nói: “không phải Ai gia đã giao cho ngươi nhiệm vụ chăm sóc cho sức khỏe của Hoàng thượng sao?”
“Nhưng là Hoàng thượng không chịu nghe theo lời của vi thần mà kiên trì uống thuốc, cũng không chịu tĩnh tâm điều dưỡng gì hết”.
Thái hoàng Thái hậu nói: “Hoàng thượng làm sao mà không muốn tĩnh tâm điều dưỡng cơ chứ. Nhưng cai quản đất nước, bình an thiên hạ là một trọng trách lớn, đòi hỏi hắn phải lao tâm khổ tứ, tậm tâm tận lực, muốn tĩnh tâm nghỉ ngơi cũng không phải là một điều muốn là được”.
Hoàng thái hậu đứng bên cạnh cũng hòa nhã nói chen vào: “Đỗ đại nhân, mong ngài có thể giúp cho Hoàng thượng cách thức nào đó tốt nhất để có thể hiệu quả trị bệnh”.
Thái hoàng Thái hậu cũng nói: “Đúng thế. Mấy ngày tới thôi ngươi chịu khó lưu lại trong hậu cung, đỡ phải đi đi về về, chiếu cố chăm lo cho sức khỏe của Hoàng thượng một chút. Tiểu Ninh Tử, ngươi hỗ trợ an trí cho Đỗ đại nhân một chỗ ở, cứ tìm một phòng trống ngay trong tẩm cung của Hoàng thượng là được, nhỡ có việc gì thì còn có thể giải quyết được ngay”.
Đỗ Văn Hạo cùng Ninh công công hai người khom người vâng lệnh.
Đỗ Văn Hạo đề bút viết đơn thuốc, giao cho Thái y viện ngự dược đích thân theo phương bắt dược. Tuy Hoàng thượng đã hồi tỉnh trở lại nhưng Thái hoàng Thái hậu, Hoàng thái hậu cũng như Hoàng Hậu không ai dám nhắc câu nào đến chuyện phế trừ biến pháp nữa, đành cáo từ rời đi.
Sau khi chờ các nàng lần lượt rời đi hết, Tống Thần Tông mới trở mình ngồi dậy, quay sang Đỗ Văn Hạo mà cười nói: “Khanh lại lần nữa giúp trẫm thoát khỏi chuyện khó xử rồi. Khanh làm rất tốt!”
Đỗ Văn Hạo thi lễ rồi nói: “Hoàng thượng, bệnh suy thận của ngài thật sự đã nghiêm trọng hơn rồi đó. Phải nghiêm trọng trị liệu thôi”.
Tống Thần Tông cười nói: “Lúc nãy trẫm đã nghe khanh nói hết rồi. Khanh nói như vậy cũng đúng, sao cũng được miễn là Thái hoàng Thái hậu với Hoàng thái hậu không khóc lóc đòi trẫm phế trừ biến pháp nữa”.
“Hoàng thượng, vi thần thật sự không nói quá lời đâu! Nếu như Hoàng thượng không kịp thời và nghiêm túc chữa trị căn bệnh này thì khéo còn nguy hiểm đến tính mạng đó”.
Tống Thần Tông nhíu nhíu mày: “chuyện này lần trước khanh cũng đã nói qua với trẫm rồi. Nhưng trẫm vẫn thấy cơ thể mình chẳng có chỗ nào không ổn cả, trừ việc tâm lý nhiều khi không thoải mái lắm. Thỉnh thoảng cũng bị mất ngủ, nhưng cái đó thì có nghiêm trọng gì đâu đúng không? Thôi khanh cứ kê một đơn thuốc cho trẫm uống điều trị bệnh là được chứ gì?
“Nhưng thưa Hoàng thượng, bệnh này không phải cứ điều trị là có kết quả tốt một cách dễ dàng. Phải đối chứng hạ dược, và nghiêm khắc uống thuốc theo kế hoạch điều trị. Nếu người cứ lúc uống lúc không thì việc điều trị sẽ không có hiệu quả gì đâu”.
“Thôi được, Thái hoàng Thái hậu cũng vừa mới nói rồi, cho khanh ở lại bên cạnh trẫm vài ngày tập trung chữa bệnh. Khanh cứ nhắc nhở đốc thúc trẫm, trẫm cũng sẽ không làm khó khanh đâu, sẽ theo yêu cầu của khanh mà uống thuốc đầy đủ. Thế là được rồi chứ hả?”
Tống Thần Tông lại một lần nữa thành công trong việc giả ngất để trốn tránh Thái hoàng Thái hậu và các nàng đến khóc than can gián. Hơn nữa, Đỗ Văn Hạo có thể nói là biết cách cường điệu sự việc nên áng chừng trong vài bữa nữa Thái hoàng Thái hậu các nàng chắc sẽ không dở chiêu khóc than để ép mình phế trừ biến pháp nữa. Nghĩ vậy nên tâm tình Tống Thần Tông vô cùng cao hứng, cười ha ha rồi đứng lên đi tới bên thư án tiền ngồi xuống.
Vốn dĩ tâm tình đang rất tốt nhưng khi nhìn thấy đống tấu chương trên bàn, Hoàng thượng không tránh được việc cảm thấy buồn bực. Nụ cười lại tan biến, Hoàng thượng bỗng chốc trở nên ngẩn ngơ, người thừ ra một lúc. Rồi người thở dài và chậm rãi cầm tấu chương lên bắt đầu phê duyệt.
Đỗ Văn Hạo không thấy Hoàng thượng nói cho phép hắn rời đi. Mà thuốc còn chưa được mang tới nên hắn lẳng lặng đứng ở góc tường phía sau. Dù gì thì Thái hoàng Thái hậu cũng đã lệnh cho hắn phải luôn túc trực chăm sóc cho sức khỏe của Hoàng thượng rồi còn gì.
Một lát sau, Tống Thần Tông đột nhiên giơ tay, đạp một phát thật mạnh xuống trác án. Nghe bịch một cái, Đỗ Văn Hạo hoảng sợ liếc mắt nhìn, chỉ thấy Tống Thần Tông sắc mặt xanh mét, tay cầm một bản tấu chương ném xuống đất. Rồi Hoàng thượng đứng dậy, tay bắt chéo sau lưng không ngừng đi đi lại lại trong phòng.
Đỗ Văn Hạo vội vàng quay đi chỗ khác, khoanh tay mà đứng im. Tốt nhất hắn không nên quan tâm đến những chuyện không thuộc phận sự của mình.
Cứ đi tới đi lui hết vòng này đến vòng khác một hồi, bỗng Tống Thần Tông đột nhiên đứng lại, tay chỉ Đỗ Văn Hạo lớn tiếng nói: “khanh thử nói cho trẫm biết xem nào, biến pháp rốt cuộc thì là tốt hay không tốt?”
Chương 300: Biến pháp chi biện
Còn tính đến bây giờ thì biến pháp cũng đã tồn tại được hơn hai mươi năm. Rất nhiều vấn đề liên quan đến nó đã được các quan lại làm tấu chương bẩm báo cho Hoàng thượng. Những ngày vi hành trước đó lại càng giúp Hoàng thượng thấy rõ hơn thực tế của việc thực thi biến pháp ở trong dân chúng như thế nào. Nên có thể nói, giờ đây trong bụng Tống Thần Tông đã rõ hơn ai hết những ưu điểm cũng như khuyết điểm của biến pháp. Ngay lúc này đây, câu hỏi mà Tống Thần Tông đưa ra quả thật không phải là muốn tìm kiếm một đáp án cho nó, mà chỉ là thuận mồm mà thốt ra thôi.
Đỗ Văn Hạo trong nháy mắt tự nhủ phải suy nghĩ thật kỹ trước khi trả lời câu hỏi này. “Không được hồ đồ” là những gì hiện ra trong đầu hắn. Không cần suy nghĩ nhiều cũng biết được lúc này hắn phải chịu hai tầng áp lực. Thứ nhất là không được để lộ ra rằng mình là người của tương lai, không được đề cập đến những vấn đề lịch sử vốn khá rõ ràng trong đầu hắn. Thứ hai, quan trọng hơn cả chính là việc hắn đang nói chuyện với Hoàng Thượng, mà Hoàng Thượng là ai cơ chứ? Có thể nói năng hồ đồ sao? Biến pháp mặc dù không thuận lợi, nhưng cũng đang là thứ mà ông ta hy vọng, nói linh tinh không hợp ý thì không biết cái đầu có còn trên cổ hay không.
Suy nghĩ cẩn thận một hồi, Đỗ Văn Hạo khom người nói: “Hoàng thượng, biến pháp là vấn đề quốc gia đại sự. Vi thần chỉ là một tiểu ngự y, đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ đến thang này thuốc kia. Đối với những chuyện chính sự như vậy, thật sự vi thần không dám to gan bình luận.”
“Trẫm hôm nay chính là muốn nghe quan điểm của một người không biết gì về chính sự như khanh. Khanh không phải lo lắng nhiều, cứ thoải mái nói những gì khanh nghĩ. Dù thế nào trẫm cũng sẽ thứ tội cho khanh”.
Đỗ Văn Hạo có chút sửng sốt. Nhưng kinh nghiệm đã bảo cho hắn không nên xúc động mà nói năng lung tung. Mặc dù hồi trung học hắn đã được học về biến pháp của Vương An Thạch và nghiên cứu, đánh giá về nó, nhưng đó là những kết luận trong quá trình hơn một ngàn năm, của rất nhiều các vị học giả nghiên cứu đi nghiên cứu lại vấn đề. Do đó, chắc chắn những nhận xét này đều sẽ rất khách quan và chính xác, nhưng Đỗ Văn Hạo cũng biết những lời này nói ra chắc chắn Tống Thần Tông sẽ không muốn nghe. Chẳng phải “thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng” hay sao. Lời thật sẽ luôn là khó nghe, cho dù Hoàng thượng có xá tội cho tất cả những gì mà hắn nói ra thì Đỗ Văn Hạo cũng quyết định mình chẳng tội gì mà cao hứng đi sờ cái vuốt sắc của con cọp cho chuốc họa vào thân.
Nghĩ tới đây, Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Hoàng thượng, vi thần thật sự không có nhiều hiểu biết về biến pháp nên không biết phải nói gì bây giờ?’
Tống Thần Tông chăm chú nhìn hắn trong chốc lát, “hừ” một tiếng rồi chỉ tay vào tấu chương nằm trên mặt đất nói: “vậy khanh thử xem qua cái tấu chương kia xem nào”.
“Vâng ạ”, Đỗ Văn Hạo tiến lên, khom lưng cúi xuống nhặt lấy tấu chương rồi chăm chú đọc. Đây là tấu chương mật về vấn đề quân bị đến từ thành đô phủ lộ nơi biên giới tiếp giáp với quốc gia Đại Lý. Tấu chương có nói người dân ở đó vì phản đối Thanh miêu pháp đã tạo biến. Quan phủ điều quân trấn áp khiến bạo dân phải lùi dần vào núi rồi tập hợp lại thành một nhóm loạn quân. Những cuộc chiến giữa nhóm loạn quân này với quan quân triều đình khiến dân chúng chết vô số, chưa kể đến gia súc vật nuôi… Thừa dịp này, các bộ tộc phiến loạn cũng tập hợp quân, liên tục gây phiền nhiễu khiến đời sống dân chúng vùng đó cũng như công cuộc dẹp loạn gặp vô cùng khó khăn.
Đỗ Văn Hạo xem xong thì khom người đặt lại bản tấu chương lên long án. Sau đó đứng khoanh tay im lặng không nói một lời.
Thấy Đỗ Văn Hạo cứ lặng im không nói gì, Tống Thần Tông cất tiếng: “khanh thấy thế nào?”
Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút rồi kính cẩn nói: “dân chúng bình thường chỉ cần có chút cơm để ăn, nếu không bị đói sẽ không bao giờ đến mức gây biến tạo phản. Việc này chắc hẳn còn nguyên gì đó chứ không chỉ riêng vì Thanh Miêu pháp. Tuy nhiên việc đó chắc phải quy điều tra thì mới biết chính xác mà nói được. Vi thần không sống ở địa phương đó nên không dám nói bừa.
“Khen cho câu nói không điều tra thì không biết chính xác mà nói được của khanh! Nói cho cùng, khanh đã đi theo trẫm vi hành một thời gian, đối với Thanh Miêu pháp nhiều ít thì cũng đã biết qua. Chúng ta ở tận đây, để điều tra được rõ ràng không phải là điều dễ dàng. Trẫm muốn nghe những suy đoán của khanh về vấn đề này vậy. Trẫm đã nói hôm nay khanh cứ thoải mái nói những gì khanh nghĩ, trẫm hứa sẽ không trách phạt gì”.
“Đa tạ long ân của Hoàng thượng”. Đỗ Văn Hạo nghĩ nhanh, Hoàng thượng đã hai lần cho phép hắn thoải mái nói ra những suy nghĩ của mình chứng tỏ người cũng coi trọng hắn. Nếu hắn hết lần này đến lần khác từ chối không nói gì thì không phải sẽ làm Hoàng thượng mất hứng lắm sao. Nghĩ vậy, hắn nghĩ thêm một chút rồi nói: “vi thần cho rằng Thanh Miêu pháp về cơ bản là một chính sách tốt và tiến bộ, có thể tránh cho dân chúng phải chịu khổ trước những hành động cho vay nặng lãi, lại giúp triều đình có thể gia tăng nguồn thu, như vậy chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện, song thắng hành động sao.
Tống Thần Tông mặt lộ vẻ mỉm cười, gật đầu nói: “Khanh coi như cũng có chút kiến thức về An Thạch biến pháp. Quả thật là biến pháp đã giúp cho quốc khố đầy lên thật. Nhưng khanh nói xem, nếu đây cũng là một chính sách tốt cho dân chúng thì sao họ lại không ủng hộ mà hết lần này đến lần khác, hết nơi này đến nơi khác phản đối dữ vậy?”
Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, biến pháp nếu như làm cho quốc khố gần đầy thì tất nhiên tiền đó từ đâu ra mà không phải là từ hầu bao của dân chúng. Trong khi dân chúng trước giờ phần lớn là vẫn đói nghèo, nhiều người thậm chí đến bát cơm cũng không có thì làm sao họ ủng hộ được cơ chứ. Tuy nhiên thật khó có thể tìm lời hợp lý để giải thích cho Hoàng thượng hiểu được nên Đỗ Văn Hạo quyết định phải chuyển đề tài: “lần trước, khi vi thần theo Hoàng thượng đi vi hành, vi thần từng cùng Vương An Thạch Vương đại nhân trò chuyện về biến pháp, nghe nói Thanh miêu pháp từng được Vương đại nhân xem xét, kiểm chứng và thông qua. Vương đại nhân cũng đã từng có lần áp dụng thí điểm về Thanh miêu pháp trong một vùng và được họ vô cùng hoan nghênh”.
“Không sai. Nhưng tại sao khi áp dụng trên cả nước thì lại kích khởi dân chúng phản đối như vậy?”
“Vi thần nghĩ rằng, khi áp dụng thí điểm tại một vùng, phạm vi áp dụng có thể nói là khá nhỏ nên những điểm tốt của Thanh miêu pháp được tận dụng rất tốt. Nếu có phát sinh vấn đề gì rắc rối thì ngay lập tức có thể giải quyết, khắc phục. Như vậy, biến pháp đã được thực thi đúng với ý tưởng ban đầu của nó, và tất nhiên là toàn ý tốt cho cả quốc gia lẫn người dân. Nhưng khi áp dụng mở rộng cho toàn đất nước thì không dễ dàng như khi áp dụng thí điểm cho một vùng. Nhiều nơi gặp khó khăn không thể giải quyết ngay, mỗi cùng lại giải quyết một kiểu khiến bắt đầu xuất hiện bất đồng giữa các vùng. Rồi những tham quan ô lại bắt đầu xuất hiện, mượn biến pháp để làm lợi cho bản thân, bóc lột của dân chúng. Điều này đã khiến Thanh miêu pháp bị biến dạng, không còn giữ được những ưu điểm như nguyên bản ban đầu.”
Đỗ Văn Hạo dự đoán những lời này sẽ không khiến Tống Thần Tông cảm thấy bất ngờ vì thể nào cũng có người tâu với Hoàng thượng rồi. Thật ra, quan lại trong triều hầu như ai cũng biết phương châm ban đầu của biến pháp là “Vi chi dĩ, hoãn nhi mưu chi” (sử dụng trước, trả dần sau) nhưng rồi Vương An Thạch vì quá nôn nóng với mục tiêu làm được cái gì đó nhân dịp năm mươi năm thanh lập đất nước Trung Quốc nên đã vội vàng mà bỏ qua quy luật làm việc tự nhiên, do đó Thanh Miêu pháp đã gặp phải tác dụng ngược.
Những lời này của Đỗ Văn Hạo nếu nói ra những ngày biến pháp mới bắt đầu được áp dụng chắc chắn sẽ khiến Tống Thần Tông vô cùng tức giận. Nhưng lúc này tình huống đã có sự thay đổi lớn. Nhất là khi Hoàng thượng đã có cơ hội được chứng kiến tận mắt những gì mà tác dụng ngược của biến pháp gây ra, chắc người sẽ cân nhắc cẩn thận hơn. Quả thật, Tống Thần Tông giật mình, mặt lộ vẻ hoài nghi chăm chăm nhìn Đỗ Văn Hạo rồi hỏi lại: “khanh nói rõ hơn một chút xem nào? Biến pháp đã bị biến đổi gây tác dụng ngược như thế nào?”
Những lời Đỗ Văn Hạo vừa nói chính là những đánh giá của các học giả đối với biến pháp mà hắn được học thời ở trung học. Giờ Hoàng thượng muốn hắn nói rõ hơn, quả thật chẳng còn cách nào khác nên hắn đành kiên trì nhớ lại những kiến thức đó, rồi cân nhắc từng câu chữ để nói với Tống Thần Tông: “lần vi hành trong dân chúng vừa rồi, thần nghĩ Hoàng thượng đã nhìn thấy phần nào vấn đề đó. Thanh miêu pháp ban đầu là cho phép dân chúng tự nguyện có vay hay không, nhưng khi áp dụng đã bị các quan lại biến thành ép buộc. Những người không muốn vay thì phải vay, những người muốn vay thì lại không được vay. Lãi suất cũng bị đội lên rất nhiều lần. Như vậy biến pháp không còn là một chính sách hỗ trợ cho dân chúng mà lại trở thành gánh nặng cho dân chúng mất rồi”.
Tống Thần Tông gật đầu đồng ý, trầm giọng nói: “Trẫm đã cho điều tra không ít quan lại như vậy, và đã trừng phạt rất nặng, theo ý kiến của ngươi tại sao làn sóng phản đối vẫn không ngừng?”
“Con người ta ai ai cũng hám lợi cả. Vì tiền bạc của cải thì chỉ cần biết việc gì có mang lại lợi nhuận là con người ta sẽ không ngại mà phạm luật. Dùng quyền lực quan lại đi kiếm tiền đối với quan lại từ xưa đến nay mà nói vẫn là cách kiếm tiền có thể coi là dễ dàng nhất, cho nên những quan lại có thể kháng cự lại mối lợi này có thể khẳng định là không có nhiều.
Tất nhiên những con người không có trái tim này luôn rất giàu có.”
“Cũng đúng. Thế khanh cảm giác được vấn đề lớn nhất của Thanh miêu pháp lúc này là gì?”
Thấy Hoàng thượng chăm chăm hỏi mình - một thái y trẻ tuổi - việc quốc gia đại sự như thế này, Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy rúng động trong lòng. Hắn muốn cân nhắc kỹ càng, nhưng rồi không hiểu sao hắn vẫn thốt lên: “quan thương sẽ khó có thể sáng suốt để phân định rạch ròi được hai chuyện đó”.
Tống Thần Tông trong lòng cảm thấy chấn động, chậm rãi hỏi: “Khanh nói vậy có ý gì?”
“Chính phủ nên là cơ quan kiểm soát các vấn đề kinh tế xã hội, chứ không nên tham gia trực tiếp”.
Đỗ Văn Hạo thật ra không có chuyên môn về kinh tế học nên kỳ thật, hắn không hiểu nhiều về các nguyên lý kinh tế. Nhưng ở trung học hắn đã được học về Kinh tế chính trị, lại sinh sống ở xã hội hiện đại nên những tin tức nóng, những nguyên lý nổi tiếng ngày ngày xuất hiện trên báo chí phần nào tác động đến hắn, khiến hắn không muốn nhớ cũng đã ghi dấu ấn trong đầu.
Đối với Đỗ Văn Hạo thì như vậy, nhưng với Tống Thần Tông, trước giờ ngài chưa bao giờ nghe qua những lời nói như vậy. Hoàng thượng ngạc nhiên mà hỏi lại: “Cái gì là chính phủ? Cái gì là cơ quan kiểm soát?”
“Chính phủ chính là quan phủ triều đình, là nha môn. Đơn giản mà nói, đối với các hoạt động kinh tế của quốc gia, triều đình nha môn nên là người giữ gìn trật tự, xây dựng và đưa ra những thể chế, quy tắc rồi kiểm tra việc áp dụng xem có đúng như đã đề ra hay không? Nếu như không có vấn đề gì, triều đình có thể an hưởng thái bình. Nếu như có chuyện thì phải đứng ra triệt để giải quyết, trừng phạt thẳng tay những kẻ vi phạm để người khác nhìn làm gương, không dám vi phạm tiếp. Nhưng dù gì thì triều đình cũng không được đứng ra trực tiếp buôn bán kinh thương. Nếu triều đình làm vậy, quan lại sẽ lợi dụng chức quyền mà vơ vét cho đầy túi tham, việc này lịch sử ngàn năm đã có nhiều minh chứng lắm rồi. Đương nhiên, cũng có trường hợp mà triều đình có thể kinh doanh buôn bán, khi đó phải tách quốc khố ra, thành lập bộ phận kinh doanh quốc doanh tự chủ hạch tính độc lập và cùng phải thiết lập nên công ty giám sát, kiểm tra cơ chế kinh doanh đó.
Đỗ Văn Hạo tuôn một tràng, lại sử dụng một số từ ngữ chỉ có trong xã hội hiện đại khiến Tống Thần Tông nghe xong mà thấy ong ong, không hiểu ra sao. Có vài chuyện như nha môn kinh thương hay quan viên lợi dụng chức quyền gì đó thì Hoàng thượng còn hiểu và cũng biết đó là bệnh chung của bất cứ triều đình nào mà chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Nhưng với đề xuất của Đỗ Văn Hạo thì ngài vẫn còn ù ù cạc cạc chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, bèn cau mày hỏi lại: “Cái gì là công ty, cái gì là quốc doanh?”
“Công ty chính là một tổ chức cơ cấu chuyên môn về việc buôn bán, quốc doanh ngụ ý triều đình quan phủ làm ăn kinh doanh. Quan viên triều đình muốn kinh doanh phải tách ra độc lập thì mới không thể lấy quyền lực triều đình ra hậu thuẫn, tránh được tình trạng lạm dụng chức quyền mà ngư lợi”.
Thì ra là vậy. Đạo lý này nếu phân tích vậy thì Tống Thần Tông đương nhiên có thể hiểu rõ, nhưng là có một vấn đề mà Hoàng thượng nghĩ chưa ra, bèn hỏi luôn: “nhưng nếu không kiếm tiền thì làm sao lấp được đầy quốc khố?”
“Hoàng thượng, biến pháp ngay từ đầu có nêu rõ chỉ khi dân chúng an cư lạc nghiệp thì mới có thể quốc thái dân an”.
“Thì đương nhiên là vậy! Khanh có ý tưởng gì cụ thể hơn không?”
Tất nhiên là Đỗ Văn Hạo sẽ có ý tưởng, vì những điều này trong sách của hắn khi học ở trung học cũng đã có nói qua rồi. Tuy không nhớ hết tất cả những gì trong sách nói nhưng quả thực, nếu cần phải nói Đỗ Văn Hạo vẫn có thể nói được. Nhưng vấn đề là có nên dùng những kinh nghiệm đúc kết qua bao nhiêu năm của thế hệ tương lai để thay đổi quá khứ hay không? Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một hồi rồi tự nhủ, nếu những điều hắn tiết lộ mà có thể giúp tu chỉnh biến pháp, đem lại những lợi ích thiết thực thì chắc nói ra một ít cũng không sao.
Đỗ Văn Hạo ho nhẹ một tiếng, nói: “Bẩm Hoàng Thượng, vi thần nghĩ rằng cái chưa được của Thanh miêu pháp chủ yếu nằm ở việc các quan lại thi hành nó không đúng với ý tưởng ban đầu, thậm chí còn biến hóa nó theo hướng có lợi cho bản thân. Chỉ cần các quan lại có quyền lực tham dự vào, họ sẽ vì lợi ích cá nhân mà làm sai biến pháp. Rồi cuối cùng đáng nhẽ là “huệ dân chính sách” (chính sách tốt cho dân) thì Thanh miêu pháp lại biến thành “hại dân chính sách! Cho nên, nếu muốn Thanh miêu pháp giữ nguyên như tư tưởng ban đầu, chỉ phát huy ưu điểm của nó thì phải tiến hành cải cách, phải tách quan lại khỏi việc kinh doanh. Nói cách khác, phải biến “quan làm kinh doanh” thành “dân làm kinh doanh”, đưa nó hoạt động theo những quy luật kinh tế của thị trường, từ đó mới có thể thực hiện song doanh được.”
Đỗ Văn Hạo liên tiếp dùng những thuật ngữ và kiến thức của kinh tế chính trị học hiện đại trong lời nói của mình khiến Hoàng Thượng lại càng trợn tròn mắt, câu hiểu câu không: “Khanh nói rõ hơn chút xem nào? Như thế nào để có thể cải cách biến pháp?”
“Quan phủ cùng quan buôn giờ phải tách biệt hẳn nhau ra. Đối với quan buôn thì phải tiến hành phân chế cải tạo!” Đỗ Văn Hạo cố gắng mãi mà vẫn không sao tìm được những từ ngữ thích hợp để có thể giải thích cho Hoàng Thượng nghe. Cái khái niệm quan buôn, ngay ở thời hiện đại còn khó tách bạch ra, nói gì tới thời cổ đại này. Hắn suy nghĩ một chút và thấy có khi cứ dùng các thuật ngữ hiện đại lại còn dễ hiểu hơn, bèn nói: “Quan buôn ở đây có thể hiểu là những quan lại có dính dáng đến chuyện tiền nong của quốc khố, có khả năng kiếm thêm tiền từ các nguồn của quốc khố. Những quan buôn này phải tách bạch ra so với các quan lại thực hiện nhiệm vụ cụ thể đơn thuần, không dính dáng tới vấn đề quốc khố.”
Lòng vòng một hồi, Đỗ Văn Hạo nhìn mặt của Hoàng Thượng thì cảm thấy mình cũng bị lây cái sự mù mờ từ ông ta. “Hoàng Thượng, đơn giản mà nói chính là đơn vị được giao việc cho dân vay vốn theo Thanh miêu pháp phải độc lập hoàn toàn với đơn vị phụ trách quốc khố, mà trước giờ thường là quan phủ thực hiện cả hai. Đồng thời phải cải cách phú thương, đưa vào khuôn khổ hoạt động. Quan buôn với phú thương có thể kết hợp hình thành nên một thứ, cứ gọi là xí nghiệp đi. Xí nghiệp sẽ tiến hành hoạt động cho vay trên cơ sở Thanh Miêu pháp, khi làm vậy họ sẽ thu được lợi nhuận cùng nhau hưởng. Lợi nhuận sẽ được chia trên cơ sở góp vốn của hai bên.”
Đỗ Văn Hạo lúc này đã mang khái niệm về mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần để giải thích về Thanh miêu pháp cho Tống Thần Tông nghe. Hắn nhìn vẻ mặt kinh ngạc của Tống Thần Tông, tiếp tục nói: “Cái gọi là xí nghiệp này phải thực hiện hạch toán độc lập. Tức là thế này, quan phủ cử ra một người, có thể là quan lại trong bộ máy của phủ đó, tham gia vào việc quản lý phần góp vốn của quốc khố. Người này phải tách bạch hoàn toàn với các nhiệm vụ, quyền lực khác trong hệ thống quan quyền, đảm bảo không tự tư tự lợi. Xí nghiệp có cả phần góp vốn của thương buôn, tư nhân. Phần góp vốn của quan phủ không được vượt qua một nửa. Có thể chia tất cả vốn của một xí nghiệp ra làm nhiều phần nhỏ, mỗi phần đại diện cho một đơn vị lợi ích, gọi là cổ phần. Mỗi cá nhân góp vốn được nhận số cổ phần tương đương với giá trị vốn mình góp. Cổ phần này còn đại diện cho tiếng nói của người góp với cả xí nghiệp. Mỗi khi có vấn đề lớn, sẽ tiến hành bỏ phiếu, rồi quyết định dựa trên quy tắc thiểu số phục tùng đa số. Như vậy, người góp nhiều vốn sẽ có nhiều tiếng nói, nhiều quyền lợi hơn.”
“Chờ một chút!” Tống Thần Tông thấy Đỗ Văn Hạo lại chuẩn bị nói tiếp liền giơ tay chặn ngay họng hắn lại: “Ngươi nói chậm một chút đi, trẫm nghe không rõ.” Đồng thời đi lại long án ngồi xuống, đưa tay vẫy vẫy ý bảo Đỗ Văn Hạo cũng ngồi xuống.
Đỗ Văn Hạo nhìn thấy ánh mắt đầy hứng thú và chờ mong của Tống Thần Tông thì gánh nặng trong lòng đã được giải khai. Hắn liền khom người tạ lỗi, rồi lễ phép ngồi xuống, nhưng cũng chỉ dám ghé ghé cái mông vào cái ghế. Trong đầu thì bắt đầu suy nghĩ thêm nên giải thích tiếp như thế nào. Suy nghĩ một hồi, hắn đem mọi kiến thức mà hắn còn nhớ về công ty cổ phần, rồi công ty trách nhiệm hữu hạn ra giải thích cho Tống Thần Tông nghe. Hắn cũng nói qua về việc tái cơ cấu, rồi chuyển đổi mô hình, cả về việc họp cổ đông lẫn mô hình quản lý trong công ty như hội đồng quản trị, ban giám đốc rồi các cấp trưởng phòng, ban giám sát. Biện pháp biểu quyết thường được dùng khi ra quyết định. Còn cả việc làm sao để thành lập nên những doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân rồi hợp doanh, cách nào thì hợp lý nhất để có thể áp dụng và quản lý những chính sách trong Thanh Miêu pháp.
Đỗ Văn Hạo mặc dù tốt nghiệp đại học về y khoa nhưng chuyên ngành pháp y. Trong số những môn học hắn được học ở trường ngoài những kiến thức chuyên môn về y dược, hắn còn được học những môn đại cương về luật dân sự hay luật công ty. Thêm nữa hắn cũng đã từng tìm hiểu qua về vấn đề này khi đi thi tuyển xin việc nên cũng có được những kiến thức cơ bản nhất.
Tống Thần Tông chăm chú lắng nghe những gì Đỗ Văn Hạo nói. Tuy chưa thật sự hiểu được ngay những gì hắn đang giảng giải nhưng chỗ nào không hiểu, Tống Thần Tông lại hỏi lại ngay, mải mê tìm hiểu đến mức thuốc đưa lên cũng không có động tay mà nâng lên uống. Hai người liên tục hỏi han, giảng giải, thoáng chốc đã nhiều canh giờ trôi qua và cuối cùng, Tống Thần Tông cũng hiểu được hết những khái niệm mới mà Đỗ Văn Hạo đã đưa ra đó.
Cuối cùng Đỗ Văn Hạo chốt lại: “Nếu áp dụng cơ chế phân luồng, thực hiện biện pháp hạch toán độc lập giữa những quan phủ và quan buôn thì sẽ tránh được việc quan lại triều đình lợi dụng chức quyền khi thực thi Thanh miêu pháp. Đồng thời cũng tránh được việc chia bè chia phái trong đội ngũ quan lại hay việc cấu kết làm liều ở những quan chức địa phương. Việc phân chia, xác định lợi tức cũng có thể linh loạt căn cứ trên thực trạng việc cất trữ lương thực và nhu cầu thị trường ở địa phương đó, tránh việc tạo cầu giả để đẩy lợi tức cao lên. Một việc hết sức quan trọng đó là phải tạo ra các cơ chế cho phép các địa phương có sự tự do nhất định trong phát triển. Bản thân những người dân, phú hộ, thương nhân của mỗi địa phương hay trên cả nước đều phải được quyền tự do cạnh tranh với nhau. Luật lệ đưa ra phải công bằng, bảo vệ quyền lợi của những người góp vốn, đặc biệt là với những xí nghiệp có cả phần vốn của quan phủ. Có như vậy mới thúc đẩy mọi người đồng tâm hiệp lực cùng phát triển xí nghiệp, tạo động lực cho mọi người dân phấn đấu làm giàu.”
Đối với Tống Thần Tông mà nói, đây là một cái quan điểm hoàn toàn mới, mới so với tất cả những gì đã từng xảy ra từ các thế hệ trước, mới cả với những gì mà ông ta có thể tưởng tượng được. Ngồi mấy canh giờ mới có cảm giác lờ mờ hiểu được những gì hắn nói, nhưng sau đó Tống Thần Tông vẫn phải trầm ngâm một lúc khá lâu rồi mới nói: “Biện pháp của khanh thực sự là rất mới lạ. Bất quá, Trẫm nghe nói khi dùng thuốc, chẩn bệnh khanh cũng vẫn hay có những phương pháp rất mới lạ, khác người, nên cũng không coi đây là điều gì đáng ngạc nhiên. Chỉ là, những quan điểm này quả thật là quá mới, ngay bản thân trẫm cũng chưa thể lĩnh hội ngay, nói gì tới những người khác.” (***, lão này tự tin quá ta)
“Chính vì vậy, để thực hiện thì cần phải tuần tự như tiến. Trước tiên tiến hành thí điểm ở quy mô nhỏ, sau khi thành công thì mới mở rộng ra. Lúc đó mọi người đã nhìn thấy một mô hình thành công thì sẽ dễ bị thuyết phục hơn. Chỉ là chúng ta cần phải kiên nhẫn một chút mà thôi.” Đỗ Văn Hạo dường như đã tính trước tất cả những lo lắng của Tống Thần Tông.
Tống Thần Tông mỉm cười: “Ha ha, hôm nay khanh được phen giáo huấn trẫm nhỉ…”
Đỗ Văn Hạo kinh hãi vội vàng khom người nói: “Vi thần không dám! Vi thần chỉ là…”
“Không cần phải lo lắng thế. Khanh nói không sai, trẫm cũng đã chừng mực nào đó phát hiện ra biến pháp chỉ có những tác dụng nhất thời và trong ngắn hạn, có thể nói chỉ là giải pháp nhất thời. Các biện pháp trong đó cũng chưa được thực hiện một cách cương quyết, đúng với tôn chỉ: “vi chi dĩ, hoãn nhi mưu chi” (sử dụng trước, hoàn trả sau) mà trẫm thực sự đã đề ra. Ân khan bộ pháp thì cũng khá là tiên tiến, giúp trẫm sáng ra rất nhiều. Rất tốt. Giờ thì trẫm muốn biết thêm suy nghĩ của khanh biến pháp cũ, khanh cứ thoải mái nói xem nào”.
Đỗ Văn Hạo đang rất cao hứng nên suy nghĩ một chút rồi khom người nói: “Trước tiên phải nói về Mộ dịch pháp”
“Được. Trẫm nghe đây”
“Mộ dịch pháp quy định về việc thuê người. Hiện nay cần có biện pháp để các gia đình phú hộ, các địa chủ từ lớn tới nhỏ, từ kinh thành cho tới các địa phương khác, giải phóng các lao động làm thuê, những người làm nha hoàn, gia đinh, vân vân trong những nhà này. Cái này rất có thể cần các nguồn kinh phí từ triều đình, hỗ trợ cho các địa chủ, phú hộ. Cũng phải xuất tiền để hỗ trợ các gia đình nông dân gặp khó khăn về tài chính. Vấn đề này mặc dù nghe có vẻ không tốt, nhưng thực ra lại rất có lợi bởi người nông dân được giải phóng, sức lao động được tăng cao, năng lực làm việc cũng sẽ tăng cao. Sức dân được bồi dưỡng thì quốc gia có lợi. Có thể nói là nhất cử lưỡng tiện.”
Tống Thần Tông nghe vậy thì mỉm cười nói: “Vậy vì sao một chính sách nhiều lợi ích như vậy lại bị nhiều người phản đối, thậm chí có không ít người phản đối rất kịch liệt?”
“Khởi bẩm Hoàng Thượng! Mấu chốt chính là từ trước tới nay mọi người vẫn có tâm lý sợ bị thiệt. Việc giải phóng những nha hoàn, gia đinh không có việc trong các gia đình giàu có có thể không ảnh hưởng tới các gia đình này nhiều, nhưng nó cũng khiến họ bị thiệt thòi. Bản thân triều đình nếu có chính sách, có xuất ngân quỹ ra nhưng chưa chắc lúc đến tay họ thì được đúng như theo luật định.
Trên thực tế, có rất nhiều gia đình nghèo khó, bao gồm cả những hộ không có nam, những hộ chỉ có một nam, vân vân, đều muốn nhận được trợ giúp. Chính sách này nếu không làm cẩn thận sẽ không đạt hiệu quả. Việc quyết định hộ nào được giúp đỡ, hộ nào không, phân chia thế nào, vân vân, đều phải do các quan phụ mẫu địa phương quyết định. Thế nhưng chính sách lại không đề cập tới quyền lợi của các quan lại phụ trách việc này. Hơn nữa, ngân sách của các địa phương cần dùng vào rất nhiều việc, không biết cân đối thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, nếu lợi ích không được đảm bảo, mà nghĩa vụ lại nhiều, các quan lại sẽ không muốn thực hiện.”
Khuôn mặt Tống Thần Tông trầm ngâm một lát rồi khẽ sáng lên, chậm rãi nói: “Tốt lắm, khanh hãy nói tiếp ý kiến của mình về các biến pháp khác trẫm nghe.”
“Dạ vâng! Tiếp theo thần xin nói về Dịch pháp. Các quan phủ phụ trách dịch ty đều được phép làm nhiệm vụ bình ổn giá cả, thu mua vật tư hàng hóa tích trữ. Lúc khan hiếm thì xuất ra để tránh tình trạng giá cả lên cao, lúc thừa thì xuất tiền mua vào kho để giá cả không đi xuống. Đồng thời việc bình ổn giá này của các quan phủ cũng nhằm hạn chế sự lũng đoạn thị trường của các thương buôn lớn. Nhìn chung, đây cũng là một biến pháp có nhiều lợi ích, nhưng là, nó giống với Thanh miêu pháp, không tách rời được quan lại và quan buôn. Quyền lợi tập trung quá nhiều ở một số người.
Nếu để cho các quan phủ nhúng tay vào vấn đề kinh tế thì sẽ có nhiều điều lo ngại. Lúc trước ở Đông minh huyện vi thần đã xem xét rất rõ ràng, vốn việc mua bán phải theo giá thị trường để đảm bảo quyền lợi của dân chúng, nhưng thực tế các quan lại đã tiến hành mua bán không công bằng, sử dụng quyền lực của mình để ép dân, mượn cơ hội để trục lợi. Cái này nhìn chung là bệnh của đa số quan lại, khó mà trách một ai đó được. Hơn nữa, vi thần vẫn cảm giác biến pháp này có chút không ổn.”
Tống Thần Tông không tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng giọng có chút tò mò: “Không ổn ở chỗ nào?”
“Dạ bẩm! Quốc gia thiết lập dịch ty, kỳ thật chính là nhằm mục đích đối phó với một số ít thương nhân có vốn lớn, chiếm thị phần chủ yếu, thực hiện các thủ đoạn lũng đoạn thị trường nhằm trục lợi cho mình. Sở dĩ quan phủ có thể làm việc này bởi trên thực tế đối mặt với quan phủ chính là đối mặt với triều đình, nên không ai có gan và dại dột mà dây vào cả. Thế nhưng khi quan phủ kinh doanh, can thiệp vào thị trường với vai trò không khác gì mấy so với một thương nhân lớn khác thì mọi chuyện lại trở nên không ổn. Vốn quan lại dịch ty phải đảm bảo cạnh tranh công bằng thì giờ lại trở thành một thương nhân quá lớn, quyết định hoàn toàn thị trường mà không ai dám phản đối và có thể can thiệp. Thưa Hoàng Thượng, độc quyền chính là địch nhân lớn nhất của phát triển kinh tế, có cạnh tranh thì mới có phát triển. Do đó, Dịch pháp nhìn từ khía cạnh này có thể nói là không thành công.”
Đỗ Văn Hạo nói một hồi trở nên vô cùng cao hứng, thao thao bất tuyệt, đến khi nói xong đoạn này mới chột dạ ngẩng đầu nhìn Tống Thần Tông. Hắn chỉ thấy sắc mặt ông ta đã trở nên xanh mét, tâm lý không khỏi lạnh run, chỉ sợ hứng khởi nhất thời của mình đã khiến cho Hoàng Thượng tức giận trong lòng, vội vàng thưa dạ: “Vi thần dại mồm nói bậy, kính bẩm Hoàng Thượng lượng thứ!”
Tống Thần Tông dừng lại một chút, rồi chậm rãi nói: “Không sao, trẫm đã nói, đêm nay khanh nói gì trẫm cũng xá tội cho khanh, không phải quá lo lắng như vậy. Hơn nữa, ngươi cũng không phải là nói bậy thiếu suy nghĩ. Trẫm nhận thấy từ trước tời giờ mỗi lời ngươi nói ngoài sự suy nghĩ sâu sắc còn khiến trẫm có cảm giác từng trải, lại có một tấm lòng độ lượng, yêu thương dân nghèo. Đỗ Văn Hạo à Đỗ Văn Hạo, khanh tuổi còn trẻ như vậy, y thuật đã đến bực đương kim ngự y trước đây, hơn nữa thuật trị quốc lại có nhiều điểm hơn người. Ha ha, không nghĩ ra bên người trẫm lại còn có một nhân tài đến bực này.”
Đỗ Văn Hạo thực sự không biết Tống Thần Tông nói những lời này xuất phát từ nội tâm hay chỉ là nói ngược những suy nghĩ trong lòng, kinh sợ nói: “Vi thần không dám nhận, vi thần thực chỉ có chút tài lẻ về y thuật, còn cái gì gọi là thuật trị quốc thì vi thần thật không dám nhận!”
“Ha ha, không cần phải khiêm tốn, khanh hãy nói thêm về các biến pháp khác cho trẫm nghe đi.” Tống Thần Tông khoát tay cười.
Nói mãi từ đầu tới giờ, nói ngược nói xuôi mãi cuối cùng xém chút nữa thành xôi hỏng bỏng không, cái đầu cũng không giữ nổi. Bây giờ đã tới nước này thì chỉ còn biết liều mình đánh cuộc một phen mà thôi. Vừa rồi cũng có thể coi như là thoát một phen hú vía, ngược lại còn được Hoàng Thượng khích lệ. Nhiệt huyết Đỗ Văn Hạo tự dưng trào lên, hắn cảm nhận được mình có thể đóng góp một chút cho biến pháp, cho quốc gia, cho dân tộc. Không chừng sau này còn có cái gọi là “Đỗ Văn Hạo biến pháp” gì đó có thể giúp Đại Tống trở thành một siêu cường trên thế giới. Cái này so với việc giúp đỡ một số hữu hạn bệnh nhân thông qua y thuật của mình thì lớn lao hơn không biết bao nhiêu lần. Nghĩ vậy, hắn khom lưng nói tiếp: “Thủy lợi pháp nông điền cùng với Thuế pháp đều là những biến pháp rất có lợi cho dân cho quốc gia. Hai biến pháp này nếu kiên quyết thi hành thì sẽ mang lại nhiều thành quả. Chỉ là, theo ngu ý của vi thần, thực hiện biến pháp này thì dân chúng cũng không thật sự có nhiều lợi ích.”
Theo như những gì Đỗ Văn Hạo nghe nói thì biến pháp này không thực sự được như mong đợi. Đương nhiên là với lợi thế của cả ngàn năm sau này, có người tổng kết cho hắn hưởng lợi mà thôi. Tống Thần Tông thực thi biến pháp Thủy lợi nông điền cùng với phương điền đích xác không được tốt. Đỗ Văn Hạo không phải là quan phủ, không phải là người thực thi các biến pháp, cũng không phải là người trực tiếp chịu tác động của các biến pháp này, nhưng hắn lại là người biết rõ những gì sẽ xảy ra sau này, và tất nhiên hắn có thể gợi ý cho Tống Thần Tông những điều mà người khác không thể gợi ý được.
Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Thưa Hoàng Thượng, Bảo giáp pháp có tác dụng không lớn bởi vì việc thực thi quá nghiêm khắc. Điều này mặc dù có tác dụng răn đe mọi người làm theo nhưng ngược lại khiến cho dân chúng có cảm giác mất an toàn, cũng ảnh hưởng tới cảm giác hạnh phúc, yên bình nên thực sự có thể nói là phản cảm với dân chúng.”
“Ừ, sao nữa?” Tống Thần Tông không hề tỏ thái độ gì.
Đỗ Văn Hạo nuốt một miếng nước bọt vào bụng, trái tim khẽ nhảy lên một tiếng, rốt cuộc chấp nhận liều một phen, chắp tay nói: “Hoàng Thượng, vi thần cho rằng để giải quyết triệt để vấn đề, ngoài việc khuyến khích dân chúng làm việc, kinh doanh, không bằng cho phép dân chúng và thương buôn của chúng ta buôn bán với ngoại quốc, lấy thêm nguồn thu từ ngoại quốc về cho ngân khố quốc gia.”
Ánh mắt Tống Thần Tông có chút động, nhưng cũng không phải là hờn giận, nhíu mày nói: “Ồ, vậy nên làm như thế nào?”
Đỗ Văn Hạo đáp luôn: “Khởi bẩm, nên thành lập những công ty quốc doanh chuyên làm nhiệm vụ buôn bán với nước ngoài. Triển khai thông thương với các nước như Đại Lý, Thổ mạc, Đại Liêu, thậm chí cả các nước Tây phục. Mua các sản vật của họ, đồng thời bán các đặc sản chúng ta có nhiều. Trước mắt, tốt nhất là thực hiện buôn bán với Cao Ly, Nhật Bản, tham gia cùng các tuyến thương mại của họ.”
“Cái này cũng không phải là một chủ ý quá mới mẻ.” Tống Thần Tông thản nhiên cười nói, “các triều đại trước đây cũng đã từng làm như vậy, ví dụ như con đường tơ lụa Tây Vực, không phải cũng là đồng dạng như khanh nói hay sao?”
Đỗ Văn Hạo điềm tĩnh lễ phép trả lời: “Dạ đúng, nhưng bất quá những cái này đều có quy mô quá nhỏ, hơn nữa hàng hóa buôn bán ra bên ngoài còn ít, chưa thực sự là những cái mà có thể bán được với giá cao.”
“Nghe lời này, có vẻ như khanh biết chúng ta có sản vật gì đó có thể bán ra bên ngoài với giá cao?” Tống Thần Tông lộ nét hứng thú.
Kể từ khi xuyên việt tới đây, trong đầu Đỗ Văn Hạo vẫn luôn luôn nghĩ tới việc làm một vài vật phẩm của xã hội hiện đại để kiếm tiền ở thời cổ đại này. Chỉ là hắn vẫn vô cùng bận rộn với việc hành y, chẩn bệnh, cấp thuốc cứu người, thời gian gần đây lại tất bật với các công việc trong triều nên căn bản không có thời gian cho ý tưởng đó. Bây giờ nhân dịp được nói chuyện với Hoàng Thượng, có cơ hội không chừng giúp được Đại Tống tăng cường quốc lực, nên vội khom người nói: “Dạ bẩm Hoàng Thượng, vi thần có một chút bí phương và phát minh có vài phần độc đáo, có thể dựa theo đó chế tạo ra các sản phẩm được xã hội hoan nghênh. Những sản phẩm này không những có thể tạo việc làm cho rất nhiều người trong xã hội, tạo thêm thu nhập cho dân chúng mà còn qua đó khiến cho ngân sách quốc gian được tăng cao nhờ việc thu thuế.”
Vẫn đang khom người nói nên Đỗ Văn Hạo không phát hiện lúc này Tống Thần Tông đã không còn nét cười nữa, ánh mắt trở nên lạnh lùng, khóe miệng còn chứa một tia châm chọc, thản nhiên nói: “Ồ, bí phương gì? Phát minh gì vậy? Có phải là dược phẩm không?”
Chương 301: Cản áp tử thượng giá!
“Yêu cầu gì?” Tống Thần Tông lạnh lùng nói.
“Ban bố chế độ luật bảo vệ thương hiệu sản phẩm, bảo hộ bản quyền phát minh.”
Tống Thần Tông kinh ngạc cau lông mày lại tỏ ra vô cùng khó chịu: “Thế nghĩa là gì?”
“Đó chính là khi vi thần phát minh ra một sản phẩm, sau đó sẽ dán nhãn mác hiệu sản phẩm lên nó, cái này chứng tỏ rằng sản phẩm đã thuộc về vi thần, và chỉ có vi thần mới có quyền phát hành buôn bán nó, người khác nếu muốn bán sản phẩm này thì buộc phải trả tiền cho vi thần thì mới được phép bán, cái này gọi là mua bản quyền sử dụng.”
“Nếu người ta không tuân thủ như vậy, thì sẽ coi như là phạm luật, và như vậy sẽ phải chịu trách nhiệm của pháp luật, và sẽ bị pháp luật trừng phạt theo quy định.”
Sắc mặt của Tống Thần Tông lúc này đã sa sầm xuống hết mức có thể, chỉ lạnh lùng hỏi lại: “Còn gì nữa không?”
Đỗ Văn Hạo cũng đã phát giác ra được thần sắc không vui của Tống Thần Tông, bất giác suy nghĩ xem mình đã nói sai ở chỗ nào, đồ của mình phát minh ra mà người khác muốn sử dụng thì dĩ nhiên phải đưa tiền cho mình rồi, lẽ nào nói như vậy cũng không đúng sao? Nghĩ vậy hắn bèn cố gắng kiên trì nói tiếp: “Vi thần cho rằng, quốc khố lúc này trống rỗng, nguyên nhân chủ yếu là do ba yếu tố, đó là: Quan, binh và phí. Quan chức hiện nay quá nhiều, quân đông mà không tinh, các công tác hành chính chi tiêu hoang phí, ba vấn đề này không giải quyết được thì những lợi ích mà biến pháp mang lại cũng chẳng khác gì một cốc nước nhỏ chẳng thể cứu nổi cả một tòa nhà đang cháy cả!”
Đối với ba yếu tố nan giải này, Tống Thần Tông dĩ nhiên cũng không phải là lần đầu tiên nghe, từ hồi Tống Nhân Tông tích cực tiến hành chính sách “Khánh Lịch Tân Chính” (là tên một chế độ cải cách của Tống Nhân Tông, nhưng hiệu quả thu lại không tốt) là một chính sách nhằm vào ba yếu tố trên, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bởi vì để giải quyết được ba vấn đề này, thì lại liên quan đến những quốc sách cơ bản của triều Tống và cũng liên quan đến rất nhiều người nữa, hơn nữa những lợi ích của nó đem lại cơ bản cũng chẳng có những công hiệu đặc biệt nào cả.
Nhưng Tống Thần Tông nghe thấy Đỗ Văn Hạo chỉ ra những cái bất cập làm cho mình đau đầu bấy lâu nay, nên cũng có chút tán thưởng, sắc mặt lúc này cũng đã giãn ra đôi chút, sau đó còn gật gật đầu ra hiệu cho hắn nói tiếp.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng thấy vững tâm, bèn tiếp tục nói: “Thần cho rằng, muốn đất nước giàu mạnh thì nhất thiết phải phát triển mạnh hai mặt công nghiệp và thương nghiệp, đặc biệt là về mặt phát triển thương nghiệp, phải hỗ trợ, khuyến khích thương nghiệp, từ bỏ những chính sách bất lợi, kìm hãm thương nghiệp phát triển, một đất nước văn minh cao độ là một đất nước có nền thương nghiệp phát triển, dân chúng linh hoạt trong việc làm giàu.”
“Đủ rồi!” Tống Thần Tông lúc này đúng là đã nổi giận thực sự, đập vào bàn chát lên một tiếng khô khốc: “Ngươi muốn thần dân thiên hạ trở thành những kẻ hám lợi, bất lương hay sao? Ngươi muốn dân chúng lúc nào cũng cơ hội, có cái gì thì cũng đem ra buôn bán ư? Ừm! Ngươi còn ý nghĩ gì nữa?”
Đỗ Văn Hạo lúc này đã sợ đến xanh mét cả mặt mày, khi Hoàng Thượng vỗ bàn đập ghế cũng đã làm hắn hoảng sợ lùi về sau hai bước rồi, những câu nói của Tống Thần Tông chẳng khác nào tiếng sét giữa trời xanh giáng hẳn vào đôi tai của hắn, làm cho hắn đang chìm đắm trong việc phân tích làm cho dân giàu nước mạnh cũng phải giật mình bừng tỉnh, Đỗ Văn Hạo lúc này cuống cuồng vén áo lên quỳ xuống nói: “Vi thần biết tội!”
Trung Quốc từ hồi Thương Ưởng (còn có tên Vệ Ưởng, là người thực hành biến pháp cho nước Tần thời chiến quốc, làm cho nước Tần dân giàu nước mạnh về sau thống nhất Trung Quốc) biến pháp bắt đầu cho đến những năm cuối đời nhà Thanh đều thực hành những chính sách trọng về nông nghiệp mà kìm hãm thương nghiệp, những chính sách này không chỉ xuất phát từ tư tưởng Nho Giáo “Trọng lợi khinh nghĩa”, mà còn là tình hình trong nước của Trung Quốc ảnh hưởng lên nó nữa. Hơn nữa Trung Quốc thời cổ đại thì cũng vẫn thuộc vào một đất nước có diện tích trồng trọt, cày cấy vô cùng rộng lớn, vậy nên nông nghiệp dĩ nhiên sẽ rất phát triển. Hơn nữa theo quan điểm của người xưa thì phát triển nông nghiệp không chỉ đảm bảo vấn đề cấp thiết nhất là có cơm ăn, không bị chết đói, mà còn giải quyết được vấn đề quản lý nhân sự, vì người nông dân cả đời họ chỉ có một lý tưởng duy nhất đó là có một mẫu ruộng để cày cấy, sau đó lấy vợ sinh con, như vậy đã là quá đủ đối với họ rồi.
Còn đối với bọn con buôn hám lợi thì không những đi ngược lại hoàn toàn với tư tưởng nho giáo còn nặng nề trong tư tưởng của người Trung Quốc, mà còn làm cho nông dân vì lợi ích của đồng tiền mà bỏ rơi ruộng đất, từ bỏ công việc cày cấy mà đi buôn bán, như vậy hệ thống nông nghiệp sẽ trở nên vô cùng bấp bênh, vì chỉ cần cả nước xuất hiện một số lượng lớn người đi buôn bán thì hệ thống quản lý chính trị của nhà nước sẽ gặp phải nhiều vấn đề vô cùng nan giải, do vậy coi trọng nông nghiệp tự làm tự ăn mà kìm hãm thương nghiệp là một chính sách hàng đầu của các triều đại trong lịch sử Trung Quốc. Cũng vì người hưởng lợi nhiều nhất trong chính sách này thì vẫn là Hoàng Đế trong chế độ phong kiến. Vậy nên Đỗ Văn Hạo mang kiến thức của người hiện đại đem đi khuyên giải cho người đứng đầu trong chế độ phong kiến từ bỏ chính sách nông nghiệp chuyển sang phát triển kinh tế là chuyện hết sức hoang đường, hoang đường chẳng khác gì người ta bắt ép gà trống đẻ trứng, bảo lợn leo cây cả.
Tuy ở thời nhà Tống thì thương nghiệp cũng đã có những sự phát triển nhất định, tư bản chủ nghĩa cũng đã manh nha xuất đầu lộ diện, nhưng từ khâu sinh trưởng sản xuất đến những điều kiện xã hội và những quan hệ cho thuê đồn điền thì việc phục dịch thuế má và công thương nghiệp đều bị chế độ phong kiến cưỡng chế, kìm hãm, những nét tư tưởng văn hóa đặc trưng (chủ yếu là tư tưởng Nho Giáo) cùng với chế độ chuyên chế vô cùng cứng nhắc, thậm chí chế độ của thời nhà Tống còn cứng nhắc hơn cả thời nhà Đường nữa, điều này làm cho đại bộ phận dân chúng trở nên nghèo đói, do vậy bọn họ cũng chẳng có khả năng kinh tế mà mua bán sản phẩm, như vậy cũng chẳng thể nào hình thành được một thị trường buôn bán sản phẩm trong cả nước.
Chính vì nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp tự làm tự ăn nên cũng làm cho thị trường thời này thiếu hụt sự mua bán trao đổi và tiêu thụ hàng hóa, thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa chính vẫn chỉ là tơ tằm, bạc gia công, những đồ sành sứ mỹ nghệ cao cấp..vv.. Những thứ này thì lại thuộc vào những loại sản phẩm xa xỉ cao cấp chỉ dành cho giới thượng lưu sử dụng, do vậy dẫn đến phạm vi tiêu thụ mua bán sản phẩm sẽ bị thu nhỏ. Chính vì tình hình xã hội, hoàn cảnh kinh tế như vậy nên không thể mở ra những công xưởng sản xuất sản phẩm theo quy mô lớn như kiểu cạnh tranh của tư bản chủ nghĩa. Đỗ Văn Hạo không tìm hiểu cặn kẽ tình hình văn hóa cũng như chính trị của đời nhà Tống, nên bê nguyên những nguyên tắc của thời hiện đại lắp vào hệ thống này, do vậy sẽ vô cùng khập khễnh và không thực tế, chính vì thế mà Tống Thần Tông chẳng mấy hứng thú với ý tưởng này của hắn.
Cũng may mà Tống Thần Tông giữ lời của mình, nên dù ông ta vô cùng tức giận nhưng cũng tha thứ cho Đỗ Văn Hạo và những lời nói phi lý của hắn. Tống Thần Tông lúc này cũng chỉ biết căm giận trừng mắt nhìn về phía Đỗ Văn Hạo mà phất tay lên nói: “Thôi ngươi ra ngoài đi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thấy mình như vừa được chết đi sống lại vậy, hắn lùi lại vài bước, rồi quay người đi ra ngoài.
“Đứng lại! Quay lại đây!!!” Giọng của Tống Thần Tông lạnh lùng cất lên.
Đỗ Văn Hạo bỗng thấy thân hình của hắn bây giờ cứng đờ như đá, chầm chậm quay người lại, từng bước từng bước một đi về chỗ đứng của hắn vừa nãy để chờ lệnh.
Tống Thần Tông nhìn hắn một lúc, rồi hỏi: “Bệnh của Tư Mã Quang thế nào rồi?”
Đỗ Văn Hạo nghe Tống Thần Tông hỏi hắn về tình hình bệnh tật của Tư Mã Quang thì thở hắt ra một cái nhẹ nhõm, hắn thấp giọng đáp: “Hồi bẩm Hoàng Thượng! Trưa ngày hôm nay, vi thần đã làm một ca phẫu thuật mổ bụng cho Tư Mã Quang đại nhân rồi ạ, mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, bệnh tình của Tư Mã Quang đại nhân vô cùng nghiêm trọng, đại nhân cũng vừa mới làm phẫu thuật xong, nếu muốn biết công hiệu ra sao thì phải chờ một thời gian quan sát nữa mới biết được ạ!”
“Vậy sao?” Gương mặt của Tống Thần Tông lúc này mới nở ra được một nụ cười: “Y thuật của ngươi rất cao, có thể nói là thiên hạ đệ nhất rồi, nên có lẽ bệnh tình của Tư Mã Quang cũng sẽ ổn thôi!”
Đỗ Văn Hạo nghe Hoàng Thượng khen ngợi mình như vậy cũng hiểu ra rằng Tống Thần Tông lúc nãy cũng hơi quá đà với hắn, đòi hỏi ở hắn quá cao nên bây giờ mới nói những câu như vậy, hắn biết rằng Hoàng Thượng thực chất đang dùng chiêu vừa đánh vừa xoa, trước thì làm cho hắn sợ đến gần chết, vậy mà bây giờ lại khen ngợi hắn, trong thâm tâm hắn cũng thầm cảm thấy được an ủi đi rất nhiều, liền vội vã cúi người nói: “Thưa không phải như vậy đâu ạ! Bẩm Hoàng Thượng, bệnh của Tư Mã Quang đại nhân đúng là vô cùng nghiêm trọng, bệnh của ông ấy có tên là ung thư dạ dày, là một loại bệnh do tế bào ung thư xâm nhập vào dạ dày mà ra, loại ung thư này đã bắt đầu di căn sang các bộ phận khác, chỉ cần nó di căn ra toàn thân thì đến cả thần tiên cũng không chữa khỏi được cho Tư Mã Quang đại nhân nữa!”
“Vậy bây giờ nên làm thế nào?”
“Bời vì tế bào ung thư đã bắt đầu di tán vì vậy hiện giờ điều đáng lo nhất là ca phẫu thuật vừa rồi có lẽ vẫn chưa hoàn toàn cắt bỏ hết những tế bào ung thư đó trong cơ thể của Tư Mã đại nhân, bởi vì nó có thể ẩn chứa trong huyết dịch, hoặc tuyến hạch của bệnh nhân sau đó sẽ di căn sang những bộ phận khác, như vậy sẽ không còn cách nào để trừ bỏ được tế bào ung thư này được nữa. Nhưng mà vi thần đã kê một đơn thuốc cho Tư Mã đại nhân chủ yếu là dùng để bổ trợ nguyên khí, bình ổn khí huyết.”
“Ừm! Như vậy là tốt rồi, ngươi nhất định phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho Tư Mã Quang, người này là người có tài hiếm có!”
“Vi thần tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một lúc rồi lại nói thêm vào: “Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần biết ở Thổ Phồn có một loại thuốc có tên Đông Trùng Hạ Thảo có thể bổ trợ nguyên khí, bình ổn khí huyết, nếu có được loại thuốc này thì rất có lợi cho việc điều trị căn bệnh ung thư của Tư Mã đại nhân, loại thuốc này chỉ có ở Thổ Phồn còn ở nơi này thì không tìm thấy nó, đúng rồi, loại thuốc này cũng rất có ích cho việc chữa trị bệnh thận của Hoàng Thượng nữa!”
Đông Trùng Hạ Thảo là loại thuốc vô cùng có ích nhưng ở thời nhà Tống thì loại thuốc này vẫn chưa được phát hiện ra, cũng không quý hiếm như thời hiện đại, và dĩ nhiên cũng không dễ để bảo quản nó, chính vì lý do đó mà nước Thổ Phồn khi cống nạp cho nước Tống không hề có loại thuốc này, loại thuốc này thời đó có thể nói là không có ai biết đến nó cả, chính vì vậy cho nên Tống Thần Tông nghe Đỗ Văn Hạo nói xong cũng hiếu kỳ hỏi: “Đông Trùng Hạ Thảo?”
“Thưa vâng! Đó là một loại thuốc vô cùng đặc biệt và kỳ lạ, vào mùa đông thì nó là một con giun nhỏ, nhưng đến mùa hè thì nó lại biến thành một lại thảo dược nhỏ, loại dược thảo này chỉ sinh trưởng ở nơi ít người sinh sống cho đến những đồng cỏ trên những dãy núi tuyết cao, chính vì điều kiện hoàn cảnh sinh trưởng vô cùng khắc nghiệt nên số lượng cũng vô cùng ít, và cũng rất khó tìm!”
Loại Đông Trùng Hạ Thảo này bề ngoài thì trông rất giống với những loại cỏ thông thường, cơ hồ như không khác nhau một chút nào, cho dù có dí sát mắt vào nó nếu như không phải là người có kinh nghiệm thì cũng chẳng nhận ra được.
“Ha ha, cái này hay đấy, loại thuốc này có tác dụng gì vậy?”
“Tác dụng của nó vô cùng lớn, bệnh thận mà Hoàng Thượng mắc phải bây giờ là chứng suy thận, cách chữa trị cơ bản nhất của căn bệnh này là bổ thận, hoạt huyết và đào thải chất độc ra ngoài. Trong đó bổ thận thì chủ yếu là bổ khí, Đông Trùng Hạ Thảo có vị ngọt mát, hiệu lực rất lớn nhưng tính thuốc lại rất ôn hòa âm dương, nhiệt hàn đều có thể dùng nó. Khi mà bổ dương thì có thể dùng nó kết hợp với Ngũ Hoàng Dân, Bạch Thuật; còn khi bổ huyết thì kết hợp với Đương Quy, Hoàng Tinh; Hoàng Uy, Bạch Thuật kết hợp với nó thì có thể bổ khí, nếu Hoàng Thượng có vị thuốc này thì việc chữa bệnh suy thận của Người trở nên đơn giản vô cùng!”
Tống Thần Tông nghe thấy giọng nói của Đỗ Văn Hạo nghiêm túc, trịnh trọng như vậy thì ngoan ngoãn lắng nghe, sau đó thấp giọng hỏi: “Bệnh của Trẫm có thật là rất nghiêm trọng không?”
“Thưa vâng! Bệnh tình của Hoàng Thượng hiện giờ vẫn chưa thể hiện rõ ra, nhưng chờ đến khi nó phát tác rồi thì rất khó chữa khỏi, loại bệnh này muốn chữa thì nên ra tay từ sớm là tốt nhất!”
Tống Thần Tông chắp hai tay ra đằng sau đi đi lại lại, sau đó đứng lại nói: “Công hiệu của loại thuốc này ra sao?”
“Vi thần lấy một ví dụ rất dễ hiểu như thế này, nếu không có vị thuốc này bệnh của Tư Mã Quang đại nhân thì chỉ có bốn phần thành công, và chỉ có thể sống được thêm năm năm nữa, nhưng nếu có vị thuốc này thì khả năng thành công tăng lên ít nhất là bẩy phần!”
“Vậy bệnh của Trẫm thì sao?”
“Bệnh của Hoàng Thượng cũng khác với bệnh của Tư Mã Quang đại nhân, cho dù không có vị thuốc này, chỉ cần Hoàng Thượng làm theo những lời dặn dò của thần, điều dưỡng thân thể, thì có thể chữa khỏi, còn khi có vị thuốc này vào thì tiến độ chữa bệnh của Hoàng Thượng sẽ tăng lên rất nhiều, chính vì vậy khi có loại thuốc này thì sẽ làm cho thời gian khỏi bệnh của Hoàng Thượng sớm hơn dự kiến rất nhiều, còn đối với Tư Mã Quang đại nhân thì vị thuốc này làm tăng khả năng thành công chữa lành căn bệnh của ông ấy.”
Thực ra độ khó của việc chữa trị căn bệnh suy thận mãn tính này cũng không hề kém cạnh với việc chữa bệnh ung thư dạ dày của Tư Mã Quang, hơn nữa tác dụng của Đông Trùng Hạ Thảo dành cho bệnh suy thận mãn tính có tác dụng lớn hơn bệnh ung thư dạ dày rất nhiều, do vậy Đông Trùng Hạ Thảo có tác dụng trị liệu cho bệnh quan trọng hơn cho Hoàng Thượng, có thể nói rằng có vị thuốc này sẽ làm gia tăng khả năng thành công chữa bệnh cho Hoàng Thượng, nhưng hắn không dám nói ra. Hắn thực chất cũng không nắm chắc khả năng thành công chữa khỏi bệnh cho Hoàng Thượng, để Hoàng Thượng đỡ phải lo lắng, do vậy Đỗ Văn Hạo mới nói kiểu mập mờ như vậy.
“Thì ra là vậy à…” Tống Thần Tông lại đi đi lại lại mấy vòng nữa rồi nói: “Vị thuốc này có mua được không?”
“Theo tương truyền, thì từ đời Đường, Đường và Thổ Phồn đã có đi lại với nhau, hồi đó Thổ Phồn đã dâng cho Hoàng Đế đời Đường, khi đó Dương Ngọc Hoàn Dương Quý Phi đã sử dụng loại thuốc này, nhưng sau đó thì không thấy có ai nhắc đến nó nữa. Hiện giờ Thổ Phồn đang tứ bề tan rã, thành vô số bộ lạc nhỏ rồi, do vậy loại thuốc này không còn xuất hiện ở Trung nguyên nữa, nhưng mà theo như vi thần dự tính theo đường biên giới tiếp giáp với Thổ Phồn có thể sẽ tìm thấy nơi bán loại thuốc này.”
“Vậy thì tốt, ngươi vẽ hình dạng của nó đi, Trẫm sẽ sai người đi tìm nó về!”
“Tuân lệnh!”
Tống Thần Tông lại đi đi lại lại thêm mấy vòng nữa, rồi lại đứng lại nhìn Đỗ Văn Hạo, sau đó chầm chậm lên tiếng: “Trẫm lần trước có xem Lưu Dân Đồ, lại còn đem các ngươi đi vi hành nữa, sau đó những thứ mà ta thấy, ta nghe làm cho ta phải suy nghĩ nếu biến pháp đem đến cho bách tính sự khổ đau vậy thì chi bằng không có biến pháp, khi đó ta đã có ý tạm ngừng tiến hành tân pháp. Hôm nay lại nhận được rất nhiều mật báo của mật thám gửi về, hầu hết mật báo đều nói rằng có rất nhiều người bất mãn với tân pháp, cộng thêm với chuyện Thái Hoàng Thái Hậu ngày nào cũng khóc lóc ỉ ôi với ta, làm cho ta càng muốn tạm ngừng cải cách biến pháp lại một thời gian. Trẫm đã quyết định ban bố mệnh lệnh miễn toàn bộ phí đi lại trong Khai Phong Phủ, hạ lệnh Tư Tế và Tư Nông cùng lo liệu đến kho lương thực của cả nước, điều giảm binh lực ở Hi Hà, thấu hiểu và giúp đỡ dân chúng ở Chư Châu cung cấp thóc giống, miễn hết các nô dịch cùng với thuế đồn điền của dân chúng nơi đó.”
Đỗ Văn Hạo nghe xong kinh ngạc đến há hốc cả miệng ra không hiểu tại sao Tống Thần Tông nghe hắn bàn chuyện quốc sự xong lại có những quyết đinh như vậy, tạm ngừng toàn bộ quá trình tiến hành cải cách tân pháp. Kỳ thực Tống Thần Tông vốn đã có ý dừng tiến hành tân pháp từ trước rồi, nhưng chỉ là trong lòng vẫn đau đáu không nỡ lòng hạ quyết tâm tạm dừng nó lại, nhưng sau khi nghe Đỗ Văn Hạo phân tích tình hình xong, đã nhìn nhận ra mặt hạn chế cũng như khuyết điểm của tân pháp, những lời nói của Đỗ Văn Hạo chẳng khác nào đóng vai trò giọt nước làm tràn ly mà thôi, chính vì giọt nước này mà Tống Thần Tông mới hạ quyết tâm tạm dừng tiến hành cải cách tân pháp lại.
Tống Thần Tông nói ra những lời này xong bỗng nhiên cũng cảm thấy trong người nhẹ nhõm đi rất nhiều, trên mặt liền lộ ra một nụ cười thoải mái, dễ chịu: “Được rồi, Trẫm ra cho ngươi một nhiêm vụ là bây giờ ngươi về nhà đem những lời ngươi vừa nói khi nãy viết lại tường tận từng chi tiết đến cho ta xem!!”
“Vâng thưa Hoàng Thượng!! Có phải về chuyện Đông Trùng Hạ Thảo không ạ??”
“Vớ vẩn! Dĩ nhiên là không phải rồi! Ta muốn ngươi ghi lại những lời nói lúc nãy chúng ta cùng bàn về phép trị nước, ta cũng nghĩ rồi, chặn nguồn nước lại thì chi bằng khai thông một dòng nước mới, tư tưởng cũng vậy, nên có những ý tưởng mới mẻ cải cách, như vậy có lẽ sẽ tìm ra được một đường lối mới hợp lý hơn, cái mà ngươi nói cái gì mà thành lập công ty nhà nước tiến hành mậu dịch buôn bán trên toàn quốc, rồi lại mở xưởng sản xuất sản phẩm gì nữa đó, nghe có vẻ kỳ quái nhưng Trẫm lại thấy nó vô cùng mới mẻ, chính vì vậy Trẫm mới bảo ngươi về nhà suy nghĩ cho kỹ rồi viết lại cho Trẫm xem, để Trẫm nghiên cứu kỹ càng xem xem có cái nào hay mà áp dụng được không?”
Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy bất ngờ vô cùng, nhất thời không hiểu ý tứ lời nói của Tống Thần Tông có nghĩa là gì.
Tống Thần Tông lại nói tiếp: “Ngươi không cần viết tư tưởng cải cách của cả một đất nước to lớn như vậy, chỉ cần viết làm sao để quản lý một cái huyện hoặc một cái xã nào đó, cũng không cần ngươi phải đao to búa lớn gì cả chỉ cần ngươi tìm ra những phương thức cụ thể là được rồi, dĩ nhiên là ngươi cũng nên cho thêm ý kiến về nâng cấp và cải tạo tân pháp nữa. Phép trị nước và phép chữa bệnh cho người ta nghĩ cũng hao hao giống nhau, ngươi cần chữa bệnh cho một người nào đó, thì đầu tiên ngươi phải nắm bắt được nguyên nhân rồi đưa ra phương thức chữa trị, trị nước cũng vậy ngươi muốn quản lý một đất nước cho tốt thì cũng phải tìm ra được đường lối đúng đắn, Trẫm rất muốn xem ngươi có những đường lối đúng đắn, chính xác nào dành cho đất nước này!”
Đỗ Văn Hạo không biết tại sao Tống Thần Tông khi nãy còn mắng hắn một trận tơi bời như vậy, thế mà bây giờ lại muốn hắn ghi chép lại những ý tưởng mà Tống Thần Tông cho là vớ vẩn đó lại, rồi còn đem về nghiên cứu nữa chứ. Chính vì vậy, trong lòng hắn bất giác cảm thấy hồ nghi, nhưng lại không dám hỏi nhiều, mà chỉ dám đoán già đoán non ở trong bụng mình mà thôi, nghĩ vậy bèn cúi người đồng ý.
Tống Thần Tông lại nói tiếp: “Mấy người bên Thái Hoàng Thái Hậu đến giờ này vẫn chưa biết chân tướng sự việc, nhưng có ngươi ở bên cạnh bọn họ lo liệu Trẫm cũng yên lòng, bởi sức khỏe của Trẫm bây giờ cũng đã khá hơn nhiều rồi, nhưng những lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu thì không thể không nghe được, Tư Mã Quang cũng vừa trải qua một cuộc phẫu thuật, nên cũng rất cần ngươi ở bên cạnh, như thế này vậy, ngươi ban ngày cứ ở đây mà chữa bệnh, còn đến tối thì có thể về, như vậy có lẽ là tốt hơn cả!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền tuân lệnh đồng ý, sau đó quay người đi ra ngoài. Lúc vừa ra đến ngoài thì hắn cảm thấy cột xương sống của mình lạnh toát. Khi nãy hắn mạnh mồm đưa ra những kế sách trị nước lại không ngờ giúp cho Tống Thần Tông có được quyết tâm tạm dừng cải cách biến pháp, nhưng mà chỉ hiềm một nỗi, những ý tưởng của hắn quá đề cao kiếm tiền buôn bán lấy lời làm cho Hoàng Thượng tức giận, cũng may mà Hoàng Thượng đã có lời tha tội cho hắn từ trước nên hắn mới thoát tội, nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không tránh khỏi một phen khiếp sợ kinh hồn bạt vía.
Đỗ Văn Hạo được Ninh công công sắp xếp cho một căn phòng ở ngay bên cạnh tẩm cung của Hoàng Thượng, nơi này cái gì cũng có, lại còn có thêm mấy viên thái giám và cung nữ phục vụ mình nữa.
Đỗ Văn Hạo về đến phòng, lúc này thấy toàn thân mỏi mệt rã rời, sức lực cứ như bay đi đâu hết vậy, hắn quăng người nằm trên giường, tim của hắn giờ đây vẫn đập thình thịch sợ hãi, đúng là ở bên cạnh vua chẳng khác nào ở bên cạnh cọp, chẳng biết lúc nào mất mạng nữa.
Nằm được một lúc, Đỗ Văn Hạo mới trở mình ngồi dậy trước bàn giấy, hắn đưa bút lên vẽ hình Đông Trùng Hạ Thảo lên đó, rồi lại bắt đầu đưa bút viết về những tư tưởng đường lối của mình cùng với những ý kiến cải cách nâng cấp tân pháp.
Những ý tưởng này vốn đã cuồn cuộn chảy trong đầu của hắn từ rất lâu rồi, nhưng khi đưa bút lên viết thì mới thấy ý tưởng của hắn có rất nhiều chỗ rất không làm hắn ưng ý, hắn cứ hỳ hục viết rồi lại xóa, xóa rồi lại viết, cứ như vậy cho đến khi trời tối mịt rồi mới viết được một đoạn khởi đầu.
Khi trời gần tối thì có một cung nữ cầm đèn bước vào, Đỗ Văn Hạo bèn ngẩng đầu lên hỏi: “Hoàng Thượng đâu?”
“Hoàng Thượng vẫn đang ở trong thư phòng phê duyệt tấu chương ạ!”
Khi cung nữ vừa nói đến đây thì bên ngoài bỗng nhiên có tiếng sét kêu lên đùng đùng, làm cho cung nữ cũng phải giật mình sợ hãi, chân tay run run làm cho cái đèn lồng trên tay rơi luôn xuống đất.
Tiếp sau đó là một tia chớp kéo dài trên bầu trời, làm cho căn phòng của Đỗ Văn Hạo ánh lên một ánh sáng màu bạc ghê rợn, cung nữ thấy vậy hồn phiêu phách lạc, nét mặt trắng bệch trông như một con ma nữ trong những bộ phim ma vậy, làm cho Đỗ Văn Hạo trông thấy cũng phải giật mình cái thót.
Một trận gió tiếp đó kéo đến làm cho cửa sổ của căn phòng va đập vào nhau kêu lên cạch cạch, Đỗ Văn Hạo liền bước đến bên cửa, đang định đóng nó lại thì lại nghe thấy một tràng âm thanh nổ trên đỉnh đầu của hắn, làm chấn động cả mấy cái cửa sổ kêu lên ken két.
Lẽ nào sắp mưa rồi sao?
Đỗ Văn Hạo thấy vậy mừng rỡ, đã mấy tháng nay không có một giọt mưa nào rồi, đất đã khô nứt hết cả ra, lúc này mà có một trận mưa kéo đến thì đúng là ứng nghiệm câu nói nắng hạn gặp phải mưa dầm rồi. Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy vui sướng vô cùng, liền vén áo bước thẳng luôn ra bên ngoài ngửa mặt ngước nhìn bầu trời sám sịt trên đầu mình.
Đột nhiên, có tiếng rơi độp một cái, một hạt mưa to bằng hạt đậu rơi luôn vào giữa mặt của hắn, đúng là trời mưa rồi sao? Không cần chờ Đỗ Văn Hạo dơ tay ra dò xét, những hạt mưa nặng hạt bắt đầu rơi lên trên mặt hắn kêu lên tanh tách, tiếp sau đó mưa rơi xuống càng lúc càng mau, rất nhanh tiếng lộp độp đã vang lên rộn rang khắp nơi trong vườn.
“Mưa rồi! Đúng rồi *** Mưa rồi!”
Đỗ Văn Hạo dang thẳng hai tay ngửa mặt lên trời cười lớn, viên quan chức nhỏ canh thành vẽ bức Lưu Dân Đồ đã thề rằng, chỉ cần tạm dừng biến pháp thì trong vòng mười ngày, nếu không có mưa thì hắn ta sẽ nguyện bị chặt đầu để chịu tội. Quả nhiên Hoàng Thượng vừa tạm dừng biến pháp thì đến tối đã có bạo vũ đến rồi, lẽ nào trong cõi u minh trời đất này lại đúng là có ý trời thật sao?
Tên tiểu thái giám thấy Đỗ Văn Hạo đứng trần bên ngoài trời mưa như vậy thì vội vã cầm cái ô chạy lại che cho hắn: “Đỗ đại nhân, đại nhân mau quay về phòng đi không bị nhiễm lạnh mất!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới đi ra chỗ hành lang bên ngoài trời, nhưng nhất định không chịu chui vào trong phòng nữa, hắn vẫn đứng ở hành lang, vịn vào lan can dõi mắt nhìn khắp khu vườn đang được che phủ bởi những hạt mưa nặng trĩu, thỉnh thoảng còn ánh lên bởi những tia chớp nhập nhằng, Đỗ Văn Hạo sau khi vui sướng quá độ giờ đây lại ngây dại thất thần.
Đúng là nhìn người khác gánh nước thì chẳng bao giờ cảm thấy nặng nhọc, nhưng khi chính mình đưa đòn gánh lên vai thì mới thấy đôi vai mình như muốn gẫy làm đôi vậy, khi bình phẩm một chính sách của người khác ra sao thì vô cùng dễ dàng, nhưng khi chính mình đứng ra thiết lập một chính sách khác thì mới thấy khó khăn muôn trùng. Đã mấy canh giờ trôi qua rồi, hắn khó khăn lắm mới viết được vỏn vẹn một đoạn mở đầu ngắn ngủi, nhưng hắn vẫn thấy đoạn mở đầu đó vẫn chưa làm hắn hài lòng cho lắm! Ài! Thật đúng là không biết nên hoàn thành nhiệm vụ Hoàng Thượng giao phó kiểu gì cho hợp lý đây.
Cũng may mà Hoàng Thượng không quy định cho hắn thời gian là bao lâu, thôi thì cứ từ từ mà tính, nhưng cũng không nên nói lung tung gì đến chuyện làm ăn buôn bán thế nào thế nào nữa, cứ tìm hiểu trước xem người xưa họ quản lý đất nước ra sao đã. Kinh tế đời nhà Tống là đi theo đường lối phát triển tiểu nông vừa và nhỏ, vậy nên muốn phát triển cũng phải nên dựa vào cái kinh tế tiểu nông này mà học hỏi, sau đó dựa trên đó mà tạo ra đường lối mới, cuối cùng là hoàn tất đem nộp cho Hoàng Thượng, ít ra cũng không đến nỗi làm Hoàng Thượng xem xong rồi chê cười lần nữa.
Sau khi có được ý tưởng mới mẻ này, Đỗ Văn Hạo liền bắt đầu đi tìm những quyển sách của người xưa bàn về chuyện quản lý đất nước như thế nào về xem. Hắn cứ suy đi tính lại suốt như vậy được một lúc thì mắt của hắn sáng lên, đúng rồi! Sao mình lại không đi tìm Tư Mã Quang thảo luận nhỉ, ông lão này không phải là đang biên soạn bộ sách có tên Tư Trì Thông Giám (đây là một tác phẩm vô cùng nổi tiếng của Trung Quốc, nó bao gồm lịch sử, chính trị, tư tưởng của người Trung Quốc bắt đầu từ thời nhà Chu đời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến thời Ngũ Triều) đó sao? Đây là một bộ sách tổng quát các cách thức quản lý trị nước của các triều đại trước kia. Chỉ cần nghe ông ấy giảng một hồi thôi, là cũng biết nên viết như thế nào rồi, cần gì phải mở sách dò tìm tài liệu nữa chứ!
Nghĩ đến đây thì Đỗ Văn Hạo cảm thấy chuyện phải nộp bài cho Hoàng Thượng cũng đã có cách đối phó rồi, nên thở hắt ra một cái nhẹ nhõm. Chờ đến tối cổng Hoàng Cung đóng lại rồi thì Đỗ Văn Hạo mới lên kiệu rời khỏi Hoàng Cung đi về Ngũ Vị Đường.
Lúc này Tư Mã Quang cũng đã tỉnh lại, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đang chăm sóc ông ấy, sau đó hai người cho thuốc sát trùng, chống viêm từ từ thông qua ống truyền vào trong dạ dày, nơi này còn có phu nhân của Tư Mã Quang và hai người con của ông ta nữa.
Đỗ Văn Hạo kiểm tra ống dẫn lưu, sau đó lại hỏi lượng nước tiểu, cuối cùng là bắt mạch cho Tư Mã Quang, Đỗ Văn Hạo thấy tình hình của ông ta bây giờ rất ổn, không có biểu hiện nguy cấp nào cả, do vậy hắn cũng hơi yên tâm một chút, suy cho cùng thì Tư Mã Quang cũng đã tuổi cao sức yếu, qua đợt phẫu thuật này, thân thể của ông ta trở nên vô cùng suy yếu, khi Đỗ Văn Hạo khám bệnh cho ông, Tư Mã Quang cũng chỉ mở mắt ra cười với hắn một cái rồi lại nhắm mắt lại, ngủ thiếp đi.
Đỗ Văn Hạo thấy trong lỗ mũi của ông vẫn đang cắm ống dẫn, nói chuyện không tiện nên hắn cũng biết vấn đề trị nước của hắn giờ này chưa thể phó thác được cho Tư Mã Quang được, chắc phải chờ thêm hai ba ngày nữa mới giải quyết xong.
Mưa rơi đúng đủ một đêm, đến ngày hôm sau thì ngớt. Đỗ Văn Hạo vào cung đem dâng lên bức tranh mà hắn vẽ hình dáng của Đông Trùng Hạ Thảo lên cho Tống Thần Tông. Tống Thần Tông hôm nay lên triều thì văn võ bá quan đều bàn luận rằng chính vì do tạm dừng tân pháp mà trời mới đổ mưa.
Tống Thần Tông lúc này cũng chẳng hỏi han đến chuyện hắn viết ý tưởng đường lối quản lý, cai trị đất nước ra sao nữa, dường như Tống Thần Tông biết rằng Đỗ Văn Hạo nhất thời cũng chẳng viết ra được cái gì ra hồn cả.
Đến buổi chiều tối khi Đỗ Văn Hạo trên đường về Ngũ Vị Đường thì thấy mưa lại bắt đầu rả rích rơi.
Bệnh tình của Tư Mã Quang lúc này cũng đã ổn định khá nhiều, không có hiện tượng nguy hiểm nào xuất hiện làm cho người khác phải lo lắng nữa, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy được an ủi đi rất nhiều, mặc dù điều kiện chữa trị thời nhà Tống này vô cùng lạc hậu, thiếu thốn, nhưng chế độ tiệt trùng của hắn lại vẫn tiến hành một cách nghiêm khắc và thành công. Ống thông vào dạ dày của Tư Mã Quang đã được rút xuống, ông ta vẫn đang nằm mê man trên giường có vẻ vẫn rất mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy nên cũng không tiện hỏi chuyện Tư Mã Quang nữa.
Ngày hôm sau trời lại mưa cả ngày, chờ cho Đỗ Văn Hạo về đến nhà thì trước thềm nhà hắn đã xuất hiện rất nhiều vũng nước lõng bõng.
Đối với ca phẫu thuật của Tư Mã Quang mà nói, thì khi trời nóng sẽ làm cho vết mổ trở nên vô cùng khó chịu, bởi vì trời nóng thì sẽ dễ ra mồ hôi, mà ở thời cổ đại này mà làm phẫu thuật thì ra mồ hôi rất dễ dẫn đến vết mổ bị nhiễm trùng, do vậy trời cứ mưa mãi thế này cũng là một điều tốt lành, tuy là có chút ẩm ướt nhưng cơ hội xảy ra nhiễm trùng sẽ giảm đi trông thấy, đúng là ông trời có mắt.
Đỗ Văn Hạo vào đến bên trong phòng bệnh của Tư Mã Quang, thì đã thấy ông ta đã xuống giường đi lại được rồi, mặc dù vẫn có người dìu đỡ nhưng bệnh tình của ông ta lúc này cũng khá khả quan. Phu nhân của Tư Mã Quang cũng đang ngồi khâu vá lại quần áo cho ông, mặc dù ông chức vụ rất cao, nhưng lại vô cùng liêm khiết, làm quan bao năm như vậy mà cũng chẳng có bao nhiêu tiền của, đến cả quần áo của ông cũng phải khâu vá lại mà dùng chứ không mua đồ mới. Đỗ Văn Hạo lúc này mới để ý phu nhân của Tư Mã Quang, tuy bà nhỏ hơn ông ta những mười tuổi, nhưng mấy ngày gần đây vất vả chăm ông mà đầu tóc cũng đã bạc phơ hết cả, sắc mặt cũng tiều tụy đi khá nhiều.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền đi đến chắp tay nói: “Phu nhân! Xin phu nhân cứ nghỉ ngơi cho khỏe, những việc nữ công như thế này vô cùng nhức mắt, phu nhân cứ sai một đứa nha hoàn đó nào làm là được rồi, phu nhân ngày nào cũng phải chăm sóc Tư Mã đại nhân như vậy rất mệt đấy, phu nhân cần phải cẩn thận không thì ngã bệnh mất!”
Ngô Thị nghe xong Đỗ Văn Hạo nói liền đặt đồ nữ công trên tay mình xuống, gật đầu cười nói với Đỗ Văn Hạo: “Không sao đâu! Làm phiền Đỗ đại nhân nhiều quá, nếu không nhờ y thuật thần thông của đại nhân, e rằng lão gia của ta đã không còn hy vọng gì nữa rồi!”
