Chương 17 - Bí mật của tôi (5): Anh chăn bò
Chúng tôi đứng trên đường lớn suốt từ khi những chiếc bóng vẫn còn in nghiêng cho đến khi chúng sắp hoà làm một với bản thể, chẳng thấy chiếc xe mà người đàn bà đã nói rằng sẽ đến rước chúng tôi đâu cả. Thỉnh thoảng nghe thấy tiếng xe kéo đang đi đến, chưa kịp trông thấy bóng dáng chiếc xe đâu bà già đã có vẻ bồn chồn, nhưng rồi khi nhận ra những cỗ xe thô sơ đó là của các bác nông dân, bà già chỉ lắc đầu vẻ hụt hẫng rồi lại tiếp tục lặng im chờ đợi.
"Bà có chắc là hôm nay xe sẽ đến không? Có lẽ bà nhớ nhầm ngày chăng?"
"Không thể nào. Trong thư ta đã ghi rõ là ngày mười bốn ông ngoại con sẽ phải cho người đến đón chúng ta ở đây."
"Bà có nhận được thư hồi âm không ạ? Nếu ông ấy đã đọc thư của bà hẳn là sẽ gửi lại một lá thư xác nhận."
Người đàn bà trông có vẻ hoang mang.
"Thư hồi âm sao? Hình như... ta không nhớ có lá thư hồi âm nào cả."
Thật ra tôi cũng đã đoán được phần nào. Trong tình trạng bà ta hiện nay rất khó để cam đoan tính chính xác của những mẫu ký ức. Vậy là tôi kéo tay áo bà ta, nhẹ nhàng đề nghị:
"Hay là chúng ta đi bộ được không ạ? Chúng ta đến thăm ông... ờ... ngoại... trước rồi sau đó đi cùng ông đến trường dự bị sẽ tiện hơn. Dẫu sao không có sự giới thiệu của ông, chỉ có mỗi cháu và bà thì người ta không mở cửa cho vào đâu. Bà còn nhớ đường đi chứ?"
Hai chúng tôi một già một trẻ, toàn thân bẩn thỉu gớm guốc, dắt tay nhau đi trên con đường vắng vẻ khiến những bác nông dân đang gặt lúa mì dưới cánh đồng phải ngước đầu nhìn.
Đi được một hồi lâu, bà già có vẻ mơ hồ chẳng biết phải rẽ hướng nào, tôi đành phải lao xuống cánh đồng túm lấy một bác nông dân để hỏi.
"Bác có biết trang viên nhà Rhodes ở Cathail đi đường nào không ạ?"
"Cathail? Còn xa nữa mới tới. Các người cứ thẳng hướng đông bắc mà đi, nhưng đi bộ thế này thì chẳng đến được Cathail trong ngày đâu."
"Vậy bác có biết đường đi Học viện dự bị... cái gì mà... chánh quan ở Blanchill không ạ?
"Học viện Nội các? Thế thì phải đi hướng đông nam. Nếu khởi hành từ giờ đến thủ đô cũng chập choạng tối, đến Học viện chắc là cũng tầm ấy."
Vậy là Cathail và học viện nằm ở hai hướng khác nhau. Đành phải đi xa một chút để gửi gắm bà ấy cho gia đình vậy. Tôi cảm ơn bác nông dân rồi lại chạy về bên người đàn bà.
"Bác ấy bảo là đi Cathail xa lắm. Tối nay chắc cháu và bà phải tìm nơi nghỉ chân thôi rồi sáng mai chúng ta đi tiếp."
Người đàn bà gật đầu.
Rồi chúng tôi tiếp tục đi. Trên đường tôi đã cố tình ngó lơ tiếng hai cái bụng đói cồn cào cứ kêu rọt rẹt vì tôi sợ rằng một khi dừng lại tôi sẽ chẳng còn sức đâu mà đi tiếp. Nhưng khi trông mặt người đàn bà có vẻ tím tái đi nhiều, vừa may cạnh con đường có vườn hồng đang say trĩu quả, tôi bảo bà ta ngồi đợi rồi chạy vào xin được hai quả hồng mềm mại đỏ au.
"Bà mau ăn đi nhé. Tối qua bà nhường cả cho cháu còn gì." Tôi vừa nói vừa bóc vỏ quả hồng đưa cho bà già. "Lần sau bà định đi đâu thì phải nhớ mang quần áo theo. Bác chủ vườn vừa trông thấy cháu đã giật mình suýt ngã từ trên cây. Bác ấy sợ nên chỉ cho hai