Khi hai người vẫn đang nói chuyện thì từ bên ngoài có một tiếng nói của một cô gái nói vọng vào: “Mẫu thân! Con đã bảo là việc đó cứ để con làm rồi mà con mới vào bếp có một lúc mà mẫu thân đã dành lấy việc của con rồi!” Tiếp sau đó là một cái đầu tết tóc bím cùng với gương mặt tươi cười ló vào nhìn Đỗ Văn Hạo và Ngô Thị, đó chính là Tuệ Nhi.
Chương 302: Y đạo y quốc!
“Đa tạ Đỗ đại nhân đã quan tâm!” Tuệ Nhi nói xong liền đưa mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, nghe hắn cất tiếng quan tâm đến mình như vậy bất giác gương mặt xinh đẹp của nàng ửng đỏ, rồi từ từ ngoảnh mặt sang phía khác.
Thần sắc của Tư Mã Quang bây giờ cũng đã đỡ hơn rất nhiều, ông ta mới chỉ đi vài bước ở trong căn nhà này đã thở không ra hơi, phải nhờ con trai của mình dìu về bên chiếc ghế ở cạnh giường mình rồi chầm chậm ngồi xuống, đây là một yêu cầu của Tuyết Phi Nhi đề xuất ra, nàng muốn Tư Mã Quang cố gắng xuống giường hoạt động càng sớm càng tốt.
Đỗ Văn Hạo liền đưa tay lên bắt mạch cho Tư Mã Quang, một lúc sau hắn mỉm cười nói: “Sức khỏe của Tư Mã đại nhân đang hồi phục rất nhanh, cũng không có bệnh chứng nào làm cho chúng ta phải lo lắng thêm cả, cái này cũng là do thân thể của Tư Mã đại nhân từ xưa đến giờ có một thể chất rất tốt, ít khi bị bệnh, nguyên khí tràn trề!”
Tư Mã Quang nghe xong cũng có phần đắc ý, bèn vuốt vuốt râu nói: “Ha ha! Cũng may mà nhờ có bàn tay kỳ diệu của Đỗ lão đệ, nên lão phu mới có thể cây già nảy lộc!”
Hai người cùng quay vào nhau mà cười, Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Bệnh của Tư Mã đại nhân không phải là qua một lần phẫu thuật mà có thể chữa khỏi hoàn toàn được, về sau vẫn phải tuân thủ những quy trình chữa bệnh nghiêm khắc của ti chức đề ra, sau đó còn phải uống thêm một vị thuốc chỉ có ở Thổ Phồn có tên Đông Trùng Hạ Thảo thì bệnh của đại nhân mới có những tiến triển tốt. Vị thuốc này ở Đại Tống chúng ta không có bán, nhưng ti chức đã bẩm báo với Hoàng Thượng, Hoàng Thượng đã bảo ti chức vẽ ra hình thù của nó rồi cho người đi ra biên giới tiếp giáp với Thổ Phồn tìm mua, nếu có thể, thì Hoàng Thượng cũng sẽ phái người đi hẳn vào Thổ Phồn mà mua cũng được.”
Tư Mã Quang nghe xong, bất giác hai hàng lệ từ khóe mắt già nua của ông ta túa ra chứa chan, sau đó Tư Mã Quang quỳ luôn xuống, mặt hướng về Hoàng Cung dập đầu nói: “Hoàng Thượng! Ơn nghĩa của Hoàng Thượng lão thần dù cho thịt nát xương tan cũng không dám quên, lão thần không biết lấy gì để báo đáp công ơn của Hoàng Thượng!”
Con trai của Tư Mã Quang, Tư Mã Dung cùng con gái Huệ Nhi trông thấy ông ta quỳ xuống lạy như vậy, hai người cũng lập tức quỳ xuống dập đầu côm cốp, sau đó mới đứng lên đỡ Tư Mã Quang ngồi dậy.
Tư Mã Quang đưa tay lau nước mắt của mình đi, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đa tạ Đỗ lão đệ đã tận tâm tận lực chữa bệnh cho lão phu, công ơn của lão đệ lão phu luôn luôn khắc cốt ghi tâm!”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Tư Mã đại nhân đừng khách khí như vậy, hơn nữa ti chức lúc này cũng có chuyện muốn nhờ đại nhân đây, mong đại nhân chỉ bảo cho ti chức.”
Tư Mã Quang vui vẻ đáp: “Lão đệ không khinh thường lão ca này, thì về sau đừng khách khí như vậy nữa, cứ gọi đại nhân đại nhiếc cái gì nghe nó xa lạ ra, lão đệ cứ xưng hô với ta là lão ca, chúng ta là hai người bạn không cần phân biệt tuổi tác của nhau, như vậy có được không?”
“Cái này ti chức không dám!” Đỗ Văn Hạo vội vã trả lời.
“Sao lại không dám cơ chứ, lão đệ đã ra tay cứu mạng lão phu như vậy, lại còn tìm cách mua thuốc tốt cho lão phu dùng nữa, lão phu cảm kích vô cùng, hơn nữa lão phu đã nghe tiếng Đỗ lão đệ có trái tim nhân từ, đôn hậu đối đãi với mọi người từ lâu. Đỗ lão đệ không hề phân biệt giàu sang phú quý, hay nghèo hàn cơ nhỡ đều ra tay giúp đỡ không nề hà gì cả, trái tim nhân ái như vậy quả là trên đời hiếm gặp, lão phu vô cùng khâm phục Đỗ lão đệ, nếu Đỗ lão đệ không chê bai gì lão phu mong lão đệ hãy gọi lão phu là lão ca, còn nếu chê bai lão phu thì cứ gọi là Tư Mã đại nhân cũng được!” Tư Mã Quang nói xong còn làm bộ tức giận râu tóc rung lên bần bật.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đứng dậy chắp tay nói: “Tư Mã lão ca đã coi trọng lão đệ như vậy, lão đệ chỉ còn cách cung kính không bằng tuân mệnh!”
“Ha ha ha! Như vậy mới đúng chứ! Lão đệ có chuyện gì cứ nói đừng ngại, lão ca sẽ dốc hết sự hiểu biết của mình ra giúp lão đệ!!”
“Thế thì tốt quá, chuyện là thế này, Hoàng Thượng đã hạ chỉ tạm dừng tiến hành cải cách biến pháp rồi!”
“Cái gì? Lão đệ nói sao?” Tư Mã Quang vừa mừng vừa kinh ngạc, đứng bật luôn dậy làm rách luôn vết khâu của ca phẫu thuật trên bụng miệng kêu lên ối chao một tiếng, Tuệ Nhi đứng cạnh đó vội vã chạy đến dìu đỡ Tư Mã Quang từ từ ngồi xuống, Tư Mã Quang vẫn không thèm quan tâm đến vết rách đó, vội vã hỏi tiếp: “Lời của lão đệ là thật đấy chứ?”
“Ha ha, tiểu đệ không dám đem chuyện này ra nói đùa đâu!”
“Ha ha! Ha ha ha!” Tư Mã Quang ôm lấy bụng mình ngửa mặt lên trời cười lớn, hai hàng lệ lăn dài trên gương mặt già cỗi nhăn nheo của mình: “Hoàng Thượng anh minh! Hoàng Thượng anh minh! Ha ha ha ha!”
Tuệ Nhi cũng vui mừng thay cho cha của mình, nàng đưa mắt quay nhìn Đỗ Văn Hạo rồi thấp giọng nói với cha của mình: “Phụ thân! Phụ thân đừng mừng rỡ như vậy vội, Đỗ đại nhân vẫn đang chờ người chỉ dạy một số vấn đề nữa kìa!”
“Ừ! Đúng rồi” Tư Mã Quang cố nhịn cười lại, một tay ôm bụng, một tay vuốt vuốt bộ râu hoa râm của mình nói: “Mong Đỗ lão đệ đừng trách lão ca, lão ca vui quá nên mới thô lỗ như vậy!”
“Ha ha Lão ca vì dân vì nước, nghĩa trọng tình thâm, lão ca không hề thô lỗ chút nào, tiểu đệ vô cùng khâm phục lão ca!”
“Thôi thôi! Đỗ lão đệ đừng khen lão ca này nữa, nói đi, lão đệ muốn hỏi gì?”
“Đệ muốn hỏi về phép trị nước!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.
“Cái gì? Lão đệ là một Ngự Y, lão đệ hỏi cái này để làm gì? Lẽ nào lão đệ nhàm chán việc chữa bệnh rồi hay sao mà định đổi nghề sang làm chính trị vậy hả?”
“Ha ha ha! Tiểu đệ không dám có ý nghĩ xa xỉ như vậy, chỉ là nghe Tư Mã lão ca đang biên soạn một bộ tuyệt tác có tên Tư Trì Thông Giám bắt đầu từ các vị vua đời nhà Châu cho đến đời Ngũ Đại (thời Ngũ Đại là thời đại khi nhà Đường sụp đổ thì Trung Quốc trải qua thời kỳ phân tranh lần lượt bao gồm các nước Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Châu, đời Ngũ Đại sau đó được Triệu Khoang Dận tiêu diệt và lập ra nhà Đại Tống), trong đó có bình luận về các sự kiện lịch sử, do vậy tiểu đệ muốn đến thỉnh giáo đôi chút.”
Tư Mã Quang nghe xong sửng sốt vô cùng, sau đó lại cười ha ha trả lời: “Không sai, lão ca ta đang biên soạn một bộ sách như vậy, nhưng mà tên sách vẫn chưa nghĩ ra, vậy mà lão đệ đã khen ngợi bộ sách của lão ca có tên Tư Trì Thông Giám thật là coi trọng lão ca quá, tên sách hay như vậy lão ca không dám nhận!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhớ ra bộ sách Tư Trì Thông Giám này Tư Mã Quang hoàn thành nó xong, Tống Thần Tông khen ngợi không tiếc lời mới đặt ra cái tên này. Bây giờ bộ sách này vẫn còn chưa viết xong, thế nên cái tên Tư Trì Thông Giám mà Đỗ Văn Hạo vừa đề cập đến bây giờ chưa hề tồn tại và xuất hiện, nghĩ vậy nên Đỗ Văn Hạo liền chắp tay mỉm cười nói: “Nghe nói lão ca viết bộ sách này là để đánh giá, bình phẩm các phép trị nước, chính trị, lịch sử, nó bao gồm ngàn năm lịch sử từ trước đến giờ, cùng với những ý kiến đánh giá của mình về phép trị nước qua các thời kỳ nữa, do vậy tiểu đệ muốn tìm hiểu đôi chút, mong lão ca chỉ dạy!”
Tư Mã Quang vô cùng sung sướng, ông ta đưa tay lên vuốt vuốt bộ râu của mình, rồi bắt đầu nói về bộ sách này của mình, trong bộ sách này ông đưa ra những lời bình phẩm của bản thân về cách trị nước, chế độ cai trị qua các thời kỳ lịch sử, vết thương của ông vẫn chưa lành, nên ông nói chuyện cũng khá khó khăn, do vậy Tư Mã Quang nói rất ngắn gọn xúc tích, nếu như mà cứ giới thiệu rườm rà thì có lẽ mất cả hai canh giờ nữa cũng không nói hết.
Đỗ Văn Hạo rất chăm chú lắng nghe, nhưng sau khi nghe xong, thì vẫn hoang mang không biết nên viết thêm gì nữa, nếu hắn cứ bê nguyên những lời này của Tư Mã Quang vào sách của hắn thì Tống Thần Tông chắc chắn sẽ phát hiện ra, bởi vì chỉ e rằng những quan điểm được Tư Mã Quang viết vào sách đã sớm được bẩm báo, trình tấu lên Tống Thần Tông rồi, nếu mà hắn cứ chép nguyên văn như vậy thì Tống Thần Tông sẽ phát hiện ra ngay.
Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu hỏi những vấn đề có liên quan đến kinh tế, có những biện pháp cụ thể nào để quản trị hành chính, Tư Mã Quang cũng giúp hắn phân tích rõ ràng, từng ly từng tý đều nói ra hết, Đỗ Văn Hạo nghe xong cảm thấy có ích vô cùng, hai người cứ ngồi bàn chuyện với nhau như vậy cho mãi đến tận nửa đêm canh ba.
Bên ngoài mưa vẫn rơi tí tách không ngừng, Bàng Vũ Cầm thỉnh thoảng lại vén rèm lên đi vào nói: “Tướng Công, đêm đã khuya rồi, tướng công để cho Tư Mã đại nhân sớm được nghỉ ngơi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn đứng dậy chắp tay nói: “Đa ta Tư Mã lão ca! Lời dạy của lão ca làm cho lão đệ mở rộng tầm mắt!”
“Ha ha ha! Không ngờ lão đệ lại quan tâm đến vấn đề trị nước như vậy, đúng là hậu sinh khả úy!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn cáo từ cùng Bàng Vũ Cầm về phòng.
Anh Tử lúc này liền đi tới cởi áo và đem nước đến cho Đỗ Văn Hạo rửa chân, khi nàng giúp Đỗ Văn Hạo rửa chân thì thấy sắc mặt của hắn đờ đẫn, ngơ ngác không biết là đang suy ngẫm cái gì, bèn cười nói: “Thiếu gia làm sao vậy? Nói chuyện với Tư Mã đại nhân mới có một đêm đã bị ngây dại, đờ đẫn hết cả người như vậy sao?”
Đỗ Văn Hạo cũng chỉ ừm lên một tiếng xong rồi lại tiếp tục đơ mặt ra.
Bàng Vũ Cầm trông thấy bèn suỵt lên một tiếng, thấp giọng nói: “Đừng cắt ngang suy nghĩ của thiếu gia, để thiếu gia suy nghĩ!”
Anh Tử nghe xong thì lè lưỡi ra rồi lại tiếp tục rửa chân cho Đỗ Văn Hạo.
Sau khi rửa sạch chân cho hắn, Anh Tử liền kéo bàn chân hắn lên, tiếp tục bấm huyệt bàn chân cho hắn, lúc này Đỗ Văn Hạo mới bừng tỉnh, cười nói:
“Kỹ thuật xoa bóp giỏi hơn hồi trước rồi đấy!” Anh Tử cười nói: “Hi hi! Cái này làm nhiều thành quen, tất cả đều do thiếu gia chỉ dạy tận tình cả!”
“Vậy ngươi có biết tại sao người ta lại bấm huyệt dưới lòng bàn chân không?”
“Thiếu gia đã nói rồi, bàn chân của con người bao gồm hết tất cả lục đại kinh mạch, gắn liền với Gan, Tỳ, Vị, Thận xuyên suốt toàn thân huyết mạch và kinh mạch, là nơi có khả năng điều giải lục phủ ngũ tạng, do vậy khi kích thích các huyệt vị dưới lòng bàn chân sẽ giúp cho máu huyết thông suốt, Hi hi! Nói như vậy đã đúng chưa ạ?”
“Ừm! Không sai!” Đỗ Văn Hạo cúi đầu ngắm nhìn dưới cái cổ trắng ngần của Anh Tử ẩn hiện cái khe ngực, bất giác thất thần, nhưng Đỗ Văn Hạo lại vội vã đưa ánh mắt của hắn sang chỗ khác rồi lại nói tiếp: “Ài! Chỉ tiếc là ta chỉ hiểu việc chữa bệnh cho người mà không biết cách quản lý đất nước!”
“Quản lý đất nước? Thiếu gia là một đại phu tốt là được rồi, còn phép cai trị, quản lý đất nước thì cứ để cho Tư Mã đại nhân và những đại thần khác lo!”
“Bây giờ ta không thể chỉ biết chữa bệnh mà còn phải học cách quản lý đất nước nữa, đây là yêu cầu của Hoàng Thượng đối với ta!”
“Hả?” Bàng Vũ Cầm và Anh Tử đều há hốc mồm kinh ngạc: “Hoàng Thượng muốn thiếu gia quản lý đất nước sao?”
“Cũng không hẳn là như vậy, mấy hôm trước ta và Hoàng Thượng có nói chuyện với nhau về mấy ý tưởng làm thế nào để cai trị và quản lý đất nước, Hoàng Thượng cũng khá hứng thú với ta, muốn ta viết một chính sách quản lý đất nước đưa cho Hoàng Thượng xem, ta chỉ là một thầy thuốc, làm gì có ý tưởng gì hay để đề xuất ra ý kiến trị nước cơ chứ!”
Bàng Vũ Cầm lúc này cũng lên tiếng nói: “Chẳng trách lúc tướng công mới về đến nhà, là lập tức tìm đến Tư Mã đại nhân để bàn đến chuyện trị nước, thì ra là như vậy!”
“Đúng vậy! Tiếc là ta và ông ấy bàn cả một đêm rồi mà vẫn không thể cất bút lên viết ra được cái gì cả!”
“Sao vậy?”
“Những điều ông ấy nói thì đều rất có lý, nhưng tất cả những thứ đó đều là ý tưởng và đường lối của ông ta, nếu ta cứ bê nguyên những lời của ông ta cho vào của ta thì Hoàng Thượng chắc chắn sẽ phát hiện ra, bởi vì Hoàng Thượng hiểu rất rõ nguyên lý quản trị đất nước của ông ấy, có khi còn rất quan tâm đến bộ tuyệt tác trị quốc sách mà ông ấy đang dầy công viết ra nữa, do vậy nếu ta cứ bê nguyên ý tưởng của ông ta vào thì Hoàng Thượng lại trách ta không có ý tưởng riêng của mình, không sáng tạo!”
Bàng Vũ Cầm nghe xong cũng gật gật đầu nói: “Nhất thiết phải viết ra được một ý tưởng có sáng tạo, một ý tưởng mà Hoàng Thượng từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp, như vậy Hoàng Thượng mới chú ý đến nó, hơn nữa ý tưởng này là ý tưởng mà tướng công phải vô cùng quen thuộc.”
“Ý tưởng gì mà quen thuộc với ta? Thế thì có mỗi chuyện chữa bệnh mà thôi!”
Anh Tử vui vẻ nói chen vào: “Đúng rồi! Sao thiếu gia không dùng đạo lý chữa bệnh cho người mà áp dụng vào chuyện cai trị, quản lý đất nước ấy, trị nước cũng như trị bệnh mà!”
Hai mắt của Đỗ Văn Hạo sáng ngời lên nói: “Ừ, đúng rồi! Dùng ý tưởng chữa bệnh áp dụng vào trị nước! Đây đúng là một ý tưởng vô cùng sáng tạo, nhưng e rằng chúng ta nghĩ ra được, thì Hoàng Thượng chắc cũng đã biết rồi, hay là đem những ý tưởng của ta ra so sánh với ý tưởng của Tư Mã đại nhân, rồi từ đó đưa ra kết luận riêng cho mình, như vậy có lẽ sẽ tốt hơn!”
Bàng Vũ Cầm nghe xong vui vẻ đáp: “Đúng vậy! Nhưng mà, nhất định phải có lý lẽ riêng của mình, không thể bê nguyên cái nguyên lý trị bệnh vào trị nước được, nói gì thì nói thì hai thứ này cũng rất khác nhau!”
“Cái đó là đương nhiên rồi!” Đỗ Văn Hạo có được chủ ý này thì vui mừng khôn xiết, bất giác đưa tay lên bẹo má của Anh Tử nói: “Đúng là Anh Tử của ta thông minh thật đấy!”
Anh Tử thẹn đỏ cả mặt, cúi đầu, trong lòng không giấu nổi niềm hạnh phúc.
Đỗ Văn Hạo đi đôi tất vào, sau đó kéo giầy lên buộc lại, chạy thẳng luôn đến thư phòng cất bút bắt đầu viết lại những ý tưởng của mình vừa mới nghĩ ra. Khi hắn đã có ý tưởng rồi, thì dĩ nhiên cũng biết nên viết như thế nào, chính vì vậy khi vừa đặt bút xuống, nét mực đã như rồng bay phượng múa kín đầy cả trang giấy.
Bàng Vũ Cầm và Anh Tử lúc này trông thấy Đỗ Văn Hạo như vậy cũng không dám làm phiền hắn nữa, Anh Tử đem nước rửa chân của hắn đi đổ, còn Bàng Vũ Cầm thì pha cho hắn một tách trà, Anh Tử lại bê lên một ngọn nến nữa, sau đó hai người cứ đứng bên cạnh Đỗ Văn Hạo, người nào trong tay cũng có đồ nữ công của mình, ai làm việc của người đó im lặng ngồi chờ Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo cứ viết xong lại ngừng, ngừng xong lại viết, có lúc hắn lại đứng dậy đi đi lại lại mấy vòng, rồi lại ngồi xuống viết tiếp, cứ như vậy hắn viết đến canh năm thì mới xiêu xiêu vẹo vẹo đứng dậy, hắn đã viết được mấy chục trang lấy y đạo mà luận đàm trị nước của mình. Xong xuôi đâu đó hắn mới mãn nguyện cởi quần áo của mình ra mà ôm Bàng Vũ Cầm đi ngủ.
Hắn chỉ ngủ một canh giờ thì trời cũng đã sáng, trong lòng Đỗ Văn Hạo vẫn còn có việc, nên hắn liền dậy từ khá sớm.
Ngày hôm nay mưa vẫn dầm dề rơi rả rích.
Tuyết Phi Nhi hôm nay đích thân xuống bếp chuẩn bị bữa sáng, nàng trông thấy mắt của Đỗ Văn Hạo đỏ ngầu, trông rất mệt mỏi thì thấy thương hắn vô cùng, liền mở miệng nói: “Hoàng Thượng cũng thật đúng là, biết tướng công đêm về còn lo chuyện chữa bệnh cho Tư Mã đại nhân, ban ngày thì lại mời tướng công vào cung, làm gì có ai bắt người ta làm việc cật lực để chết như vậy chứ!” Bàng Vũ Cầm đứng cạnh đó cũng chỉ biết chu môi lên cũng thể hiện rõ bộ mặt không hài lòng.
Đỗ Văn Hạo ngáp dài một hơi rồi cười nói: “Nhận bổng lộc của triều đình, thì dĩ nhiên phải tận tâm tận lực rồi, còn việc ở trong cung thì ta cũng không thấy mệt mỏi gì cả. Phi Nhi, phu nhân của Tư Mã đại nhân rất hay khách khí, vậy nên có chuyện gì nàng cứ đi qua đó giúp hộ ta nhé, cho dù bên cạnh có hai con chăm sóc nhưng chân của Tuệ Nhi vẫn chưa khỏi hẳn còn Tư Mã Dung thì lại là đàn ông không có tính tỉ mỉ, cẩn thận gì cả.”
“Được, được rồi, thiếp đã biết rồi!” Tuyết Phi Nhi thấy Đỗ Văn Hạo đã ăn xong, bèn nói: “Thôi tướng công mau đi đi, đi sớm về sớm.” Tuyết Phi Nhi không chờ Đỗ Văn Hạo nói xong liền đem cái ô nhét vào trong tay của hắn, rồi đưa hắn ra cổng lên kiệu.
Đỗ Văn Hạo lên kiệu xong vẫn cố thò đầu ra dặn dò: “Vậy ta đi đây, nàng phải nhớ....”
“Tướng công nhiều chuyện quá! Nhớ rồi, nhớ rồi! Ha ha ha” Tuyết Phi Nhi cười lớn, nàng đưa tay lên vẫy vẫy ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo mau mau lên đường, sau đó thấy kiệu của hắn đã đi khuất thì mới quay người đi thẳng đến phòng của Tư Mã Quang.
Đỗ Văn Hạo sau khi vào cung, đến điện Cần Chính, Hoàng Thượng lúc này đang lên triều, hắn nghe Ninh công công nói Hoàng Thượng vừa nhận được tin tình báo quân đội, dường như là chuyện quân cơ bên Thổ Phồn, Hoàng Thượng đang triệu tập quần thần thương thảo.
Đỗ Văn Hạo đành ôm trong người kế sách mà hắn lĩnh hội áp dụng từ y đạo ra để trị nước, ngồi chờ nơi hậu điện
Cho đến tận trưa, Hoàng Thượng cho người đem luôn cả bữa ngự thiện buổi trưa vào trong điện Cần Chính, xem ra mọi người trong đó đang thảo luận rất gắt gao, đến cả ăn uống cũng không thể ngừng được.
Đến chiều mưa vẫn chưa ngừng rơi, lúc to lúc nhỏ, Đỗ Văn Hạo cứ ngồi trơ mặt nơi hậu điện mãi cũng thấy nhàm chán, thấy vậy bèn mở cửa bước ra ngoài, đầu đội mưa rơi lất phất trên đầu chạy vào trong cái đình thoáng ở trong hoa viên, rồi ngồi lên cái ghế đá ở trong đó. Đỗ Văn Hạo gọi một tên tiểu thái giám mang cho mình một bình trà đặc đến. Hôm qua hắn ngủ ít quá nên người vô cùng mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo định ngồi chỗ này uống tách trà đặc cho tỉnh ngủ, ai ngờ trà chưa kịp đến thì hắn đã ngủ gật trên cái bàn đá ở đó tự lúc nào mà không hay.
“Đỗ đại nhân, Đỗ đại nhân...”
Đang trong lúc say giấc nồng thì bên tai của Đỗ Văn Hạo có một tiếng gọi, hắn mở mắt ra thì thấy khuôn mặt một người đang áp sát ngay trước mắt, hắn không khỏi giật mình suýt ngã ngửa người ra đằng sau.
“Đỗ đại nhân, xin lỗi đã làm đại nhân giật mình!”
Đỗ Văn Hạo nhìn kỹ lại người này, thì nhận ra đó chính là Diệp công công ở tẩm cung của Chu Đức Phi nương nương đang mỉm cười với hắn.
“Ha ha, lúc nãy bổn quan vừa nằm mơ thấy ác mộng nên mới giật mình như vậy, thật là ngại quá, không ngờ bổn quan lại nằm ngủ ngay giữa ban ngày, ha ha! Đúng rồi! Diệp công công đến tìm bổn quan có việc gì vậy?” Đỗ Văn Hạo đưa tay lên dụi dụi mắt sau đó vươn vai hỏi.
“Lão nô biết Đỗ đại nhân rất mệt, vừa nãy gặp Ninh công công thì ông ấy có nói cho lão nô biết rồi, lão nô vốn không định làm phiền Đỗ đại nhân, nhưng phu nhân của Đỗ đại nhân vào trong cung, bảo là tìm đại nhân có chuyện vậy nên bảo lão nô đến đây để thông báo cho đại nhân đó!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới phát hiện ra hắn không biết từ lúc nào trên người có thêm một chiếc áo nữa, chắc là do lúc nãy nằm ngủ viên tiểu thái giám khoác lên cho hắn khỏi lạnh.
Đỗ Văn Hạo kinh ngạc hỏi: “Sao cơ? Cầm Nhi vào trong cung rồi sao?”
“Vâng! Phu nhân đang ở ngoài cổng, lão nô lúc đó đang trên đường về cung, khi đi qua cửa cung thì gặp phu nhân ở đó, phu nhân nói Tư Mã đại nhân...”
Đỗ Văn Hạo vừa nghe đến đây thì cảm thấy lo lắng muôn phần, lẽ nào bệnh tình của Tư Mã Quang có tín hiệu xấu hay sao? Nếu không phải như vậy thì Cầm Nhi không bao giờ vội vàng vào trong cung để tìm mình cả, Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn nói: “Hả? Có phải bệnh tình của Tư Mã đại nhân xấu đi rồi không? Vậy thì công công nên nói sớm cho bổn quan biết chứ, bổn quan phải đi luôn đây, bổn quan phải ra nói trước cho Ninh công công biết một câu, sau đó bổn quan sẽ ra khỏi cung ngay!”
Diệp công công nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, bèn kéo tay hắn lại mỉm cười nói: “Đỗ đại nhân nghe lão nô nói xong cái đã!”
“Vừa đi vừa nói không được sao?” Giọng của Đỗ Văn Hạo vô cùng sốt ruột và lo lắng, đang định chạy đi thì Diệp công công lại kéo hắn lại, Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì lại càng cuống hết cả lên.
“Thôi được rồi, vậy thì Đỗ đại nhân cứ đi tìm Ninh công công trước vậy, nhưng đừng có nói là bệnh tình của Tư Mã đại nhân có biến cố nhé, bởi vì người bị bệnh là phu nhân của Tư Mã đại nhân!”
“Hả? Không phải Tư Mã đại nhân sao? Công công làm bổn quan lo sốt vó lên rồi đây này!” Đỗ Văn Hạo thở phào nhẹ nhõm, sau đó dừng chân lại không chạy đi đâu nữa cả.
Diệp công công lúc này mới tiến tới nói tiếp: “Đại nhân vẫn chưa kịp nghe hết lời của lão nô nói đã vội vội vàng vàng đòi đi rồi, nghe phu nhân của đại nhân nói rằng Tư Mã đại nhân đang hồi phục rất tốt, giờ có thể tự xuống giường đi lại được rồi, mặc dù vẫn cần có người dìu đỡ, nhưng phu nhân của Tư Mã đại nhân do mệt mỏi quá độ mà cũng ngã bệnh rồi. Nghe phu nhân nói là cao đồ của Đỗ đại nhân đã chữa trị cho bà ấy nhưng lại không có kết quả gì cả!”
Đỗ Văn Hạo nói: “Tư Mã Phu nhân bị bệnh chắc không phải là bệnh tầm thường, nếu không Cầm Nhi cũng không vội vã chạy đến đây làm gì, bổn quan phải quay về xem một chuyến mới được. Dù gì thì Hoàng Thượng cũng đang phải bàn chuyện quân cơ, có lẽ đến tối mới xong, bổn quan đi tìm Ninh công công nói trước vài câu cái đã.”
Đỗ Văn Hạo tìm đến bên Ninh công công hỏi chuyện của Hoàng Thượng đã tiến triển ra sao rồi, hắn nghe nói bên trong đó đang bàn tán xôn xao, vô cùng quyết liệt, không biết đến bao giờ mới xong. Đỗ Văn Hạo bèn đem chuyện phu nhân của Tư Mã Quang bị bệnh nói cho Ninh công công biết, Ninh công công nghe xong bèn nói: “Chỗ Hoàng Thượng hiện giờ cũng chẳng có vấn đề gì, Đỗ đại nhân cứ quay về trước chữa bệnh cho phu nhân của Tư Mã đại nhân trước đi đã, sau đó quay lại đây cũng được, lão nô sẽ chờ đại nhân ở đây!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền gật đầu cảm ơn, sau đó vội vội vàng vàng lên kiệu ra khỏi cung, quả nhiên Bàng Vũ Cầm đã đứng đợi hắn ở cổng cung tự lúc nào, sau vài câu hỏi đơn giản, hai người bèn cùng nhau quay về Ngũ Vị Đường.
Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng bệnh của Tư Mã Quang, hồi trước hắn cho Ngô Thị chăm sóc Tư Mã Quang, nên cũng chuẩn bị cho nơi này thêm một chiếc giường. Ai ngờ, vì chăm sóc cho Tư Mã Quang mà phu nhân của ông ấy đã ngã bệnh nằm luôn trên cái giường đó.
Lúc này Đỗ Văn Hạo chỉ trông thấy Tư Mã Quang đang ngồi trên chiếc ghế gần giường, Tuệ Nhi thì buồn bã quỳ ngay phía trước giường, còn Ngô Thị thì đang nằm trên đó, hai mắt nhắm nghiền hơi thở yếu ớt.
“Đỗ đại nhân, đại nhân đã về rồi! Mẫu thân!” Tuệ Nhi trông thấy Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng bèn vội vã đứng dậy, khập khiễng đi đến bên hắn, sau đó lại quay lại nhìn mẫu thân của mình đang nằm trên giường, nàng chỉ nói lên được mấy câu mà mắt đã đỏ hoe, nấc nghẹn lên.
Đỗ Văn Hạo đi đến bên giường rồi ngồi xuống, hắn thấy Tuệ Nhi thương tâm như vậy, bèn lên tiếng an ủi: “Đừng lo lắng quá! Để ta xem xem thế nào đã!”
“Vâng!” Huệ Nhi nghe xong liền đứng sang một bên chờ đợi.
“Cầm Nhi, lúc trước có phải Diệu Thủ khám bệnh cho phu nhân không?”
“Vâng, thiếp đã cho người đi gọi Diệu Thủ đến đây ngay bây giờ đây!”
Bàng Vũ Cầm vừa nói xong câu này, thì đã nghe thấy có tiếng nói từ bên ngoài vọng vào: “Sư tổ! Người đã về rồi!”
Đỗ Văn Hạo quay đầu ra cửa thì đã thấy đồ tôn của hắn Diêm Diệm Thủ đang bước vào trong này.
Đỗ Văn Hạo đưa tay lên khoát khoát ra ý bảo Diệu Thủ không nói gì vội, sau đó hắn quay sang nhẹ nhàng hỏi Ngô Thị: “Lão phu nhân, phu nhân nói cho tại hạ biết chỗ nào không được khỏe?”
Giọng của Ngô Thị yếu ớt, đứt quãng trả lời: “Ta thấy hơi mệt, toàn thân nóng bừng!”
Đỗ Văn Hạo lại dò xét cẩn thẩn sắc mặt của bà ta, thì thấy mặt của Ngô Thị đỏ ối, đưa tay lên trán thì thấy nóng như nước sôi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Lão phu nhân, phu nhân đưa lưỡi ra cho tại hạ xem xem!”
Ngô Thị nghe xong bèn há miệng cho Đỗ Văn Hạo xem lưỡi, hắn đưa mắt ngó vào thì thấy màng lưỡi trắng có một lớp màu lợt trắng nhờn nhờn dính trên đó.
Đỗ Văn Hạo xem xong bèn nói: “Lão phu nhân muốn uống nước không? Để tại hạ bảo Tuệ Nhi đi pha ít nước cho lão phu nhân uống nhé, được không?”
Tuệ Nhi nghe xong định tự mình đi lấy nước thì bỗng nghe thấy Ngô Thị lên tiếng nói: “Đúng là ta có khát nước, nhưng ta không muốn uống đâu. Đừng đi lấy nữa, để ta ngủ một chút rồi sẽ khỏe lại ngay thôi!” Ngô Thị nói xong liền nhắm luôn mắt lại.
“Mẫu thân!! Mẫu thân đừng ngủ nữa, mẫu thân đã ngủ như vậy hai ngày rồi, Đỗ đại nhân đang hỏi mẫu thân đó, mẫu thân đừng ngủ nữa!” Tuệ Nhi đứng bên cạnh đó lên tiếng, nước mắt nàng cũng lăn theo lời nói của nàng, tuôn rơi lã chã.
Đỗ Văn Hạo nghe Tuệ Nhi nói vậy cũng kinh ngạc vô cùng: “Hai ngày? Lão phu nhân đã ngủ được hai ngày rồi sao?”
“Cũng không hẳn là như vậy, ngày hôm trước thì không đến nỗi, nhưng đêm hôm qua thì nặng hơn hẳn, mẫu thân cứ ngủ vùi như vậy cho đến tận bây giờ, chính vì vậy tiểu nữ mới bảo Bàng phu nhân đi mời đại nhân về!”
“Diệu Thủ! Ngươi xem bệnh cho lão phu nhân từ lúc nào vậy?”
Diêm Diệu Thủ đáp: “Là ngày hôm trước, trưa hôm đó sư tổ vào trong cung vậy nên đồ tôn đã xem bệnh thay cho sư tổ, từ đó đến nay đồ tôn đã xem bệnh tổng cộng là hai lần hôm trước và hôm qua, mỗi hôm một lần.”
“Khi đó bệnh tình của lão phu nhân ra sao?”
Tuệ Nhi đáp: “Khi mới bắt đầu, thì chỉ thấy mẫu thân hơi có hiện tượng sốt cao, sau đó Diêm đại phu kê thuốc cho mẫu thân uống thì đêm hôm đó mẫu thân toàn thân đều ướt nhẹp, do ra mồ hôi ra quá nhiều ngấm vào hết quần áo, chính vì vậy mà cả đêm mẫu thân không ngủ được cho đến tận sáng hôm nay. Tiểu nữ vốn định bảo Đỗ đại nhân đến xem thế nào thì nghe hôm nay Đỗ đại nhân có việc vào trong cung không có thời gian rảnh rỗi, do vậy tiểu nữ định chờ đến đêm nay đại nhân quay về xem thế nào, nhưng không ngờ mới đến trưa ngày hôm nay thì bệnh tình của mẫu thân lại quá nặng, thở ra nhiều hơn là hít vào, gọi mãi mà không tỉnh lại, do lo lắng quá mới nghĩ đến việc vào trong cung tìm đại nhân quay về xem xem.”
Đỗ Văn Hạo quay sang Diêm Diệu Thủ hỏi: “Diệu Thủ, ngươi đem phương thuốc của ngươi kê cho lão phu nhân ra đây cho ta xem nào!”
Diêm Diệu Thủ liền móc trong người ra phương thuốc, hai tay dâng đến cho Đỗ Văn Hạo xem.
Đỗ Văn Hạo xem một lúc rồi thở dài đứng dậy đi ra cái bàn giấy ở góc phòng, Tuệ Nhi trông thấy vậy cũng đi theo sau hắn rồi chuẩn bị hết bút nghiên, đứng cạnh mài mực, rất nhanh Đỗ Văn Hạo đã viết xong đơn thuốc rồi đưa cho Diêm Diệu Thủ.
Diêm Diệu Thủ đưa lên xem một cái thì kinh ngạc vô cùng, đang định mở miệng hỏi thì thấy Đỗ Văn Hạo đã khoát khoát tay ra hiệu, Diêm Diệu Thủ chỉ biết im lặng đi ra ngoài tiền đường để bốc thuốc.
Rất nhanh thuốc đã được đun xong, Tuệ Nhi liền cầm lấy bón cho mẫu thân của mình uống.
Đến tầm chiều chiều chập choạng tối, cơn sốt trong người của Tư Mã phu nhân cũng đã thuyên giảm, người cũng bắt đầu tỉnh táo trở lại.
Tư Mã Quang trông thấy thì mừng rỡ vuốt vuốt bộ râu của mình, cảm ơn Đỗ Văn Hạo rối rít, còn Tư Mã Dung và Tuệ Nhi cũng nước mắt ngắn nước mắt dài tạ ơn hắn.
Đỗ Văn Hạo trông thấy Diêm Diệu Thủ vẫn đang vô cùng thắc mắc, bèn cười nói: “Ngươi nói xem, ngươi biện chứng chữa bệnh cho lão phu nhân thế nào?”
“Thưa sư tổ! Đồ tôn thấy lão phu nhân tai mặt đỏ ối, sốt cao không ngừng, thì biện chứng nó là Ôn Nhiệt Chứng, phương thuốc đầu tiên thì khai bài thuốc Trà Ngôi Dược. Nhưng sốt vẫn không giảm, đồ tôn lại biện chứng tiếp có lẽ lão phu nhân là Âm Hư Nội Nhiệt, lại khai bài thuốc có Sanh Địa, Thạch Giải cùng với rất nhiều bài thuốc hàn lạnh khác, nhưng lão phu nhân lại càng sốt nặng thêm, cả đêm vì thế mà không ngủ được, mồ hôi ra nhiều, thở gấp, đồ tôn ngu muội không biết bệnh tình của lão phu nhân rốt cuộc là ra sao nữa!”
“Ừm! Vậy ngươi có để ý thấy tuy lão phu nhân sốt cao như vậy, nhưng lại không thấy khó chịu bên trong không?”
Diêm Diệm Thủ nhất thời trợn tròn mắt cũng không hiểu tại sao.
Đỗ Văn Hạo cười nói: “Khi nãy ta hỏi lão phu nhân có khát nước không, tuy là lão phu nhân có nói là khát, nhưng lại nhất quyết không chịu uống nước, điều này chứng tỏ rằng bệnh chứng của lão phu nhân không phải là Ôn Nhiệt, ngươi lẽ nào mấy ngày hôm nay không để ý sao? Mấy ngày hôm nay khí trời âm u mù mịt, mưa dầm cũng lâu, chỗ nào cũng có mùi ẩm mốc, người ở trong phòng rất dễ cảm nhận sự ẩm thấp khó chịu, vậy nên phải thanh nhiệt để hóa giải sự ẩm thấp đó. Nhưng ngươi lại dùng các bài thuốc có vị hàn lạnh, như vậy càng làm cho sự ẩm thấp bên trong bị chế ngự không thông thoát ra ngoài cơ thể được. Sau đó ngươi lại chẩn đoán là Âm Hư Nội Nhiệt, như vậy càng làm tăng thêm ẩm nhiệt trong cơ thể, vì thế nên lão phu nhân mới ra nhiều mồ hôi, thở gấp như vậy, chỉ cần kê đơn thuốc có các vị Quế, Gừng thì dương khí sẽ được thông suốt, người lúc đó cũng sẽ khỏe lên nhất nhiều!”
Diêm Diệu Thủ lúc này mới ngộ ra được, cúi người nói: “Phương pháp của sư tổ quả nhiên kỳ diệu!”
“Không phải là phương pháp của ta kỳ diệu, mà là khi biện chứng thì không thể giới hạn trong các loại bệnh ở bản thân của người bệnh được, có lúc phải tham khảo những yếu tố xung quanh người bệnh nữa, như vậy mới biện chứng chính xác được!”
Diêm Diệu Thủ nghe xong hổ thẹn đáp: “Đồ tôn hiểu rồi!”
Chương 303: Oan gia ngõ hẹp gặp nhau!
Sau chuyện Lưu Quý Phi giả vờ có thai, Đỗ Văn Hạo lĩnh ngộ được một đạo lý trong chuyện này, đó là chuyện của mấy chị em trong cung thì hắn càng ít tiếp xúc vào càng tốt, ai cũng nói tâm tư của người phụ nữ như kim trong bể, làm cho người khác chẳng biết đâu mà lần. Ngày trước Đỗ Văn Hạo cho rằng Dụ Cáp Nhi là một người con gái không bị nhiễm thói hư tật xấu trong cung, nhưng sau đó hắn phát hiện ra rằng, người con gái nào đã được Ninh công công ngắm phải, và được ba người cầm đầu Hậu Cung yêu quý thì không hề đơn giản chút nào. Có lẽ nàng ta trước mặt người khác giả vờ ngoan hiền, không tranh giành với ai bao giờ, nhưng thực chất trong lòng nàng ta lại còn muốn tranh giành hơn người khác rất nhiều.
Dụ Cáp Nhi có lẽ biết Đỗ Văn Hạo cố ý lảng tránh khỏi phải gặp mình, hai tháng đã trôi qua rồi cũng không đến làm phiền, cho dù có đồ gì muốn đem đến cho Lâm Thanh Đại, cũng đều nhờ thái giám ở trong cung trực tiếp đem đến cho Ngũ Vị Đường.
Đỗ Văn Hạo nghe Ninh công công nói mấy ngày trước Dụ Cáp Nhi xuất cung cùng Thái Hoàng Thái Hậu đi thắp hương, trên đường về chẳng may bị nhiễm mưa lạnh cũng đều gọi Thái Y khác đến xem bệnh, Hoàng Thượng trông nàng ta ngày càng gầy gò ốm yếu thì lại càng thấy thương tâm, đau lòng vô cùng, mấy lần định gọi Đỗ Văn Hạo đến chữa trị, nhưng đều bị nàng khéo léo khước từ.
Đỗ Văn Hạo nghĩ tốt nhất là cả đời này nàng ta cũng đừng tìm đến hắn nữa, nhưng không ngờ hắn mới nghĩ vậy thôi mà hai ngày gần đây đều không may bắt gặp nàng trên đường.
Chuyện này muốn nói thì cũng nên bắt đầu từ chuyện của một người họ Triệu, chức Tiệp Trữ mới được Hoàng Thượng sủng ái.
Ngày mùng năm tháng sáu, cũng vừa vặn là ngày sinh nhật của Triệu Tiệp Trữ vừa tròn mười bảy tuổi, có lẽ mới là người được Hoàng Thượng ân sủng, nên cũng có vẻ dương dương tự đắc. Nàng ta trước đó một tháng đã rêu rao rằng sẽ tổ chức một bữa tiệc sinh nhật cho ra trò, theo luật lệ trong cung thì bắt đầu từ Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu trở xuống đến các phi tử khác ở trong cung, không được phép tổ chức sinh nhật. Nhưng Hoàng Thượng vì nghĩ nàng ta mới xa nhà nên cũng nhún vai đồng ý mà thôi. Bởi vì nàng ngày nào cũng vậy, cứ mặt mày ủ rũ không cười không nói gì cả, nên Hoàng Thượng mới mềm lòng đồng ý cho nàng tổ chức sinh nhật, những Phi Tần khác thì còn lâu mới có được đặc cách như vậy. Vị Triệu Tiệp Trữ này dĩ nhiên là không thể bỏ qua cơ hội mà có khi cả đời cũng khó mà có được này, nàng ta cho mời hết những vị quan trong triều có chức tam phẩm trở lên, Đỗ Văn Hạo cũng nằm trong số được nàng ta mời đến.
Ngày hôm đó, trời cũng khá đẹp, trong khuôn viên của Triệu Tiệp Trữ đều rộn ràng ánh náng, hoa tươi đua nở, chim ca ríu rít vô cùng vui vẻ, đèn đỏ được treo từ bên ngoài vào sâu tít trong hậu viện, con sư tử đá bên ngoài cổng cũng được buộc vào cổ một bông hoa màu đỏ to tướng, trong phòng giờ đây như được biến thành một màu đỏ lan rộng khắp mọi nơi.
Khi Đỗ Văn Hạo mới đến đây hắn cứ tưởng giờ đây hẳn rất đông người, dù sao thì Triệu Tiệp Trữ cũng là người được Hoàng Thượng rất sủng ái, các quan lại trong triều không nể mặt nàng thì cũng phải nể mặt Hoàng Thượng nữa chứ, ai ngờ lúc này người cũng không phải đông lắm, chỉ lèo tèo vài mống người lác đác ngồi tản mác ở đình, và trong mấy phòng chờ nói chuyện với nhau.
“Đỗ đại nhân đến!” Người canh cửa tẩm cung của Triệu Tiệp Trữ trông thấy Đỗ Văn Hạo đến thì hô lên thông báo.
Đỗ Văn Hạo đến chỗ bàn giấy gần đó ghi danh tính mình vào đó, rồi đặt lễ vật xuống tiến vào trong cung, đột nhiên hắn nghe thấy phía sau có người gọi hắn, Đỗ Văn Hạo bèn dừng chân đứng lại ngoảnh đầu nhìn ra phía sau.
Hắn chỉ trông thấy một người mặc một bộ váy tơ tằm uyên ương nguyệt nha quần, thanh tao nho nhã, chân đi đôi giầy tú hoa mầu hồng, tóc tết theo kiểu Phi Nguyệt, trên đó còn cắm một chiếc trâm Khổng Tước lấp lánh, nữ tử đó nhoẻn miệng cười tươi đi đến bên hắn nói: “Đỗ đại nhân đến sớm thật đấy!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhận ra, nữ tử xinh đẹp đó chính là Dụ Cáp Nhi, phía sau nàng là tên tiểu thái giám Tiểu Tề hai tay bưng lễ vật đứng đằng sau, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng mỉm cười đáp lại: “Nương nương đến cũng sớm mà!”
Hai người cùng sánh vai bước vào trong cổng, bên trong có một tên thái giám chạy đến tươi cười đưa tay lên thi lễ với hai người: “Mời Dụ nương nương và Đỗ đại nhân lên phòng dùng trà, nương nương của nô tài cũng sắp tới rồi!”
“Không cần làm phiền công công như vậy đâu, ta với Đỗ đại nhân đi đi lại lại trong này cũng được rồi, nghe nói hoa viên của Triệu nương nương rất đẹp, ta muốn vào trong đó xem không biết có được không?” Dụ Cáp Nhi nói xong thì đưa mắt ra bốn phía dò xét, không hề để ý vị công công trước mắt thêm một lúc nào nữa.
“Dĩ nhiên là được ạ! Để nô tài đưa hai vị đi xem”, tên tiểu thái giám trả lời.
Dụ Cáp Nhi nghe thấy vậy bèn khoát khoát tay nói: “Không cần đâu! Hôm nay ngươi cũng bận rồi, chúng ta tự mình đi được, chỉ cần ngươi không lo lắng về chuyện chúng ta chẳng may dẫm phải những kỳ hoa dị thảo trong hoa viên của Triệu nương nương là tốt rồi, ta nói vậy có đúng không Đỗ đại nhân?”
Đỗ Văn Hạo cũng không tiện từ chối lời mời thịnh tình của Dụ Cáp Nhi trước mặt người khác, nên cũng đành phải gật đầu đồng ý.
Viên tiểu thái giám thấy vậy vội vã gọi đến một đứa cung nữ nói: “Vậy mời hai vị cứ tự nhiên, lát nữa mời nương nương và Đỗ đại nhân đến phòng Nhược Đồng ở phía đông dùng bữa, mong nương nương và Đỗ đại nhân đừng bỏ lỡ, Hoàng Thượng cũng sẽ đến đó ạ!!!”
Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười nhạt, trong ánh mắt của nàng hiện rõ lên vẻ hờ hững hơn bao giờ hết.
“Nghe nói mấy ngày trước sức khỏe nương nương không được tốt lắm, không biết hôm nay thế nào rồi, đã khỏe lại chưa?” Đợi cho viên thái giám kia đi rồi thì Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi dưới sự dẫn dắt của đứa cung nữ nọ, một bên chào hỏi những quan lại đi ngược chiều đến, một bên bước vào trong hoa viên của Triệu Tiệp Trữ.
“Tiểu muội vẫn chưa thể quen được cái khí hậu miền bắc này, lúc nóng lúc lạnh, chẳng thể nào thoải mái dễ chịu bằng được thời tiết của Giang Nam, hơn nữa thời tiết miền bắc còn vô cùng ẩm ướt, chính vì thế mà tiểu muội toàn mắc phải mấy cái bệnh lặt vặt, may mà vấn đề không lớn lắm, uống vài thang thuốc là khỏe lại rồi, không có gì đáng ngại lắm.” Dụ Cáp Nhi vừa nói, vừa đưa tay lên hái lấy một bông hoa màu vàng bên đường đưa lên mũi ngửi.
“Xin lỗi nương nương! Loại hoa này nương nương của nô tỳ không cho phép….” Đứa cung nữ đi cùng hai người đứng cạnh đó e dè lên tiếng.
Dụ Cáp Nhi nghe xong quay lại nhìn đứa cung nữ đó một cái, đứa cung nữ nọ trông thấy ánh mắt sắc như dao của nàng thì hồn phách lên mây, sợ quá không dám nói thêm câu nào nữa, đứa cung nữ giờ đây do sợ hãi mà đã cố tình bước chân chậm lại cách Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi một đoạn khá xa.
“Vậy thì tốt, nương nương cũng nên chú ý đến sức khỏe của mình hơn.” Đỗ Văn Hạo giờ đây tận mắt trông thấy Dụ Cáp Nhi cầm bông hoa khi nãy trong tay đang từng cánh hoa một ngắt vứt xuống dưới đường, sau đó lại đặt nó vào trong lòng bàn tay, nắm chặt lại đến cho nát nhừ rồi tung vứt nó lên cao, vung vãi khắp vườn.
Đỗ Văn Hạo nhìn vậy thì có chút băn khoăn nhưng vẫn không nói gì. Khi hai người đi đến một ngã ba trong vườn, đứa cung nữ nọ mới vội chạy đến cúi người, lấy hết can đảm nói: “Bẩm nương nương, bên trái là hậu hoa viên rồi!”
Dụ Cáp Nhi khó chịu đưa tay lên khoát khoát hai cái, đứa cung nữ nọ biết ý bèn lùi lại ra phía sau.
Đỗ Văn Hạo đã muốn tìm cớ tách ra từ lâu, thấy đứa cung nữ lùi xuống như vậy đang định mở miệng thì nghe thấy Dụ Cáp Nhi thở dài lên một tiếng ngẩng đầu lên nhìn hắn, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra trong mắt của nàng phút chốc đã nước mắt nhạt nhòa, sắc mặt trở nên đáng thương vô cùng.
“Tiểu muội biết Đỗ đại ca giờ đây rất sợ muội, lần trước việc của Lưu Quý Phi tiểu muội đã làm liên lụy đến Đỗ đại ca, cũng may là vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng mà…”
Đỗ Văn Hạo không chờ cho Dụ Cáp Nhi nói xong bèn cướp lời nói: “Nương nương không cần phải tự trách mình như vậy, lỗi cũng tại vi thần, tại sao vi thần dám trách nương nương được cơ chứ?”
Hai mắt của Dụ Cáp Nhi ánh lên, hai dòng nước mắt bắt đầu lại lăn dài trên má chảy xuống dưới cằm, trông vô cùng đáng thương.
Phàm là nam nhi, bất cứ ai trông thấy nữ nhi với đôi mắt long lanh và dòng nước mắt lấp lánh vậy chắc cũng không tránh được niềm thương cảm. Đỗ Văn Hạo nhất thời không biết nên nói thế nào, hắn suy nghĩ một chút rồi bất giác mỉm cười, khiến Dụ Cáp Nhi ngạc nhiên nói: “Đỗ đại ca cười gì vậy?”
Đỗ Văn Hạo ra ý bảo nàng và hắn tiếp tục đi tiếp, vì có người nào đó từ con đường khác đang tiến lại gần đây, Dụ Cáp Nhi đành phải kín đáo quay người nghiêng ra rồi rút khăn tay lau nước mắt đi, rồi đi theo Đỗ Văn Hạo.
“Đỗ đại ca, đại ca vẫn chưa nói tại sao đại ca lại cười như vậy, có phải do tiểu muội vừa khóc nên chảy hết son phấn hóa trang trên mặt không?”
Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu cười nói: “Không phải, vi thần trông thấy nương nương tội nghiệp như vậy đột nhiên nhớ đến một câu thơ!”
Dụ Cáp Nhi cũng là một người yêu thích thơ phú, nên khi nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy bèn vội vàng hỏi: “Thật sao? Là bài thơ nào vậy? Do ai viết?”
Đỗ Văn Hạo thấy Dụ Cáp Nhi hứng thú như vậy bèn lúc lắc cái đầu đọc bài thơ đó lên: “Năm ngoái giọt lệ tương tư chảy, đến hết năm nay mới tới cằm. Câu thơ này vi thần nghĩ nương nương đã nghe qua rồi, đúng không?”
Nhưng không ngờ Dụ Cáp Nhi gương mặt ửng đỏ đưa tay lên che miệng của mình, đưa mắt lên liếc Đỗ Văn Hạo một cái, rồi cúi đầu xuống thấp giọng nói: “Đây là thơ của ai vậy? Tại sao tiểu muội chưa từng nghe ai nói đến bao giờ cả, có phải là của Đỗ đại ca tự làm ra để chế nhạo muội đó không?”
Đỗ Văn Hạo kêu á lên một tiếng rồi đáp: “Đây là do Tô Tiểu Muội em gái của Tô Đông Pha Tô Thức làm đó, vi thần cứ tưởng rằng nương nương nghe qua rồi chứ!”
Dụ Cáp Nhi nghe Đỗ Văn Hạo giải thích như vậy, cũng biết có bài thơ như thế, nên cũng cười gượng nói: “Tiểu muội đúng là rất thiếu hiểu biết, vậy Đỗ đại ca hãy thử đọc cho tiểu muội nghe xem, muội cũng muốn biết nguyên văn của cả bài thơ đó có ý là gì nữa!”
Đỗ Văn Hạo dò xét Dụ Cáp Nhi một cách thận trọng, Dụ Cáp Nhi thấy hắn nhìn mình như vậy bất giác tức giận nói: “Xem Đỗ đại ca kìa, tiểu muội không ăn thịt đại ca đâu mà lo, muội cũng biết điều đại ca nói là sự thật, bài thơ đó cũng là có thật, Đỗ đại ca cứ đọc nguyên văn cả bài thơ đó ra đi, muội không tức giận đâu.”
Đỗ Văn Hạo nghe xong mới bắt đầu nói: “Tô Đông Pha và em gái của mình rất hay trêu ghẹo nhau. Đông Pha trên miệng có một bộ râu nên em gái ông ta thấy vậy mới chọc rằng: ‘Muốn gõ vào răng mà không thấy, chỉ nghe thấy tiếng từ râu ra.’ Còn Tiểu Muội của Đông Pha thì lại trán dô nên Đông Pha mới chế giễu rằng: ‘Chưa ra khỏi đình dăm ba bước, trán thì đã chạm ngay cổng rồi.’ Tiểu Muội lại cười nhạo chiếc cằm dài của Tô Đông Pha rằng: ‘Năm ngoái giọt lệ tương tư chảy, đến hết năm nay mới tới cằm.’ Tô Đông Pha lại thấy đôi mắt của Tiểu Muội hơi sâu vào trong nên đáp lại rằng: ‘Mấy lần rửa mặt khó lắm thay, chỉ vì hai mắt hõm ao này..”
“Ha ha ha!!! Tiểu muội hôm nay đúng là được mở rộng tầm mắt rồi, muội nhất định phải kể cho Hoàng Thượng nghe mới được, nhưng cằm của muội lại không dài như vậy, tại sao Đỗ đại ca lại cười muội như thế chứ?”
“Thực ra vi thần không phải cười nương nương đâu, vi thần sao dám cười nhạo nương nương cơ chứ? Vi thần chỉ không muốn nương nương không vui như vậy thôi, chính vì vậy nên vi thần mới nghĩ ra chuyện cười này để làm cho nương nương vui vẻ hơn mà thôi!”
“Tiểu muội lại thấy rằng Đỗ đại ca chê mặt của muội dài thì đúng hơn đó, Đỗ đại ca đừng có chối như vậy nữa…”
Đỗ Văn Hạo biết Dụ Cáp Nhi cũng đang đùa lại mình nên cũng vui vẻ đáp lại: “Nếu như mặt của nương nương mà dài như vậy thì e rằng nước mắt tương tư của viên thái giám canh cổng của nương nương chắc phải mười năm nữa mới chảy xuống cằm được mất!”
Dụ Cáp Nhi nghe xong thì cười lăn cười bò, hai người lại tiếp tục đi đến bên một dãy hành lang dài, chỗ này toàn một màu hoa tường vi màu trắng hồng, hương thơm tỏa ra thơm mát.
“Tiểu muội cứ tưởng rằng Đỗ đại ca không còn biết trêu đùa muội vui vẻ như vừa rồi nữa đấy.” Tuy câu nói này của Dụ Cáp Nhi có vẻ ngẫu hứng, nhưng trong lời nói lại tràn đầy vẻ cảm kích.
“Vi thần không dám!”
Dụ Cáp Nhi đi đến đây, đột nhiên dừng chân lại, chỗ nàng đứng vừa vặn có một cành hoa rơi đúng vào bờ vai của nàng, rồi nàng đưa một cái nhìn sâu lắng về phía Đỗ Văn Hạo nói: “Đừng có trước mặt muội mở miệng ra là vi thần vi thiếc mãi như vậy, muội coi huynh là huynh trưởng của muội, mong Đỗ đại ca đừng như vậy nữa. Hôm trước Đỗ đại ca mượn cớ về trước, không muốn nghe tiểu muội nói về mấy chuyện ngày xưa nữa, muội biết đại ca không muốn ở gần muội thêm một phút nào nữa. Sau đó, muội cũng về suy nghĩ rằng tại sao Đỗ đại ca lại có thể xưng hô tỉ đệ với Chu Đức Phi nương nương được, nhưng với muội thì không thể xưng hô huynh muội được cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo không biết nói gì nữa cả, bời vì hắn cũng chẳng biết nên nói thế nào cho phải cả.
Dụ Cáp Nhi vẫn tiếp tục nói: “Tiểu muội vốn cũng định không làm phiền Đỗ đại ca nữa, cứ để sự việc tiển triển theo cách tự nhiên vốn có sẵn của nó, nhưng hôm nay trông thấy Đỗ đại ca ở ngoài cổng, không biết tại sao, tiểu muội muốn cho Đỗ đại ca biết rằng muội đối xử với ai cũng không giống như đối xử với Lưu Quý Phi.”
“Nương nương hơi quá lời rồi, vi thần không có ý gì khác cả, chỉ là gần đây nương nương cũng biết rồi đấy, vi thần bận hết việc trong cung rồi lại đến ngoài cung, không thể nào lo lắng hết cho xuể được, mong nương nương thông cảm cho vi thần.” Đỗ Văn Hạo đúng là không muốn ở bên cạnh Dụ Cáp Nhi thêm một phút nào nữa, hắn bây giờ chỉ mong có một người nào đó chạy ra gọi hắn đi ăn cơm cho nó nhẹ nợ, hắn cũng chẳng muốn quan tâm đến chuyện Dụ Cáp Nhi nói, cũng chẳng muốn có thêm một người em gái như vậy nữa. Có những lúc một người con trai thích hoặc không thích một ai đó thì cũng chẳng có lý do nào hết cả. Thích thì là thích, không thích thì chỉ là không thích, đơn giản vậy thôi.
“Đỗ đại ca có biết không? Khi một người đánh mất người mà mình yêu quý nhất sẽ muốn làm điều gì nhất không?” Dụ Cáp Nhi có lẽ cũng không thích nhìn khuôn mặt quan trường của Đỗ Văn Hạo nữa, nên mới quay đầu đi nói câu như vậy.
Đỗ Văn Hạo lặng thinh không nói, ngươi không phải rất yêu Hoàng Thượng đó sao? Lẽ nào ngươi đã thay đổi, lẽ nào ngươi lại yêu ta sao?
Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một lúc rồi ngập ngừng nói: “Vi thần chưa có cảm giác đó, vi thần thật sự không biết là sẽ làm như thế nào cả!”
“Nếu như lúc sáng sớm đại ca mới bước ra khỏi nhà, thì Thanh Đại tỷ của đại ca nói rằng tỷ tỷ sẽ chờ đại ca đến tối đi xem hội hoa đăng, nhưng đến lúc đó thì tỷ đã chết rồi, thì đại ca cảm thấy thế nào?”
Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, hắn nói luôn mà không cần suy nghĩ: “Thanh Đại tỷ công phu giỏi như vậy, chắc không có chuyện gì đâu! Nếu có chuyện thì cũng chỉ có vi thần gặp chuyện bất trắc mà thôi!”
Dụ Cáp Nhi nghe xong nhoẻn miệng cười, môi nàng nhếch lên hở một hàng răng trắng bóng, trông nàng ngây thơ trong sáng vô cùng, Đỗ Văn Hạo lại cảm nhận được Dụ Cáp Nhi đã lại quay về là chính nàng khi xưa, khi hắn mới quen biết nàng.
“Muội biết đại ca rất thương Thanh Đại tỷ, đại ca chỉ mong chuyện xấu nhất xảy ra với mình, chứ cũng không đành lòng để chuyện xấu xảy ra trên người của Thanh Đại tỷ cả.”
“Đó là điều dĩ nhiên rồi.” Đỗ Văn Hạo trả lời chắc nịch.
Ánh mắt của Dụ Cáp Nhi dần dần ảm đạm hẳn xuống, nàng chẳng buồn đi nữa, mà ngồi luôn hẳn xuống chiếc ghế gỗ trong dãy hành lang này, trong mắt nàng hiện lên sự buồn bã vô bờ.
“Tiểu muội nhớ rằng, muội đã kể cho đại ca nghe muội có một người anh trai cũng trạc tuổi Đỗ đại ca, muội và anh trai mình sống với nhau từ bé, huynh ấy rất tốt với muội.”
Thanh Mai Trúc Mã ư? Vậy tại sao không cưới luôn trước khi bị vào cung chứ? Có lẽ không phải là anh ruột của ngươi. Đỗ Văn Hạo nghĩ bậy bạ lung tung như vậy, vì hắn đọc được trong ánh mắt của Dụ Cáp Nhi một tình yêu đã chôn sâu tận đáy lòng. Xem ra hắn đã có một phen ăn dưa bở rồi! Nhưng Đỗ Văn Hạo từ trước đến giờ chưa một lần hẳn hoi nghe Dụ Cáp Nhi kể chuyện riêng của nàng cho hắn bao giờ cả, vậy nên khi nghe nàng nói vậy cũng ậm ừ đồng ý.
“Huynh ấy là con trai của cô cô của muội.”
Đỗ Văn Hạo sửng sốt, mắt hắn mở to ra, không phải chứ, cô cô của Dụ Cáp Nhi không phải là thiếp của Vương Gia hay sao? Vậy thì anh trai của nàng cũng là Hoàng Thân Quốc Thích rồi còn gì nữa?
“Hai người chắc yêu nhau lắm phải không?” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng lên tiếng hỏi.
Dụ Cáp Nhi ngước mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo đang ngồi đối diện ngay trước mặt mình, nàng cười với hắn một cái rồi nói tiếp: “Đỗ đại ca muốn nghe chuyện của tiểu muội rồi sao?”
Đỗ Văn Hạo ngồi đó nghe thấy Dụ Cáp Nhi nói như vậy bất giác cười gượng lên một cái, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ, ngươi đã có ý kể chuyện cho ta nghe rồi, thì ta muốn tránh cũng chẳng thoát được, sớm muộn gì cũng phải nghe, thôi thì nghe trước cho nó sớm chợ, nghe xong còn đi ăn cơm, nếu không ăn cơm xong rồi mới nghe chắc là cũng quên béng hết rồi cũng nên, ngươi cứ bày tỏ hết cõi lòng ra cho thoải mái, ta cũng giải phóng luôn đôi tai của ta, đôi bên cùng có lợi.
“Mời nương nương nói tiếp! Vi thần vẫn đang nghe đây.” Đỗ Văn Hạo tìm một chỗ dựa thoải mái, sau đó dựa lưng vào một cái hàng rào bằng trúc, dùng để làm chỗ đỡ cho cây tường vi leo lên, hắn lại còn sợ đang nghe thì gật mất nên hắn ngồi hơi chếch lưng với Dụ Cáp Nhi, như vậy khi hắn không may đang gật gù thì cũng không dễ bị Dụ Cáp Nhi nhìn thấy.
“Sau khi cô cô mất, cha của muội rất lo lắng người đàn bà hại chết cô cô của muội bắt nạt huynh ấy, nên ông đã tìm đến Vương Gia thương lượng, rồi đưa huynh ấy về Giang Nam. Cũng may là sau đó, sự việc hãm hại cô cô của muội bị bại lộ, người đàn bà đó bị đuổi ra khỏi nhà, nghe nói sau này bà ta về làm vợ của một người họ Lưu.”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, cứ như là đang nghe chăm chú lắm vậy, đến lúc này thì hắn vẫn còn khá tỉnh táo, bỗng có một cơn gió man mát thổi đến, đập vào mặt của hắn, làm hắn đã có đôi chút gật gù buồn ngủ.
“Từ đó trở đi, muội và huynh ấy ngày nào cũng ở bên cạnh nhau, đối xử với nhau rất tốt, rồi cho đến một ngày…Đỗ đại ca, đại ca vẫn nghe muội nói đấy chứ?”
Đỗ Văn Hạo quay đầu lại mỉm cười, một nụ cười quyến rũ có thể làm chết bao nhiêu người, Dụ Cáp Nhi lúc này mới lại nói tiếp: “Cho đến một ngày huynh ấy biến mất, không thấy đâu nữa!!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới bắt đầu chăm chú nghe câu chuyện của Dụ Cáp Nhi, đột nhiên nghe đến câu “huynh ấy biến mất, không thấy đâu nữa!” thì hả lên một tiếng, người ngồi thẳng lên, quay đầu lại nhìn Dụ Cáp Nhi, chỉ thấy khóe mắt của nàng giờ đây đã có một hàng lệ tuôn dài.
“Đúng vậy, huynh ấy không biết đi đâu nữa rồi!”
“Sao lại có thể biến mất được chứ? Một người lớn phải khác một đứa trẻ chứ, huynh ấy khi đó cũng được coi là người lớn rồi chứ nhỉ?”
“Đúng vậy, đó là hồi mùng hai tháng hai năm ngoái, huynh ấy đưa muội cùng nhị ca, tam ca, tứ ca đi ra ngoại ô thả diều, sau đó mấy người bọn muội chơi đùa rất vui vẻ, chơi được một lúc thì huynh ấy đột nhiên biến mất, bọn muội đều không ai hay biết chuyện gì đang xảy ra cả!!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong, cũng thấy câu chuyện của nàng đã đến hồi cao trào, vội quay mặt lại nói: “Sau đó thì thế nào?”
Dụ Cáp Nhi nhất thời nhắm mắt lại, dưới hàng mi mắt đen tuyền của nàng nhỏ xuống hai hàng nước mắt.
“Bọn muội đã đi tìm rồi, thậm chí còn đi báo quan nữa, một tháng sau thì bọn muội tìm ra huynh ấy!”
Đỗ Văn Hạo thở phào nhẹ nhõm nói: “Như vậy thì tốt rồi, có phải là huynh ấy bị bọn cướp bắt đi, rồi đến tống tiền nhà muội không?” Trong đầu Đỗ Văn Hạo đã bắt đầu nghĩ đến những tình huống giống như trong những bộ phim mà hắn đã từng xem ở thời hiện đại.
Dụ Cáp Nhi cười mếu máo, nấc lên đáp: “Nếu như chỉ vì tiền, thì cha của muội chắc chắn sẽ chuộc lại huynh ấy bằng mọi giá, cho dù có khuynh gia bại sản đi chăng nữa, chỉ cần bọn chúng tha cho huynh ấy, thì cha của muội cái gì cũng có thể làm được.”
Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy chuyện lại đến hồi gay cấn nên hỏi tiếp: “Rồi sao?”
Dụ Cáp Nhi gật gật đầu, rồi đưa chiếc khăn tay lên lau lau nước mắt, tiếp tục nói: “Khi bọn muội tìm được huynh ấy thì đồng thời cũng tìm được một bức thư nói rằng huynh ấy là con trai của Vương Gia, chính vì vậy nếu không vì huynh ấy thì Vương Gia đã không từ bỏ một người đàn bà tên Ngô Tình rồi, bọn cướp vì báo thù cho người đàn bà tên Ngô Tình này mà đã bắt cóc huynh ấy.”
Đỗ Văn Hạo trông thấy thần sắc của Dụ Cáp Nhi đang từ đau thương bỗng chốc trở nên căm hận, hàm răng trên của nàng cắn chặt vào hẳn môi dưới, cảm giác như máu của môi dưới như sắp trực trào ra đến nơi rồi vậy.
“Bọn chúng cuối cùng cũng đưa thi thể của huynh ấy trả về phải không?” Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã tỉnh cả ngủ, hắn không ngờ rằng Dụ Cáp Nhi lại có một quá khứ đau buồn như vậy.
“Hứ!! Bọn chúng làm gì có chuyện tốt bụng như vậy, bọn muội phát hiện ra xác của huynh ấy nằm bên cạnh mộ của cô cô, khi đó xác của huynh ấy đã thối rữa hết cả rồi, bọn muội đứng cạnh xác của huynh ấy thì mới phát hiện ra bức thư đó!!”
“Vậy thì không đúng rồi, nếu mà đã là ám sát, thì dĩ nhiên bọn chúng sẽ không hy vọng có người biết bọn chúng là hung thủ được, tại sao bọn chúng lại dám cả gan để lại bức thư tự tố cáo mình như thế được?” Đỗ Văn Hạo nghi hoặc hỏi.
“Khi đó quan phủ cũng nghĩ như vậy, sau đó cha của muội cũng đi dò hỏi xem người đàn bà hồi trước bị Vương Gia từ bỏ đích xác tên là Ngô Tình, hơn nữa bà ta còn vào làm vợ của một người ở Giang Tây, người này mà không phải ai khác chính là Tuần Phủ Giang Tây đại nhân.”
“Ý của nương nương là bọn chúng to gan để lại bức thư như vậy vì bọn chúng đã có người đỡ lưng đằng sau, không sợ có người đến trả thù ư?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên.
“Việc này sau đó được cha muội dùng tiền mua người điều tra việc này, thì biết được chính người đàn bà Ngô Tình đó đã thuê người trên giang hồ làm việc đó!”
Đỗ Văn Hạo càng nghe thì càng thấy tình tiết chuyện này càng ngày càng giống mấy bộ phim chuyên đi trả thù của Hồng Kông: “Quan phủ không cho người đi tìm bọn chúng ư?”
Dụ Cáp Nhi cười lạnh lên một tiếng đáp: “Quan phủ cũng cho người đi điều tra và quả nhiên phát hiện ra Ngô Tình là người đứng đằng sau vụ việc, sau đó vị Tuần Phủ đại nhân cho người đến khuyên giải cha của muội nói rằng huynh ấy dù sao cũng không phải con đẻ của ông, rằng Vương Gia bây giờ cũng chẳng để ý đến huynh ấy nữa, và hơn nữa mẫu thân của huynh ấy cũng đã qua đời, và chúng ta cũng chẳng thể đấu lại nổi vị Tuần Phủ đó, nghe nói Tuần Phủ đại nhân có một người anh làm quan rất to trong triều đình.”
“Vậy sau khi nương nương vào cung thì đã biết ai là người làm quan to đó chưa vậy?”
Dụ Cáp Nhi thở dài một cái, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nếu như muội mà nói ra, thì về sau Đỗ đại ca đã là đại ca thật sự của muội rồi, vì chúng ta khi đó đã là người cùng hội cùng thuyền rồi, đại ca có đồng ý gia nhập không?”
Đỗ Văn Hạo không trực tiếp trả lời nàng, mà lại hỏi ngược lại: “Vi thần chỉ muốn hỏi nương nương một điều rằng, nương nương hiện giờ và Dụ Cáp Nhi ở Đông Minh Huyện là cùng một người phải không? Nương nương vào cung không phải là để phục vụ Hoàng Thượng, mà là để trả thù có phải không?”
Dụ Cáp Nhi gật gật đầu đồng ý, rồi nói: “Muội vẫn là muội, muội không bao giờ là người đóng kịch trước mặt Đỗ đại ca cả, muội tin đại ca và Thanh Đại tỷ, và cả Ninh công công nữa.”
“Hả! Còn cả Ninh công công nữa!” Đỗ Văn Hạo há hốc miệng kinh ngạc.
“Không! Ông ấy không biết chuyện này đâu, Ninh công công là người hầu thân tín của Hoàng Thượng, muội không dám mạo hiểm như vậy đâu, muội biết điều này chứ!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới thở hắt ra một cái nói: “Nương nương không thấy rằng mình đang đơn cô thế cô hay sao?”
“À! Kỳ thực khi muội, Dụ Cáp Nhi này trông thấy huynh ấy chết thảm ngay trước mặt mình như vậy thì trái tim của muội cũng đã chết theo từ khi đó rồi, nếu như không phải vì báo thù cho huynh ấy, thì ngày hôm đó muội cũng đập đầu chết ngay bên mộ của cô cô rồi, làm gì mà phải ngày nào cũng cúi người, chào hỏi tươi cười với kẻ thù của mình cơ chứ?”
“Đúng rồi! Nương nương nói rằng kẻ thù của nương nương là một quan to trong triều, quan to đến mức nào vậy?”
Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười giảo hoạt đáp: “Chắc chắn đại ca không thể nào tưởng tượng được đâu. Đó là Binh Bộ Thượng Thư Lưu Húc!”
“Hả! Không phải chứ?” Đỗ Văn Hạo vẫn chưa hết kinh ngạc, câu chuyện của Dụ Cáp Nhi quá đỗi động trời, một cô gái vì trả thù đã dấn thân vào trong cung, cố gắng lấy lòng những người cần lấy rồi bắt đầu kết bè kết phái để thực hiện mục đích của mình, cái này sao mà giống trong phim truyền hình hiện đại vậy!
Dụ Cáp Nhi chợt im một chút, rồi cười nói: “Thật không ngờ Đỗ đại ca lại có thể làm cho muội buột miệng nói cho đại ca biết người đó là ai. Bí mật này trước giờ muội vẫn tự nhủ sẽ phải giữ thật kỹ. Thôi chết rồi, vậy là đại ca đã trở thành người cùng hội cùng thuyền với Dụ Cáp Nhi rồi!”
Đỗ Văn Hạo nét mặt nghiêm túc đi đến bên Dụ Cáp Nhi thấp giọng nói: “Nương nương cũng biết rằng thế lực của nhà họ Lưu mạnh như thế nào rồi đấy, đến cả Hoàng Thượng còn phải nể họ vài ba phần, nương nương sao có thể?”
Dụ Cáp Nhi hứ lên một tiếng cười lạnh đáp: “Gã họ Lưu đó thực chất cũng không biết muội là ai, cũng có nghĩa là ông ta ở ngoài ánh sáng mà muội thì lại ở trong bóng tối, muội cũng chẳng trực tiếp làm gì ông ta cả, chỉ giải quyết việc cháu gái của ông ta trước cái đã.”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới chợt hiểu ra hết mọi chuyện, hắn trợn mắt lên nhìn vào Dụ Cáp Nhi, còn nàng thì cười với vẻ đắc ý, hai tay khoanh ở trước ngực, đứng dậy đi đến bên Đỗ Văn Hạo, giọng nói vô cùng thân thiết: “Đỗ đại ca!”
“Đừng có xưng hô lung tung như vậy!! Ngươi định hại ta hay sao? Ta là người đã có gia thất rồi, đừng có gọi ta như vậy, ta có thể đảm bảo với ngươi rằng ta sẽ không nói chuyện này ra đâu, ngươi đừng kéo ta vào chuyện rắc rối này, ta không mắc lừa ngươi đâu.” Đỗ Văn Hạo nói xong liền quay người đi luôn.
“Đỗ đại ca! Đại ca nên biết rằng, vật mà người ta không bao giờ tin được chính là miệng lưỡi của mình, bởi vì tai và mắt vĩnh viễn chỉ là người nghe và người trông thấy mà thôi, còn miệng lưỡi mới là cái đem những việc mà mình nghe và nhìn thấy được đi nói cho người khác biết, muội không bao giờ tin vào sự đảm bảo của người khác, trừ phi người đó là người cùng một hội với muội!”
Chương 304: Đại tỷ phu bị bệnh!
Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Dụ Cáp Nhi nói thì mặt hắn đanh lại đáp: “Vậy nương nương muốn vi thần làm thế nào đây? Vi thần cũng chẳng có hứng thú gì với màn đấu đá nhau trong cung cả, vi thần chẳng qua là nghe nương nương kể một câu chuyện mà thôi, nếu như chỉ vì câu chuyện cỏn con này mà nương nương muốn lôi kéo vi thần vào chuyện thị phi thì e rằng cũng hơi quá đáng rồi đấy!”
Dụ Cáp Nhi có lẽ cũng không thể ngờ được là một người thường nhật nho nhã, lịch sự như Đỗ Văn Hạo lại có thể trở nên lạnh lùng, nghiêm túc đến như vậy, lúc này nét mặt đanh thép của Đỗ Văn Hạo cũng làm cho nàng cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ. Dụ Cáp Nhi mất một lúc mới ấp a ấp úng trả lời: “Thực ra thì muội cũng không có ý cưỡng ép Đỗ đại ca, nhưng chẳng qua muội chỉ muốn đại ca hiểu cho muội rằng, muội không phải là một người âm mưu nham hiểm gì cả, huynh có thế không muốn trở thành người cùng hội cùng thuyền với muội, vậy cứ coi như Dụ Cáp Nhi đã nhìn nhầm người rồi, đại ca cũng đã lên tiếng bảo đây chỉ là một câu chuyện cỏn con mà thôi, nếu đã là một câu chuyện cỏn con thì dĩ nhiên là có lúc là sự thật có lúc là bịa đặt. Đỗ đại ca cứ coi như mình chẳng có việc gì để làm đến đây nghe Dụ Cáp Nhi lảm nhảm cũng được!” Dụ Cáp Nhi nói xong liền đứng dậy cúi đầu lướt người qua mặt Đỗ Văn Hạo đi mất.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng chẳng thèm đuổi theo, cũng chẳng buồn nói thêm câu nào nữa, chỉ im lặng nhìn theo dáng người dong dỏng cao của Dụ Cáp Nhi dần dần biến mất sau những khóm hoa. Đỗ Văn Hạo còn cố tình đi đi lại lại trong hoa viên thêm một lúc nữa, rồi mới đi ra ngoài, cũng vừa vặn là giờ ăn tối nên hắn cũng vào phòng ăn luôn. Khi vào trong này thì Đỗ Văn Hạo để ý không thấy có Dụ Cáp Nhi xuất hiện ở đây, nghe mấy viên quan nói rằng, nàng kêu trong người không được khỏe đã bỏ ra về trước rồi.
Lúc này, Đỗ Văn Hạo không biết sao tinh thần của hắn bỗng chốc trở nên lo lắng, bất định, Triệu Tiệp Trữ cũng là lần đầu tiên hắn gặp mặt, nghe nói nàng là một người con gái vô cùng xinh đẹp, nhưng hôm nay gặp rồi, thì Đỗ Văn Hạo cũng chỉ cảm thấy bình thường chẳng có gì nổi bật cả, hắn lúc này chợt nghĩ nếu bên cạnh Hoàng Thượng lúc nào cũng có những người con gái thanh cao, thoát tục như Lâm Tiệp Trữ thì e rằng trong hậu cung chẳng bao giờ xảy ra chuyện đấu đá nhau đến mức không còn nhân tính như vậy. Nhưng nghĩ lại cũng phải thông cảm cho các mỹ nhân nơi thâm cung, ở đây nếu mà không có chút thủ đoạn thì làm sao lấy lòng được một người đã ngắm nhàm mỹ nhân như Hoàng Thượng được cơ chứ?
Triệu Tiệp Trữ hôm nay mặc một bộ váy dài mầu đỏ, đeo một chiếc dây lưng thêu hoa vàng, một chiếc vòng ngọc trai lấp lánh trên cổ, khoác bên ngoài một bộ gấm bào ánh bạc, trên đầu cài một chiếc trâm phượng ngọc lúng liếng, mặt nàng đánh một lớp phấn nhẹ, nhưng trông cũng khá hấp dẫn, duy nhất có một điều là trông nàng cũng chẳng có vẻ đẹp gì đặc sắc cả, nàng có lẽ cũng chỉ được coi là có chút nhan sắc mà thôi.
Triệu Tiệp Trữ thực ra cũng chỉ đi ra ngoài gặp mặt mọi người một chút, rồi nâng vài chén rượu gọi là tượng trưng, rồi lại đi vào trong, những người ngồi ở đây thấy vậy bắt đầu thầm thì to nhỏ với nhau, Đỗ Văn Hạo đối với những chuyện tầm phào tán gẫu đó cũng chẳng có gì hứng thú, chỉ chăm chăm vào các món ăn cùng rượu thơm trên bàn, nên hắn cứ cắm đầu cắm cổ vào thưởng thức ngon lành, sau khi no say thoải mái đang định cáo từ ra về thì đột nhiên nghe tiếng gọi:
“Đỗ đại nhân định về rồi ư?”
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã ngà ngà say, vừa bước đến cổng thì bỗng nghe thấy có người gọi mình, thì quay đầu lại nhìn, nhưng do vì trời tối quá nên hắn cũng chẳng nhận ra người gọi hắn là ai nữa.
“Hoàng Thượng đang tìm đại nhân để truyền khẩu dụ đây, may quá nô tài đuổi kịp đại nhân rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói, xưng hô cùng với chuyện Hoàng Thượng muốn tìm mình, thì cũng đoán ra được đó là ai rồi, hắn tìm một chỗ có ánh sáng tốt hơn một chút để nhìn rõ hơn người vừa mới lên tiếng, quả nhiên không ngoài sự dự đoán của hắn, Ninh công công đang khoanh tay đứng cúi người vẻ mặt méo mó chờ đợi. Đỗ Văn Hạo trông thấy bộ dạng của ông ta cũng không nhịn được, bất giác mỉm cười một cái.
“Trông bộ dạng của Công công kìa! Có phải dạ dày khó chịu không?” Đỗ Văn Hạo bước đến vỗ vỗ vào vai của Ninh công công nói.
Ninh công công cười khổ đáp: “Ài! Nô tài làm sao mà so bì với đại nhân được? Hoàng Thượng lúc nãy ngồi ăn thấy đại nhân dường như không vui, nên rất lo lắng, nói là đại nhân chắc là do lo lắng cho việc làm sao tìm ra được một chính sách hoàn hảo để trị quốc nên mới mệt mỏi như vậy, vì thế mà Hoàng Thượng đã đồng ý ân chuẩn cho đại nhân về nhà tĩnh dưỡng vài ngày, đại nhân mệt mỏi thì được Hoàng Thượng quan tâm như vậy, còn nô tài mệt mỏi thì nào có ai biết đâu?”
Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, Hoàng Thượng cũng quả là để ý vô cùng kỹ lưỡng, lúc nãy rõ ràng là mình có vẻ không vui, nhưng Hoàng Thượng lại tưởng mình suy nghĩ quốc sách mà mệt mỏi, chán chường như vậy, thực ra thì mình đã làm cũng hòm hòm rồi, chỉ là chưa dâng lên cho Hoàng Thượng ngự lãm mà thôi. Thế nhưng, Hoàng Thượng đã ân chuẩn cho mình nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mấy ngày rồi, tội gì mà không đồng ý, mấy ngày này không vào trong cung cũng tốt, đỡ phải chẳng may bắt gặp Dụ Cáp Nhi mà cảm thấy gượng gạo, như vậy cũng tốt. Ở nhà thì cũng có thể xem xét lại đường lối quốc sách ra sao cho nó cẩn thận hơn một chút, mình không trông mong gì Hoàng Thượng xem trọng mình quá, nhưng cũng không nên để Hoàng Thượng cảm thấy mất mặt vì tin tưởng mình.
Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn ôm lấy vai của Ninh công công mà nói: “Ninh công công! Ai mà không biết Ninh công công ngài vất vả thế nào cơ chứ! Hay là để bổn quan nói với Hoàng Thượng một câu, để công công cũng được tĩnh dưỡng mấy ngày? Mà về sau công công cũng đừng xưng hô nô tài này nô tài nọ nữa nghe nó chướng tai lắm, thật đấy, chướng tai vô cùng, lại còn giả tạo nữa!”
Ninh công công nghe xong thì cười ha hả đáp: “Thôi bỏ đi! Lão nô cũng chỉ có mỗi ở trước mặt của Đỗ đại nhân là có thể nói đùa được thôi, còn trước mặt người khác thì đừng hòng bắt lão nô thốt ra hai chữ mệt mỏi, đi thôi, lão nô đưa đại nhân ra ngoài, hiếm khi Hoàng Thượng cho đại nhân nghỉ ngơi vài ngày như vậy, Đỗ đại nhân nên nhân cơ hội này mà nghỉ ngơi cho nó thoải mái!”
Nói xong hai người liền đi thẳng ra ngoài cổng.
“Công công không nên dễ dàng mà tin người khác như vậy, cẩn thận bổn quan đem chuyện này đi rêu rao khắp nơi đó!” Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa trêu ghẹo Ninh công công.
Ninh công công nghe xong cũng trừng mắt nhìn hắn, rồi đưa tay lên chỉ chỉ vào mặt của Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Lão nô biết đại nhân sẽ không nói ra đâu, tiểu Dụ Cáp Nhi nói đúng, đại nhân là một người rất đáng tin cậy! Nếu không thì lão nô cũng chẳng ăn nói như vậy trước mặt của đại nhân rồi!”
Ninh công công vừa nhắc đến Dụ Cáp Nhi thì Đỗ Văn Hạo bỗng cảm thấy khó chịu trong lòng, hắn miễn cưỡng nở ra một nụ cười, rồi lảng sang chủ đề khác nói: “Mệt rồi thì cũng nên nghỉ, cũng không nên cố quá, công công mà bị bệnh, thì ai chăm sóc Hoàng Thượng đây?”
“Ha ha! Đỗ đại nhân nói câu này lão nô thích nghe, nhưng đây là sứ mệnh, là trọng trách của lão nô! Lão nô không thể chối từ nó được!”
Đỗ Văn Hạo và Ninh công công vừa đi vừa nói thì đã ra đến ngoài cổng, sau khi đưa hắn lên kiệu, Ninh công công liền mỉm cười đưa tay lên vẫy tạm biệt, rồi quay người đi vào trong.
Lúc này ánh đèn lồng treo trước cổng của Ngũ Vị Đường đang đong đưa trước gió, cổng đã được đóng kín, bên trong đại đường vẫn còn ánh đèn hắt ra le lói, Đỗ Văn Hạo đứng ở ngoài cổng bất giác thấy trong người trào dâng một nỗi niềm khó tả. Từ trước đến giờ hắn không cảm thấy về nhà lại có cảm giác gần gũi và thân thiết như vậy, đây là nhà của mình, gia đình của mình, nghĩ đến đây Đỗ Văn Hạo phảng phất trông thấy sự hiền dịu, đảm đang của Bàng Vũ Cầm, sự hoạt bát, nhanh nhẹn của Tuyết Phi Nhi, và còn có Lâm Thanh Đại, người mà chỉ có hắn nàng mới mỉm cười duyên dáng dịu dàng, cuối cùng là Liên Nhi, nàng đang chăm sóc Trần Mỹ Nhân nơi Lãnh Cung. Đỗ Văn Hạo bỗng nở một nụ cười đầy ngụ ý ở trên miệng, chầm chậm bước đến gõ cổng.
“Ai thế?”
Đỗ Văn Hạo nghe ra được đó là tiếng nói của Hàm Đầu, bèn lên tiếng trả lời: “Ta đây!”
Rất nhanh, cánh cổng đã được mở ra, Hàm Đầu lúc này đang cởi trần, trên vai còn vắt một chiếc khăn mặt, hai mắt cười híp tịt lại ân cần lên tiếng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Sư tổ! Đồ tôn nghe giọng là biết ngay người đã về, sao hôm nay sư tổ về sớm thế?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Nghe lời ngươi nói thì hình như là ta không được phép về đây vậy!”
Hàm Đầu nghe xong liền vội tránh người sang một bên, hai tay đưa ra mời Đỗ Văn Hạo vào trong, cúi người đáp: “Không không! Ha ha! Đồ tôn cứ tưởng sư tổ đang bận việc ở trong cung cơ! Bữa tối hôm nay, phu nhân còn nói rằng không biết sư tổ ở trong cung có tốt không, sư tổ mau vào đi, để con đi bẩm báo với phu nhân!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền bước vào cửa, Hàm Đầu cũng nhanh chân tiến đến cài cửa lại, sau đó đi ra phía tiền đường.
“Hàm Đầu! Ngươi bận gì thì cứ đi làm đi, ta tự đi được rồi!”
Hàm Đầu quay đầu lại đáp: “Vâng! Hôm nay cũng có đại tỷ phu (anh rể cả- nhưng để đại tỷ phu nghe cho nó pờ rồ) của phu nhân đến đây, nên phu nhân giờ này có lẽ đang ngồi trong phòng nói chuyện với tỷ phu của mình đó ạ!”
“Sao? Đại tỷ phu đến rồi ư? Sao không cho người vào trong cung thông báo cho ta biết một tiếng?” Đỗ Văn Hạo vừa đi vừa nói.
Hàm Đầu đi theo phía sau hắn vừa cười vừa đáp: “Người bệnh lúc nào cũng cảm thấy bệnh tình của mình chẳng có gì nghiêm trọng cả, nên nói là hôm nay sư tổ bận việc trong cung, không nên cho người vào làm phiền, rồi cứ bảo sư huynh đến khám cho, vì thế mà đồ tôn mới không cho người vào trong cung thông báo cho sư tổ đó ạ!”
Đỗ Văn Hạo lúc này đã vào trong tiền đường, quả nhiên hắn trông thấy cánh cổng tương phòng ở mặt phía đông vẫn đang hé mở, có tiếng người ngồi nói chuyện với nhau ở trong đó.
Từ khe cửa nhìn vào thì có thể trông thấy Diêm Diệu Thủ đang đứng bên cạnh giường, Bàng Vũ Cầm thì ngồi ở trước giường an ủi tỷ phu của mình: “Tỷ phu! tỷ phu đừng suy nghĩ nhiều nữa, uống thuốc của Diêm Diệu Thủ kê cho này nếu mà vẫn không có gì khởi sắc thì bọn muội sẽ cho người vào trong cung mời tướng công của muội về chữa cho tỷ phu.”
“Không cần phải cho người đi gọi đâu! Ta đã về đây rồi!” Đỗ Văn Hạo đứng ở ngay cửa lên tiếng chen vào.
Bàng Vũ Cầm nghe thấy tiếng của hắn thì ngay lập tức quay người lại nhìn, quả nhiên Đỗ Văn Hạo đang đứng ở ngay cửa, nàng vừa mừng vừa kinh ngạc, đứng luôn dậy chạy đến đón tướng công của mình: “Tướng công! Chàng sao lại về thế? Có phải là có người chạy vào trong cung nói cho chàng biết không? Thiếp đã nói là tạm thời không nên vào trong cung làm phiền tướng công rồi!” Bàng Vũ Cầm trông thấy Đỗ Văn Hạo lúc này có vẻ gầy hơn lúc trước, nên nàng cảm thấy xót phu quân mình vô cùng, nhưng chỉ là ở đây đang có người ngoài, nên cũng không tiện biểu lộ ra ngoài.
Đỗ Văn Hạo kéo lấy bàn tay của Bàng Vũ Cầm lại, rồi vỗ vỗ nhẹ lên đó: “Không có ai vào thông báo cho ta biết cả đâu! Cái này là do Hoàng Thượng thấy ta mấy ngày hôm nay cũng vất vả, nên đã hạ chỉ cho phép ta ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mấy ngày, đại tỷ phu bị làm sao vậy?”
Đỗ Văn Hạo đi đến bên giường, thì thấy một người thanh niên, tuổi tác trên dưới ba mươi tuổi, trong bóng đèn hiu hắt, ánh mặt của người thanh niên này hiện lên ảm đạm, mệt mỏi, hai mắt của người này cũng đang mở to ra nhìn hắn, rồi cất lên một giọng yếu ớt nói:
“Đỗ lão gia! Thảo dân không thể đứng dậy bái kiến được, mong lão gia thứ lỗi!”
“Đại tỷ phu nói gì vậy! Sao lại gọi đệ là lão gia? Tất cả đều là người trong một nhà cả, đừng xưng hô xa lạ như thế, tỷ phu cứ gọi tên đệ cũng được rồi!”
“Không! Không! Đại nhân là quan ngũ phẩm trong triều, chức còn to hơn cả huyện đại lão gia nữa, đây là quy định không được phép loạn!”
“Quy định gì cơ chứ, đây là ở trong nhà, thôi đừng khách khí nữa, để đệ xem bệnh cho tỷ phu xem nào! Tỷ phu có chỗ nào khó chịu?”
“Mấy ngày hôm trước bọn ta nhận được gia thư, nói là Bàng mẫu bị bệnh rất nặng, mà tỷ tỷ của ngươi sức khỏe lại không được tốt, thế là ta một mình một ngựa đi về thăm, nhưng thật đen đủi trên đường đi ta lại đổ bệnh, mới đầu thì thấy nó cũng chẳng có gì đáng ngại cả, cứ nghĩ là chỉ bị nhiễm một chút lạnh, toàn thân nhức mỏi mất sức. Hơn nữa phần vì muốn nhanh chóng tới nơi thăm mẫu thân nên chỉ tìm đại một cái y quán trên đường đi mua vài thang thuốc uống. Ai ngờ sau khi uống thuốc xong thì cảm thấy trong người vô cùng khó chịu, không những sốt cao mà còn bị đau bụng đi ngoài nữa, trên đường đi ta suýt chút nữa thì đã bỏ mạng rồi!” Nói xong đại tỷ phu của Đỗ Văn Hạo thở ra hổn hển.
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nàng viết thư cho đại tỷ phu đúng không?”
“Không! Bức thư đó là do mẹ của thiếp viết, trong thư mong muốn thấy đại tỷ quay về, nhưng đại tỷ lại có thai, đại tỷ phu thương đại tỷ đường xá lặn lội vất vả, nên mới ngày đêm chạy vội về đây thế này, ai biết trên đường đi lại bị bệnh khổ như vậy!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong gật gật đầu, đây là lần đầu tiên hắn gặp mặt đại tỷ phu, bởi vì khi hắn lấy Bàng Vũ Cầm thì đại tỷ của nàng đã lấy chồng xa rồi, do vậy vẫn chưa có cơ hội gặp mặt, hắn chỉ nghe nói đại tỷ lấy một thương gia có tên Lý Kiện. Đỗ Văn Hạo nhớ lại hồi hắn học đại học, trong khu ký túc xá của hắn có một người anh lớn tuổi cũng có tên này, do vậy khi mẹ vợ của hắn nhắc đến cái tên này thì hắn cũng đã có ấn tượng và nhớ luôn trong lòng rồi.
Nghe chuyện của Lý Kiện, Đỗ Văn Hạo cũng thấy có chút thương cảm, lên tiếng an ủi: “Đại tỷ phu đừng nóng vội, huynh có thấy mệt mỏi lắm không?”
Lý Kiện chỉ ừm lên một tiếng.
“Bài thuốc mà vị thấy thuốc kê cho huynh, huynh còn giữ nó không?”
Diêm Diệu Thủ nghe xong bèn bước đến bên Đỗ Văn Hạo đưa đơn thuốc ra nói: “Sư tổ! Người xem xem, chỉ có mấy tờ như vậy!”
Đỗ Văn Hạo tiếp lấy xem xét xong rồi trả lại cho Diêm Diệu Thủ. Thực ra, ngay khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo trở về, Diêm Diệu Thủ đã cảm thấy mình có chút may mắn, hắn nhìn đơn thuốc thì biết rằng trình độ của mình và người thầy thuốc kia cũng ngang tầm như nhau. Thế nhưng giờ đây Diêm Diệu Thủ thấy Đỗ Văn Hạo trả lại mình đơn thuốc như vậy thì rõ ràng đơn thuốc có vấn đề, do vậy hắn vội chạy ra ngoài cổng bảo Hàm Đầu thôi không đun thuốc nữa.
“Đại tỷ phu! Huynh có thể nói cho đệ biết toàn bộ quá trình phát bệnh cùng với việc trước khi phát bệnh huynh ăn những thứ gì, làm những cái gì được không?”
Lý Kiện nghe xong liền gật đầu đồng ý, rồi đột nhiên đưa mắt lên nhìn Bàng Vũ Cầm, Đỗ Văn Hạo hiểu ý liền quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nàng đi nấu cho ta bát cháo được không? Ta khi nãy uống rượu cảm thấy hơi khát nước, lúc nãy ở trong cung mà ta thèm bát cháo nàng nấu quá!”
Bàng Vũ Cầm nghe vậy nhoẻn miệng cười tươi như hoa, gật gật đầu rồi bước luôn ra ngoài.
Lý Kiện thấy Bàng Vũ Cầm đi rồi mới bắt đầu mở miệng nói: “Chỗ này chúng ta chỉ còn hai người đàn ông với nhau, thì ta cũng không dám dấu ngươi điều gì nữa, nương tử của ta hiện giờ đang có thai, ta và nàng đều có tình cảm vô cùng mặn nồng, nên vẫn chưa nạp thêm người thiếp nào cả! Nhưng ngươi cũng biết đấy, đàn ông con trai mà...”
“Đại tỷ phu cứ nói tiếp đi, cái này đệ hiểu!” (***, còn hơn cả hiểu đấy chứ) Lý Kiện nghe xong liền tiếp tục nói: “Ta và một cô gái tên Tiểu Ngọc ở Lưu Xuân Quản trên huyện thành có quan hệ khá tốt với nhau, điều này phu nhân của ta cũng biết, nhưng cũng chẳng nói gì cả. Ngày hôm đó, ta qua đêm với Tiểu Ngọc thì đột nhiên có người nhà đến tìm nói là Bàng Mẫu bị bệnh, phu nhân của ta nghe xong thì lo lắng quá mà ngất đi, ta làm sao còn tâm trí đâu mà ở lại với Tiểu Ngọc nữa, thế là vội vã chạy về!” Nói đến đây đột nhiên Lý Kiện cảm thấy mất sức, ngừng lại không nói nữa, Đỗ Văn Hạo bèn đến bên chiếc bàn rót một cốc nước nóng đưa cho Lý Kiện.
Được một lúc, thì Lý Kiện lại thều thào nói tiếp: “Ai ngờ, đêm hôm đó mưa to quá, ta không thể nào chờ cho đến trời sáng được, tuy là Tiểu Ngọc có khuyên ta rằng từ huyện thành về nhà ta phải mất hai canh giờ liền, nhưng ta lại quá lo lắng cho phu nhân của mình, thế là cứ đội mưa cưỡi ngựa chạy về, nhưng vì mưa ướt đường trơn, nên khi đi qua một chiếc cầu thì con ngựa xảy chân ta liền ngã luôn xuống nước, cũng may là nước cũng không sâu, nên ta và ngựa cũng lên bờ bình an, nhưng toàn thân ướt nhẹp. Ta không mấy quan tâm, vẫn cưỡi ngựa chạy được hơn mười dặm thì cảm thấy khó chịu quá, không chịu nổi nữa bèn tìm một thầy thuốc khám xem sao. Thầy thuốc nói là ta bị Hư Chứng bảo ta uống thuốc của ông ta sẽ khỏi, ta liền uống luôn rồi lại tiếp tục lên đường, nhưng ai ngờ bệnh tình của ta ngày càng nặng, người cứ run lên vì lạnh, tay chân nhức mỏi, trong đêm tối ta lại đi tìm tiếp thầy thuốc khác.”
“Thầy thuốc nói sao?”
“Thầy thuốc nói rằng ta do mệt mỏi quá độ, nên uống Tứ Vật Thang cho thêm cái gì mà Chí Mẫu, Địa Cốt Bì cùng với Đan Khê Đại Bổ Âm Hoàn gì gì đó cho ta uống, nhưng cũng chẳng có công hiệu gì cả.”
“Đại tỷ phu có trí nhớ quả là siêu phàm, đến cả mình uống tên thuốc là gì cũng ghi nhớ rõ đến như vậy!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười khen ngợi.
Lý Kiện chỉ thở dài ra một cái rồi lại nói tiếp: “Liên tục uống thuốc, thay thuốc, lại liên tục bị các thầy thuốc hỏi trong một thời gian dài như vậy cho dù là một đứa bé cũng biết là mình đang uống cái gì!”
“Ừm! Huynh cứ tiếp tục nói tiếp đi!”
“Sau khi uống thuốc xong, ta lại thấy chẳng có tác dụng gì cả, mà ngược lại cảm thấy bệnh tình càng trầm trọng hơn, ngay cả đến việc xuống giường đi lại cũng cảm thấy khó khăn, do vậy lại đành tìm đến mấy vị thầy thuốc nữa ở trên thị trấn đến chữa trị, trong đó có một vi nói rằng bệnh của ta không cần uống thuốc, chỉ cần uống một bát sữa mẹ là khỏi, ta cũng chẳng biết nó có hiệu nghiệm hay không, nhưng cũng cho người đi tìm những người phụ nữ vừa mới sinh nở để xin sữa uống. Nhưng không ngờ sau khi uống xong thì ngày hôm sau ta chẳng ăn được thứ gì nữa cả, ta cứ nghĩ rằng mình sẽ chết trên đường mất, nhưng may mà ta nhớ ra em rể của mình là Ngự Y do vậy mới thuê người đánh xe đến đây tìm Đỗ đệ cứu mạng!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy cảm khái vô cùng, xem ra đại tỷ phu trên đường đi đúng là nếm trải bao nhiêu là đau khổ rồi.
Đỗ Văn Hạo đưa tay lên bắt mạch, rồi lại xem lưỡi, xong rồi nói: “Mạch của đại tỷ phu chậm ấn mạnh vào thì thấy nó rất cứng, tay bên phải hiện tượng này lại càng rõ hơn, cái này là do thân thể bị nhiễm lạnh nên mới bị nghẽn như vậy, huynh không cần phải lo lắng, chỉ cần uống vài thang thuốc là khỏi thôi, việc của huynh bây giờ nhắm mắt tĩnh dưỡng lại cho khỏe người!” Lý Kiện thấy Đỗ Văn Hạo nói như vậy liền cũng không tiện hỏi thêm nữa, chậm rãi nhắm mắt tĩnh dưỡng.
Đỗ Văn Hạo rất nhanh đã kê xong một đơn thuốc rồi giao cho Diêm Diệu Thủ dặn dò nói: “Mau đi cắt thuốc nhanh! Cứ uống trước một bát, tới giờ sửu thì lại uống thêm bát nữa, nếu như phát hiện thấy trên người của người bệnh có nốt đỏ thì đừng để bệnh nhân gãi nó, sau khi trời sáng thì chắc sẽ khỏi thôi.”
Khi trời chập tối, thì có một vị công công truyền khẩu dụ của Hoàng Thượng bảo Đỗ Văn Hạo vào trong cung.
Đỗ Văn Hạo chỉ biết cười khổ lắc đầu ngao ngán, nhưng cũng lập tức lên kiệu vào cung, sau khi đến Điện Cần Chính thì Ninh công công thông báo rằng Hoàng Thượng đang nghị chính, nhưng đàm luận đã nửa ngày trời rồi mà mãi vẫn chưa xong, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng đành phải ngồi chờ phía bên ngoài điện.
Cho đến tận đêm khuya thì nghị chính mới kết thúc.
Tống Thần Tông lúc này sắc mặt sáng lạng, cười tươi roi rói, trông không hề có dấu hiệu mệt nỏi nào cả, khi trông thấy Đỗ Văn Hạo liền mỉm cười gật đầu.
Đỗ Văn Hạo trông thấy vội vã chạy đến thi lễ: “Vi thần bái kiến Hoàng Thượng!”
Tống Thần Tông liền đứng lại hỏi: “Trẫm giao việc cho ngươi, ngươi làm đến đâu rồi?”
Đỗ Văn Hạo không ngờ Tống Thần Tông gọi hắn đến là vì hỏi chuyện này, do vậy hắn liền móc luôn từ trong người ra tập Y Đạo Luận Trị Quốc mà hắn đã chuẩn bị từ lâu ra nói: “Vi thần đã chuẩn bị xong rồi! Vi thần đã suy đi xét lại khá lâu, nhưng vẫn không biết có hợp ý của Hoàng Thượng hay không? Mong Hoàng Thượng đừng chê cười vi thần!”
“Thật sao?” Tống Thần Tông vẫn không hề tiếp lấy tập tài liệu của hắn mà nói: “Ngươi cùng Trẫm đến Ngự Thư Phòng, Trẫm muốn nghe xem cái kế sách mà ngươi nói rốt cục nói về cái gì!” Nói xong liền bước luôn về phía Ngự Thư Phòng của mình.
Tống Thần Tông nghị chính cả một ngày trời, giờ lại nghe một người ít có kiến thức về mảng quản trị đất nước này đúng là cũng làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy lo lắng đứng ngồi không yên.
Tống Thần Tông lúc này đã ngồi trên bàn nghị án, Ninh công công cũng đã dâng lên một tách trà cho Tống Thần Tông. Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa đem tập tài liệu của mình dâng lên, Tống Thần Tông giờ này mới tiếp lấy văn thư của hắn đặt lên trên bàn, sau đó một bên thưởng thức trà đạo, một bên xem xét bài viết của Đỗ Văn Hạo.
Tống Thần Tông xem xét vô cùng kỹ lưỡng, cứ như xét nét từng từ từng chữ một vậy, thỉnh thoảng còn im lặng trầm ngâm, rồi có lúc lại đưa bút lên viết viết làm cho Đỗ Văn Hạo càng thêm thấp thỏm. Hắn đem những đạo lý trong Y Đạo ra để áp dụng vào chính sách quản trị đất nước không biết có được hợp lý hay không? Hắn chỉ sợ Hoàng Thượng xem xong rồi lại mù quáng làm theo thì hắn có tội chết mất.
Cuối cùng, Tống Thần Tông xem xong liền đặt bút xuống, ngẩng đầu lên rồi nhìn về phía Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Ha ha! Đỗ Văn Hạo, chính sách mà ngươi đề ra vô cùng khác biệt đó!”
Khác biệt? Hoàng Thượng dùng từ này hình dung bài viết của mình thìcó thể thấy nó có phần hợp lý, tạm chấp nhận được, chỉ sợ mỗi là Hoàng Thượng kêu là không tốt mà thôi. Đỗ Văn Hạo nghe xong mà thở hắt ra nhẹ nhõm, hơn nữa hai từ khác biệt này cũng có vẻ là một lời khen ngợi, do vậy hắn càng cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết, vội cúi người đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần chỉ rành về mặt Y Đạo, do vậy lúc suy tính kế sách không biết tự lúc nào đã đứng trên phương diện đó mà suy xét tình hình, chắc chắn là còn nhiều chỗ không hợp lý, nhưng đổi lấy một nụ cười của Hoàng Thượng cũng đã là một thành công rất lớn rồi đó ạ!”
“Ha ha ha! Ngươi ngồi xuống đi!” Vẻ mặt Tống Thần Tông tỏ ra khá thoải mái.
“Tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo cúi người tạ ơn, rồi ngồi xuống chiếc ghế đặt ở cạnh đó, rồi nghiêng người chờ đợi Tống Thần Tông.
Tống Thần Tông tiếp tục nói: “Kế sách của ngươi có nhiều chỗ Trẫm xem cũng không hiểu, có quá nhiều từ vựng làm Trẫm không biết đâu mà lần, mấy chỗ này ngươi giải thích cho Trẫm nghe được không?”
Đỗ Văn Hạo đúng là trong bài viết này cho thêm rất nhiều tự vững của thời hiện đại vào, hắn không thể nào nghĩ ra được những từ này trong cổ văn nó có nghĩa là gì, biểu đạt ra sao, nên cứ bê nguyên chúng vào trong bài viết của mình, cái này chả trách Tống Thần Tông xem xong mà cứ như vịt nghe sấm vậy. Vì vậy, khi nghe Tống Thần Tông yêu cầu, Đỗ Văn Hạo liền vội vã đứng dậy giải thích.
Tống Thần Tông liền đem những đoạn khó hiểu nói cho Đỗ Văn Hạo nghe: “Đoạn mở đầu bài viết của ngươi nói
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tinh khí của con người truyền đi khắp thân thể, pháp luật của một quốc gia cũng nên đề cập đến mọi vấn đề to nhỏ, từ
Tống Thần Tông nghe xong thì há hốc mồm kinh ngạc hỏi: “Nhiều thế cơ à?”
“Đây chỉ là một cách nói khái quát mà thôi, còn các chi tiết về phân phối từng bộ môn trong bộ máy quản lý thì còn rất nhiều.”
“Ồ? Phân phối thế nào?”
“Cái này thì nhiều vô kể, ví dụ như: Pháp luật hành chính, có thể phân thành
Tống Thần Tông nghe đến đây thì thấy chóng hết cả mặt vội lên tiếng: “Thôi! Thôi được rồi, bao nhiêu là luật lệ như vậy đề ra để làm gì?”
“Mỗi một bộ luật đều có tác dụng riêng của nó, giống như con người vậy, người có móng tay, râu tóc, lông mi, nước mắt…Chỗ nào cũng có tác dụng của nó!”
“Những bộ luật này ngươi có thể làm ra sao?”
“Thần đại khái cũng biết, nhưng mà đây cũng chỉ là do thần tự lần mò mà ra, không có điều tra hiệu quả cụ thể, nếu như muốn ban bố những bộ luật này, thì phải có thêm thời gian nghiên cứu, rồi mới dựa theo thực tế mà ban bố những bộ luật gì, tuần tự ra sao, thứ nào quan trọng thứ nào không! Từ dễ đến khó ra sao thì mới thực sự phát huy tác dụng được!”
Tống Thần Tông nghe xong thì trợn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo, dường như bây giờ mới tin lời hắn nói là sự thật: “Nếu ngươi không phải là thần y thì có lẽ Trẫm đã bắt ngươi tham gia vào biên tập tân pháp rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy cười nói: “Vi thần xin tuân theo ý chỉ của Hoàng Thượng!”
“Ừm! Trẫm hỏi tiếp ngươi câu này! Ngươi đem việc đồng áng ra so sánh với dạ dày, dạ dày phụ trách tiếp nhận và tiêu thụ thức ăn, là nguồn sống để sinh tồn, cách ví von này của ngươi vô cùng chính xác, ngươi trên đó viết rằng
Đỗ Văn Hạo lại kính cẩn giải thích: “Dạ bẩm Hoàng Thượng, đối với con người mà nói, khi dạ dày mất cân bằng thì không chỉ ảnh hưởng đến lục phủ, mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ khí trong cơ thể con người, từ đó mà dẫn đến các loại tai ương bệnh tật, điều này cũng giống như việc trị quốc có đề ra rằng nông nghiệp là căn cơ, là cơ sở của một quốc gia, nếu như nông nghiệp có vấn đề thì quốc gia đó cũng sẽ có vấn đề xảy ra, luận điểm này rất hay, cũng rất dễ hình dung.”
Đỗ Văn Hạo cúi người đáp: “Đa tạ Hoàng Thượng đã khen thưởng!”
Tống Thần Tông lại nói: “Ngươi nói về việc tăng cường sinh trưởng cho nông nghiệp có vẻ long trọng, chỉ nói về chuyện chăm chỉ cày cấy, dựa theo nguyên tắc trồng trọt mà tiến hành nhưng dường như không có một đường lối cụ thể nào cả?”
Chương 305: Đồn điền thí nghiệm tại biên cương!
“Nông nghiệp lập thể? Thế có nghĩa là gì?”
“Ví dụ như là: lợi dụng cát sỏi dưới lòng sông để làm vật dụng xây dựng, hồ nước thì thả cá, còn đất thừa thì trồng mía, cây ăn quả, rau củ hoặc những loại hoa quả gì gìđều được cả, nói chung là trồng trọt hỗn hợp, lợi dụng mọi thứ một cách tối đá, phát triển nông lâm nghiệp, chăn thả cá kết hợp với trồng trọt….vv….”
Cho dù người xưa đã biết đến việc trồng trọt hỗn hợp, nhưng họ lại không được quảng bá, nghiên cứu rộng rãi như thời hiện đại. Hơn nữa ý thức, kinh nghiệm trồng trọt của nông dân thời xưa đều thuộc vào loại thô sơ, không có được một tư duy hệ thống như thời ngày nay, càng không thể xem nó như một kỹ thuật hiện đại để quảng bá cho dân chúng được, người nông dân bình thường còn chưa dễ gì hiểu được, huống hồ là Tống Thần Tông. Hoàng Đế đương triều suốt ngày ở trong cung làm sao mà hiểu hết được công việc đồng áng ra sao, do vậy nét mặt trở nên nghi hoặc cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên.
Cha mẹ của Đỗ Văn Hạo đều có xuất thân từ nông thôn nên khi hắn còn nhỏ rất hay được cha mẹ hắn dắt về quê chơi, do vậy hắn cũng được chứng kiến nhiều thứ ở nơi đây, từ chuyện trồng trọt đến chăn nuôi ra sao, hắn đều biết hết. Thêm nữa hắn lên lớp học môn địa lý cũng được truyền bá một số kiến thức về nông nghiệp, vả lại ở thời hiện đại hắn cũng được chứng kiến bao nhiêu thành quả của nghành nông nghiệp tạo dựng nên do vậy khi hắn đem những thành tựu từ tương lai quay về một nghìn năm trước như vậy dĩ nhiên sẽ là một sáng kiến mang tính đột phá của thời nông nghiệp thời nhà Tống rồi.
Đỗ Văn Hạo nói: “Để vi thần lấy một ví dụ rất đơn giản về mô hình nông nghiệp lập thể, khi trồng lúa thì có thể nuôi cá và bèo trong đồng ruộng, như vậy cá vừa có cái ăn, mà lợn, vịt cũng có cái chúng cần, không những thế nó làm sạch, phân hủy những nguyên liệu khí mê tan trong đầm nước, một công mà được vô khối việc!”
“Khí mê tan?” Tống Thần Tông đối với từ này cảm thấy lạ lẫm vô cùng.
Đầm khử khí mê tan thì ở quê của Đỗ Văn Hạo nhiều vô kể, do vậy hắn rất hiểu về nó, nghe Tống Thần Tông hỏi vậy nên vội vàng giải thích: “Làm sạch, phân hủy khí mê tan chính là giải quyết làm sạch phân bón ở trong đầm, như vậy vừa vệ sinh sạch sẽ lại còn có thể dùng nước đó để tưới bón cho đồng ruộng, đây là một cách bón phân hữu cơ tốt nhất thuận tiện nhất. Ngoài ra khí mê tan mà thông qua một thiết bị xử lý đặc biệt sẽ biến thành một khí đốt vô cùng an toàn tiện lợi, vừa có thể nấu cơm nấu nước, mà chất thải của nó lại còn là mồi ăn cho cá nữa!”
“Hay! Hay lắm!” Tống Thần Tông nghe rất nhập tâm, vô cùng hứng thú lên tiếng nói: “Trẫm không ngờ ngươi lại hiểu biết về nông nghiệp một cách rành rọt như vậy, những biện pháp này của ngươi nghe rất hay!”
“Đa tạ Hoàng Thượng đã quá khen, nếu muốn phát triển nông nghiệp, thì còn một phương pháp nữa là gia tăng dân số, vi thần có một biện pháp làm gia tăng dân số một cách vô cùng nhanh chóng!”
Tống Thần Tông nghe thấy mắt sáng lên hỏi: “Ố? Ngươi nói Trẫm nghe xem sao!”
Gia tăng tốc độ tăng trưởng dân số để trở thành một nguồn nhân lực dồi dào là một vấn đề giải quyết vô cùng cấp bách đối với các triều đại của mỗi vị Hoàng Đế. Trong thời buổi nông nghiệp phát triển hạn chế như thời nhà Tống này thì dân số chính là nguồn nhânh lực chính, nguồn binh lực chính, nguồn sức mạnh chính của cả một quốc gia. Dân số mà đông, thì sẽ có nguồn lao động phụ trách khâu sản xuất lương thực, sẽ có nguồn binh lực dồi dào để bảo vệ biên cương tổ quốc, như vậy quốc gia sẽ trở nên vô cùng phồn vinh thịnh vượng, do vậy khi nghe Đỗ Văn Hạo nói đến cách gia tăng dân sô thì Tống Thần Tông bất giác cảm thấy hứng thú vô cùng.
Đỗ Văn Hạo đáp: “Muốn tăng cường dân số thì phải có chế độ khuyến khích tăng trưởng dân số, điều chỉnh những yếu tố, chế độ khách quan hạn chế việc gia tăng dân số.”
“Làm thế nào để khuyến khích? Và làm thế nào để điều chỉnh những chế độ hạn chế đó?”
“Bách tính thường không muốn gia tăng dân số là vì bọn họ không đủ sức mà nuôi con cái, người giàu có tiền ăn của để thì ta không bàn tời, chúng ta nên quan tâm đến những người nghèo khó, bọn họ mà có thêm một người mới nữa, thì tức là bọn họ sẽ có thêm một miệng ăn, nếu như người nào không đủ ruộng đất để nuôi, hay họ là những người làm thuê cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì sinh nở là một vấn đề rất đáng suy nghĩ với bọn họ, chính vì vậy mà lựa chọn phương pháp nào hợp lý nhất để bọn họ không có ý nghĩ về gánh nặng nuôi dưỡng và sinh nở nữa thì mới có thể khuyến khích sinh nở được!”
“Phương pháp gì?”
“Phương pháp triệt để nhất dĩ nhiên là phải tiến hành một cuộc cải cách ruộng đất.”
“Cải cách ruộng đất ư? Cải cách ra sao?”
“Thu hồi hết lại ruộng đất về triều đình quản lý, cấm không cho bất kỳ ai tiến hành buôn bán ruộng đất, sau đó ban bố lệnh bao đất, thầu đất, hạn định là ba mươi năm, sau đó lại phân phối điều chỉnh lại ruộng đất, nhưng mà việc này dường như lại không thể thực hiện được!”
“Vì sao không thể thực hiện được cơ chứ?” Tống Thần Tống hỏi.
“Dạ bẩm! Bởi vì như vậy thì các địa chủ sẽ không đồng ý với chính sách như vậy, ngoại trừ việc dùng biện pháp mạnh mà thu hồi lại, thì e rằng quốc khố trong chính phủ cũng không đủ tiền mà mua nổi hết số đất đang có!”
Tống Thần Tông nghe vậy liền hỏi: “Vậy những chế độ nào đã kìm hãm sự tăng trưởng dân số vậy?”
“Chế độ kìm hãm tăng trưởng dân số trước mắt chính là chế độ thu thuế, Đại Tống thi hành hai bộ luật thu thuế, thuế đất và thuế thân đánh lên mỗi đầu người. Thuế thân là một trở ngại vô cùng to lớn cho việc tăng trưởng dân số! Bởi vì trong nhà có thêm người mới thì chẳng khác gì việc phải nộp thêm tiền cả, do vậy mà những người nông dân thường chỉ cần nguồn nhân lực tạm được để lo việc đồng áng xong là không muốn sinh nở thêm nữa!”
Tống Thần Tông nghe xong thì ngây người ra nói: “Ý của ngươi là muốn trừ bỏ thuế thân sao?”
“Cũng không hẳn như vậy! Nói một cách chính xác là đem thuế thân bỏ vào thuế ruộng đất, cái này gọi là thuế Thôi Đinh Nhập Mẫu! (Đinh ở đây chính là đầu người, còn mẫu ở đây là ruộng đất). Thuế này có nghĩa là khi ruộng đất nhiều thì thuế thân cũng nhiều theo, khi ruộng đất ít thì thuế thân sẽ giảm đi, như vậy thì sẽ không vì chuyện thuế thân mà hạn chế sinh nở rồi!”
Tống Thần Tông nghe xong đứng thẳng người dậy, chắp tay ra phía sau chầm chậm đi đi lại lại trong phòng rồi nói: “Phương pháp này của ngươi cũng không tồi, nhưng không biết là có tiến hành được không thôi!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tiến hành thuế Thôi Đinh Nhập Mẫu thì người nào ruộng đất càng nhiều thì thuế sẽ càng cao, địa chủ dĩ nhiên sẽ không hài long, muốn tiến hành bộ luật này thì trở ngại chắc chắn là sẽ có!”
“Ừm! Cái này Trẫm phải suy ngẫm thật kỹ mới được, ngươi nói tiếp đi, ta thấy ngươi so sánh ngành công nghiệp không khác gì với phổi của người, khí trong người đến từ trong phổi, người mà không có phổi thì sẽ không hít thở được, mà không hít thở được thì tức là tính mạng không còn nữa, một nước mà không có nền công nghiệp thì cũng sẽ bị diệt vong. Luận điểm này của ngươi cũng có một đạo lý nhất định, ngươi nói nên phát triển thêu dệt trên một quy mô lớn, nhưng ta không biết ngươi có những kế hoạch cụ thể ra sao?”
“Cái này thì liên quan tới vấn đề lần trước vi thần đã nói rồi, vi thần có những phương thuốc vô cùng hữu dụng, có thể làm thành một mặt hàng mà tiêu thụ, và vi thần cũng còn những phát minh nhỏ khác dùng để nâng cao khả năng sinh sản. Những mặt hàng và thiết bị này nhất định sẽ được thần dân bách tính tin tưởng mua dùng, chỉ là mặt hàng sản phẩm này bán hàng chạy quá thì sẽ bị những kẻ hám lợi bắt trước làm theo, như vậy sẽ làm tổn hại đến lợi ích vốn có của vi thần, do vậy khi chưa có một chế độ bảo vệ vi thần không dám công bố mặt hàng sản phẩm cùng với thiết bị này.”
“Ừm, vậy ngươi nói xem nên làm cái gì trước? Nên ban bố bộ luật nào?” Tống Thần Tông nghe ý này của Đỗ Văn Hạo ngày hôm nay đã không còn sự cáu giận như trước nữa.
“Luật về tài sản trí tuệ chính là để bảo vệ sản phẩm của người nào phát minh ra nó, và chỉ có một mình người đó mới được có quyền sản xuất tiêu thụ nó. Nếu như người khác muốn sản xuất nó thì phải trả một khoản tiền, còn về chuyện bao nhiêu tiền thì hai bên có thể thương thảo hội ý, nếu chưa được đồng ý mà đã tiến hành sản xuất tiêu thụ thì sẽ bị quy vào tội làm hàng nhái, hàng giả, như vậy sẽ phải bồi thường cho người đã phát minh, thậm chí người vi phạm còn phải chịu phạt, có khi còn phải ngồi tù nữa!”
“Cái này!” Tống Thần Tông nghe xong nét mặt hiện lên một chút chần chừ do dự: “Lần trước đúng là ngươi có nói qua cho Trẫm nghe về chuyện này rồi, Trẫm cảm thấy nó không được ổn cho lắm, ban bố điều luật thì đơn giản vô cùng, nhưng nếu dân chúng không chịu trả tiền cho người phát minh, mà cứ làm nhái, làm giả theo thì làm sao, Trẫm không thể cho người đi bắt hết bọn họ vào được chứ?”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì im lặng chẳng biết nên nói thế nào nữa, hắn biết người xưa làm gì có cái ý thức độc quyền, hay phải mua bản quyền đâu cơ chứ. Do vậy hắn đột nhiên đưa vào một cái vấn đề bản quyền trí tuệ tân tiến như vậy về thời cổ đại, bách tính nhân dân dĩ nhiên là không thể nào chấp nhận nổi rồi. Xem ra, hắn đã đi vào đúng con đường sai lầm của Vương An Thạch đã từng đi, hắn đã quá vội vã hấp tấp mau chóng thành công y hệt như Vương An Thạch vậy, như vậy thì cái phát minh của hắn giờ chỉ còn mỗi một cách bảo vệ duy nhất chính là bảo mật, giấu thật kỹ không cho ai biết mà thôi.
Tống Thần Tông trông thấy vẻ mặt của Đỗ Văn Hạo cứ ngây ra như vậy thì bất giác mỉm cười nói: “Thế này vậy! Ngươi cứ làm đi, phát minh thử đi, nếu như đó là một phát minh tốt thì Trẫm sẽ bảo vệ cái phát minh đó cho ngươi, không cho phép bất kỳ ai được phép làm nhái nó cả!”
“Đa tạ Hoàng Thượng!” Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Vậy những kỹ thuật của công nghiệp thì vi thần để lúc sau nói vậy!”
“Cũng được!” Tống Thần Tông cầm lấy bài viết của Đỗ Văn Hạo lên rồi nói: “Trong bài tấu trình này ngươi có nói, huyết mạch trong cơ thể người vận động không ngưng nghỉ, tuần hoàn một khối, lại nói rằng trong
Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Nhưng mà, từ xưa đến nay những người đảm bảo cơm no áo mặc thì trong mười nhà cũng chỉ có một nhà đáp ứng được điều kiện này mà thôi. Đây chính là hậu quả của việc không xem trọng phát triển thương nghiệp, kinh tế. Nếu như chú trọng vào phát triển kinh doanh kinh tế thì dân chúng bách tính sẽ có cơm ăn áo mặc, sẽ trở nên giàu có hơn bây giờ rất nhiều.”
“Thật sao?” Tống Thần Tông nhếch mép lên cười mỉa mai, nhưng mà lần này Tống Thần Tông không hề cảm thấy giận dữ như lần trước, cũng chẳng buồn đôi co thêm với Đỗ Văn Hạo làm gì nữa, chỉ nhẹ nhàng chuyển sang một đề tài khác để nói chuyện: “Vấn đề này bây giờ tạm thời không bàn đến nữa. Ta tiếp tục bàn luận tiếp những vấn đề khác trong bản tấu này của ngươi. Trong bài ngươi đem việc quân ra so sánh với chân, tay quyền cước, coi quân địch là ngoại cảm lục dâm (ngoại cảm lục dâm bao gồm: phong, hàn, thự, thấp, tháo, hỏa sáu loại ngoại cảm tà khí xâm nhập cơ thể gây nên ốm yếu), rồi lại coi nội loạn là thất tình nội thương (thất tình bao gồm: hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh là trạng thái tinh thần của cơ thể biến hóa mà thành; Vui (hỷ) quá thì hại tim, tức (nộ) quá thì hại gan, lo lắng (ưu) quá thì hại phổi, suy nghĩ (tư) quá thì hại tỳ (lá lách), sợ (khủng) quá thì hại thận) rồi lại dẫn câu nói trong
Đỗ Văn Hạo đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Mong Hoàng Thượng cho thần mạn phép được nói, quân đội Đại Tống của ta có gần trăm vạn quân, nhiều hơn Liêu, Hạ, Thổ Phồn…rất nhiều lần, vậy tại sao mỗi lần đi chinh phạt thì lại thua nhiều hơn thắng?”
Vẻ mặt của Tống Thần Tông lúc này trở nên khó coi vô cùng, nhưng rất nhanh lại khôi phục lại như cũ, nhẹ nhàng lên tiếng: “Vậy ngươi nghĩ sao?”
“Vấn đề của chúng ta ở chỗ binh lính không tinh nhuệ, tướng tá thì bất tài vô dụng, quân đội thiếu những bài luyện tập chuyên nghiệp, binh sĩ thì chủ yếu là lao dịch mà thành, khi vào trận chiến cùng lắm cũng chỉ nắm vai trò hùa theo mà thôi, không hề có chút gì là có tính chiến đấu cả.”
“Đặc biệt là chuyện quan văn là thống soái quân đội, tướng soái lại bị thay đổi quá nhiều, binh sĩ không biết tướng cầm quân là ai, tướng cầm quân cũng chẳng biết binh sĩ mình ở đâu nữa, vi thần cũng biết rằng chế độ này là dùng để hạn chế tướng soái nơi biên cương có binh trong tay sẽ làm càn, thậm chí còn có thể xưng bá một phương nữa. Nhưng mà, chế độ này lại ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến sức mạnh chiến đấu của quân đội.” Tống Thần Tông nghe xong thì vô cùng kinh ngạc đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo một lúc lâu, rồi mới chầm chậm nói: “Chẳng có mấy người dám nói những câu như vậy ở trước mặt của Trẫm như vậy đâu, ha ha ngươi hôm nay cũng cả gan lắm!”
“Vi thần thấy Đại Tống chúng ta lớn như vậy mà lại bị bắt nạt không làm gì được, cảm thấy bất bình vô cùng, chính vì vậy mới bạo dạn nói ra những câu tự đáy lòng mình như vậy, mong Hoàng Thượng thứ tội!”
“Ha ha! Nói như vậy thì ngươi đúng là có một dạ trung thành lắm! Ngươi nói cũng không sai, tình hình Đại Tống của chúng ta hiện giờ đúng là như vậy, Trẫm từ trước đến nay đều vô cùng lo lắng việc này, xa thì chưa nói, ngay đến việc tây chinh Tây Hạ mà trận chiến tại thành Vĩnh Thành, hai mươi vạn quân cùng tướng lĩnh Đại Tống đều bại trận. Nguyên nhân thất bại của cuộc tây chinh này suy cho cùng thì cũng chỉ có nguyên nhân đó mà thôi! Nhưng mà, đây là di nguyện của Thái Tổ Hoàng Đế đặt ra, Trẫm không tiện thay đổi!”
“Nếu như không thay đổi, thì chúng ta chắc chắn sẽ lại có những trận thua khác nữa!” Đỗ Văn Hạo lên tiếng nói.
Tống Thần Tông nghe xong thân hình hơi rung động, rồi lại chầm chậm gật gật đầu, sau đó hai tay chắp ra đằng sau lưng, từ từ đi đi lại lại trong căn phòng.
Đi được mấy vòng, thì Tống Thần Tông liền đứng lại, rồi quay người lại nói: “Ngươi có biết tại sao tối hôm nay ta lại gọi ngươi vào đây gặp ta không?”
“Vi thần không biết!”
“Nhã Châu ở Thành Đô là nơi tiếp giáp với Thổ Phồn, ở Nhã Châu thì lại bùng phát bệnh dịch làm cho người và gia súc chết hàng loạt, những người thầy thuốc nơi đó đang không biết làm sao cả, đều đã bó tay chịu thua. Đúng lúc này thì bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn nhân cơ hội đến gây hấn ở biên giới, giờ đã đánh chiếm thành Nhã Châu, Tri Phủ Nhã Châu và Chỉ huy thống lĩnh quân đội, cùng với các quan lại ở đó đều đã tử trận. Trẫm hôm nay cũng đã hạ chỉ, phong Hán Tu làm Chinh Tây Đại Tướng Quân lãnh một vạn cấm vệ quân cùng với ba vạn quân ở Thành Đô xuất Quân chinh phạt bộ lạc Sơn Tây của Thổ Phồn. Hôm nay, Trẫm gọi ngươi đến đây là muốn ngươi xuất quân cùng đến Tây Vực để an ủi dân chúng.”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng kinh ngạc, thì ra Hoàng Thượng hôm nay gọi hắn đến đây là bảo hắn xuất chinh. Mấy hôm trước hắn cũng hay tin Thổ Phồn đến quấy nhiễu ở biên giới, vậy mà không ngờ hôm nay Hoàng Thượng đã quyết định xuất binh đánh Thổ Phồn rồi.
Thời nhà Tống, Thổ Phồn vẫn ở trong trạng thái phân tranh, nội chiến liên miên, cả nước bị tách ra làm rất nhiều bộ lạc to nhỏ, trong bốn trăm năm liền không có lấy một năm nào là thống nhất cả. Lần này đến quấy nhiễu biên giới của Đại Tống là một trong các bộ lạc của Thổ Phồn, có tên là Sơn Tây. So với Đại Tống mà nói thì dân số của Thổ Phồn vốn đã không nhiều, giờ đây phân ra làm nhiều bộ lạc như vậy thì đã ít lại càng ít, Tống Thần Tông xuất quân bốn vạn như vậy chẳng khác nào dùng dao mổ trâu đi cắt tiết gà cả.
Đỗ Văn Hạo chưa từng tham gia bất kỳ một trận chiến nào ở thời cổ đại cả, sau khi nghe xong thì tim của hắn cứ nhảy lên thon thót. Lần viễn chinh này xuất phát từ Đông Kinh Khai Phong Phủ đến đất thục ở Thành Đô, đường xá vô cùng xa xôi vất vả, nhưng mà trong lời nói của Hoàng Thượng thì dường như có một sự sắp xếp nào khác thì phải, Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn dỏng tai lên nghe ngóng chờ đợi.
Tống Thần Tông tiếp tục nói tiếp: “Sau khi nghe xong những đường lối chính sách mà ngươi mới vạch ra thì Trẫm đã thay đổi quyết định của mình, Trẫm không biết những lời mà ngươi nói có tiến hành thực thi được hay không. Nhưng mà, nghe cũng có thấy nó khá có lý, do vậy Trẫm đã quyết định cho ngươi một cơ hội để ngươi có thể bộc phát tài năng của ngươi ra, Trẫm muốn xem xem cái luận điệu Y Đạo Trị Quốc này của ngươi rốt cuộc có thực hiện được hay không!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sửng sốt vô cùng, hắn viết bài tấu trình này chẳng qua là do Tống Thần Tông ra nhiệm vụ cho hắn, không muốn Tống Thần Tông tỏ ra khinh thường hắn mà thôi, hắn có bao giờ nghĩ đến việc thực tế chính sách của hắn bao giờ đâu cơ chứ, ai ngờ hôm nay Tống Thần Tông xem xong lại quyết định luôn như vậy, lại còn nói là cho hắn một cơ hội để thi thố tài năng nữa chứ, nghe đến đây Đỗ Văn Hạo đột nhiên cảm thấy mình lẽ nào đã được thăng chức lên làm một vị tể tướng đi theo con đường biến pháp của Vương An Thạch?
Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây thì bất giác tim đập chân run, miệng hắn trở nên khô khốc, không biết nên nói sao cho phải, lắp ba lắp bắp nói: “Bẩm Hoàng Thượng!...Vi thần….Vi thần….!”
“Đỗ ái khanh quỳ xuống nghe chỉ!”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy thì chỉ muốn nhảy dựng lên, nhưng vẫn vội vã vén áo lên quỳ xuống.
Tống Thần Tông chầm chậm nói: “Trẫm phong ngươi làm Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Quảng Bình Huệ Thương, kiêm chức Câu Quản Nông Điền, Thủy Lợi, Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, Dệt May. Ngươi có thể thi hành chính sách mới của ngươi ở Nhã Châu, Trẫm sẽ hạ chỉ nghiêm cấm bất kỳ ai cũng không được can thiệp vào việc ngươi làm ở đó. Ngươi có thể yên tâm ở Nhã Châu mà tiến hành cải cách theo ý của ngươi. Hạn của ngươi là ba năm, nếu như ngươi có những cống hiến to lớn thì Trẫm sẽ trọng dụng ngươi!”
Ở đời nhà Tống thì cấp bậc cơ cấu cao cấp hành chính khu vực chủ yếu bao gồm bốn bộ phận: Soái, Tào, Hiến, Thương. Bốn bộ phận này được đích thân Hoàng Thượng ủy thác, Soái chính là An Phủ Sứ là người quản lý về mặt quân đội; Tào là Chuyển Vận Sứ, là người chuyên phụ trách bảo đảm cung cấp kinh phí đến các địa phương khác, đồng thời còn kiểm sát quan lại; Hiến là Hình Ngục Công Sự, chuyên quản về lao ngục; Thương là Đề Cử Thường Bình Ti, ngoài việc cung cấp cứu tế ra, hàng ngày còn phải lo việc nông nghiệp, thủy lợi, bảo giáp, dệt may…Dưới các huyện phủ có các bộ phận khác là Câu Quản Quan.
Do vậy, Tống Thần Tông bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm chức Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Thương này cũng giống với chức Cục Trưởng Bộ Dân Chính, Cục Trưởng Bộ Nông Nghiệp, Cục Trưởng Bộ Thương Nghiệp kiêm Bộ Trưởng Vũ Trang…Bình thường thì các Câu Quản quan chức vô cùng thấp, chỉ là thất phẩm quan, Đỗ Văn Hạo giờ đây đã là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu, quan đến ngũ phẩm, theo lẽ thường thì hắn đi đảm nhiệm chức vụ quan Câu Quản nhỏ bé này thì chẳng khác nào bị cách chức cả. Nhưng, thực tế thì đây là Tống Thần Tông muốn tặng cho hắn một vùng đất để hắn thử nghiệm chính sách của mình, cho hắn ở Nhã Châu làm việc mà không bị kiềm chế, hắn có thể dựa vào tư tưởng, cách nghĩ, đường lối riêng của mình để thi hành chính sách mới mẻ của hắn. Do vậy, quyền lực của Đỗ Văn Hạo lúc này cũng tương đối là to, đồng nghĩa với việc Nhã Châu bây giờ đã là một thành phố trực thuộc trung ươrng, đặc khu kinh tế vậy. Còn Đỗ Văn Hạo chính là thị trưởng thành phố, được toàn quyền phụ trách xây dựng vùng kinh tế mới này.
Tống Thần Tông thực ra cũng có tính toán của riêng mình, một mặt là do Đỗ Văn Hạo đưa ra quá nhiều đường lối tư tưởng mới mẻ về mặt công, nông, thương, binh mà mình từ trước đến giờ chưa từng được nghe qua, do vậy vô cùng hứng thú với kế sách của hắn. Tống Thần Tông suy đi tính lại cũng thấy trong đường lối tư tưởng mà Đỗ Văn Hạo vạch ra đều có những điều được đề ra vô cùng hợp tình hợp lý, cũng muốn thử xem hắn thực hiện chính sách mới mẻ đó có hiệu quả ra sao, do vậy mới hạ quyết tâm bổ nhiệm hắn như vậy. Mặt khác, Tống Thần Tông lại lo lắng đường lối mới mẻ của Đỗ Văn Hạo không được thành công, làm cho tình hình biến pháp hiện nay vốn đã như một mớ bòng bong lại càng trở nên rối loạn hơn. Chính vì thế mà Tống Thần Tông mới cho hắn đi ra biên giới để thử nghiệm. Nhã Châu nơi đó cách xa kinh thành, cách xa trung ương, cho dù có xảy ra vấn đề gì đi chăng nữa cũng chẳng ảnh hưởng gì lớn lắm đến tình hình của đại cục.
Đỗ Văn Hạo mới đầu cứ tưởng mình được phong chức làm tể tướng, sau khi nghe xong mới biết mình bị phân phối ra cái nơi chó ăn đá gà ăn sỏi, mù cang chải làm một viên Câu Quản bé tí tẹo như vậy cũng cảm thấy thất vọng vô cùng. Nhưng, bây giờ hắn dời khỏi được kinh thành, xa rời vua chúa, người ta thường nói ở bên cạnh vua chẳng khác nào ở bên cạnh một con cọp, do vậy âu cũng là một điều tốt với hắn. Hơn nữa Hoàng Thượng còn ban cho hắn nguyên hẳn một vùng đất rộng lớn cho hắn thả sức tung hoành, thực hiện những chính sách mới mẻ của hắn, như vậy làm hắn cảm thấy làm một Ngự Y trong triều hầu hạ Hoàng Thượng có ý nghĩa hơn rất nhiều. Ngoài ra, nếu hắn chẳng may làm ra trò thì có khi lại được Tống Thần Tông trọng dụng cũng nên, nghĩ vậy nên Đỗ Văn Hạo mừng rỡ vội vã dập đầu tạ ơn.
Tống Thần Tông lại nói: “Ngươi có thể đem theo gia quyến cùng với đại quân của Hàn Tu mà tây tiến, khi đến được Thành Đô rồi thì ngươi cứ chờ đợi ở đó, chờ cho đại quân quyét sạch xong bọn Thổ Phồn, thu lại Nhã Châu rồi thì ngươi có thể đến Nhã Châu mà tiến hành chính sách mới mẻ của ngươi. Ngươi nên ghi nhớ là đừng để Trẫm phải thất vọng đấy!”
“Vi thần nguyện đem hết sức mình ra để làm việc, quyết không thể để phụ lòng mong đợi của Hoàng Thượng!”
“Được như vậy thì quá tốt rồi! Thôi được rồi, bây giờ ngươi có thể ra về được rồi đấy, ba ngày sau ngươi sẽ tây tiến cùng đại quân.”
“Vi thần tuân chỉ!”
Khi Đỗ Văn Hạo về đến nhà của mình thì cũng đã đêm hôm khuya khoắt cả rồi.
Khi Đỗ Văn Hạo đi qua phòng của Lâm Thanh Đại thì thấy bên trong vẫn còn hắt ra ánh đèn mờ, thấy vậy bèn dừng chân lại tiến đến gõ cửa.
Có tiếng nói dịu dàng truyền ra từ trong phòng nói: “Ta ngủ rồi, ai vậy? Có chuyện gì không?”
Đỗ Văn Hạo nghe thế bèn mỉm cười nói: “Sao hôm nay lại ngủ sớm như vậy?”
Trong phòng lúc này vang lên tiếng của một vật gì đó vừa rơi xuống dưới đất, sau đó Lâm Thanh Đại nói tiếp thêm một câu: “Văn Hạo, đề sao về giờ này vậy? Chờ tỷ một chút nhé, tỷ sẽ ra mở cửa ngay đây!”
Đỗ Văn Hạo vẫn đứng ở bên ngoài cửa chờ đợi, thì bỗng thấy Bàng Vũ Cầm bưng lên một chiếc khay từ trong nhà bếp đi lại, Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ Lâm Thanh Đại chắc đúng là đã đi nghỉ rồi, giờ đây hình như cũng mới ngồi dậy chuẩn bị mặc lại quần áo để ra đón mình, nhưng lúc này trời cũng khuya rồi, nếu như đem chuyện hắn vừa được bổ nhiệm đến Tứ Xuyên Nhã Châu làm chức Câu Quản nói ra, thì e rằng cả nhà sẽ không khủ được mất, dù sao thì vẫn còn ba ngày để chuẩn bị, ngày mai nói cũng không muộn, nghĩ vậy bèn nói: “Thanh Đại! Nàng thôi không phải chuẩn bị nữa đâu, cứ đi ngủ đi, mai ta sẽ quay lại tìm nàng!”
Trong phòng lúc này cũng im lặng không có tiếng trả lời lại nữa, cho đến khi Bàng Vũ Cầm sắp bước gần đến nơi, thì ánh đèn trong phòng của Lâm Thanh Đại mới vụt tắt.
“Tướng Công! Sao chàng lại đứng đây vậy?” Bàng Vũ Cầm vừa nói vừa đưa mắt lên trông vào phía căn phòng của Lâm Thanh Đại, nét mặt vô cùng tò mò hỏi.
“Lúc nãy ta thấy phòng của Thanh Đại tỷ vẫn còn sáng đèn, nên muốn vào trong đó tìm nàng ta nói vài câu, ai ngờ khi ta vừa đi đến thì đèn nó lại vừa tắt rồi, ta cũng đang định ra về đây!” Đỗ Văn Hạo bịa chuyện nói.
Bàng Vũ Cầm nghe vậy bèn mỉm cười một tay cầm chiếc khay, một tay thì quắp vào cánh tay của Đỗ Văn Hạo nói: “Đi thôi! Mình về đi ăn trước cái đã, ngày mai đến tìm Thanh Đại tỷ cũng chưa muộn mà, chàng chắc là chỉ ở đây một đêm thôi đúng không? Mai chàng lại phải vào cung? ”
“Không! Lần này thì ta không cần phải vào cung thêm lần nào nữa rồi, ha ha ha! Về sau ta sẽ được ở nhà vui vẻ với mấy người rồi!” Đỗ Văn Hạo còn cố tình nói to lên hai từ “mấy người”, sau đó lại quay đầu nhìn về phía căn phòng của Lâm Thanh Đại, hắn mơ hồ nghe thấy một tiếng thở nhẹ phát ra từ nơi đó.
Bàng Vũ Cầm dường như cũng không hiểu ẩn ý trong câu nói của Đỗ Văn hạo, vẫn nhẹ nhàng dựa người vào hắn, hai người cùng bước về phòng ngủ.
Đỗ Văn Hạo đi qua phòng của Tuyết Phi Nhi, thì thấy trong đó tối mù mịt không có lấy một ánh đèn nào cả thì lên tiếng hỏi: “Sao không thấy tiểu nha đầu Tuyết Phi Nhi đâu nhỉ, lẽ nào cũng ngủ rồi sao?”
“Sau bữa tối hôm nay thì Phi Nhi đòi về nhà thăm cha của muội ấy rồi, chàng nói xem tiểu nha đầu này ngày nào cũng gặp cha mình rồi thế mà vẫn bảo nhớ, thiếp nghĩ chắc là chàng ít về nhà, Phi Nhi ở đây cũng thấy chán, còn Thanh Đại tỷ thì mấy hôm gần đây lại bận việc ở tiệm thuốc, cũng đi sớm về muộn. Thiếp cũng không có thời gian để ngồi nói chuyện Phi Nhi, thế nên chắc muội ấy cảm thấy chán quá mới đòi về tìm cha mình chơi cho đỡ buồn, do vậy thiếp cũng đồng ý để nàng ấy đi rồi, hay là bây giờ thiếp cho người đến gọi Phi Nhi về nhé?”
“Thôi! Không cần đâu! Ngày mai hẵng hay, đêm nay ta muốn ngủ với một mình nàng là được rồi.”
Nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy Bàng Vũ Cầm liền mở một nụ cười tươi, nét mặt tràn đầy hạnh phúc. Khi Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo đi về đến cửa phòng của nàng thì Anh Tử nghe thấy tiếng chân của hai người vội chạy ra ngoài cửa phòng, tiến đến đỡ lấy cái khay trên tay của Bàng Vũ Vầm. Sau lưng của Nàng vẫn là chú hổ con Tiểu Khả, lúc này nó đã có kích thước bằng một con chó to rồi.
“Thiếu gia người vừa về đấy ạ?” Anh Tử trông thấy Đỗ Văn Hạo đi đến bèn nở một nụ cười chào đón, rồi bưng chiếc khay thức ăn đi vào trong phòng.
“Ừm! Anh Tử, phu nhân hiện giờ sức khỏe vẫn chưa được tốt lắm, ngươi đừng có suốt ngày cứ chăm chăm trông nom Tiểu Khả mà quên mất phu nhân của ngươi đấy nhé! Nếu ngươi mà lơ là việc chăm sóc phu nhân là ta không tha cho ngươi đâu đấy!” Khi Đỗ Văn Hạo đang nói thì Tiểu Khả đã tiến đến bên hắn, le cái lưỡi to lớn của nó ra liếm liếm lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo làm cho hắn có cảm giác buồn buồn đến sởn gai ốc.
Anh Tử sau khi thắp sáng đèn lên liền đưa Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo dẫn đi vào trong phòng, sau đó đặt một chiếc đèn lên bàn, sắp cho Đỗ Văn Hạo một đôi đũa, xong đâu đấy mới ngượng ngùng quay sang hắn nhoẻn miệng cười gật gật đầu nói: “Anh Tử biết rồi ạ!”
Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh cũng lên tiếng bênh vực Anh Tử nói: “Anh Tử đối xử với thiếp rất tốt, nhưng chỉ khi đến tối thì Tiểu Khả nhất định không theo một ai cả, chỉ thích theo chân của Anh Tử thôi, Anh Tử đến đây thắp hương đuổi muỗi cho thiếp mà nó cũng đi theo đến đây!”
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng múc lên một thìa cháo đưa lên miệng mình thổi thổi, sau đó đút vào miệng hút soạp lên một tiếng, gương mặt của hắn hiện rõ lên sự mãn nguyện tấm tắc khen: “Phu nhân của ta nấu cháo vẫn là ngon nhất trên đời này, đến cả đầu bếp trong cung Ngự Thiện của Hoàng Thượng cũng chẳng bằng, ngon, ngon thật!”
Bàng Vũ Cầm cầm lấy đôi đũa rồi đưa đến khay thức ăn gắp lên cho Đỗ Văn Hạo một miếng gì gì đó màu đỏ cho vào bát của Đỗ Văn Hạo, mỉm cười nói: “Cái này là mấy ngày trước thiếp mới làm đó, hôm qua bọn thiếp cũng nếm thử rồi, chờ chàng mãi mà không thấy về, cho nên mấy người trong nhà cũng đã ăn qua hết cả rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn bỏ miếng đó vào trong miệng nếm thử, thì bất giác hắn cảm thấy hương thơm ngào ngạt, khẩu vị mềm mại, mới bỏ vào miệng mà đã tan hết ra rồi, ngoài ra nó còn có một mùi vị vô cùng thanh đạm.
“Ngon quá! Nhưng mà ta không biết đó là thứ gì nữa, ta biết phu nhân của ta tay nghề nấu ăn tuyệt đỉnh rồi, mau nói cho biết đây là món ăn gì vậy để ta được mở rộng tầm mắt!”
Anh Tử nghe thấy hai người bọn họ nói chuyện với nhau tình tứ như vậy thì thấy ở lại cũng không tiện, bèn thi lễ xong rồi đem Tiểu Khả dẫn ra bên ngoài.
Chương 306: Cuộc hẹn mơ ước.
Đỗ Văn Hạo lại gắp một miếng nữa lên đưa vào trong miệng rồi nhắm mắt từ từ thưởng thức, nghiền ngẫm món ăn lạ miệng này, một lúc sau hắn mới lên tiếng: “Nói thật ta không nhận ra được, có lẽ là đậu phụ hay sao ấy, nhưng mà vị thơm này không biết là vị thơm của loại hoa nào nữa, mặt khác khi ăn vào thì dường như nó lại không phải là mùi thơm của hoa. Thật khó hiểu!”
Bàng Vũ Cầm nghe xong thì vô cùng khâm phục gật gật đầu nói: “Công nhận tướng công của thiếp lợi hại thật đấy! Tối qua Tuyết Phi Nhi và Hàm Đầu đánh cược với nhau, Tuyết Phi Nhi nói rằng nếu như Hàm Đầu đoán ra được món ăn này làm từ cái gì thì sẽ đưa cho Hàm Đầu năm mươi quan tiền, nhưng ai ngờ Hàm Đầu ăn cả cái một đĩa to rồi mà vẫn không đoán được nó làm từ thứ gì, nhưng hôm nay tướng công mới chỉ ăn có hai miếng thôi mà đã đoán biết được rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn đắc ý nói: “Nàng quên rồi sao? Tướng công của nàng là một người tham ăn mà!”
Bàng Vũ Cầm nghe thấy vậy bèn bẽn lẽn che miệng cười, Đỗ Văn Hạo rất nhanh đã húp hết sạch cả bát cháo, Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn nhanh tay múc thêm cho hắn một bát nữa.
“Nàng vẫn chưa nói cho ta biết món ăn đó được làm từ cái gì đâu đó?” Đỗ Văn Hạo nói.
“Món ăn này được thiếp và Thanh Đại tỷ đặt một cái tên rất hay, Hoa Hương Đậu Phụ!”
“Tên hay lắm! Nói xem làm nó bằng cách nào vậy?”
“Thiếp đã sử dụng năm loại hoa đang đua nở ở trong vườn nhà mình, rồi ngắt cánh hoa của chúng xuống rửa cho sạch sẽ, sau đó nghiền nát nó ra, rồi bỏ bã đi, chỉ lấy nước ép từ cánh hoa để lại, sau đó cũng nghiền nát đậu phụ ra rồi trộn đều nó lên, cho thêm một ít muối vào, lúc này thì không nên cho thêm thứ khác vào, sau khi nó định hình rồi thì cho vào hấp là xong!”
“Đơn giản như vậy thôi sao?” Đỗ Văn Hạo nghe xong mà chẳng thể tin nổi vào tai mình nữa.
Bàng Vũ Cầm thấy vậy cũng nghiêng đầu nói: “Thật mà! Thiếp nói dối chàng để làm gì cơ chứ, chàng không tin ngày mai cứ đi hỏi Thanh Đại tỷ ấy!” Bàng Vũ Cầm nói xong thì cong môi lên hờn dỗi, Đỗ Văn Hạo chỉ chờ có vậy, hắn liền xông tới hôn luôn lên đôi môi của Bàng Vũ Cầm.
Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn nhẹ nhàng đẩy Đỗ Văn Hạo ra, nét mặt ngượng ngùng e thẹn đưa tay lên ôm lấy môi của mình, hai mắt tình tứ, âu yếm liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, nhỏ nhẹ e thẹn nói: “Nỡm! Người ta đợi chàng lâu như vậy rồi, thế mà chàng chỉ hôn một cái là xong chuyện luôn hả?”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy, biết ngay là Bàng Vũ Cầm đang có ý định khêu gợi mình, xem ra xa nhau một thời gian cũng có lợi ra phết, nhưng Đỗ Văn Hạo chưa bao giờ thấy được Bàng Vũ Cầm lại có những hành động mời gọi hắn như vậy bao giờ cả. Ở trước mặt của mọi người thì Bàng Vũ Cầm là một quý phụ, ở trong bếp thì nàng là một nhà nội trợ tài ba, còn ở trong phòng the bây giờ thì nàng là một người phụ nữ có khát vọng thực sự. Nghĩ đến đây, Đỗ Văn Hạo bất giác cảm thấy trong người mình nhộn nhạo khó tả, dù sao thì giờ cũng đã no bụng rồi, hầu hạ nàng ta một chút trả ơn cũng đáng làm lắm. Nghĩ vậy, Đỗ Văn Hạo bèn đứng dậy ôm luôn Bàng Vũ Cầm vào trong lòng, bế thốc nàng lên quăng luôn lên giường, sau đó hắn nhanh tay hất rèm che xuống, rồi như một con sói đói chồm lấy Bàng Vũ Cầm.
“Á! Tướng công! Chàng xấu thế! Chàng nhẹ nhàng một chút chứ…Á! Ôi! Chàng chạm vào chỗ này của thiếp buồn quá, ái! Ha ha ha đáng ghét!~”
Sau đó căn phòng vang lên những tiếng thở dốc của Đỗ Văn Hạo và những tiếng rên nhẹ của Bàng Vũ Cầm, đúng lúc này đột nhiên có một trận gió thổi đến, cửa sổ căn phòng bật mở, ánh đèn trong phòng lúc này đã bị cơn gió thổi tắt.
Một canh giờ sau, căn phòng lại sáng đèn trở lại.
“Cầm Nhi! Nàng lại trở dậy làm gì vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Bàng Vũ Cầm mặc mỗi chiếc áo lót màu hạt dẻ trườn qua trên người hắn dậy thắp đèn bèn lên tiếng hỏi.
Bàng Vũ Cầm quay đầu lại, đi đến bên giường nói: “Tướng Công! Chàng cứ ngủ trước đi, chàng mấy hôm nay cũng khá mệt rồi, thiếp bây giờ sang bên phòng của đại tỷ phu xem bệnh tình của huynh ấy ra sao rồi, huynh ấy bị bệnh ở nhà của chúng ta, thì chúng ta cũng phải chăm sóc cho cẩn thận, nếu không đại tỷ của thiếp không tha cho thiếp đâu!”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn kéo Bàng Vũ Cầm lại nói: “Ta đã dặn Hàm Đầu và Diệu Thủ rồi, nàng không cần phải đi nữa đâu, hơn nữa đấy cũng là tỷ phu của nàng, nàng chăm lo người ta suốt thế cũng bất tiện, nếu nàng muốn đi thì không bằng để ta đi thì sẽ tiện hơn.”
Bàng Vũ Cầm thấy Đỗ Văn Hạo nói xong liền ngồi luôn dậy, thì cũng nghĩ lời nói của Đỗ Văn Hạo cũng có lý, bèn đáp: “Thôi! Được rồi! Chúng ta ngủ thôi! Thiếp cũng không đi nữa!” Nói xong bèn thổi đèn lên giường.
“Tướng Công! Thiếp nghe Diệu Thủ nói chàng hôm nay kê thuốc cho đại tỷ phu không giống với hồi trước, gần đây thiếp cũng không dám khám bệnh cho người khác nữa rồi, thiếp sợ khám sai cho người ta lắm. Chàng nói thiếp nghe xem bệnh của đại tỷ phu rốt cuộc là bệnh gì vậy?” Trong bóng tối Bàng Vũ Cầm nép lên trên ngực của Đỗ Văn Hạo dò hỏi.
Đỗ Văn Hạo sau khi quần chiến với Bàng Vũ Cầm một trận kịch liệt xong cũng cảm thấy khá mệt, nhưng từ khi Bàng Vũ Cầm theo hắn học y thì nàng luôn rất chăm chỉ học hỏi, cho dù có mấy lần vấp ngã, nhưng cũng có rất nhiều tiến bộ, có một cô học trò chăm chỉ như vậy, Đỗ Văn Hạo sao dám sao nhãng việc dậy dỗ của mình được, lúc này hắn chỉ biết che miệng kín đáo ngáp lên mấy cái rồi đáp: “Hồi trước mấy vị thầy thuốc đều cho rằng bệnh của đại tỷ phu là chứng Hư Hàn, do vậy dùng thuốc Trí Mẫu, Hoàng Phách…Nhưng thực tế thì nên phải trừ thấp, giải trừ tích tụ, nhưng do mấy vị thầy thuốc hồi trước đều dùng các loại thuốc trị khí huyết nên bệnh tình mới càng ngày càng nặng thêm như vậy!”
“Nói như vậy thì bệnh của đại tỷ phu là do tích tụ chứ không phải tán hàn nhiệt?”
“Cầm Nhi! Nàng càng lúc càng thông minh rồi đấy, ta mới nói có một chút như vậy mà đã hiểu ra vấn đề rồi, đại tỷ phu bị ngoại cảm là do thấp khí ngưng trệ dẫn đến toàn thân nhức mỏi, nếu như ta dùng các bài thuốc để bình ổn dạ dày phá đờm, hành khí cùng với các bài thuốc trị dạ dày khác nữa thì coi như đại tỷ phu đã được chữa đúng bệnh uống đúng thuốc rồi!”
“Ố? Thế mà sao thiếp lại không nhìn ra được vậy nhỉ? Diêm Diệu Thủ chắc cũng không nhìn ra được, bởi vì lúc nãy khi thiếp bưng khay cháo lên cho chàng thì cũng bắt gặp Diệu Thủ trên đường, Diệu Thủ nói may mà chàng quay về kịp thời, đúng lúc, khi đó thiếp nghĩ chắc Diệu Thủ cũng không khám được bệnh cho đại tỷ phu rồi!”
“Thôi được rồi! Đừng nghĩ ngợi thêm nữa mệt óc, đụng vào cái y thuật này không phải một chốc một lát là thành công ngay được đâu, phải đọc nhiều sách, chữa thêm nhiều bệnh, rồi từ đó rút thêm ra các kinh nghiệm, đó mới là những điều then chốt nhất. Thôi ngủ đi, ta cũng mệt lắm rồi!”
“Được rồi!” Bàng Vũ Cầm nhẹ nhàng trả lời, rồi ngoan ngoãn nằm gọn trong cánh tay của Đỗ Văn Hạo, nàng cũng mệt lắm rồi, rất nhanh Bàng Vũ Cầm đã chìm vào giấc ngủ.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa môi lên hôn nhẹ vào vầng trán cao cao của nàng, sau đó hắn mới nhắm mắt lại, hắn lập tức nghĩ tới cuộc sống mới ở một môi trường hoàn toàn xa lạ, mới mẻ, bất giác cảm thấy hồi hộp trong lòng, cứ như vậy hắn không khỏi thấy mình bỗng nhiên tỉnh như sáo, không còn buồn ngủ nữa. Đỗ Văn Hạo cứ thế quay người mãi trên giường mà cũng không tài nào chợp mắt thêm được chút nào, mãi cho đến khi gà gáy sáng thì hắn mới cảm thấy gật gù hai mắt lờ đờ thiếp đi.
Đến sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đã mở mắt tỉnh dậy, bên cạnh hắn Bàng Vũ Cầm vẫn say trong giấc nồng, Đỗ Văn Hạo bèn xuống giường chuẩn bị đi đến phòng của đại tỷ phu Lý Kiện để xem xét bệnh tình của huynh ấy ra sao.
Khi Đỗ Văn Hạo vừa bước ra khỏi cửa thì hắn bỗng trông thấy một bóng người mặc một bộ áo màu trắng vụt qua nơi góc tường, hắn trông bóng hình đó vô cùng quen thuộc, bèn đoán ra ngay đó là bóng dáng của Lâm Thanh Đại đi ra phía sau vườn múa kiếm luyện quyền, nghĩ vậy bèn nối gót theo sau: “Thanh Đại!” khi chỉ có hai người với nhau Đỗ Văn Hạo đã bỏ đi chữ tỷ ở đằng sau rồi, do vậy hắn mới lên tiếng gọi Lâm Thanh Đại như vậy.
Đỗ Văn Hạo lúc này đã thấy Lâm Thanh Đại khoác trên mình một chiếc áo màu trắng, trước ngực có thêu một bông hoa mẫu đơn màu xanh, bên dưới nàng mặc một chiếc váy Lục Yên Thủy Bạch Hoa, tay cầm một thanh trường kiếm, trên tóc có cài một nhánh hoa Ngọc Lan, ánh mắt sáng ngời, nhưng nàng chỉ đưa mắt lên nhìn hắn một cái rồi lạnh lùng nói: “Thì ra là Đỗ đại nhân đó hả, có chuyện gì không?”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì không tin nổi vào tai mình nữa, hắn thầm nghĩ lẽ nào hôm qua hắn không chịu đợi nàng ra ngoài mời hắn vào phòng mà giận hắn, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn tìm cách làm trò lấy lòng của nàng, nên giả bộ thở dài một cái, đưa tay lên tóc mình rồi nói: “Đúng là ta có chuyện muốn tìm tỷ để nói, không biết tỷ tỷ có thời gian hay không?”
Vốn lúc đầu Đỗ Văn Hạo chỉ gọi nàng là Thanh Đại không thôi, vậy mà bây giờ hắn lại đổi giọng gọi nàng là tỷ tỷ, khoảng cách giữa hai người giờ đây bỗng chốc được kéo ra hẳn ra, cứ như ai cũng không trông thấy ai cả, trong mắt của họ bây giờ đối phương đều trở nên vô hình.
“Vậy thì mau nói đi! Nói xong rồi thì ta còn vào rừng trúc để luyện kiếm!” Lâm Thanh Đại thấy thái độ của Đỗ Văn Hạo như vậy thì tỏ rõ sự thật vọng, nàng không phải là người giống như Bàng Vũ Cầm, lúc nào cũng tự cúi đầu nhận lỗi, cũng không giống như Tuyết Phi Nhi có gì nói đấy, vô tư trong sáng, nàng chẳng bao giờ chủ động biểu đạt thái độ của mình bao giờ cả, tuy nàng vô cùng hy vọng Đỗ Văn Hạo nhìn nàng với ánh mắt trìu mến như xưa, nhưng nàng quyết không bao giờ mở miệng yêu cầu hắn phải làm như vậy bao giờ cả, thậm chí đến hành động ngụ ý ra hiệu cũng không hề có nữa.
Đỗ Văn Hạo cũng biết tính nết của Lâm Thanh Đại ra sao, hắn biết nàng không bao giờ cúi đầu van xin hắn bao giờ cả, muốn nàng tự mình đi làm hòa thì khó lên bằng trời, cho dù Lâm Thanh Đại có tình cảm với hắn đến mấy, cũng chỉ âm thầm dùng hành động mà biểu hiện cho hắn thầm hiểu, chứ nếu bảo nàng đứng trước mặt hắn mà nói ra những lời yêu thương ngọt ngào thì có lẽ lúc đó mặt trời đã mọc từ đằng tây rồi.
Đỗ Văn Hạo biết vậy nên hắng giọng lại một cái, rồi tiến lên trước một bước, Lâm Thanh Đại thấy vậy thì sa sầm nét mặt lùi lại một bước, Đỗ Văn Hạo lại càng cười thầm trong bụng, chỉ là sáng ra mới đến tìm nàng thôi mà, làm gì mà nổi giận đối xử với mình tệ như vậy, nghĩ vậy bèn ra nghiêm túc nói: “Là thế này! Hoàng Thượng muốn ta đến Tứ Xuyên Nhã Châu làm Câu Quản Quan Thường Bình Thương trong vòng ba năm, tất cả mọi người trong nhà đều phải theo ta hết. Do vậy, Ngũ Vị Đường e rằng giờ đây chỉ có một mình nàng lo liệu rồi, không biết rằng nàng có…”
Đỗ Văn Hạo nói đến đây thì cố tình ậm ờ thêm vài cái, rồi đưa mắt lên liếc trộm Lâm Thanh Đại, chỉ thấy lúc trước khuôn mặt của nàng cúi gằm xuống im lặng không nói, nhưng sau khi nghe hắn nói vậy thì bất giác đôi mắt phượng của nàng mở to ra, nét mặt trở nên vô cùng kinh ngạc.
“Chàng nói sao cơ?” Lâm Thanh Đại cuối cùng cũng đưa đôi mắt của mình lên nhìn vào Đỗ Văn Hạo, nhưng đôi mắt đó giờ đây từ chỗ lạnh lùng băng giá, đã trở nên rưng rưng muốn khóc.
Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy thì không kìm lòng mình được nữa, đang định bước đến an ủi nàng thì Lâm Thanh Đại phất lên một chưởng đẩy lui Đỗ Văn Hạo ra xa mấy bước, Đỗ Văn Hạo không có chuẩn bị gì nên bị nàng đẩy bất ngờ như vậy ngã ngửa về phía sau, đập luôn cả mông xuống đất kêu bịch lên một tiếng. Đỗ Văn Hạo bị ngã một cú đau điếng nghiến răng đưa tay xoa mông xuýt xoa.
“Chàng! Chàng định là nói rằng chàng chỉ đem theo Cầm Nhi và Tuyết Phi Nhi đi, bỏ mặc ta ở đây cô đơn một mình cùng với cái Ngũ Vị Đường sao? Chàng nói xem có phải chàng thật lòng muốn như vậy không?” Lâm Thanh Đại chỉ vào Đỗ Văn Hạo nói, giọng nói của nàng lúc này cũng bắt đầu trở nên run rẩy.
Đỗ Văn Hạo lúc này đang lồm cồm bò dậy, một tay vịn vào thân cây hòe cạnh đó, miệng cười khổ chỉ vào Lâm Thanh Đại mà trả lời: “Nàng lợi hại như vậy thì ai dám lấy nàng làm vợ cơ chứ! Ta cũng đã nói hết câu đâu…!” Đỗ Văn Hạo lúc này cũng chỉ là buột miệng mà nói ra thôi, ai ngờ Lâm Thanh Đại nghe thấy hai tiếng “lợi hại” thốt ra, rồi cộng với câu không ai dám lấy buột ra từ miệng Đỗ Văn Hạo càng làm cho nàng cảm thấy sự nghi ngờ của mình là hoàn toàn đúng, gã nam nhân đứng trước mặt nàng lúc này giờ đây đã không còn thuộc về nàng nữa rồi, những lời thề non hẹn biển năm xưa, những lời ngọt mật dưới ánh trăng đã bị câu nói vô tình của hắn bóp nghẹt một cách dễ dàng không thương tiếc.
Lâm Thanh Đại vô cùng thất vọng nhìn Đỗ Văn Hạo, nàng cố gắng kìm nén những giọt nước mắt trực trào ra bên ngoài, lạnh lùng cười đáp: “Thôi được rồi! Chàng không cần phải nói nữa, chàng nói nữa cũng chẳng có tác dụng gì nữa rồi, chàng khi nào muốn đi thì nói cho ta biết một câu, ta sẽ trả nốt số tiền còn lại cho chàng!” Lâm Thanh Đại nói xong bèn quay ngoắt người bỏ đi.
Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Thanh Đại hiểu nhầm mình như vậy thì cả kinh, lúc trước hắn cũng chỉ buông lời trêu chọc nàng thôi, vậy mà nàng lại tưởng thật, do vậy khi hắn thấy Lâm Thanh Đại quay người bỏ đi như vậy bèn vội vã chạy luôn đến ôm choàng lấy nàng vào trong lòng mình.
Lâm Thanh Đại không hề có cử chỉ kháng cự nào cả, một mùi vị sao mà quen thuộc đến thế, nước mắt nàng không kìm được nữa, trào ra chảy dài trên má.
“Trông nàng kìa! Cái gì mà trả tiền lại cho ta cơ chứ, cả đời này nàng là người của Đỗ Văn Hạo ta rồi, nàng trả cho ta được không?” Đỗ Văn Hạo ghé miệng mình lên bên tai của Lâm Thanh Đại thì thầm nói.
“Đến lúc này rồi mà chàng vẫn còn giễu cợt thiếp như vậy sao? Thiếp thừa nhận rằng thiếp không nên yêu một người dễ dàng như vậy, nhưng mà thiếp đã yêu rồi, vậy mà bây giờ chàng ăn ốc bỏ vỏ, chàng sung sướng rồi lại muốn hắt hủi thiếp, muốn ruồng bỏ thiếp!”
Đỗ Văn Hạo cảm thấy tim mình quặn lại, hắn liền đưa tay quay người của Lâm Thanh Đại lại đối diện với mặt mình, chợt trông thấy lúc này gương mặt của nàng ướt đẫm nước mắt. Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa tay lên mặt nàng nhẹ nhàng lau đi, sau đó ôm chặt nàng vào trong lòng mình nói: “Ngốc ạ! Ta cho dù có đến chân trời góc biển cũng không bao giờ bỏ quên nàng được!”
“Nhưng mà…Nhưng mà chàng lúc nãy nói là sẽ đem mọi người trong nhà đi, chỉ để lại Ngũ Vị Đường cho một mình thiếp chăm lo, chàng rõ ràng lúc nãy nói như vậy mà…!” Lâm Thanh Đại nói với giọng vô cùng tủi thân, nàng ép người mình lên vai của Đỗ Văn Hạo nấc nghẹn nói.
“Ta vốn là muốn định đến thương lượng với nàng, hỏi nàng có đồng ý đi theo ta vào Tứ Xuyên Nhã Châu không? Còn Ngũ Vị Đường thì ta giao cho Hàm Đầu chăm lo là được rồi, nhưng nàng lại cứ xa cách với ta, vậy nên ta mới trêu đùa nàng như vậy đó, ai ngờ nàng lại tưởng thật! Thanh Đại! Cô bé ngốc nghếch yêu của ta! Ta sao nỡ lòng nào mà bỏ rơi nàng một mình cao chạy xa bay được cơ chứ?”
Lâm Thanh Đại nghe hắn nói vậy mới phì cười, đưa tay lên đấm thùm thụp vào ngực của hắn oán trách nói: “Đáng ghét!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa môi lên đặt vào gương mặt của Lâm Thanh Đại hôn một cái nói: “Vậy bây giờ nàng phải nói cho ta biết là nàng muốn lấy ta rồi đi Tứ Xuyên Nhã Châu hay là từ chối ta mà ở lại Ngũ Vị Đường hả?”
Lâm Thanh Đại thẹn thùng mỉm cười, nàng quay người đi không để ý đến Đỗ Văn Hạo nữa, hai tay nàng cầm chặt lấy thanh trường kiếm, cúi đầu không nói câu gì cả.
Đỗ Văn Hạo gian xảo chớp chớp đôi mắt của mình rồi cố ý thở dài lên một tiếng nói: “Nàng không nói tức là biểu hiện nàng từ chối ta rồi, vậy là bây giờ ai đi đường nấy ‘Hải thượng sinh minh nguyệt, thiên hạ cộng thử thời, thiên trường địa cửu hữu thời tận, thử hận miên miên vô tuyệt kỳ’(Đỗ Văn Hạo lấy hai câu thơ đầu trong bài thơ của Trương Cửu Linh đời nhà Đường để nói lên tâm trạng của mình, nhân tiện cũng là trêu đùa Lâm Thanh Đại, câu thơ này tạm dịch: Mặt biển lúc này lơ lửng một vầng trăng sáng lấp lánh, giờ đây ta và nàng cùng ngồi dưới đó mà tận hưởng giây phút thần tiên này, nhưng trời đất cũng có lúc phải có lúc tận diệt, giây phút đẹp đẽ này không thể mãi mãi tồn tại cùng với thời gian được nữa!) ”
Lâm Thanh Đại lúc này cũng biết Đỗ Văn Hạo đang nói trêu nàng, nhưng trái tim nàng vẫn thót lên, nàng liền quăng luôn thanh kiếm trong tay mình xuống đất, ôm luôn lấy cổ của Đỗ Văn Hạo nói: “Không được nói lung tung như vậy! Chàng đừng…bỏ rơi thiếp!”
Câu nói cuối cùng của Lâm Thanh Đại rất nhỏ, như tiếng vo ve của con muỗi bên tai Đỗ Văn Hạo vậy, nếu như không phải hai người bây giờ đang áp sát mặt vào nhau thì Đỗ Văn Hạo cũng chẳng nghe thấy gì cả, hắn thấy vậy không khỏi nhịn được cười nói: “Vậy nàng đồng ý thành thân với ta rồi!”
“Ừm! Thiếp không phải đã đồng ý chàng từ lâu rồi hay sao? Chỉ là, hạn để tang của thiếp vẫn còn!”
“Thôi cứ thành thân trước cái đã, đỡ phải để cho người ta thấy nàng lẵng nhẵng đi theo ta mà nói ra nói vào, chờ cho nàng hết hạn để tang rồi mới động phòng chính thức như vậy có được không?”
Lâm Thanh Đại nghe thấy Đỗ Văn Hạo nghĩ cho mình một cách chu đáo như vậy thì đưa con mắt cảm kích lên nhìn một cái, rồi kiễng chân lên hôn luôn vào môi của hắn.
Đỗ Văn Hạo lúc sau mới đem chuyện hắn muốn thành thân với Lâm Thanh Đại nói cho Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi nghe, kết quả là hai người bọn họ đã có dự tính sẵn từ trước rồi, do vậy liền lập tức chuẩn bị lễ cưới, cùng quà cưới luôn. Không một ai biết Lâm Thanh Đại vẫn phải để tang, chính vì vậy mà chẳng có ai lời qua tiếng lại cả, ngoài trừ những người trong nhà đều biết chuyện của Lâm Thanh Đại ra thì chẳng còn ai để ý nữa cả, chính vì thế mà lễ thành thân của Đỗ Văn Hạo vô cùng náo nhiệt. Cho dù đây chỉ là một lễ nạp thiếp thôi, nhưng lễ thành thân của hắn lần này của hắn chẳng kém cạnh chút nào so với lần hắn lấy chính thất (Chính thất ở đây là chỉ Bàng Vũ Cầm) cả. Hoàng Thượng, Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Chu Đức Phi nương nương, Lâm Tiệp Trữ nương nương cùng với Trường Công Chúa và nhiều người khác nữa đều đem quà đến tặng cho hắn. Tống Thần Tông còn đích thân viết một bài thơ mừng cho Đỗ Văn Hạo, việc này lại làm trấn động cả Kinh Thành, Hoàng Thượng đã nể mặt Đỗ Văn Hạo như vậy rồi, ai còn dám không đến chúc mừng hắn nữa? Văn Võ bá quan trong triều bất kể lớn nhỏ ngoại trừ người nào bị bệnh không đến được, còn đâu thì đều có mặt đông đủ cả.
Bữa tiệc rượu này làm cho Đỗ Văn Hạo say đến quên cả trời đất, sau đó cái xác của hắn được mọi người khiêng hẳn vào trong căn phòng tân hôn của hắn với Lâm Thanh Đại, may mà Lâm Thanh Đại vẫn còn hạn tang không thể động phòng được, chứ với cái bộ dạng này của hắn thì e rằng chuyện động phòng là không thể làm được nữa rồi, nếu mà như vậy thì Lâm Thanh Đại quả là quá tủi thân.
Ngày hôm sau, Lâm Thanh Đại đã vấn làn tóc dài mượt của mình lên cao, nàng giờ đây đã là phu nhân thứ tư của Đỗ Văn Hạo.
Mọi người sắp phải xuất phát rồi, cả nhà đều bận rộn chuẩn bị hành lý, Đỗ Văn Hạo cũng không biết nên giúp người nhà sắp xếp ra sao nên đi ra tiền đường khám bệnh.
Mọi người đều biết Đỗ Văn Hạo sắp phải rời khỏi kinh thành ít nhất là ba năm, có mấy người vốn định kéo dài thời gian chữa bệnh của mình lúc này biết tin đều lần lượt kéo đất quỳ xuống van xin hắn cố gắng tận dụng thời gian ít ỏi hắn còn ở đây mà ra tay cứu chữa.
Tiền Bất Thu sau khi biết sư phụ Đỗ Văn Hạo của mình sắp phải đến Tứ Xuyên làm Câu Quản, thì lập tức chạy đến trước mặt Hoàng Thượng cầu xin cho mình được phép đi theo hắn vào Tứ Xuyên cùng, Tống Thần Tông tuy không muốn Tiền Bất Thu đi theo cùng hắn chút nào nhưng cũng không biết làm cách nào khác, cũng đành ân chuẩn cho ông ta đi theo Đỗ Văn Hạo.
Tiền Bất Thu để người nhà chuẩn bị hết đồ đạc cần mang theo, còn mình thì đến hẳn Ngũ Vị Đường để giúp Đỗ Văn Hạo.
Phía trước tiền đường có Hàm Đầu cùng với Diêm Diệu Thủ chẩn đoán trước, chỉ có các ca bệnh nan y khó chữa thì mới đến tay Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu ngồi ở phía sau hậu đường.
Nơi hậu đường lúc này người xếp hàng dài đông đúc, cũng may mà có thêm Tiền Bất Thu giúp đỡ chứ nếu không thì…
Một người phụ nữ trung niên vừa ngồi xuống trước mặt Đỗ Văn Hạo đã rên lên không thôi, tay đưa lên trán nói: “Đỗ Ngự Y à! Chúng tôi nghe nói ngài sắp phải rời kinh thành, nên chúng tôi mới kéo đến đây chữa bệnh đông như vậy, may mà tôi mấy ngày gần đây có đến thăm người nhà ở kinh thành nên mới biết được tin này, do vậy mới vội đến đây, ở tiền đường đồ tôn của tiên sinh nói rằng không chắc chữa được bệnh đau đầu cho tôi, bảo tôi ra ngoài này tìm tiên sinh, mong tiên sinh chữa giùm bệnh đau đầu cho tôi, nếu không tôi bị đau chết mất!”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chị cứ nói chứng bệnh của chị cho ta nghe xem?”
“Đã hai năm nay rồi! Lúc đau lúc không, nhưng một khi nó phát tác thì đau lắm! Đau đến độ cứ như đầu của tôi sắp vỡ ra làm hai vậy, mắt tôi cũng bị căng cứng ra hết cả, đến tối không tài nào mà tôi có thể ngủ được gì cả!”
“Ồ vậy sao! Chị để ta thử kiểm tra mạch của chị một chút nhé!”
Sau khi chẩn mạch xong, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra mạch căng trơn, sau đó lại xem lại lưỡi thấy mặt lưỡi hồng, màng lưỡi có lớp màng màu vàng, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Chị không phải lo lắng đâu! Chỉ cần kê vài thang thuốc là khỏi thôi” Nói xong hắn liền đưa bút lên viết đơn thuốc.
Người phụ nữ trung niên thấy vậy bèn hỏi: “Đỗ Ngự Y! Bệnh của tôi rốt cuộc là bệnh gì vậy? Nó đã hành hạ tôi đau đớn suốt hai năm nay rồi, tôi đã xem qua mấy vị thầy thuốc rồi, nhưng đều không có tác dụng gì cả, tiên sinh có thể nói cho tôi hiểu rõ được không? Bây giờ tiên sinh không còn ở đây nữa rồi, về sau tôi lại bị đau thì tôi biết tìm ai mà chữa bây giờ!”
“Ha ha, được để ta nói cho chị biết, bệnh của chị chính là chứng đau đầu Can Dương, gan trong cơ thể người thông qua mắt, khi chị bị đau đầu thì mắt của chị bị căng ra, đó chính là triệu chứng của Can Dương, chỉ cần uống thuốc thanh trừ Can Dương là khỏi thôi!”
Người phụ nữ trung niên nghe xong thì cũng chẳng hiểu mô tê trời đất gì cả, vội cười cười hỏi: “Vậy làm sao mà bị đau đầu vậy? Tiên sinh nói cho tôi biết được không?”
“Được thôi!” Đỗ Văn Hạo kiên nhẫn giải thích: “Đầu là nơi tụ hội của các Dương, khí huyết của lục phủ ngũ tạng hội tụ cũng là ở đây, bất kể ngoại cảm tạo nên hay là do tạng phủ bị nội thương đều có thể làm cho đau đầu, ngoại cảm đau đầu thì thường là do bị gió, lạnh, thấp, nhiệt…Tạo ra, hơn nữa những thứ này lại rất hay hỗn tạp vào với nhau. Ngoài ra nội thương dẫn đến đau đầu thì thường là do Can Dương, Suy Thận, Khí Suy, Đờm Đục, Tụ Huyết…Tạo ra mà nên, trong đó Can Dương là chứng hay gặp nhất, do vậy cần phải hỗ phong giải khí độc, bình ổn gan là có thể trị được.”
Người phụ nữ kia nghe xong, vẻ mặt vẫn vô cùng khó hiểu, đây âu cũng là lẽ thường tình, Trung Y uyên sâu khó lường, có nhiều lý luận gắn liền với cả học thuyết của Âm Dương Ngũ Hành, rất khó để cho người bình thường có thể am hiểu được lý luận của Trung Y. Bình thường các sinh viên của trường Trung Y khi sắp tốt nghiệp mà bị hỏi các chứng bệnh biến ra sao thì cũng ù ù cạc cạc như người bình thường hết.
Đỗ Văn Hạo thấy người phụ nữ đó chẳng hiểu mô tê cái gì bèn mỉm cười nói: “Chị không hiểu cũng chẳng sao đâu, tôi kê cho chị một phương thuốc có thể trị tận gốc căn bệnh này, chị không cần lo khi tôi không còn ở đây mà khi bị đau đầu không tìm ra được ai chữa nữa cả! Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đưa bút lên kê thuốc, sau đó đưa cho người phụ nữ đó nói: “Chị bây giờ ra tiền đường mà cắt thuốc!”
Người phụ nữ kia tiếp lấy sau khi tạ ơn thì liền đứng dậy đi ra tiền đường rồi tìm đến quầy tính tiền chỗ Ngô Thông cắt thuốc.
Sau khi thuốc cắt xong xuôi đâu đấy, Ngô Thông đang định bao thuốc lại thì người phụ nữ đó lại nói: “Chờ! Chờ chút!” Sau đó chị ta liền rút trong người ra một tờ giấy đưa cho Ngô Thông nói: “Vị tiểu ca này, anh xem cho tôi xem, những thứ thuốc mà anh vừa cắt cho tôi với những thứ viết ở trên này có giống nhau không?”
Ngô Thông thấy vậy bèn tiếp lấy rồi cẩn thận dò xét từng tí một, sau đó nói: “Không sai, tất cả đều giống nhau!”
“Vậy không được rồi!” Người phụ nữ đó cầm lại đơn thuốc của mình vội vã chạy ra hậu đường tìm đến Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ Ngự Y! Ngài kê đơn thuốc cho tôi e rằng không chữa khỏi bệnh cho tôi được!”
“Sao vậy?” Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi.
Người phụ nữ đó liền moi trong người ra đơn thuốc rồi đưa cho Đỗ Văn Hạo nói: “Tiên sinh xem đi, đây là đơn thuốc mấy hôm trước tôi xem ở Huệ Nhân Đường người ta khám bệnh cho tôi rồi kê thuốc đó! Lúc nãy khi tôi đi cắt thuốc thì tôi thấy phương thuốc này trông quen quen, sau đó tôi đưa cho người cắt thuốc xem xem có giống nhau không, thì anh ta nói phương thuốc đều giống nhau cả, nhưng mà Đỗ Ngự Y tôi uống thuốc này gần nửa năm rồi đều không thấy khỏi!”
“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo tiếp lấy phương thuốc đó rồi cẩn thận xem lại, quả nhiên đúng như vậy ngay cả liều lượng cũng không hơn kém là bao, hắn thấy vậy bèn cau mày lên suy nghĩ, sau khi xem xét đi xem xét lại hắn cũng không biết vấn đề nó nằm ở chỗ nào cả.
Trong lúc không biết nên giải quyết ra sao thì Đỗ Văn Hạo trông thấy Tiền Bất Thu cũng vừa khám xong cho một người bệnh liền tiến tới hỏi ông ta: “Bất Thu! Ngươi lại đây xem dùm cho ta bệnh đau đầu của vị đại tẩu này!”
Tiền Bất Thu nghe vậy bèn gật đầu đồng ý, sau đó ông ta vuốt vuốt chòm râu của mình hỏi chứng bệnh, rồi sau khi bắt mạch xem lưỡi xong bèn xem đơn thuốc của người phụ nữ đó, ông ta im lặng một lúc lâu sau rồi mới lên tiếng: “Thanh trừ Can Dương là biện pháp trị đau đầu thông thường nhất, do vậy nếu nó không có tác dụng thì chứng tỏ rằng Quy Kinh không đúng, không phải Quyết Âm làm cho đau đầu, hoặc có lẽ do các đường kinh lạc khác làm cho bị đau đầu cũng không biết chừng, nếu đau đầu quá mức thì có lẽ là do Quy Kinh!”
Đỗ Văn Hạo đứng cạnh đó cũng gật đầu nói: “Nói đúng lắm! Phải hỏi tình hình kỹ thêm chút nữa mới được!” Thấy vậy hắn bèn quay sang người phụ nữ trung niên đó hỏi: “Chị thử kiểm tra kỹ xem chị bị đau chỗ nào nhất?” Người phụ nữ kia bèn đưa tay đưa lên đầu cảm giác, sau khi sờ đến góc lông mày thì kêu lên ối chao mộ tiếng rồi nói: “Đúng rồi! Chỗ này làm cho tôi cảm thấy đau đớn nhất!”
Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu cùng đưa mắt nhìn nhau rồi đồng thanh nói: “Túc Dương Minh Vị Kinh?”
Đường kinh lạc Túc Dương Minh Vị Kinh có đường chính là bắt đầu từ cánh mũi huyệt Nghênh Hương, sau đó theo dọc theo sống mũi hướng lên trên, hai bên cạnh giao nhau tại cuối đường sống mũi rồi cùng đi vào mắt, người phụ nữ này khi đưa tay lên trán chạm vào góc lông mày thì cảm thấy đau đớn tột cùng, do vậy có thể nói rằng chị ta bị đau đầu là do Dương Minh Vị Kinh.
Đỗ Văn Hạo sau khi xem xét kỹ lưỡng xong bèn tiến đến gần người phụ nữ đó nói: “Chị ngáp một hơi thật sâu vào xem sao!”
Người phụ nữ thấy vậy bèn nghe lời Đỗ Văn Hạo ngáp một hơi thật sâu, khi chị ta vừa mở miệng ra thì có một mùi hôi nồng bốc ra, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn ngồi thẳng người ra hỏi: “Chị đại tiểu tiện ra sao?”
“Tiểu tiện thì không sao, nhưng đại tiện thì nhiều lúc đi mãi mà không ra, khi cố sức cho nó ra thì toàn là những thứ khô cứng!”
“Chị mở miệng ra, rồi thè hết lưỡi ra ngoài cho ta xem xem!”
Người phụ nữ đó làm theo hết lời của Đỗ Văn Hạo sau khi xem xét tỉ mỉ thì phát hiện ra cuống lưỡi của chị ta có màng màu vàng, lúc này hắn mới chợt hiểu ra vấn đề liền quay sang cười với Tiền Bất Thu: “Đau ở Dương Minh, Dương Minh thì lại thông qua vị, đại tiện khô cứng, Dương Minh tụ hỏa do vậy mới tạo ra chứng đau đầu! Thì ra mới đầu ta dự đoán đau đầu là do Quy Kinh mà ra quả là một sai lầm lớn!”
Tiền Bất Thu nghe xong cũng vuốt vuốt bộ râu của mình nói: “Đúng vậy! Không trừ Dương Minh mà cứ triệt Quyết Âm thảm nào trị mãi mà không khỏi được bệnh!”
Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu đồng ý, xong rồi hắn lại đưa bút lên viết đơn thuốc rồi đưa cho Tiền Bất Thu xem: “Ngươi xem phương thuốc này thế nào?”
Tiền Bất Thu cầm lên xem rồi gật đầu đáp: “Ừm! Cát Căn, Thạch Cao đều thuộc vào đặc tính của Dương Minh, lần này chắc chắn sẽ chữa khỏi bệnh được!”
Đỗ Văn Hạo cũng cảm khái nói: “Người ta thường hay nói không hiểu kinh lạc của phủ tạng thì mở miệng ra nói, đưa bút ra viết đều sai hết, hiểu nguyên lý khí hóa của kinh lạc, biết cách điều thuốc, thì có hiệu nghiệm hơn rất nhiều lần, câu nói này không sai chút nào cả. Bất Thu! Kinh nghiệm của ngươi đầy mình, nhất là đối với biện chứng kinh lạc vô cùng tài giỏi, về sau ta phải học hỏi thêm ngươi rất nhiều!”
Tiền Bất Thu nghe vậy vội chạy đến cúi người đáp: “Sư phụ nói quá rồi!”
Sau khi nhận được đơn thuốc mới, người phụ nữ trung niên đó liền dùng mấy thang, ngay sau đó đại tiện thông suốt, chứng đau đầu cũng giảm hẳn, cũng không cần phải đến phúc chẩn thêm lần nào nữa cả.
Chương 307: "Rồng đến nhà tôm"
Đỗ Văn Hạo cũng chẳng quan tâm đến bọn họ muốn sắm sửa cái gì, ai thích gì thì cứ đi mà mua, cùng lắm là lại làm thêm mấy cỗ xe ngựa vận chuyển là xong chứ có khó khăn gì đâu cơ chứ.
Việc hiện giờ mà Đỗ Văn Hạo cần phải làm vẫn còn mấy chuyện, tất cả đều có liên quan đến chuyện hắn chuyển đến Nhã Châu thi hành sách lược của mình. Việc trước mắt bây giờ của hắn là phải đi tìm Cao Kim Vĩ - một người am hiểu về lĩnh vực quân sự, bởi vì chức trách của hắn sắp làm tới đây bao gồm cả Bảo Giáp và Nghĩa Dũng, hai thứ này nói nôm na là một tổ chức dân sự và quân sự, gọi tắt là dân binh. Trong tận sâu đáy lòng của mình, Đỗ Văn Hạo có một nguyện vọng, một hoài bão là đào tạo cho Đại Tống một đạo quân tinh nhuệ, do vậy hắn phải bắt đầu từ hòn gạch xây dựng đầu tiên đó chính là dân binh. Chính vì thế hắn mới đến Binh Bộ để tìm Cao tướng quân để học hỏi.
Lần trước hắn thông qua Cao Kim Vĩ Cao tướng quân bán được một số lượng lớn thuốc phòng trừ bệnh dịch, thuốc giải độc cùng với mặt nạ phòng độc. Vụ đó hắn kiếm được rất nhiều tiền, Cao tướng quân cũng vì có mấy loại thuốc đó mà khi tây chinh đã đánh tan quân Tây Hạ, thế như trẻ tre, dốc quân thẳng đến uy hiếp trực tiếp đến tận kinh thành của Tây Hạ.
Tuy rằng sau đó bị bại trận ở Vĩnh Thành, nhưng trận đó không có liên quan gì đến các loại thiết bị mà Đỗ Văn Hạo cung cấp cả, do vậy Đỗ Văn Hạo cũng không phải vì thế mà bị liên quan đến trận chiến đó cả. Cho dù kết quả cuối cùng cũng là thua trận, nhưng do có những chiến công từ các trận chiến khác mà Cao tướng quân còn được thăng chức nữa.
Trong thời gian ở kinh thành cung cấp những thiết bị cần thiết cho quân đội, Đỗ Văn Hạo cũng không ít lần đem lễ vật đến dâng tặng cho Cao tướng quân, lần này đến thăm hỏi, hắn dĩ nhiên cũng đem theo một món quà đắt giá đến ra mắt, do vậy mà Cao tướng quân cũng vô cùng vui vẻ, ông ta còn ra tận cổng miệng cười hớn hở nghênh tiếp Đỗ Văn Hạo vào trong phòng khách.
Sau khi ai nấy đã an tọa đâu đấy hết cả, Đỗ Văn Hạo mới đem chuyện mình sắp phải đi Nhã Châu làm Câu Quản ra nói cho Cao tướng quân biết. Tuy là trong triều bây giờ ai cũng biết tin này rồi, vì suy cho cùng thì Đỗ Văn Hạo hiện nay đang là người được lòng Hoàng Thượng nhất, chuyện hắn bị điều sang một nơi khác dĩ nhiên thu hút rất nhiều sự chú ý của mọi người, cũng chẳng có ai cho rằng Đỗ Văn Hạo bị điều ra biên ải như vậy là một sự trừng phạt, hay cách chức cả, mà tất cả mọi người đều nhất chí cho rằng Hoàng Thượng để vị Ngự Y của mình thân chinh ra biên ải làm một chức quan nhỏ bé như vậy tuyệt đối không phải là chuyện đơn giản như bề ngoài vốn có của nó, ai cũng biết rằng đó chắc lại là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng được Đỗ Văn Hạo gánh vác, có thể đây cũng là do Hoàng Thượng muốn đào tạo Đỗ Văn Hạo trưởng thành hơn trong con đường làm quan trước mắt. Chỉ cần một ngày nào đó mãn nhiệm kỳ Đỗ Văn Hạo quay lại Kinh Thành thì lúc đó hắn sẽ thăng tiến như diều gặp gió, một bước lên mây, quan cao chức trọng khi đó chỉ là một việc quá đỗi đương nhiên.
Chính vì vậy mà Cao tướng quân cũng hiểu điều này, thế nên lúc này cũng dùng những lời có cánh để nịnh nọt Đỗ Văn Hạo, luôn miệng ca tụng hắn là một cận thần thân tín nhất của Hoàng Thượng, sau này chắc chắn sẽ thành đạt.
Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng dùng những lời lẽ khiêm tốn của mình mà đáp lại: “Hoàng Thượng bổ nhiệm ti chức làm Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Thương kiêm Câu Quản Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, ti chức đối với việc quân vô cùng ngu muội, thật không biết nên bắt đầu từ đâu, chính vì vậy mới chạy đến đây để thỉnh giáo tướng quân!”
Cao tướng quân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì bất giác cảm thấy trong người vui vẻ hẳn lên: “Chúng ta đều là anh em trong một nhà cả, đừng có khách khí như vậy, Đỗ lão đệ đã yêu cầu ta như vậy thì lão ca ta làm sao có thể chối từ được cơ chứ! Ta sẽ giới thiệu cho đệ một người để người đó trợ giúp cho lão đệ, như vậy lão đệ sẽ không có vấn đề gì khó khăn nữa cả.”
“Ố? Người đó là ai vậy?” Cao tướng quân nghe vậy bèn đứng thẳng người lên nói: “Đỗ lão đệ cứ ngồi đây chờ ta một lát để ta gọi người đó ra đây, sau đó sẽ giới thiệu cho lão đệ biết sau!” Nói xong Cao tướng quân vội cho người ra hậu đường mời người đó ra ngoài nói chuyện.
Khi người đó bước ra thì Đỗ Văn Hạo thấy người này trạc tầm bốn mươi tuổi, thân hình cao lớn vạm vỡ, tuy thân hình cao to như vậy nhưng sắc mặt của người này lại vô cùng tiều tụy, tinh thần uể oải đang bước lên phía trước tiền đường cúi người thi lễ.
Cao tướng quân thấy vậy bèn nói: “Đỗ đại nhân! Vị này là người mà năm ngoái tây chinh Tây Hạ, lập được rất nhiều công trạng đại tướng quân Lý Phố! Lý Phố! Vị này là người thân tín nhất bên cạnh Hoàng Thượng, Ngự Y Đỗ Văn Hạo Đỗ đại nhân!”
Lý Phô nghe Cao tướng quân nói vậy bèn vội vã tiến lên cúi người thi lễ nói: “Lý Phố bái kiến Đỗ đại nhân!”
Cao tướng quân giới thiệu thêm: “Lý Phố là một tướng tài năm đó khi tây chinh Tây Hạ được mệnh danh là một hổ tướng, chức lên đến Phi Hổ Đại Tướng Quân, là tiên phong của cả một đạo quân dũng chiến, người này chính là người đầu tiên dốc quân uy hiếp đến tận kinh thành của Tây Hạ đó!”
Lý Phố nghe vậy thì nét mặt trở nên ngại ngùng, thấp giọng đáp: “Tướng quân bại trận! Không dám nhiều lời!”
Đỗ Văn Hạo nghe Cao tướng quân giới thiệu như vậy thì kinh ngạc vô cùng, hắn trông bộ dạng của Lý Phố bây giờ nghèo nàn lếch thếch, đâu rồi cái phong độ đại tướng một thời gào thét ra lửa, oai hùng kiêu dũng nữa chứ.
Cao tướng quân thấy dáng vẻ nghi ngờ của Đỗ Văn Hạo như không tin lời mình nói, thì thở dài ra một tiếng tiếc rẻ rồi nói: “Trước trận chiến ở Vĩnh Thành, Lý Phố rất nhiều lần đưa ra những ý kiến đúng đắn của mình đề lên cho Chủ Soái Từ Hỷ biết, nhưng mà Từ Hỷ suy cho cùng cũng chỉ là một tướng văn, không am hiểu gì về quân sự cả, cộng thêm với việc tự mãn tự kiêu, cho mình là đúng, hết lần này đến lần khác từ chối những lời kiến nghị của Lý Phố, tự theo ý mình, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, bỏ qua rất nhiều thời cơ trong chiến trận nên Đại Tống mới bị thảm bại như vậy. Sau đó Từ Hỷ không những bị chết trận mà còn làm cho Lý Phố và những người khác chịu liên lụy nữa. Sau khi Đại Tống xa lầy ở trận Vĩnh Thành thì Lý Phố cùng với Khúc Trân phải liều mình mới thoát khỏi vòng vây của quân địch. Nhưng khi bỏ về đến đây thì lại mắc vào tội thua trận, lão tướng Khúc Trân thì bị giáng chức xuống làm chức Hoàng Thành Sứ bé nhỏ, Lý Phố thì còn thê thảm hơn, không những bị đuổi ra khỏi quân đội, mà còn bị giáng chức xuống làm cai ngục của Phủ Khai Phong.”
Phi Hổ Đại Tướng Quân là một chức tương đương với đại úy của thời bây giờ, thế mà hiện nay bị giáng xuống chức cai ngục, chả trách mà trông bộ dạng Lý Phố thất vọng, u uất đến nhường vậy.
Cao tướng quân nói: “Đỗ đại nhân! Lý Phố tướng quân từ khi khổ đọc binh thư, đoạt được chức Võ Thám Hoa cho đến giờ vậy mà chỉ được làm một chức quan cai ngục quèn như vậy đúng là trong lòng rất chi thất vọng, không cam tâm, huynh ấy cũng là người cùng quê với bổn quan, hôm nay cũng vừa vặn đến đây thăm ta, cũng đúng lúc thì Đỗ đại nhân đến đặt vấn đề với ta, do vậy ta mới tiến cử Lý Phố đến để phò tá cho đại nhân, ha ha ha!” Nói xong Cao tướng quân bèn quay sang Lý Phố nói: “Lý tướng quân! Đỗ đại nhân thì chắc tướng quân cũng biết rồi đúng không! Đỗ đại nhân là người thân tín nhất của Hoàng Thượng bây giờ đó, lần này đại nhân phụng chỉ đến Thành Đô Phủ Nhã Châu Lộ Thường Bình Thương làm Câu Quản kiêm Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, muốn tìm một người am hiểu về quân sự để giúp đỡ, bổn quan thấy tướng quân là người vô cùng thích hợp với chức vụ này nên đã mạo muội tiến cử tướng quân cho Đỗ đại nhân rồi, không biết ý của Lý tướng quân ra sao?”
Lý Phố nghe xong thì mừng rỡ vô cùng, từ khi gia nhập quân đội hai mươi năm nay, chức lên đến Phi Hổ Đại Tướng Quân, đối với những việc trong quan trường thì vô cùng am hiểu, Đỗ Văn Hạo hơn một năm gần đây danh tiếng lẫy lừng, được lòng cả Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu, Lý Phố cũng hiểu rằng nếu bản thân mình mà đi theo Đỗ Văn Hạo thì sau này chắc chắn sẽ lấy lại được danh tiếng như xưa, do vậy sau khi nghe Cao tướng quân nói xong thì ngay lập tức vén áo lên quỳ luôn xuống nói: “Mạt tướng Lý Phố nguyện sống chết phò tá giúp đỡ Đỗ đại nhân hoàn thành việc lớn!”
Đỗ Văn Hạo sau khi biết Lý Phố là một dũng tướng năm xưa từng đem quân chinh chiến đánh thẳng tới cổng kinh thành Tây Hạ, thì vô cùng khâm phục, nghe Lý Phố nguyện theo phò tá mình như vậy thì cảm thấy vui mừng vô cùng. Hoàng Thượng cũng đã nói rồi, chỉ cần hắn đến Nhã Châu thì hắn có thể tiến hành cải cách hoàn toàn theo ý tưởng của hắn, Hoàng Thượng cũng chẳng hề hạn chế hắn cải cách trong cả quân đội nữa, do vậy hắn cũng có thể cải cách quân đội theo ý hắn muốn, nhưng trong tay hắn lại không hề có một đạo quân nào cả, mà Hoàng Thượng cũng chẳng hề điều động cho hắn gì cả, chính vì thế mà có một viên tướng như Lý Phố am hiểu quân sự, thì việc cải cách quân đội đối với hắn sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.
Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn tiến lên một bước, đưa tay ra đỡ lấy Lý Phố rồi nói: “Lý tướng quân xin mời đứng dậy! Đỗ mỗ có được một vị tướng tài ba như Lý tướng quân giúp đỡ thì còn gì tốt hơn thế nữa!”
Cao tướng quân thấy vậy thì mở miệng cười ha hả, rồi phân phó người nhà bày tiệc rượu ra, ba người cùng ngồi uống rượu một cách vui vẻ sảng khoái với nhau một chập.
Sau khi tiệc rượu tàn hết, Lý Phố bèn cáo từ đi về nha môn thông báo từ chức quản ngục cho quan phủ biết, rồi sau đó lại về nhà nói với phu nhân của mình chuẩn bị hành lý cùng Đỗ Văn Hạo đi Nhã Châu.
Tại ngoại ô của kinh thành, một cỗ xe ngựa sang trọng đang đỗ bên hàng cây bạch dương thẳng tắp, trên xe lúc này hình như không có lấy một bóng người, ngựa thì nhàn nhã cột bên cạnh đó gặm cỏ một cách chậm rãi.
Lúc này, trên xe mới đung đưa bước xuống một nữ tử, tóc nàng dài vấn hẳn lên uốn lượn như những làn sóng mây trời, trên đó còn đeo một chiếc Thủy Nhai Sinh Yên Quan, khạm trổ một bông hải đường lấp lánh, hai bên buông thõng hai hàng dây tử ngọc dài đến ngang vai, ngay giữa trán thì có một miếng ngọc Loan Ngọc Nguyệt cong cong như mặt trăng lưỡi liềm, tai đeo đôi khuyên Thương Sơn Bích Ngọc, toàn thân khoác một bộ áo màu đỏ vàng xen lẫn nhau, bên hông đeo một miếng ngọc bội Cửu Khổng Linh Lung, đai lưng có gắn hai hàng ngọc trai Lưu Tô, hai tay được khoác bởi một chiếc khăn Vân Thanh Dụ Vũ dài thướt tha, trông rất hợp với bộ áo váy mà nàng đang mặc, một vẻ kiêu sa kiều diễm, lung linh ánh ngọc toát ra, trông nàng giờ đây giống như một nàng tiên giáng trần vậy.
“Tiểu Tề! Không phải là ngươi nói rằng Đỗ đại ca và Thanh Đại tỷ ở chỗ này chờ ta ư? Tại sao đến giờ này rồi mà vẫn chưa thấy hai người bọn họ đến đây gì cả vậy? Ngươi mau mau đi tìm cho ta mau lên!” Người vừa lên tiếng chính là Dụ Cáp Nhi.
Dụ Cáp Nhi đứng chờ ngay dưới hàng Bạch Dương, còn Tiểu Tề thì đang dặn dò hai viên tiểu thái giám đứng ở gần đó mau đến che nắng cho Dụ Cáp Nhi, còn mình thì đưa mắt ra đảo khắp nơi, khi ánh mắt của Tiểu Tề trông thấy từ nơi xa có hai bóng người đang tiến lại gần đây thì ngay lập tức hắn liền phóng người như bay chạy thẳng đến chỗ hai cái bóng người đó.
Quả nhiên đó chính là Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại đang tiến lại đây, hai người cùng lúc đi đến một chiếc đình được dựng ở gần đó, liền nhấc chân bước vào.
“Đỗ đại nhân, nương nương của tiểu nhân đã đến rồi!” Tiểu Tề thở không ra hơi đứng dưới cái đình nói.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mỉm cười đáp: “Ngươi mau đi mời nương nương đến đây! Ta và Thanh Đại có vài món ăn ngon chờ nương nương đến để cùng thưởng thức đây”
Tiểu Tề thấy vậy bèn tuân lệnh quay người đi mời Dụ Cáp Nhi đến đây, một lúc sau thì một bóng hồng đã bước theo Tiểu Tề tiến về phía cái đình này, bóng hồng đó dáng người thướt tha lả lướt trong gió trông bắt mắt vô cùng.
Rất nhanh Dụ Cáp Nhi đã đi đến nơi, rồi cùng Tiểu Tề bước vào trong đình.
Dụ Cáp Nhi đến hôm nay vẫn ngại không dám nhìn trực diện vào Đỗ Văn Hạo, ánh mắt của nàng giờ đây dường như lúc nào cũng muốn trốn tránh hắn, nàng miễn cưỡng tiến đến bên cạnh Lâm Thanh Đại, khi Lâm Thanh Đại định cúi người thi lễ thì Dụ Cáp Nhi đã lên tiếng căn ngăn, rồi tự thân mình bước đến đỡ lấy Thanh Đại, sau đó gọi Thanh Đại là tỷ tỷ vô cùng thân mật, xong đâu đấy rồi Dụ Cáp Nhi mới quay đầu sang Đỗ Văn Hạo mà nhạt nhẽo nói lên một câu Đỗ đại nhân. Lâm Thanh Đại thấy vậy cũng đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo, trông thấy hắn lúc này cũng đang vô cùng gượng gạo, rất mất tự nhiên. Thanh Đại thấy vậy bèn mỉm cười kéo Dụ Cáp Nhi lại đến bên Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, còn mình thì ngồi bên cạnh Dụ Cáp Nhi, sau đó đích thân rót rượu cho nàng ta rồi nâng cốc lên nói: “Nào! Nương nương! Bọn ta cũng sắp phải đi xa rồi, vì duyên số cho chúng ta gặp được nhau mà hãy cạn chén rượu này, Văn Hạo chàng cũng nâng cốc lên đi! Chúng ta cùng uống một chén rượu chia tay với nương nương nào!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng đưa tay ra nâng rượu lên, Dụ Cáp Nhi nghe Lâm Thanh Đại nói sắp đi xa thì kinh hãi đưa mắt ra nhìn vào hai người hỏi: “Tỷ tỷ! Tỷ nói sao cơ? Ai sắp đi rồi, tỷ tỷ sắp đi sao? Tỷ định đi đâu vậy?”
Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn ra ý cho Đỗ Văn Hạo lên tiếng trả lời, còn mình thì nâng cốc rượu trong tay lên uống một hơi cạn sạch.
“Đúng! Đúng là như vậy! Vi thần lúc trước cứ tưởng Hoàng Thượng đã nói cho nương nương biết rồi chứ! Hoàng Thượng đã phong cho vi thần chức Câu Quản ở huyện Tứ Xuyên Nhã Châu Lộ, ba ngày sau vi thần cùng với gia quyến sẽ di dời vào trong Tứ Xuyên Thành Đô rồi! Ý của Thanh Đại là trước khi vào trong đó muốn gặp nương nương một lần cuối để nói chuyện, vi thần nghĩ vào cung gặp nương nương sẽ cảm thấy bất tiện nên mới mạo muội cho người vào nhắn cho nương nương hẹn gặp ở ngoài này!”
“Sao lại có thể như vậy được cơ chứ? Sao hôm qua Đỗ đại ca không nói cho muội biết cơ chứ? Có phải là do chuyện ân oán thù địch của muội làm cho Đỗ đại ca phải từ bỏ kinh thành mà trốn chạy vào nơi xa xôi hẻo lánh đó hay sao? Nơi đó đường xá gập ghềnh vất vả, lại là nơi rừng sâu hoang dại đại ca có biết không vậy? Để muội đi nói với Hoàng Thượng, muội không muốn báo thù nữa, muội không nghĩ ngợi lung tung nữa, chỉ cần Đỗ đại ca và mọi người không vào trong đó, muội làm gì cũng cam lòng!” Giọng nói của Dụ Cáp Nhi lúc này hiện lên vô cùng xúc động, chén rượu trong tay của nàng lúc này đã đổ hết cả xuống bàn.
“Đây không phải là lỗi của nương nương đâu, thật đó, chuyện vi thần vào Tứ Xuyên nhậm chức tuyệt đối không có liên quan gì đến nương nương cả!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đem thuật lại câu chuyện hắn cùng với Hoàng Thượng đang chuẩn bị thực hiện kế hoạch cải cách mới, mà người thực hiện lần này là hắn cho Dụ Cáp Nhi nghe.
Dụ Cáp Nhi vô cùng thất vọng, nàng lắc đầu quầy quậy, rồi đưa chén rượu lên uống cạn, sau đó đập mạnh chén rượu đó xuống mặt bàn quay sang Lâm Thanh Đại nói: “Thanh Đại tỷ! Tỷ hãy rót thêm rượu cho muội uống, hôm nay muội không say không về!”
Lâm Thanh Đại biết tâm trạng của Dụ Cáp Nhi đang bị kích động đến cực điểm, bèn lên tiếng khuyên can: “Về sau chúng ta vẫn còn cơ hội gặp mặt mà, hơn nữa nương nương cũng có thể đến Tứ Xuyên thăm bọn ta, và ngược lại bọn ta cũng có thể đến kinh thành thăm nương nương!”
“Thanh Đại tỷ đừng an ủi muội nữa, chuyến đi này không biết đến bao giờ mới gặp lại được nhau nữa rồi! Nếu Dụ Cạp Nhi vẫn còn sống đến lúc đó thì đúng là chúng ta sẽ còn có cơ hội gặp nhau, chỉ e rằng…!” Dụ Cáp Nhi nói đến đây liền nâng luôn cốc rượu trong tay mình lên uống cạn sạch, nàng không chờ cho Thanh Đại kịp rót thêm đã đưa tay cầm lấy bình rượu tự mình rót lại cho mình đầy tràn ly rượu.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cau mày nói: “Nương nương bắt buộc phải sống, không những vậy phải sống thật khỏe mạnh, vui vẻ, cho dù không phải là sống cho người khác, nhưng nương nương cũng nên sống cho gia đình mình vui lòng!”
Dụ Cáp Nhi nghe vậy thì sững người lại, nàng liền mở miệng cười hỏi: “Ý của Đỗ đại nhân nói là?”
“Nếu nương nương không ngại thì vi thận nguyện được làm đại ca của nương nương!”
Dụ Cáp Nhi nghe xong bèn ngay lập tức đổ luôn cốc rượu trong tay xuống dưới đất, nàng đứng luôn người dậy nói: “Thật chứ?”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu rồi nở một nụ cười nói: “Đúng vậy! Nhưng giờ đây ta không còn ở bên cạnh muội mà chăm sóc cho muội được nữa rồi!”
Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười hạnh phúc đáp: “Chỉ cần huynh chịu làm đại ca của muội, cho dù có ở chân trời góc biển đi chăng nữa, muội cũng cam long làm muội muội của huynh!” Nói xong Dụ Cáp Nhi vô cùng xúc động nắm rịt lấy bàn tay của Đỗ Văn Hạo không buông.
“Nhưng muội phải hứa với huynh một điều!” Đỗ Văn Hạo nói.
Dụ Cáp Nhi do dự đôi chút rồi cũng gật đầu đồng ý đáp: “Đỗ đại ca cứ việc nói!”
Đỗ Văn Hạo ra ý cho Dụ Cáp Nhi ngồi xuống bên cạnh mình, sau đó hắn trịnh trọng lên tiếng dạy bảo Dụ Cáp Nhi nói: “Không phải là ta sắp đi xa không còn ở gần bên muội mới mạnh mồm nhận muội làm em gái của ta, mà là ta vô cùng lo lắng cho muội, muội không phải là một người có tính hẹp hòi, có những lúc con người có thể vì một chuyện nào đó mà phải hy sinh rất nhiều thứ để đoạt được thứ mà mình mong muốn, muội lại là một người vô cùng thông minh, đạo lý đó chắc muội cũng hiểu, đó chính là có những lúc muội bỏ ra rất nhiều tâm huyết của mình, nhưng chưa chắc muội cũng thu lại kết quả như mình mong đợi được cả, thế giới này có rất nhiều thứ không công bằng như vậy, ta muốn muội phải sống, phải sống thật hạnh phúc, muội đừng vì một chuyện gì đó mà để bụng, mà suy nghĩ tổn hại tinh thần mình đến mức như vậy nữa!”
Dụ Cáp Nhi nghe xong thì cắn vào môi của mình đáp: “Muội biết ý của huynh là gì rồi, muội cũng không muốn như vậy. Bởi vì muội biết muội không thể chọi lại với bọn họ, nhưng muội lại không cam tâm một chút nào cả!”
“Vậy thế nào mới làm cho muội cảm thấy cam lòng? Diệt cỏ tận gốc, hay là để con cháu của muội với con cháu của người ta tiếp túc tiếp nối nỗi lòng hận thù của hai nhà, sau đó lại truyền từ đời này sang đời khác, rồi cứ thế mà đấu đá nhau chết đi sống lại muội mới cam lòng hay sao?” Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói.
Dụ Cáp Nhi cũng có chút sợ hãi mỗi khi trông thấy khuôn mặt của nghiêm khắc của Đỗ Văn Hạo, ánh mắt của hắn làm cho nàng không có đủ dũng cảm với tự tin để nhìn thẳng vào ánh mắt nghiêm nghị đó, do vậy Dụ Cáp Nhi lúc này chỉ còn biết cúi đầu xuống đáp: “Vậy thì ca ca của muội cứ phải chết oan uổng như vậy hay sao?”
“Vậy muội cũng muốn mình chết rồi xuống dưới suối vàng gặp lại ca ca của muội, như vậy thì ca ca của muội mới cười vui vẻ mà đến đón muội hay sao?” Đỗ Văn Hạo dường như tức giận đến độ đập bàn quát tháo.
“Vậy…Vậy thì huynh nói muội nên làm thế nào đây! Lẽ nào muội cứ phải nhẫn nhịn mãi hay sao?”
“Ta muốn muội phải từ bỏ ý định của muội đi!”
“Không thể như thế được!” Dụ Cáp Nhi hét to lên.
Lâm Thanh Đại trông thấy hai người như muốn cãi nhau to với nhau đến nơi liền vội vã chạy đến bên Dụ Cáp Nhi ôm nàng vào lòng vỗ về, rồi sau đó quay sang Đỗ Văn Hạo lườm hắn một cái, rồi lại nhẹ nhàng an ủi Dụ Cáp Nhi: “Văn Hạo cũng là muốn tốt cho muội nên mới nói như vậy, cho dù muội có được Hoàng Thượng cưng chiều đến mức nào, mạnh mẽ đến đâu, nhưng ta nghĩ đó cũng chưa chắc đã là một điều tốt, chuyện hậu cung ra sao thì ta cũng không hiểu lắm, nhưng một người con gái muốn có được sự sủng ái của Hoàng Thượng là một việc vô cùng khó khăn, hơn nữa thù hận cũng không nên kéo dài mãi đến như vậy?”
“Thanh Đại tỷ và Đỗ đại ca hãy để cho muội có một thời gian suy nghĩ cái đã, thật đấy! Mọi việc đến quá bất ngờ, hai người bây giờ cùng bị điều đến Tứ Xuyên cả rồi, giờ chỉ còn mỗi một mình muội ở cái kinh thành lạnh lẽo cô đơn này, muội về sau chẳng còn có ai để mà tâm sự nữa rồi, muội không ép hai người cùng phải theo muội trả thù, muội chỉ cần có một người anh trai giúp muội giải tỏa ưu phiền, cùng muội tâm sự mà thôi. Trời xanh đối với muội quả là không công bằng gì hết, đại ca của muội thì bị người ta hại chết, còn Đỗ đại ca lại bắt muội phải sống hạnh phúc, muội sống hạnh phúc làm sao được cơ chứ!” Nói đến đây thì hai mắt của Dụ Cáp Nhi ửng đỏ, đôi vai của nàng run lên nấc nghẹn.
“Muội sống hạnh phúc vui vẻ cũng chính là điều mà đại ca của muội ở dưới suối vàng mong muốn, huynh ấy chắc chắn không mong muốn muội suốt ngày phải sống trong hận thù đâu! Ta đã nói rồi, trên thế gian này không bao giờ có sự công bằng nào cả, muội muốn công bằng chẳng qua đó chỉ là sự công bằng cho riêng một mình muội mà thôi, vậy khi muội có được công bằng cho riêng mình rồi thì người khác liệu có thấy công bằng hay không?”
Dụ Cáp Nhi nghe xong chỉ biết im lặng không nói câu nào cả, nàng chỉ ngồi lặng thinh một chỗ uống rượu ừng ực, Lâm Thanh Đại thấy mình và Tiểu Tề cứ ngồi đây cũng cảm thấy bất tiện bèn mượn cớ dẫn Tiểu Tề ra ven hồ đi dạo, chỉ để một mình Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi hai người ngồi lại với nhau, như vậy cả hai sẽ nói chuyện với nhau thoải mái hơn.
Một lúc lâu sau, Dụ Cáp Nhi đã uống đến độ hai má đỏ ửng lên, hai mắt lờ đờ chớp chớp, trông có vẻ đã ngà ngà say.
“Thôi được rồi! Chúng ta đến lúc phải về rồi, ta còn phải vào trong cung nói lời tạm biệt với Thái Hoàng Thái Hậu nữa, đi thôi!” Đỗ Văn Hạo nói xong thì đứng luôn người dậy.
Dụ Cáp Nhi thân hình lảo đảo cũng đứng dậy theo Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo trông thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo như vậy bèn vội chạy đến bên cạnh đỡ lấy, còn Dụ Cáp Nhi thấy hắn đỡ nàng như vậy cũng như say như tỉnh liếc Đỗ Văn Hạo một cái, miệng mấp máy điều gì đó, nhưng lại không nói được lên lời, hai người cứ như vậy rồi rời khỏi chiếc đình.
Khi ra khỏi đình thì Đỗ Văn Hạo bèn lên tiếng gọi Lâm Thanh Đại và Tiểu Tề lại, sau đó để hai người bọn họ đến bên dìu đỡ Dụ Cáp Nhi lên xe, khi đưa Dụ Cáp Nhi đưa lên xe ngựa xong thì Lâm Thanh Đại một mình đi xe quay về Ngũ Vị Đường, còn Đỗ Văn Hạo vì thuận đường vào cung nên ngồi chung xe với Dụ Cáp Nhi.
Trong xe, Đỗ Văn Hạo ngồi ngay đối diện với Dụ Cáp Nhi, hắn trông thấy nàng ủ rũ nằm ở một góc của xe, hai mắt hờ khép, gương mặt buồn buồn, trên cả đoạn đường đi cả hai người không ai nói với ai một câu nào cả cho đến khi xe ngựa đi đến cổng của Hoàng Cung.
“Được rồi! Tiểu Tề! Ngươi mau đến dìu nương nương của ngươi về, rồi pha một chút trà giã rượu cho nàng ta uống! Ta phải quay về luôn đây kẻo người nhà ta lo lắng!” Thực ra lúc này Đỗ Văn Hạo thấy mình đã uống rượu say không muốn vào gặp Thái Hoàng Thái Hậu, vì hắn say như vậy mà đến bái kiến người ta thì vô cùng thất lễ, do vậy Đỗ Văn Hạo mới lấy cớ là người nhà lo lắng mà đi về giã rượu, mai vào bái kiến Thái Hoàng Thái Hậu cũng không muộn, nhưng Dụ Cáp Nhi nằm bên cạnh nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì choàng mắt tỉnh dậy nói: “Đỗ đại ca, có phải là trước khi huynh đi thì muội không được gặp huynh thêm một lần nữa có phải không?”
Đỗ Văn Hạo thở dài một cái, rồi ngồi xuống bên cạnh Dụ Cáp Nhi nói: “Bây giờ có rất nhiều việc đang chờ ta đi giải quyết, có lẽ chúng ta sẽ không có cơ hội gặp lại nhau nữa, muội cũng nên biết cách tự chăm sóc bản thân mình cho tốt, đừng làm điều gì dại dột!”
Dụ Cáp Nhi lúc này cũng đã mềm lòng lắm rồi, nàng nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy bèn gật đầu đáp: “Vâng! Đỗ đại ca cứ yên tâm, muội đã suy nghĩ rồi, muội đã mất đi một vị đại ca rồi, giờ đây muội không thể để Đỗ đại ca của muội phải đau lòng thất vọng về muội thêm một phút giây nào nữa, muội sẽ nghe lời khuyên của huynh, người ta không làm gì mình thì mình cũng không làm gì người ta cả, huynh yên tâm, muội sẽ không tự mình đi kiếm chuyện với bọn chúng nữa, muội sẽ nhẫn nhịn bọn chúng!”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy Dụ Cáp Nhi nói vậy thì đưa mắt lên ngắm nhìn nàng thật lâu, không nói câu nào cả.
Xe ngựa của Dụ Cáp Nhi lại không vào trong Hoàng Cung nữa, mà thể theo ý của Đỗ Văn Hạo, Tiểu Tề liền quất xe đi về nhà của hắn, khi xe đến trước cổng nhà thì Lâm Thanh Đại đã đứng ở cổng đỡ hắn xuống, Đỗ Văn Hạo sau khi liêu xiêu bước xuống liền dõi mắt trông theo chiếc xe đã đi xa của Dụ Cáp Nhi.
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã ngà ngà say, sau khi đi vào trong đến sau cổng thì đột nhiên Ngô Thông vội vã chạy đến nói: “Tiên sinh! Hàn đại nhân đến chơi đó, ngài đợi tiên sinh đã nửa ngày rồi!”
“Hàn đại nhân?” Đỗ Văn Hạo dáng người vẫn xiêu vẹo bước tới, hai con mắt lờ đờ của hắn đưa mắt ra nhìn Lâm Thanh Đại ra vẻ không biết đó là ai cả.
“Ai da! Hàn đại nhân chính là đại tướng quân lần này tây chinh xuất quân đi đánh Thổ Phồn Hàn Tu đại nhân đó!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì chẳng khác nào tiếng sét đánh ngang tai của hắn, rượu trong người hắn cũng đã tỉnh hơn nửa phần, Hàn Tu là đường đường một tây chinh đại tướng quân, ngày trước cũng là người tham gia các việc quốc gia đại sự vô cùng quan trọng với Hoàng Thượng, cũng có vẻ ngang với chức “phó tể tướng” đương triều (Chức “phó tể tưởng” này ở thời đó đều xưng là Tể Chấp)! Chức này tương đương với chức phó tổng bí thư của nhà nước hiện nay (Một chức quan vô cùng to rồi đấy!) Quan phẩm lên đến chính nhị phẩm! Theo lẽ thường thì Đỗ Văn Hạo mới là người phải đến nhà ông ta mà bái kiến chứ, làm gì có chuyện để Hàn Tu một chức quan cao như vậy phải đến bái kiến hắn, hơn nữa lúc này Đỗ Văn Hạo lại có phần say rượu, nếu mà tiếp đãi Hàn Tu lúc này thì vô cùng thất lễ với người ta, nhưng chẳng lẽ lại cứ để người ta chờ mình tỉnh hẳn rượu rồi mới tiếp hay sao, như vậy lại càng không được.
Chẳng còn cách nào khác, Đỗ Văn Hạo được Lâm Thanh Đại dìu cho đỡ chân nọ đá chân kia bước vào trong phòng, khi đến phòng khách thì trông thấy trong đó lúc này đã có một người lớn tuổi, râu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn đang ngồi ở đó, ông ta dường như đang cúi đầu xuống không biết là đang suy nghĩ điều gì nữa!
Ngô Thông thấy vậy bèn nhanh nhảu chạy đến giới thiệu: “Hàn lão gia! Đây chính là thiếu gia của bọn tiểu nhân đó ạ!”
Đỗ Văn Hạo từ trước đến giờ chưa từng gặp Hàn Tu một lần nào cả, nên sau khi nghe Ngô Thông giới thiệu xong đang định cúi người thi lễ thì Hàn Tu tuy tuổi đã già nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhẹn cướp lấy tiên cơ chắp tay thi lễ với hắn trước: “Lão phu Hàn Tu bái kiến Đỗ Ngự Y!”
Đỗ Văn Hạo trông thấy ông ta có thái độ như vậy thì thất kinh, vội vã chắp tay cung kính đáp: “Hàn đại nhân! Đại nhân làm như vậy thì ti chức tổn thọ mất! Ti chức không dám! Ti chức không biết đại nhân đại giá đến đây, nên vẫn có hẹn uống rượu bên ngoài, giờ mới về đến nhà, thật là thất lễ với đại nhân quá, mong đại nhân thứ lỗi cho ti chức!”
Hàn Tu nghe vậy thì cười lên ha hả nói: “Vân Phàm huynh khách khí quá, lão phu sau khi biết mình được làm việc với Vân Phàm huynh thì lấy làm vinh hạnh vô cùng, do vậy mới mạo muội đích thân đến đây bái kiến!”
Người Trung Quốc ngày xưa khi đến tuổi trưởng thành thì đều phải lấy một cái tên tự, Đỗ Văn Hạo là người hiện đại xuyên thời gian bay về quá khứ nên hắn không có tên tự như người thời cổ, nhưng sau khi quen biết Lâm Tiệp Trữ thì được nàng đặt cho một tên tự là Vân Phàm, có nghĩa là: Dương cánh buồm lớn trên đại dương bao la rộng lớn! Sau đó hắn cũng đã đem tên tự của mình bẩm báo lên cho Bộ Lại biết, chính vì vậy mà cả triều đình trên dưới đều biết đến tên tự của hắn, người Trung Quốc khi xưa gọi tên tự với nhau là thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau, cũng là phép lịch sự trong khi giao tiếp, mà đã cùng làm quan trong triều đình, cùng là đồng liêu với nhau nên không có phân biệt tuổi tác, chính vì thế mà không được gọi là anh, em, chú, bác thậm chí đến cả hiền điệt hay lão đệ đều không được phép tùy tiện xưng hô, tất cả mọi người đều phải gọi tên tự của người đối thoại để thể hiện sự tôn trọng, cái này cũng giống với thời cách mạng, mọi người hay gọi nhau là “đồng chí”.
(Thực ra thì cách xưng hô “đại nhân” với nhau, thì đến thời nhà Thanh mới thực sự trở nên thịnh hành, đời nhà Tống dường như không có cách xưng hô này với nhau, cùng lắm thì chỉ gọi chức quan của đối phương mà thôi, cũng giống như nhà thư pháp vĩ đại nhất của Trung Quốc là Vương Hi Chi làm quan thời Đông Tấn lên đến chức Hữu Tướng Quân, chính vì thế mà mọi người hay gọi ông là Vương Tướng Quân, cách xưng hô này còn lưu giữ được đến thời hiện đại ngày nay. Đỗ Phủ từng làm quan đến chức Tả Thập Di, sau đó được mọi người gọi là Đỗ Thập Di, về sau ông lại nhậm chức Kim Hiệu Công Bộ Viên Ngoại Lang, mọi người lại gọi ông là Đỗ Công Lang. Tô Thức đời Tống thì từng làm chức Minh Điện Hàn Lâm Học Sĩ, nên mọi người gọi Tô Thức là Tô Học Sĩ. Nhưng vì để độc giả cảm thấy dễ hiểu hơn, ăn nhập câu truyện hơn nên dịch giả mới để đại từ nhân xưng là “đại nhân” cho tiện, mong các vị độc giả thông cảm, vì tiếng Việt chúng ta phiên dịch đại từ nhân xưng đòi hỏi vô cùng kín kẽ, không như tiếng trung chỉ cần “tôi”, “anh” là dùng hết được cho các ngôi nhân xưng trong truyện, nếu dịch giả cũng làm như vậy sẽ không phù hợp với tiếng Việt cũng như văn hóa Việt của mình.)
Hàn Tu tự là Tử Hoa, điều này thì Đỗ Văn Hạo cũng biết, từ khi Lâm Tiệp Trữ nói cho hắn biết việc quan trọng của tên tự trong xã hội đời Tống thì hắn rất chú ý đến nó, đặc biệt là người nào hay xưng tên tự với mình thì càng nên để ý, nếu mà đối phương biết tên tự của mình mà mình lại không biết tên tự của người ta, thì đúng là một chuyện vô cùng xấu hổ và mất mặt. Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo đã lên hẳn Bộ Lại của triều đình mà điều tra tên tự của các quan lại trong triều, nhất là nên ghi nhớ tên tự, ngoại hiệu của những nhân vật quan trọng trong triều, như vậy chỉ có lợi cho hắn mà thôi. Hàn Tu giờ đây cũng đã hơn sáu mươi tuổi rồi, tóc đã bạc trắng, ăn nói trịnh trọng, vậy nên Đỗ Văn Hạo lúc này cảm thấy xưng hô tên tự của ông ta là Tử Hoa mà cứ cảm thấy nghẹn giọng lại không thốt ra lời, vì thế nên hắn gọi luôn quan chức của ông ta ra cho nó nhẹ nhõm.
Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn chắp tay nói: “Hàn Tể Chấp quá khách khí rồi, Tể Chấp hôm nay đến đây chẳng khác nào rồng đến nhà tôm, ti chức lấy làm vinh hạnh vô cùng! Không biết hôm nay Tể Chấp đến đây có điều chi dậy bảo vậy?”
Hàn Tu nghe vậy bèn cúi người đáp: “Vân Phàm huynh khách khí quá rồi, nếu như Vân Phàm huynh không chê bai thì xin gọi lão phu là Tử Hoa được rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng rỡ, vội chắp tay nói: “Vâng! Tử Hoa huynh!”
Hàn Tu thấy vậy liền mỉm cười đứng dậy, sau đó cúi người một cái thật lâu: “Lão phu đợt này đến đây là là để đội ơn ân đức cất nhắc của Vân Phàm huynh!” Đỗ Văn Hạo nghe xong thì cả kinh, nhưng trông bộ dạng của Hàn Tu vẫn cứ đứng đó mà thi lễ, không thấy ông ta đứng dậy gì cả, bèn vội vã chạy đến đưa tay ra đỡ lấy nói: “Tể Chấp, à không! Tử Hoa huynh quá lời rồi! Văn Hạo làm sao có phúc có đức để làm ân nghĩa cho cho Tử Hoa huynh cơ chứ?”
Hàn Tu lúc này mới chịu đứng dậy, hai mắt của ông ta lúc này đã nhạt nhòa nói: “Vân Phàm huynh, cái chức Tể Chấp của ta cũng đã bị bãi chức được mười năm nay rồi, lão phu từ Chi Phủ cứ thế xuống dần xuống dần đến chức Chi Châu huyện, rồi đến Đại Danh Phủ, đến năm đầu của năm Nguyên Phong (Nguyên Phong là niên hiệu của Tống Thần Tông) thì là Chi Sự ở Định Châu, thật là đáng hổ thẹn vô cùng, nếu không có Vân Phàm huynh trước mặt Hoàng Thượng nói khéo cho lão phu, rồi cất nhắc lão phu lên, thì lão phu giờ đây chắc vẫn lọ mọ ở cái nơi không ai biết tới đấy cả, giờ đây lão phu lại có cơ hội lấy lại danh tiếng khi xưa rồi! Thật đa tạ Vân Phàm huynh vô cùng!”
Đỗ Văn Hạo giờ mới hiểu tại sao Hàn Tu lại thi lễ với mình như vậy, ông ta làm quan mười năm nay cũng gặp không ít vận đen đủi, từ một người làm chức phó tổng bí thư cả nước vậy mà sau đó bị giáng chức thị trưởng thành phố (đoạn này tác giả lấy luôn chức vụ của thời hiện đại ra nói cho độc giả dễ bề liên tưởng, chính vì thế nên dịch giả cũng dịch theo mạch của tác giả.) Đây cũng là một bước thụt lùi lớn trên con đường làm ăn chính trị của Hàn Tu. Nhưng mà hắn không biết mình đã làm gì đâu mà ông ta bảo tạ ơn mình đã cất nhắc ông ta nhỉ? Suy nghĩ một lúc hắn vẫn không hiểu, bèn đứng dậy mỉm cười nói: “Tử Hoa huynh có lẽ nhầm rồi, Văn Hạo đâu có tư cách mà đòi cất nhắc Tử Hoa huynh! Thật không dám nhận những lời tạ ơn của lão huynh!”
Chương 308: Tình này không thể nhạt phai
Thì ra sau khi Tống Thần Tông ủy nhiệm Hàn Tu làm Tây Chinh Đại Tướng Quân, lại bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo nhiệm chức Câu Quản Nhã Châu, trong mắt của Tống Thần Tông thì công việc cải cách của Đỗ Văn Hạo ở Nhã Châu quan trọng hơn rất nhiều việc Hàn Tu đi trừng phạt bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn, suy cho cùng thì đối phó với bộ lạc Thổ Phồn nhỏ bé chẳng là cái gì đối với Tống Thần Tông cả, điều mà Tống Thần Tông mong muốn đó chính là thành quả cải cách của Đỗ Văn Hạo đem lại hiệu quả ra sao, Tống Thần Tông đối với những nguy hại tích tụ trong lòng Đại Tống lúc này đã không thể ngồi yên được nữa rồi, còn những biến pháp của Vương An Thạch thì Đỗ Văn Hạo lại không chấp nhận, nhưng không cải cách không được, hiện nay Tống Thần Tông đem hết tất cả hy vọng của mình đặt lên đôi vai của Đỗ Văn Hạo, xem hắn cải cách vùng biên cương đó thu lại kết quả tốt hay không? Chính vì vậy mà Tống Thần Tông mới cho gọi Hàn Tu đến rồi cố ý tiết lộ nguyên do đề bạt ông ta lên chức Tây Chinh Đại Tướng Quân, cũng thêm mắm dặm muối vào bảo là do Đỗ Văn Hạo tiến cử bảo lãnh cho ông ta nhậm chức Đề Cử Thành Đô Phủ Thường Bình Ti.
Đề Cử Thành Đô Phủ Thường Bình Ti là người lãnh đạo cao nhất của Thành Đô Phủ, chuyên phụ trách toàn bộ các lộ phủ Thường Bình Thương, Đỗ Văn Hạo làm chức Câu Quản Nhã Châu thực chất cũng là thuộc hạ của ông ta, nhưng sau khi được Tống Thần Tông nhắc nhở, thì ngài thượng cấp Hàn Tu lại ngay lập tức chạy đến nhà của thuộc hạ của mình để bái kiến tạ ơn, ông ta cứ nghĩ rằng quan chức mà ông hiện giờ có được đều là nhờ công lao của Đỗ Văn Hạo đã tiến cử bảo lãnh cho ông ta trước mặt Hoàng Thượng mà thành.
Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên không thể biết được chuyện Tống Thân Tông nói như vậy với Hàn Tu, nhưng trong lúc trò chuyện, thì chỉ sau một hai câu thôi hắn cũng đoán ra được đại khái sự việc rồi, nên cũng hiểu được dụng ý của Tống Thần Tông dành cho mình. Một điều hiển nhiên cho thấy, Tống Thần Tông làm như vậy là tạo điều kiện môi trường thuận lợi nhất có thể cho hắn mặc sức biến pháp ở Nhã Châu. Tống Thần Tông biết Hàn Tu vốn là người cũ của Vương An Thạch, là một nguồn lực vô cùng đáng kể trong kế hoạch biến pháp của ông ta, nhưng sau khi Vương An Thạch bãi quan về quê thì Hàn Tu cũng bị cách chức đầy đi nơi khác làm quan. Chính vì vậy mà bây giờ Tống Thần Tông mới sắp xếp cho Hàn Tu phải mang ơn Đỗ Văn Hạo, như vậy thì ông ta mới toàn tâm toàn ý mà ủng hộ Đỗ Văn Hạo thực hiện cải cách biến pháp của hắn một cách thoải mái nhất, bởi vì khi Hàn Tu đã vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo rồi, thì dĩ nhiên sẽ không có ý muốn ra mặt cản trở hắn. Điểm này thì có lẽ Tống Thần Tông cũng đã nói rõ hoặc ám chỉ cho Hàn Tu hiểu rồi.
Quả nhiên, sau khi Hàn Tu lau xong nước mắt bèn đứng dậy nói: “Vân Phàm huynh, Thánh Thượng đã nói rồi, huynh sẽ thực hiện biến pháp cải cách tại Nhã Châu, và lão phu phải toàn tâm toàn ý ủng hộ và giúp đỡ huynh, lão phu biết lão phu sẽ phải là một hậu thuẫn vô cùng vững chắc cho huynh, bảo đảm cho các biến pháp có được sự ủng hộ và an toàn tuyệt đối, quyết không để ai được can thiệp vào cả!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì vô cùng mừng rỡ, hắn cũng đứng dậy ôm quyền đáp lại: “Nếu được như vậy thì thật đa tạ Tử Hoa huynh nhiều lắm!” Trong lòng của Đỗ Văn Hạo lúc này thì luôn miệng khen Tống Thần Tông quả là anh minh, tất cả những việc cần giải quyết đều nghĩ thay cho hắn hết cả rồi, nghĩ vậy hắn càng quyết tâm phải cải cách cho ra trò, không được để Hoàng Thượng phải thất vọng. Nghĩ rồi Đỗ Văn Hạo lại lên tiếng hỏi Hàn Tu: “Tử Hoa huynh đã chuẩn bị xong xuôi hết cả chưa? Chúng ta bao giờ xuất phát vậy?”
Hàn Tu đáp: “Hoàng Thượng nói rằng hai ngày sau chúng ta sẽ xuất phát, tình hình quân sự bây giờ vô cùng khẩn cấp, chúng ta phải đi ngày đi đêm để đến Thành Đô Phủ càng sớm càng tốt, Vân Phàm huynh còn đem theo gia quyến như vậy, thiết nghĩ cũng không cần phải theo luôn cả đại quân đi cùng một lúc đâu! Như vậy mọi người trong nhà của huynh sẽ vô cùng mệt mỏi! Dù sao thì đại quân đến trước cũng phải thu phục lại Nhã Châu trước cái đã, sau khi quét dọn sạch sẽ tàn binh ở đây, lão phu còn phải chỉnh đốn khôi phục lại trật tự của nơi này, đưa dân chạy nạn quay lại nhà của bọn họ đoàn viên, để hoàn tất việc này thì cần thời gian ít nhất là một tháng, do vậy đại nhân cứ từ từ đi theo sau cũng không sao, chỉ cần đến khi trật tự được lập lại tại Nhã Châu, đại nhân cũng kịp đến là được rồi, dù sao thì đến sớm cũng phải đợi mà!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy mỉm cười đáp: “Như vậy thì tốt quá rồi, nhưng mà Hoàng Thượng cũng đã hạ chỉ bảo ti chức đi theo quân đội rồi!”
“Chính vì vậy mà ngày mai khi chúng ta rời khỏi kinh thành lên đường đi Thành Đô sẽ phân ra làm hai hướng, ta sẽ đi trước còn Vân Phàm huynh đi sau. Hoàng Thượng đâu có bảo rằng chúng ta không được phép tách nhau ra mà đi đâu! Nếu đi như vậy thì gia quyến của Vân Phàm huynh cũng sẽ không vì đường xá xa xôi mà cảm thấy mệt mỏi gì nữa!”
“Ồ! Tử Hoa huynh suy nghĩ thật là chu đáo, đa tạ!”
Hàn Tu nghe vậy bèn vuốt vuốt bộ râu hoa râm của mình ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói tiếp: “Giờ đây cả nhà của Vân Phàm huynh đều tây tiến hết cả, cũng chẳng có thân binh tùy thân mà bảo vệ, đường đi đến Thành Đô cũng gập ghềnh trắc trở, cướp bóc thế nào thì không ai biết trước được điều gì cả, chuyện an toàn là điều vô cùng quan trọng, thế này vậy! Lão phu sẽ để lại năm ngàn quân cấm vệ lại đằng sau cho Vân Phàm huynh thống lĩnh, còn lão phu sẽ dẫn đại quân còn lại đi trước càn quét lũ giặc ở phía trước dọn đường sẵn cho Vân Phàm huynh!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn hỏi: “Như vậy có được không?”
“Không thành vấn đề! Nhân số của cả bộ lạc Tây Sơn của nước Thổ Phồn bao gồm tất cả già, trẻ, trai, gái cũng không đến năm vạn người, trai tráng trong bộ lạc tính ra nhiều nhất cũng chỉ tầm một hai vạn là cùng, hơn nữa bọn chúng cũng chỉ là một bọn ô hợp không phải là tinh binh gì cả. Ta thống lĩnh ba vạn năm ngàn quân còn lại đều có trang bị vũ khí tinh nhuệ, vì thế mà việc đối phó với bọn Tây Sơn này quá dư sức, bọn chúng so với đại quân này của ta chẳng khác nào lấy trứng chọi với đá cả, xin Vân Phàm huynh cứ an tâm! Chuyện bình định Nhã Châu chẳng qua là vấn đề thời gian, hơn nữa việc quân luôn luôn phải để lại một đạo quân dự bị ở phía sau, nếu không phải gặp lúc bất trắc cần dùng đến thì đạo quân đó cũng không cần phải tham chiến, chính vì vậy đạo quân mà Vân Phàm huynh thống lĩnh vừa có nhiệm vụ làm quân dự bị, vừa bảo vệ gia quyến cho huynh, sắp xếp như thế cũng là thỏa đáng!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng thầm trong lòng, nhưng ngoài miệng hắn vẫn nói thêm vài câu khiêm tốn, sau đó Hàn Tu lại ra sức khuyên can, cuối cùng Đỗ Văn Hạo làm ra vẻ miễn cưỡng chấp nhận, thế là bây giờ hắn đã có trong tay năm ngàn quân.
Sau khi tiễn Hàn Tu ra về, Đỗ Văn Hạo cảm thấy vui vẻ hơn bao giờ hết, hắn lại gọi Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, Lâm Thanh Đại đến, cả nhà mở một hội tiệc rượu vui mừng uống đến say mềm.
Sáng sớm tinh mơ ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đã thức dậy rồi, đây là ngày cuối cùng của hắn ở kinh thành, những người cần phải bái biệt thì hắn phải nhanh chóng hoàn tất trong hôm nay, người đầu tiên mà hắn phải nói lời tạm biệt dĩ nhiên chính là Thái Hoàng Thái Hậu rồi!
Sau khi chuẩn bị xong, Đỗ Văn Hạo liền lên kiệu đi vào trong cung hướng thẳng đến tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu mà tiến, hắn cứ mải mê vừa đi vừa suy nghĩ nên khi đến cổng tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu rồi cũng không để ý thấy Tiêu công công cũng đang đi tới.
Tiêu công công tay cầm phất trần, tà áo phất phơ bay trong gió, trông thấy Đỗ Văn Hạo cứ cắm đầu cắm cổ mà đi như đang suy nghĩ việc gì đó bèn tiến đến gần hắn, rồi nheo mắt cười chờ đợi hắn bước tới, đột nhiên kêu lên một tiếng: “Đỗ đại nhân đang suy nghĩ cái gì vậy?”
Tiếng hét đột ngột của Tiêu công công rất to, làm cho Đỗ Văn Hạo cũng phải giật mình bừng tỉnh, sau đó hắn ngẩng đầu lên thấy người vừa hỏi mình là Tiêu công công bèn mỉm cười bước tới nói: “Tiêu công công, công công đứng ở trước cổng cung làm gì vậy? Công công làm cho ta giật mình như vậy thật không hay chút nào cả, Ha ha ha!”
Tiêu công công cũng mỉm cười đáp lại: “Tại lão nô thấy đại nhân dường như đang có tâm sự gì đó nên mới lên tiếng hỏi đại nhân vậy thôi, đại nhân có việc gì khó xử cứ nói cho lão nô biết, có lẽ lão nô sẽ giúp được gì cho đại nhân chăng?”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nhoẻn miệng cười rồi đưa tay ra vỗ vỗ lên vai của Tiêu công công nói: “Tiêu công công thật là hiểu ta quá! Có lẽ Tiêu công công giúp được ta thật đó, nhưng e rằng vấn đề của ta lại làm công công mất thời gian thôi, hơn nữa việc này cũng không dám làm phiền công công, ta có thể tự mình giải quyết được. Hôm nay vào đây cũng là vì ta sắp phải rời xa kinh thành rồi muốn gặp Thái Hoàng Thái Hậu để nói lời từ biệt!”
Tiêu công công nghe vậy cũng gật đầu đồng ý, rồi ông ta lại đưa tay cúi người xuống nói tiếp: “Đỗ đại nhân giờ đây gặp nhiều chuyện vui nên trông thần thái cũng sáng ngời, sảng khoái hẳn lên! Đúng rồi! Lão nô vẫn chưa kịp đến để chúc mừng Đỗ đại nhân! Đỗ đại nhân cùng Hoàng Thượng đi vi hành khảo sát tình hình dân chúng, lại có một chuyến thăm quan phong cảnh hữu tình cùng với mỹ nhân của mình, chả trách khi về đã có tin vui rồi!” Tiêu công công nở một nụ cười đầy hàm ý.
“Ha ha ha! Đây có lẽ là hồng phúc của ta!” Đỗ Văn Hạo cười đáp.
“Mỹ nhân thì không chỉ dùng để nhìn mà thôi, nếu đã thích rồi thì hãy lấy người ta về làm thê thiếp, Đỗ đại nhân nên biết rằng mỹ nhân chỉ khi nào trở thành của mình rồi thì mới an toàn được!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đưa tay đẩn đẩn Tiêu công công một cái rồi cười lớn: “Tiêu công công! Thật không ngờ Tiêu công công đến cả đạo lý này cũng…Ha ha ha!”
Tiêu công công cũng cười lớn lên đáp: “Lão nô thì đúng là chỉ có thể ngắm được mà thôi! Ha ha ha!”
Hai người cùng mỉm cười vui vẻ bước vào trong tẩm cung, Đỗ Văn Hạo lúc này bỗng nhiên ngửi thấy một mùi vô cùng khó ngửi thì biết ngay rằng Thái Hoàng Thái Hậu đang chuẩn bị bón phân cho vườn hoa của mình.
Tiêu công công thấy vậy bèn tiến lên phía trước thấp giọng nói: “Thái Hoàng Thái Hậu lại sắp sửa mở thêm một vườn trồng rau bên cạnh vườn hoa mới nữa, hiện giờ Thái Hoàng Thái Hậu đang rất vui vẻ, nên đã trồng một số loại rau theo mùa, hôm qua mới bón phân cho bọn chúng, chính vì vậy mà bây giờ Đỗ đại nhân mới ngửi thấy một mùi khó chịu như vậy đấy!”
“Ồ, thảo nào! Thái Hoàng Thái Hậu không ngờ vẫn còn chăm chỉ cần cù đến như vậy, ăn rau của chính mình trồng hẳn sẽ ngon hơn bình thường rất nhiều!”
“Đúng vậy đó! Thái Hoàng Thái Hậu cũng nói như vậy, đi thôi! Lúc này mà chúng ta trực tiếp đến vườn rau thì chắc Thái Hoàng Thái Hậu cũng vẫn đang ngồi trong đó cũng nên!” Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn gật đầu, bước chân nối gót đi theo sau Tiêu công công đến một mảnh đất khá rộng nằm ngay bên cạnh hoa viên của Thái Hoàng Thái Hậu, nơi này đang đang phủ lên mình một màu xanh ngọc biêng biếc, những khóm rau đang mọc lên rất bắt mắt, nhưng mùi thì lại có phần hơi bị nặng, có lẽ do mới bón phân nên mùi mới nồng lên như vậy.
Đỗ Văn Hạo dõi mắt nhìn quanh thì trông thấy Thái Hoàng Thái Hậu bận một bộ đồ ngắn, ống quần vắn lên đến tận đầu gối, đầu đội một chiếc nón lá viền xanh, tay cầm một chiếc cuốc nhỏ, chiếc cuốc này so với những chiếc cuốc thông thường của nông dân thì nó nhỏ gọn, tinh xảo hơn rất nhiều. Thái Hoàng Thái Hậu vẫn mải mê cặm cụi vừa cuốc vừa nói điều gì đó với bọn thái giám và cung nữ đang đứng ở bên cạnh đó, tất cả bọn chúng đều đứng thẳng người không ai dám bịt mũi lại cả, lại còn không ngừng gật đầu nghe lời dặn dò, dạy bảo của Thái Hoàng Thái Hậu nữa chứ.
“Bẩm Thái Hoàng Thái Hậu! Đỗ đại nhân đến rồi ạ!” Tiêu công công vội vã tiến lên phía trước lên tiếng nói.
Đỗ Văn Hạo cũng vội vã nối gót theo Tiêu công công bước đến cúi người thi lễ.
Thái Hoàng Thái Hậu nghe thấy tiếng của Tiêu công công bèn ngẩng đầu lên nhìn, quả nhiên trông thấy Đỗ Văn Hạo đang cúi người thi lễ với mình, bèn đưa tay lên vẫy vẫy ra hiệu cho hắn đi lại chỗ của mình. Đỗ Văn Hạo trông thấy bèn vén áo bước qua con mương rồi tiến đến bên Thái Hoàng Thái Hậu.
Thái Hoàng Thái Hậu cười híp mắt lại nhìn Đỗ Văn Hạo một cái rồi nói: “Đến đây để nhìn lão tổ tông (Thái Hoàng Thái Hậu giờ đây thi thoảng cũng hay tự xưng với Đỗ Văn Hạo và mấy người khác là lão tổ tông, vì như vậy sẽ tạo cảm giác thân thiện hơn) lần cuối?”
Đỗ Văn Hạo cũng vội vã tiến đến đáp: “Sao lão tổ tông lại nói như vậy? Trông sức khỏe của người vẫn còn tốt lắm, nhất định sẽ sống đến muôn tuổi! ”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì bật cười sảng khoái nói: “Ta sống lâu như vậy thì ăn hết của cả con cháu à! Ngươi vẫn còn nhớ đến chuyện từ biệt ta trước khi lên đường như vậy, Ai Gia cảm thấy vô cùng vui mừng, ngươi đã chuẩn bị xong hết cả chưa? Ngươi cần gì cứ nói, đừng có đến lúc đi rồi mới lại cảm thấy hối hận! Ha ha ha!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng mỉm cười tán đồng, lúc này hắn trông thấy trên trán của Thái Hoàng Thái Hậu lấm tấm mồ hôi bèn ra ý bảo cho đứa thái giám đứng gần đó cầm lấy cái khăn đến đưa cho hắn, rồi tự mình cung kính dâng lên cho Thái Hoàng Thái Hậu.
Nhưng không ngờ Thái Hoàng Thái Hậu cũng chẳng buồn tiếp lấy khăn trên tay của hắn, mà mỉm cười đưa trán ra trước mặt của Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi lau hộ Ai Gia được không? Tay của ta đang bẩn lắm!”
Đỗ Văn Hạo sửng sốt chẳng biết nên xử lý ra sao cả, Tiêu công công đứng bên cạnh thấy vậy bèn vội vã lấy ngón tay của mình ra chọc chọc vào lưng của Đỗ Văn Hạo, lúc này hắn mới sực tỉnh là mình lên làm gì. Đỗ Văn Hạo sau khi hiểu ý bèn cẩn thận đưa khăn lên lau những giọt mồ hôi trên trán của Thái Hoàng Thái Hậu.
Đỗ Văn Hạo sau khi lau xong bèn đưa khăn lại cho viên thái giám đứng bên cạnh, rồi dìu đỡ Thái Hoàng Thái Hậu: “Lão tổ tông! Lão tổ tông phải nhớ hai mùa xuân, thu phải uống thuốc mà vi thần đã chuẩn bị sẵn cho lão tổ tông đấy! Lão tổ tông cũng đừng bỏ dở giữa chừng không uống, như vậy không có lợi cho sức khỏe của người chút nào cả!”
“Ngươi cái gì cũng tốt! Chỉ mỗi tội là lắm điều quá!” Thái Hoàng Thái Hậu làm bộ ra vẻ nghiêm nghị quở trách Đỗ Văn Hạo.
Tiêu công công đứng bên cạnh bèn mỉm cười chen vào: “Lão tổ tông! Lão tổ tông cứ chê Đỗ đại nhân lắm chuyện, giờ thì Đỗ đại nhân sắp phải đi xa rồi, đến lúc đó muốn nghe đại nhân lắm chuyện cũng khó rồi!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy bèn phì cười, rồi ra ý bảo mọi người tìm một chỗ thoáng mát ngồi nói chuyện tiếp.
Mấy người sau khi đi đến một cái đình thoáng mát tránh nắng bèn ngồi xuống, mấy đứa cung nữ bèn vội vã đi lấy nước pha trà, Thái Hoàng Thái Hậu nói: “Nói thật ra là trong cái Thái Y Viện này có hàng trăm Thái Y nhưng ta lại chỉ tin mỗi mình ngươi thôi, ngươi bây giờ đi rồi thì Ai Gia tìm ai mà xem bệnh cho Ai Gia bây giờ?”
Đỗ Văn Hạo sau khi rót cho Thái Hoàng Thái Hậu một tách trà xong bèn nói: “Sức khỏe của lão tổ tông vẫn còn mạnh khỏe lắm, thường ngày lão tổ tông cũng nên chú ý đừng để bị nhiễm lạnh, cũng chú ý không ăn uống lung tung là được, nếu giữ được như vậy thì lão tổ tông chẳng cần khám bệnh nữa đâu! Nếu có lúc nào đó cảm thấy nhớ vi thần thì viết cho vi thần một bức thư, vi thần nhận được sẽ không quản ngày đêm để kịp về đây thăm lão tổ tông!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong thì thở dài một cái, rồi nắm chặt lấy tay của Đỗ Văn Hạo, nhìn hắn với con mắt trìu mến tràn đầy tình thương nói: “Đợt đi này đường xá xa xôi, ngươi lại còn đem theo gia quyến nữa, ngươi cũng mệt lắm. Ở đó ngươi cũng không có kinh nghiệm làm quan, phàm chuyện gì ngươi cũng nên cẩn thận xử lý, Hoàng Thượng xem trọng ngươi, để ngươi đi đến một nơi quan trọng như Nhã Châu nhậm chức, Ai Gia cũng không thể nào vì yêu mến ngươi mà không buông tha cho ngươi đi được, ngươi đến đó trăm sự đều phải hết sức cẩn thận!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy cảm kích tột độ, bà lão trước mặt hắn giờ đây tóc đã bắt đầu bạc dần, hắn có cảm giác bà lão này không còn là một người bình thường nữa, trong mắt hắn bây giờ vị trí của Thái Hoàng Thái Hậu không còn là một người cao cao tại thượng mà là một người thân thiết nhân từ, Hoàng Thượng trước mặt bà lão còn phải nể sợ, cung kính ba phần, nhưng trước mặt hắn Thái Hoàng Thái Hậu lại cho hắn một cảm giác bà là một bà lão nhân từ, hiền hậu, một người đáng kính, đáng nể. Thái Hoàng Thái Hậu không nỡ rời xa hắn là sự thật, bởi hắn cũng không nỡ rời xa Thái Hoàng Thái Hậu: “Lão tổ tông cứ an tâm! Vi thần mỗi năm sẽ về thăm người một lần, nhân tiện đem những giống hoa lạ ở Tứ Xuyên về cho lão tổ tông gieo trồng!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong liền vỗ lên lưng của Đỗ Văn Hạo bồm bộp nói: “Được! Ngươi đi đi, ngươi vẫn còn phải đi từ biệt Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu nữa! Ai Gia không níu kéo ngươi thêm nữa! Ngươi đi đi!”
Thái Hoàng Thái Hậu nói xong bèn quay đầu đi chỗ khác, không muốn nhìn Đỗ Văn Hạo thêm nữa.
Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy sống mũi của mình cay cay, giọng nói của hắn cũng đột nhiên run run, hắn lúc này cũng không muốn đứng dậy ra về, hắn không ngờ giờ phút chia tay lại cảm động như vậy. Một lúc sau, Đỗ Văn Hạo lấy hết can đảm đứng hẳn người dậy, rồi cúi người thi lễ một cái thật sâu rồi cung kính nói: “Văn Hạo xin cáo từ lão tổ tông! Lão tổ tông nên giữ gìn sức khỏe cho thật tốt!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn quay người bước ra khỏi đình.
“Đỗ Ngự Y, xin dừng bước!”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy Tiêu công công gọi mình bèn dừng chân đứng lại, rồi lén đưa tay lên lau đi những giọt nước mắt vẫn còn đọng nơi khóe mắt của mình.
Tiêu công công lúc này cũng đã nhanh chân chạy đến bên hắn đưa cho hắn một cái bọc nói: “Đây là lão tổ tông bảo lão nô đưa cho Đỗ đại nhân! Lão tổ tông lúc nãy xúc động quá, không dám níu kéo Đỗ đại nhân ở lại thêm chút nữa, mong Đỗ đại nhân đừng để bụng!”
“Công công nói gì lạ vậy? Ta làm sao để bụng được! Trong lòng ta lúc này cũng cảm thấy buồn lắm!”
Tiêu công công nghe vậy bèn thở dài một cái sau đó dúi vào tay Đỗ Văn Hạo quà của Thái Hoàng Thái Hậu rồi quay người bỏ đi.
Đỗ Văn Hạo sau khi ra khỏi tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu mới mở cái bọc ra xem, thì thấy bên trong đó có hai chiếc vòng tay làm bằng vàng, một chiếc bên trên trạm trổ một con rồng, còn chiếc kia thì khắc hình một con phượng, kỹ nghệ điêu khắc vô cùng tinh xảo, chỉ đưa mắt nhìn cũng biết ngay đây là một vật vô cùng quý hiếm, do một nghệ nhân danh tiếng làm ra.
Bên dưới hai chiếc vòng tay còn có một mảnh giấy nhỏ, trên đó có ghi vài dòng chữ nhỏ: “Chiếc vòng này vốn là vật hồi môn khi Ai Gia mới xuất giá lấy chồng, Ai Gia yêu quý nó vô cùng, hôm nay đem nó tặng cho ngươi, Đỗ Văn Hạo!”
Đỗ Văn Hạo trông thấy thì hai mắt của hắn bỗng chốc mờ đi, hai hàng nước mắt cứ thế chảy dài xuống, hắn liền quay người lại hướng về tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu mà lạy một cái thật lâu.
Hoàng Thái Hậu lúc này dường như cũng đoán được Đỗ Văn Hạo đã sắp đến tẩm cung của mình rồi, cũng gần như đã chuẩn bị xong mọi thứ, những hòm to nhỏ được xếp đầy ở giữa phòng khách, Trường Công Chúa ngồi bên cạnh Hoàng Thái Hậu, hôm nay nàng không mặc bộ đồ ngắn gọn như mọi khi nữa, nàng giờ đây bận một chiếc váy dài màu lam, cổ và ống tay được nhuộm một màu xanh ngọc biếc như làn nước mùa thu, nếu để ý kỹ sẽ trông thấy trên đó còn thêu những vệt mây nhàn nhạt, bên ngoài Trường Công Chúa khoác trên mình một chiếc khăn mỏng màu trắng như tuyết, tóc nàng bồng bềnh sóng lượn, cho dù có rất nhiều trân chu trang sức, nhưng nàng chỉ cắm một bông hoa trắng cài lên trên mái của mình, phía trên búi tóc cài một chiếc trâm óng ánh. Thần sắc của Trường Công Chúa thất thần, đầu cúi xuống bàn tay nàng quấn chặt chiếc khăn lại, lặng thinh không nói lời nào cả.
“Văn Hạo! Ai Gia cũng không có gì để tặng cho ngươi được cả, đây có lẽ chỉ là những thứ dùng để đi đường cần dùng đến mà thôi, ngươi đến Tứ Xuyên tất cả mọi việc đều phải tự mình lo liệu hết, chính vì vậy mà bổn cung đã cho người lo liệu thay cho ngươi sẵn hết đây rồi, tuy là nó không đáng giá, nhưng cũng là một chút tấm lòng của Ai Gia!”
Đỗ Văn Hạo vốn trước khi đến đây tâm trạng cũng đã buồn thối ruột ra rồi, mọi người đều đối đãi với hắn quá ư là tốt, làm cho hắn không biết làm thế nào để đáp trả cả. Lúc này Đỗ Văn Hạo ngoài sự cảm kích ra cũng chỉ biết cảm kích mà thôi, tất cả mọi người đối với hắn không bao giờ ra dáng là một kẻ bề trên đối với kẻ dưới cả, ai cũng vô cùng chân thật, dùng những lời lẽ mộc mạc, những hành động chân thành nhất đối đãi với hắn, nhưng cũng chính vì như vậy mà lòng của hắn càng lúc càng trở nên nặng trĩu, thịnh tình của mọi người đối với hắn quả là quá lớn: “Hoàng Thái Hậu lo liệu cho vi thần chu đáo như vậy, vi thần cảm kích vô cùng, vi thần không biết ăn nói, không biết dùng lời lẽ nào để biểu đạt tâm trạng cảm kích của vi thần lúc này nữa!”
Hoàng Thái Hậu nghe vậy cũng mỉm cười nói: “Không cần ngươi phải nói cảm ơn gì cả, Ai Gia biết ngươi sắp lên đường đến Tứ Xuyên, do vậy cũng cảm thấy rất buồn, hôm qua ở tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu cũng khóc lóc ghê lắm!”
Đỗ Văn Hạo không biết xử lý ra sao, bởi hắn cũng buồn lắm, chỉ biết gật gật đầu, Trường Công Chúa ngồi bên cạnh cũng sụt sùi, hai mắt buồn buồn, nàng tiến đến bên Đỗ Văn Hạo lấy trong người ra một gói cẩm hương đưa cho hắn nói: “Ngươi biết không? Ta không phải là người biết nữ công, nhưng sau khi hay tin ngươi sắp đi Tứ Xuyên Thành Đô bèn đến chỗ mẫu thân bảo mẫu thân dạy cho ta thêu thùa, cái gói cẩm hương này là do chính tay ta làm ra, trong đó có đựng những thứ cỏ cây, hương liệu mà ta hàng ngày đi hái, sau bao ngày tích tụ mà thêu thành đó! Ngươi đừng cười tay nghề của ta nhé! Ngươi nhận lấy làm kỷ niệm!” Trường Công Chúa nói xong cũng không đợi cho Đỗ Văn Hạo đưa tay tiếp lấy thì dí luôn vào trong người của hắn, rồi quay người nhanh chân bước ra ngoài.
Đỗ Văn Hạo ngây người ra, Trường Công Chúa tặng gì không tặng, lại tặng mình một vật như thế này, vật này thì thường là do những người yêu thương nhau mới tặng nhau thôi, bình thường ai tặng cơ chứ!
Nhưng Đỗ Văn Hạo không dám nghĩ bậy bạ lung tung thêm phút giây nào nữa, nói thật là hắn chẳng biết nên giải quyết việc này ra sao nữa, Hoàng Thái Hậu trông thấy tâm trạng thất thần của hắn bèn nói: “Nó cũng không biết tặng ngươi vật gì cho phải cả, đây đúng là vật đầu tiên nó tự tay làm! Ngươi cứ nhận lấy làm kỷ niệm, đừng phụ tấm lòng tốt của nó!”
“Đa tạ Hoàng Thái Hậu và Trường Công Chúa đã ban tặng lễ vật! Vi thần nhất định sẽ lưu giữ nó vô cùng cẩn thận!” Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn cẩn thận đút chiếc bọc cẩm hương vào trong tay áo của mình.
“Hoàng Thái Hậu! Bây giờ người tuyệt đối phải kiêng lạnh, bởi vì thân thể của người không được phép tiếp xúc với nước lạnh nữa, bất kể thời tiết là mùa hè hay mùa đông đi chăng nữa, nhất quyết không được tắm nước lạnh nữa!” Đỗ Văn Hạo lại cố gắng dặn dò những lời cuối cùng của hắn cho Hoàng Thái Hậu hay.
Hoàng Thái Hậu nghe xong thì mỉm cười gật đầu đồng ý: “Ai Gia biết rồi, ngươi cứ yên tâm, lúc nãy có người của Hoàng Hậu có đến dặn dò một câu rằng, nhất định phải mời bằng được ngươi đến đó ăn cơm, nơi đó giờ đây cũng đã bày biện đầy đủ tiệc rượu hết rồi, Ai Gia thấy thời gian cũng không sớm nữa, ngươi mau mau đi ngay đi kẻo muộn!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn vội vã đứng dậy cúi người thi lễ cáo từ, Hoàng Thái Hậu cũng đứng dậy đi đến trước mặt của Đỗ Văn Hạo dặn dò hắn như một người mẹ hiền dặn dò con trai mình sắp lên đường đi xa: “Mùa này nghe nói mưa gió rất nhiều, ngươi đem theo gia quyến lên đường cẩn thận đừng để mệt mỏi quá mà lại bệnh ra. Chỉ là lên đường nhậm chức thôi! Ngươi cũng không nên vội vã mà làm gì, an toàn là trên hết, khi đến nơi rồi thì nhớ viết thư cho ta và Thái Hoàng Thái Hậu biết là ngươi đã đến nơi rồi, đừng để mọi người ngóng chờ tin tức của ngươi nhé!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong nhất thời nấc nghẹn không nói thêm được câu nào nữa, hắn xúc động đến cực điểm, chỉ biết gật gật đầu như sắp khóc đến nơi vậy.
Sau khi đi khỏi tẩm cung của Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo thấy trên dậu tường của hoàng cung liễu xanh, hoa đỏ phủ đầy hai bên, nhưng trong lòng hắn lúc này lại cảm thấy vô cùng thê lương, một nỗi buồn khó tả như thể ăn sâu vào tận sâu thẳm đáy lòng hắn, hắn cúi đầu xuống lẩm nhẩm hát bài hát nhạc trẻ mà hắn thường hay hát để xua tan nỗi đau khổ đang gặm nhấm trái tim hắn lúc này!
“Anh Bạn! hôm nay cũng là ngày anh sắp phải đi xa rồi, cạn chén rượu này, quên đi nỗi buồn của cuộc lữ hành cô độc nơi chân trời, say đến sập trời, lở đất mới thôi!” (Lời bài hát trẻ mà Đỗ Văn Hạo rất hay hát ở thời hiện tại.)
Đúng vậy, tại Long Hữu Cung lúc này, Đỗ Văn Hạo đang nâng cốc để giải sầu, ngoại trừ Hoàng Hậu ra, Chu Đức Phi nương nương cùng Dụ Cáp Nhi cũng đến đây chia tay với hắn, trong bữa ăn, tâm tình của tất cả mọi người đều rất không tốt, sau khi đóng cửa cung lại, anh một cốc tôi một chén, chén tạc chén thù được một lúc lâu thì mấy hũ rượu lâu năm cũng đã cạn gần hết.
“Đỗ, Đỗ đại ca! Ha ha! Hôm nay chúng ta phải uống cho thật thoải mái mới được, lúc này đây nên có người làm thơ mới phải, có rượu có thơ nó mới toàn vẹn!” Dụ Cáp Nhi nói líu cả lưỡi lại, giọng nói của nàng như vừa cười vừa khóc vậy, điệu bộ trông vô cùng buồn bã, thương tâm.
“Dụ Cáp Nhi nói rất đúng! Chu Đức Phi làm một bài đi, ta có chút say rồi, chẳng biết làm thơ như thế nào nữa rồi!” Hoàng Hậu ngà ngà người nói, trong đám cung nữ, phi tần nơi hậu cung thì nàng là người có tửu lượng cao nhất.
Chu Đức Phi nghe vậy bèn gật đầu đồng ý, rồi chiếc châm cài đầu của nàng cũng lắc lư lấp lánh theo đầu của nàng: “Được! Ta sẽ làm một bài, Văn Hạo cũng nên làm một bài! Coi như là tặng bọn ta trước lúc đi xa!”
Hoàng Hậu và Dụ Cáp Nhi đều phụ họa thêm vào, ai cũng khen ý kiến của Chu Đức Phi là rất hay.
Chu Đức Phi suy nghĩ một lúc rồi lên tiếng ngâm: “Tương cự tại tâm bất tại duyên, ly sầu biệt hận trang hoan nhan. Hồng tô tế thủ châm mãn tửu, lục liễu nhu điều bả xuân bàn. Tôn tiền nhãn lệ già bất trụ, tửu hậu mông lung hiểu phong tàn. Điêu an vô tâm sơn thủy sắc, tiệm giác lục nguyệt dạ thâm hàn. (Tạm dịch: Xa cách do tâm không do phận, ly sầu biệt hận vờ làm vui. Tay hồng nhỏ nhẹ rượu tràn ly, liễu xanh bóng xuân trời vương vấn. Rượu đầy khó che đôi dòng lệ, gió tàn lóng lánh ánh nguyệt mờ. Yên ngựa vô tâm non với nước, tháng sáu mà lạnh cõi lòng thương!)”
Duyên phận như cơn gió, đến cũng là duyên, đi cũng là duyên, không đến không đi cũng là duyên.
Bài thơ này Chu Đức Phi làm hay quá, mọi người đều chìm đắm trong từng từ từng chữ của bài thơ, chỉ là bài thơ này quá đỗi buồn, ít ra là đối với tâm trạng của mọi người lúc này.
“Đỗ đại ca! Đại ca cũng làm một bài đi!” Dụ Cáp Nhi nói chen vào.
“Ta làm gì biết làm thơ với thẩn cơ chứ! Rượu vào rồi thì càng không biết làm nữa!” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng từ chối.
Hoàng Hậu nghe vậy cũng thở dài nói: “Đỗ đại nhân nói đúng! Nếu như không biết làm thì thôi, nhưng ngươi cũng nên đọc một bài để mọi người làm kỷ niệm, để lần sau ngươi quay về đây còn có cái để nói chứ!”
Chu Đức Phi ngồi bên cạnh cũng nói chen vào: “Ừm! Đọc một bài đi, bài gì cũng được chỉ cần không làm cho mọi người cụt hứng là được rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn cúi đầu xuống trầm ngâm một lúc, hắn đột nhiên nhớ ra bài《Thái Tang Tử》của Na Lan Dung Nhược (Một nhà thơ nổi tiếng người nhà Thanh Trung Quốc), bèn ngâm lên: “Thâm thu tuyệt tái thùy tương ức, mục diệp tiêu tiêu. Hương lộ điều điều, lục khúc bình sơn hòa mộng diêu. Giai thì bội tích phong quang biệt, bất vi đăng cao. Chỉ giác tiêu hồn, nam nhạn quy thì canh tịch liêu” (Tạm dịch: Đêm thu biên giới thầm thương nhớ, gió cây xào xạc thổi từng cơn. Đường về quê hương còn xa lắm, quanh co vòng núi mộng phiêu diêu. Xa rồi mới biết tình nồng ấm, không phải cô thân nơi xứ người. Tiêu hồn lạc phách mộng quanh quanh, lạc lõng nhạn bay hướng trời nam.)
Khi Đỗ Văn Hạo ngâm xong bài thơ này thì mọi người bắt đầu khóc lên rấm rứt.
Đỗ Văn Hạo sau khi rời khỏi tẩm cung của Hoàng Hậu thì cũng có phần say, miệng hắn lúc này vẫn còn thơm mùi rượu, hắn suy nghĩ rất nhiều, cảm ngộ cũng rất nhiều. Nhưng hắn chưa từng thổ lộ ra ngoài, cái cảm giác nói không ra câu, thốt không nên lời này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy vô cùng ức chế, hắn bèn phẫn uất ngửa mặt lên trời mà thét to lên một tiếng, sau đó lại thở dài lên một tiếng não nề, thất vọng.
Lúc này đột nhiên hắn nhớ đến người thiếp Liên Nhi bé bỏng của hắn, giờ này nàng vẫn ở trong lãnh cung chăm sóc Trần Mỹ Nhân, Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên muốn gặp mặt nàng vô cùng.
Cho dù Liên Nhi vốn là do Trần Mỹ Nhân ban thưởng cho hắn, ép hắn thành thân với nàng, hắn cũng không có tình cảm sâu nặng gì nhiều lắm với Liên Nhi cả, nhưng nói cho cùng nàng cũng là người con gái đã từng đầu ấp vai kề với hắn, trước lúc đi xa gặp nàng lần cuối âu cũng là lẽ đương nhiên.
Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn liêu xiêu bước đến Lãnh Cung.
Lãnh Cung lúc này có lẽ còn không bằng được căn nhà dân dã của một người dân thông thường nữa, bên trong lạnh lẽo, phòng ốc cũ nát tồi tàn, trên nóc nhà giăng đầy mạng nhện đan xen chằng chịt, cánh cổng của Lãnh Cung hờ khép, trước cổng có một chiếc chổi dựng ở đó, mặt sân rơi đầy lá khô, xem ra cũng khá lâu rồi không có người đến quét dọn.
Người gác cổng Lãnh Cung thì dĩ nhiên đã biết Đỗ Văn Hạo, nên khi trông thấy hắn đi đến thì vội vã chạy lên phía trước thi lễ với hắn, rồi nhanh chóng mở cổng Lãnh Cung mời hắn bước vào, thậm chí đến cả câu hỏi tại sao hắn đến đây cũng không thốt ra lấy nửa lời.
Khi Đỗ Văn Hạo bước vào trong viện thì phát hiện ra bên trong không có lấy một bóng người, gió đông chốc chốc lại thổi lên cuốn bay những đám lá khô rơi trên chiếc bàn đá nằm ở ngoài sân, trong vườn lúc này chỉ còn duy nhất một cái cây vô danh đang nở rộ hoa, cũng may là hoa của nó mang một màu đỏ rực làm sáng cả một góc vườn đung đưa trước gió trông tươi sáng vô cùng. Đột nhiên một tiếng “rắc!” khô khốc vang lên, Đỗ Văn Hạo đưa mắt lên nhìn, thì trông thấy một cành cây của cây Hạch Đào bị gió thổi gãy rơi xuống ngay dưới chân của hắn, trên đó vẫn còn vương hai quả Hạch Đào còn non mọc trên đó.
“Trần Bà!” Đỗ Văn Hạo đứng ở trong vườn cao giọng gọi, khi tiếng gọi của hắn vừa dứt thì cửa phòng chợt hé mở.
Từ trong đó, một bà lão có bộ tóc bạc trắng bước ra, hai mắt nheo lại đứng ở ngay cổng ngóng nhìn, sau khi trông thấy Đỗ Văn Hạo thì lập tức nở ra một nụ cười hạnh phúc, chạy xuống bậc cầu thang, rồi cúi người nói: “Lão nô nói rằng ngoại trừ Đỗ đại nhân thì còn ai còn nhớ đến mấy người lão nô ở đây nữa, Đỗ đại nhân mau mau vào đây!”
Đỗ Văn Hạo trông thấy Trần Bà khắc khổ như vậy bất giác động lòng trắc ẩn, một thời gian không gặp bà ta mà trông bà ta đã già hẳn đi, tóc đã bạc đi nhiều trông thấy.
Hai người bước vào trong phòng, thấy căn phòng cũng được dọn dẹp khá là sạch sẽ, nhưng đồ vật bên trong có phần tồi tàn đôi chút, trông rất giống với cách bố trí của những người dân thông thường, một chiếc giường, một chiếc bàn, hai chiếc ghế, còn lại chẳng còn vật nào khác nữa cả.
Đỗ Văn Hạo đưa mắt ra bốn phía ngóng nhìn, nhưng cũng không phát hiện ra có một người nào khác nữa cả, thấy vậy tim của hắn bỗng nhiên nặng trĩu xuống: “Nương nương của ngươi đâu?”
Trần Bà thấy gương mặt của Đỗ Văn Hạo như vậy bèn vội vã đáp: “Đại nhân nhìn lên trên kia kìa!”
Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu lên nhìn thì trông thấy một nữ tử đầu tóc lòa xòa đang ngồi trên xà nhà, tim hắn bỗng nhiên thắt lại, nhớ khi xưa nàng đẹp đẽ tuyệt trần, giờ đây ác quỷ hung thần chẳng sai. Trần Mỹ Nhân trông bây giờ thật tội nghiệp.
Chương 309: Không muốn sống cuộc đời thừa như vậy!
“Thật là ngại quá! Bọn ta cứ tưởng có ai đến, nên vội vã leo lên trên này, Đỗ đại nhân chờ ta một chút nhé, ta sẽ xuống ngay đây!” Nói xong Trần Mỹ Nhân bèn ôm lấy cái cọc từ từ tuột xuống phía dưới, Trần Bà thấy vậy bèn vội vã chạy đến đỡ lấy nàng.
“Đỗ đại nhân! Hôm nay sao rảnh rỗi đến thăm ta vậy, hay là đại nhân nhớ Liên Nhi rồi hả?” Giọng nói của Trần Mỹ Nhân có vẻ yếu ớt, mệt mỏi, một tay không ngừng day day hai huyệt thái dương của mình.
Đỗ Văn Hạo trông thấy một bên mắt của Trần Mỹ Nhân đã không còn nữa, mặt mày xanh mét, đôi môi trắng bệch, thì vội hỏi: “Nương nương lại cảm thấy trong người không được khỏe hay sao?”
Trần Mỹ Nhân đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo, ngồi xuống nở một nụ cười đau khổ, sau đó nàng đưa tay ra hiệu bảo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống chiếc ghế đặt bên cạnh mình, Trần Bà thấy vậy bèn vội vã chạy đi pha ấm trà đem lại.
“Liên Nhi cho đến lúc nãy vẫn chưa biết là ta đang giả điên, ngày đêm phục vụ ta không rời nửa bước, ta thật hối hận khi ngày trước đối xử với nó một cách tệ hại như vậy, nếu sớm biết được thế này ta chẳng bao giờ đối xử với nó tệ như thế cả, khụ khụ khụ! Còn về phần ta, cái thân tàn ma dại này coi như cũng bỏ đi rồi, cứ sống một cuộc đời thừa như vậy, đến lúc nào đó ta từ giã cõi đời này coi như cũng là một sự giải thoát cho ta rồi.”
“Xin nương nương đừng bi quan như vậy! Mọi việc rồi cũng sẽ qua thôi!” Đỗ Văn Hạo lên tiếng an ủi.
“Qua thế nào được! Ta sắp chết đến nơi rồi, đây này!” Trần Mỹ Nhân đau khổ lấy đầu của mình đập nhẹ vào thành giường, mồ hôi trên trán vã ra lấm tấm, Trần Mỹ Nhân thở gấp một hồi, sắc mặt vô cùng khổ sở đáng thương.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đứng dậy đi ra góc tường lấy chiếc ghế trúc đặt xuống trước mặt Trần Mỹ Nhân rồi ngồi xuống nói: “Nương nương bệnh rồi! Để ta xem xem bệnh tình của nương nương ra sao cái đã!”
Trần Mỹ Nhân nghe vậy bèn đưa tay ra cho Đỗ Văn Hạo bắt mạch, tay của Trần Mỹ Nhân lúc này lạnh toát, mạch trầm đứt đoạn, Đỗ Văn Hạo thấy vậy nét mặt thất kinh, sau đó hắn lại xem lưỡi của nàng ta, rồi lại hỏi chế độ ăn uống, ngủ nghỉ ra sao, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo lại để Trần Mỹ Nhân nằm xuống.
Vừa lúc này thì Trần Bà đã bưng nước đi đến, Đỗ Văn Hạo trông thấy bèn lên tiếng hỏi: “Sức khỏe của nương nương kém như vậy ngươi đã cho người đi tìm người đến xem chưa? Hay là vẫn chẳng có vị Thái Y nào chịu đến khám bệnh cho nương nương? Nếu không có ai chịu đến tại sao ngươi lại không thông báo cho ta biết hả?”
Trần Bà đặt tách trà lên trên bàn xong, liền đi đến bên cạnh Đỗ Văn Hạo, khổ sở đáp: “Lão nô đã đi tìm rồi, cũng tìm được một vị Thái Y già đến khám, ông ta nói rằng đầu của nương nương bị đập vào tường, miệng la hét khó chịu nên cho rằng nương nương mắc chứng Thực Nhiệt, do vậy phải uống thuốc dịu mát giải nhiệt. Nhưng sau khi uống xong mấy đơn thuốc của ông ta, thì không thấy nương nương có tiến triển tốt lên, mà ngược lại bệnh tình của nương nương ngày càng trầm trọng, lúc này nương nương liền quyết định không cho phép lão nô đi tìm bất kỳ một vị Thái Y nào khác nữa. Nương nương nói rằng thôi thì cứ để kệ nó, ra sao thì ra nương nương không muốn quan tâm đến nó nữa. Lão nô khi đó khuyên bảo nương nương thế nào cũng không được, lão nô cũng định đến tìm đại nhân, nhưng lại nghe nói đại nhân phải phục vụ cho Hoàng Thượng nên... Ài! Đều là do lão nô đáng chết, lão nô bất tài không chăm sóc cho nương nương hẳn hoi tử tế!” Nói đến đây Trần Bà bỗng bật khóc, nước mặt rơi xuống lã chã, buồn tủi vô cùng.
Trần Mỹ Nhân nằm trên giường lúc này thân hình cuộn tròn, hai mắt nhắm lại, thều thào nói: “Trần Bà! Đây không phải là lỗi tại ngươi, đây là ông trời đang trừng phạt ta đó, ta gây ra tội lỗi thì ta phải trả giá, ngươi đừng buồn nữa!”
Trần Bà nghe thấy vậy thì lại càng thêm đau buồn, nước mắt nước mũi chảy ra như suối.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Bệnh này của nương nương vị Thái Y đó đã chẩn đoán không chính xác! Bệnh này không phải là chứng Thực Nhiệt, theo như mạch chứng của nương nương cùng với tâm trạng mệt mỏi, chán nản, hơi thở gấp gáp, mồ hôi lạnh ra nhiều, chân tay lạnh cóng thì có thể thấy rằng bệnh của nương nương là Dương Suy!”
“Á!” Trần Mỹ Nhân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy bất giác kêu lên thê thảm. Trần Bà đứng cạnh đó bèn lên tiếng hỏi: “Có nghiêm trọng không?”
“Dĩ nhiên là vô cùng nghiêm trọng rồi! Dương khí mà bị thoát thì thân thể sẽ mệt mỏi, tâm trạng chán chường, phải nhanh chóng kê một bài thuốc Tân Cam Ôn Nhiệt với liều lượng lớn để vãn hồi lại dương khí, ổn định tinh thần! Cũng may là hôm nay ta ở đây, do vậy bệnh tình của nương nương sẽ do đích thân ta chữa trị, ngươi yên tâm có ta ở đây nương nương sẽ không có gì nguy hiểm đâu, bệnh này chỉ cần có Đáp, Sâm Cao Ly, Gừng Pháo, Pháo Phụ Tử và Viêm Cam Thảo, mỗi một loại lấy mười tiền, sau đó sẽ dần dần giảm lượng xuống cho đến khi bệnh hoàn toàn khỏi hẳn!”
Trần Bà nghe xong thì thở phào một hơi nhẹ nhõm nói: “Đa tạ Bồ Tát đã bảo hộ! À không! Đa tạ Đỗ đại nhân đã ra tay cứu giúp! Đỗ đại nhân! Ngài đúng là Bồ Tát tái thế!”
Trần Mỹ Nhân nghe vậy bèn thở dài nói: “Thôi kệ đi! Không cần chữa đâu, chữa khỏi bệnh cho ta rồi thì sao chứ? Ta khỏi bệnh rồi vẫn cứ phải sống một cuộc sống nhục nhã như một con chó vậy! Như thế còn khó chịu hơn cái chết rất nhiều!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng: “Nương nương…”
“Thôi được rồi! Ngươi không cần khuyên ta nữa đâu! Ngươi cũng đừng lãng phí tâm huyết chữa bệnh cho ta nữa, ngươi hôm nay đến đây là đón Liên Nhi về hả? Nếu như vậy thì để nó theo chân ngươi về đi, nó dù sao cũng là thê thiếp của ngươi rồi, ta không thể ngày nào cũng chiếm hữu nó mãi như thế được, như vậy đối với ngươi cũng không hay chút nào cả!”
Đỗ Văn Hạo ngập ngừng đôi chút rồi nói: “Ừm! Thế này vậy! Nương nương cứ nghỉ ngơi trước đi, ta còn có chuyện muốn nói với Trần Bà đã!”
Đỗ Văn Hạo nói xong bèn bước ra ngoài cửa, Trần Bà thấy vậy liền nối gót lẽo đẽo theo sau, sau khi khép cửa lại hai người bèn đi đến bên gốc Hạch Đào nói chuyện.
“Sao không trông thấy Liên Nhi vậy?” Đỗ Văn Hạo ngồi xuống chiếc ghế đá đặt dưới gốc Hạch Đào nói.
Trần Bà đứng cạnh đó liền lên tiếng đáp: “Đỗ đại nhân cũng trông thấy chỗ này rồi đấy, nương nương ngủ ở phòng chính, mấy hôm trước đột nhiên căn phòng đó gặp trận mưa lớn nên bị dột, chỗ dột đó lại đúng ngay giường của Trần Mỹ Nhân, do vậy Liên Nhi liền kê giường sang chỗ khác. Nhưng nó vẫn sợ nương nương bị cảm lạnh, cộng thêm mấy ngày hôm nay bệnh tình của nương nương càng lúc càng nặng nên nó đã đi tìm người đến xem có sửa được hay không, bây giờ cũng đã là mùa thu rồi, gió cũng độc lắm, nếu không sửa nhanh e rằng nương nương sẽ chống đỡ nổi thêm được nữa mất!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng chỉ ừm lên một tiếng, những việc ở trong cung hắn cũng hiểu đôi chút, khi người ta bị thất thế thì có rất nhiều người cũng hùa theo vào để bắt nạt, để hành hạ, đây là việc quá đỗi thường tình trong cung rồi, hơn nữa Trần Mỹ Nhân lại là một nhân vật ghê gớm như vậy, ai mà không thù không ghét cơ chứ! Do vậy chắc bây giờ cũng chẳng có người nào chịu đứng ra giúp đỡ nàng ta cả.
“Chuyện phòng ốc thì ta sẽ đi tìm Tiêu công công đến giúp, ông ta là tổng quản của Hậu Cung mà, chuyện vặt vãnh này không là gì với ông ta cả đâu!”
Trần Bà nghe vậy thì lại nước mắt nước mũi tèm nhèm chảy xuống: “Đỗ đại nhân! Lần nào cũng phải làm phiền đại nhân giúp đỡ nương nương của lão nô như vậy lão nô cảm kích vô cùng! Nhưng đại nhân xin hãy cẩn thận không lại đắc tội với những Phi Tần khác trong cung, vì bọn họ vẫn căm thù nương nương lắm, lão nô đa tạ đại ân đại đức của đại nhân!”
Đỗ Văn Hạo cũng thở dài nói: “Ta cũng sắp phải đi xa rồi, sức khỏe của nương nương lại như vậy, ta thật không yên tâm một chút nào cả! Ài! Chúng ta phải nghĩ cách nào mới được!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền trầm ngâm suy nghĩ. Trần Bà đứng cạnh đó nghe hắn nói vậy thì vẻ mặt thất kinh nói: “Sao cơ? Đại nhân sắp đi xa rồi? Đại nhân đi đâu vậy? Khi nào mới về?”
Đỗ Văn Hạo lúc trước không nói cho Trần Mỹ Nhân biết hắn sắp phải rời xa kinh thành vì sợ nàng buồn, nỗi buồn của nàng khi phải xa hắn không giống như với Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu hay những người khác, đó là sự chia tay của một người bạn thân thiết, sau này sẽ có dịp gặp lại. Nhưng với Trần Mỹ Nhân thì lại khác, nếu nàng biết hắn sắp đi xa nàng chắc chắn sẽ rơi vào cảnh tuyệt vọng, sẽ mất đi chỗ dựa cuối cùng của đời nàng, chính vì thế mà hắn không thể nói được, hắn cũng không đủ dũng khí để cho nàng biết chuyện đó nữa: “Ừm! Đúng vậy! Ta phụng chỉ của Hoàng Thượng vào Tứ Xuyên Nhã Châu Lộ nhậm chức, tất cả gia quyến của ta đều phải theo ta vào trong đó, ta sắp xuất phát rồi!” Đỗ Văn Hạo cất lên một giọng buồn buồn nói, hắn thậm chí còn không đủ dũng khí để ngẩng đầu lên nói với Trần Bà nữa.
Trần Bà nghe hắn nói vậy thì bất giác lùi lại hai bước, suýt chút nữa thì ngã ngửa người xuống, bà cố gắng vịn vào cành cây gần đó đứng cho vững, giọng nói đau đớn vô cùng: “Sao lại có chuyện như vậy được cơ chứ?” Nói xong Trần Bà quỳ luôn xuống ngửa mặt lên trời gào khóc thảm thiết.
“Trần Bà! Bây giờ không phải là lúc để ngươi than thân trách phận như vậy, ta thấy nương nương cũng không muốn chữa bệnh, nếu tình hình vẫn cứ kéo dài như vậy thì e rằng tính mạng của nương nương có lẽ cũng chỉ còn sống được một hai năm nữa mà thôi, chúng ta phải nghĩ cách gì đó để cứu vãn tình hình này!”
Trần Bà nghe xong lập tức đứng hẳn người dậy, lắc lắc đầu tuyệt vọng nói: “Đỗ đại nhân! Đại nhân không cần phải lo lắng cho nương nương của lão nô thế mãi đâu, nương nương đã có lão nô lo cho rồi, chỉ cần lão nô vẫn chưa chết thì lão nô nhất quyết không thể để cho nương nương tắt thở trước mình được!”
“Ài! Chuyện này thôi cứ để đó cho ta suy tính, ngươi chỉ cần cắt thuốc theo đúng phương thuốc của ta, rồi cho nương nương uống đúng giờ là được rồi!”
Đột nhiên cánh cổng vang lên uỳnh một tiếng rất lớn, rồi bị mở toang ra, một nữ tử nhanh chóng xông hẳn vào trong vườn. Nàng ăn mặc vô cùng đơn giản, áo thô màu vàng nhạt, hai ống tay áo vắn cao, đầu tóc trang điểm đều rất nhẹ nhàng, tóc tết hai bên, kết lại vào nhau như hình cánh bướm, trên mái tóc nàng không có bất cứ thứ trang sức nào cả, tóc ở hai bên mai của nàng xõa xuống ngang vai, nữ tử đó không phải là ai khác, chính là Liên Nhi, người thiếp mà Đỗ Văn Hạo lâu lắm rồi chưa gặp.
“Bà Bà!” Liên Nhi thở gấp nói, sau đó nàng quay sang Đỗ Văn Hạo vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nói: “Tướng công! Sao tướng công lại đến đây vậy?” Đỗ Văn Hạo lâu lắm rồi mới gặp được Liên Nhi, trông nàng gầy, và tiều tụy hơn trước rất nhiều, nhưng nàng vẫn còn trẻ nên không dễ nhận ra sự thay đổi thất thường đó. Hai mắt của nàng lúc này cũng ngấn nước, trông bộ dạng vô cùng đáng thương.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đứng dậy đi về phía Liên Nhi, nhưng nàng lại cảm thấy ngượng ngùng e thẹn, chỉ biết cúi người xuống thi lễ rồi nói một câu tướng công.
Đỗ Văn Hạo tiến đến trước mặt nàng đưa tay lên lau đi những giọt nước mặt còn đọng trên hàng mi của nàng, nhẹ nhàng nói: “Sao vậy? Có người bắt nạt nàng sao? Nói cho ta biết để ta dạy cho bọn chúng bài học!”
“Bọn họ thật quá đáng! Không những đuổi thiếp ra khỏi cửa, mà còn đẩy thiếp ngã xuống đất nữa!” Liên Nhi tủi nhục nói với Đỗ Văn Hạo
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn ôm Liên Nhi vào lòng, rồi đưa tay ra vỗ nhẹ vào lưng của nàng an ủi. Trần Bà lúc này thấy mình ở đây có vẻ dư thừa bèn nhân lúc hai người không để ý, bèn lẳng lặng bỏ đi.
Được một lúc sau, Liên Nhi lên tiếng hỏi: “Tướng công sao hôm nay lại đến đây vậy?”
“Ta không được phép đến đây thăm Liên Nhi của ta sao? Nhìn nàng kìa! Lẽ nào nàng không nhớ ta sao?”
Liên Nhi nghe xong hai má ửng đỏ, cúi đầu e thẹn đáp: “Thì đây cũng là lần đầu tiên tướng công đến thăm thiếp mà!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì nhoẻn miệng cười, rồi hắn lại đưa tay ra ôm Liên Nhi vào lòng nói: “Hôm nay ta đến đón nàng về!”
Liên Nhi nghe xong liền theo phản xạ tự nhiên lách ra khỏi cánh tay của Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng công đã hứa với thiếp để thiếp chăm sóc cho nương nương rồi, nương nương hiện giờ…!”
“Được rồi! Được rồi! Ta biết rồi! Nhưng Hoàng Thượng đã ra lệnh cho ta phải vào Tứ Xuyên Thành Đô làm quan trong đó, ngày hôm sau là xuất phát rồi, Cầm Nhi, Thanh Đại, Phi Nhi đều theo ta vào trong đó, ta rất nhớ nàng, nên hôm nay mới vào đây đón nàng về!”
Liên Nhi nghe xong thì cũng có một phản ứng giống y hệt của Trần Bà, gương mặt của nàng hiện lên một vẻ tuyệt vọng, hàm răng của nàng cắn chặt vào môi tưởng chừng như muốn rách đến nơi, trông nàng lúc này xúc động còn hơn cả lúc nãy khi trông thấy Đỗ Văn Hạo vào đây thăm nàng nữa.
“Nương nương lúc này đang bị bệnh nghiêm trọng như vậy, tướng công lại sắp phải đi xa, không biết nương nương về sau sẽ thế nào nữa?” Liên Nhi buồn bã nói, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Chuyện này ta sẽ nghĩ cách giải quyết, nhưng bây giờ ta hỏi nàng, nàng có muốn đi cùng ta không?”
“Thiếp…Thiếp!”
“Nàng thấy khó xử lắm sao?”
“Không phải như vậy, chỉ là thiếp đi rồi thì nương nương sẽ ra sao đây, thiếp không yên tâm, Bà Bà tuổi cũng đã cao, mắt mũi kèm nhèm, tay chân chậm chạm, thiếp đi rồi thì ai chăm sóc nương nương đây…!”
“Liên Nhi! Ngươi cứ đi đi!”
Cả Liên Nhi và Đỗ Văn Hạo cùng quay người lại nhìn, Trần Mỹ Nhân không biết đã đứng ở trước cửa tự bao giờ, Trần Bà lúc này cũng đứng cạnh đó một tay dìu đỡ Trần Mỹ Nhân.
Liên Nhi thấy vậy bèn vội vàng chạy đến bên Trần Mỹ Nhân sụt sùi nói: “Nương nương! Liên Nhi không đành lòng nào rời xa nương nương!”
Trần Mỹ Nhân liền đưa tay ra vuốt vuốt mái tóc của Liên Nhi rồi nói: “Liên Nhi tốt bụng của ta! Ta không thể vì mình mà làm lỡ hạnh phúc của ngươi được, ngươi đã là người của Đỗ đại nhân rồi, ngươi sống là người của người ta, chết cũng là ma của người đó, đạo lý này ngươi cũng phải biết chứ, đã có Trần Bà lo liệu cho ta rồi, ngươi cứ yên tâm theo Đỗ đại nhân đi đi!”
Liên Nhi nghe vậy thì lắc đầu quầy quậy nói: “Không! Liên Nhi không đành lòng! Sức khỏe của nương nương yếu lắm, lại không chịu uống thuốc nữa, nương nương cứ như vậy thì Liên Nhi sao yên tâm được! Ý! Sao hôm nay nương nương nói chuyện lại bình thường như vậy được, hay là bệnh của nương nương đã khỏi rồi?” Liên Nhi nói đến đây thì cảm thấy có gì đó không bình thường, nàng liền đưa mắt lên nhìn Trần Mỹ Nhân một cách khó hiểu.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn tiến lên nói với Trần Mỹ Nhân, cắt ngang lời nói của Liên Nhi: “Chuyện của Liên Nhi chúng ta tạm không bàn tới! Bây giờ ta kê cho nương nương một phương thuốc, nương nương mau uống vào, ta thấy trên trán nương nương vẫn còn vết bầm tím kia kìa, có lẽ là cho va đập vào vật cứng nào đó rồi, lần sau nương nương nên cẩn thận đừng làm như vậy nữa!”
Liên Nhi thấy vậy bèn chen vào nói: “Hôm trước nương nương đập đầu của mình vào tường nên mới bị bầm tím như vậy đó!”
Trần Mỹ Nhân lúc này cầm hẳn luôn lấy gấu áo của Đỗ Văn Hạo, nhát gừng nói: “Đỗ đại nhân đừng vì sức khỏe của ta mà hao tổn tâm trí nữa! Ngươi đem Liên Nhi đi đi, dù sao ta cũng không muốn sống một cuộc sống đời thừa đau khổ như thế này nữa, ta giờ đây chẳng qua là đang chờ cái chết cận kề mà thôi, khi ta chết rồi thì Trần Bà cùng với Liên Nhi đều được giải thoát!”
Trần Bà và Liên Nhi nghe xong thì đều khóc lên như mưa, Trần Mỹ Nhân cũng không kìm nổi lòng mình ôm cả hai người lại, sụt sùi thút thít.
Đỗ Văn Hạo lại là một người rất sợ trông thất cảnh tượng như thế này, hắn liền hạ quyết tâm, hắng lên một tiếng rồi nói: “Thôi đừng khóc nữa! Ta có cách này có thể đưa nương nương rời khỏi Lãnh Cung, sau đó sẽ đưa nương nương về quê đoàn tụ với gia đình!”
Hả? Cả ba người cùng đồng thanh kêu lên một tiếng vừa ngạc nhiên lại vừa mừng rỡ.
Đỗ Văn Hạo lúc này chỉ mỉm cười thần bí, rồi thì thào với ba người vài câu, ba người đều gật gật đầu ra vẻ hiểu ý, sau đó Đỗ Văn Hạo liền đi vào trong phòng cất bút lên viết hai phương thuốc đưa cho Trần Bà với Liên Nhi, rồi hắn lại dặn dò hai người nên tiến hành kế hoạch ra sao.
Đỗ Văn Hạo sau khi rời khỏi chỗ ở của Trần Mỹ Nhân, hắn lòng vòng, loanh quanh một hồi thì đã ra đến cổng, đây là Ngự Thư Phòng của Hoàng Thượng, khi mới đến đây nếu không có người dẫn đường chỉ lối, thì chắc chắn sẽ bị lạc trong này mất.
“Đỗ đại nhân đã đến rồi đó hả!” Viên thái giám tay cầm phất trần đã đứng trước cửa tự lúc nào đang cúi người ôm tay thi lễ trước mặt Đỗ Văn Hạo. Thường thì bước chân của Đỗ Văn Hạo vốn rất nhẹ nhưng viên thái giám này cho dù lúc đó đang đứng ngáp ngủ đã ngay lập tức có thể nghe thấy bước chân của hắn bước tới mà ra nghênh đón, chắc ở trong cung lâu ngày nên viên thái giám này đã luyện được chiêu Thuận Phong Nhĩ (đôi tai của gió), chỉ cần một tiếng động nhẹ thôi cũng đủ làm tên thái giám này chú ý, do vậy khi Đỗ Văn Hạo đi đến viên thái giám này đã chuẩn bị xong xuôi tư thế để nghênh tiếp hắn rồi.
Đỗ Văn Hạo tiến lên phía trước đưa tay chỉ vào phía trong thấp giọng hỏi: “Ta có thể vào được không?”
“Hoàng Thượng vừa mới ngủ dậy, mấy hôm nay trời nóng quá, Hoàng Thượng chỉ nghỉ trưa có một lúc thôi, lúc nãy Ninh công công đã lệnh cho nô tài bê trà vào trong đó rồi, có lẽ lúc này Hoàng Thượng đang phê duyệt bản tấu. Xin đại nhân cứ ngồi uống trà một lúc để nô tài vào bẩm báo với Hoàng Thượng!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cất tiếng cảm ơn, loáng một cái viên thái giám kia đã nhanh chân chạy vào trong thư phòng rồi.
Nơi phía trước cổng của Thư Phòng có đặt một bình hoa cao hơn nửa người, bên trong đặt những bức thư pháp, tranh họa của Hoàng Thượng, một bên đặt một chiếc bàn, trên đó có một chiếc hương lò nhỏ nhắn tinh xảo tỏa ra hương thơm ngào ngạt, không cần ngửi Đỗ Văn Hạo cũng biết, đây chính là mùi hương trầm mà Hoàng Thượng yêu thích nhất.
“Văn Hạo đến rồi sao?” Tống Thần Tông đang ngồi cặm cụi phê duyệt tấu chương, đầu vẫn không ngước lên mở miệng hỏi, Ninh công công đứng cạnh đó liền gật đầu rồi đưa tay ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo vào trong.
Đỗ Văn Hạo vào đến bên trong bèn tiến đến cúi người thi lễ: “Vi thần Đỗ Văn Hạo tham kiến Hoàng Thượng!”
Tống Thần Tông lúc này mới ngẩng đầu lên, trông thấy sắc mặt của hắn buồn bã, lông mày cau lại, trên miệng hắn miễn cưỡng nở ra một nụ cười khổ sở, Tống Thần Tông trông thấy vậy bèn đặt bút xuống đứng dậy đi đến bên hắn nói: “Ta xem ngươi dường như đang có chuyện gì cần cầu xin thì phải, nói đi! Ngươi còn muốn Trẫm giúp ngươi việc gì, bây giờ nói ra vẫn chưa muộn đâu!”
“Vi thần hôm nay đến đây mục đích chủ yếu là khấu tạ ơn đức của Hoàng Thượng! Hoàng Thượng suy nghĩ thật là chu đáo cho vi thần, bổ nhiêm Hàn Tu đại tướng quân làm chức Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Ti, và bảo với ông ấy rằng đó là do vi thần cố ý cất nhắc ông ta trước mặt Hoàng Thượng, như vậy chẳng khác nào để ông ta phải biết ơn vi thần, sau đó Hoàng Thượng lại không ngừng dặn dò ông ta không được phép can dự vào công cuộc biến pháp của vi thần! Hoàng Thượng đối với vi thần quả là ân trọng như núi vậy, vi thần cho dù có chết cả trăm ngàn lần cũng không biết làm gì để báo đáp Hoàng Thượng cả!” Tống Thần Tông nghe xong thì mỉm cười nói: “Không làm thì thôi! Nhưng đã làm thì phải làm cho ra trò! Hôm nay ngươi đến cũng đúng lúc lắm, Trẫm đang định cho người nói cho ngươi biết rằng Trẫm đã tìm cho ngươi một trợ thủ vô cùng đắc lực, đó chính là Tô Thức Tô Tử Chiêm!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nói: “Tô Đông Pha?”
Tống Thần Tông nghe vậy bèn hỏi: “Ai là Tô Đông Pha?”
Ngoại hiệu Tô Đông Pha này của Tô Thức dĩ nhiên lúc này vẫn chưa có, hoặc có lẽ chưa có người biết đến, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng bào chữa: “Cái này vi thần lỡ miệng, ha ha ha! Là Tô Thức! Ông ta sẽ cùng với vi thần đến Nhã Châu sao?”
“Đúng vậy! Trẫm đã hạ chỉ cho Bộ Lại bổ nhiệm ông ta làm chức Chi Châu của Nhã Châu, Trẫm đã cho Tiểu Ninh Tử cùng ngươi đến Hoàng Châu tuyên chỉ, Tiểu Ninh Tử sẽ nói cho ông ta biết ý của ta, rằng chức vụ của ông ta cũng là do ngươi đề cử với ta, cho ông ta lại biết ơn của ngươi, nếu không chắc ông ta sẽ phải ở Hoàng Châu cả đời dưỡng lão mất ha ha ha!”
Tô Thức ngày trước đã từng nhậm chức Chi Châu của huyện Từ Châu, nhưng vì vướng vào vụ án “Ô Đài thi án” (đây là vụ án mà Ngự Sử Trung Thừa Lý Định lấy những lời trong bài thơ
Đỗ Văn Hạo nghe Tống Thần Tông lại cố tình sắp đặt cho người khác phải biết ơn mình như vậy thì cười đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Thần luôn được Hoàng Thượng suy nghĩ chu đáo như vậy quả không tốt chút nào cả! Ha ha ha!”
“Tất cả đều vì một mục đích, đó chính là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ngươi tiến hành cải cách. Tô Thức cho dù là người phản đối biến pháp, nhưng cũng không phải là phản đối hết tất cả những thứ của biến pháp, ông ta còn tán thành những cái hay, cái lợi của biến pháp nữa, ví dụ như: Miễn Dịch Pháp (luật bãi bỏ lao dịch.) Khi mới đầu thì ông ta vô cùng phản đối, nhưng sau đó thì ông ta phát hiện ra pháp lệnh mới này rất có lợi với dân chúng. Hơn nữa ông ta lại là người liêm khiết, một lòng yêu nước thương dân, tận tụy trong công việc. Mỗi nơi ông ta đến, ông ta đều tham gia vào công tác thủy lợi, cứu tế dân chúng, giảm thuế, miễn thuế, am hiểu nỗi khổ của người dân, ông ta là một vị quan tốt, rất có ích cho ngươi, có ông ta trợ giúp ngươi sẽ đỡ vất vả đấy! Trẫm sẽ bảo Tiểu Ninh Tử ngầm ra ý với ông ta, để ông ta ủng hộ biến pháp của ngươi. Hơn nữa trong Thánh Chỉ của Trẫm cũng có nói rồi, ngươi có toàn quyền quyết định trong phạm vi cai quản của ngươi, ông ta không có quyền can thiệp, ngươi cứ yên tâm!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong mà vô cùng xúc động, hắn không biết làm gì hơn, chỉ biết cúi người thi lễ tạ ơn, thầm nghĩ Hoàng Thượng suy nghĩ thật chu đáo, tạo dựng cho hắn một môi trường làm việc thuận lợi nhất có thể, nếu hắn không làm ra trò ngỗng gì thì thật mất mặt quá.
Tống Thần Tông lại nói: “Có chuyện này ta muốn nói cho ngươi biết, bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn rất nhiều lần xâm chiếm biên giới, cướp bóc hành hạ dân chúng vô cùng dã man, Trẫm đã mật chỉ cho Hàn Tu nếu có thể thì nên thừa thắng xông lên quyét sạch bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn để tiêu trừ hậu hoạn về sau luôn! Nhưng lại không được phép khuếch đại chiến tranh sang các bộ lạc khác, Trẫm không muốn trở mặt với Thổ Phồn!”
“Vâng, thưa Hoàng Thượng! Tây Hạ, Đại Liêu đều đang rình rập cơ hội! Lúc này chúng ta không nên có thêm một địch thủ nữa!”
“Ngươi hiểu như vậy là tốt!” Tống Thần Tông nở một nụ cười vui vẻ, rồi lại thấp giọng nói: “Trẫm nói cho ngươi biết nhé! Trẫm đã nghĩ kỹ rồi, một khi quét sạch bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn thì Trẫm sẽ bổ nhiệm cho ngươi làm Tây Sơn Vương, ở đó ngươi có thể cải cách theo tư tưởng, đường lối riêng của mình ngươi, tất cả thu nhập đều không cần phải cống nạp cho triều đình! Toàn bộ lợi nhuận thu được ngươi toàn quyền xử lý, phân phối! Ngươi có thể thành lập một đội quân mới, tiến hành cải cách ruộng đất, cải cách quân đội…v…v… Như vậy cũng có nghĩa là, chỉ cần lấy được Tây Sơn thì Trẫm sẽ giao toàn bộ Tây Sơn cho ngươi, để ngươi muốn làm gì thì làm!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì mừng rỡ, hắn không ngờ mình có thể làm Tây Sơn Vương, ha ha ha! Nghĩ đến đây hắn liền vén áo quỳ xuống dập đầu nói: “Vi thần khấu tạ Hoàng ân, vi thần nguyện lấy hết sức mình ra để báo đáp lòng mong đợi của Hoàng Thượng!”
Tống Thần Tông vô cùng hài lòng gật đầu nói: “Được như vậy thì tốt! Bình thân! Ngươi đi đi!”
Đỗ Văn Hạo đứng dậy ngẫm nghĩ một lúc, ngập ngừng muốn nói điều gì đó nhưng rồi lại thôi.
Tống Thần Tông thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Sao vậy? Còn có chuyện gì nữa ư?”
Đỗ Văn Hạo chỉ đưa mắt ra liếc sang hai bên ho nhẹ một tiếng rồi lại im như thóc, không nói thêm câu nào nữa.
Tống Thần Tông trông thấy điệu bộ của hắn như vậy bèn hiểu ý, quay đầu sang nói với Ninh công công: “Tiểu Ninh Tử ngươi bưng mấy đĩa hoa quả lên cho Đỗ đại nhân đi! Trời nóng như thế này Đỗ đại nhân đã toát hết mồ hôi rồi kìa! Có lẽ là cảm nắng rồi cũng nên, chắc lúc nãy đi đường bị trúng nắng rồi! Những người khác cũng lui hết cả ra đi!”
Ninh công công và mấy viên thái giám, cung nữ đứng cạnh đó đều lập tức lui ra hết ngoài, Tống Thần Tông lúc này mới lên tiếng: “Được rồi! Có chuyện gì ngươi nói ta nghe xem nào!”
Đỗ Văn Hạo biết Ninh công công rất nhanh sẽ quay lại đây, do vậy hắn không muốn lãng phí thời gian bèn đi thẳng vào luôn vấn đề: “Hoàng Thượng hãy cứu lấy Trần nương nương!”
Tống Thần Tông nghe thấy vậy thì lập tức đứng thẳng người dậy hỏi: “Mỹ Nhân làm sao rồi?”
“Vi thần mấy hôm trước đến đón Liên Nhi! Hoàng Thượng cũng biết Trần nương nương đem Liên Nhi gả cho vi thần, nên nàng vốn là nô tỳ cũ của nương nương, giờ đây khi Liên Nhi sắp phải theo thần vào Tứ Xuyên chính vì thế nàng vô cùng lo lắng cho nương nương của mình, Liên Nhi e rằng một mình Trần Bà không chăm sóc nổi Trần nương nương. Trần nương nương bây giờ bị bệnh vô cùng nghiêm trọng, hơn nữa bệnh của nương nương lại là một bệnh truyền nhiễm rất chi là nguy hiểm!”
Tống Thần Tông nghe xong thì thất kinh nói: “Tình hình bây giờ thế nào? Ngươi mau mau nói cho Trẫm biết!”
Đỗ Văn Hạo trông thấy Tống Thần Tông vẫn còn rất quan tâm đến Trần Mỹ Nhân như vậy thì trong lòng mừng thầm, hắn giả bộ ngần ngừ đôi lúc rồi nói: “Có lẽ nương nương do vì quá thương nhớ Hoàng Thượng nên mắc phải chứng Thất Tâm Phong, cái này thì Hoàng Thượng cũng biết rồi đấy. Ngày nào nương nương cũng dầm mưa dãi nắng, gặp gì cũng ăn, do vậy mới bị nhiễm bệnh, loại bệnh này lây truyền rất nhanh, phải nhanh chóng cách ly Trần nương nương càng sớm càng tốt!”
“Hả?” Tống Thần Tông nghe xong bất giác kêu lên thất thanh, gương mặt trở nên trắng bệch, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói tiếp: “Bệnh này của Trần nương nương không thể một sớm một chiều mà chữa khỏi ngay được, tuy nơi ở của Trần nương nương xa với những nương nương khác, nhưng loại bệnh này lây truyền rất nhanh, do vậy vi thần mong Hoàng Thượng nghĩ ra cách gì đó mà giải quyết càng nhanh càng tốt!”
Vừa đúng lúc này thì Ninh công công đã bưng lên một đĩa hoa quả, trông thấy Tống Thần Tông vẻ mặt căng thẳng đi đi lại lại trong phòng, bất giác cảm thấy lo lắng vô cùng.
“Đỗ đại nhân! Vừa xảy ra chuyện gì vậy?” Ninh công công đặt đĩa hoa quả đặt lên trên bàn rồi vội chạy đến bên Đỗ Văn Hạo dò hỏi.
“Được rồi! Không nên phí phạm thời gian nữa, sự việc gấp gáp, Trẫm giờ sẽ đi tìm Thái Hoàng Thái Hậu!” Tống Thần Tông nói xong bèn bước luôn ra phía ngoài cửa, đứa cung nữ đứng chờ ngoài cổng thấy Hoàng Thượng đi ra bèn giật ô lên che nắng cho Tống Thần Tông.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng nối gót chạy theo nói nhỏ vào tai Tống Thần Tông: “Hoàng Thượng đã nghĩ ra nên nói với Thái Hoàng Thái Hậu như thế nào chưa? Vi thần lo rằng..!”
Tống Thần Tông nghe vậy bèn khoát khoát tay ra ý bảo Đỗ Văn Hạo không cần nhiều lời, sau đó sải chân thẳng tiến về tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu.
Đỗ Văn Hạo cũng biết Tống Thần Tông nói cho cùng cũng không phải là hôn quân, hơn nữa Hoàng Thượng lại là một người vô cùng thông minh, trông điệu bộ của Hoàng Thượng rất tự tin, chắc rằng mình chỉ cần đứng bên cạnh phụ họa một hai câu thì chắc cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Đỗ Văn Hạo và Ninh công công cùng nối gót theo bước Tống Thần Tông đi đến cổng tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, đứa gác cổng trông thấy Hoàng Thượng đi tới liền vội vã chạy đến nghênh giá, còn người khác thì chạy thẳng vào trong tẩm cung bẩm báo. Rất nhanh, Tiêu công công đã đi ra nghênh đón, rồi ông ta thông báo cho Hoàng Thượng biết Thái Hoàng Thái Hậu đang ở trong vườn cây.
Tống Thần Tông cùng với mấy người liền thẳng bước tiến ra vườn cây của Thái Hoàng Thái Hậu, khi vừa mới đến đây thì Tống Thần Tông liền dừng bước đưa mắt ra nhìn bốn phía, rồi cất tiếng cười sảng khoái nói: “Xem ra sức khỏe của lão tổ tông càng ngày càng khỏe ra, khu vườn này được lão tổ tông chăm sóc tốt quá! Đúng là có cảm giác thanh đạm của chốn điền viên!”
Chương 310: Đại quân tây chinh!
Tiêu công công nhân lúc Tống Thần Tông đang đưa mắt ra bốn bề trông ngắm, bèn lén lút đưa ánh mắt sang dò hỏi Đỗ Văn Hạo như muốn nói Hoàng Thượng hôm nay đến đây làm gì, nhưng Đỗ Văn Hạo lại làm bộ như không biết chuyện gì, chỉ nhún vai một cách miễn cưỡng, Tiêu công công thấy vậy cũng chỉ biết đoán già đoán non mà thôi. Dạo gần đây, Hoàng Thượng rất ít khi đến thăm viếng Thái Hoàng Thái Hậu, mọi người đều biết sau khi Tống Thần Tông vi hành ở Đông Minh Huyện về thì vô cùng bận rộn, ngoại trừ hằng ngày có mấy người Hoàng Hậu hay đến thỉnh an ra, Hoàng Thượng dường như biến mất hẳn, không thấy tăm hơi đâu cả. Nhưng hôm nay, Tống Thần Tông lại đến đây, lại còn có cả Đỗ Văn Hạo đi theo nữa, do vậy Tiêu công công nhất thời không đoán ra được dụng ý của Tống Thần Tông đến đây làm gì.
Tống Thần Tông gật gật đầu nói: “Lão tổ tông hiện giờ đang ở đâu vậy?”
Tiêu công công vội vã cúi người đáp: “Khi nãy lão tổ tông vừa mới quay về phòng của mình, giờ chắc lão tổ tông đang gột rửa thân mình, thay đổi quần áo! Nô tài đã bẩm báo với lão tổ tông rồi, Hoàng Thượng mời đến Thượng Phòng nghỉ ngơi chờ đợi một chút, trên đó có trà Hoa Hồng và trà Kim Hoa để giải nhiệt, hai loại trà này là do đích thân lão tổ tông pha chế đó ạ!” Tiêu công công nói xong bèn cúi người đưa tay ra hiệu mời Tống Thần Tông.
“Không cần phải vội! Không cần phải vội! Trẫm đi lăng quăng, dạo mát một chút để ngắm cảnh cái đã, lâu lắm rồi không đến đây, Trẫm cũng muốn thưởng thức khu vườn của lão tổ tông một chút, nhân tiện tìm một gốc cây ăn quả nào đó rồi tự mình hái xuống ăn thử! Các ngươi chắc chưa có cảm giác đó bao giờ đúng không? Ăn như vậy có cảm giác còn ngon hơn cả khi mình đem chúng rửa sạch rồi cho lên đĩa rất nhiều lần!” Tống Thần Tông vừa nói vừa nhắm mắt lại tưởng tượng cứ như mình đang nếm hoa quả một cách ngon lành vậy.
Mọi người thấy vậy đều mỉm cười tán thành, Tiêu công công cũng thôi không mời Hoàng Thượng lên Thượng Phòng uống trà nữa, trong lòng thầm nghĩ mình quả là đa nghi, hôm nay chắc là Hoàng Thượng nhàn rỗi nên đến chơi vậy thôi, làm gì có việc gì quan trọng đâu.
Tiêu công công lúc này dẫn Tống Thần Tông cùng Đỗ Văn Hạo đi dạo xung quanh trong vườn, đi được tầm khoảng một tuần hương thì ba người đã đi dạo hết cả khu vườn. Lúc này Tiêu công công bèn mời Tống Thần Tông và Đỗ Văn Hạo lên Thượng Phòng dùng trà, sau đó tự thân mình đi mời Thái Hoàng Thái Hậu đến.
Đỗ Văn Hạo từ lúc đến đây vẫn chưa hé môi nói ra một câu nào cả, hắn trông Hoàng Thượng dường như đến đây là để dạo chơi hơn là bàn công chuyện, do vậy hắn cũng cũng chiều theo ý của Tống Thần Tông muốn dạo chơi thì cùng dạo chơi, nhưng thực chất trong lòng hắn lại rất sốt ruột, đứng ngồi không yên.
Trong lúc hắn đang ngồi suy ngẫm thì Thái Hoàng Thái Hậu đã ăn mặc gọn gàng, sáng sủa, sảng khoái tiến đến, mọi người thấy vậy ai cũng đứng hết dậy thi lễ.
Thái Hoàng Thái Hậu đưa mắt sang nhìn Đỗ Văn Hạo rồi mỉm cười nói: “Có phải ngươi muốn đến đây để làm ta rơi nước mắt thêm một lần nữa không? Ai Gia cứ tưởng ngươi đã lên đường đi rồi chứ! Sao giờ này vẫn còn lởn vởn ở kinh thành vậy? Lẽ nào ngươi lại thấy tiếc sơn hào hải vị ở đây, không chịu nổi cảnh đi xa màn trời chiếu đất, cơm bụi canh đất khổ sở hả?”
“Bẩm lão tổ tông! Vi thần không bao giờ có ý nghĩ như vậy cả, nếu mà thần có ý nghĩ như vậy thì chẳng khác nào đã phụ lòng mong đợi của lão tổ tông và Hoàng Thượng!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mỉm cười rồi quay sang bên Tống Thần Tông nói: “Hoàng Thượng! Sao hôm nay lại rảnh rỗi đến thăm Ai Gia vậy?”
“Lão tổ tông thứ tội, tôn nhi thật bất hiếu, khi nào rảnh rỗi thì không đến thăm người, thật không nên như vậy!” Tống Thần Tông thấy Thái Hoàng Thái Hậu nói vậy bàn cúi người đáp.
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng sửng sốt thầm nghĩ Tống Thần Tông quả là đáng nể, vừa gặp mặt Thái Hoàng Thái Hậu đã nhanh chóng đi thẳng luôn vào vấn đề, không hề có ý vòng vo Tam Quốc nào cả.
Thái Hoàng Thái Hậu lúc này đã đi đến bên một chiếc ghế rồi ngồi xuống, mọi người thấy Thái Hoàng Thái Hậu đã an tọa rồi thì cũng lục đục ngồi xuống, Thái Hoàng Thái Hậu sau khi thấy mọi người đã yên vị bèn lên tiếng: “Ai Gia biết Hoàng Thượng có chuyện đến tìm, hay là Hoàng Thượng hối hận không muốn cho Văn Hạo đi vào trong Tứ Xuyên hả? Nếu mà như vậy cũng tốt, về sau Ai Gia có bệnh tật gì còn có người khám cho, Ai Gia chẳng tin ai cả chỉ tin một mình Văn Hạo thôi!”
Hoàng Thượng nghe thì mở miệng cười lớn đáp: “Lão tổ tông đã không nỡ để Văn Hạo đi thì cứ giữ lại, chỉ có điều là chim ưng mà lúc nào cũng ở bên mẹ của mình nó sẽ không bao giờ biết bay, biết săn mồi được cả!”
“Hoàng Thượng nói đúng lắm! Ai Gia chẳng qua là nói đùa vậy thôi! Nói đi, lúc này đến tìm Ai Gia chắc là có chuyện gấp phải không? Nếu không phải chuyện gấp chắc Hoàng Thượng cũng chẳng bao giờ đến tìm Ai Gia như bây giờ cả!”
“Lão tổ tông quả nhiên anh minh, bọn ngươi lui hết ra ngoài đi, còn Đỗ ái khanh thì ở lại đây được rồi!” Tống Thần Tông nói xong khoát tay ra hiệu cho những người xung quanh lui hết ra ngoài chờ đợi.
Thái Hoàng Thái Hậu thấy Tống Thần Tông bỗng nhiên thu lại nụ cười lúc nãy của mình, nét mặt trở nên vô cùng nghiêm túc thì bất giác cảm thấy sửng sốt vô cùng.
Tống Thần Tông ngưng thần nhìn Thái Hoàng Thái Hậu một hồi lâu rồi mới chầm chậm nói: “Lão tổ tông! Hậu Cung lúc này phát hiện ra một bệnh ôn dịch đang hoành hành!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì há hốc mồm kinh ngạc đứng bật dậy nói: “Hả? Ai truyền nhiễm vậy? Ôn dịch phát tán từ bao giờ, đã truyền nhiễm cho ai rồi?”
“Lão tổ tông không phải lo lắng như vậy!”
“Không lo lắng sao được cơ chứ? Bệnh ôn dịch chỉ cần lây lan truyền nhiễm thì sẽ vô cùng nguy hiểm, Hoàng Thượng nói xem Ai Gia làm sao lại không lo lắng được cơ chứ?”
Tống Thần Tông ngập ngừng đôi chút rồi mới thấp giọng nói: “Là Trần Mỹ Nhân lây lan căn bệnh truyền nhiễm!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong bèn à lên một tiếng, rồi chầm chậm ngồi xuống ghế, đưa mắt lên nhìn Hoàng Thượng, rồi lãnh đạm nói: “Là nó à! Không sao! Nó cũng đã như vậy rồi, sao? Hoàng Thượng đến lúc này mà vẫn chưa quên được nó hay sao? Hoàng Thượng quả là một người nặng tình nặng nghĩa!”
Đỗ Văn Hạo thấy Tống Thần Tông lúc này có phần khó xử bèn vội vã tiến lên giải tỏa vấn đề: “Bẩm lão tổ tông! Chuyện này là do vi thần khi đến đón người thiếp thứ tư của vi thần là Liên Nhi đi Tứ Xuyên thì phát hiện ra mắt của Trần Mỹ Nhân lồi hết ra ngoài, mặt mũi vàng ởn, trong lòng sinh nghi bèn tiến đến bắt mạch cho nàng ta thì phát hiện trên người Trần Mỹ Nhân nổi đầy hạch nhỏ. Thần cũng chẳng quan tâm đến nó làm gì, nhưng bệnh dịch này một khi mà phát tán có lẽ sẽ nguy hại đến lão tổ tông và Hoàng Thượng cùng với các vị nương nương khác nơi Hậu Cung! Chính vì vậy mà thần đã trực tiếp đến tìm Hoàng Thượng bẩm báo đó ạ!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong thì ừ lên một tiếng, nét mặt lúc này mới giãn ra, hoàn hoãn hơn một chút nói: “Thì ra là như vậy, nếu như là Văn Hạo nói thì Ai Gia nghĩ rằng không phải là giả! Nhưng mà Ai Gia vẫn phải đích thân đến xem nó ra sao! Có đúng thật là nó như vậy không?”
“Lão tổ tông! Bệnh dịch này truyền nhiễm nguy hiểm lắm, lão tổ tông không nên đi là tốt nhất!” Tống Thần Tông vội vã tiến đến khuyên ngăn Thái Hoàng Thái Hậu.
Thái Hoàng Thái Hậu liền phất tay ra, đứng thẳng người dậy nói: “Văn Hạo! Ngươi đỡ Ai Gia đứng dậy, chúng ta xem xem tình hình thế nào! Có Văn Hạo ở đây rồi Ai Gia còn sợ cái gì cơ chứ!”
Đỗ Văn Hạo nghe Thái Hoàng Thái Hậu nói vậy bèn vội vã chạy đến đỡ lấy Thái Hoàng Thái Hậu, chầm chậm bước ra ngoài, Tống Thần Tông cũng vội vã bước theo sau.
Khi vừa mới ra khỏi cổng thì bỗng nhiên gió nổi đùng đùng, mây mù kéo đến bầu trời trở nên xám xịt, những đứa cung nữ che ô cho Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng đều bị gió thổi bạt đi, dáng người liêu xiêu lẹo xẹo.
Tống Thần Tông thấy vậy nói: “Lão tổ tông! Gió to như thế này chắc là sắp có giông rồi! Hay là hôm khác chúng ta đi cũng được, việc gì phải gấp gáp như vậy!”
Thái Hoàng Thái Hậu đưa tay ra xua đi nói: “Việc này mới là việc đáng lo! Hậu Cung có bao nhiêu người như vậy, chẳng may bị truyền nhiễm thì vô cùng nguy hiểm, dù gì thì đường cũng không xa lắm, ta nghĩ rằng chúng ta sẽ đến đó trước khi trời đổ mưa đó! Tiểu Tiêu Tử ngươi không cần đi theo Ai Gia đâu có Văn Hạo ở đây rồi, ngươi ở nhà thông báo cho các Thái Y khác chuẩn bị sẵn một bát canh gừng nóng cho ta là được rồi!”
“Vâng thưa lão tổ tông!” Tiêu công công lên tiếng đáp.
“Đi thôi!” Thái Hoàng Thái Hậu nhè nhẹ vỗ lên lưng của Đỗ Văn Hạo, hắn liền hiểu ý vội vàng đưa tay ra dìu lấy Thái Hoàng Thái Hậu tiến về phía trước.
Khi vừa mới tới cổng của Lãnh Cung thì những giọt mưa to như hạt đậu bắt đầu rơi xuống lộp bộp, Đỗ Văn Hạo vội vã dìu Thái Hoàng Thái Hậu đi vào dưới mái hiên tránh mưa, Tống Thần Tông và mấy người khác cũng nhanh chóng bước theo sau.
Cánh cổng của Lãnh Cung lúc này vẫn im lìm vắng lặng, một trận gió to thổi đến cánh cổng không cần người ra mở đã tự động hé ra, rồi bỗng nhiên uỳnh một tiếng đập vang lên rất to cánh cổng giờ này đã mở toang hẳn ra, nhưng trong kia cũng vẫn chẳng có lấy một bóng người nào chạy ra để ý đến nó cả.
Thái Hoàng Thái Hậu liền đưa mắt nhìn vào bên trong, rồi lấy trong người mình ra một chiếc khăn tay đưa lên miệng mình che lại rồi nói: “Trời mưa to gió lớn thế này chắc cũng chẳng có ai chịu ra ngoài đâu, chúng ta không cần vào trong đó ngay bây giờ đâu, chờ cho mưa nhỏ xuống rồi, chờ bọn chúng đi ra là được!” Tống Thần Tông thấy vậy cũng nói chen vào: “Trẫm cũng nghĩ vậy! Bây giờ chỉ còn biết làm như vậy thôi!” Tống Thần Tông nói xong bất giác cảm thấy lành lạnh, có lẽ khung cảnh nơi đây tạo cho người ta có cảm giác lạnh lẽo nên ai nhìn vào bao giờ cũng thấy sởn tóc gáy.
“Ha ha ha! Chim cò bay lả bay la, bay đi bay đi, ta cũng muốn ….”
Mọi người đột nhiên nghe thấy tiếng nói trong trẻo của Trần Mỹ Nhân vọng ra từ bên trong, tất cả đều cùng lúc ngó đầu ra nhìn, thì thấy một nữ tử đầu đội mũ phượng xông ra ngoài mưa chạy nhảy múa may, đột nhiên một tia sét xanh giáng thẳng xuống cành cây của gốc Hạch Đào trong vườn, sau đó có tiếng của Trần Bà chạy theo gọi thất thanh: “Nương nương! Mau quay lại!”
Trần Mỹ Nhân vẫn cứ mải mê chơi đùa nhảy múa dưới gốc cây, dang hai tay ra, đầu ngẩng lên trời bỏ ngoài tai lời gọi của Trần Bà. Nàng ta cứ để mặc cho những giọt mưa nặng trĩu rơi vỡ tung tóe lên khuôn mặt, trên thân hình mảnh mai của mình, gió thổi cuồn cuộn hất tung bộ quần áo của nàng lên phấp phới phiêu dị, sau đó lại làm cho nó quấn quanh thân hình của nàng, thể hiện những đường cong linh lung tuyệt diệu. Trần Mỹ Nhân hai mắt nhắm lại môi nở nụ cười, hai tay chầm chậm dang rộng sang hai bên như đang muốn ôm lấy một vật gì vậy.
Từ khi Trần Mỹ Nhân bị giam vào trong Lãnh Cung cho đến nay, đây mới là lần đầu tiên Thái Hoàng Thái Hậu gặp mặt nàng, chỉ thấy khuôn mặt của nàng lúc này ngổn ngang vết sẹo đan nhau chằng chịt, một bên mắt cũng đã bị mù, một bên mắt thì lồi hẳn ra ngoài, trông vô cùng kinh khiếp liền bất giác lùi lại hai bước, hai hàng lông mày của Thái Hoàng Thái Hậu bất mãn cau lại vào nhau nói: “Nó, nó sao lại bị điên thế này vậy?”
Tống Thần Tông trông thấy Trần Mỹ Nhân như vậy thì trái tim cũng thắt cả lại, đau đớn nghẹn ngào không nói nên lời, chiếc mũ phượng đó là vật mà Trần Mỹ Nhân đem theo vào cung, nàng rất hay đeo nó cho mình xem, đó là vật vô cùng quen thuộc với mình, nhưng mình dường như đã quên hẳn nàng ta rồi, Tống Thần Tông giờ đây cảm thấy có lỗi vô cùng, nhưng khi trông thấy gương mặt kinh khiếp của Trần Mỹ Nhân thì lại giật mình kinh hãi, bao nhiêu tình cảm thương xót trào dâng ban nãy đã vụt biến mất tăm mất dạng, Tống Thần Tông chỉ biết thở dài rồi quay mặt đi không nói câu gì nữa.
Đỗ Văn Hạo lúc này mới lên tiếng nói: “Lão tổ tông! Khi vi thần mới đến đây, Trần nương nương nghe bên ngoài có động tĩnh bèn trèo luôn lên xà nhà, ngày trước vi thần thấy có gì đó không ổn, nhưng sau đó mới biết rằng nương nương ngoại trừ mắc phải bệnh Thất Tâm Phong ra, nàng còn ăn đất, ăn cát nói chung là gặp gì cũng ăn, chính vì thế nên thần không chú ý không được, chính vì ăn uống lung tung như vậy nên hiện giờ Trần Mỹ Nhân đã mắc phải một căn bệnh truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, lão tổ tông và Hoàng Thượng tuyệt đối không được đến gần nàng ta!” Nói xong Đỗ Văn Hạo liền bước đến khép cánh cổng lại, chỉ để hở ra một chiếc khe nhỏ, hai tay của hắn vẫn giữ lấy hai cái vòng kéo cửa bên ngoài để đề phòng nếu Trần Mỹ Nhân chạy vồ đến, hắn còn nhanh tay tay khép kịp cánh cổng lại, nhằm cách ly với thế giới bên ngoài. Những đứa cung nữ theo hầu lúc này cũng vây quanh lại để bảo vệ đề phòng bất trắc xảy ra với Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu.
Có vòng bảo vệ an toàn tuyệt đối như vậy rồi, Thái Hoàng Thái Hậu và Tống Thần Tông mới cảm thấy yên tâm, đứng xem Trần Mỹ Nhân qua khe cửa hẹp.
Mưa đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh, chỉ sau một trận mưa như vậy thì cũng đã trời quang mây tạnh, không khí trở nên mát mẻ.
Mọi người thông qua khe cửa trông thấy Trần Bà đi từ trong phòng ra mang theo một bộ quần áo đến bên Trần Mỹ Nhân rồi cẩn thận khoác lên người nàng, sau đó dìu nàng đi vào trong phòng. Nhưng mọi người không ngờ rằng lúc này không biết đứa cung nữ nào chẳng may đá phải chiếc chổi dựng ở ngay cổng đổ xuống phát ra tiếng động, Trần Mỹ Nhân nghe thấy tiếng động đó thì lập tức quay luôn đầu lại, mừng rỡ trông ra phía cổng bên ngoài, rồi chỉ ra đó mà nói với Trần Bà: “Trần Bà! Ngươi xem kìa Hoàng Thượng đến đón ta rồi kìa!” Trần Mỹ Nhân nói xong liền phi thẳng người luôn ra cổng, Trần Bà thấy vậy vội vã lật đật đuổi theo ôm luôn lấy Trần Mỹ Nhân, nước mắt chảy ròng ròng nói: “Nương nương! Mau quay về đi, bộ dạng của nương nương bây giờ đừng nói đến Hoàng Thượng, mà ngay cả thái giám trông thấy cũng sợ hãi! Chúng ta về phòng thôi! Trần Bà sắc cho nương nương thuốc uống, đến giờ uống thuốc rồi!”
Trần Mỹ Nhân nghe xong khuôn mặt trở nên sầu thảm, ngồi phịch luôn xuống đất.
Bên ngoài cổng Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu thông qua khe cửa hẹp có thể trông thấy rõ bộ dạng của Trần Mỹ Nhân, ai cũng nhìn thấy Trần Mỹ Nhân bây giờ điên điên khùng khùng không khác gì lời miêu tả của Đỗ Văn Hạo, dường như trên người của Trần Mỹ Nhân bây giờ rất khó làm cho người ta liên tưởng tới một mỹ nhân nhan sắc tuyệt trần, cử chỉ đoan trang kiều diễm như xưa kia nữa. Gương mặt của nàng, cổ nàng, tay chân đều mang một màu vàng ởn, nhất là con mắt, nó vàng đến mức ai nhìn cũng không thể nào quên được, có lẽ ai trông thấy cũng phải khiếp sợ mà lui lại vài bước.
“Lão tổ tông! Chúng ta không được ở đây quá lâu, bệnh truyền nhiễm này có độ lây lan vô cùng mạnh, cẩn thận vẫn là trên hết!” Đỗ Văn Hạo thận trọng nói.
Thái Hoàng Thái Hậu lúc này mới kịp hoàn hồn lại, đưa tay lên phất một cái ra hiệu cho mọi người cùng lui lại về phía sau.
“Ài! Đúng là cái phận đàn bà!” Thái Hoàng Thái Hậu đột nhiên thốt lên một câu không đầu không đũa, rồi cứ thế im lặng không nói câu nào nữa, mọi người cũng lục đục kéo theo đi về tẩm cung, ai cũng mang trong mình một niềm tâm sự khó tả.
Sau khi uống một bát canh gừng nóng, Đỗ Văn Hạo cảm thấy thân thể của mình ấm lên rất nhiều, chỉ có Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng sắc mặt đanh lại, âm trầm không nói câu gì cả, do vậy mọi người cũng không dám thốt lên lấy nửa lời.
“Nó đã dở sống dở chết như vậy rồi, thì không bằng ta làm phúc cho nó bớt phải chịu khổ vậy, việc này không thể kéo dài mãi được nữa, Tiểu Tiêu Tử ngươi mau mau đi dẫn người đến đó nhanh lên, bất kể những ai đã từng tiếp xúc với nó đều không được giữ lại để trừ hậu hoạn về sau.”
Tiêu công công gật đầu tuân lệnh, đang định lui ra ngoài thì đột nhiên Tống Thần Tông lên tiếng: “Chờ chút!”
“Lão tổ tông! Tôn nhi có một việc không biết có nên nói hay không!”
“Hoàng Thượng cứ nói!”
Tống Thần Tông nghe vậy bèn đưa tay ra vẫy ra hiệu cho mọi người lui hết ra ngoài chỉ còn mỗi Đỗ Văn Hạo ở lại, sau đó Tống Thần Tông liền bước đến trước mặt của Thái Hoàng Thái Hậu nói: “Nếu như thời gian sống của Trần Mỹ Nhân không còn là bao nữa thì lão tổ tông hãy tha cho nàng ra khỏi cung, trong nhà của nàng vẫn còn cha mẹ, hai người đó có thể chăm sóc được cho nàng, cho dù nàng bị bệnh mà chết thì cũng coi là lá rụng về cội rồi! Như vậy há chẳng tốt hơn sao!”
Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy bèn ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Ài! Thôi vậy, thôi vậy, Ai Gia không hiểu Hoàng Thượng nghĩ gì nữa, Trần Mỹ Nhân là một đứa ác độc như vậy, thế mà đến tận bây giờ Hoàng Thượng vẫn đỡ lời, cầu xin cho nó. Ai Gia mặc kệ các người muốn giải quyết thế nào thì tùy, dù sao nó cũng đã thân tàn ma dại như thế rồi, e rằng cũng chẳng sống thêm đươc bao lâu nữa, Ai Gia cũng mệt mỏi lắm rồi, các ngươi lui ra hết cả đi!”
Đỗ Văn Hạo nghe Thái Hoàng Thái Hậu phán xong thì thấy hòn đã nặng trĩu treo lơ lửng trong bụng của hắn suốt từ nãy đến giờ đã được gỡ xuống, thầm nghĩ may mà mình gặp Hoàng Thượng tấu trình việc này trước, nếu không thì kết quả cũng chưa chắc đã được tốt đẹp như thế này. Hắn đã nắm đúng thóp của Hoàng Thượng, biết Hoàng Thượng vẫn còn khá nặng tình với Trần Mỹ Nhân, chắc chắn sẽ lo lắng, cầu xin cho nàng, quả nhiên Hoàng Thượng đã làm đúng y như hắn đã dự liệu.
Sau khi ra khỏi tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, Tống Thần Tông bèn quay sang Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Trần Mỹ Nhân bây giờ ta giao hết cho ngươi rồi, ngay tối hôm nay ngươi phải đưa ngay nàng ra khỏi cung không được chậm chễ, Trần Mỹ Nhân sau khi rời cung thì ngươi sắp xếp cho Trần Bà theo hầu, lo liệu mọi thứ, nàng ta giờ đây không còn khả năng tự chăm sóc bản thân mình nữa rồi, có người đi cùng cho đỡ khổ thân!”
“Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần đã hiểu! Vi thần sẽ đi lo liệu ngay bây giờ đây ạ!” Đỗ Văn Hạo đáp.
Tống Thần Tông lúc này mới trông vào Đỗ Văn Hạo một lúc, cảm khái chầm chậm nói: “Cảm ơn ngươi đã cứu Trần Mỹ Nhân!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng sửng sốt, trông thấy ánh mắt của Hoàng Thượng pha lẫn một nỗi niềm khó nói vô cùng, lẽ nào Hoàng Thượng đã biết mình lừa dối người và Thái Hoàng Thái Hậu rồi sao? Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây cũng không dám nghĩ thêm nữa, cúi người đáp: “Vi thần nguyện đem hết sức mình không phụ lòng mong mỏi của Hoàng Thượng, cho dù là dầu sôi lửa bỏng cũng không bao giờ chối từ!”
“Ừm! Hy vọng rằng Mỹ Nhân sau khi rời khỏi cung sẽ làm lại cuộc đời, đời này kiếp này đứt gánh giữa dòng, đứt mối tơ trời, không được cùng nàng đầu bạc răng long, nguyện kiếp sau được nối tiếp mối nhân duyên này cùng với nàng!”
Hai canh giờ sau, một cỗ xe ngựa dừng ngay trước cổng của Hoàng Cung, Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm đứng ở cạnh xe vẻ mặt vô cùng sốt ruột, lo lắng.
“Thanh Đại tỷ! Tỷ nói xem tướng công đã làm xong việc chưa vậy?” Bàng Vũ Cầm lúc này đã rất sốt ruột, nàng rất lo cho Đỗ Văn Hạo, mồ hôi trên tay nàng không ngừng túa ra, lau thế nào cũng không hết được.
Lâm Thanh Đại nét mặt nghiêm nghị, lặng thinh không đáp, hai mắt của nàng đau đáu trông về cánh cổng của Hoàng Cung, thực ra nàng cũng không biết nên làm thế nào cả, chỉ biết đứng đây im lặng chờ đợi mà thôi. Tuy là toàn bộ kế hoạch Đỗ Văn Hạo thiết kế vô cùng kín kẽ, toàn vẹn không một khe hở nào, nhưng nàng biết Thái Hoàng Thái Hậu không bao giờ muốn buông tha cho Trần Mỹ Nhân cả, chính vì thế cho dù kế hoạch có vẹn toàn đến đâu, nhưng vẫn phải xem ý của Thái Hoàng Thái Hậu, bởi vì chỉ có Thái Hoàng Thái Hậu mới là nhân vật then chốt nhất.
“Đến rồi! Đến rồi kìa!” Tuyết Phi Nhi đang đứng ở cổng của Hoàng Cung nói lên lanh lảnh, lúc này cánh cổng Hoàng Cung hé mở, có bốn năm người đang vội vã chạy ra ngoài, người đi đầu kia không phải ai khác mà chính là Đỗ Văn Hạo.
“Văn Hạo! Mấy người ra được ngoài rồi hay quá!” Tuyết Phi Nhi vội vã chạy lên trước nghênh đón, mọi người lúc này đã trông rõ Liên Nhi và Trần Bà đang dìu đỡ một người dáng người thanh tú, nhưng gương mặt vô cùng bệnh hoạn nhanh chân đi về phía mình.
Khi lên xe xong, Đỗ Văn Hạo liền đưa cái bọc của mình cho Trần Bà rồi dặn dò nói: “Ta đã cho mấy người giúp việc đứng ở ngoài thành chờ hai người rồi, trên đường về nhà hai người nhất thiết phải xưng hô với nhau là mẹ con, nương nương tốt nhất là không nên nói mình họ Trần!”
Trần Bà cảm động nước mắt nước mũi chảy ra như mưa gật đầu liên tục không biết nói gì, sau đó tiếp lấy chiếc bọc trên tay của Đỗ Văn Hạo, còn Trần Mỹ Nhân thì nắm chặt lấy bàn tay của Đỗ Văn Hạo nấc nghẹn nói: “Lần này chia tay không biết bao giờ mới được gặp lại, ơn cứu mạng của Đỗ đại nhân, Tiểu Thu (tên của Trần Mỹ Nhân) nguyện kiếp sau báo đáp!”
Đỗ Văn Hạo nở một nụ cười đáp lại: “Nương nương nên bảo trọng, trong bọc kia có đủ ngân lượng cho hai người về đến nhà, nhưng đường xá xa xôi, nương nương phải kiên trì uống thuốc mới được!”
Trần Mỹ Nhân lúc này đã khóc không lên tiếng, nói không ra lời nữa, nàng chỉ biết đưa đôi mắt cảm kích của mình nghẹn ngào nhìn vào Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo thấy trời cũng sắp chập choạng tối, e sợ đêm dài lắm mộng, vội vã giục hai người mau chóng lên đường: “Được rồi! Được rồi! Chỗ này không nên ở lại lâu, hai người mau đi đi kẻo muộn!”
Liên Nhi lúc này vội vã chạy đến trước cỗ xe, cúi thụp người xuống quỳ lạy trước mặt Trần Mỹ Nhân, đau buồn nói: “Nương nương! Liên Nhi không được hầu hạ người nữa rồi, nương nương phải cố gắng trân trọng sức khỏe của mình!”
“Liên Nhi ngoan lắm! Trước đây ta đối xử không tốt với ngươi, may mà lại gả ngươi cho Đỗ đại nhân, chuyện xấu lại thành chuyện đẹp, chẳng may lại gặp được quý nhân phù trợ, ngươi cũng có được một nơi nương tựa vững chắc, ta cũng vô cùng yên tâm rồi, nếu như có ngày gặp lại, ngươi hãy đến Tô Châu thăm ta, ta sẽ rất nhớ ngươi và Đỗ đại nhân đó!”
Lúc này người đánh xe đã ra roi quất ngựa, âm thanh vang vọng trong không trung, cỗ xe cuốn bụi xé gió phóng đi.
Sáng sớm ngày hôm sau, cánh cổng của Đỗ Phủ giờ này đã rộng mở, tiếp đó là từng cỗ xe ngựa từ trong nối đuôi nhau đi ra ngoài, người thì ngồi, người thì kéo hàng, người thì đánh ngựa, số lượng cỗ xe lên đến mấy chục cỗ, Đỗ Gia ngoại trừ Hàm Đầu cùng với mấy người giúp việc trong nhà ở lại tiếp tục công việc ở Ngũ Vị Đường ra, tất cả mọi người trong nhà đều lũ lượt đi theo Đỗ Văn Hạo vào Tứ Xuyên hết.
Tiêu công công đại diện Thái Hoàng Thái Hậu đích thân đến đây tiễn đưa Đỗ Văn Hạo lên đường nhậm chức, Ninh công công thì theo hắn đến Hoàng Châu để ban chỉ cho Tô Thức, do vậy mà ông ta đã ngồi trên một cỗ xe đem theo cả ngự tiền thị vệ đến đây từ rất sớm.
Bà nội cùng với cha mẹ của Bàng Vũ Cầm, cha của Tuyết Phi Nhi, và các đồng liêu trong triều, bạn bè thân thiết của Đỗ Văn Hạo tất cả đều đến đây tiễn biệt hắn, cái ngõ nhỏ của Đỗ Phủ giờ đây trở nên vô cùng náo nhiệt đông đúc.
Sau khi người nhà của Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi khóc lóc dặn dò con của mình xong, thì mọi người đều lần lượt lên xe rồi hướng về phía người đưa tiễn vẫy tay chào tạm biệt, cả đại đội xe ngựa lũ lượt rầm rập kéo nhau ra cổng phía nam của kinh thành.
Chỗ này, Hàn Tu đã dẫn bốn vạn Cấm Vệ Quân chỉnh tề chờ đợi xuất phát tự bao giờ, khi đoàn xe ngựa của Đỗ Văn Hạo đến nơi thì mọi người nhất tề xuất phát.
Ra khỏi Kinh Thành chừng được mười dặm đường thì cả đại đội đi đến Tống Biệt Đình. Nơi này đã có người của Bộ Lại, Binh Bộ đứng chờ từ sớm, sau một hồi cùng nhau nói những lời chúc tụng, khách khí với nhau xong thì tất cả cùng cạn chén rượu tiễn biệt, bắt đầu từ bây giờ đoàn quân đã chính thức bước lên con đường tây chinh đầy gian khổ.
Khi đoàn quân đi được thêm hơn mười dặm đường nữa, thì Hàn Tu đem Cấm Vệ Quân phân làm hai nhánh, một nhánh có năm ngàn quân do Đỗ Văn Hạo thống lĩnh đoạn hậu từ từ theo sau, số còn lại thì do Hàn Tu thống lĩnh đi trước dọn đường.
Năm ngàn quân Cấm Vệ này đều là quân đội thân tín của Hoàng Thượng, họ đều là những người đã thông qua những sự lựa chọn khắt khe nhất, ai nấy đều giáp trụ sáng ngời, gươm giáo sắc lạnh, nét mặt kiên nghị, trông oai phong hùng dũng, khí thế vô cùng.
Công việc đầu tiên của Đỗ Văn Hạo lúc này là kiểm duyệt lại toàn bộ tướng sĩ dưới trướng mình một lượt, sau đó tự giới thiệu mình cùng với phó tướng Lý Phố của hắn, sau đó đại quân tiếp tục tây tiến đến Hoàng Châu.
Khi trời chập choạng tối, đại quân liền dừng chân dựng trại, lần này Hàn Tu xuất chinh thì đại bộ phận đạo quân vận chuyển lương thảo đều bỏ lại đằng sau cho đạo quân của Đỗ Văn Hạo quản lý, do vậy lương thực đối với hắn lúc này không phải là một việc đáng lo.
Vốn dĩ khi ra trận thì không ai được phép uống rượu cả, nhưng đạo quân của Hàn Tu thống lĩnh lúc này là ba vạn năm ngàn quân, dư sức làm cỏ cả bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn, do vậy đạo quân của Đỗ Văn Hạo thực chất cũng chẳng cần tham chiến, chính vì vậy Đỗ Văn Hạo sau khi trưng cầu ý kiến của mọi người, nhất là người quản lý trật tự trong quân đội xong, liền mời hết các tướng tá chỉ huy tất cả đều vào trong lều của mình bày tiệc uống rượu xả láng.
Những tướng tá chỉ huy trong đại quân đều là những con sâu rượu, bợm nhậu nên sau vài tuần rượu các tướng soái, chỉ huy đã anh anh em em với nhau vô cùng thân thiện, ai cũng cầm lấy ly rượu của mình ra đích thân mời Đỗ Văn Hạo, rồi luôn miệng thề thốt mình sẽ trung thành với hắn như thế nào.
Sau vài tuần rượu như vậy, Đỗ Văn Hạo cũng trở nên xuề xòa, thế là hắn gọi hết luôn những tướng sĩ còn lại trong doanh trại vào trong lều mình uống rượu, đồng thời còn nâng cao tình trạng ăn uống tiêu chuẩn của quân sĩ lên một bậc, toàn bộ ba quân đều không biết bản lĩnh đánh trận của Đỗ Văn Hạo ra sao, nhưng bọn họ lúc này cảm thấy hắn tuy là một người rất được Hoàng Thượng trọng dụng, nhưng lại không hề tỏ ra hơn người ngạo mạn, mà ngược lại hắn vô cùng bình dị dễ gần, do vậy ai cũng hết lời khen ngợi hắn, làm thân với hắn.
Trong lúc mọi người đang ngồi trong lều uống rượu vui vẻ, thì có một viên tướng một tay cầm cốc rượu, một tay thì ôm lấy cái đầu của mình, nét mặt vô cùng đau khổ tiến đến bên Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân! Mạt Tướng Từ Tam kính người một cốc!”
Đỗ Văn Hạo từ lúc trước đã được Hoàng Thượng sách phong lên làm Cấm Vệ Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Ngụy đại tướng quân, quan chính ngũ phẩm. Ở đời Tống, võ quan mà làm đến chính ngũ phẩm như hắn là được coi có chức khá cao rồi, giờ hắn lại phụ trách thống lĩnh đại quân tây chinh cùng với Hàn Tu nữa, do vậy những võ tướng theo hầu hắn đều xưng hắn là Đỗ tướng quân.
Đỗ Văn Hạo đưa mắt lên nhìn viên tướng kia một cái rồi hỏi: “Ngươi làm sao vậy? Đau đầu hả?”
“Dạ vâng! Đầu của ti chức đúng là có chút đau!”
Đỗ Văn Hạo trông mặt mày của viên tướng này nhăn nhó, mồ hôi trán túa ra như suối bèn cười nói: “Thôi được rồi! Ta trông bộ dạng của ngươi cũng đoán ra được ngươi đang rất đau, lại đây để ta xem cho ngươi!”
“Ài!... Không có vấn đề gì đâu! Tướng quân cứ an tâm, mạt tướng không có vấn đề gì cả đâu!”
“Đây là mệnh lệnh!” Nét mặt của Đỗ Văn Hạo đanh lạnh, sắc mặt của hắn lúc này trầm hẳn xuống nói: “Nếu ngươi mà bị bệnh thì khi tiền phương cần đến các ngươi viện trợ, sao có sức khỏe để tiếp sức cho đại quân đi trước! Nếu mà đại quân của Hàn tướng quân đột nhiên cần đến chúng ta thật thì ngươi làm thế nào hả? Quân sĩ không có được sức khỏe tốt nhất nhất thì làm sao đánh thắng kẻ địch được cơ chứ?”
Lý Phố lúc này cũng đã ngà ngà say, ông ta hôm nay uống cũng khá nhiều, ngồi ngay cạnh đó thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy bèn quay sang Từ Tam cười ha hả nói: “Ngươi đúng là không biết trời cao đất dầy gì cả, Đỗ tướng quân vốn là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu chuyên khám chữa bệnh cho Hoàng Thượng đó! Ngươi được Ngự Y của Hoàng Thượng đích thân ra tay chữa trị cũng không biết sao? Ngươi đúng là phúc bẩy mươi đời rồi đấy! Mau mau tạ ơn Đỗ tướng quân nhanh lên!”
“Dạ! Dạ!” Từ Tam mặt đỏ lựng lên cười trừ đáp, sau đó hắn ta tự nốc cạn cốc rượu trên tay mình, rồi ôm đầu đến bên Đỗ Văn Hạo ngồi xuống.
Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đau được mấy ngày rồi?”
“Được bảy tám ngày nay rồi!” Từ Tam trả lời, Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn sa sầm nét mặt nói: “Sao ngươi không nói sớm cho ta biết?”
“Hề hề! Mạt tướng cứ tưởng mấy ngày nữa là sẽ khỏi thôi, ai ngờ nó lại càng lúc càng nặng thêm.”
“Đồ ngốc! Ngươi chưa nghe câu che dấu nợ thì nghèo, che dấu bệnh tật thì chết sao? Có bệnh sao có thể âm thầm chịu đựng như vậy? Nếu ngươi cứ chịu đựng mãi như thế này thì cần những đại phu như ta làm gì chứ hả? Bệnh nhỏ mà không chữa thì sẽ dẫn đến bệnh lớn, đến lúc đó sẽ chuyển biến thành bệnh nan y, nguy hiểm vô cùng hiểu chưa?”
“Vâng! Vâng! Ha ha! Mạt tướng hồ đồ quá!”
“Ngoại trừ đầu bị đau ra, ngươi còn thấy mình có những hiện tượng nào khác nữa không?”
“Dạ! Mạt tướng còn thấy mình sợ lạnh nữa, mấy hôm nay lại còn bị sốt, ho, nhưng cũng không có gì nghiêm trọng lắm!”
“Ố! Ngươi đưa tay ra đây cho ta xem nào! Để ta bắt mạch cho ngươi trước đã!”
Sau khi bắt mạch xem lưỡi xong, Đỗ Văn Hạo thấy mạch của hắn phù đập nhanh, màng lưỡi mỏng trắng bợt, hắn liền nói: “Được rồi! Bệnh của ngươi đúng là không có gì nghiêm trọng cả, chẳng qua là chứng Phong Nhiệt Nhức Đầu thôi, ta kê cho ngươi Tang Cúc uống, chỉ cần uống vài thang thôi là ngươi sẽ hết đau đầu ngay thôi!”
“Dạ vâng! Ha ha! Đa tạ Đỗ tướng quân đã ra tay cứu chữa!”
Đại quân xuất chinh ngoại trừ việc lương thảo cùng với vật dụng hằng ngày ra, thuốc thang cũng là một vật không thể thiếu, trong quân đội của hắn lúc này cũng mang đầy ắp mấy bao thuốc theo hắn, do vậy mà thuốc thang của Từ Tam không phải là một vấn đề quá khó với hắn lúc này.
Đỗ Văn Hạo liền cho gọi Thị Phụng Vệ Binh (một chức quan chuyên việc chuẩn bị giấy tờ) mang đến bút nghiên cho hắn, Đỗ Văn Hạo sau khi cầm bút lên liền viết luôn một phương thuốc rồi bảo Từ Tam đến Quân Y cắt thuốc. Bọn tướng sĩ trông thấy Đỗ Văn Hạo quan tâm đến sức khỏe thuộc hạ của mình, lại còn đích thân chủ động ra tay chữa trị cho kẻ dưới như vậy, tất cả đều vô cùng cảm động, do vậy mà bọn họ đều lũ lượt cầm rượu lên kính hắn. Còn có những người thấy mình có một số bệnh vặt vãnh cũng nhân cơ hội này bảo Đỗ Văn Hạo chữa cho, Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là không từ chối ai cả, hắn một bên uống rượu, một bên khám bệnh cho họ, không khí trong lều lúc này trở nên huyên náo nhưng lại rất ấm áp tình người.
Sau khi uống thuốc của Đỗ Văn Hạo kê cho, bệnh của Từ Tam đã thuyên giảm thấy rõ, hắn vui mừng khôn xiết, và bắt đầu từ đó, Từ Tam lại càng nể trọng Đỗ Văn Hạo hơn.
Chương 311: Trong đầm có quỷ!
Những viên tướng theo Đỗ Văn Hạo thường ngay cười nói vui vẻ, phóng khoáng, nhưng khi đến lúc Đỗ Văn Hạo hạ trại duyệt binh thì tất cả mọi người đều không còn vẻ mặt cười đùa như mọi khi nữa, trông ai cũng nghiêm túc, nhất là khi bọn họ thấy Đỗ Văn Hạo đối xử với họ như anh em như vậy, nên tất cả đều không muốn hắn bị mất mặt trước Tô Thức. Chính vì vậy giờ duyệt binh chưa đến, bọn họ đã chỉnh tề đứng đợi bên lều của Đỗ Văn Hạo từ sớm, người nào người nấy đều ngẩng cao đầu, ngực ưỡn lưng thẳng, trông vô cùng hiên ngang, khí phách.
Đỗ Văn Hạo ngồi ở ngay lều chính của doanh trại quân đội, Quân Tào ( tên một chức quan) phụ trách kỷ luật trong quân đội lúc này đã đi đến dâng lên cho hắn danh sách tướng sĩ theo cùng hắn, Đỗ Văn Hạo liền lần lượt điểm danh, khi hắn điểm danh đến tên Từ Tam thì không nghe thấy ai trả lời cả, mà chỉ nghe thấy tiếng khàn khàn khọ khẹ đáp lại, Đỗ Văn Hạo sững người không hiểu vì sao, khi hắn ngẩng đầu lên nhìn thì chỉ thấy Từ Tam đứng ở phía trước, miệng hắn ngáp ngáp nói không thành lời, chỉ đưa tay lên ra hiệu rằng mình đã đến.
Đỗ Văn Hạo cau mày lại hỏi: “Ngươi bị làm sao vậy?” Một viên tướng đứng bên cạnh Từ Tam liền cười cười nói đỡ cho hắn: “Từ Tam bắt đầu từ hôm qua đã nói năng có vấn đề rồi ạ! Hôm nay khi hắn thức dậy thì bỗng thấy mình không nói ra lời được nữa!”
“Ố!” Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục điểm danh, sau khi toàn bộ quân đội đã tề tụ đông đủ, hắn bèn đứng dậy bắt đầu phát hành quân lệnh, ban bố những kỷ luật nghiêm minh trong quân đội, kỷ luật thép mới là cơ sở của thắng lợi, sau khi nói xong những lời rỗng tuếch mà ai cũng biết từ khi nhập ngũ đó xong, thì mọi người được hắn cho giải tán ra về.
Khi Từ Tam chuẩn bị đi, thì Đỗ Văn Hạo bèn gọi giật hắn lại nói: “Ngươi đứng lại! Để ta xem xem ngươi rốt cuộc bị làm sao cái đã!”
Từ Tam vội vã cúi người tiến lại bên Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo liền bảo hắn ngồi xuống, rồi đưa mắt lên quan sát hắn một lúc, Đỗ Văn Hạo lẳng lặng chẳng nói thêm câu nào nữa, hắn cầm lấy tay của Từ Tam để bắt mạch sau đó lại xem lưỡi, hắn phát hiện mạch tượng của Từ Tam y hệt lần trước, bệnh tình không có gì tiến triển tốt cả, hơn nữa phương thuốc mà Đỗ Văn Hạo kê cho Từ Tam thuộc vào loại thuốc mát, liều nhẹ không thể nào làm cho hắn bị mất khả năng nói ra lời như vậy được, trong này chắc chắn phải có nguyên nhân nào đó, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn thấp giọng hỏi: “Hai ngày gần đây có ăn uống bậy bạ, lung tung gì không?”
Từ Tam nghe Đỗ Văn Hạo hỏi vậy bèn mở miệng đáp lại, nhưng miệng hắn chỉ mở ra ngáp ngáp không nói được lên lời, mặt hắn đỏ lựng lên lấy hết sức bình sinh nhưng vẫn vô vọng.
Từ Tam lúc này vô cùng khó xử, hắn không biết nên nói thế nào, bèn đưa tay ra quờ lấy viên Nha Tướng đứng bên cạnh đó, ra ý cho hắn ta nói hộ giúp mình.
Viên Nha Tướng đó vốn là chiến hữu vô cùng tốt của Từ Tam, thấy hắn làm vậy cũng ngường ngượng gãi đầu gãi tai cười trừ nói: “Bẩm tướng quân! Chuyện là thế này, sau khi Từ Tam uống thuốc của tướng quân kê cho hắn xong thì bệnh tình của hắn thuyên giảm rất nhiều, nhưng hắn vẫn cảm thấy đầu của hắn còn hơi đau đau, hắn vốn định đến bảo tướng quân phúc chẩn cho hắn, kê thêm vài đơn thuốc nữa cho hắn uống. Nhưng hắn lại sợ làm phiền tướng quân nhiều quá, cũng đúng lúc đó thì mạt tướng cũng vừa uống say về, nên đã mạnh miệng bảo hắn là chữa bệnh đau đầu dễ lắm! Chẳng cần làm phiền tướng quân làm gì, mạt tướng cũng có thể chữa thay cho hắn, sau đó mạt tướng kê cho hắn uống năm tiền Tế Tân, không ngờ hắn nghe lời mạt tướng thật, hắn cầm luôn bài thuốc của mạt tướng kê cho hắn chạy đến Quân Y đòi năm tiền thuốc, sau khi uống xong không lâu liền cảm thấy đầu càng lúc càng đau, nói chuyện cũng vô cùng khó khăn!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thở dài nói: “Sách Y Học có viết rằng: ‘Người ngoài không biết nói lăng nhăng, không hiểu đạo lý chữa lung tung, đến khi dùng thuốc cứ làm bừa, lẽ nào không phải là lang băm?’ Ngươi cũng là một người biết chút ít về y thuật, vậy sao lại không biết câu nói này hả?”
Viên Nha Tướng nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì cảm thấy ân hận vô cùng, hắn bèn chắp tay nói: “Bẩm tướng quân! Mạt tướng biết mình đã sai rồi, mong tướng quân hãy mở lòng nhân từ mà cứu chữa cho hắn!”
“Bệnh tình lúc này của hắn tuy cũng không nguy hiểm lắm, nhưng mà ngươi về sau cũng không nên kê thuốc bừa bãi như vậy nữa, nếu ngươi cứ làm bừa như vậy sẽ thành làm hại người khác đấy!”
Viên Nha Tướng nhe xong liền gật đầu tuân lệnh, rồi lại ngẫm nghĩ một lúc nói: “Bẩm tướng quân! Tế Tân không phải là loại thuốc chuyên chữa nhức đầu sao? Ông nội của mạt tướng là một lang trung, ông đã từng nói với mạt tướng rằng Tế Tân là thuốc chữa nhức đầu, mạt tướng còn tận mắt chứng kiến ông nội dùng Tế Tân chữa được bệnh đau đầu rồi!”
Đỗ Văn Hạo nói: “Không sai! Tế Tân đúng là thuốc trị nhức đầu, nhưng mà bệnh nhức đầu thì có rất nhiều loại, không phải bệnh nhức đầu nào cũng có thể dùng Tế Tân chữa được, Tế Tân là vị thuốc cay đắng, tính của nó bột, chuyên trị bệnh Phong Hàn Nhức đầu, nhưng bệnh của Từ Tam là Phong Nhiệt Nhức Đầu, bản thân hắn cũng cảm thấy sợ lạnh, ngươi lại dùng Tế Tân chữa cho hắn thì chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa cho căn bệnh của hắn cả! Đầu lại nơi hội tụ của các Dương, Tế Tân sẽ là thuốc dẫn Dương Nhiệt hướng lên, do vậy Từ Tam sẽ càng cảm thấy đau đầu hơn, ngoài ra Tế Tân là vị thuốc rất dễ làm hao tổn khí huyết cơ thể con người, khi uống nhiều nhất cũng chỉ một tiền thôi, đằng này ngươi lại cho tận năm tiền! Như vậy là vô cùng nguy hiểm ngươi biết không? Nếu ngươi biết rằng khi dùng mỗi một mình thuốc Tế Tân với liều lượng lớn sẽ làm cho người ta bị suy kiệt đường hô hấp mà dẫn đến từ vong, thì chắc là ngươi sẽ không bao giờ dám kê đơn bừa bãi như vậy cả!”
Nha Tướng nghe xong thì toàn thân toát mồ hôi lạnh nói: “Vậy hắn có phải đã trúng độc của Tế Tân rồi không?”
“Ừm! Từ Tam hiện giờ đang trong trạng thái trúng độc mức độ nhẹ, nhưng cũng không có vấn đề gì lớn cả đâu, vẫn có thể uống tiếp Tang Cúc, cho thêm Vi Lồ, Mao Cân là được rồi!” Nói xong Đỗ Văn Hạo liền cất bút lên viết đơn thuốc rồi sau đó đưa cho Nha Tướng nói: “Ngươi mau mau đi cắt thuốc cho Từ Tam uống đi! Sau khi uống xong thang thuốc này thì bệnh của hắn sẽ khỏi thôi, đầu cũng hết đau, mà miệng cũng nói được nữa!”
Nha Tướng nghe xong liền cúi người tạ ơn xong rồi liền vội vã chạy đi ra Quân Y cắt thuốc cho Từ Tam.
Đại quân lại tiếp tục lên đường hành quân, giờ đây Đỗ Văn Hạo không còn ngày nào cũng gọi tướng sĩ đến lều của mình mở tiệc uống rượu nữa, mà hắn đổi thành cách ngày mới mở tiệc uống rượu, và định ra quy định, ngoại trừ những tướng sĩ đến lều của hắn mới được phép uống rượu, còn đâu ngoài ra nếu hắn phát hiện ai uống rượu ở ngoài sẽ bị trừng phạt theo luật.
Khi mới truyền lệnh này được có mấy hôm, thì những tướng sĩ thường ngày hay đến lều của Đỗ Văn Hạo uống rượu, không coi luật lệ hắn vừa ban bố ra cái gì, bọn họ vẫn lén lút uống rượu một mình, Đỗ Văn Hạo sau khi phái quân đi kiểm tra thì liền phát hiện ra, ngay lập tức hắn mời ngay người đó đến lều của hắn rồi phạt người vi phạm luật đó ba mươi roi ngay trước mặt tướng sĩ khác, từ đó trở đi, không còn ai dám vi phạm thiết quân lệnh của Đỗ Văn Hạo nữa.
Sau khi đánh xong ba mươi gậy, Đỗ Văn Hạo bèn đích thân đến thăm người bị đánh, rồi chữa trị cho hắn. Mấy viên tướng sĩ phạm tội thấy vậy lại vô cùng cảm kích hắn, và tự nhận thấy mình có lỗi nên đã hứa với Đỗ Văn Hạo rằng bọn họ lần sau sẽ tuân lệnh hắn, quyết không bao giờ phạm luật lần thứ hai.
Việc này tuy nhỏ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao, Đỗ Văn Hạo không những quan hệ với tướng sĩ của mình ngày càng thân mật hơn, mà còn duy trì được sự nghiêm minh trong kỷ luật quân đội của hắn, thiết lập được sự uy tín vô cùng to lớn trong đại quân của hắn.
Bây giờ đại quân chỉ còn cách Hoàng Châu hai ngày đường nữa là tới.
Hành quân nhiều ngày như vậy, nên Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy mệt mỏi. Ngày hôm đó, hắn đang ngồi trên xe ngựa hai mắt díp lại vào nhau, người hắn lắc lư theo từng nhịp của xe ngựa, đang trong lúc hắn ngủ gà ngủ gật như vậy, thì đột nhiên xe ngựa dừng luôn lại, Lâm Thanh Đại bèn đưa tay ra đẩy nhẹ hắn một cái nói: “Văn Hạo! Nơi này phong cảnh đẹp lắm, mọi người đều đi đường mệt rồi, hay là chúng ta ngồi nghỉ ở đây nhé?”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới mở mắt ra, rồi vén rèm nhìn ra bên ngoài, đôi mắt hắn chợt sang hẳn lên, trước mắt hắn bây giờ là một dòng thác chảy xuống thẳng tắp, một luồng khí mát rượi đập vào mặt hắn, trên mặt hắn lúc này vương vấn lấm tấm những hạt nước bắn lên, cạnh đó có một thảm cỏ tươi, đúng là một nơi phong cảnh hữu tình, nên thơ.
Đỗ Văn Hạo vội vàng truyền lệnh cho phó tướng Lý Phố của mình bảo với mọi người ngoại trừ đội quân thị vệ của hắn ra, đại quân tiếp tục hành quân thêm năm dặm đường nữa thì ngồi nghỉ một canh giờ để chờ.
Sau khi truyền lệnh, đại quân tiếp tục hành quân, còn Đỗ Văn Hạo và những người khác thì đánh xe đến bên thác nước rồi dừng xuống.
Sau khi xe dừng lại bên thác nước, Đỗ Văn Hạo bèn dắt mấy người vợ của hắn cùng xuống đây ngắm cảnh, Diêm Diệu Thủ thì chỉ đạo mấy đứa thị vệ đến bên thác nước dựng lều bạt ở gần đó. Liên Nhi và mấy đưa nha hoàn khác bèn đến bên xe đem đồ ăn xuống, thời tiết cũng hơi nóng, nhưng lại không có mặt trời, hai bên đường đều là những gốc liễu xanh mượt là nơi rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi.
Tuyết Phi Nhi vô cùng thích thú, nàng vứt luôn cả đôi giầy Tú Hoa của mình sang một bên, cầm lấy tay của Liên Nhi nói: “Đi nào Liên Nhi! Chúng ta cùng đến bên thác nước rửa chân cho mát nào!”
Liên Nhi lúc này thẹn thùng đáp: “Phi Nhi và hai tỷ tỷ đi trước đi, muội và bọn nha hoàn chuẩn bị đồ ăn cho thiếu gia cái đã!”
Từ khi chia tay với Trần Mỹ Nhân xong, Liên Nhi luôn cứ hay giữ kẽ với mọi người, nàng giờ đây thích ngồi cùng với mấy đứa nha hoàn hơn, và ít nói chuyện với mọi người, lúc nào trông nàng cũng bận rộn làm việc, ngay cả với Đỗ Văn Hạo nàng cũng e dè, cung kính, cẩn trọng.
Đỗ Văn Hạo thấy Liên Nhi nói vậy bèn cười nói: “Liên Nhi! Nàng cứ đi đi, những chuyện vặt này cứ để cho mấy đứa nha hoàn lo liệu là được rồi, nàng đã là thiếp của ta rồi, nếu như nàng cứ bắt mình bận bịu như vậy, thì chẳng khác nào là tranh công tiếc việc của bọn chúng cả, lẽ nào nàng muốn cướp công ăn việc làm của bọn chúng sao?”
Liên Nhi nghe xong thì mỉm cười ngại ngùng, hai má ửng đỏ.
Anh Tử đứng cạnh đó cũng cười nói: “Thiếu gia nói đúng đó, nhị phu nhân và tam phu nhân cứ đi rửa chân cho mát, chỗ này đã có bọn nô tỳ lo cho rồi, cũng chẳng có gì cả đâu, đều là những thứ làm sẵn rồi, chẳng mất thời gian đâu!”
Đỗ Văn Hạo thấy nơi này cũng ít người qua lại, vô cùng thanh tĩnh bèn nói: “Chúng ta có phải đi nhầm đường hay không? Chỗ này sao mà lại yên tĩnh như vậy nhỉ?”
Lý Phố nghe vậy bèn tiến đến, ông ta không ngừng dùng ống tay áo đưa lên quạt quạt, mồ hôi nhễ nhại chảy đầm đìa ướt hết cả áo nói: “Bẩm đại nhân! Đại nhân quả nhiên tinh tường, đường chúng ta đi là một con đường tắt, binh sĩ đi trước dò đường phát hiện ra con đường mới đi này! Đại nhân không cần phải bận tâm đâu, ti chức đã cho người đi kiểm tra lại rồi, vô cùng an toàn! Đại nhân cùng người nhà của mình có thể ngồi nghỉ tại đây, ti chức sẽ đưa đám thị vệ đi tuần quanh đây cho đại nhân!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng hài lòng, bèn gật đầu đồng ý. Đợi cho mấy người đi hẳn, hắn liền quay sang Anh Tử nói: “Ngươi có thể đem Tiểu Khả ra ngoài cho nó thở được rồi đấy! Trời nóng thế này cho nó uống chút nước lấy sức đi!”
Anh Tử nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, nàng liền chạy lại xe của mình, chui vào phía trong tháo xích ra cho Tiểu Khả, con hổ liền tung mình nhảy luôn xuống xe, sau đó nó chạy vòng quanh người Anh Tử hai vòng, rồi lại chạy đến trước mặt Đỗ Văn Hạo quỳ xuống đưa lưỡi ra liếm liếm tay của hắn.
Mấy gã thị vệ của Đỗ Văn Hạo cũng biết hắn nuôi hổ, con hổ này hiền như con mèo vậy, nó không ăn thịt, tính tình vô cùng ngoan ngoãn, dễ chịu, và rất chi là nhát gan, chính vì thế mà mọi người đều không sợ nó.
Đỗ Văn Hạo thấy Tiểu Khả liếm liếm tay mình bèn nói: “Nó hình như nóng lắm rồi! Đưa nó đi tắm một cái cho mát!”
Anh Tử nghe xong bèn gật đầu hiểu ý, nàng kéo luôn Tiểu Khả đến bên thác nước, Tuyết Phi Nhi và Liên Nhi đang ngồi trên mỏm đá gần thác nước, thấy Anh Tử đi đến, bèn cười lên khanh khách sau đó dùng gáo nước hất về phía Tiểu Khả, tiếng cười giòn tan của bọn họ vang dội khắp nơi sơn cốc này.
Tiểu Khả rón rén bước đến bên thác nước, sau khi đưa chân trước ra dò dẫm độ sâu, cùng với nhiệt độ của nước xong mới dám dẫm chân xuống, Anh Tử thấy vậy bèn thả dây xích của Tiểu Khả ra, con hổ liền tung người nhảy xuống hố nước dưới chân thác kêu lên tùm một tiếng, nước bắn tung tóe khắp nơi, làm cho mấy người con gái đứng gần đó đều cười lên vui vẻ.
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã tháo giầy ra, chân trần bước xuống dưới đầm nước lạnh, một cảm giác mát rượi tràn ngập khắp cơ thể của hắn.
Tuyết Phi Nhi quay sang Lâm Thanh Đại nói: “Tỷ tỷ! Nước mát thật đấy, hay là chúng ta xuống dưới đầm tắm mát một chút đi!”
Bàng Vũ Cầm đứng cạnh đó thấy vậy lên tiếng nói: “Cái này có vẻ không ổn lắm! Nơi này hoang vu vắng vẻ thế này!”
“Sợ gì chứ! Bảo đám thị vệ lui ra phía xa, còn những người đàn ông khác thì bảo họ tránh mặt đi là được chứ gì!”
Đỗ Văn Hạo ngồi cạnh đó cũng nghe thấy mấy người nói chuyện, bèn mỉm cười nói với Diêm Diệu Thủ: “Mấy người bọn ngươi lui vào trong rừng kia hóng mát một chút đi!”
Mấy người này nghe xong liền hiểu ý, vội vã cúi đầu lui vào tít xa hơn mười trượng, ngay cả Ninh công công cũng biết điều lui ra ngoài rừng theo cùng mấy người kia luôn.
Nhưng, Bàng Vũ Cầm vẫn cảm thấy có chút do dự, Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn nói: “Ta có cách này! Chúng ta sẽ cho bọn thị nữ đem lều bạt giăng xung quanh cái đầm này, như vậy sẽ chẳng có ai nhìn thấy chúng ta tắm dưới này cả!”
Tuyết Phi Nhi nghe xong thì vỗ tay nói: “Quá tuyệt! Mau mau làm đi!”
Thế là mọi người liền hạ lệnh cho mấy đứa thị tỳ giăng bạt che xung quanh cái đầm nước dưới chân thác lại, không để chừa ra một khe hở nào cả.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười ha hả nói: “Mấy người phụ nữ các ngươi thật đúng là…! Đến cả tắm rửa cũng phải phiền phức đến như vậy, cứ mặc nguyên quần áo mà xuống có phải là xong rồi không?”
Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn trợn mắt nói: “Thế thì có ý nghĩa gì chứ? Cởi sạch hết ra rồi tắm có sướng hơn không!”
“Hả?” Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt lên.
Tuyết Phi Nhi bèn cười lên khanh khách, sau đó tự tay cởi nút buộc trên váy của mình xuống rồi chui vào sau tấm lều che, sau đó rất nhanh nàng đã cởi sạch toàn bộ quần áo trên người xuống, rồi thò mỗi cái đầu ra ngoài, để lộ cả bộ ngực trắng nõn của mình híp mắt cười nói với Đỗ Văn Hạo: “Tướng công! Chàng có muốn vào tắm cùng không?”
Một bồn tắm tự nhiên, lại có người đẹp tắm cùng nữa, chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn, Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn mở miệng cười hắc hắc, hắn liền từ từ cởi quần áo của mình xuống.
Đúng lúc này từ nơi xa có một giọng nói của một người phụ nữ vọng đến: “Không được! Không được tắm ở đó!”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy thì kinh hãi, hắn quay người lại nhìn, thì thấy cách đó không xa đang có một người phụ nữ trung niên chạy lại đây, xem cách ăn mặc của bà ta thì có lẽ là một người nông dân, trên tay còn cầm một cái giỏ mầu xanh.
Đỗ Văn Hạo thấy vô cùng kỳ lạ, tại sao những tên cảnh vệ lại không hề ngăn chặn bà ta lại, hắn liền lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Đến đây làm gì?”
Người phụ nữ đó trông thấy Đỗ Văn Hạo thân mặc quan phục, thì biết hắn là người làm quan nên vội vã cúi người đáp: “Thảo dân là người dân ở thôn gần đây, lúc trước vì đi hái rau rừng về cho lợn ăn thì mệt quá bèn nằm ngủ trong động!” Đỗ Văn Hạo nghe bà ta nói xong mới chợt hiểu tại sao bọn cảnh vệ không phát hiện để ngăn chặn bà ta lại, hăn bèn lên tiếng hỏi tiếp: “Lúc nãy ngươi nói gì vậy?”
“Bẩm đại lão gia! Nơi này có ma, không được phép tắm rửa đâu, nếu mà tắm ở đây sẽ bị mắc bệnh nghiêm trọng, nhẹ thì bị nằm liệt giường, còn nặng thì sẽ mất mạng!”
Mấy người vợ của Đỗ Văn Hạo đứng sau lều nghe vậy thì sợ hãi vô cùng, bọn họ thà tin lời của bà lão nói, chứ không dám đem mình ra thử nghiệm xem lời nói đó là thật hay giả, do vậy tất cả đều nhanh tay trèo lên bờ mặc luôn quần áo vào.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì cau mày nói: “Ngươi sao lại biết nơi này có quỷ?”
Người phụ nữ đó liền đáp: “Sao lại không biết được! Chuyện này dân phụ đã từng trải qua rồi, sao lại có thể không biết được cơ chứ!”
Lúc này mấy người vợ của Đỗ Văn Hạo đã ăn mặc quần áo chỉnh tề, chui ra khỏi lều che, người phụ nữ trông thấy từ trong lều che bước ra bốn mỹ nhân đẹp như tiên nữ giáng trần, thì vô cùng hoảng sợ, bà ta đứng ở đó mà tay chân run cầm cập, hai mắt như muốn lồi hẳn ra ngoài.
Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn nhẹ nhàng nói: “Ta thích nhất là nghe chuyện ma quỷ, cái đầm nước này có quỷ thật không vậy? Thím kể cho ta nghe được không?”
Người phụ nữ đó chần chừ một lúc rồi mới mở miệng nói: “Đó đã là chuyện của mười lăm năm về trước rồi, hồi đó dân phụ cũng trẻ đẹp như mấy vị phu nhân này! Bất kỳ người đàn ông nào trông thấy dân phụ đều phải nuốt nước bọt thèm muốn! Ha ha!” Người phụ nữ nói đến đó liền bật miệng cười ha hả làm cho Tuyết Phi Nhi và những người khác cũng phải bật cười theo.
Người phụ nữ đó lại tiếp tục kể: “Dân phụ nhớ rằng chuyện là thế này! Ngày hôm đó thời tiết cũng giống với hôm nay, nhà của dân phụ ở ngay sau cái thác này, có một con đường tắt dẫn đến đây rất nhanh, hôm đó dân phụ và chị dâu của mình hai người sau khi làm xong hết công việc, thì thấy thân hình nhơm nhớp khó chịu, áo quần đều bị mồ hôi thấm ướt hết cả, thế là hai người chúng tôi bèn bàn với nhau đến thác nước này để tắm, cái đầm này vì nằm ở nơi vắng vẻ, không gần đường đi, nên rất ít người qua lại nơi đây, chính vì thế nên chúng tôi vui đùa ở đây nửa canh giờ liền. Bởi vì là ban ngày nên trời vẫn sáng, quần áo lại phơi ở trên cây nên chúng tôi cũng hơi lo lắng có người đi qua nhìn thấy, vì thế nên cũng không dám tắm lâu, đang định đi về thì chị dâu của dân phụ đột nhiên kêu lên thảm thiết rồi ngã xuống cái đầm nước này, dân phụ lúc đó không biết xảy ra chuyện gì, vội chạy đến đỡ chị dâu dậy rồi dìu lên bờ, nhưng chị dâu lúc này đã ngất lịm đi rồi, dân phụ liền làm theo cách của ông lang trung trong làng dậy cho dân phụ là ấn vào huyệt Nhân Trung cho chị dâu tỉnh lại, sau đó quả nhiên chị dâu của dân phụ đã tỉnh lại, nhưng khi về đến nhà thì chị dâu bị bệnh, nửa tháng sau thì mất, còn dân phụ thì ngoài việc làm cơm, hái rau rừng ra đều không thể làm được việc gì khác nữa!”
Tuyết Phi Nhi nghe xong bèn nói: “Không thể như thế được! Làm gì có quỷ giữa ban ngày, người ta không phải hay gặp quỷ vào ban đêm, và quỷ hay xuất hiện ở những nơi hoang vu hẻo lánh sao? Nơi này không những có người ở, mà còn là ban ngày nữa, có lẽ thím đã tưởng tượng quá nhiều rồi!”
Người phụ nữ đó nghe vậy bèn thở dài nói: “Dân phụ cũng hy vọng mình đã suy nghĩ nhiều, nhưng sau đó người trong thôn tìm đến một thần bà vô cùng linh nghiệm đến làm phép, khi bà ta vừa vào trong nhà của dân phụ thì liền thay đổi hẳn nét mặt, rồi nhanh chóng lui ra ngoài rồi nói trong phòng của dân phụ âm khí quá nặng, sau đó bà ta phán rằng chị dâu của dân phụ bị con quỷ dưới đầm nó tóm đi rồi, nghe nói con quỷ đó là oan hồn hay vương vẩn dưới đầm, hễ ai xuống đó liền bám lấy cho đến chết!”
Người phụ nữ vừa dứt lời thì Tuyết Phi Nhi đã bắt đầu cảm thấy sờ sợ, nàng vội vã dựa vào vai của Liên Nhi nơm nớp lo lắng.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Như vậy cũng không đúng, tại sao đến giờ bà vẫn còn sống?” Người phụ nữ liền trả lời: “Dân phụ cũng hỏi thần bà tại sao như vậy, thì bà ta nói rằng dân phụ sinh vào mùa đông nên số rất cao, chính vì vậy nên mới thoát chết, nhưng không vì thế mà thoát nạn được, dân phụ từ đó sức khỏe luôn rất không tốt, có lẽ đã bị quỷ bám vào người rồi, những oan hồn dã quỷ đó chỉ tìm cơ hội là nhập vào người sống để được sống lại thôi!”
Liên Nhi nghe xong thì kêu á lên một tiếng kinh hãi, toàn thân nàng run lên cầm cập, chạy thẳng đến bên Đỗ Văn Hạo rồi rúc người vào lòng hắn.
“Thôi được rồi! Xem ngươi dọa người thiếp của ta sợ đến xanh mặt rồi đây này, quỷ với ma rõ là vớ vẩn!” Đỗ Văn Hạo thấy Liên Nhi sợ như vậy bèn trầm giọng nói.
Người phụ nữ kia thấy Đỗ Văn Hạo sa sầm nét mặt xuống bèn vội vã câm miệng lại, không dám nói thêm câu nào nữa.
Lâm Thanh Đại thấy người phụ nữ này bị Đỗ Văn Hạo làm cho sợ hãi thì cảm thấy không bằng lòng, tuy nàng biết hắn không tin vào ma quỷ, nhưng cũng không nên làm người lớn tuổi hơn mình phải sợ hãi như vậy, do vậy nàng bèn tiến tới khuyên giải: “Thiếu gia của chúng tôi không có ý gì đâu xin thím đừng sợ! Nhưng tôi thấy chuyện này có vẻ trùng hợp lắm! Thế về sau có thêm ai bị như vậy nữa không?”
Người phụ nữ đó bèn đáp: “Về sau mọi người đều nghe chuyện này xong liền không cho phép ai được tiếp cận dòng thác này để tắm rửa nữa, những người trong thôn còn lo sợ người ngoài thôn không biết mà đến tắm nên cũng đã dựng một tấm biển ở đây, có lẽ do đêm qua gió to quá nên nó chắc là bị thổi bay xuống dưới đầm nước kia rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đứng lên đưa mắt theo dõi, quả nhiên ở cách đó không xa hắn phát hiện thấy một tấm biển, hắn liền vội vã chạy đến nhặt lên xem xét, quả đúng như người phụ nữ kia đã nói tấm biển có đề dòng chữ: “Nơi này có quỷ, không được dừng chân tắm rửa ở đây!”
Đỗ Văn Hạo trông vậy liền lên tiếng cười hềnh hệch đắc chí, nhưng lại lo mấy người thê thiếp của hắn sợ hãi nên cầm cái biển đó quăng luôn vào trong bãi cỏ gần đấy, rồi mới chầm chậm quay lại chỗ cũ.
Lâm Thanh Đại thấy hắn quay về bèn lên tiếng hỏi người phụ nữ kia: “Vậy khi đó hai người có đi tìm thấy thuốc về khám bệnh không?”
“Tìm rồi! Dĩ nhiên là tìm rồi! Thầy thuốc trong thôn chúng tôi đã khám bệnh cho rồi, ông ta nói rằng tôi và chị dâu bị chứng Hư Nhiệt, thế là kê cho chúng tôi một đơn thuốc để uống, ai ngờ đến sáng ngày hôm sau thì thấy toàn thân lạnh ngắt, hai chân nhức mỏi, hai người chúng tôi lại uống thêm một ngày thuốc nữa thì càng kinh hãi hơn, tay chân lúc đó không thể co duỗi, đi lại bình thường được nữa!”
Tuyết Phi Nhi lúc này mới chỉ vào đôi chân của người phụ nữ kia vẻ mặt khó hiểu nói: “Nhưng tôi trông thấy hai chân của thím chẳng có dấu hiệu gì cả là sao?”
“Chuyện là thế này! Sau khi chị dâu của tôi mất được hai năm, thì có một hôm mọi người trong nhà tôi đều ra ngoài làm việc hết cả, khi đó trời đột nhiên mưa như trút nước, chỉ có một mình tôi ở trong nhà, ngoài sân vẫn đang phơi quần áo mà không ai thu lại cả. Tôi nằm trên giường trông thấy thì vô cùng sốt ruột, bởi vì nằm liệt trên giường cả hai năm trời không biết hai chân mình thế nào nữa, chỉ biết lúc đó do vội vã mà cố gắng xuống giường ra ngoài cất quần áo cho khỏi bị ướt thôi. Sau khi thu dọn hết đống quần áo vào nhà, thì mọi người cũng vừa vặn về đến nơi, thấy tôi đứng đó thì vô cùng kinh ngạc, sau đó mọi người bảo tôi cố gắng đi lại xem sao, mặc dù lúc đó hai chân tôi nhức mỏi, thiếu sức nhưng vẫn cố gắng lết đi được, và bắt từ đó trở đi, chỉ cần không phải tiết trời mưa dầm, ẩm ướt thì đôi chân của tôi không có vấn đề gì cả!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn nói móc người phụ nữ kia: “Thế ngươi có đi tìm thần bà trong thôn của ngươi hỏi xem rốt cuộc là tại sao ngươi bỗng nhiên đi lại được như vậy không?”
“Có, hỏi rồi! Thần bà nói rằng đây là do phụ thân của dân phụ ngày nào cũng thờ trời khấn phật, nên đã cảm động trời xanh, chính vì thế mà dân phụ mới đi lại bình thường được!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy không nhịn nổi cười gật gật đầu nói: “Vậy ngươi tại sao vẫn nói ngươi bị tàn phế không làm nổi việc gì nữa?”
Người phụ nữ đó bèn đáp: “Tuy chân của dân phụ có thể đi lại bình thường được, nhưng mười lăm năm nay ngày nào cũng sau buổi trưa thì dân phụ lại phát sốt, toàn thân nhức mỏi, đầu óc quay cuồng, thần bà nói rằng con quỷ ngày trước vẫn còn bám lấy dân phụ chưa chịu buông tha, chính vì thế nên dân phụ mới bị như vậy!”
Lâm Thanh Đại nghe xong cũng thấy buồn cười: “Thím có lẽ không phải là gặp quỷ đâu mà là bị bệnh đó! Văn Hạo chàng bắt mạch cho Thím ta xem xem! Thím hôm nay cũng gặp may đấy nhé, tướng công của tôi cũng là một thầy thuốc, thím cứ để cho chàng khám cho!”
Người phụ nữ kia ngạc nhiên hỏi: “Mấy người không phải gọi ông ta là đại nhân hay sao? Sao giờ ông ta lại biến thành thầy thuốc rồi?”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì cất giọng trầm ấm nói: “Cái này không quan trọng, nhưng mà nếu như ngươi đồng ý để ta xem bệnh cho ngươi thì có lẽ ta sẽ giúp được ngươi diệt trừ căn bệnh quái ác hành hạ ngươi suốt mười lăm năm nay đây! Ngươi có đồng ý không?”
Người phụ nữ kia nghe xong vẫn còn chần chừ, do dự, Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn hứ lên một tiếng nói: “Ài! Thiếu gia nhà chúng tôi là một người nổi tiếng lắm đó, hi hi! Thím đừng có bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này, có rất nhiều người bỏ cả núi tiền ra để nhờ thiếu gia nhà chúng tôi khám bệnh cho cũng không được nữa đâu đấy!”
Người phụ nữ kia nghe vậy thì tin ngay, vội vã chìa tay ra để Đỗ Văn Hạo bắt mạch cho mình.
Nhưng Đỗ Văn Hạo lại không gấp gáp bắt mạch vội, mà hỏi bà ta: “Ngoại trừ những triệu trứng mà ngươi đã nói từ trước, kinh nguyệt hàng tháng của ngươi có đều đặn không?”
Người phụ nữ kia nghe xong thì đột nhiên mặt đỏ hết cả lên, cúi đầu xuống không nói nên lời.
Tuyết Phi Nhi lại phá lên cười nói: “Ối chao! Thím ơi là thím, thím còn biết ngượng ngùng nữa à? Chỗ này ngoại trừ thiếu gia nhà chúng tôi ra thì tất cả đều là phụ nữ hết cẩ, chuyện kinh nguyệt hàng tháng ai cũng biết rồi, thím còn ngượng ngùng cái gì nữa, thiếu gia nhà chúng tôi là thầy thuốc, hỏi thím như vậy cũng là muốn chữa bệnh cho thím thôi, thím cứ ngúng nguẩy như vậy thì sao thiếu gia biết đường mà khám được, lẽ nào thím muốn mình bị bệnh cả đời hay sao?”
Người phụ nữ kia lúc này mặt đỏ như gấc, bà ta đưa mắt ra nhìn tứ phía rồi mới e thẹn lắp bắp trả lời: “Kinh nguyệt…vẫn…vẫn đều đặn, nhưng mà cái.. cái…gì mà mỗi lần kinh đến…cái đó gọi là gì nhỉ…nó nhiều lắm…có lần ra nhiều đến nỗi như mình đi tiểu tiện vậy, nếu vào đúng thời tiết như thế này thì cả đũng quần của tôi cũng sẽ ướt sũng mất!”
Nói đến đến đây gương mặt người phụ nữ kia cúi xuống, xấu hổ không biết để đâu cho hết, mặt bà đỏ chín lên như một cái lò nung lửa vậy, Liên Nhi trông thấy bộ dạng của bà ta như vậy cũng cảm thấy ngại ngùng, nàng bèn đưa khăn tay lên che mặt e thẹn lặng lẽ bỏ ra ngoài. Lúc này chỉ còn mỗi Bàng Vũ Cầm và Lâm Thanh Đại tâm lý vững vàng, nét mặt bình thản ngồi ở đó im lặng lắng nghe mà thôi.
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn nói: “ Ngươi há miệng ra để ta xem lưỡi của ngươi thế nào nào!” Sau đó hắn ra ý bảo người phụ nữa kia há miệng le lưỡi ra, Đỗ Văn Hạo trông thấy lưỡi bà ta dính đờm, màng lưỡi trăng trắng, sau khi bắt mạch thì thấy mạch đập yếu bèn nói: “Vị lang trung ngày trước kê thuốc cho ngươi, ngươi còn nhớ trong đó có ghi những loại thuốc gì không?”
Người phụ nữ kia ngại ngùng lắc đầu đáp: “Dân phụ một chữ bẻ đôi cũng không biết, hơn nữa nếu đi cắt thuốc gì thì cũng là do người nhà của dân phụ đi cắt cho cả, sau đó sắc thuốc xong thì bưng lên cho dân phụ uống, cái nước đen đen đó dân phụ chỉ biết uống thôi, chứ hỏi người ta ghi thuốc kê đơn làm gì cho mệt xác mình cơ chứ! Đại nhân dường như cũng là người có học đúng không? Chắc là một vị tú tài nên mới có bao nhiêu người theo hầu như vậy! Quả là uy phong! Tướng công của dân phụ không được như đại nhân, đại nhân ra ngoài thì có người theo hầu, còn tướng công của dân phụ ra ngoài chỉ có mỗi một con chó vàng đi theo mà thôi!”
Tất cả mọi người nghe đến đây thì bật cười nghiêng ngả, ngay đến cả một người suốt ngày nghiêm nghị như Lâm Thanh Đại cũng không nhịn được cười.
Chương 312: Nhất đại văn hào ăn rau dại
Người phụ nữ kia nghe vậy thì chen luôn vào: “Phu nhân còn trẻ đẹp thế này thì chắc chắn con quỷ dưới đầm kia nó thích lắm, phu nhân đừng đi ra cái đầm kia nữa, nếu không thì nguy hiểm lắm….”
“Thôi! Không nói mấy cái chuyện quỷ quái vớ vẩn nữa, trên đời này làm gì có ma với quỷ! Chẳng qua là do hôm đó ngươi và chị dâu của ngươi mồ hôi ra nhiều, cộng thêm nước ở trong đầm lại thuộc tính âm hàn, chính vì thế mà khi hai người xuống dưới đầm tắm thì bị khí hàn xâm nhập, dẫn đến cảm đột ngột, nước lạnh chui qua lỗ chân lông mồ hôi thấm vào trong người, chính vì thế mà hai người mới bị bệnh nghiêm trọng như vậy, cái này chẳng có liên quan gì đến ma quỷ cả hiểu chưa?” Tuy giọng nói của Đỗ Văn Hạo không to, nhưng nét mặt lại vô cùng nghiêm khắc, người phụ nữ kia nghe xong thì kinh hãi, nét mặt nơm nớp lo sợ, không dám nói thêm một câu nào nữa.
Đỗ Văn Hạo trông thấy tiết trời còn tốt, gió thổi hây hây, hắn nhận thấy tiết trời đẹp như thế này mà mấy vị phu nhân của mình không được nô đùa dưới thác thỏa thích thì quả là đáng tiếc, vì thế Đỗ Văn Hạo bèn tiếp tục ra hiệu đồng ý cho mấy người thê thiếp của mình dựng lều lên xuống dưới đầm tắm tiếp, sau đó hắn đưa mắt ra nhìn người phụ nữ với nét mặt lo âu kia nhẹ nhàng nói: “Ta là đại phu đến từ kinh thành, ngươi cứ yên tâm để ta chữa bệnh cho ngươi!”
Người phụ nữ trông thấy Đỗ Văn Hạo kéo theo cả một đạo quan quân đông như vậy, thì biết hắn chẳng phải là một đại phu bình thường, nên cũng không dám từ chối, vội vàng cúi đầu nói: “Dạ vâng! Xin thiếu gia chữa trị cho dân phụ!”
“Đừng gọi ta là thiếu gia, gọi ta là đại phu được rồi, hoặc là thầy lang cũng được mà! Ngươi ngồi xuống đi, ta có một số vấn đề cần hỏi ngươi, sau đó mới khám bệnh kê thuốc cho ngươi uống được!”
“Dân phụ….Dân phụ không có tiền mua thuốc đâu!”
“Ta có thuốc! Ta miễn phí tặng không cho ngươi là cùng chứ gì, như vậy ngươi đã yên tâm rồi chứ? Ta thấy ngươi cũng là người tốt bụng đã nhắc nhở cho chúng ta biết cái đầm này có quỷ nên mới đặc cách cho ngươi như vậy đấy!”
“Ha ha! Mọi người trong thôn đều nói dân phụ là người tốt cả đấy!”
Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu hỏi lại cặn kẽ từng chi tiết phát bệnh của người phụ nữ kia, hắn đã nắm rõ được tình hình của bà ta khi mới phát bệnh: Toàn thân lạnh ngắt, hai chân nhức mỏi, nhất là bụng chân dưới là đau nhức hơn cả, chân không co duỗi đi lại được, sau khi được người nhà khiêng về thì đã mời rất nhiều đại phu đến chữa nhưng đều không có hiệu quả nào cả, bệnh tình cứ kéo dài như vậy được mười lăm năm nay rồi.
Đỗ Văn Hạo lại cẩn thận xem xét nét mặt của bà ta thì thấy mặt mày sạm đen, trán nóng, khi vấn chẩn thì biết đầu bà ta hay bị đau nhức, bắp chân dưới căng cứng nhức mỏi, chóng mặt mất sức, kinh nguyệt bình thường nhưng băng huyết nghiêm trọng, lưỡi của bà ta có đờm, màng lưỡi trắng, mạch đập yếu, có lẽ do mắc bệnh lâu năm nên chuyển biến thành khí hư dẫn đến bị viêm, khí trong người lại không đủ. Đỗ Văn Hạo định kê một đơn thuốc Bổ Trung Ích Khí Thang để làm mát giải nhiệt, nhưng trong lòng hắn vẫn cảm thấy có gì đó không thỏa đáng, nhưng lại không biết nó không thỏa đáng ở chỗ nào, cất nhắc một hồi lâu hắn lại hỏi tiếp: “Bao nhiêu năm nay ngươi đã uống thuốc gì ngươi có biết không vậy?”
Người phụ nữ kia bị căn bệnh này hành hạ đến tận mười lăm năm trời, chữa trị bao nhiêu lần không khỏi, thầy thuốc đến chữa trị, cắt thuốc liên miên, nên bà ta nghe thầy thuốc nói nhiều thành biết mình đang uống thuốc gì, do vậy bèn mỉm cười đáp: “Biết chứ! Không biết ngài muốn hỏi loại thuốc của vị đại phu nào?”
“À…. Ừm! Người thầy thuốc chữa bệnh cho ngươi gần đây nhất!”
“Ồ! Người đó là lang trung họ Lý ở thôn đông, người ta hay gọi ông ta là Lý lang trung, dân phụ uống thuốc ông ta kê cho đã hai năm rồi, dân phụ thuộc lòng cả bài thuốc ông ta kê cho dân phụ, có Hoàng Uy, Sâm, Bạch Thuật, Thăng Ma, Sài Hồ, Đương Quý, Tiểu Hoàng Uy, Trần Bì, Thanh Hao, Địa Cốt Bì, Viêm Thảo!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì giật thót mình lên, đây lẽ nào không phải là bài thuốc Bổ Trung Ích Khí Thang sao? Hắn lúc nãy cũng đang định dùng bài thuốc này để kê cho người phụ nữ này sử dụng, không ngờ rằng đã có người cho bà ta uống đã hai năm nay rồi, hiệu quả hắn cũng đã thấy, bà ta vẫn bị bệnh tình hành hạ một cách khổ sở. Đỗ Văn Hạo lúc này cảm thấy ngượng chín người, hắn ho khan lên một tiếng rồi hỏi: “Bài thuốc này ngươi uống vào không có chút hiệu quả nào sao?”
“Vâng, đúng vậy, chẳng có hiệu quả gì! Dân phụ vô cùng tức giận, chạy thẳng đến nhà của Lý lang trung mà mắng chửi ông ta, bắt ông ta miễn tiền thuốc thang cho dân phụ!”
“Vậy nếu như ta cũng không thể chữa được bệnh cho ngươi thì ngươi cũng chửi mắng ta đúng không?” Đỗ Văn Hạo trêu đùa bà ta.
Người phụ nữ kia nghe vậy thì hai má đỏ ửng đáp: “Dân phụ không dám! Lý lang trung vốn là một người bà con xa của dân phụ, chính vì vậy mà dân phụ mới dám chạy đến mắng chửi ông ta, đại phu là quan ở kinh thành đến đây, dân phụ làm gì có gan mà làm như vậy, hơn nữa đại phu cũng vì lòng tốt mới khám cho dân phụ, lại còn tặng thuốc nữa, cho dù bệnh chữa không khỏi, dân phụ cũng không nên tìm đại phu mà chửi bới, mà nhiếc móc! Trên đời này làm gì có vị đại phu nào dám nói mình chữa được bách bệnh đâu!”
“Ha ha! Ngươi hiểu điều đó thì tốt rồi, nhưng mà ngươi cứ yên tâm, ta có lẽ sẽ chữa khỏi được bệnh cho ngươi!” Đỗ Văn Hạo tuy ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng của hắn chẳng có tý chắc chắn nào cả, hắn suy ngẫm xem xem hắn đã chẩn đoán sai ở khâu nào, theo lẽ thường thì do bệnh lâu năm nên làm cho thân thể người bị suy yếu là một chuyện đương nhiên, và chứng bệnh thường thấy chính là do Hư Chứng Phát Nhiệt mà ra, trong tình huống này thì nên dùng Bổ Ích Khí Thang là chuẩn nhất rồi! Nhưng mà thực tế cho thấy rằng nó không có hiệu quả, vậy thì bệnh tình không phải là Hư Chứng Phát Nhiệt rồi!
Nên biết rằng, bệnh lâu năm cũng không phải vấn đề to lớn cho lắm, nó bao gồm Thực Chứng và Hư Hàn, Đỗ Văn Hạo e ngại rằng hắn đã biện chứng sai, sau khi suy xét một hồi hắn lại một cách tỉ mỉ, hắn hỏi lại triệu chứng phát bệnh của người phụ nữ kia thêm một lần nữa, rồi lại dò xét kỹ lưỡng thêm một lần nữa, xem xem mình đã biện chứng sai ở chỗ nào.
Đỗ Văn Hạo còn hỏi thêm trong mười lăm năm đổ lại đây, khi căn bệnh tái phát hành hạ thì bà ta xử lý ra sao, được một lúc thì Đỗ Văn Hạo lại phát hiện ra khi bà ta thường có hiện tượng nóng lạnh khác thường, miệng khô đắng, chóng mặt, phát hiện ra điều này ánh mắt của hắn chợt vụt sáng lên, chứng bệnh của bà ta phải dùng Tiểu Sài Hồ Thang kết hợp với Đạt Nguyên để giải Thiếu Dương, tiêu trừ khí độc.
Đỗ Văn Hạo sau nắm rõ bệnh tình bèn gọi một đứa thị tỳ đem giấy bút đến, rồi viết cho một phương thuốc bảo đứa thị tỳ đó mau mau chạy đi cắt thuốc, sau đó hắn lại quay sang người phụ nữ kia nói: “Ta kê cho ngươi một phương thuốc, thuốc cũng sẽ cắt tặng cho ngươi, ngươi về sử dụng là sẽ khỏi ngay thôi!”
“Vâng! Đa tạ Thiếu gia!” Đỗ Văn Hạo nghe thấy bà ta đột nhiên lại xưng mình là thiếu gia bất giác cau mày lại, nhưng lại nghĩ bà ta cũng là do mừng rỡ nên gọi mình như vậy để tỏ lòng kính trọng mà thôi, vì vậy hắn lại mỉm cười gật đầu.
Sau khi tiễn người phụ nữ kia đi xong, thì Đỗ Văn Hạo liền nhanh chóng len lén đi đến gần chiếc lều căng gần đầm nước, trong đó vọng ra những tiếng cười nói lanh lảnh, hắn bèn vén rèm bước vào bên trong, thì thấy bốn người thê thiếp của hắn chỉ quấn quanh mình một chiếc áo lót đang nô đùa với nhau ở dưới nước. Đỗ Văn Hạo thấy vậy máu trong người sôi sục hẳn lên, hắn cởi tung hết quần áo trên người nhảy ùm xuống nước nô đùa cùng với mấy vị phu nhân xinh đẹp như tiên của mình.
Lại nói đến người phụ nữ kia sau khi được Đỗ Văn Hạo kê thuốc cho, về đến nhà đem câu chuyện bà ta gặp hôm nay kể cho mọi người trong nhà nghe, có người khuyên bà không nên uống thuốc của Đỗ Văn Hạo, có người lại nói cứ uống đi, dù sao cũng đã bị bệnh mười lăm năm rồi, có chết đi đâu mà sợ. Người phụ nữ kia nhớ lại khuôn mặt nhân từ của Đỗ Văn Hạo thì lại nghĩ ông ta không những khám bệnh cho mình, còn miễn phí tiền thuốc nữa, mình cũng chẳng có gì để ông ta phải hại mình cả, mà ông ta cũng chẳng rỗi hơi đi hại một người nông dân chân đất mắt toét như mình cả. Nghĩ vậy bà ta bèn đem thuốc lên sắc uống, không ngờ sau khi uống được mấy thang thuốc thì bệnh tình thuyên giảm đáng kể, được một thời gian sau thì căn bệnh của bà ta hoàn toàn khỏi hẳn.
Người nhà của người phụ nữ kia thấy bà ta khỏi bệnh thì cảm kích vô cùng, bọn họ đều cho rằng Đỗ Văn Hạo là thần tiên ở trên trời giáng trần chữa bệnh cho bà ta, thế là mọi người trong nhà đều lập bài vị, ngày ngày thờ cúng Đỗ Văn Hạo phù hộ độ trì cho cả gia đình họ. Còn về phần Đỗ Văn Hạo thì hắn không hề biết mình vừa được lập bàn thờ (mặc dù hắn vẫn còn sống), hắn vẫn âm thầm dẫn quân tây tiến, đại quân đi thêm mấy ngày đường nữa thì đến được địa giới của Hoàng Châu.
Từ chỗ địa giới mà đại quân vừa mới đi tới cách Hoàng Châu Châu Nha (Châu Nha ở đây là bộ máy chính phủ cai quản của cả Hoàng Châu) còn nửa ngày đường đi, đội trinh sát đi trước đưa tin về báo nói rằng các quan lại ở Hoàng Châu đã đứng chờ đợi đại quân ở Tống Biệt Đình của Hoàng Châu từ rất lâu rồi.
Thì ra Hoàng Châu Châu Nha đã sớm nhận được thông báo của Bộ Lại, biết được khâm sai đại thần Ninh công công sắp đến để tuyên truyền Thánh Chỉ, do vậy mà quan lại của Hoàng Châu đã phái người đứng đây chờ đợi đã được mấy ngày nay rồi, bọn họ không ngờ đạo quân do Đỗ Văn Hạo lại hành quân chậm như vậy, nhưng không ai dám tự ý bỏ đi, chỉ biết khổ sở đứng ở đây chờ đợi, cuối cùng cũng đợi được đến ngày hôm nay.
Đỗ Văn Hạo cùng Ninh công công bước đến Tống Biệt Đình, từ xa họ đã thấy mấy chục viên quan lại đang đứng đó chờ đợi, sau khi thấy hai người đi đến thì mấy viên quan lại đứng đợi bèn tiến đến rồi cúi người chắp tay thi lễ, trong đó có một vị cao tuổi nhất mình mặc quan bào đứng ngay hàng đầu tiên, trông thấy quan chính ngũ phẩm Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đi đến bèn vội vã chạy lên trước ngênh đón: “Ti chức Diệp Nhất Vinh, Huyện Ủy Hoàng Châu, đại diện Chi Châu lão gia đến ngênh đón nhị vị khâm sai, không biết nhị vị là…?”
Lý Phố lúc này đứng cạnh Đỗ Văn Hạo đã tiến lên giới thiệu: “Đây là truyền chi khâm sai Ninh công công, còn vị này là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phụ, kiêm Ngự Tiền Cấm Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Ngụy, Thành Đô Phủ Nhã Châu Câu Quản Quan Đỗ Văn Hạo, Đỗ đại nhân! (Chức vị của cu Hạo dài quá!)”
Diệp Nhất Vinh nghe xong mặt mày hớn hở cúi người chắp tay nói: “Nhị vị đại nhân đường xá xa xôi vất vả quá! Chi Châu Ngụy Văn Đức của Hoàng Châu ở trong thành chờ đợi đã lâu, nơi đây bọn ti chức đã bày sẵn tiệc rượu kính chờ nhị vị đại nhân! Mời nhị vị cùng các tướng sĩ vào đây nghỉ ngơi đôi chút!”
Ninh công công gật đầu nói: “Đỗ Ngự Y! Vậy chúng ta cùng vào trong đình nghỉ ngơi chút vậy!”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Được! Lý Phố! Ngươi để đại quân dừng lại nghỉ ngơi nửa canh giờ, sau đó chúng ta sẽ xuất phát, rồi đóng trại ngoài thành!” Lý Phố nghe xong bèn cúi người tuân lệnh, sau đó quay người ra ngoài truyền lệnh.
Đỗ Văn Hạo và Ninh công công lúc này mới bước hẳn vào trong đình, Diệp Nhất Vinh vội ra lệnh cho hai đứa nha dịch phía sau mình phóng ngựa vào trong thành báo cho quan Chi Châu biết tin mà chuẩn bị.
Trong đình lúc này, tiệc rượu cũng đã được bày sẵn, Huyện Ủy Diệp Nhất Vinh cùng với mấy người tùy tùng đều cúi người xuống hết cỡ rót rượu mời Đỗ Văn Hạo và Ninh công công, sau khi giới thiệu cho hai người biết về phong tục tập quán, phong cảnh của Hoàng Châu xong thì Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đã đánh chén no say, Diệp Nhất Vinh cũng là người biết uống rượu nên mấy người bọn họ uống rượu với nhau vô cùng vui vẻ, nhưng trong đó có mấy người không uống nổi đành rút lui đứng ra bên ngoài.
Sau một canh giờ, Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đều đã ngà ngà say, còn Diệp Nhất Vinh thì đã say mềm ra rồi, chân nọ đá chân kia đứng không vững nữa.
Đỗ Văn Hạo lúc này mới nói: “Thôi được rồi! Chúng ta vào thành thôi!”
Từ chỗ này vào trong thành thì mọi người không được ngồi xe ngựa nữa, mà phải chuyển sang ngồi kiệu, đây là quy định riếng chuyên dành cho các quan trong triều. Ninh công công lúc này là quan khâm sai nên kiệu của ông ta đi đầu tiên, đi phía trước kiệu của ông ta là một đội Đại Nội Thị Vệ kèn trống rợp trời đi trước mở đường, kiệu của Đỗ Văn Hạo thì theo ngay sau lưng của ông ta, còn đội Thị Vệ của hắn thì đi đoạn hậu phía sau cùng, các vị phu nhân của hắn thì ngội kiệu nhỏ hơn lẽo đẽo theo sau hắn vào trong thành.
Ở cổng thành lúc này, Chi Châu Ngụy Văn Đức thân mặc quan bào, thống lĩnh quan lại và Hương Thân (Hương Thân bao gồm những người có học thi đỗ cao nhưng chưa làm quan, những người địa chủ có học hành, những viên quan lại đã về hưu…) đứng chờ sẵn để nghênh đón đoàn quân của Đỗ Văn Hạo.
Khi chiếc kiệu của Ninh công công vừa mới đến nơi thì Ngụy Chi Châu đã vội vã tiến đến cúi người thi lễ, Ninh công công thấy vậy bèn vén rèm che của chiếc kiệu lên gật đầu nói: “Không cần đa lễ! Hương án trong nha môn đã được bày biện xong chưa vậy?”
Ngụy Văn Đức nghe vậy mỉm cười đáp: “Bẩm! Đã chuẩn bị xong hết rồi, chỉ là….”
“Sao vậy?” Ninh công sa sầm nét mặt lại hỏi.
“Hồi bẩm công công! Người tiếp chỉ của Thánh Thượng là Tô Thức Tô Tử Chiêm đang bị bệnh nặng không thể đến đây được, do vậy không trực tiếp nghênh giá đón chỉ của Thánh Thượng được!”
Tô Đông Pha tên tự là Tô Tử Chiêm, cho dù bị cách chức đến Hoàng Châu làm một chức quan nhỏ, nhưng nói cho cùng thì ông ta cũng là một đại văn hào lớn thời bấy giờ, Ngụy Chi Châu khi nhắc đến ông ta thì cũng tỏ ra vô cùng khách khí.
“Cái gì?” Ninh công công sững người hỏi, ông từ nơi xa xôi đến đây để tuyên chỉ, vậy mà người tiếp chỉ lại bị bệnh liệt giường không ra tiếp chỉ được, đúng là một tình huống trớ trêu, chưa bao giờ gặp phải. Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn vội lên tiếng hỏi: “Vậy bây giờ ông ấy ở đâu?”
“Dạ bẩm! Tô Tử Chiêm đang tĩnh dưỡng ở trong nhà mình!”
Ninh công công thấy vậy bèn nói: “Mau mau dẫn đường nhanh lên, ta và Đỗ Ngự Y cùng đến đó xem tình hình thế nào!”
“Tuân lệnh!” Ngụy Văn Đức bèn phân phó viên quan phụ trách tiếp đãi đưa gia quyến của Đỗ Văn Hạo vào một dịch trạm nghỉ ngơi, sau đó ra lệnh cho mấy người Hương Thân ra về, đến tối mới lại mời bọn họ quay lại phủ dự tiệc, sau cùng ông ta và các quan lại khác mới lên kiệu đi trước dẫn đương cho Ninh công công và Đỗ Văn Hạo ra ngoài thành tìm đến nơi ở của Tô Thức.
“Chờ một chút!” Ninh công công vén rèm che kiệu lên nói: “Bọn ngươi chạy ra ngoài thành làm cái gì vậy?”
Ngụy Văn Đức bèn hạ kiệu xuống, vén rèm lên rồi cúi người đáp: “Bẩm công công! Tô Tử Chiêm ở một ngọn núi ngoại thành phía đông có tên là Đông Pha Sơn, chúng ta đi tìm ông ta thì dĩ nhiên phải ra khỏi thành rồi!”
“Cái gì? Ông ta không phải là Đoàn Luyện Phó Sứ hay sao? Tự nhiên mò ra ngoài thành lên núi ở làm gì?”
“Cái này! Có lẽ mỗi người có một ý tưởng riêng của mình, ông ta có lẽ thích cuộc sống trên núi chăng?”
“Ngươi nói vớ vần gì thế! Ông ta là quan, không phải là nông dân! Thôi được rồi! Cứ đi đến đó trước rồi tính sau!”
Thế là đoàn người rồng rắn nhau lần lượt ra khỏi thành, khi ra khỏi thành được một lúc thì cả đoàn người bắt đầu phải leo núi, tuy nói là núi nhưng thực chất nó chỉ là cái đồi nhỏ, hai bên sườn dốc trồng đầy cây tùng bách.
Trên đỉnh đồi giữa khu rừng nhỏ thấp thoáng ẩn hiện một gian nhà cỏ, bên sau gian nhà là một vườn rau, trồng các loại rau xanh quả ngọt, phía trước nhà có một cái sân nhỏ, trong sân có đặt vài cái mẹt đựng đầy rau dại, cạnh đó có hai người phụ nữ ngồi trên ghế đá, đang sắp đám rau dại thành từng bó, gần đó có hai đứa trẻ cũng cúi người xuống nhặt rau cùng hai người phụ nữ kia.
Bọn họ lúc này đã ngước mắt lên trông thấy cách chỗ bọn họ không xa đang có một đoàn người kéo đến, đứa trẻ lớn hơn vội đứng dậy chỉ về phía đám người đang đi đến hỏi cái gì đấy, rồi sau đó nó chạy thẳng luôn vào trong nhà, ngay sau đó một người trẻ tuổi từ bên trong nhà bước ra, đứng trước cổng đưa tay lên ngóng nhìn.
Khi kiệu vừa đến cổng của gian nhà cỏ thì đều dừng hết cả lại, rồi mọi người mới từ từ bước xuống kiệu ra ngoài.
Người trẻ tuổi kia lúc này đã ra đến ngoài cổng, hai người phụ nữ kia cũng đứng hẳn dậy, tay dắt theo đứa trẻ cùng hướng ra ngoài ngóng trông.
Người trẻ tuổi kia giờ đây đã nhận ra Ngụy Chi Châu, bèn vội vã tiến đến cúi người thi lễ nói: “Chi Châu đại nhân đến rồi đó ư!”
“Ừm! Tô công tử!” Ngụy Chi Châu cũng cúi người đáp lễ, sau đó ông ta liền quay sang Đỗ Văn Hạo và Ninh công công giới thiệu nói: “Vị này là Tô Mại, là con trưởng của Tô Tử Chiêm!” Sau đó ông lại chỉ vào hai đứa trẻ đang đứng trong sân nói: “Còn người kia là nhị tử Tô Tạo, và người này là tam tử Tô Quá!”
Hai nữ nhân đứng gần đó lúc này bèn vội vã dắt hai đứa trẻ vào trong nhà, sau đó bước ra trả lễ đáp: “Thần thiếp tham kiến Chi Châu đại nhân!”
Ngụy Chi Châu lại quay sang Đỗ Văn Hạo và Ninh công công giới thiệu tiếp: “Nhị vị đại nhân! Đây là thê thiếp của Tô Tử Chiêm, cả hai đều họ Vương, gọi họ là Vương Thị. Còn đây là hai vị đại nhân từ kinh thành mới đến, một người là khâm sai tuyên chỉ Ninh công công, còn người này là Đỗ Ngự Y!”
Hai vị phu nhân của Tô Thức nghe xong liền cúi người thi lễ.
Đỗ Văn Hạo lúc này đã liếc nhìn hai vị phu nhân này một cái, hắn thấy hai người đều còn khá trẻ, xem chừng tuổi tác bọn họ, một người tầm trên dưới ba mươi tuổi, người còn lại có lẽ chưa đầy hai mươi tuổi nét mặt vô cùng non nớt.
Ngụy Chi Châu lúc này cung kính chắp tay nói: “Không biết Tử Chiêm huynh bệnh tình ra sao, có ở trong nhà không?”
“Ài! Bị bệnh như vậy rồi còn đi đâu được nữa, vẫn đang nằm trên giường trong nhà, mời các vị đại nhân mau mau vào trong!”
Đỗ Văn Hạo mới bước vào đến sân nhà thì thấy nơi đây nghèo nàn, đơn sơ một cách thái quá, hắn lại quét mắt nhìn vào đám rau dại đặt trong cái mẹt ở giữa sân, rồi thấp giọng hỏi Ngụy Chi Châu: “Bọn họ không phải là ăn những thứ rau cỏ này chứ?”
Ngụy Chi Châu bị hắn hỏi vậy, mặt mũi hiện lên một sự ngại ngùng khó xử đáp: “Thưa vâng! Bổng lộc của Tô Tử Chiêm huynh mỗi tháng chỉ vỏn vẹn có năm trăm quan tiền, không đủ để nuôi cả nhà sáu miệng ăn. Trong nhà có ba người con trai không giúp được gì, do vậy ông ấy mới đề xuất với Nha Huyện rằng cho ông ta ra ở đây để khai hoang, trồng mấy loại rau củ nâng cao đời sống hằng ngày. Bây giờ không phải là vụ mùa, lương thực dự trữ cũng đã dùng hết, không ăn rau rừng thì lấy gì mà sống?”
“Phía sau nhà không phải là đang trồng rau củ hay sao?”
“Chỗ rau đó là để mang vào trong thành bán lấy tiền để mua các vật dụng sinh hoạt hàng ngày đó!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì buồn bã vô cùng, hắn không ngờ một đại văn hào vĩ đại của Trung Quốc lại nghèo khó đến mức trong nhà không đủ ăn, phải đi hái rau dại về để cầm hơi qua bữa như thế này. Xem ra vụ án Ô Đài đem đến hậu quả quá to lớn cho Tô Thức, không biết tình hình sức khỏe của ông hiện nay ra sao nữa, mình phải vào xem xét mới được.
Nghĩ vậy hắn bèn nối gót của hai vị phu nhân vào trong phòng của Tô Thức. Trong căn nhà cỏ này mọi thứ vô cùng đơn sơ, giản tiện, các vật dụng trong nhà thì vô cùng rẻ tiền, góc bếp thì được đắp bằng đất, trên đó đặt một chiếc nồi đã đứt một quai, nắp nồi thì có một đường nứt khá to. Đỗ Văn Hạo đưa mắt vào trông cái nồi đang bốc hơi kia thì thấy dường như nó đang nấu thứ gì đó, khi hắn mở vung ra thì phát hiện trong đó chỉ toàn là rau dại trộn với ít cơm cám đang sôi sùng sục.
Lúc này người vợ chính thất của Tô Thức mới vén rèm bước vào trong phòng riêng của Tô Thức nói: “Lão gia! Có Ninh công công vàĐỗ Ngự Y từ kinnh thành đến đây để tuyên Thánh Chỉ, à! Còn cả Ngụy Chi Châu cũng đến rồi nữa!”
Đỗ Văn Hạo nhân lúc vợ của Tô Thức không để ý bèn len lén đưa mắt ra nhìn vào phía trong phòng của Tô Thức, chỉ thấy trên giường lúc này có một người đàn ông gầy như da bọc xương, tầm tuổi trung niên, dưới cằm ông ta râu mọc lung tung, hốc mắt trũng sâu, đang đắp trên người một cái chăn mỏng, gối trên một chiếc gối trúc nhỏ, khó khăn lắm mới mở được mắt ra nhìn xung quanh.
Bên cạnh giường của ông ta có ngồi hai đứa bé trai, một đứa tầm bẩy tám tuổi, đứa kia có lẽ chỉ ba bốn tuổi đang dương đôi mắt to tròn đen nhánh lên nhìn mọi người đứng ở bên ngoài. Đỗ Văn Hạo trông thấy sức khỏe của người đàn ông trung niên kia yếu ớt không có sức sống như vậy thì bất giác cảm khái vô cùng, ai mà ngờ được cái người gầy gò ốm yếu không có sức sống kia lại là Tô Đông Pha, tác giả của hàng loạt những bài thơ hùng hồn, khí phách có một vị trí độc tôn nền văn học Trung Quốc thời Tống cơ chứ?
Tô Thức lúc này mới ngắt quãng thều thào nói: “Mại Nhi! Mau mau đỡ ta ngồi dây, quỳ xuống tiếp chỉ mau lên!” Tô Đông Pha vừa nói vừa gắng gượng ngóc đầu dậy, rồi lấy hết sức mình chống tay đỡ lấy thân mình ngồi dậy.
Người con trưởng Tô Mại vội vàng chạy đến bên giường đỡ lấy vai của cha mình, đang chuẩn bị đỡ ông ta ngồi thẳng dậy, thì Đỗ Văn Hạo vội vàng hét lên: “Đừng động đậy! Mau để Tô tiên sinh nằm xuống! Mọi người cứ nghe Ninh công công nói trước cái đã, sau đó ta sẽ xem bệnh cho tiên sinh!”
Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn tiến đến đưa tay ra ấn vào vai của Tô Thức, để ông ta nằm hẳn xuống, tuy rằng nằm trên giường tiếp nhận Thánh Chỉ là việc đại nghịch bất đạo, nhưng sức khỏe của Tô Thức không cho phép ông ta ngồi dậy, do vậy coi như cũng không phải có ý khinh thường Thánh Chỉ, nên Ninh công công cũng hiểu ý mà không làm khó Tô Thức.
Ninh công công nở một nụ cười ra nói với Tô Thức: “Tử Chiêm à! Huynh cũng được coi là may mắn rồi đó, huynh biết người đang ngồi trước mặt huynh là ai không? Vị này là thần y đệ nhất thiên hạ hiện nay, là Thái Y Ngự Dụng riêng của Hoàng Thượng, Ngự Tiền Chính Thị Đại Phụ họ Đỗ tên Văn Hạo, tự Vân Phàm. Có Đỗ đại nhân ở đây, cho dù Diêm Vương có đến đây cũng chẳng thể đem Tử Chiêm huynh đi được đâu, ha ha ha!”
Vừa mới nghe Ninh công công nói xong thì người vợ của Tô Thức, Vương Nhuận Chi, và người thiếp của ông ta là Vương Triều Vân đều mừng rỡ vô cùng, hai người đồng loạt vén váy quỳ luôn xuống đất nói: “Ngự Y đại nhân! Mong người hãy cứu lấy tướng công của thần thiếp!”
Ba người con trai trông thấy vậy cũng quỳ luôn gối xuống dập đầu xuống đất kêu lên côm cốp.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì kinh hãi nhanh chân chạy đến đỡ lấy mọi người đứng dậy, đồng thời hắn quay sang hai vị phu nhân nói: “Hai vị phu nhân đừng làm như vậy! Mau mau đứng dậy! Vân Phàm tuy chưa từng quen biết gì với Tử Chiêm huynh, nhưng Vân Phàm đã ngưỡng mộ đại danh của Tử Chiêm huynh đã lâu, lần này lại còn tiếp nhận Thánh Chỉ của Hoàng Thượng đến đây, cũng được coi là đồng liêu với nhau, Vân Phàm nhất định sẽ dùng hết sức mình để chữa trị cho Tử Chiêm huynh!”
Mấy câu nói của Đỗ Văn Hạo lúc này đã thắp lên một niềm hy vọng vô cùng to lớn cho cả gia đình Tô Thức, đây không chỉ là việc Đỗ Văn Hạo chữa khỏi bệnh được cho Tô Thức, mà còn có ý nghĩa khác, đó chính là Tô Thức một lần nữa được Hoàng Thượng tin tưởng trọng dụng trở lại rồi.
Bọn họ chỉ biết tin là sẽ có quan khâm sai đến đây để tuyên Thánh Chỉ thôi, chứ không hề biết nội dung của Thánh Chỉ là gì cả, do vậy trong lòng ai cũng suy đoán xem xem nó là họa hay là phúc. Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì cả nhà của Tô Thức đã hiểu ngay rằng, nội dung trong Thánh Chỉ chắc chắn là có tin vui sắp đến, do vậy nét mặt ai nấy đều trở nên rạng rỡ.
Ninh công công nói: “Tử Chiêm huynh lúc này bị bệnh không ngồi dậy được thì ta cũng có thể hiểu được cho huynh, vậy thì để cho cong trai trưởng của huynh quỳ xuống nhận chỉ thay cho huynh vậy!”
Tô Thức lúc này mới nở ra một nụ cười đầy miễn cưỡng nói: “Đa tạ! Đa tạ công công!”
Con trai trưởng của Tô Thức là Tô Mại nghe xong vội vã vén áo quỳ luôn xuống đất chờ nghe Thánh Chỉ.
Ninh công công lúc này bèn lấy trong người ra một cuộn vải màu vàng, sau đó chầm chậm mở nó ra, rồi e hèm một cái cao giọng đọc Thánh Chỉ, sau khi đọc xong bèn trao Thánh Chỉ vào tay của Tô Mại. Tô Mại sau khi tiếp lấy Thánh Chỉ bèn dập đầu tạ ơn, sau đó đứng dậy đem Thánh Chỉ dâng lên cho Tô Thức.
Tô Thức cũng đã nghe xong nội dung của Thánh Chỉ, biết Hoàng Thượng đã phong mình làm Chi Châu của Thành Đô Phủ, Nhã Châu Lộ. Tô Thức trước khi bị cách chức thì ông ta đã từng đảm nhiệm Từ Tâu Chi Châu, do vậy lần này nhậm chức coi như là ông ta đã hồi phục lại chức vụ cũ ngày xưa của mình rồi. Tô Thức lúc này vô cùng xúc động, hai hàng nước mắt bắt đầu rơi xuống lã chã, người con trưởng Tô Mại liền chạy đên bên cha mình đỡ ông ngồi dậy, rồi hướng ông về hướng bắc, Tô Thức bèn chắp tay lại nói: “Vi thần đa tạ long ân của Hoàng Thượng!”
Ninh công công lúc này liền lên tiếng: “Ân nghĩa của Hoàng Thượng thì dĩ nhiên phải tạ ơn rồi, nhưng mà Tử Chiêm huynh à! Nếu như không có Đỗ Ngự Y ở trước mặt Hoàng Thượng tiến cử cho huynh, e rằng cái Thánh Chỉ này huynh cũng không đủ tư cách để mà nhận rồi!”
“Hả?” Cả gia đình của Tô Thức đồng loạt kêu lên một tiếng, rồi cùng nhau nhìn về phía Đỗ Văn Hạo.
Ninh công công thấy vậy bèn mỉm cười giải thích: “Tử Chiêm huynh chắc không biết! Đỗ Ngự Y vốn là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu, kiêm Cấm Vệ Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Úy chính ngũ phẩm, Đỗ Ngự Y không chỉ y thuật như thần, mà còn có những cái nhìn độc đáo về biến pháp nữa! Hoàng Thượng sau khi nghe Đỗ Ngự Y đàm luận xong thì lập tức phong cho Đỗ Ngư Y làm chức Câu Quản Nha Châu Thường Bình Thương, để ông ta tiến hành biến pháp ở Nhã Châu! Biến pháp của Đỗ Ngự Y hoàn toàn khác với cái biến pháp của Vương An Thạch, Đỗ Ngự Y sau khi tiếp chỉ bèn ở trước mặt Hoàng Thượng tiến cử Tử Chiêm huynh lên làm đồng liêu với ông ta, làm Chi Châu của Nhã Châu! Đỗ Ngự Y nói rằng Tử Chiêm huynh là một đại nho sĩ đương đại! Thi ca của huynh cổ kim hiếm gặp! Lại nói Tử Chiêm huynh khi làm quan thì vô cùng am hiểu nỗi khổ của dân chúng, yêu dân như con! Hoàng Thượng nghe xong thì nể mặt Đỗ Ngự Y mà hạ chỉ phong cho huynh lên làm chức Chi Châu Nhã Châu, huynh đã hiểu chưa vậy?”
Tô Thức chưa nghe xong Ninh công công nói đã nước mắt chảy dài, nhìn vào Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đỗ Ngự Y! Ti chức có tài có đức gi mà được Đỗ Ngự Y yêu mến như vậy! Nhuận Chi, Mại Nhi! Sao vẫn còn chưa tạ ơn đại nhân đi! Mau lạy tạ Đỗ Ngự Y nhanh lên!”
Do tâm tình lúc này quá đỗi xúc động Tô Đông Pha đột nhiên ho lên khù khụ, gập hết cả người lại.
Nhưng khi vợ con của Tô Thức vừa mới định quỳ xuống lạy tạ thì Đỗ Văn Hạo đã tiến đến ngăn lại nói: “Đừng làm như vậy! Đây là ân điển của Hoàng Thượng, ta cũng chẳng có công lao gì cả! Việc cấp bách nhất bây giờ chính là chữa bệnh cứu người! Tử Chiêm huynh! Bệnh tình của huynh bây giờ đã chuyển biến vô cùng nghiêm trọng rồi, huynh bây giờ đã có hiện tượng khí huyết suy kiệt rồi, nếu kéo dài thêm nữa e rằng sẽ nguy hiểm đến tính mạng!”
Mọi người nghe xong vội vã lui ra để cho Đỗ Văn Hạo ngồi lên giường xem bệnh cho Tô Thức. Đỗ Văn Hạo sau khi ngồi lên thành giường bèn chăm chú xem xét Tô Thức, hắn thấy trên trán ông ta mồ hôi lấm tấm, hai gò má ửng đỏ, đưa tay lên sờ thì thấy nóng vô cùng, Đỗ Văn Hạo liền hỏi: “Huynh có cảm thấy lạnh không?”
“Ừm! Ngồi dậy thì lạnh, nhưng khi nằm xuống thì lại thấy nóng, nóng đến đột toát mồ hôi!” Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn nói: “Há lưỡi ra cho tại hạ xem!”
Đỗ Văn Hạo trông lưỡi của Tô Thức thì thấy màng mỏng và khô, Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Còn có chỗ nào trong người khó chịu nữa?”
“Xương sườn bên trái vẫn thấy đau nhức, khi ho thì trong đờm có màu đỏ!”
Trong lúc nói chuyện thì Tô Thức lại bắt đầu ho lên dữ dội, trong tiếng ho của ông nghe được cả tiếng ho của đờm, người thiếp Vương Triều Vân của ông ta bèn vội lấy một chiếc khăn lại cho ông nhổ đờm vào trong đó, Đỗ Văn Hạo đưa mắt ra nhìn thì quả nhiên trông thấy trong đờm của ông có máu.
Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: “Hằng ngày ho ra đờm có nhiều không?”
Tô Thức vẫn ho khù khụ rồi không ngừng thở hắt ra một cách khó nhọc, người vợ Thuận Chi của ông bèn trả lời thay cho chồng mình: “Ho nhiều lắm! Có khi nhiều đến đầy cả ba tách trà này!”
Đỗ Văn Hạo đưa tay ra bắt mạch thì thấy mạch của Tô Thức nhỏ yếu, dây mạch bên phải thì trơn không có lực, hắn cũng thầm đoán ra được căn bệnh đến bảy tám phần rồi, hắn lại lên tiếng hỏi tiếp: “Bệnh kéo dài được bao lâu rồi?”
Vương Nhuận Chi và Vương Triều Vân cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi suy ngẫm, được một lúc thì Nhuận Chi lên tiếng đáp: “Cũng khá lâu rồi! Bọn thiếp cũng cho đi mời đại phu đến khám rồi, nhưng đều không có kết quả gì cả, bệnh tình của tướng công thì ngày càng nặng thêm!” Nói đến đây thì Vương Nhuận Chi nấc lên nghẹn giọng.
Đỗ Văn Hạo ngước đầu lên nhìn trần nhà của căn phòng này, hắn cơ hồ như nhìn được cả ra bầu trời bên ngoài, hắn lại tiếp tục nhìn lên trên bức tường được dựng bằng vỏ cây, chỗ nào cũng có lỗ hổng, Đỗ Văn Hạo thở dài lên một tiếng rồi nói: “Tử Chiêm huynh mùa đông nào cũng phải chịu lạnh đúng không?”
Tô Thức khó khăn lắm mới dứt được cơn ho thập tử nhất sinh của mình, ông từ từ lên tiếng đáp: “Đúng vậy! Căn nhà cỏ này không chịu nổi gió lạnh mùa đông! Ta thì cũng chẳng thấy có vấn đề gì! Chỉ khổ cho vợ con của ta thôi!”
“Huynh còn nói là không vấn đề gì! Ha ha! Bệnh này của huynh có tên gọi là bệnh Mùa Xuân, tại sao gọi nó như vậy? Là tại vì mùa đông huynh bị nhiễm lạnh, hàn khí xâm nhập vào cơ thể rồi thấm khí độc vào trong cơ thể, sau đó nó liền ẩn náu ở trong đó, đợi khi đến mùa xuân khi huynh chẳng may nhiễm cảm thì khí độc đang ẩn náu trong cơ thể của huynh sẽ được dịp bùng phát. Khi huynh mới phát bệnh chắc là huynh sẽ cảm thấy đau đầu, nóng lạnh thất thường đúng không?”
“Đúng vậy!” Tô Thức vô cùng kinh ngạc đáp, ông không ngờ rằng Đỗ Văn Hạo chỉ nhìn ông một cái thôi mà đã nói ra bệnh tình mấy tháng nay của ông rồi, điều này làm ông cảm thấy vô cùng khâm phục trình độ y thuật của Đỗ Văn Hạo.
“Mấy người tìm đại phu đến khám bệnh cho Tử Chiêm huynh người ta kê thuốc thế nào? Có còn đơn thuốc không?”
“Vẫn còn!” Vương Triều Vân đáp: “Để thần thiếp đi lấy cho tiên sinh!”
Vương Triều Vân liền chạy ra cái tủ ở góc tường sau một hồi bới tìm, cuối cùng nàng cũng tìm ra đơn thuốc đưa cho Đỗ Văn Hạo xem.
Chương 313: Tình hình quân sự khẩn cấp
“Hả” Nhị vị phu nhân nghe xong thì sững người kinh sợ: “Thế có nghĩa là sao?”
“Bệnh của Tử Chiêm huynh vốn là do khí độc đã xâm nhập cơ thể từ trước, đến khi mùa xuân về, Tử Chiêm huynh gặp phải cảm gió nên khí lạnh đó chuyển thành khí độc hành hạ cơ thể, chúng ta nôm na có thể gọi nó là khí hàn đến muộn, bệnh này thì có thể dùng Ma Hạnh Cam Cao Thang để chữa trị. Bởi vì tuy nó có những triệu chứng như nhức đầu, nóng lạnh thất thường nhưng nguyên do căn bệnh thì vẫn là do chứng khí hàn đến muộn kia, chính vì thế chúng ta phải thanh giải nó, mà cách thanh giải tốt nhất là làm cho đổ mồ hôi. Vị đại phu lúc trước khám cho Tử Chiêm huynh không hiểu sao lại khai nhầm đơn thuốc, ông ta dùng Ma Hoàng, Hạnh Nhân tưởng rằng bài thoát là có thể giải tỏa khí hàn, nhưng ông ta không biết rằng cái bài thoát dịch khí này chỉ là bài thoát dịch thể trong cơ thể con người, mà dịch thể ở đây bao gồm cả khí huyết, khí huyết bị bài thoát thì sẽ làm cho người ta mất sức, mà mất sức thì làm sao đối chọi được với khí hàn đến muộn kia, chính vì vậy mà bài thuốc của ông ta đã làm tổn hại đến khí huyết trong cơ thể của Tử Chiêm huynh, và làm cho khí hàn đến muộn kia càng được có cơ hội để hoành hành. Ông ta có lẽ không biết rằng dùng thuốc Ma Hoàng để chữa cho căn bệnh này sẽ làm cho người bệnh ho ra máu rồi chuyển biến thành bệnh nan y vô cùng nghiêm trọng, có khi còn nguy hiểm đến tính mạng con người nữa! Đúng là lang băm giết người không cần dao!”
Nghe Đỗ Văn Hạo giải thích xong thì Vương Nhuận Chi và Vương Triều Vân đều giậm chân xuống đất tức giận nói: “Chả trách mà sau khi lão gia uống thuốc xong bệnh càng lúc càng nặng thêm, lúc nào cũng thấy đau đầu, khô miệng, thì ra là do tên lang băm đó! Vậy bây giờ phải làm thế nào đây?”
“Cái này không vội!” Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy vị đại phu tiếp theo kê thuốc ra sao?”
Vương Triều Vân lại chỉ vào tay Đỗ Văn Hạo nói: “Đơn thuốc được kẹp hết vào với nhau đấy, tiên sinh cứ giở nó ra là thấy, nó ở đằng sau ấy!”
Đỗ Văn Hạo lại lật sang trang khác xem, hắn liền cau mày nói: “Quế Chi Ôn Đảm Chư Thang? Lang băm, ăn hại! Đúng là một lũ sâu mọt ăn hại! Quế Chi mà uống vào khí dương bốc lên đánh nhau với khí lạnh, nếu không cẩn thận thì người sẽ bị đột tử ngay tức khắc!”
Nhị vị phu nhân cùng Tô Thức nghe xong thì mặt mày thất sắc vội hỏi: “Ông ta cũng kê sai phương thuốc sao?”
“Đúng vậy! Không những thế còn kê sai hoàn toàn” Đỗ Văn Hạo nghiến răng ken két nói: “Cắt thuốc như thế này không những không giải trừ được khí hàn, mà còn dẫn hỏa công tâm, tổn hại chân khí!”
Đỗ Văn Hạo tức đến độ thở dốc, không chờ mọi người kịp có phản ứng gì thì hắn đã lại nói tiếp: “Tử Chiêm huynh nhiễm bệnh cũng khá lâu ngày rồi, bệnh của huynh đã chuyển biến thành bệnh Thiếu Dương Quân Hỏa rồi, Thiếu Dương Quân Hỏa là hiện tượng Dương Khí đã được hỏa nhiệt tương hỗ, cho dù trong người có khí hàn đến muộn nhưng hàn nhiệt hai khí lại hội tụ cùng một chỗ và xẩy ra xung đột với nhau, khí huyết trở nên hỗn loạn, do vậy phải thanh trừ khí hàn đến muộn trước sau đó mới dẫn nó thoát khí qua đường mồ hôi, phải tuần tự từng cái một mới mong khỏi bệnh. Đại phụ khi trước khám bệnh cho Tử Chiêm huynh đã sử dụng thuốc bài trừ khí dịch lung tung, làm cho khí huyết thất thoát ra ngoài, tổn hại sức khỏe nên lúc này phải dùng Bạch thược Cam Thảo Thang Phả để vãn hồi lại tình hình, nhưng huynh lại được một tên lang băm khác cho dùng thuốc Quế Chi Ôn Đảm Chư Thang không những không vãn hồi được mà còn làm cho đờm ra nhiều hơn, khí huyệt đảo lộn, dẫn đến ho ra máu, tình hình của Tử Chiêm huynh bây giờ là vô cùng nghiêm trọng!”
Đỗ Văn Hạo giải thích một thôi một hồi xong Tô Thức và người nhà của ông ta đều nghe ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm vậy, nhưng bây giờ họ đều có thể biết được một chuyện, đó chính là hai người đại phu lúc trước là bọn bất tài chữa bệnh lung tung, dùng thuốc bừa bãi chính vì thế mà bệnh tình của Tô Thức mới càng lúc càng nặng, giờ đây nghe thấy hai chữ nghiêm trọng thì rất lo lắng, bèn vội vàng lên tiếng hỏi: “Đỗ Ngự Y! Bây giờ phải làm thế nào đây?”
“Phải giữ một phần dương, rồi trừ một phần nhiệt!” ( xin lỗi các vị độc giả, mình không phải là người am hiểu nhiều về trung y nên cũng chẳng hiểu nó có ý gì nữa, mong các bạn thông cảm, có vị độc giả nào làm thuốc trung y hiểu được có thể pm cho mình!)
Câu giải thích này của hắn làm cho tất cả mọi người đều lắc đầu ngao ngán, chẳng ai hiểu nổi hắn đang nói cái gì, chỉ dương mắt ra nhìn hắn mà thôi (Đấy thấy chưa! Ngay cả người Trung Quốc như họ còn không hiểu, chẳng trách được mình he he!)
Đỗ Văn Hạo chỉ lẳng lặng tiến đến chiếc thư án đặt gần đó, đưa bút lên viết một đơn thuốc rồi nói: “Tình hình bệnh tình của Tử Chiêm huynh lúc này đã rõ hơn bao giờ hết, căn bệnh này bắt buộc phải dưỡng khí âm để giữ nguyên khí, đại khái như chúng ta trồng rau, muốn rau con sinh trưởng thì phải dưỡng mầm tưới gốc chăm sóc cẩn thận bảo vệ sức khỏe cho nó, đây chính là nguyên lý của dưỡng khí âm để giữ nguyên khí, vì Tử Chiêm huynh ngồi dậy thấy lạnh, mà nằm xuống lại nóng và toát mồ hôi, mà toát mồ hôi kiểu này lại không thể thanh trừ khí hàn đến muộn, mà lại làm cho khí âm thoát ra, chính vì thế nên phải dùng Mẫu Lệ để cầm mồ hôi, sau đó dùng A Giao bồi bổ chân khí, dùng Tiên Thạch hòa hoãn khí âm lạnh, nhuận tràng ích thận, vị, đây mới chỉ là bài thuốc sơ khai ban đầu, vì nó vẫn còn thiếu một loại thuốc dẫn nữa!”
“Thuốc dẫn đó có tên là gì vậy?” Nhị vị phu cùng đồng thanh hỏi.
Đỗ Văn Hạo trầm tư một lúc rồi mới nói: “Là sữa mẹ!”
“Hả? Còn phải cần sữa mẹ để làm thuốc dẫn nữa hay sao?” Nhị vị phu nhân cùng đỏ mặt kinh ngạc hỏi.
“Đúng vậy, sữa của con người vốn là nơi tồn trữ của huyết dịch, có thể hồi phục sức khỏe, đả thông kinh lạc mà bất kỳ các vị thuốc khác không thể thay thế được!”
“Nhưng mà bây giờ chúng ta biết đi đâu tìm sữa bây giờ?” Nhị vị phu nhân sốt ruột nói.
Ngụy Chi Châu lúc này mới lên tiếng nói: “Việc này không khó, sau khi vào trong thành lão phu sẽ lập tức cho người đi tìm xem ai mới sinh nở, rồi đến xin người ta một hai bát, đơn giản vô cùng!”
Ninh công công cũng cười nói chen vào: “Một ý rất hay! Mau mau cho người đi tìm trước đi, chỗ này cái gì cũng không có, không có thuốc uống, cũng chẳng có thuốc dẫn, vào trong thành là hay nhất. Nói cho cùng thì bệnh của Tử Chiêm huynh cũng phải chữa cho đàng hoàng, sau khi khỏi bệnh còn phải lên đường nhậm chức nữa, ai lại còn ở trên cái nơi đồng không mông quạnh, đồi núi heo hút như thế này để trồng rau bao giờ! Tử Chiêm huynh! Huynh thấy ta nói có đúng không?”
Tô Thức miễn cưỡng nở một nủ cười đáp: “Cứ theo ý công công mà làm!”
“Vậy thì tốt, mời nhị vị phu nhân mau mau thu xếp hành lý chúng ta cùng xuống núi luôn bây giờ! Ngụy Chi Châu! Ngươi mau mau gọi người đến khiêng Tử Chiêm huynh vào thành, đúng rồi, đem đơn thuốc cùng với thuốc dẫn ghi lại cho người đem vào trong thành chuẩn bị trước đi, chờ người của chúng ta xuống núi vào trong thành thì đã có thuốc sẵn để dùng luôn rồi, như vậy tiện cả đôi đường!”
“Vâng! Đúng vậy!” Ngụy Chi Châu bèn vội vã gọi hai tên nha dịch chạy đến bên Đỗ Văn Hạo tiếp lấy đơn thuốc trong tay của hắn rồi nhanh chóng chạy về thành trước chuẩn bị thuốc thang. Sau đó Ngụy Văn Đức liền sai người dỡ bỏ cánh cửa của căn nhà cỏ này của Tô Thức, sau đó ông ta cho bốn người lực lưỡng mỗi người một chân giường cứ thế mà khiêng Tô Thức xuống núi.
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng không ngồi lên trên kiệu của mình nữa, mà lẽo đẽo đi theo chiếc giường của Tô Thức từ từ xuống núi. Trông Đỗ Văn Hạo không chịu ngồi kiệu thì Ninh công công cũng xuống đất cuốc bộ đi theo với hắn, Ngụy Chi Châu cùng với những quan lại khác trông thấy hai người bọn họ như vậy thì ai dám ngang nhiên mà ngồi trên kiệu xuống núi nữa.
Lúc này Đỗ Văn Hạo đưa tay ra gọi Ngụy Chi Châu lại bên hắn rồi nói: “Chi Châu đại nhân! Đại nhân đối xử với thuộc hạ của mình có phần không công bằng rồi đây! Ngươi trông thấy một đại văn hào nổi tiếng như Tô Thức nghèo nàn, bệnh tật triền miên như vậy mà chẳng ra tay cứu tế cho ông ta thì thôi, đằng nay ngươi lại cứ để kệ ông ta sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi là ý gì vậy?”
Ngụy Văn Đức nghe vậy thì cười đáp: “Ngự Y đại nhân! Chắc đại nhân không biết rồi, chúng tôi cũng cứu tế cho gia đình Tô Tử Chiêm nhiều lắm đấy! Bọn ti chức cũng thường xuyên cho người đến thăm nom, nhưng Tử Chiêm huynh toàn lấy tiền cứu tế của bọn ti chức mua gạo, mì rồi phân phát hết cho những người nghèo khổ, Tử Chiêm huynh còn cứng giọng nói rằng ông ấy có thể chịu khổ được, tiền bạc cứu tế cho ông ta đều phân phát cho những người cần nó hơn ông ta! Lần này bị bệnh, ti chức cũng cho mời đại phu đến khám cho Tử Chiêm huynh rồi! Nhưng mà ở nơi này chẳng có ai y thuật tài giỏi cả, chính vì thế mà bệnh của Tử Chiêm huynh càng ngày càng nặng thêm!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn thở dài nói: “Đại văn hào Tô Tử Chiêm quả là một con người nhân hậu, không phục không được! Ài! Nếu mà như vậy thì ta đã trách nhầm ngươi rồi!”
“Không dám! Không dám! Đây đúng là do ti chức đã chăm sóc không được chu đáo!”
Khi vào đến dịch trạm ở bên trong thành Hoàng Châu, mọi người bèn sắp xếp cho cả gia đình Tô Thức ở phòng ngay bên cạnh phòng của Đỗ Văn Hạo.
Viên nha dịch chạy về trong thành từ sớm đã lo liệu được một bát sữa mẹ đem dâng lên cho Đỗ Văn Hạo, sau đó hắn bèn đem bát sữa mẹ đó pha thêm một ít bột Cam Túc, rồi đổ thêm với một ít nước Tuyết Lê ép, rồi đem cho Tô Thức uống cùng với thuốc đã được kê sẵn của hắn.
Sau khi cho Tô Thức dùng thuốc xong, Đỗ Văn Hạo lại dặn dò người nhà của ông ta rằng liều lượng thuốc của Tô Thức uống là rất nhiều, nhiều như ông ta uống trà hằng ngày vậy, ngay cả buổi đêm cũng không được phép ngưng nghỉ.
Đêm hôm đó, Nha Môn đã bày sẵn tiệc rượu cho mời Ninh công công, Đỗ Văn Hạo cùng với các tướng lĩnh lãnh đạo quân đội, mọi người cùng mổ trâu, mổ gà khao thưởng ba quân đóng trại bên ngoài thành.
Đỗ Văn Hạo lúc này vẫn lo lắng bệnh tình của Tô Thức không ổn định, dễ biến chứng thay đổi phức tạp, do vậy hắn cũng không dám uống nhiều, hắn chỉ uống đến mức cho phép, xong liền đứng dậy ra về.
Đêm hôm đó, Đỗ Văn Hạo đem theo Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đến thăm Tô Thức hai lần trong đêm, sau khi tận mắt trông thấy Tô Thức uống liền một liều lượng lớn thuốc thang như vậy, ba người mới cảm thấy yên tâm cho bệnh tình của ông ta. Sau khi dùng thuốc xong, Tô Thức bèn nhắm mắt ngủ một cách ngon lành, những đốm mồ hôi lạnh lấm tấm trên đầu ông ta lúc này đã khô đi phần nào, môi của ông ta cũng trở nên hồng hào, miệng cũng đỡ đắng, nhưng gương mặt thì vẫn còn hốc hác xanh mét, xương sườn phía bên trái lại đau âm ỉ, nhưng mọi người cảm thấy mừng nhất chính là Tô Thức đã ít ho ra đờm, và trong đờm cũng không có kèm theo máu như lúc trước nữa.
Đỗ Văn Hạo sau khi phúc chẩn xong liền đi ra khỏi phòng của Tô Thức, khi mới đi ra ngoài thì hai người vợ của Tô Thức đã chạy theo hắn thấp giọng hỏi: “Đỗ đại nhân! Sức khỏe của Lão gia thần thiếp tiến triển thế nào rồi?”
“Thuốc đã đúng bệnh! Nhưng căn bệnh này vô cùng khó chữa, chữa trị thời gian lại lâu, chắc phải cần mấy ngày nữa mới biết được kết quả, chỉ cần đều đặn liên tục uống thuốc, thì bệnh chắc sẽ khỏi hẳn thôi!”
Hai vị phu nhân nghe đến đây thì thở hắt ra nhẹ nhõm.
Bệnh tình của Tô Thức vô cùng hiểm nghèo, Đỗ Văn Hạo cũng không dám khinh xuất, chính vì thế mà ngay sáng sớm ngày hôm sau, hắn đã đem theo Tiền Bất Thu cùng đến phúc chẩn với hắn, hai người cùng ngồi hội chẩn với nhau thì sẽ nắm được nhiều phần thắng hơn, nhất là đối với những căn bệnh phức tạp như Thương Hàn này thì Tiền Bất Thu kinh nghiệm đầy mình, có lẽ ông ta sẽ giúp ích được rất nhiều cho Đỗ Văn Hạo.
Khi Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu hai người vừa đến phòng của Tô Thức thì ông ta cũng đã tỉnh dậy và đang nằm nói chuyện với vợ con của mình, Tô Thức trông thấy Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu đến đây thì vội vã bảo hai vị phu nhân đỡ mình ngồi dậy, dựa lưng vào đầu giường cố gắng đưa đôi tay yếu ớt của mình lên ôm quyền thi lễ nói: “Vân Phàm huynh đến rồi đó à?”
Đỗ Văn Hạo thấy thần sắc của Tô Thức lúc này khô héo, không còn sức sống! Tuy sức khỏe đã hồi phục dần dần nhưng vẫn vô cùng yếu, bệnh tình có lẽ vẫn chưa có chuyển biến theo bước đột phá, cảm giác như căn bệnh vẫn đang hoành hành tác oai tác quái trong thân hình gầy gò, hốc hác của Tô Thức. Nhưng ông ta lúc này dường như đỡ hơn lúc ở trên núi rất nhiều, sắc mặt so với lúc đó cũng khá hơn, ít ra trong lúc này ông vẫn thể hiện được phong thái an nhàn không còn khổ sở, đau đớn như lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo gặp ông nữa, Đỗ Văn Hạo thấy thần sắc của Tô Thức có chuyển biến như vậy thì mỉm cười vui vẻ đáp lại: “Tử Chiêm huynh, xem ra thần sắc của huynh cũng khá hơn trước nhiều rồi! Ha ha ha!”
“Đúng vậy! Ta cảm thấy tinh thần và sức khỏe đỡ hơn trước rất nhiều rồi, cả thân người cùng với đầu óc cũng cảm tỉnh táo ra hẳn! Ài! Cái mạng này của Tô mỗ cuối cùng cũng nhặt được về rồi, may mà có thần y Vân Phàm huynh ra tay cứu giúp, đây cũng coi là tạo hóa an bài cho Tô mỗ rồi…”
“Ha ha! Tử Chiêm huynh nói hay lắm! Nào đưa tay đây để tại hạ xem cái nào, bệnh tình của huynh lúc này phải chú trọng hơn nữa mới được!”
Đỗ Văn Hạo sau khi kiểm tra một hồi xong bèn mỉm cười nói: “Không có vấn đề gì nữa rồi! Tử Chiêm huynh cố gắng uống thuốc đều đặn, bệnh tình cũng sẽ khỏi nhanh thôi! Tại hạ vẫn còn phải chờ sức khỏe của huynh hồi phục rồi mới lên đường nhậm chức được!”
Tô Thức thấy vậy cũng cười đáp lại: “Được thôi! Đa tạ Vân Phàm huynh!”
Đỗ Văn Hạo sau đó liền quay sang Tiền Bất Thu rồi giới thiệu nói: “Đây là đệ tử của tại hạ, Thái Y Viện Tiểu Phương Mạch Thái Y Thừa, Ngự Thích Tử Y Kim Đái, mọi người thường xưng tụng Tiền Bất Thu là một vị thần y có tài có đức. Hôm nay tại hạ đem ông ta đến đây là cùng xem bệnh của Tử Chiêm huynh tiến triển ra sao!”
Tô Thức nghe xong thì nét mặt mừng rỡ chắp tay nói: “Danh tiếng của Tiền Thái Y như sét đánh ngang tai! Nghe nói Tiền Thái Y từng dùng Hoàng Thổ Thang chữa trị bệnh cho Hoàng Tử, chỉ một thang thuốc là khỏi bệnh, đúng là thần y giáng thế!”
Tiền Bất Thu nghe vậy chỉ mỉm cười đáp: “Không dám! Đó chẳng qua là trò trẻ con mà thôi, so với sư phụ của tại hạ thì chẳng đáng là gì cả!”
Tô Thức nghe vậy bèn đáp: “Đúng vậy! Đỗ Ngự Y còn biết mổ bụng trị thương, tuyệt kỹ này cổ kim chưa từng có bao giờ cả! Thần kỹ này đã từng cứu chữa bệnh tình cho Thập Tứ Hoàng Tử, hơn nữa cách chữa bệnh này thời Đông Hán mới chỉ có một thần y tên Hoa Đà là thông thạo, nhưng chuyện đó cách đây cũng lâu lắm rồi, và danh tiếng của Hoa Đà thì từ cổ chí kim không ai dám so bì cả, vậy mà không ngờ thời đại này lại có Đỗ Ngự ycũng biết thần kỹ đó, tại hạ rất lấy làm vinh dự khi được Đỗ thần y trị bệnh giúp cho!”
Đỗ Văn Hạo không ngờ danh tiếng của mình còn bay được đến cái nơi Hoàng Châu khỉ ho cò gáy này, hắn bất giác cũng có mấy phần đắc ý, nhưng Đỗ Văn Hạo không biết rằng kỹ thuật ngoại khoa phẫu thuật mổ bụng trị thương ở thời nhà Tống này vĩ đại không khác gì thời hiện đại Einstein phát hiện ra thuyết tương đối cả, chính vì thế mà một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn vạn, cứ thế chuyện hắn phẫu thuật mổ bụng cứu chữa Hoàng Tử trở thành một câu chuyện thần thoại mà người dân nào ai ai cũng thuộc lòng hết cả.
Tiền Bất Thu thấy vậy bèn lên tiếng nói: “Tử Chiêm huynh có lẽ không biết! Tư Mã đại nhân mắc phải chứng bệnh nan y khó chữa, tưởng chừng sắp từ biệt cõi đời này, thì cũng may nhờ ân sư của tại hạ ra tay cứu giúp nên mới tai qua nạn khỏi!”
Tư Mã Quang, tự Quân Thực cùng với Tô Thức, Vương An Thạch là tam đại danh nho đời nhà Tống lúc bấy giờ, ba người cùng được tiền bối Âu Dương Tu cất nhắc đề bạt, và đều được Phạm Trọng Yêm, Tăng Khổng vô cùng nể trọng và tán thưởng. Do vậy Tô Thức và Tư Mã Quang coi như là cũng đã quen biết nhau từ lâu. Tô Thức nghe nói Tư Mã Quang mắc phải bệnh nan y khó chữa cứ tưởng chết rồi nên vô cùng lo lắng, giờ ông lại nghe Tư Mã Quang được Đỗ Văn Hạo dùng thần kỹ phẫu thuật mổ bụng mà chữa khỏi thì cảm khái vô cùng: “Đỗ Ngự Y quả nhiên là thần y giáng thế, không ai sánh kịp!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ mỉm cười đáp: “Không dám! Tư Mã Quân Thực vẫn còn cần đến một vị thuốc nữa, nó có tên là Đông Trùng Hạ Thảo. Loại thuốc này chỉ sinh sản ở trên núi tuyết của Thổ Phồn mà thôi! Lần này tại hạ đến Nhã Châu nhậm chức, cũng có mục đích là tìm ra vị thuốc này đem về chữa trị cho Tư Mã đại nhân! Thôi được rồi! Bất Thu ngươi mau mau xem bệnh của Tử Chiêm huynh ra sao, xong rồi chúng ta còn về sớm để ông ấy nghỉ ngơi nữa!”
“Vâng thưa sư phụ!” Tiền Bất Thu vuốt vuốt bộ râu của mình xong bèn ngồi xuống, ông ta đã được Đỗ Văn Hạo thuật lại toàn bộ bệnh tình, cùng với trình trạng khám bệnh của mấy người thầy thuốc ngày trước khám bệnh cho Tô Thức rồi! Do vậy sau một hồi kiểm tra, xem xét xong bèn trầm ngâm giây lát mở miệng cười nói: “Tử Chiêm huynh! Ân sư của tại hạ biện chứng vô cùng chuẩn xác, dùng thuốc cũng vô cùng cẩn thận! Tử Chiêm huynh có yên tâm đi! Bệnh tình của huynh có ân sư ra tay chắc chắn sẽ khỏi thôi!”
Cho dù Đỗ Văn Hạo là Ngự Y của Hoàng Thượng, được Hoàng Thượng vô cùng trọng dụng, lại biết thần kỹ, nhưng hắn lại còn quá trẻ, chính vì vậy mà người bệnh thường cảm thấy không được yên tâm, nhưng bây giờ bên cạnh hắn xuất hiện một vị đại phu râu tóc bạc phơ, chững chạc, điềm tĩnh như Tiền Bất Thu mở miệng ra nói đảm bảo như vậy, thì cả gia đình của Tô Thức đều thầm vui sướng trong lòng, họ biết căn bệnh của Tô Thức không lâu nữa chắc chắn sẽ khỏi hẳn, do vậy tất cả cùng đồng thanh lên tiếng tạ ơn rối rít.
Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu sau khi khám bệnh xong xuôi cho Tô Thức bèn đứng dậy ra về, cả hai đều không nói với nhau câu nào mà trực tiếp đi đến chiếc bàn tròn trong phòng của Đỗ Văn Hạo, rồi ngồi xuống đó, Diêm Diệu Thủ thấy vậy bèn đứng bên ngóng đợi, còn Anh Tử đã nhanh tay dâng lên hai tách trà thơm phức, sau khi Anh Tử lui ra ngoài xong thì Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng hỏi: “Bất Thu! Ngươi nghĩ bệnh tình của Tử Chiêm huynh thế nào?”
Tiền Bất Thu nghe xong liền vuốt vuốt râu nói: “Hôm qua bệnh tình ra sao thì đệ tử không biết, nhưng với tình trạng của ngày hôm nay thì khí âm trong người bị tổn hại nghiêm trọng, khí huyết thì tàn, xem ra bệnh tình vô cùng nguy hiểm!”
“Đúng vậy! Nhưng so với tình hình nguy kịch hôm trước thì bệnh tình cũng đã thuyên giảm đi khá nhiều rồi, ta muốn tham khảo ý kiến của ngươi xem cách dùng thuốc của ngươi thế nào, sau đó xem xem phương thuốc ta kê có vấn đề gì không?”
Tiền Bất Thu nghe vậy bèn cúi người đáp: “Đệ tử không dám! Cách dùng thuốc của sư phụ vô cùng chuẩn xác, biện chứng thì tinh chuẩn, đệ tử vô cùng khâm phục!”
“Thôi đừng nịnh bợ ta nữa! Nói chuyện tử tế một chút đi, chữa khỏi bệnh sớm còn sớm lên đường nữa chứ! Tình hình quân sự bên thành đô bây giờ đã chính thức khai chiến rồi, mặc dù quân ta chắc chắn sẽ giành được thắng lợi, nhưng ta vẫn cảm thấy lo lắng lắm, mọi thứ quân dụng, lương thực đều nằm hết phía hậu quân do ta quản lý, nếu ta không nhanh chân tiếp ứng e rằng sẽ xảy ra nhiều chuyện không đáng có!”
“Đệ tử đã hiểu!” Tiền Bất Thu nói xong bèn vuốt râu trầm ngâm, ngẫm nghĩ một lúc xong ông ta bèn lên tiếng nói: “Bệnh tình của Tử Chiêm huynh đang trong giai đoạn nguy kịch! Cách thức của sư phụ là cứu mạng ông ta xong trước, rồi mới nghĩ cách chữa trị là vô cùng chính xác, nếu như tính mạng của ông ta đã giữ được như vậy rồi thì bệnh tình sẽ có thay đổi tích cực. Nhưng dư chứng của căn bệnh vẫn còn nằm đấy, sách y học có câu ‘Dương dị phu nhĩ tân nan hồi’ (tạm dịch: Khí dương dễ hồi phục nhưng dịch huyết trong người lạ rất khó lấy lại được như xưa). Đệ tử nghĩ rằng dựa vào những bài thuốc mà sư phụ đã kê làm cơ sở chính rồi sau đó cho thêm mấy vị thuốc nhuận gan, bổ thận như vậy sẽ giúp Tử Chiêm huynh qua được cơn nguy kịch hiện nay!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong gật gật đầu nói: “Ngươi nói đúng lắm, nhuận gan bổ thận vô cùng chính xác, bây giờ Thảo Mộc không linh nghiệm bằng Linh Giới, ta cho thêm Sinh Giải Giáp và Sinh Quy Bản vào, người bệnh nào cần bổ thận nhuận gan thì chắc chắn không thể thiếu mấy vị thuốc này được!”
“Sư phụ quả nhiên dùng thuốc như thần, đệ tử khâm phục vô cùng!”
Khi hai người đang mải bàn bạc, thì bên ngoài có tiếng gõ cửa, Diêm Diệu Thủ vội vàng chạy ra mở cửa, thì thấy có một viên tướng đứng ngay trước cửa, dáng vẻ cao lớn, người này không phải ai khác mà chính là phó tướng của Đỗ Văn Hạo, Lý Phố, ông ta trông thấy Đỗ Văn Hạo bèn cúi người thi lễ: “Mạt tướng bái kiến tướng quân!”
“Mời vào!” Đỗ Văn Hạo liền đứng dậy đi ra tiếp Lý Phố: “Mời ngồi! Ngươi uống trà nhé!”
Lý Phố lúc này không buồn ngồi xuống nữa mà quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Bẩm tướng quân! Có tình hình quân sự cấp bách vừa mới đưa đến!”
“Ố!” Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn quay sang Tiền Bất Thu nói: “Ngươi mau mau viết đơn thuốc rồi đưa sang cho Tô Tử Chiêm sắc thuốc mau lên, ta đi công chuyện bây giờ!”
Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đưa Lý Phố đi vào trong phòng.
Vào đến trong phòng thì có một tên binh sĩ tiến đến thi lễ, sau đó hắn móc trong người ra một cuộn giấy đã được phong kín cẩn thận dâng lên cho Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân! Thành Đô Phủ báo tin gấp, đây là thông điệp quân sự mà Hàn Nguyên Soái gửi cho tướng quân, mời tướng quân duyệt trình!”
Đỗ Văn Hạo vội vã đưa tay đỡ lấy, binh sĩ kia sau khi đưa cho Đỗ Văn Hạo xong bèn cúi người thi lễ đi luôn ra ngoài.
Lý Phố lúc này đã rút sẵn một con dao nhỏ ra dâng lên cho Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo đỡ lấy rồi dùng nó cắt một đường mở cuộn giấy đó ra xem, khi mới mở ra đọc thì sắc mặt của Đỗ Văn Hạo trở nên trắng bệch.
Trong thư của Hàn Tu gửi cho Đỗ Văn Hạo có viết, tình hình tiền phương bây giờ rất nguy kịch, bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn vô cùng thiện chiến, sức tấn công mạnh như thế chẻ tre, các lộ quân của Thành Đô Phủ đã hoàn toàn bại trận, lúc này quân Tây Sơn đã sắp chiếm đóng được Đặng Châu, ép sát đến tận cửa ngõ của Thành Đô rồi.
Hàn Tu nói rằng ông ta cùng với đại quân lúc này đã đi đến đại phận biên giới của Thành Đô, và ngày đêm hành quân để cứu trợ cho Thành Đô, nếu ông ta không đến kịp e rằng đạo quân Tây Sơn kia sẽ san Thành Đô thành bình địa mất, chính vì vậy bây giờ Hàn Tu đang gấp rút, gia tăng tốc độ hành quân hòng kịp đến giữ vững trận địa.
Đỗ Văn Hạo sau khi xem xong tình hình bèn giao bức thư đó cho Lý Phố, Lý Phố xem xong liền trầm giọng nói: “Bẩm tướng quân! Mạt tướng có một ý như thế này không biết có nên nói hay không?”
“Lý tướng quân cứ nói!”
“Tuân lệnh! Các đại quân tinh nhuệ của Đại Tống ta đều tập trung hết ở các vùng Tây Bắc tiếp giáp với Tây Hạ, và phía Đông Bắc tiếp giáp với biên giới với Đại Liêu, các bộ lạc của Thổ Phồn từ trước đến giờ đều rất ít gây sự với Đại Tống, đặc biệt còn có bộ lạc Hà Nhiếp Đào Giác Tư La nhiều khi còn giúp đỡ Đại Tống chúng ta tấn công Tây Hạ nữa, bọn họ cũng có thể coi là đồng minh của chúng ta, vậy mà theo mạt tướng được biết, thì ở Thành Đô bây giờ không có tinh binh, chỉ có vài đạo quân nhỏ không đáng kể, hơn nữa binh lực lại toàn là những người già yếu, còn bộ lạc Tây Sơn thì lại trẻ khỏe, chinh chiến lâu năm, sức chiến đấu cũng khá mạnh, chính vì vậy mà thế trận của bộ lạc Tây Sơn thắng như chẻ tre như vậy không có gì lạ cả, nhưng cũng không nên vì vậy mà xem thường bọn chúng. Mạt tướng còn nhớ thời nhà Đường, thì hai nước Thổ Phồn và Đại Đường cũng giao tranh với nhau mấy lần, cả hai đều ở thế giằng co không ai hơn ai cả, và đợi cho đến khi nhà Đường bị nội loạn thì Thổ Phồn đã thừa cơ đánh thẳng đến Tràng An. Đến thời Đại Tống chúng ta thì tuy Thổ Phồn đã bị tan rã ra thành nhiều bộ lạc nhỏ nhưng cũng không nên vì thế mà khinh địch!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn nói: “Đúng vậy! Theo như tin tức Hoàng Thượng đã nói cho ta biết thì lần này bộ lạc Tây Sơn đã dốc hết binh lực vào cuộc chiến này, binh lực tuy có lúc thét lên tầm ba vạn, nhưng thực chất có lẽ cũng chỉ có một vạn mà thôi, cũng tại do trận đánh Tây Hạ tại thành Vĩnh Lạc quân đội Đại Tống tổn hại nghiêm trọng, điều động không ra được tinh binh, chính vì thế mà Hoàng Thượng chỉ phái có bốn vạn Cấm Vệ Quân ra để dẹp loạn Thổ Phồn mà thôi, nhưng thực chất bốn vạn quân đó lại bao gồm cả các lộ quân ở Thành Đô nữa. Đại quân của ta chiếm thiên thời địa lợi, do vậy đánh bại quân Thổ Phồn sẽ không thành vấn đề, chính vì thế mà Hàn Nguyên Soái mới để lại năm ngàn quân cho ta đoạn hậu, ông ta nói chỉ cần dùng ba vạn năm ngàn quân cũng đủ để dập tan một vạn quân của bộ lạc Tây Sơn rồi, nhưng xem tình hình hiện nay thì ba vạn lộ quân ở Thành Đô chưa kịp tụ họp với Hàn Tướng quân mà đã bị đánh tan tác hết cả rồi, tình hình quân sự xem ra đang ở trong tình thế vô cùng khẩn cấp, ba vạn lộ quân tiến tới Thành Đô trước chưa đánh đã thua, Hàn Nguyên Soái trong tay bây giờ chỉ còn năm ngàn quân Cấm Vệ, e rằng bọn họ không thể đỡ nổi thế công của Tây Sơn, ta thấy tình hình bây giờ đang rất khẩn trương!”
Lý Phố nghe vậy bèn thấp giọng nói: “Mạt tướng là người xuất thân trong quân đội, tòng quân cũng đã hơn hai mươi năm nay biết rất rõ thực lực quân đội của Đại Tống, nói thực lòng thì các lộ quân của Thành Đô tuy có đến ba vạn nhưng không hề có chút chiến đấu chút nào, Hàn Nguyên Soái nói rằng ông ta lãnh đạo ba vạn năm ngàn quân nhưng thực chất biết chiến đấu thì chỉ có năm ngàn quân cấm vệ binh đi sau của ông ta mà thôi. Ba vạn quân kia đến Thành Đô chưa đánh đã chạy hết cả, cho dù có đứng lại chiến đấu thì lại toàn là những binh lính già cả, yếu ớt làm sao đủ sức chống lại với Tây Sơn được! Chính vì vậy mà bọn họ không đánh đã chạy, nếu có đánh thì cũng chỉ là tự tìm cái chết cho mình mà thôi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì cau lông mày lại hỏi: “Nói như vậy thì theo tình hình thực tế thì quân của Tây Sơn nhiều gấp đôi quân của ta sao?”
Lý Phố liền gật gật đầu, ông ta trầm ngâm giây lát rồi lại thấp giọng nói: “Hàn Tu cũng là người chưa cầm quân đánh trận bao giờ, lần này xuất quân không biết sự lợi hại của bộ lạc Tây Sơn, ông ta lại quá khinh địch e rằng…!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì gương mặt biến sắc nói: “Việc quân không thể chậm chễ! Lập tức nhổ trại lên đường!”
Lý Phố chắp tay đáp: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Lý Phố trầm ngâm đôi lúc rồi nói: “Bẩm tướng quân! Thế còn Tô Thức chúng ta giải quyết thế nào đây?”
Đỗ Văn Hạo không hề chần chừ nói luôn: “Đem theo luôn! Vừa hành quân vừa chữa trị cho ông ta! Không chết được đâu mà lo!” Đỗ Văn Hạo bây giờ đã biết tình hình trước mắt đã vô cùng nghiêm trọng rồi, hắn nhất định phải ngày đêm hành quân mới hòng bắt kịp đạo quân của Hàn Tu. Ngụy Chi Châu sau khi nghe được tin tức Đỗ Văn Hạo nhổ trại tây chinh, thì liền bừng tỉnh cơn mơ, ông ta vội vã chạy ra khỏi phủ nhanh đến nỗi chân quên cả mang giầy, nhưng khi Ngụy Chi Châu đánh kiệu ra ngoài cổng thành thì đạo quân của Đỗ Văn Hạo đã nhổ trại đi tự bao giờ rồi.
Ninh công công cũng xuất chinh theo cùng đại quân của Đỗ Văn Hạo, trên đường đi ông ta ngồi cùng một xe với Tô Thức, Ninh công công nhân lúc này bèn đem hàm ý của Hoàng Thượng ra nói cho Tô Thức biết, Tô Thức bây giờ mới hiểu người Ngự Y trẻ tuổi kia bây giờ đang gánh trên vai một trọng trách vô cùng to lớn, đó là tiến hành cuộc biến pháp lần thứ hai.
Thái độ của Tô Thức đối với biến pháp vô cùng thực dụng, chỉ cần biến pháp nào có lợi với dân chúng thì ông ủng hộ vô cùng nhiệt tình, không bao giờ phản đối cả, chính vì thế nên sau khi biết Đỗ Văn Hạo sắp sửa biến pháp thì cũng không nói thêm câu nào nữa, mà chỉ âm thầm chờ đợi xem kết quả ra sao, nếu tốt thì ông ta giơ cả hai tay ủng hộ, còn nếu không tốt thì… Ninh công công lúc này lại dặn dò, bảo ban thêm một lúc nữa Tô Thức giờ đây mới biết ông ta tuy hiện giờ là Hoàng Châu Chi Châu, còn Đỗ Văn Hạo chỉ là một chức Câu Quản bé nhỏ, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn còn giữ chức Ngự Tiền Thị Chính Đại Phu, quan chính ngũ phẩm, ngoài ra hắn còn Tử Y Kim Đái là biểu tượng cho chức quan chính tam phẩm, do vậy bất kể thế nào thì Tô Thức cũng còn kém xa Đỗ Văn Hạo về mặt chức tước, hơn nữa chức quan Chi Châu này của Tô Thức cũng là do Đỗ Văn Hạo cầu xin với Hoàng Thượng mới có được (mặc dù đây hoàn toàn là do chủ ý của Tống Thần Tông, nhưng Tô Thức làm sao biết được.) Chính vì thế mà Tô Thức có muốn làm khó dễ Đỗ Văn Hạo trong việc biến pháp cũng không được. Vả lại biến pháp không phải cái gì cũng xấu cả, phải xem hiệu quả ra sao mới có quyền nói nó tốt xấu được. Tô Thức là người thông minh, ông ta dĩ nhiên là hiểu cái đạo lý này.
Chính vì vậy mà những lời nói của Ninh công công lại càng làm vững chắc thêm ý nghĩ của Tô Thức hiện nay, ông ta có thể ủng hộ hoàn toàn Đỗ Văn Hạo, cho dù biến pháp có thành công hay không, bởi vì ông tin Đỗ Văn Hạo là một người hết mực thương dân, biến pháp chắc chắn sẽ do dân, và vì dân, một người đang làm quan cao trong triều đình sung sướng như Đỗ Văn Hạo, lại có thể tự nguyện đi ra một nơi chiến loạn nguy hiểm này tiến hành biến pháp, nếu không phải là người có lý tưởng cao đẹp, vì nước thương dân thì quyết không bao giờ có hành động như vậy cả. Tô Thức là một người có học suy nghĩ chín chắn, vì vậy ông sẽ dốc toàn bộ tâm sức của mình ra để tạo điều kiện tốt nhất cho Đỗ Văn Hạo biến pháp.
Đại quân sau khi hay tin quân đội khẩn cấp bèn ngày đêm hành quân không biết mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo trước khi lên đường cũng đã kịp triệu tập tướng sĩ truyền đạt tình hình khẩn cấp cho ba quân biết, do vậy giờ đây tốc độ hành quân của hắn nhan hơi ngày trước rất nhiều.
Lúc này những tướng sĩ trong đại quân của Đỗ Văn Hạo tuy chưa bao giờ tham gia trực tiếp đánh trận bao giờ, nhưng nói cho cùng thì khi đã vào quân đội rồi thì luôn có một dòng máu tràn đầy nhiệt huyết chảy trong thân thể của họ, do vậy sau khi biết tin tình hình tiền phương khẩn cấp, ai nấy cũng cảm thấy phấn khích vô cùng, khí thế hùng dũng hiên ngang, sĩ khí vụt tăng lên nghút trời.
Đỗ Văn Hạo sau đó lại đem tình hình tiền phương ra báo cho Tô Thức biết, Tô Thức lập tức thể hiện thái độ cho dù ông ta có chết giữa đường nhưng cũng không nên vì bệnh tình của ông ta mà làm lỡ mất thời cơ của đại quân. Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng cảm động.
Chính vì thế mà ngay sau lúc đó, Đỗ Văn Hạo hạ lệnh xuất chinh, cấm đại quân uống rượu, còn Tô Thức cũng vì vội vã đi theo đại quân mà quên không mang đồ dụng theo mình, nhưng ông ta vẫn không hề nề hà, cứ thế người không mà đi theo Đỗ Văn Hạo tây chinh.
Đại quân của Đỗ Văn Hạo mang theo một số lượng lớn đồ quân dụng, hắn hành quân được một đoạn thì thấy tốc độ của đoàn quân dần dần chậm lại, hắn vô cùng lo lắng tình hình của tiền phương sợ đến không kịp để tiếp viện, nhưng trong tay hắn chỉ có năm ngàn binh sĩ, Đỗ Văn Hạo không thể phân binh ra được nữa, do vậy đại quân vẫn phải cố gắng kéo theo cả một đống quân dụng nặng nề, ba quân vì thế vô cùng mệt mỏi, xuống sức rất nhanh.
Nhưng ba quân không vì thế mà nhụt chí, tất cả mọi người đều cắn răng chịu đựng, tất cả cho tiền tuyến.
Lý Phố thấy tình hình quân đội như vậy cũng không ổn, vì có khi đại quân của Đỗ Văn Hạo chưa kịp thấy quân địch cũng đã mệt chết đi rồi, chính vì thế mà ông liền nghĩ ra một chủ ý là dọc đường hành quân thuê thêm xe ngựa để chở đồ quân dụng. Đỗ Văn Hạo nghe thấy hợp lý vì như vậy không những bảo tồn được sức lực của ba quân, mà lại còn gia tăng được tốc độ hành quân nữa, ngoài ra tiền thuê xe ngựa cũng không phải là đắt. Sau khi được sự đồng ý của Đỗ Văn Hạo, Lý Phố bèn trên đường đi thuê thêm hàng loạt xe ngựa chở hàng, đại quân vì thế mà tốc độ hành quân tăng lên thấy rõ.
Trong khi hành quân thì gia đình của Tô Thức được sắp xếp ở trong hai chiếc xe ngựa, một xe thì chở nhị vị phu nhân cùng với Tô Thức, còn một xe thì chở ba người con trai nhỏ tuổi của ông ta.
Tô Thức lúc này đã biết tình hình tiền tuyến đang rất khẩn trương, ông là người đọc sách, chưa bao giờ dẫn quân đánh trận chính vì thế mà lo lắng không yên, trong lòng thầm nghĩ mình vừa mới được bổ nhiệm làm Chi Châu ở Hoàng Châu, thì nơi đó đã bị Tây Sơn đánh chiếm mất rồi, không biết sao này làm quan sẽ ra sao đây.
Nhưng ngược lại với sự lo lắng của Tô Thức là sự tự tin của Đỗ Văn Hạo, bởi hắn tin một khi đại quân của hắn tới hội tụ cùng với Hàn Nguyên Soái thì Tây Sơn tất bại, do vậy mà khi rảnh rỗi hắn thường tìm đến xe của Tô Thức nói chuyện, rồi nhân tiện chữa bệnh cho ông ta.
Đại quân hành quân được mấy ngày thì bệnh tình của Tô Thức dưới sự chăm sóc chu đáo của Đỗ Văn Hạo đã khôi phục lại rất nhanh, nhưng do Tô Thức mắc bệnh lâu ngày tinh thần có phần bạc nhược, ngồi lên nằm xuống vẫn cảm thấy vô cùng khó khăn.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn gọi Tiền Bất Thu lại cùng hội chẩn, tìm cách cứu chữa cho Tô Thức một cách có hiệu quả nhất.
Hai người sau khi hội chẩn xong bèn quyết định cho thêm ba tiền Mẫu Lệ, mười tiền Quy Bản, rồi còn mỗi buổi sáng tối cho Tô Thức ăn thêm một bữa ngó sen trộn với đường làm điểm tâm. Ăn như vậy sẽ có lợi cho việc phục hồi sức khỏe nhanh hơn.
Mấy ngày sau, khi Đỗ Văn Hạo đã kiểm tra phúc chẩn cho Tô Thức xong xuôi thì gương mặt vốn đang rất căng thẳng của hắn bỗng nhiên trở nên dịu hẳn xuống, chầm chậm nói: “Tử Chiêm huynh! Chúc mừng huynh đã qua được thời kỳ nguy hiểm, tất cả các triệu chứng đã giảm đi hơn nửa, chờ cho tại hạ chuyển sang bài thuốc phục hồi nữa là huynh có thể điều dưỡng thân thể, bệnh tình tự khỏi!”
Nhị vị phu nhân của Tô Thức nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì vô cùng xúc đông, cả hai đều mừng rỡ nước mắt chảy xuống vui mừng.
Đỗ Văn Hạo lại nói: “Bệnh mùa xuân của Tử Chiêm huynh kéo dài đã lâu, không thể một chốc một lát mà khỏe hẳn ngay được, vẫn cần vài ngày tĩnh dưỡng nữa mới thực sự khỏi bệnh được!”
Mấy ngày sau, Đỗ Văn Hạo cho thêm mấy bài thuốc phục hồi, tĩnh dưỡng sắc cho Tô Thức uống, quả nhiên khi đại quân tiến đến địa giới của phủ Thành Đô thì bệnh tình của Tô Thức đã khỏi hoàn toàn.
Vậy nhưng, chiến sự không hề đơn giản như chữa bệnh, Đỗ Văn Hạo vừa mới đi vào trong đến địa giới của Tứ Xuyên thì đã có tin báo khẩn cấp truyền đến cho hắn.
Ngày hôm đó, đại quân của Đỗ Văn Hạo mới vào đến huyện Đông Quảng An bên rìa địa giới Tứ Xuyên, cách Thành Đô vẫn còn mấy trăm dặm đường nữa, nhưng tin báo khẩn của tiền phương đã làm cho hắn không còn thời gian có thể nghỉ ngơi được nữa.
Đỗ Văn Hạo sau khi mở tin báo thì bỗng nhiên sắc mặt tái nhợt, đại quân của hắn mặc dù ngày đêm lặn lội nhưng cũng vẫn không cứu viện kịp cho tiền phương, Đặng Châu đã thất thủ, đại quân của Hàn Tu mạo hiểm đột kích giờ đang bị vây khốn, năm ngàn Cấm Vệ quân đã hy sinh hơn nửa ba vạn lộ quân Thành Đô chưa đánh đã chạy, sau đó bị truy kích chết hơn một vạn, quân Tây Sơn bây giờ đã áp sát Thành Đô, tình hình vô cùng nguy ngập.
Chương 314: Nghịch chuyển!
Bảo Tô Thức làm thơ, viết văn, làm công tác xử lý hành chính thì còn được, chứ bàn về chuyện quân sự thì ông ta không đủ trình, do vậy Đỗ Văn Hạo không muốn làm khó Tô Thức mà chỉ quay sang Lý Phố, một viên tướng dày dạn trận mạc mà dò hỏi ý kiến của ông ta.
Lý Phố thấy vậy bèn lên tiếng: “Quân địch liên tiếp chiếm đóng Nhã Châu, Đặng Châu, Thục Châu và bây giờ đại quân của chúng lại đang uy hiếp đến tận cửa ngõ của Thành Đô, chính vì vậy mà lúc này sĩ khí của chúng đang rất cao! Đây quả là một vấn đề nan giải!”
“Thứ nhất, chúng ta không thể đánh chính diện với bọn chúng ngay lúc này được, mà phải tạm thời tránh khỏi cái khí thế của chúng, thứ hai quân địch rốt cuộc là có bao nhiêu, vị trí cự thể ở chỗ nào thì chúng ta không hề được biết, do vậy tốt nhất là không nên hành động bừa bãi, phải vô cùng cẩn trọng cất nhắc cẩn thận. Thứ ba, quân đội trong tay chúng ta lúc này chỉ có năm ngàn người, và lại mang theo một khối lượng lớn đồ dùng quân dụng nữa, do vậy người ít mà đồ nhiều, khó mà thắng địch. Nếu theo như đúng dự đoán thì quân địch lúc này ít nhất có một vạn người, có lẽ còn cần cộng thêm cả những binh sĩ đầu hàng theo địch nữa, do vậy mà con số này không nhỏ chút nào. Chính vì thế mà tình hình của chúng ta hiện nay bất kể quân số, hay sĩ khí, thể lực đều không thể bằng với quân địch được, tránh giao tranh trực diện là một biện pháp an toàn và khôn ngoan nhất lúc này. Thứ tư, quân đội của chúng ta ngày đêm hành quân đến đây, đường xá xa xôi mỏi mệt, vị trí lúc này cách Thành Đô còn cả một đoạn đường dài mấy trăm dặm, nếu chúng ta vẫn cứ kiên trì tiến tới thì quân địch chỉ cần dĩ dật đãi lao là quân ta thua sẽ chắc! Tổng kết bốn điều đã nêu ở trên, mạt tướng cho rằng chúng không nên đánh trực diện với bộ lạc Tây Sơn ngay lúc này!”
Đỗ Văn Hạo và Tô Thức nghe xong đều gật đầu đồng ý, nhưng nếu cứ đứng đây chờ đợi cũng không phải là cách, do vậy Đỗ Văn Hạo bèn lên tiếng hỏi: “Vậy đại quân của chúng ta bây giờ phải làm gì?”
“Trước tiên, chúng ta phải khẩn cấp thông báo cho triều đình tăng cường viện binh, thứ hai, phái một đội trinh sát đi do thám tình hình quân địch, thứ ba thì theo như mạt tướng được biết thì Thành Đô Phủ tường thành vững chãi, lương thực dồi dào, nếu như Hàn tướng quân cùng với các lộ quân của Thành Đô chịu khó giữ thế thủ đến cùng thì e rằng bộ lạc Tây Sơn nhất thời cũng không thể làm gì nổi, Hàn tướng quân nếu chịu khó chống đỡ thì có lẽ sẽ cầm cự ở đó được một thời gian khá dài, chính vì thế mà công việc trước mắt của chúng ta là lập tức thành lập một đội kỵ binh tinh nhuệ, sau đó phóng thẳng đến Thành Đô cầm cự, giằng co với quân địch, hợp sức với Hàn tướng quân giữ vững trận địa để chờ quân tiếp viện của triều đình!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì gật gù nói: “Đây là một cách rất hay! Ta cũng nghĩ rằng một vạn quân địch đến đây chẳng qua là cố gắng cướp bóc được bao nhiêu thì được thôi chứ không bao giờ dám ở lại đây lâu cả, bởi vì mục đích của bọn chúng cũng không phải là đánh chiếm Thành Đô, mà chỉ là do bộ lạc của chúng hiện giờ quá đỗi nghèo khó thiếu thốn nên mới phát động chiến tranh để cướp bóc giảm nhẹ sự nghèo đói của chúng mà thôi. Bộ lạc Tây Sơn chẳng qua cũng chỉ là những tên cướp ngày, khi nào cần tiền thì đi cướp, cướp xong rồi thì chạy! Do vậy bọn chúng uy hiếp Thành Đô chẳng qua là chỉ muốn kiếm thêm chút đỉnh, vơ vét thêm một chút của cải mà thôi, bọn chúng tuyệt nhiên không hề có ý chiếm đóng. Chính vì vậy mà đạo quân của chúng ta sẽ dùng phương pháp đánh du kích quấy rối đại quân của chúng, chờ cho quân địch mệt mỏi, đội hình phân rã, lòng quân e sợ thì chúng tất sẽ lui binh, chờ cho bọn chúng lui binh thì đại quân của chúng ta kết hợp với đại quân của Hàn tướng quân trong thành thừa cơ truy sát, thắng lợi nhất định sẽ nằm trong tầm tay của chúng ta, cái này gọi là: ‘Địch đến thì ta lui, địch dựng trại thì ta quấy rối, địch mệt mỏi thì ta đánh, địch lui thì ta đuổi! ”
Lý Phố nghe xong thì há hốc mồm kinh ngạc đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo, ông ta không ngờ Đỗ Văn Hạo ngoại trừ là một thần y ra lại là một người rất biết dùng binh, Lý Phố lúc này vô cùng thán phục hắn, ôm quyền nói: “Không ngờ tướng quân lại làu thông binh pháp như vậy, mạt tướng khâm phục vô cùng, kế này quả nhiên tuyệt diệu!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ mỉm cười không nói, hắn thầm nghĩ trong bụng, ta làm gì mà giỏi như thế cơ chứ, đây chẳng qua là mượn lời của Mao Chủ Tịch (Mao Trạch Đông) mà thôi, đây vốn là tôn chỉ thành công trên con đường trinh chiến của lão Mao, ông ta kinh nghiệm thực chiến đầy mình, và đây chính là chiến lược du kích nổi tiếng nhất của ông, nó đã giúp ông đánh tan quân Nhật, hạ gục quân Tưởng Giới Thạch để trở thành vị lãnh tụ đầu tiên của Trung Quốc, mở ra một thời kỳ xã hội hiện đại phồn vinh. Chiến lược của lão Mao vô cùng thực dụng đánh bại biết bao nhiêu là quân địch, không lợi hại mới lạ! Tình hình của mình bây giờ chả khác gì tình hình của lão Mao khi giao tranh với quân Tưởng Giới Thạch cả, quân của lão Tưởng đông gấp mấy lần quân của lão Mao nhưng cuối cùng vẫn bị lão Mao dùng đòn du kích phản bao vây này hạ gục. (Xem ra Trung Quốc cũng giống Việt Nam mình quá! Ngày trước Bác Hồ cũng dùng chiến tranh du kích mà hành hạ quân Pháp đến hẹn lại lên, đúng là anh hùng thì ý tưởng luôn có phần giống nhau.). Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy lại càng cảm thấy tự tin hơn, chỉ cần hắn hành động theo đúng như dự tính, rồi đợi quân cứu viện đến là sẽ làm cỏ cả bộ lạc Tây Sơn, nhân tiện diệt cỏ diệt tận gốc, triệt để cắt bỏ cái ung nhọt khó chịu này đi luôn, cho cả bộ lạc Tây Sơn về sau sẽ vĩnh viễn biến mất trên bản đồ quân sự của Thổ Phồn!
Sau khi suy xét kỹ càng xong đâu đấy, Đỗ Văn Hạo liền phái Lâm Thanh Đại đi thám thính tình hình quân địch, lợi dụng đêm tối mà tiến hành lối đánh du kích quấy rối bọn chúng: “Lý Phố! Ngươi bây giờ chọn ra bốn ngàn quân tinh binh, khỏe mạnh trong năm ngàn binh sĩ này ra rồi thành lập một đội kỵ binh, tất cả đều mặc đồ nhẹ, chỉ mang theo người tầm khoảng mười lăm ngày đường lương thực là được rồi! Đội kỵ binh của chúng ta ngoại trừ mã đao ra còn phải mang theo cung nỏ và hỏa tiễn, đội quân này sẽ do đích thân ta dẫn, Tử Chiêm huynh! Huynh dẫn một ngàn quân sĩ còn lại hộ tống lương thảo và các đồ vật dụng quân đội đoạn hậu theo sau bảo vệ gia quyến là được rồi! Trên đường đi huynh phải để ý đến tình hình của tại hạ báo về!”
Lý Phố nghe xong bèn nói: “Đỗ tướng quân! Hay là tướng quân cùng với Tô Chi Châu đi sau đoạn hậu, hộ tống lương thảo, còn quân kỵ thì cứ để mạt tướng dẫn quân đi trước nghênh địch được rồi! Đỗ tướng quân cứ an tâm, tại hạ nhất định sẽ làm theo kế sách của tướng quân một cách nghiêm chỉnh!”
Tô Thức thấy vậy cũng khuyên bảo Đỗ Văn Hạo: “Đỗ Ngự Y vẫn còn nhiều trọng trách cần gánh vác nữa, không được phép mạo hiểm ra trận như vậy, Đỗ Ngự Y cứ để Lý tướng quân đi trước đánh giặc là được rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì lắc đầu đáp: “Không được! Phải đích thân tại hạ đi mới được, lệnh quân đã ra rồi không ai được khuyên bảo nữa! Đúng rồi Tử Chiêm huynh! Trên đường đi đoạn hậu phía sau huynh nên liên lạc với quan phủ địa phương, rồi thu nạp thêm Bảo Giáp Binh vào đội ngũ của mình, như vậy có nghĩa là huynh vừa hành quân vừa chiêu binh mãi mã như thế sẽ thành lập được thêm một đạo quân mới, lực lượng của ta như vậy sẽ hùng hậu hơn!”
Tô Thức trầm ngâm giây lát rồi đáp: “Tự ý chiêu nạp Bảo Giáp Binh là tội chết đó!”
“Tội chết sao? Lần này tây chinh thất bại tất cả chúng ta cũng sẽ mất đầu cả! Lẽ nào điều này huynh không hiểu hay sao? Một trong hai cái huynh định chọn cái nào đây?” Đỗ Văn Hạo tức giận nói.
Tô Thức nghe xong chỉ im lặng không nói thêm câu nào nữa.
Đỗ Văn Hạo thấy Tô Thức khó xử như vậy bèn lên tiếng an ủi: “Tử Chiêm huynh cứ an tâm, trước khi xuất phát khởi hành cuộc tây chinh này, Hoàng Thượng đã đích thân bảo đảm với tại hạ rồi, tại hạ có thể tự ý chiêu binh mãi mã để thành lập một đội quân hoàn toàn mới! Đây cũng là chức trách của tại hạ, huynh chỉ cần dùng danh nghĩa của tại hạ đi chiêu binh mãi mã sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu! Huynh cứ yên tâm, tại hạ có Thánh Chỉ ở đây rồi, hơn nữa tình hình quân sự đang căng thẳng như thế này, chúng ta cũng bất đắc dĩ nên mới có hành động như vậy, Hoàng Thượng chắc chắn sẽ hiểu cho chúng ta thôi!”
Tống Thần Tông đã từng nói với Đỗ Văn Hạo rằng chỉ cần hắn dẹp tan bộ lạc Tây Sơn, thì sẽ phong Đỗ Văn Hạo lên làm Tây Sơn Vương, cho phép hắn thành lập một đạo quân hoàn toàn mới, nhưng không hề nói với hắn rằng hắn được phép tự do chiêu binh mãi mã trong địa giới của Đại Tống rồi thành lập một đạo quân mới bao giờ cả, nhưng tình hình chiến sự lúc này vô cùng khẩn trương, Đỗ Văn Hạo làm gì còn quan tâm đến nó nữa, hắn chỉ biết bây giờ việc cần nhất là giải vây cho Thành Đô, xong sau đấy giải thích sau cũng chưa muộn. Hơn nữa lúc này quân đội của bộ lạc Tây Sơn vô cùng thiện chiến, các lộ quân Thành Đô thì yếu ớt cùng cực, không có sức chiến đấu nào cả, vả lại trong tay hắn thì chỉ có mỗi bốn ngàn quân, làm sao có thể địch nổi với quân của Tây Sơn. Chính vì thế nên Đỗ Văn Hạo mới nóng lòng chiêu binh mãi mã như vậy, nếu như hắn cứ ngồi đợi quân tiếp viện của triều đình, thì e rằng quân tiếp viện chưa kịp đến nơi thì Thành Đô đã bị quân địch cướp sạch chỉ còn trơ mỗi cái thành trống không rồi! Đỗ Văn Hạo lúc này đặt việc binh lên hàng đầu, chỉ cần hắn có đủ quân đội thì Thành Đô sẽ được cứu vãn.
Tô Thức nghe Đỗ Văn Hạo nói Hoàng Thượng đã cho phép hắn như vậy thì cho dù trong lòng vẫn có chút hồ nghi nhưng cũng biết tình hình đang nguy cấp, không làm cũng không xong, suy đi nghĩ lại cũng chỉ còn nước tin tưởng Đỗ Văn Hạo mà thôi. Sau khi cân nhắc thiệt hơn Tô Thức liền ra quyết định liền ngay sau đó, ông lập tức liên lạc với các quan phủ địa phương thu nạp thêm Bảo Giáp Binh, dựng cờ chiêu binh mãi mã.
Do đại quân của Đỗ Văn Hạo là quân đoạn hậu vận chuyển và bảo vệ lương thực nên ngựa cũng rất nhiều, cộng thêm với số ngựa trên đường đi hắn mua để thồ hàng nữa thì kỵ binh giờ không hể thiếu ngựa để cưỡi. Chính vì thế mà rất nhanh Đỗ Văn Hạo đã thành lập xong một đội kỵ binh của riêng mình, sau khi thành lập xong, hắn liền ban bố sắc lệnh rồi ngay lập tức bốn ngàn kỵ binh của hắn phóng thẳng lên tiền tuyến nghênh địch. Tốc độ của kỵ binh rất nhanh, chỉ hai ngày thôi đã đến được địa phận Thành Đô rồi.
Trên đường đến đây, Đỗ Văn Hạo gặp rất nhiều dân chúng chạy đi tị nạn, sau một hồi thăm hỏi, Đỗ Văn Hạ biết quân địch lúc này đã đứng trước cửa ngõ của Thành Đô rồi, bây giờ trong thành tướng lĩnh vẫn đang liều mình cố thủ, quân Tây Sơn nhất thời cũng khó thể công phá được. Sau mấy lần tấn công, công phá không thành công, đại quân Tây Sơn thương vong trầm trọng. Bọn chúng biết không thể hạ thủ được Thành Đô bèn quay mũi giáo sang các thôn làng không có sức phòng thủ ở bên cạnh Thành Đô hòng cướp bóc, đập phá để xả hận.
Đỗ Văn Hạo lúc này bèn nhanh chóng cùng Lâm Thanh Đại bàn bạc phương thức tấn công, Đỗ Văn Hạo nghĩ rằng hắn và Lâm Thanh Đại cùng nhau đi thăm dò tình hình của địch, nhưng Lâm Thanh Đại không nghe, nói rằng Đỗ Văn Hạo không biết võ công, hắn đi rồi sẽ chỉ là gánh nặng cho nàng, làm nàng phân tâm không thể hoàn thành nhiệm vụ được.
Đỗ Văn Hạo không biết nói thế nào nên đành chấp nhận ý kiến của Lâm Thanh Đại, để một mình nàng đi dò la tin tức, nhưng trong thâm tâm của hắn thì lo ngay ngáy cho Lâm Thanh Đại, nhỡ nàng có mệnh hệ nào thì…
Trong lúc Lâm Thanh Đại đi dò la tin tức, thám thính tình hình, thì Đỗ Văn Hạo gọi người ra mời những người dân tị nạn vào trong lều dò la tình hình của quân địch.
Trong lúc nói chuyện với dân chúng thì có mấy người bị bệnh vô cùng nghiêm trọng, sốt cao mệt mỏi, trướng bụng, đại tiện ra máu, thậm chí còn có người do sợ quá mà hóa điếc! Đỗ Văn Hạo phát hiện ra những người có bệnh trạng như vậy rất giống với bệnh Thương Hàn Liệt Tính, căn bệnh này có khả năng truyền nhiễm vô cùng kinh khủng!
Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo bèn lập tức nhanh chóng ra lệnh cách ly mấy người này ra để quan sát, sau đó hắn liền ra tay cứu chữa, nhưng mọi thứ đều đã quá muộn, có hai người trong số đó đã chết vì căn bệnh truyền nhiễm này!
Đỗ Văn Hạo bèn cho người tìm hiểu lai lịch của hai người bị bệnh mà chết này, sau khi điều tra xong thì hắn phát hiện bọn họ đều là người của Nhã Châu, những người còn sống lúc này cũng nói cho hắn biết Nhã Châu bây giờ đang có một bệnh dịch truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, căn bệnh này trong lịch sử Trung Quốc gọi là Dương Chứng Tử, Dương Chứng Tử là căn bệnh truyền nhiễm cấp tính bao gồm cả Thương Hàn, người mắc bệnh này chết rất nhiều, quân của bộ lạc Tây Sơn vì sợ bị truyền nhiễm nên chỉ ăn uống bằng lương thực mà bọn chúng mang theo, sau đó chúng giết hại toàn bộ dân chúng mà chúng gặp phải.
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng phẫn nộ, hắn lớn tiếng chửi rủa của bọn Tây Sơn cầm thú, mất nhân tính! Nhưng cũng từ đây mà hắn phát hiện ra một kế sách phá địch mới, nguyên lý phát bệnh của Thương Hàn thường xuất phát từ trong phân của người bệnh, chỉ cần xử lý khéo léo là hắn đã có trong tay một vũ khí hóa học vô cùng lợi hại.
Nếu như hắn dùng loại vũ khí hóa học mới này đối phó với quân Tây Sơn, thì quân địch sẽ bị hoảng loạn, sức mạnh theo đó mà cũng bị giảm sút, bệnh Thương Hàn thường sau một tháng sẽ phát bệnh vô cùng nghiêm trọng, Đỗ Văn Hạo có thể lợi dụng thời gian này mà kéo giãn đội hình của quân địch rồi mới thừa cơ quăng chất độc hóa học vào trong doanh trại của quân địch, đợi cho bọn chúng phát hiện ra thì cả đại quân của Tây Sơn cũng đã bị truyền nhiễm Thương Hàn cả rồi, như vậy có khi không cần hắn phải ra tay mà quân địch cũng tự phải rút lui.
Vũ khí hóa học kiểu này ở thời cổ đại thường rất ít người biết sử dụng nó, do vậy để phát hiện ra sức mạnh tiềm ẩn trong nó là chuyện không thể, hơn nữa bệnh truyền nhiễm Thương Hàn này tiềm ẩn trong cơ thể con người tầm một tháng sau thì mới phát bệnh, nhưng quá trình phát bệnh của nó lại diễn ra loại vô cùng nhanh chóng, cho dù lúc đó ra tay chữa trị có thể thoát khỏi cái chết, nhưng nó lại cần thời gian trị liệu rất dài, không thể một chốc một lát mà khỏi ngay được. Chính vì vậy mà một khi căn bệnh truyền nhiễm này phát bệnh và lây lan thì người mắc bệnh cho dù không chết thì cũng bị mất sức, đi lại khó khăn, đến lúc đấy thì làm gì còn sức mà chiến đấu nữa, khi đó bọn chúng chỉ là những con cừu non ngoan ngoãn chờ đợi đại quân của Đỗ Văn Hạo đến xử lý mà thôi.
Đỗ Văn Hạo sau khi suy xét kỹ lưỡng bèn lập tức cho người ra moi hết phân trong người của hai xác người chết do Thương Hàn lúc nãy ra, rồi lại phái người đi tìm những người bị nhiễm Thương Hàn khác, rồi tìm phân của bọn họ. Đỗ Văn Hạo sau khi có được mẫu vật trong tay bèn tiến hành xử lý sơ bộ, bây giờ những đống phân trong tay hắn đã trở thành một thứ vũ khí sinh học vô cùng lợi hại, chúng hiện giờ đã được chiết xuất thành một dạng chất lỏng được gói gọn trong một cái bọc kín kẽ, chỉ cần ném ra một cái là bệnh dịch ngay lấp tức có thể lây lan truyền nhiễm.
Về mặt của Lâm Thanh Đại thì nàng làm việc vô cùng nhanh nhẹn, hiệu quả. Nàng chỉ cần dùng một ngày thôi mà đã thu thập được hầu hết tin tình báo của bên địch, sau đó nàng liền đánh dấu lên bản đồ những điểm quan trọng, không những vậy trên đường do thám Lâm Thanh Đại còn tóm được một tên lính cao cấp của bộ lạc Tây Sơn nữa.
Đỗ Văn Hạo sau khi tra hỏi xong mới thực sự biết rõ tình hình quân địch, đúng là bộ lạc Tây Sơn lần này đã dốc toàn bộ binh lực vào cuộc chiến, không những vậy chúng còn vay mượn được một vạn đạo quân của mấy nước láng giềng, chính vì thế mà tổng binh lực của chúng lúc này lên đến hai vạn năm ngàn quân.
Đỗ Văn Hạo lúc này mới trầm ngâm suy nghĩ, hai vạn năm ngàn quân cũng là một con số không nhỏ, chả trách mà đại quân của Hàn Tu không thể cưỡng lại nổi, thì ra là tin tức tình báo khi trước đã báo sai, quân địch rõ ràng mạnh hơn dự đoán rất nhiều.
Đỗ Văn Hạo lúc này bèn sai người áp giải tên tù binh đó xuống, rồi cho gọi Lý Phố và Lâm Thanh Đại lại cùng bàn bạc phân tích tình hình để đưa ra kế hoạch tác chiến.
Đỗ Văn Hạo giờ đây đã đem ý nghĩ dùng vũ khí hóa học tấn công cho hai người kia nghe, Lý Phố và Lâm Thanh Đại đều không biết là loại vũ khí mới này có tác dụng hay không, nhưng đây đã là suy nghĩ của Đỗ Văn Hạo thì chắc không có vấn đề gì cả, vì dù sao hắn là người am hiểu về mặt này hơn ai hết.
Sau một hồi thương thảo, Đỗ Văn Hạo ra lệnh cho Lâm Thanh Đại mang theo hai mươi quân sĩ nhanh nhẹn nhất lên đường. Tất cả cùng đóng giả thành dân chúng thông thường, Đỗ Văn Hạo trao cho Lâm Thanh Đại phụ trách dùng khí sinh học này hạ độc quân địch. Lâm Thanh Đại dựa theo những gì mà nàng đã thu thập, biết được quân địch sẽ đi đâu để cướp bóc, nên nhân lúc bọn chúng thổi gạo nấu cơm bèn mang cái bình nước chứa đầy virus Thương Hàn kia đổ vào nguồn nước nấu cơm của bọn chúng.
Khinh công của Lâm Thanh Đại cao diệu tuyệt đỉnh, nàng cầm theo cái bình nước đó thâm nhập vào lòng địch như đi vào chỗ không người, nàng khéo léo đến từng chỗ cắm trại của quân Tây Sơn rồi hạ độc.
Về mặt Lý Phố thì sau khi có được những thông tin do Lâm Thanh Đại cung cấp, ông ta đã phục kích, tiêu diệt thành công hai ngàn quân Tây Sơn đang trên đường đi cướp bóc của dân chúng, sau khi đánh tan bọn chúng, Lý Phố còn cố tình thả xót một số ít rồi tha cho chúng ra về.
Những tên lính được tha về liền chạy vào đại doanh trại của Tây Sơn đem tình hình báo lên cấp trên, lãnh đạo quân Tây Sơn sau khi biết tin tức giận vô cùng, ngay lập tức chỉnh đốn đại quân, hướng thẳng vào bốn ngàn kỵ binh do Đỗ Văn Hạo dẫn dắt rồi bao vây vào giữa.
Nhưng, Đỗ Văn Hạo không hề ứng chiến, mà lại lợi dụng ưu thế tốc độ của kỵ binh, thoát khỏi vòng vây quân địch, sau khi thoát khỏi vòng vây thì kỵ binh của Đỗ Văn Hạo cũng không hoàn toàn bỏ chạy, mà cứ giữ khoảng cách nhất định với quân Tây Sơn. Quân kỵ của hắn như một bóng quỷ chập chờn lúc ẩn lúc hiện, vô cùng quỷ dị. Chỉ cần đợi đến ban đêm, quân địch cắm trại nghỉ ngơi thì kỵ binh của Đỗ Văn Hạo bèn tiến đến đánh trộm, hắn lợi dụng tầm bắn xa của cung nỏ kết hợp với hỏa tiễn, rất nhanh đã thiêu trụi bốn đại bản doanh của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn vô cùng ức chế, vì mỗi lần bọn chúng ùa ra đánh thì Đỗ Văn Hạo lại lẩn trốn như trạch, không biết đâu mà lần.
Cứ như vậy bốn ngàn quân kỵ của Đỗ Văn Hạo xỏ mũi dắt hai vạn quân Tây Sơn chạy lung tung khắp nơi, hắn rất biết duy trì khoảng cách an toàn, địch tiến thì hắn lui, địch lui hắn lại tiến. Quân Tây Sơn lúc này bị Đỗ Văn Hạo hành hạ đến hẹn lại lên, khổ sở vô cùng, bọn chúng chỉ thấy Đỗ Văn Hạo nhởn nhơ trước mặt mà không thể nào làm gì nổi. Còn Lâm Thanh Đại thì cũng nhân cơ hội mà không ngừng phát tán bệnh dịch, đồng thời nàng còn thu thập tin tức báo lại cho Đỗ Văn Hạo biết, do vậy đường đi nước bước của quân Tây Sơn đều bị Đỗ Văn Hạo nắm thóp, càng làm cho hắn được thể quấy rối quân địch kinh hơn trước.
Quân Tây Sơn cứ thể bị quấy rối làm cho một số bộ phận tách rời khỏi đại quân, đôi mắt nhạy bén của Đỗ Văn Hạo cũng nhìn ra được điểm đó, vì vậy chỉ cần thấy đội quân nào bị tách rời là hắn liền tập trung binh lực truy sát tiêu diệt luôn. Kiểu cách vừa đánh vừa chạy như thế này làm cho quân Tây Sơn mệt mỏi uể oải, thương vong hàng loạt.
Cũng đúng lúc này thì Tô Thức đã vừa vặn đem quân viện trợ đến nơi tham chiến.
Tô Thức làm công tác vận động vô cùng có hiệu quả, trên đường hành quân ông ta không ngừng chiêu mộ Bảo Giáp Binh cùng với các lộ quân khác nhập vào, không ngờ số lượng lúc này lên đến tận hai vạn quân.
Bây giờ lực lượng giữa hai bên đã có thay đổi rõ rệt, ngoài ra quân Tây Sơn lúc này lại mắc phải bệnh dịch truyền nhiễm do Lâm Thanh Đại thả ra, do vậy sức chiến đấu cũng đã giảm đi rõ rệt.
Đỗ Văn Hạo sau khi biết tin liền dự tính được trong một ngày không xa nữa, quân Tây Sơn sẽ hạ lệnh rút binh quay về Thổ Phồn, vì vậy hắn liền quyết định đem theo hai vạn quân xát nhập vào với bốn ngàn quân kỵ của hắn theo đường tắt bày bố phục kích trên đoạn đường rút lui của quân Tây Sơn.
Quả nhiên, mấy ngày hôm hôm sau quân Tây Sơn do bị bệnh dịch hoành hành, sức mạnh đại quân giảm đi hơn nửa, lại hay tin triều đình Đại Tông đã phái binh chi viện cho Thành Đô nên sợ hãi quyết định hạ lệnh lui binh về Thổ Phồn.
Đường rút lui của quân Tây Sơn lúc này đi đúng vào con đường mà Đỗ Văn Hạo đã mai phục sẵn từ trước, khi quân Tây Sơn đi đến chỗ này thì đại bộ phận binh sĩ đã bị mắc bệnh Phong Hàn, Quân Y của chúng căn bản chữa trị không xuể vì số lượng bị truyền nhiễm quá lớn. Vì quân sĩ Tây Sơn lúc này ai nấy đều mắc bệnh cả, sức khỏe suy yếu, do vậy tốc độ hành quân vô cùng chậm chạm, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo đợi mãi vẫn không thấy bóng dáng của bọn chúng đâu, nhưng hắn vẫn kiên trì chờ đợi, quả nhiên từ xa hắn trông thấy con mồi của hắn đang uể oải bước những bước chân nặng trịch chui vào cái bẫy mà hắn đã giăng sẵn từ lâu.
Quân Tây Sơn đến giờ vẫn không hề hay biết là mình đang đi vào miệng hố của tử thần, vì thế đoàn quân vẫn lầm lũi bước những bước chân khó nhọc chầm chậm tiến tới.
Lúc này bốn bề bỗng nhiên nổ lên một tiếng hô động trời, tứ phía vang lên những tiếng thét vang dội, Đỗ Văn Hạo cầm đầu bốn ngàn quân kỵ binh làm quân tiên phong, dốc thẳng vào chính giữa quân địch, thế như chẻ tre, gươm đao vung lên đầu rơi máu chảy, hắn cùng bốn ngàn kỵ binh giờ đây xông vào quân địch như chỗ không người, ra sức chém giết, tiếng thét đau đớn hòa lẫn với tiếng gươm đao va chạm vào nhau tạo nên một cảnh tượng vô cùng tàn khốc, bi thảm.
Mặc dù hai vạn quân do Tô Thức chiêu nạp chưa từng tham gia đánh trận bao giờ, thậm chí đến cả luyện tập chính quy cũng chưa có, do vậy sức chiến đấu vô cùng kém cỏi. Nhưng quân Tây Sơn lúc này hầu hết đều bị nhiễm bệnh, sức tàn lực kiệt đến cả gươm giáo còn không vác nổi nữa là chiến đấu, chính vì thế mà bây giờ đại quân Tây Sơn đã trở thành mục tiêu sống động để cho hai vạn quân tiến hành luyện tập trận chiến đầu tiên của họ.
Trận chiến bây giờ không còn đúng theo nghĩa của nó nữa, mà nó đã biến thành một cảnh đồ sát thực sự, Đỗ Văn Hạo cầm đầu quân kỵ đi đến đâu đầu rơi đến đó, không đầy hai canh giờ đồng hồ toàn bộ quân Tây Sơn đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân sĩ Đại Tống lúc này vốn đã căm hận quân Tây Sơn mấy tháng gần đây giết người dã man, nên trong đầu bọn họ lúc này không còn tồn tại hai từ tù binh nữa, mà trong đầu bọn họ chỉ tồn tại hai chữ đồ sát và đồ sát mà thôi, do vậy mà đại quân Tây Sơn đến cả tư cách đầu hàng làm tù binh cũng không được, toàn bộ quân đội đều bị giết sạch hoàn toàn.
Đỗ Văn Hạo vốn lúc đầu định ngăn chặn cuộc đồ sát đẫm máu này, nhưng quân Đại Tống lúc này đã giết người đến độ đỏ cả mắt, không cần biết quân Tây Sơn là ai, cứ gặp là chém, quân Tây Sơn do vậy cứ đổ xuống như khúc chuối, tình hình vô cùng hỗn loạn, Đỗ Văn Hạo muốn truyền đạt mệnh lệnh của mình cũng không được nữa, hắn đành bất lực nhìn quân Tây Sơn bị giết như những con gà tội nghiệp.
Sau khi đồ sát kết thúc, Đỗ Văn Hạo đứng trên mỏm núi đưa mắt ra nhìn bãi chiến trường, lúc này xác người la liệt khắp nơi, máu chảy nhuốm đỏ cả một khoảng đất rộng lớn, đây là lần đầu tiên hắn tham gia chiến tranh, vẻ bi tráng của cuộc chiến thời thượng cổ làm cho trái tim của hắn rung lên mãnh liệt.
Khi tên quân sĩ cuối cùng của quân Tây Sơn đổ gục xuống đất thì nơi đây liền vang lên những tiếng thét thắng lợi động trời, tất cả binh sĩ cùng múa vũ khi trong tay mình hướng về phía Đỗ Văn Hạo hoan hô chiến thắng.
Đỗ Văn Hạo cũng cảm khái vô cùng, cuối cùng thì cũng đã kết thúc, một trận chiến không cân sức, nhưng cũng đủ thể hiện khả năng cầm quân của hắn không hề tồi một chút nào. Sau đó Đỗ Văn Hạo liền cho người chạy về phía Thành Đô thông báo tin thắng lợi cho Hàn Tu biết, Hàn Tu nghe xong thì cảm động đến rớt nước mắt. Tin tức Đại Tống thắng trận rất nhanh được lan truyền đi khắp nơi, ai nấy đều hoan hô mừng rỡ.
Hàn Tu sau đó liền đem những quân sĩ còn sót lại của mình ra hội tụ với đại quân của Đỗ Văn Hạo, xong sau đấy Đỗ Văn Hạo bèn giao lại toàn bộ quân đội cho Hàn Tu nắm giữ, nhiệm vụ của hắn giờ đã kết thúc, hắn phải gánh vác một trọng trách khác nữa, một trọng trách vô cùng nặng nề, và quan trọng, đó là cải cách biến pháp.
Trong bụng của Hàn Tu lúc này cũng biết rằng tuy bây giờ ông nắm trong tay đại quân, nhưng uy tín của ông ta thì thua kém hẳn Đỗ Văn Hạo, ông biết rằng trên danh nghĩa thì ông là người lãnh đạo đại quân, nhưng trên thực tế thì vị trí, tầm ảnh hưởng của Đỗ Văn Hạo đã khắc sâu trong từng trái tim của mỗi quân sĩ rồi.
Bộ lạc Tây Sơn sau khi đại quân thua trận thì chẳng khác nào rắn mất đầu, Đỗ Văn Hạo, Hàn Tu, Lý Phố, Tô Thức bèn thương lượng rằng bây giờ đại quân nên thừa thắng xông lên xóa sổ luôn cả bộ lạc này, rồi chiếm đóng toàn bộ địa phận của chúng, sau đó đem toàn bộ đất đai của Tây Sơn sát nhập hoàn toàn vào lãnh thổ của Đại Tống.
Sau khi thương lượng bàn bạc xong, đại quân liền tiến quân sâu vào bên trong, chiếm đóng toàn bộ đất đai của Tây Sơn mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào cả, Sau khi bình định xong Tây Sơn thì đại quân tiếp viện của triều đình phái đến cũng vừa vặn đến nơi, vì vậy mà các bộ tộc lân cận không dám ho he câu nào, tất cả đều co vòi rụt cổ lại giương mắt ếch ra nhìn Đại Tống chiếm đóng Tây Sơn mà không dám hé răng nói thêm câu nào cả.
Mọi việc xong xuôi đâu đấy thì Đỗ Văn Hạo liền viết sớ thông báo cho triều đình biết là hắn đã dẹp tan được Tây Sơn, đang chờ đợi Hoàng Thượng phong tước Tây Sơn Vương cho hắn, chính vì vậy mà trong thời gian chờ đợi này Đỗ Văn Hạo vẫn chưa được tiến hành biến pháp ở đây (ở đây tức là chỉ Tây Sơn, chứ Đỗ Văn Hạo vẫn có quyền thi hành biến pháp ở Nhã Châu).
Đỗ Văn Hạo biết công việc trước mắt của hắn hiện giờ là khôi phục lại đời sống cho dân chúng sau cuộc chiến thảm khốc vừa rồi, sau đó lại khôi phục lại trật tự ở Thành Đô, xong đâu đấy hắn mới thực hiện cải cách ở Nhã Châu. Đỗ Văn Hạo biết rằng hắn trước mắt phải tích lũy kinh nghiệm cải cách ở Nhã Châu xong rồi mới có thể tiến hành cải cách ở Tây Sơn được.
Chính vì thế mà sau khi hắn bố trí đại quân của mình đóng ở những vị thế quan trọng ở Tây Sơn xong rồi mới đem theo Lý Phố quay lại Nhã Châu nhậm chức.
Nhã Châu sau trận chiến thương tích đầy mình, nơi nào cũng bị chiến tranh tàn phá một cách nghiêm trọng, toàn bộ thành ấp nơi đây chẳng có lấy nổi một bóng người, cả một khoảng đất rộng lớn trở nên heo hút, lạnh lẽo, không có sức sống gì nữa cả.
Bây giờ tiết trời đang là mùa hè nên kéo theo rất nhiều dịch bệnh, Đỗ Văn Hạo cũng xém chút nữa thì mắc phải bệnh ghẻ ở đây, nhưng hắn biết bản thân hắn không được phép dừng lại, bây giờ không phải là lúc nghỉ ngơi của hắn, tất cả người dân ở kinh thành Nhã Châu bây giờ đều không có nhà để về, không có nơi để ở. Nhiệm vụ trước mắt của Đỗ Văn Hạo lúc này là nhanh chóng tìm ra nơi ăn chốn ở cho bọn họ nếu không những người dân này sẽ trở nên bất mãn rồi tạo phản. Dân dĩ thực vi thiên (câu thành ngữ này lấy ở trong sách
Đỗ Văn Hạo lúc này đã đem theo một tốp người đến Nhã Châu Châu Phủ để xem xét tình, sức khỏe của Tô Thức, ông ta bây giờ cũng chưa hoàn toàn khỏi bệnh, Đỗ Văn Hạo bèn cho người tìm giúp ông ta một nơi có vẻ còn toàn vẹn nhất cho ông ta trú chân ở tạm, còn hắn thì suốt ngày rong ruổi trên lưng ngựa lo lắng cho dân chúng, hết mình vì công việc xây dựng phục hồi sau chiến tranh.
Khi Đỗ Văn Hạo đi đến Nha Môn của Châu Phủ thì phát hiện nơi đây còn bảo tồn khá là hoàn hảo, phòng ốc bên trong cùng với các thiết bị trong nhà đều còn nguyên vẹn, dường như chưa bị phá hại một chút nào cả, Đỗ Văn Hạo lại cho Lý Phố đi kiểm tra kho lương thực ở đây, thì phát hiện bên trong rỗng không chẳng có một thứ gì.
Lý Phố thấy vậy tức giận dậm chân chửi thề, mấy người đi theo Đỗ Văn Hạo lúc này bèn quay sang nhìn hắn thì thấy hắn cau mày lại suy nghĩ điều gì đó, Lâm Thanh Đại đứng cạnh đấy thấy vậy bèn tiến tới khuyên hắn: “Thời tiết nòng thế này, chàng tìm chỗ nào mát mà đứng, cẩn thận không lại bệnh ra đấy…”
Đỗ Văn Hạo nghe xong chỉ ừ lên một tiếng rồi vẫn cứ đứng nguyên chỗ cũ, một lúc lâu sau hắn mới đưa mắt lên nhìn mọi người, rồi sau đó Đỗ Văn Hạo bèn đưa tay ra hiệu cho Lý Phố tiến lại chỗ mình rồi nói: “Ngươi mau mau đi dán giấy thị chúng, nói rằng nơi đây tạm thời dùng để làm nơi ở cho những người không còn nhà cửa, bất kỳ ai không có nhà cửa đều có thể đến đây ở tạm!”
Lý Phố đáp: “Bẩm đại nhân! Đây là nơi của Châu Nha, chúng ta có cần thông báo cho Tô đại nhân biết, rồi sau đó mới quyết định không ạ?” Đỗ Văn Hạo nghe xong vẫn kiên định nói: “Không cần đâu! Cứ để dân chúng ở tạm đây trước cái đã, bên phía Tô đại nhân thì tối nay ta sẽ nói cho ông ta biết, ngươi mau mau đi làm đi, ta phải đi kiếm Hàn tướng quân để bàn chuyện cứu tế cho dân chúng đây.”
Lý Phố nghe xong thì ngạc nhiên nói: “Bẩm đại nhân! Đó là lương thực dành riêng cho quân đội, Hàn tướng quân chắc gì đã đồng ý!”
Lâm Thanh Đại thấy Lý Phố có vẻ lắm chuyện bèn tiến lên nói: “Đỗ đại nhân bảo ngươi làm thì ngươi cứ đi làm đi, nếu bây giờ dân chúng vào đây ở mà không có thức ăn thì ai mà sống nổi cơ chứ?”
Lý Phố nghe xong vội vã lui ra ngoài.
Lâm Thanh Đại thấy Lý Phố đi rồi bèn nói: “Văn Hạo! Để thiếp đi cùng chàng nhé!”
Đỗ Văn Hạo suy ngẫm một lát rồi nói: “Không cần đâu! Ta chỉ cần đem theo hai tên quan binh được rồi!” Nói xong hắn liền đem theo hai tên quan binh hướng thẳng doanh trại của Hàn Tu đi đến.
Lúc này, Đỗ Văn Hạo đã ngồi trong lều của doanh trại quân đội, thời tiết vô cùng nóng nực Đỗ Văn Hạo mặc dù đã phanh áo hết cỡ, nhưng vẫn cảm thấy nóng bức khó chịu khôn tả, nơi đây thỉnh thoảng cũng có gió thổi vào, nhưng lại là gió nóng, làm cho Đỗ Văn Hạo đã nóng lại càng thấy nóng thêm.
Một lúc sau một ông lão râu tóc bạc phơ thân mặc giáp trụ đầu ngẩng cao, bước vào trong lều của Đỗ Văn Hạo, đây không phải ai khác mà chính là Hàn Tu, ông ta trông thấy Đỗ Văn Hạo thì cười lên ha hả: “Đỗ Ngự Y đến rồi đó hả! Thật ngại quá, không biết đại nhân đến thật là thất lễ, không biết gia quyến của đại nhân sắp xếp thế nào rồi?”
Đỗ Văn Hạo thấy thế bèn mỉm cười tiến đến chắp tay nói: “Lần này tại hạ đến đây là có việc muốn nhờ đến Hàn đại nhân giúp đỡ.”
Hàn Tu nghe xong bèn đưa tay ra ý mời Đỗ Văn Hạo ngồi xuống.
Sau khi ngồi xuống, Hàn Tu mới đáp: “Đỗ đại nhân không nên khách khí như vậy, đại nhân đã có việc tìm đến lão phu, lão phu chắc chắn sẽ không có lý do để từ chối đại nhân cả!”
Đỗ Văn Hạo bèn mỉm cười nói: “Tại hạ lần này đến đây là hỏi mượn đại nhân một thứ!”
Hàn Tu đưa con mắt khó hiểu lên nhìn Đỗ Văn Hạo, tuy nét hắn lúc này trông có vẻ mệt mỏi, sắc mặt sạm đen, nhưng ánh mắt thì vẫn cháy lên rừng rực, tưởng chừng như không bao giờ tắt vậy, ông ta biết hắn nói đây không phải chuyện tầm thường nên Hàn Tu bèn vội vã lên tiếng: “Không biết Đỗ đại nhân muốn mượn vật gì, lão phu chỗ này ngoại trừ binh sĩ ra thì không biết Đỗ đại nhân muốn gì nữa?”
Đỗ Văn Hạo chỉ mỉm cười nói: “Cái mà tại hạ cần mượn là lương thực!”
Hàn Tu nghe xong thì sững người lắp bắp hỏi lại: “Đỗ đại nhân! Ngài nói sao cơ…Mượn lương….lương…thực sao?”
Đỗ Văn Hạo gật đầu mỉm cười nói: “Tại hạ mượn lương thực để cứu tế dân chúng!”
Hàn Tu thấy vậy lắc đầu đáp: “Đỗ Ngự Y! Đại quân mấy vạn người cũng phải có cái ăn chứ, không phải là lão phu không muốn cho mượn, mà là không thể cho Đỗ đại nhân mượn được!”
“Hàn tướng quân! Tướng quân cũng biết rằng, sau trận chiến này có quá nhiều người dân tan hoang cửa nhà, tại hạ trên đường đến đây tận mắt chứng kiến dân chúng phải moi rễ cây lên ăn, có người còn bán cả con mình đi nữa, chúng ta không thể thấy chết mà không cứu được, Hàn đại nhân thấy tại hạ nói có đúng không?”
“Nỗi khổ của dân chúng thì lão phu biết! Nhưng, lương thực trong quân đội lúc này cũng không còn nhiều, cho dù có cho đại nhân mượn đi nữa cũng không thể duy trì trong thời gian dài được!”
Đỗ Văn Hạo gật đầu tán đồng, rồi thở dài nói: “Lời của đại nhân nói đúng lắm, nhưng hiện giờ tại hạ chỉ còn mỗi cách này để giải quyết tình hình nguy cấp trước mắt mà thôi, nhất thời không thể lo về lâu về dài được, nhưng nếu vấn đề không giải quyết ngay bây giờ e sẽ có loạn!”
Hàn Tu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Vậy đại nhân định phân phối số lương thực này ra sao? Nạn dân nhiều như vậy, lương thực sao đủ cho bọn họ dùng được!”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Tại hạ đã để Châu Nha làm nơi ở tạm thời cho những người không nơi nương tựa, sau đó sẽ đặt ở đó một chiếc nồi lớn để nấu cháo, rồi phân phát cho từng người một, tại hạ nghĩ tạm thời cũng chỉ có thể giải quyết như vậy được thôi!”
“Nếu mà như vậy thì được! Nào, mời đại nhân theo lão phu đi lấy lương thực cứu tế cho dân chúng!”
Lúc trời chập choạng tối thì Đỗ Văn Hạo mới vui vẻ quay về đến nơi ở của Tô Thức, hắn thấy nơi đây đã có khói bếp bốc lên, hắn liền trông thấy Liên Nhi và Tuyết Phi Nhi đang ở trong nhà dọn đồ.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn tiến tới nói: “Hai người làm gì vậy?”
Tuyết Phi Nhi thấy Đỗ Văn Hạo về đến bèn vui vẻ nói: “Tô đại nhân nói rằng chúng ta vẫn chưa có nơi ở, nên đem căn phòng ở phía tây ra nhường cho chúng ta, thiếp và Liên Nhi đang dọn dẹp đồ đạc!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy sa sầm nét mặt nói: “Vậy nhị vị phu nhân và ba vị công tử thìở đâu?”
Liên Nhi trông thấy nét mặt không vui của Đỗ Văn Hạo thì lí nhí đáp: “Dạ, ở đây có tổng cộng bốn căn phòng, Tô đại nhân ở cùng với hai vị phu nhân, ba vị công tử ở chung một gian, còn hai gian thì dành cho chúng ta!”
“Không được! Sức khỏe của Tô đại nhân vẫn còn tất yếu, trời thì nóng, phòng ở đây lại hầm hập thế này, làm sao có thể để ba người cùng ở trong một gian phòng được? Ngoài ra vẫn còn một phòng làm phòng bếp để lấy chỗ ăn cơm nữa, mấy người lẽ nào để Tô đại nhân ngồi ăn bên ngoài sân hay sao? Sao mấy người lại thiếu hiểu biết như vậy nhỉ? Chúng ta có thể dựng mấy cái lều ở bên ngoài cũng được, nhanh lên mau thu dọn hết đồ đạc cho ta!”
Tuyết Phi Nhi và Liên Nhi nghe xong thì vội vã gọi nha hoàn đến thu xếp đồ đạc lại đem ra ngoài.
Chương 315: Bước biến pháp đầu tiên
Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng của Tô Thức liền nhấc chân bước vào bên trong phòng của Tô Thức, vừa vào đến bên trong Đỗ Văn Hạo đã trông thấy Tô Thức đang ngồi trên một chiếc ghế nhỏ đặt giữa phòng, trong phòng lúc này chẳng có một ai khác cả, hắn thấy vậy bèn tiến đến chắp tay nói: “Tử Chiêm huynh! Không biết huynh cảm thấy trong người như thế nào?”
“Bây giờ đã không còn gì đáng ngại nữa rồi!” Tô Thức nói xong bèn mỉm cười đưa tay lên ra ý cho Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, rồi tự mình đứng dậy ra rót cho hắn một tách trà.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa hai tay ra đỡ lấy tách trà trên tay của Tô Thức xong liền uống một hơi cạn sạch, sau đó hắn liền chèm chẹp cái miệng của mình một cái rồi mới đặt tách trà xuống, Tô Thức thẩy vậy chỉ mỉm cười liền rót thêm cho hắn một tách nữa nói: “Chuyện mượn lương thực ra sao rồi?”
Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ có lẽ là Lâm Thanh Đại khi về đây đã đem chuyện hắn đi mượn lương thực kể cho Tô Thức nghe rồi, thấy vậy hắn bèn đem câu chuyện hắn vừa mới ở chỗ Hàn Tu về kể cho Tô Thức nghe một lượt.
Tô Thức nghe xong thì gật đầu tán đồng nói: “Cách làm của Vân Phàm huynh rất hợp lý! Không ngờ huynh lại có những ý nghĩ chu đáo cho dân chúng như vậy!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tử Chiêm huynh e rằng nhất thời không thể chuyển đến đó ở Châu Nha được rồi, bởi Châu Nha đã bị tại hạ…”
Tô Thức nghe đến đây bèn cắt lời của Đỗ Văn Hạo nói: “Ta đã biết rồi, Vân Phàm huynh làm rất đúng, việc quan trọng trước mắt nhất bây giờ phải sắp xếp nơi ăn chốn ở của dân chúng ổn định cho xong đâu đất đã rồi mới làm gì thì làm được!”
“Tử Chiêm huynh biết không? Quan lại của Châu Nha ngoại trừ một số đã chết trận, thì những người khác cũng đã tháo chạy khỏi đây, vẫn chưa quay lại! Có lẽ phải một thời gian nữa cái Châu Nha của huynh mới có thể vận hành như xưa được!”
“Đúng vậy! Trong thời gian này nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là phải ổn định tâm lý cho dân chúng, phục hồi trật tự nơi đây, kể cả có ngồi lên chức quan Chi Châu mà không lo liệu chuyện cấp thiết trước mắt thì e rằng cũng chẳng ngồi lâu được!”
Hai người cứ vậy nói chuyện thêm được một lúc thì vợ của Tô Thức là Vương Nhuận Chi hớt hơ hớt hải chạy vào chỉ ra ngoài cửa hầm hập tức giận nói: “Đỗ đại nhân! Đại nhân đang làm cái gì vậy! Tôi nghe nói dạo gần đây Nhã Châu buổi đêm hay có bão, người khác thì không sao, nhưng sức khỏe của mấy vị Đỗ phu nhân cũng không được khỏe cho lắm, đại nhân không thể để bọn họ ngủ ngoài đường như vậy được, như vậy sẽ rất dễ sinh bệnh!”
Lúc này ở sau lưng của Vương Nhuận Chi, Liên Nhi vội vã chạy theo vào, gương mặt bối rối, sợ hãi lí nhí nói: “Thưa thiếu gia! Bọn thiếp không có vấn đề gì cả đâu, là Tô phu nhân muốn…”
Tô Thức nhất thời không hiểu mô tê đầu đuôi sự tình ra sao cả, ông thấy mọi người có những biểu hiện khác thường như vậy bèn lên tiếng hỏi: “Rốt cuộc là có chuyện gì xẩy ra vậy?”
Đỗ Văn Hạo vội vàng lên tiếng giải thích nói: “Tô phu nhân không cần phải lo lắng như vậy! Thân thể của mấy vị phu nhân của tại hạ còn tốt lắm, hơn nữa bọn họ vẫn còn rất trẻ, trời cũng nóng như thế này, không đến nỗi bị nhiễm bệnh đâu! Nằm ngoài trời có khi lại cảm thấy thoáng mát, phu nhân xem tiết trời nóng nực thế này mà nằm ngoài hóng gió thì không phải là mát mẻ hơn hay sao?”
Vương Nhuận Chi nghe xong vẻ mặt vẫn tỏ vẻ không vui, chạy thẳng đến trước mặt Tô Thức trách móc: “Lão gia! Chuyện này không thể như thế được, chúng ta đã bàn bạc với nhau rằng sẽ nhường lại hai căn phòng cho Đỗ đại nhân! Ba đứa nhỏ thì dù sao đều là con trai, ở chung với nhau cũng được, không biết thiếp làm như vậy có điều gì sai, mà Đỗ đại nhân không vẫn không chịu đồng ý?”
Tô Thức lúc này mới nghe hiểu chuyện gì đang xẩy ra, ông vô cùng cảm động, liền liên tưởng đến lời nói của Hoàng Thượng dành cho Đỗ Văn Hạo, Tống Thần Tông đánh giá hắn là một người nói được làm được, hành sự vô cùng điềm tĩnh, chuyện gì suy nghĩ cũng vô cùng thấu đáo, đầu óc thông minh, nhay bén, nếu như cho hắn một khoảng không gian để hắn mặc sức tung hoành thì hắn chắc chắn sẽ làm lên chuyện lớn, nhất định sẽ không là cho mọi người thất vọng, nghĩ đến đây Tô Thức liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Vân Phàm huynh cũng mệt mỏi cả ngày hôm nay rồi, không thể để huynh căng bạt ngủ ở ngoài đường như vậy, huynh nghe lời ta dọn vào trong này ở, mọi người ở chung với nhau lại không phải vui vẻ náo nhiệt hơn sao?”
Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi định lên tiếng nói thì Tô Thức đưa tay gạt đi, cắt ngang lời của hắn: “Thôi được rồi! Chuyện này coi như ta nói là xong, nói cho cùng thì đây cũng là tình cảnh đặc biệt, do vậy chúng ta phải lựa thế mà sống, mấy đứa trẻ nhà ta cũng không nên nuông chiều chúng quá, phải cho chúng nếm mùi đau khổ thì chúng mới hiểu thế nào là sung sướng được!”
Vương Nhuận Chi nghe vậy bèn gật đầu nói: “Lão gia nói phải lắm! Đỗ đại nhân đừng từ chối mãi như vậy nữa, đây chẳng qua là một nơi tránh mưa tránh gió thôi mà, tôi tin đây chẳng qua chỉ là tình huống tạm thời thôi, chỉ cần chúng ta còn sống thì lo gì sau này không có chỗ ở, đạo lý này chắc Đỗ đại nhân cũng hiểu! Tôi tin rằng Đỗ đại nhân cùng với lão gia sẽ nhanh chóng khôi phục lại nơi này trong thời gian nhanh nhất có thể!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng cảm kích vô cùng: “Tô phu nhân nói phải lắm! Tại hạ bất tài, nguyện ghi nhớ những lời dạy bảo của phu nhân!”
Cũng đúng lúc này thì bên ngoài cửa sổ vọng vào tiếng sấm rền vang, tiếp sau đó là những tia lửa điện xe rách bầu trời, loằng ngoằng nhằng nhịt nối đuôi nhau lóe lên những ánh sáng bạc xuyên qua những đám mây đánh thẳng vào gốc hòe phía bên ngoài sân. Tiếp sau đó bên ngoài sân vang lên một tiếng hét thất thanh, Đỗ Văn Hạo mặt mày thất sắc đứng thẳng người dậy phóng luôn ra bên ngoài, chỉ trông thấy Tuyết Phi Nhi đang ôm lấy Lâm Thanh Đại mặt mày tái mét vì sợ hãi. Lâm Thanh Đại lúc này cũng chỉ đứng đó hướng về Đỗ Văn Hạo mỉm cười với hắn một cái, rồi cúi xuống thấp giọng nói với Tuyết Phi Nhi điều gì đó, Tuyết Phi Nhi nghe xong bèn gật gật đầu, sau đó chạy luôn vào túp lều gần đấy.
Một lúc sau, mưa rơi như trút nước, từng giọt mưa nặng hạt rơi lộp bộp dưới sân, rồi bắn tóe lên như hình con cóc nhảy, không khí bây giờ trở nên vô cùng mát mẻ, gió thổi vù vù xua tan đi cái nóng gay gắt của ban ngày. Nhưng, Đỗ Văn Hạo không vì như vậy mà cảm thấy sảng khoái hơn chút nào, nét mặt của hắn vẫn đượm một nỗi lo âu vô bờ bến, Đỗ Văn Hạo liền quay sang Tô Thức nói: “Trận mưa này e rằng không nhỏ! Tại hạ phải ra ngoài kia xem dân chúng thế nào rồi, không biết là họ có cần giúp đỡ gì không?”
Tô Thức thấy vậy bèn đáp: “Ta cũng đi!”
“Tử Chiêm huynh đừng đi, bệnh tình của huynh cũng vừa mới khỏi, bị nhiễm thêm lạnh vào lại lần nữa e rằng có hại cho sức khỏe!”
“Không sao đâu! Sức khỏe của ta, ta biết! Lúc này mà ta cứ ru rú ở trong nhà thì làm sao xứng đáng với chức Chi Châu của ta được! Đi, chúng ta đi thôi!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn bật cười sảng khoái, sau đó hai người liền bước luôn ra bên ngoài, hai tên thị vệ theo hầu cũng vội vã chạy theo bật ô che chở cho hai người đi tuần.
Hai người trên đường đi tuần lúc này vô cùng bận rộn, một người là Chi Châu, người còn lại là Câu Quản tuy hai chức quan to nhỏ khác nhau, nhưng giờ họ lại chung một nhịp đập trái tim, đó là nhịp đập của lòng yêu nước thương dân. Trên đường đi hai người đem những người không có chỗ trú mưa đưa hết về Châu Nha lánh tạm, rồi bảo với Tiền Bất Thu đun nước gừng nóng để họ uống cho đỡ lạnh. Sau đó Đỗ Văn Hạo lại bàn bạc với Hàn Tu, Tô Thức lên kế hoạch xây dựng lại thành ấp nơi đây, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo mới chịu quay về nghỉ ngơi.
Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo dậy từ rất sớm, bởi vì Tô Thức nhất quyết không cho hắn và gia đình dọn ra ngoài ngủ trong lều, nên hắn liền đưa bốn vị phu nhân của mình ở lại trong hai căn phòng mà Tô Thức đã nhường lại cho hắn. Còn Đỗ Văn Hạo và Lý Phố cùng ở trong một căn lều, bên cạnh lều của hắn là lều của Anh Tử với con hổ con Khả Nhi.
Sáng sớm trời quang mây tạnh, những con ve đáng ghét lại bắt đầu kêu lên vo vo, nghe mà lộn hết cả ruột, Đỗ Văn Hạo ghét nhất cái bọn ve này, sáng ra đã kêu ầm ĩ cả lên, làm cho người ta vô cùng khó chịu. Chính vì vậy mà khi mặt trời mới ló dạng, thì Đỗ Văn Hạo cũng đã tỉnh dậy ra ngoài vận động, Lý Phố thấy hắn ra ngoài cũng vội vã chui ra theo.
“Đại nhân! Sao ngài dậy sớm như vậy? Hôm qua đại nhân và mấy người khác đều nghiên cứu trùng tu lại nơi ăn chốn ở cho dân chúng đến khuya mới ngủ, mạt tướng nghĩ rằng đại nhân nên ngủ thêm một lúc nữa!”
Đỗ Văn Hạo bèn vừa đi vừa cài áo nói: “Thôi! Không cần ngủ thêm nữa đâu, hôm nay ta còn nhiều việc phải làm lắm, chúng ta mà ngủ nướng thì chuyện của dân chúng ai đứng ra giải quyết! Thời gian bây giờ là vàng bạc, đi thôi! Chúng ta ra chỗ Châu Nha xem tình hình mọi người ra sao!”
Lý Phố nghe xong bèn cúi người tuân lệnh, ông ta vốn là con nhà lính, chịu khổ cũng quen rồi, nhưng ông ta không ngờ rằng trông Đỗ Văn Hạo với dáng người nho nhã, mảnh khảnh thư sinh như vậy mà cũng biết chịu khổ như mình, thậm chí có lúc còn hơn mình thì vô cùng khâm phục. Lý Phố tin rằng Đỗ Văn Hạo là một vị quan yêu nước thương dân nhất mà ông từng gặp từ trước đến nay, hắn không chỉ quan tâm đến dân chúng từng li từng tý, mà còn đem hết sức mình ra tận tụy lo lắng cho sự an nguy của mọi người nữa, một con người vì dân vì nước như hắn, trên đời quả là hiếm có vô cùng.
Trật tự của Nhã Châu sau khi được khôi phục lại như cũ, thì những quan lại trước kia đã lục đục kéo về, trong số bọn họ cũng có một số người bị chết trong loạn lạc, Đỗ Văn Hạo cũng không gấp gáp trong việc bổ xung thêm quan viên nữa, vì nhiệm vụ trước mắt của hắn bây giờ là lương thực, phải có lương thực đầy đủ thì mới ổn định được lòng dân.
Trước mặt của Đỗ Văn Hạo giờ đây là những người dân khốn đốn sau chiến tranh, bọn họ không còn nhà để ở, không còn gạo để ăn, chiến tranh đã cướp đi tất những gì mà họ đã có, nhà cửa bị tàn phá, người thân bị chết trận, đồn điền bị hủy hoại, tiền của bị cướp bóc, họ đã mất tất cả. Người dân bây giờ chỉ biết trông chờ vào hắn, vào đồ cứu tế của triều đình mà thôi. Tình hình Châu Nha lúc này mọi thứ đều ngổn ngang, trẻ con khóc lóc đòi ăn, người lớn thì quặt quẹo nằm thu lu một góc. Trong số đó vẫn còn đó những người dân bị nhiễm Phong Hàn, bệnh dịch này vẫn đang hoành hành tác quái và dường như không có dấu hiệu nào kết thúc nào cả.
Tất cả những hình ảnh này in đậm trong tâm trí của Đỗ Văn Hạo, tàn dư để lại sau chiến tranh bao giờ cũng ảm đạm và khốn nạn như vậy.
Vấn đề đau đầu nhất của Đỗ Văn Hạo lúc này là hắn cũng không có đủ lương thực để cung cấp cho nạn dân, lương thực của Hàn Tu cung cấp cũng chỉ có hạn, không thể duy trì mãi được, Đỗ Văn Hạo biết giờ đây tất cả dân chúng chỉ trông chờ vào số lương thực này, nhưng đến một ngày nào đó số lượng thực này hết rồi thì hắn phải giải quyết sao đây?
Trong lúc ngổn ngang mọi bề thì nạn chết đói, bệnh dịch luôn luôn rình rập chờ đợi để cướp đi tính mạng của dân chúng một cách không thương tiếc, sự đe dọa của nó ngày một lớn dần và càng lúc càng trở nên đáng sợ.
Đỗ Văn Hạo biết hắn không thể chần chừ thêm được phút giây nào nữa, sau khi suy tính kỹ càng, hắn lập tức quay về phân phó công việc. Đầu tiên, hắn cho Tiền Bất Thu đem theo Diêm Diệu Thủ, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi cùng với mấy vị đại phu của các tiệm thuốc trong Nhã Châu này tham gia vào việc cứu tế, chữa trị cho dân chúng. Đỗ Văn Hạo từ đây đã nhanh chóng thành lập được một đội y tế, đội y tế này sẽ phụ trách chữa trị cho các nạn dân trong Nhã Châu. Sau đó, Đỗ Văn Hạo lại tuyển chọn trai tráng trong thành đưa ra bên ngoài xử lý rác thải, rồi phân phối bọn họ rắc nước diệt trùng để tiệt trừ mầm mống lây bệnh truyển nhiễm. Đồng thời, Đỗ Văn Hạo cho người vận chuyển lương thực từ chỗ Hàn Tu về Châu Nha nấu cháo cho dân chúng ăn, tình hình trước mắt Đỗ Văn Hạo chỉ có thể giải quyết được đến đó mà thôi, hắn vẫn chưa nghĩ ra kế sách lo liệu sau này, mà hắn giờ đây cũng chưa có đủ thời gian để suy xét chuyện đó.
Đỗ Văn Hạo sau khi sắp xếp xong, hắn vẫn cảm thấy chưa đủ bèn sai Lý Phố dẫn một đội quan lại trong nha phủ, cùng với mấy tên bổ khoái đi vào trong thành ấp tìm đến mấy người buôn gạo điều tra, dò hỏi xem bọn họ còn bao nhiêu lương thực nữa.
Lý Phố đoán rằng những người buôn gạo chắc chắn là sẽ còn kho dự trữ lương thực riêng của bọn họ, nhưng khi chưa biết được hư thực của sự việc, Lý Phố cũng không dám tự do hành động, như vậy cũng chẳng khác gì đi cướp của người ta cả.
Mấy ngày sau đó, Đỗ Văn Hạo cùng với Tô Thức đem theo quan lại của mình đi sâu, dò xét tình hình của các thôn làng bên cạnh thành Nhã Châu. Sau khi khảo sát tình hình khôi phục của thôn làng xong, bọn họ đều hay tin đồn điền ruộng lúa nơi đây vẫn còn giữ được khá là nguyên vẹn, mọi người do vậy nên mừng rỡ vô cùng. Chính vì thế mà ngay ngày hôm đó, đoàn người do Đỗ Văn Hạo dân đầu liền trực tiếp ra xem xét tình hình ruộng lúa ở đây ra sao, vừa ra đến nơi thì tình hình quả đúng như người trong thôn nói, ruộng lúa nơi đây vẫn còn bảo tồn nguyên vẹn như chưa từng xảy ra chuyện gì. Suy cho cùng thì mục đích của bộ lạc Tây Sơn đến đây cũng chỉ là vì cướp bóc tiền của, khi đó ruộng lúa vẫn còn chưa trổ bông, nên chúng cũng chẳng làm gì được, vì vậy mà những đồng ruộng nơi đây mới thoát khỏi kiếp nạn.
Nhưng, Đỗ Văn Hạo cũng không thể mừng rỡ được lâu, vì quân Tây Sơn không thu hoạch được lúa thì hắn cũng chẳng thu hoạch được, vì lúa cũng đã trổ bông đâu! Mà theo như tình hình trước mắt thì dân chúng trong thành đang cần một khối lượng lớn lương thực để duy trì cuộc sống bọn họ, kho thóc trong Nhã Châu thì cũng bị chiến tranh hủy hoại hết cả, lương thực của Hàn Tu thì cũng đang dần cạn kiệt, giờ đây người dân trong thành lại bắt đầu quay trở lại thời kỳ bới rễ cây mà ăn. Đỗ Văn Hạo quyết định không thể đợi thêm được nữa, hắn vốn định chờ cho tình hình của Nhã Châu khôi phục xong đâu đấy rồi mới tiến hành cải cách biến pháp, nhưng bây giờ thời cuộc cấp bách hắn không còn sự lựa chọn nào khác là tiến hành cải cách sớm hơn dự định.
Về đến thành Nhã Châu thì Đỗ Văn Hạo hay tin Lý Phố đã điều tra chính xác tình hình lương thực của hội những người buôn gạo, cùng với vị trí kho hàng tàng trữ lương thực của bọn họ. Theo như khai báo thì số lượng tích trữ lương thực của bọn họ vô cùng lớn, vì những kho dự trữ này được cất giấu vô cùng bí mật nên trong lúc loạn lạc, quân Tây Sơn không hề phát hiện ra nó, chính vì thế mà kho lương thực của hội những người buôn gạo này vẫn còn nguyên vẹn, chưa có ai động tới cả. Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, nhưng Lý Phố lại nói cho hắn biết một tin làm hắn tắt luôn nụ cười trên môi của mình xuống, tin đó là mấy hộ buôn gạo giờ đây không chịu hạ giá bán gạo cho Đỗ Văn Hạo, càng không muốn quyên góp từ thiện cho dân chúng trong thành, Đô Văn Hạo nghe mà tức điên lên, đúng là gian thương! Gian thương thì đời nào cũng có, ngay cả thời hiện đại cũng vậy, nơi nào mà xẩy ra thiên tai thì bọn chúng liền nâng cao giá tiền lương thực, đục nước béo cò. Lý Phố thấy vậy bèn ra ý bảo Đỗ Văn Hạo cưỡng chế thu lấy số lương thực đó.
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì hiểu ngay hàm ý của Lý Phố, ngoài mặt thì bảo thu hồi của cải vào hỗ trợ lương khố quốc gia, nhưng thực chất hành động này chẳng khác nào đi cướp cả. Đỗ Văn Hạo cũng không nhẫn tâm ăn không của bọn gian thương, vì suy cho cùng thì đây cũng là công sức của bọn chúng tích trữ bao nhiêu năm, tư tưởng tư lợi thì bất kể người làm kinh doanh nào cũng có, do vậy cũng không thể trách chúng được. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn bảo Lý Phố triệu tập hội buôn gạo đó lại về Nha Phủ, sau đó đôi bên sẽ cùng bàn bạc cách giải quyết ổn thỏa với nhau.
Mấy hộ buôn gạo sau khi biết tin Lý Phố dò la ra tông tích kho gạo của chúng thì ai cũng lo lắng đứng ngồi không yên, tất cả chỉ lo sợ trong tình hình khốn khó như thế này Đỗ Văn Hạo sẽ hạ lệnh cướp hết số gạo mà chúng tích trữ bao nhiêu năm nay. Tuy bọn chúng vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo dẹp loạn giặc Tây Sơn cho Nhã Châu, nhưng người làm ăn kinh doanh lâu năm như chúng đều là những con cáo trên thương trường rồi, không bao giờ chịu mất không như vậy cả. Do vậy trước khi được Đỗ Văn Hạo mời đến Nha Môn thì tất cả bọn chúng đều đã liên kết với nhau lại, rồi cùng tìm cách đối phó với hắn.
Đỗ Văn Hạo lúc này dẫn theo Hàn Tu, Tô Thức cùng đến Nha Môn hẹn gặp hội buôn gạo kia, sau khi đọc xong Thánh Chỉ tuyên bố mình đã nhậm chức Câu Quản Nhã Châu xong, thì Đỗ Văn Hạo ban bố nội dung cải cách biến pháp mới của hắn cho mọi người biết, tất cả hội buôn gạo kia nghe xong thì thấy vô cùng lo lắng, muốn dị nghị vài lời, nhưng trông khí thế của hắn hùng hồn như vậy thì chẳng ai dám hé miệng ra hỏi, cả lũ đều xanh mét mặt mày đưa mắt nhìn nhau, lúc sau mới giả bộ đưa tay lên chúc mừng Đỗ Văn Hạo nhậm chức Câu Quản ở Nhã Châu.
Đỗ Văn Hạo sau đó liền giới thiệu thân phận của Hàn Tu cho hội buôn gạo biết, bọn chúng nghe xong thì biết đây là người đang nắm giữ binh quyền của Thành Đô, kiêm chức Đề Cử Thành Đô Phổ Lộ Thường Bình Thương phụ trách nhiệm vụ điều độ lương thực. Cả bọn biết Hàn Tu giờ đây là người cầm quyền sinh sát bọn họ ở trong tay, do vậy tất cả đều vội vã đứng dậy thi lễ với Hàn Tu để tỏ lòng kính trọng.
Hội buôn gạo này hiểu rằng Hàn Tu giờ đây mới là người có quyền cao nhất ở đây, hơn nữa ông lại lại có khả năng điều động lương thực của cả tỉnh, nếu như thất lễ với Hà Tu thì sau này con đường làm ăn của họ đều bị ảnh hưởng không nhỏ. Chính vì thế mà thái độ của chúng với Hàn Tu thậm chí còn cung kính hơn cả với Đỗ Văn Hạo.
Ánh mắt sắc bén của Đỗ Văn Hạo cũng nhận ra được sự thay đổi này, do vậy hắn bèn để Hàn Tu lên tiếng nói trước, Hàn Tu cũng là nhân vật lăn lộn nhiều năm trong quan trường, ông cũng nhận thấy ánh mắt của Đỗ Văn Hạo có ẩn ý, nên bèn ho khan lên hai tiếng rồi ôm quyền cung kính nói: “Các vị bây giờ cũng biết rồi đấy! Vị đại nhân đứng cạnh ta đây là Đỗ Ngự Y một người rất được Hoàng Thượng trọng dụng, y thuật của ông ta thiên hạ khó có ai bì được. Hoàng Thượng cũng đã ban bố Thánh Chỉ bổ nhiệm Đỗ Ngự Y đảm nhận chức Câu Quản của Nhã Châu, đồng thời còn ủy thác Đỗ Ngự Y tiến hành cải cách tân pháp ở đây. Bổn quan cho dù chức trách lên tới Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương nhưng cũng không được phép can dự vào công cuộc cải cách biến pháp của Đỗ Ngự Y. Chính vì vậy mà bây giờ Đỗ Ngự Y mới là người có quyền quyết định toàn bộ sự việc ở đây nên giải quyết ra sao! Đừng nói là các vị ngồi đây đều phải tuân theo mệnh của Đỗ Ngự Y, mà đến ngay cả bản thân của bổn quan cũng phải tôn trọng quyền quyết định của ông ta, không được phép thay đổi, hay dị nghị gì cả! Nếu các vị thấy điều này không ổn rồi đi tố cáo lên triều đình, thì cũng chẳng có tác dụng gì cả, bởi vì đây là ý chỉ của Hoàng Thượng, thử hỏi trên đời này còn ai dám cãi lời Hoàng Thượng nữa?”
Hội buôn gạo nghe xong, thì tất cả đều cảm thấy chưng hửng, trong bụng thầm kêu khổ, bọn chúng cứ tưởng bám được lấy Hàn Tu để lấy cớ từ chối sự điều động lương thực của Đỗ Văn Hạo, ai ngờ ông ta cũng không dám động vào hắn ta, trong bụng thầm oán trách Hàn Tu kém cỏi, nếu như bây giờ mà Đỗ Văn Hạo ra lệnh cưỡng chế thu hồi lúa gạo thì đúng là đi tong cả vỗn lẫn lãi, nhưng đây lại là ý chỉ của Hoàng Thượng, đi đâu mà kiện mà kêu khổ bây giờ? Mặc dù, Hoàng Thượng ở tít tận kinh thành, nhưng lúc này đến cả vị Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương Hàn Tu nắm trong tay mấy vạn binh mã này cũng không dám đả động gì đến hắn ta, thì mấy tên con buôn nhỏ bé như chúng thì sao dám ho he cơ chứ, Hàn Tu đã lên tiếng không can thiệp vào, thế thì đồng nghĩa với việc gã thanh niên trẻ tuổi này sẽ là người nắm toàn quyền quyết định ở Nhã Châu này rồi!
Hàn Tu lại tiếp tục lạnh lùng nói: “Ta đã đem những việc lợi hại ra nói hết cho các ngươi biết rồi đấy! Từ nay trở đi Đỗ Ngự Y tiến hành biến pháp ra sao, bất luân đúng sai, nếu có ai dám có ý phản đối, giở trò phá hoại thì đừng trách bổn quan vô tình!”
Những đứa buôn gạo lúc này đều chỉ biết đưa mắt lên nhìn nhau một cách tội nghiệp, nhưng nói cho cùng thì bọn chúng cũng đều là những kẻ thức thời, tuy trong bụng vô cùng ức chế nhưng cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, miễn cưỡng nở ra một nụ cười, rồi đồng thanh tán đồng lời nói của Hàn Tu, tất cả cùng đồng ý phục tùng tuyệt đối ý kiến của ông, quyết không có ý giở trò phá hoại.
Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy thì mỉm cười chắp tay lên đa tạ Hàn Tu, sau đó lại quay sang Tô Thức giới thiệu.
Việc Tô Thức được bổ nhiệm làm chức Hoàng Châu Chi Châu, trong đó bao gồm cả Nhã Châu đã được quan lại nơi đây gián dấy cáo thị khắp nơi, chính vì thế mà mọi người đều đã sớm đã nghe tiếng, nhưng giờ đây mới được gặp tận mặt Tô Thức, lúc này hội buôn gạo mới đưa mắt ra trông Tô Thức dò xét, thấy ông gầy gò ốm yếu, tuổi tầm trung niên, nhưng vẫn giữ được phong độ của một nhà nho tao nhã, hơn nữa Chi Châu lại còn có thể cai trị được Câu Quản, do vậy cả lũ đều mừng húm trong bụng như người chết vớ được phao chết đuối, vì thế mà tất cả bọn chúng đều vội vã đứng dậy chắp tay thi lễ, hòng lấy lòng của Tô Thức.
Tô Thức sau khi được Đỗ Văn Hạo giới thiệu cũng chỉ nói vài câu vô cùng ngắn gọn: “Các vị! Lúc nãy Hàn tướng quân cũng nói rồi, do vậy bổn quan cũng không cần nhiều lời nữa, bổn quan tuy là một Chi Châu nhưng cũng không được phép can thiệp vào công việc của Đỗ Ngự Y, bổn quan tin rằng tân pháp chắc chắn sẽ có lợi cho dân chúng, cứu rỗi bọn họ ra khỏi cảnh đói nghèo, không những vậy bổn quan sẽ dốc hết sức mình ra để phò tá Đỗ Ngự Y trong công cuộc đổi mới tân pháp này. Do vậy, bổn quan hy vọng mọi người cùng đồng tâm hiệp lực trợ giúp Đỗ Ngự Y có một môi trường làm việc tốt nhất! Có như vậy thì dân chúng mới có được cuộc sống ấm no hạnh phúc!”
Bọn buôn gạo nghe xong lại được một phen chưng hửng lần nữa, nhưng suy cho cùng tân pháp không biết nó lợi hại ra sao, đấy cũng là chuyện của tương lai, chuyện bây giờ là phải xem xem Đỗ Văn Hạo giải quyết kho thóc của chúng thế nào rồi mới nghĩ đến chuyện ủng hộ tân pháp hay không.
Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Tô Thức nói xong bèn mỉm cười lên tiếng: “Mọi người không nên lo lắng như vậy! Đúng như Tô Chi Châu đã nói, biến pháp là dựa trên cơ sở do dân và vì dân, nếu như bổn quan có chỗ nào làm không tốt, chưa đáp ứng được nhu cầu của dân chúng, thậm chí còn làm tổn hại họ nữa thì mấy người cứ trực tiếp đề xuất cho bổn qua được biết, bổn quan nhất định sẽ tiến hành sửa đổi, còn nếu sửa đổi vẫn không được thì có thể phế bỏ nó đi. Lợi ích của dân chúng mới là hàng đầu! Bổn quan luôn luôn tin rằng, nếu như tân pháp của bổn quan không làm cho dân chúng có được cuộc sống hạnh phúc ấm no, thì tân pháp của bổn quan không bao giờ tồn tại lâu dài được. Một chế độ có được duy trì tốt hay không, thì đều phải có sự ủng hộ của tất cả mọi người, nhất là những người như các vị, nếu tân pháp không nhận được sự ủng hộ hết mình thì nó cuối cùng cũng sẽ bị đào thải mà thôi. Nhưng bổn quan đảm bảo với mọi người rằng, với cái tân pháp mới này tất cả mọi người ai cũng đều có lợi cả!”
Tô Thức từ trước đến giờ không hề hay biết Đỗ Văn Hạo rốt cục tiến hành tân pháp như thế nào, trên đường đi cũng dò hỏi hắn nhiều lần, tuy Thánh Chỉ có nói ông ta không được phép can dự vào công cuộc đổi mới tân pháp của Đỗ Văn Hạo, nhưng nếu như tân pháp của Đỗ Văn Hạo lại giống với của Vương An Thạch, không những không cải thiện được tình hình nghèo khổ của dân chúng, mà còn làm khổ bọn họ nữa, nếu theo như tính cách của Tô Thức e rằng khó tránh khỏi một trận cãi vã với Đỗ Văn Hạo. Nhưng, bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói mục đích tân pháp của hắn là phục vụ cho dân, giúp người dân có được cuộc sống ấm no và hạnh phúc, chứ không phải tăng thêm thu nhập cho triều đình, thìông cảm thấy khâm phục vô cùng, Tô Thức sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong liền đứng luôn dậy vỗ tay ủng hộ.
Hội buôn gạo thì cũng là những người hiểu sự đời, gặp qua nhiều chuyện lớn nhỏ, nên họ còn lạ gì mấy viên quan lại chỉ biết nói những lời trống rỗng, nhưng lần này bọn họ thực sự đã bị Đỗ Văn Hạo cảm động, bởi vì không phải vị quan nào cũng dám mạnh miệng công khai ủng hộ lợi ích của dân chúng trước mặt bao nhiêu người như vậy. Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong thì mặc dù trong lòng chúng vẫn còn lo lắng chờ đợi hắn đi vào vấn đề chính mà bọn chúng đang rất quan tâm, đó chính là ý kiến của Đỗ Văn Hạo về kho gạo của bọn họ, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn cứ thao thao bất tuyệt về tân pháp nên chúng cũng chỉ biết im lặng chờ đợi. Đúng lúc này hội buôn gạo lại thấy Tô Thức đứng dậy vỗ tay khen ngợi Đỗ Văn Hạo thì tất cả bọn họ cũng đều đưa tay lên vỗ theo, hòng làm cho Đỗ Văn Hạo mải mê tân pháp, nhân tiện vỗ tay tâng bốc hắn lên sẽ làm cho hắn quên luôn kho thóc của mọi người thì lại càng tốt.
Đỗ Văn Hạo thấy mọi người đều đưa tay lên vỗ tay ủng hộ mình như vậy thì cũng không ngờ tới mọi người lại ủng hộ tân pháp như thế, mới đầu chỉ có một mình Tô Thức vỗ tay, nhưng bây giờ tất cả những người có mặt ở đây đều vỗ tay tán thưởng như vậy, vì thế hắn càng thấy mình phải quyết tâm biến đổi tân pháp cho tốt hơn.
Đợi cho tràng pháp tay kết thúc, Đỗ Văn Hạo mới mở miệng nói tiếp: “Tân pháp mà bổn quan sắp sửa thực thi sẽ được tiến hành từng bước một, bây giờ bổn quan sẽ tiến hành hai hạng mục tân pháp đầu tiên, hạng mục thứ nhất là phế bỏ các biến pháp cũ của Vương An Thạch đang được thực thi ở đây!”
Vừa mới nghe Đỗ Văn Hạo ban bố bộ luật đầu tiên như vậy thì hội buôn gạo đều kinh ngạc vô cùng, phế bỏ tân pháp của Vương An Thạch là một việc vô cùng trọng đại, không được sự đồng ý của Hoàng Thượng thì ai cũng không được phép phế bỏ nó cả, vậy mà Đỗ Văn Hạo vừa đến Nhã Châu chưa ấm đít đã ban lệnh hủy bỏ thì quả thật là một hành động to gan lớn mật, nhưng cả Tô Thức và Hàn Tu thì đều thấy đó là việc bình thường, bởi vì hai người đều biết Tống Thần Tông đã đình chỉ một số điều luật trong tân pháp rồi, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo làm vậy cũng chẳng có gì là lạ cả. Tô Thức và Hàn Tu đều biết chỉ có phế bỏ tân pháp của Vương An Thạch, thì Đỗ Văn Hạo mới tiến hành được tân pháp của hắn.
Đỗ Văn Hạo lúc này ngập ngừng một lúc rồi mới nói tiếp: “Tân pháp thì phải dựa trên tôn chỉ do dân và vì dân, nhưng với tình hình trước mắt thì Nhã Châu huyện của chúng ta vừa trải qua một cuộc chiến khốc liệt, chính vì vậy mà vấn đề cần giải quyết trước mắt bây giờ là lo cho dân chúng có cơm ăn không bị chết đói, nhưng kho thóc của Nhã Châu bây giờ không đủ cung cấp cho dân chúng, bổn quan biết các vị thương gia ở đây vẫn còn tích trữ một khối lượng lương thực rất lớn, do vậy việc cứu tế dân chúng lúc này bổn quan chỉ có thể trông chờ được vào các vị mà thôi!”
Hội buôn gạo nghe đến đây thì giật mình cái thót, đúng là tránh được nhất thời cũng không tránh được cả đời, bọn chúng cứ ngỡ rằng Đỗ Văn Hạo mải mê tân pháp mà quyên đi chuyện thóc lúa này rồi, nhưng không ngờ hắn lại đột ngột vào đề một cách trực diện như vậy, nên tất cả mọi người trong hội buôn gạo đều giương tròn mắt lên nhìn nhau mà không biết nói gì. Nhưng chỉ trong giây lát, có người nhạy bén nhận thức được tình hình hiện nay, người này biết Đỗ Văn Hạo không phải là kẻ có thể qua loa cho xong được, nếu như bị ép vào thế cùng thì chắc chắn hắn sẽ giở trò cưỡng ép thu hồi, đến lúc đó có muốn giữ cũng không giữ được nữa, thôi thì cứ thành thật mà quyên góp, có khi như vậy lại tạo được hình ảnh tốt với Đỗ Văn Hạo, về sau làm việc còn được hắn che chở nữa.
Nghĩ vậy nên người đó vội vàng đứng dậy chắp tay nói: “Đỗ đại lão gia! Lão gia muốn bao nhiêu cứ việc nói ra, thảo dân nhất định sẽ đáp ứng cho lão gia, quyết không hai lời! Mọi người ở thành Nhã Châu này đều là bà con hàng xóm với nhau cả, yêu thương giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn là việc nên làm (Đúng là miệng lưỡi của bọn gian thương, thật đáng kinh tởm), ai mà chẳng có lúc gặp phải khó khăn! Hơn nữa thảo dân cũng nhờ Đỗ đại lão gia đánh đuổi quân địch nên mới giữ được kho lương thực, nếu không thì bây giờ chắc tất cả đã bị quân giặc lấy đi hết rồi! Thảo dân quyên góp như vậy không dám có ý nào khác, mong đại nhân hiểu cho tấm lòng thành của thảo dân!”
Những người buôn gạo khác cũng đều là người thông mình, thấy người kia muốn gây ấn tượng như vậy thì cũng không chịu thua kém, tất cả cùng nhau tiến đến chắp tay nói: “Đúng vậy! Đỗ đại lão gia cần bao nhiêu cứ nói bọn thảo dân quyết không hai lời!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười đứng dậy chắp tay đáp: “Đa tạ các vị đã nể mặt bổn quan như vậy! Nhưng mà, các vị đã hiểu lầm ý của bổn quan rồi, lần này bổn quan mời các vị đến đây không phải là vì chuyện này, dĩ nhiên nếu các vị có lòng hảo tâm, từ bi hỷ xả, làm việc từ thiện như vậy thì bổn quan không những không ngăn cản, mà còn thay mặt dân chúng đa tạ lòng tốt của các vị nữa! (Công nhận cu Hạo cao tay thật! Bắt bọn chúng phải tự mở miệng mình ra nói tự nguyện quyên góp cho dân, còn hắn thì cũng không bị mang tiếng là ép buộc, hay mắc nợ bọn chúng!) Cái mà bổn quan định nói là điều luật thứ hai trong tân pháp!”
Hội buôn gạo nghe Đỗ Văn Hạo xong thì sững người không biết nên làm thế nào, trước khi đến đây trong lòng bọn họ luôn luôn sợ hãi Đỗ Văn Hạo cưỡng ép bọn chúng phải cống nộp lương thực để cứu tế cho dân, nên tìm đủ mọi cách để đối phó, nhưng không ngờ đến đây rồi lại thấy Đỗ Văn Hạo vòng vo tam quốc mãi rồi mới đả động đến quyên góp lương thực, cả hội đang định quyên góp để lấy lòng hắn thì Đỗ Văn Hạo lại nói mục đích tìm họ đến đây không phải là chuyện quyên góp lương thực, nhưng hội buôn gạo lúc này cũng đã trót nói mình tự nguyện quyên góp rồi nên cũng không tiện rút lại lời nói. Hơn nữa đối với bọn họ quyên góp lương thực chẳng qua là nấu vài nồi cháo to phân phát cho dân chúng là xong, vừa không tốn gạo lại còn được tiếng là người tốt nữa, nhưng so với việc bị Đỗ Văn Hạo cưỡng chế thu hồi mất cả chì lẫn chài thì còn đỡ hơn rất nhiều, nên nghĩ đến đây thì tất cả người trong hội buôn gạo đều thầm thở phào trong bụng. Nhưng sau đó lại nghe Đỗ Văn Hạo sắp ban bố tân pháp thứ hai thì lại cảm thấy lo lắng, vì không biết tân pháp này có ảnh hưởng gì đến lợi ích của bọn chúng không?
Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Biến pháp ngày trước có một hạng mục gọi là Thanh Miêu Pháp, hạng mục này chuyên dùng để bổ trợ cho nhân dân những lúc chưa thu hoạch, nhưng mà hạng mục này có một căn bệnh vô cùng cố hữu đó là quan phủ nhúng tay vào quản lý nó, quan phủ không những bóc lột toàn bộ lợi ích của nhân dân, mà còn ngang nhiên cho thuê ruộng đất với giá cắt cổ, cưỡng chế sản xuất! Kết quả là Thanh Miêu Pháp không những làm cho dân chúng không hưởng được ích lợi gì mà ngược lại còn tăng thêm gánh nặng cho họ! Chính vì thế mà tân pháp của ta phải rút ra kinh nghiệm xương máu của nó!”
Thanh Miêu Pháp có liên quan vô cùng chặt chẽ với hội buôn gạo, chính vì thế mà mới nghe đến đây hội buôn gạo đã nín thở nghe xem cuối cùng tân pháp của Đỗ Văn Hạo là có lợi hay có hại với chúng.
Đỗ Văn Hạo tiếp tục nói: “Thanh Miêu Pháp làm cho quan phủ lạm dụng chức quyền, thu lợi của dân. Chính vì vậy mà tân pháp mới của ta sẽ chuyển đổi quyền vay mượn của Thanh Miêu Pháp từ tay quan lại sang tay của dân chúng. Từ bây giờ trở đi các hình thức vay mượn của Thanh Miêu Pháp đều do nhân dân đảm nhận, quan phủ không được phép can thiệp!”
“Vậy nhưng, cũng không thể để dân chúng tự do vay mượn nhau như vậy, bởi vì như thế sẽ lại đi vào vết xe đổ của tân pháp cũ, cho nên ta sẽ thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân cổ phần cho vay mượn trong biến pháp mới của ta!”
Thế nào là công ty cổ phần cho vay mượn? Tất cả mọi người tại đây đều mắt chữ o mồm chữ a chẳng hiểu mô ta gì cả, Đỗ Văn Hạo cũng biết mình đã áp dụng thuật ngữ chuyên ngành của thời hiện đại áp dụng vào đây, nên chả trách ngay cả một đại văn hào văn hay chữ tốt như Tô Thức cũng chẳng hiểu mô tê gì cả.
Đỗ Văn Hạo biết vậy nên cũng đã chuẩn bị sẵn, hắn đem những kiến thức và kết cấu trong công ty ra nói cho mọi người hiểu, sau nửa canh giờ giải thích,thì hội buôn gạo cũng hiểu ra hết ý nghĩa trong lời nói của Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo thấy mọi người cũng đã nắm được ý tưởng của hắn nên lại tiếp tục giảng giải: “Chế độ này không phải là cưỡng chế, hay ép buộc mà nó làm theo tôn chỉ tự nguyện, những quan lại đại biểu cho triều đình gia nhập công ty thì cho dù hàng tháng vẫn được nhận bổng lộc của triều đình, nhưng lại không được có quyền hành gì cả, như vậy cũng có nghĩa là một khi quan chức triều đình đã chấp nhận làm nhân viên trong công ty rồi, thì họ sẽ không có quyền hành gì nữa. Bọn họ chỉ là đại biểu thay mặt cho triều đình đầu tư vào công ty mà thôi, về mặt pháp luật thì quyền biểu quyết của bọn họ cũng giống với người dân đầu tư thông thường, tất cả đều phải dựa vào số vốn đầu tư mà quyết định, số ít phải phục tùng số nhiều, bọn họ không hề có chút đặc quyền nào khác cả!”
Hội buôn gạo nghe xong thì mừng rỡ ra mặt, gật đầu tán thưởng, một người trong số họ còn lên tiếng nói: “Nói như vậy thì khi bọn thảo dân gia nhập đầu tư vào công ty thì có thế tự mình tiếp tục cho vay lương thực đúng không ạ?”
Thanh Miêu Pháp làm cho quan lại lũng đoạn thị trường, ngăn cấm người dân cho vay cho mượn, chính vì thế mà người trong hội buôn gạo kia mới lên tiếng hỏi như vậy.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười gật đầu nói: “Đó là điều dĩ nhiên!”
Hội buôn gạo nghe xong thì mừng vui khôn tả, nên biết rằng trước khi tân pháp của Vương An Thạch được ban hành, hội buôn gạo ngoài trừ việc mua bán gạo đổi lấy tiền ra, bọn họ còn có một nguồn thu nhập lớn khác, là trong lúc vụ mùa chưa chín có thể cho dân chúng vay gạo, vay thóc. Sau đó chờ đến mùa thu hoạch thì lợi nhuận đã tăng vọt lên theo thành một con số khổng lồ, nhưng sau khi Thanh Miêu Pháp của Vương An Thạch ra đời thì con đường làm ăn này của bọn họ đã bị bóp nghẹt, do vậy sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói rằng bọ họ lại có thể làm ăn như xưa thì cả lũ đều mừng rỡ ra mặt.
Đỗ Văn Hạo thấy hội buôn gạo mừng rỡ như vậy cũng không vội vàng lên tiếng ủng hộ bọn chúng, hay nói ra ý kiến của mình mà chỉ nói: “Thế này vậy! Bây giờ ta cho các ngươi thương lượng nửa canh giờ, sau đó các ngươi nói cho ta nghe ý kiến của các ngươi! Tôn chỉ của ta vẫn như cũ, đây là tự nguyện không hề ép buộc!”
Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn cùng Tô Thức và Hàn Tu rút hết ra bên phòng bên ngoài, để lại hội buôn gạo ở sau hậu đường bàn bạc riêng với nhau.
Tô Thức vừa ra đến ngoài đã thấp giọng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Vân Phàm huynh! Phương pháp này của huynh không biết có vận hành được hay không?”
Đỗ Văn Hạo cũng không biết hắn bê nguyên cung cách thương mại, kinh doanh từ thời hiện đại mang vào thời cổ đại vận dụng có kết quả ra sao? Mô hình kinh doanh kiểu công ty có thích hợp với môi trường kinh tế của thời nhà Tống hay không? Tất cả hắn đều không nắm chắc được, vì thế mà sau khi nghe Tô Thức hỏi vậy cũng chỉ biết cười khổ đáp: “Tại hạ bây giờ cũng không thể trả lời huynh ngay lúc này được! Chỉ có thời gian mới trả lời được cho chúng ta biết điều này!”
Tô Thức và Hàn Tu nghe xong bèn gật đầu khen phải.
Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Tử Chiêm Huynh và Tử Hoa huynh suy nghĩ hộ tại hạ xem nếu như hai người là người trong hội buôn gạo kia thì hai người có muốn gia nhập vào trong công ty cổ phần cho vay mượn này không?”
Tô Thức và Hàn Tu cùng quay sang nhau nhìn một cái, rồi trầm ngâm giây lát, một lúc sau thì Hàn Tu lên tiếng nói: “Tại hạ thấy phương pháp của Vân Phàm huynh cũng có chỗ hợp lý, suy cho cùng bọn chúng đều là dân buôn, có lợi như vậy lẽ nào bọn chúng lại không làm, chỉ cần có tiền thì cho dù có phải mạo hiểm đến mấy bọn chúng cũng làm, chính vì vậy mà tại hạ nghĩ rằng, bọn họ sau khi cất nhắc lợi hại xong đâu đấy thì sẽ gia nhập thôi! Cái lợi của bộ luật tân pháp mới của Vân Phàm huynh ở chỗ bọn chúng có thể cho vạy gạo thóc, có cơ hội kiếm tiền như vậy tội gì không kiếm chác cơ chứ. Bọn chúng dựng kho thóc lớn như vậy mục đích cũng dùng là để ém hàng rồi cho vay, chính vì thế khi Vân Phàm huynh đồng ý cho bọn chúng cho vay thóc gạo như vậy thì bọn chúng chắc chắn sẽ gia nhập công ty thôi!”
Tô Thức cũng đứng ở cạnh đó gật đầu nói thêm vào: “Đúng vậy! Bách tính bây giờ đang gặp cảnh lầm than, khốn khó như vậy, làm gì còn có tiền mà mua lương thực nữa, nhưng bọn họ lúc này vẫn còn ruộng đồng, tuy đã bị tàn phá, nhưng chỉ cần tu sửa lại là có thể trồng trọt được rồi. Chính vì vậy mà chỉ cần hội buôn gạo cho vay với lãi suất hợp lý, thì dân chúng chắc chắn sẽ đồng ý đi vay thôi! Hơn nữa bây giờ hội buôn gạo mở kho thóc ra cho vay rồi chờ đến vụ mùa sau thu lãi, sẽ có lợi hơn việc cứ để chúng mốc ở trong kho! Chính vì lý do này mà lão phu nghĩ hội buôn gạo sẽ gia nhập công ty cùng chúng ta mà thôi!”
Chương 316: Nghi vấn của công ty
Tô Thức thấy vậy cũng cho thêm ý kiến của mình vào nói: “Công ty vẫn còn một mặt có lợi khác làm cho lão phu vô cùng thích thú, đó chính là Vân Phàm huynh nói nó là cái gì mà hữu hạn…hữu hạn…!”
Đỗ Văn Hạo thấy Tô Thức lắp bắp không nói lên lời bèn gợi ý nói: “Trách nhiệm hữu hạn!”
“Đúng! Đúng rồi! Trách nhiệm hữu hạn! Những người kinh doanh sợ nhất chính là lỗ vốn, một khi mà lỗ vốn rồi thì tiền mất tật mang, không những tiền tiền đầu tư rơi vào tay kẻ khác, mà còn làm liên lụy đến cả gia đình nữa. Vậy mà ý tưởng của Vân Phàm huynh là thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, cái này có nghĩa là khi công ty đầu tư bị lỗ vốn thì công ty có bao nhiêu tài sản sẽ phải bù bấy nhiêu tiền, tiền bạc của cổ đông lúc đấy cũng sẽ được bảo vệ an toàn. Cổ đông không phải moi tiền túi của mình ra để mà bù lỗ nữa, thật là hay quá!”
Hàn Tu nghe xong cũng trầm ngâm nói: “Vậy nếu như có người cố tình đến công ty vay mượn một số tiền lớn, vượt quá cả tài sản của công ty, đến lúc đòi nợ thì người đó không có năng lực trả nợ, công ty cũng không có đủ tiền để bù đắp, thì không phải đối với các chủ nợ trong công ty là một điều không công bằng hay không?”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Đầu tiên, đầu tư kinh doanh thị trường thì phải mạo hiểm, mỗi một công ty kinh doanh đều phải có nghĩa vụ kiểm tra rõ ràng tiềm lực kinh tế, cũng như tài sản của người hợp tác với mình, nếu đối phương không có tiềm lực kinh tế mà vẫn đến vay với một khoản tiền lớn thì công ty phải có nhiệm vụ điều tra rõ ràng xem có nên cho vay hay không? Dĩ nhiên, mở công ty thì phải có tiền, không có tiền thì mở sao được công ty! Và nếu muốn thành lập một công ty thì vẫn còn phải cần có một chế độ cung cấp điều tra tình hình đăng ký của công ty đó ra sao, việc này sẽ do quan phủ quản lý, nhiệm vụ của quan phủ lúc này mới trở nên quan trọng, vì chỉ có quản lý chặt chẽ thì mới không có hiện tượng người không có tiền mở công ty đi lừa gạt người khác. Quan phủ có một trọng trách vô cùng dặc biệt không những phải kiểm tra xem nơi nào có tiền mới được thành lập công ty, mà còn phải theo sát nó hàng năm, xem nó có còn kinh doanh nữa không, tình hình kinh thu nhập kinh tế có lãi, hay là thâm hụt. Nếu như quan phủ phát hiện ra công ty nào làm ăn thất bát, lỗ vốn thì phải ra tay kịp thời, ngăn chặn không cho phép công ty đó được tiếp tục kinh doanh nữa. Và chúng ta phải thành lập thêm một chế độ đặc biệt nữa là chế độ phá sản, chế độ phá sản được tạo ra nhằm để bảo vệ quuyền lợi cho các chủ nợ khi công ty không đủ sức gánh đỡ thâm hụt kinh tế!”
Đỗ Văn Hạo nói đến đây liền biết hắn đang dùng từ ngữ chuyên ngành của kinh tế thời hiện đại, nên Tô Thức và Hàn Tu đều như vịt nghe sấm, ù ù cạc cạc chẳng hiểu gì cả, hai người nhất thời chỉ biết há hốc mồm ra chờ đợi hắn giải thích lại một lần nữa.
Đỗ Văn Hạo liền nhẫn nại giải thích lại toàn bộ, thế nào là chế độ đăng ký thành lập công ty, thế nào là chế độ sát hạch hàng năm, và thế nào là chế độ phá sản.
Tô Thức và Hàn Tu nghe xong đều kinh ngạc vô cùng, Hàn Tu lúc này chỉ biết lắp ba lắp bắp nói: “Vân Phàm huynh! Bao nhiêu việc phức tạp như vậy huynh làm thế nào mà nghĩ ra được vậy?”
Đỗ Văn Hạo chỉ mỉm cười đáp: “Làm nhiều thì biết thôi! Chỉ là không biết những chế độ này có phù hợp với điều kiện hiện nay không? Dân chúng không biết có chấp nhận được không nữa?”
Tô Thức lắc lắc đầu nói: “Vân Phàm huynh đã nghĩ ra được những thứ phức tạp như vậy, lại còn bàn bạc thêm với hai người bọn ta nữa, nên lão phu lúc này chỉ muốn nói câu này! Lão phu nghĩ rằng những chế độ mà Vân Phàm huynh nêu ra vô cùng khó hiểu, đừng nói đến những người dân thông thường, mà ngay đến cả lão phu và Hàn tướng quân nghe xong phải khó khăn lắm mới hiểu được hàm ý sâu xa của nó! Chế độ này e rằng khó mà ban bố rộng rãi được!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Đúng vậy! Điểm này tại hạ cũng nghĩ qua rồi, làm việc gì cũng phải từng bước từng bước một, tại hạ cũng không gấp gáp trong việc ban bố chúng, cũng không vội vã trong việc thành lập chúng, do vậy tại hạ mới quay sang trưng cầu ý kiến của hội buôn gạo! Nếu như bọn chúng đồng ý thành lập công ty, thì chúng ta sẽ có vật để mà kiểm nghiệm xem hiệu quả của nó ra sao! Nếu như không được như ý, thì chúng ta sẽ từ từ điều chỉnh từng chế độ một, dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên, không có thử nghiệm sao biết được kết quả ra sao?”
Hàn Tu và Tô Thức nghe xong bèn đưa mắt lên nhìn nhau rồi cùng gật gật đầu, Tô Thức nói: “Ý tưởng của Vân Phàm huynh rất đúng! Ít ra với cái chế độ này thì dân chúng cũng cảm thấy nó có thu hút hơn, có tiềm lực hơn là Thanh Miêu Pháp!”
Hàn Tu cũng tán đồng: “Vân Phàm huynh tách rời quan phủ với chế độ công ty ra như vậy có thể tránh được việc quan phủ lợi dụng chức quyền mà bóc lột dân chúng! Nhưng, Vân Phàm huynh muốn dân chúng tin tưởng việc này thì huynh phải thành lập một bộ pháp luật rõ ràng, sau đó ban bố ra ngoài, như vậy dân chúng mới dám tin vào tân pháp mới của huynh!”
Đỗ Văn Hạo cười đáp: “Ha ha! Tầm nhìn của nhị vị huynh đài quả nhiên xa rộng, những ý kiến đề xuất cũng vô cùng chính xác, làm cho tại hạ cảm thấy mình càng lúc càng tự tin để tiến hành tân pháp rồi đấy! Tại hạ dự định sau khi thành lập công ty xong rồi sẽ ban bố một bộ luật tư pháp mới, và sẽ thi hành trong phạm vi vùng Nhã Châu này. Thực ra, chế độ thành lập công ty có ưu điểm lớn nhất là có thể quy tụ tài sản, tiền của các nơi vào một chỗ, nhất là khi có thêm lực lượng kinh tế hùng hậu của quan phủ Thường Bình Thương gia nhập, thì chúng ta có thể lợi dụng nguồn kinh tế hùng hậu của nó mà khuếch đại thanh thế của công ty ra, chỉ có như vậy mới trụ vững được dưới sự thử thách đầy mạo hiểm của thị trường được!”
Đỗ Văn Hạo lại cho thêm những từ chuyên ngày của hiện đại vào, nên Tô Thức và Hàn Tu đều cảm thấy vô cùng mới lạ, mặc dù hai người bọn họ không hiểu từng từ từng chữ, nhưng cũng có thể hiểu được đại khái nội dung trong lời hắn nói, sau khi suy ngẫm một lúc thì cả hai cùng gật đầu tán đồng.
Tô Thức đã từng làm chức Chi Châu, nên cũng từng quản lý qua Thường Bình Thương, do vậy cũng hiểu nó vận hành ra sao, vì vậy ông bèn lên tiếng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Cách làm của Vân Phàm huynh có nghĩa là dân chúng tự đầu tư vốn cho công ty, rồi công ty nhờ đó mà kiếm lời cho mình, cái này e rằng không cần động tới cả ngân khố của chính phủ nữa, như vậy thì triều đình sẽ không kiếm thêm được tiền, tuy là có lợi cho dân chúng nhưng lại không có lợi cho triều đình! Đêìu này nếu đến tai Hoàng Thượng ắt sẽ có dị nghị!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười đáp: “Tử Chiêm huynh nói trúng chỗ ngứa của vấn đề rồi đấy! Đúng là chúng ta phải giải quyết vấn đề này, không thể cứ để người dân chỉ mở một công ty, như vậy sẽ làm cho thị trường bị lũng đoạn, mà chúng ta phải bắt họ mở nhiều công ty, như vậy có hai điều lợi. Điều lợi thứ nhất, khi công ty mở nhiều ra rồi thì sẽ có cạnh tranh, nhiều công ty cho vay mượn sẽ tạo ra lãi suất thấp xuống, cái này thì dân chúng sẽ được hưởng lợi. Dĩ nhiên, chúng ta cũng phải có biện pháp phòng trừ các công ty thông đồng với nhau rồi thét giá cao ngất trời. Đối với loại thông đồng này thì quan phủ chúng ta phải nhúng tay vào giải quyết. Nhưng giải quyết ở đây không là chúng ta sẽ đi bắt bớ người ta, mà là sẽ trừng phạt về mặt kinh tế, nếu như những công ty đó vẫn còn tồn tại những hành vi không chịu sửa đổi thì chúng ta sẽ treo bằng kinh doanh của họ lại, không cho họ kinh doanh nữa!”
Cái kiến thức quản lý hành chính thị trường này đối với Tô Thức và Hàn Tu mà nói thì vô cùng mới mẻ, cả hai đều chưa bao giờ nghe đến nó cả, do vậy cả hai đều cảm thấy kiến thức của Đỗ Văn Hạo quả là sâu rộng.
Đỗ Văn Hạo lúc này vẫn thao thao bất tuyệt nói: “Điều lợi thứ hai, đó là khi công ty có nhiều rồi thì ắt sẽ phải nộp thuế, và thuế sẽ đánh vào nguồn thu nhập của công ty, công ty nào thu nhập càng cao thì thuế sẽ càng cao, như thế triều đình cũng có thêm một khoản lợi nhuận không tồi! Bất kỳ một chế độ nào đều phải tồn tại nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, dân chúng có lợi, triều đình cũng có lợi, nếu làm được như vậy thì chế độ này mới có thể tồn tại lâu dài được!”
Hàn Tu và Tô Thức nghe xong đều gật đầu tán đồng, Hàn Tu lúc này mới vuốt vuốt bộ râu của mình rồi quay sang nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Nói thực lòng! Khi trước Hoàng Thượng khen ngợi tân pháp của Vân Phàm huynh vô cùng mới mẻ, và hấp dẫn. Lão phu trong lòng lúc đó đã có mấy phân hiếu kỳ, hôm nay nghe xong quả nhiên mới cảm nhận được hết hàm ý của trong lời nói của Hoàng Thượng, quả nhiên tân pháp của huynh từ cổ chí kim chưa từng có bao giờ cả! Về sau thì lão phu không biết thế nào, nhưng chỉ riêng mỗi hai hạng mục ngày hôm nay cũng đủ lão phu biết được tân pháp của Vân Phàm huynh chắc chắn sẽ thành công!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn chắp tay đáp: “Đa tạ Tử Hoa huynh đã khen ngợi! Thật ra việc thành lập công ty vẫn còn rất nhiều công đoạn phải hoàn thành, chứ không phải chỉ có mỗi là cho vay mượn đơn giản như thế này cả!”
“Vẫn còn có thể làm việc gì khác nữa?” Tô Thức đứng cạnh đó tò mò hỏi.
Đỗ Văn Hạo đáp: “Ví dụ như, chúng ta có thể đem Thị Dịch Ti đưa vào trong công ty, rồi tiến hành kinh doanh!”
Tô Thức ngạc nhiên hỏi: “Ý của Vân Phàm huynh là để công ty mua rẻ bán đắt, áp chế giá cả hay sao?”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Đúng vậy! Chỉ cần kinh doanh có lãi thì công ty đều có thể nhúng tay vào làm, từ việc sản xuất chế tạo sản phẩm, đến kinh doanh buôn bán, bất kỳ lĩnh vực nào công ty cũng đều có thể làm cả! Dĩ nhiên, không thể việc gì cũng đưa công ty cho vay mượn làm cả, chúng ta có thể thành lập một công ty khác chuyên làm những mảng này, như vậy thì thị trường sẽ đa dạng hóa hơn, nhưng chuyện này để sau hẵng tính, vì chúng ta còn phải thử nghiệm xong cái công ty cho vay mượn kia đã!”
Tô Thức thấy vậy bèn tán đồng nói: “Đúng vậy! Chúng ta phải làm cho xong một công ty để lấy kinh nghiệm trước đã, xem nó làm việc hiệu quả ra sao rồi mới tính bước tiếp theo được! Chỉ cần chúng ta làm tốt, thì công ty sẽ thành một biểu tượng kiểu mẫu thu hút thêm được những doanh nhân khác gia nhập vào, cộng thêm với việc làm lợi cho dân chúng nên chắc chắn ai cũng sẽ biết đến nó. Đến lúc đó thì mô hình công ty sẽ trở thành đầu câu chuyện của mọi người, một truyền mười mười truyền trăm, cứ như vậy mọi người sẽ tò mò tìm hiểu cách vận hành của nó ra sao, dần dần mọi người cũng sẽ hiểu hết nguyên lý hoạt động của nó! Như vậy thì quảng đại quần chúng sẽ hiểu thêm về công ty mà chúng ta không cần phải lo lắng giải thích cho họ nữa!”
Cả ba người lúc này cùng nhìn nhau rồi tủm tỉm cười đắc ý, sau đó lại tiếp tục bàn bạc các vấn đề thao tác cụ thể trong kinh doanh.
Hiện giờ trong kho của Nhã Châu lương thực và ngân lượng đều không có, nhưng vẫn còn vị Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương ở đây, nên Hàn Tu có thể lợi dụng chức vụ của mình đề giải quyết vấn đề này, ông ta có thể ngay ngày hôm sau lên đường đến Thành Đô điều động lương thực và tiền bạc ở đó để hỗ trợ cho Nhã Châu, đây cũng là một phần trong phạm vi trách nhiệm của ông ta. Hàn Tu tin rằng ông có thể hoàn thành nhiệm vụ này, bởi triều đình đã đồng ý vận chuyển đồ cứu tế đến Thành Đô rồi.
Sau đó ba người lại bàn bạc xem ai có thể làm đại biểu cho quan phủ gia nhập công ty, nhưng việc này phải suy nghĩ cho kỹ bởi vì người này không những cần phải có đầu óc kinh doanh vô cùng nhạy bén, làm việc liêm khiết công bằng, ngoài ra phải nhận được sự tin tưởng của hội buôn gạo, chính vì vậy người này tốt nhất phải là người đã từng làm quan ở đây.
Ba người mới chân ướt chân ráo đến đây, vẫn chưa quen ai cả, sau khi bàn bạc xong bèn quyết định trao quyền quyết định chọn lựa đại biểu của triều đình làm việc trong công ty cho hội buôn gạo, sau đó ba người mới làm công tác tư tưởng cho viên quan đó.
Vấn đề sau khi bàn bạc xong xuôi, ba người liền quay lại hậu đường.
Hội buôn gạo lúc này vẫn đang tranh luận vô cùng sôi nổi, Đỗ Văn Hạo trông thấy trên nét mặt của bọn họ vẫn không tin rằng ông trời tự nhiên ban phát cho họ một cơ hội kiếm tiền tốt đến như vậy, tất cả đều không biết chuyện này đối với họ liệu có nguy hiểm gì không? Chính vì vậy mà lúc này vẫn chưa quyết định xong được vấn đề.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười nói: “Các vị bàn bạc thế nào rồi? Đã quyết định hợp vốn làm cổ đông chưa?”
Hội buôn gạo lúc này không ai dám lên tiếng trả lời, chỉ im lặng cúi đầu, không khí trong phòng bỗng nhiên trầm hẳn xuống.
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng cảm thấy khó xử vô cùng: “Sao vậy? Mọi người không muốn cho vay mượn kiếm tiền nữa hay sao?”
Một người cao tuổi trong số bọn họ bèn đứng lên ôm quyền đáp: “Đỗ đại lão gia! Không phải bọn thảo dân không muốn kiếm tiền, nhưng mà…”
“Có gì cứ nói, đừng lắp bắp như vậy!”
Ở thời nhà Tống thì người ta ăn nói không được tự do như thời hiện đại, chỉ cần nói sai một câu là cũng có thể bị mất đầu, đặc biết là khi nói chuyện với người làm quan, chính vì thế mà những người trong hội buôn gạo lúc này đều vô cùng lo lắng, ai nấy đều đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo mà không dám lên tiếng, người cao tuổi kia lúc này cũng chỉ đưa mắt sang hai bên nhìn ngang nhìn dọc, rồi lại câm như hến.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười nói: “Lão tiên sinh có gì cứ nói, không phải lo lắng gì cả! Ta lúc trước cũng đã nói rồi, ta gọi mọi người đến đây là để bàn bạc làm việc, không hề có ý cưỡng ép ai cả, có gì thắc mắc cứ việc nói ra, nếu sau này mà có người vì chuyện ngày hôm nay mà bị quan phủ tìm đến, thì đích thân ta sẽ đến tận nhà người đó dập đầu tạ tội, các ngươi lúc đó thậm chí có thể chửi rủa ta cũng chẳng có vấn đề gì cả!”
Nghe Đỗ Văn Hạo đã nói hết nước hết cái như vậy rồi, thì người cao tuổi lúc nãy bèn hạ quyết tâm nói: “Vâng! Đỗ đại lão gia đã nói như vậy rồi, mà lão phu vẫn giữ kẽ như vậy thật không ra gì cả, dù sao tính mạng của mọi người cũng đều do đại lão gia một tay cứu giúp, nếu không có đại lão gia ra tay đánh đuổi quân giặc thì giờ này người thân từ lớn đến nhỏ trong nhà của lão phu cũng đã phơi xác ngoài đường rồi, lão phu giờ đây cũng đã bảy mươi rồi, còn có gì để mà phải sợ nữa!”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Lão tiên sinh không phải lo lắng gì cả, ta đem danh dự của ta ra đảm bảo với lão tiên sinh rằng lão tiên nói ra bất kỳ điều gì đều không có tội!”
“Đa tạ Đỗ đại lão gia!” Lão tiên sinh trong hội buôn gạo bèn cúi người nói: “Hội buôn gạo chúng tôi đúng là chưa từng gặp qua thể loại công ty mà đại lão gia để cập đến bao giờ, cũng chưa từng tham gia vào bao giờ cả! Đại lão gia nói vậy thì hội buôn gạo chúng tôi đều tin, nhưng về sau khi đại lão gia đi rồi, đổi một vị quan khác đến đây, ý của ông ta lại không giống với lão gia, hội buôn gạo lúc đó chỉ e rằng đem tiền đầu tư vào công ty sẽ khô ng thu hồi lại được thì sao?”
Sau khi lão tiên sinh kia nói xong thì những người khác cũng không nề hà gì nữa, tất cả đều nhao nhao xông lên hỏi Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo đúng là bị câu hỏi của lão tiên sinh kia làm khó, đúng là hắn đã nghĩ sự việc quá đỗi đơn giản rồi, cái cơ chế công ty này xuất phát từ Châu Âu, mà nơi đó thì ý thức về kinh tế cũng như pháp luật của bọn họ cũng đã có những cơ sở vững vàng, điều kiện phát triển kinh tế thị trường cũng thuận lợi hơn Trung Quốc rất nhiều, người Trung Quốc thời xưa vẫn còn nặng nề nhiều quan điểm lạc hậu, cổ hủ, nhất là đối với việc làm ăn buôn bán thì rất dễ bị khinh thường, đặc biệt là thời nhà Tống, con buôn luôn có vị trí thấp nhất trong xã hội thời đó, vì vậy thành lập công ty là một việc xem trừng đơn giản nhưng lại rất khó.
Hơn nữa thời nhà Tống lại thuộc vào thời phong kiến, tư tưởng vua chúa nặng nề, từ cổ đên nay thời đại phong kiến Trung Quốc cai trị đất nước đều phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người, căn bản không có loại pháp chế nào tồn tại cả. Tất cả kể từ Hoàng Thượng cho đến dân chúng đều không có ý thức cơ bản về pháp luật, vậy mà chuyện thành lập công ty lại đòi hỏi cần có một bộ luật hoàn thiện và vững mạnh để bảo hộ, thì nó mới có thể phát huy được tác dụng, ví dụ như trách nhiệm hữu hạn của các cổ đông, chỉ có ở trong môi trường pháp luật mới có thể bảo vệ được quyền lợi của bọn họ, không có pháp luật thì lấy đâu ra làm chỗ dựa cho họ. Điều này lại trái ngược hoàn toàn với tình hình chính trị của nhà Tống lúc này, bởi vì yếu tố con người ở đây có thể quyết định mọi thứ, chỉ cần ta làm quan thì ta là cha mẹ của ngươi, ta muốn gì ngươi cũng phải theo, ta muốn cổ đông giải tán thì các ngươi phải giải tán, ai không nghe thì gô cổ nó bắt vào nhà lao là xong chuyện!
Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên cũng không bao giờ có thể từ bỏ dễ dàng được, pháp luật cũng phải đi lên từ yếu tố con người. Không phải bất kỳ nước nào khi mới thành lập đều có một bộ luật hoàn hảo để duy trì trật tự ngay được cả, pháp luật cũng đều phải từng bước từng bước mà hoàn thiện. Đỗ Văn Hạo nghĩ rằng hắn cũng có thể thực hiện được điều này, bắt đầu từ Nhã Châu làm nên, hắn sẽ biến Nhã Châu dần dần thành một nơi pháp trị, chỉ cần hắn không làm gì ảnh hưởng đến quyền lợi của Hoàng Thượng, không động đến hiến pháp, không vận động dân quyền, không dây dưa đến Hoàng quyền, thì biến Nhã Châu thành một nơi pháp trị như hắn muốn là hoàn toàn có thể, chỉ là công việc phải từ từ từng bước một hoàn thành, không được hấp tấp vội vàng.
Đỗ Văn Hạo nói: “Hoàng Thượng đã ủy quyền cho bổn quan tiến hành biến pháp ở Nhã Châu rồi, mà đã biến pháp thì phải có một bộ pháp lệnh hoàn chỉnh, bộ pháp lệnh này sẽ thông báo cho toàn bộ dân chúng trong Nhã Châu này biết, mọi người đều có thể giám sát nó, dĩ nhiên sự lo lắng của các vị ta cũng hiểu được. Thế này vậy! Ta ở đây đảm bảo cho các vị, trước khi ta rời khỏi đây, những cổ đông đã đầu tư vào đây lúc đó sẽ được quyền rút tiền lại, để bảo vệ quyền lợi của mình, quyết định này của ta cũng sẽ được viết vào trong bộ tư pháp mới sắp ban bố của ta.”
Lão tiên sinh trong hội buôn gạo nghe vậy bèn lên tiếng hỏi: “Không biết ai sẽ là người đại biểu triều đình gia nhập vào trong công ty?”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Ta và hai vị đại nhân sau khi thương lượng xong, để quyền lựa chọn này cho các vị cổ đông! Việc này đều do cổ đông toàn quyền quyết định!”
Lão tiên sinh kia nghe vậy bèn lắc đầu nói: “Câu nói này có lẽ sẽ đắc tội với đại nhân mất, nếu như chưa xác định người nào làm đại biểu gia nhập thì e rằng chẳng có ai dám gia nhập làm cổ đông cả!”
Mọi người khác thấy vậy cũng gật đầu tán đồng, bọn họ đều hiểu quá rõ tác phong làm việc của quan lại ra sao, chỉ cần làm quan thì cho dù chức quan đó bé tẹo như hạt vừng thì cũng là quan, là phụ mẫu của dân, đều có quyền đứng trước mặt dân mà gào thét ra lệnh.
Đỗ Văn Hạo lại bị câu nói này làm cho á khẩu, điểm này hắn cũng chưa hể nghĩ đến, nên đành bất đắc dĩ hỏi lại lão tiên sinh kia: “Vậy ngươi nói xem ta phải làm thế nào đây!”
Lão tiên sinh kia liền cúi người cung kính đáp: “Bẩm đại lão gia! Chủ ý đều do lão gia nghĩ ra, lão gia lại rất hiểu biết về vấn đề này, nếu công ty đầu tiên thành lập mà không có sự tham gia của lão gia thì e rằng chẳng có ai biết nên điều hành nó ra sao cả. Nếu như không phải lão gia tham gia vào làm đại biểu thì người khác không biết sao chứ lão phu nhất quyết không tham gia làm cổ đông!”
“Ta ư?” Đỗ Văn Hạo vô cùng ngạc nhiên, hắn đưa mắt lên nhìn Tô Thức, rồi lại quay sang nhìn Hàn Tu, rồi quay sang nói với lão tiên sinh kia: “Nhưng theo quy định thì sau khi gia nhập vào công ty thì ta không còn được phép quản lý các mảng khác nữa, mà Hoàng Thượng đã đích thân bổ nhiệm ta làm chức Câu Quản ở đây rồi, ta không thể từ chức để gia nhập công ty cùng các ngươi được!”
Hàn Tu cũng là một người am hiểu tinh tế, ngày xưa ông là một người ủng hộ biến pháp của Vương An Thạch nhiệt tình nhất, đã từng là trợ thủ vô cùng đắc lực trong công cuộc biến pháp của Vương An Thạch, hai mươi năm biến pháp làm cho Hàn Tu am hiểu được rất nhiều thứ, trong đó ông biết rằng biến pháp bước đầu tiên là vô cùng quan trọng, nếu thành công được thì sẽ có được một cơ sở vô cùng vững chắc làm bệ phóng cho thành công sau này, do vậy Hàn Tu liền thấp giọng nói: “Đỗ Ngự Y! Bổn quan thấy lời nói của lão tiên sinh này cũng rất hợp lý! Cái cơ chế làm việc của công ty ra sao thì ngoài đại nhân ra, ai cũng chẳng hiểu gì cả. Nếu như đại nhân không tham gia, thì mọi người cũng không biết vận hành nó. Mặt khác, sau khi đại nhân đánh đuổi quân giặc khỏi đây thì vị trí của đại nhân trong long dân chúng là rất cao, chỉ cần có sự hiện diện của đại nhân trong công ty thì mọi việc sẽ được giải quyết ổn thỏa, như vậy cũng dễ dàng để đánh bóng tên tuổi cho công ty hơn!”
Tô Thức lúc này cũng nói chen vào: “Hàn tướng quân nói rất đúng! Hay là như vậy, chúng ta cứ để Đỗ đại nhân vào đảm nhận chức vụ đại biểu xong rồi phái thêm một người nhanh nhẹn, biết cách làm ăn đi theo học hỏi đại nhân. Chờ cho mọi việc vào guồng xong, mọi nếu thấy người đi theo học Đỗ đại nhân đã đủ tư cách thay thế thì để người đó lên thay Đỗ đại nhân luôn. Sau khi Đỗ đại nhân rút ra khỏi công ty thì sẽ lại tiếp tục công việc hành chính của mình. Dĩ nhiên trong thành phần cổ đông thì Đỗ đại nhân và người đi theo nếu có tham gia bỏ phiếu biểu quyết thì cũng chỉ được tính một phiếu thôi, các vị thấy ta giải quyết như vậy có được không?”
Mọi người nghe Tô Thức nói vậy xong thì đều vỗ tay tán thưởng.
Lão tiên sinh kia lại hỏi tiếp: “Vậy trong công ty thì ai là người cầm đầu? Chúng ta có phải bầu một người nào lên lãnh đạo không?”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Dĩ nhiên là cần chứ! Người lãnh đạo công ty gọi là chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng phàm tất cả các việc quan trọng trong công ty thì chủ tịch không được phép tự ý quyết định, mà phải thông qua cổ đông bỏ phiếu quyết định. Những việc nào mới được coi là việc quan trong? Cái này thì phải xem tình hình cụ thể ra sao, ví dụ như có một cổ đông mới gia nhập, cổ đông cũ rút lui, khuếch trương quy mô…v..v.. Cổ đông trước khi quyết định một việc trọng đại đều phải bỏ phiếu biểu quyết theo số nhiều mới được ra quyền quyết định. Thế nào gọi là biểu quyết đa chiều? Cái này có nghĩa là phiếu bầu nhiều, và cổ phiếu nhiều, điều này có nghĩa là khi quyết định một việc nào đó, thì số phiếu bầu đều phải nhiều hơn một nửa tổng số phiếu bầu, và số cổ phần của cổ đông cũng phải nhiều hơn một nửa số cổ phần của công ty!”
Mọi người nghe xong thì ngay lập tức bàn luận xôn xao, dường như ai cũng lộ vẻ mặt hớn hở sung sướng, bởi vì quan phủ thường là bên có cổ phiếu nhiều hơn số cổ đông còn lại trong công ty, nên sử dụng cách biểu quyết đa chiều này thì cho dù quan phủ có cổ phần nhiều hơn cổ đông khác bao nhiêu thì chỉ cần số lượng phiếu bầu không đủ vượt quá một nửa tổng số phiếu bầu thì bọn họ cũng chẳng có quyền quyết định được. Như vậy thì quyền lợi của các cổ đông khác, nhất là những cổ đông nhỏ đều được bảo vệ rất an toàn.
Lão tiên sinh kia trầm ngâm giây lát rồi lại lên tiếng hỏi: “Vậy những cổ đông rút lui thì số nợ của công ty phải làm thế nào đây?”
“Cổ đông trước khi rút lui phải chịu trách nhiệm gánh nợ cùng với công ty, do vậy khi rút lui phải thanh toán đầy đủ số tiền mình phải chịu trách nhiệm, sau khi thanh toán đầy đủ rồi thì lúc đó mới được phép rút lui!”
“Đây chỉ là Đỗ lão gia nói mà thôi, lão gia còn ở đây thì chúng tôi tin, nhưng mai sau, khi lão gia không còn ở đây nữa, thay vào đó là một vị quan khác đem cái chế độ này phế bỏ đi thì lúc đó chúng tôi vẫn phải chịu trách nhiệm trả nợ cho công ty sao? Như vậy thì thật là không công bằng!”
Đỗ Văn Hạo lại bị lão tiên sinh này hỏi cho cứng đơ cả lưỡi lại, điều này không những có thể xảy ra, mà khả năng xảy ra điều đó là rất cao, muốn giải quyết vấn đề này, thì hắn chỉ còn mỗi cách là ban bố pháp lệnh, nhưng cái này lại vô cùng khó thực hiện. Cho dù không được triều đình trực tiếp ban bố pháp lệnh đi chăng nữa, thì cũng phải có sự đồng ý của triều đình mới được ban bố pháp lệnh, như vậy mới được coi là hợp lệ, dân chúng mới yên tâm.
Nhưng, đây không phải là một chuyện dễ dàng chút nào, muốn triều đình đồng ý thì phải thông qua rất nhiều các tầng, các cấp, sau đó lại phải xem ý tưởng của Hoàng Thượng ra sao, nhưng đó cũng chưa phải là bước cuối cùng, vì một khi triều đình đồng ý thì cũng đồng nghĩa với việc cả nước được phép ban bố sắc lệnh của Đỗ Văn Hạo, như vậy mặc dù biến pháp của hắn chỉ được phép cải cách ở Nhã Châu thôi, nhưng thông qua việc ban bố sắc lệnh này mà làm ảnh hưởng đến toàn quốc, và gây nên một nỗi niềm bất an trong toàn dân chúng, đây không phải là điều mà Tống Thần Tông mong muốn. Tống Thần Tông đúng là muốn xem kết quả của biến pháp của Đỗ Văn Hạo ra sao, nhưng cũng không muốn biến pháp của hắn làm chấn động toàn quốc như vậy, đây cũng là lý do tại sao mà Tống Thần Tông đưa hắn ra tít tận Nhã Châu để tiến hành biến pháp.
Đỗ Văn Hạo cũng hiểu điều này, nên khi hắn đang định mở miệng giải thích thì Tô Thức đã cướp lời hắn nói: “Các vị! Làm ăn thì bao giờ mà chẳng phải mạo hiểm, cái này thì không cần bổn quan phải nhắc nhở các vị cũng biết đúng không? Bây giờ Đỗ đại nhân mở ra con đường kiếm tiền cho các vị rồi, có cơ hội kiếm tiền thì cũng phải có khả năng bị mất tiền chứ! Bất kỳ kinh doanh thứ gì thì hai chữ được và mất luôn luôn song hành, nếu như lúc nào cũng nhăm nhăm trong đầu kiếm tiền mà không chịu mạo hiểm thì tốt nhất đừng kinh doanh nữa cho mệt xác!”
Lão tiên sinh kia nghe xong liền gật đầu tán đồng đáp: “Chi Châu đại nhân nói chí phải! Được! Lão phu đồng ý gia nhập! Dù sao thì tính mạng gia đình lão phu cũng là do Đỗ đại nhân ra tay cứu giúp mới được sống sót, cho dù có bị thua lỗ thì cũng coi như là báo đáp ơn cứu mạng của Đỗ đại nhân!”
Lão tiên sinh nói câu này làm cho người khác cảm thấy ngược đời, người ta rõ ràng là có ý bày ra cơ hội cho ông ta kiếm tiền, còn nói đây là tự nguyện, ông ta không muốn làm thì thôi, chẳng ai ép, thế mà lúc nào cũng ngoài miệng nói rằng nhờ ơn Đỗ đại nhân cứu giúp mới được bảo toàn sinh mạng, ông ta tham gia vào công ty là để trả ơn Đỗ Văn Hạo, đúng là lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng lưỡi của bọn gian thương luôn luôn xảo quyệt như vậy! Không lúc nào là không sợ thua thiệt. Nhưng Đỗ Văn Hạo không hề oán trách ông ta, mà cho rằng dù sao ông ta cũng đã ủng hộ hắn do vậy hắn liền đưa tay lên nói: “Đa tạ lão tiên sinh đã ủng hộ và tin tưởng! Lão tiên sinh muốn mua bao nhiêu cổ phiếu?”
Lão tiên sinh e dè hỏi: “Quan phủ bây giờ đã có bao nhiêu cổ phiếu rồi?”
“Toàn bộ công ty đã phát hành một ngàn cổ phiếu, một cổ phiếu tương đương với một gánh lương thực, cũng có nghĩa là công ty sau khi thành lập sẽ có hai mươi vạn cân lương thực để cho vay mượn, như vậy là cũng đủ rồi, nếu như vẫn không đủ thì công ty sẽ tăng thêm cổ phiếu, hoặc thành lập một công ty khác để phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, công ty cũng có thể cho vay ngân lượng, vì vậy công ty vẫn còn phải có thêm cổ phiếu để đổi lấy ngân lượng, chúng ta sẽ chiếu theo tỷ lệ lương thực mà tính ra tỷ lệ ngân phiếu mà phát hành cổ phiếu, tổng mức có thể lên đến mười vạn lượng. Về sau nếu cần sẽ có thể gia tăng, nhưng vì biến pháp quy định chính phủ không được phép giữ quá một nửa số cổ phiếu của công ty, nên chính phủ chỉ mua bốn trăm chín mươi cổ phiếu thôi! Lão tiên sinh định mua bao nhiêu vậy?”
“Ồ, vậy…vậy thì.. vậy thì…” Lão tiên sinh ngẫm nghĩ một lúc rồi mới e dè nói: “Cho ta mua mười cổ phiếu!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì suýt ngất, thời nhà Tống thì một gánh thóc tầm khoảng một trăm hai mươi cân, mười gánh thóc là một ngàn hai trăm cân. Dân số gia đình thời đó thường là năm người một nhà, từ bây giờ cho đến vụ thu hoạch sau vẫn còn ba tháng, mỗi một hộ dân một tháng ăn hết năm mươi cân lương thực, ba tháng là một trăm năm mươi cân. Điều này nói lên rằng, mỗi một hộ dân thường thì vay mượn một trăm năm mươi cân là đủ dùng đến vụ mùa rồi, lão tiên sinh mua cổ phiếu chưa đủ số lượng mười hộ dân vay mượn như vậy đúng là…
Nhưng khuôn mặt của Đỗ Văn Hạo vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh hàng ngày, hắn không hề tỏ ra giận dữ, bước đi đầu tiên bao giờ cũng vô cùng khó khăn, nói cho cùng thì vị tiên sinh này cũng đã giúp hắn có được bước đi đầu đời trên con đường biến pháp rồi, chính vì thế mà hắn phải cổ vũ ông ta, quyết không được nặng lời: “Rất tốt! Mười cổ phiếu đã thuộc về lão tiên sinh rồi! Còn có ai muốn mua cổ phiếu nữa không?”
Những người buôn gạo khác lúc này đều giương hai mắt ra nhìn nhau, một lúc lâu sau có thêm hai người nữa bước ra, mỗi người lại mua thêm mười cổ phiếu nữa.
Đang trong lúc Đỗ Văn Hạo cảm thấy thất vọng tràn trề về sự quá dè dặt trong kinh doanh này, thì có một người tai to mặt lớn trông rất ra dáng một người làm ăn lớn, đứng ra hét lớn: “Mấy người bọn ngươi coi đây là trò trẻ con hay sao? Cầm có mỗi mười cổ phiếu mà đòi đi buôn à, về mà cầm thóc nuôi gà nuôi vịt đi cho xong! Mẹ kiếp! Ta đem hết số lương thực trong nhà của ta đổi ra hết cổ phiếu! Ta vừa tính rồi, tổng cộng ít nhất cũng phải hai trăm bảy, tám mươi cổ phiếu!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mừng rỡ vô cùng, cuối cùng cũng có người biết làm ăn thật sự xuất hiện, hắn liền tiến lên chắp tay nói: “Xin hỏi vị đại ca này danh tính là gì vậy?”
Người to lớn kia vội vã đáp lại: “Bẩm đại lão gia Tại hạ…à không! Tiểu nhân họ Mễ, là người con thứ mười trong nhà! Mọi người thường gọi là Mễ Thập Nhị”
Người Trung Quốc khi xưa nhà đông con thì có nghĩa là nhiều phúc, do vậy mà người Trung Quốc vì muốn thể hiện nhà mình nhiều phúc nên đều tự nhận mình là người con thứ mười trong nhà, thực chất vị Mễ đại ca này là con thứ hai trong nhà, nhưng lại cứ nhận như vậy là cố ý để cho người khác biết, nhà của anh ta vô cùng lắm của, lắm phúc mà thôi (Ngoại trừ Hoàng Thượng, và mấy người năm thê bảy thiếp ra, chứ nhà bình thường chắc chẳng có ai đẻ được nhiều như vậy cả!)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com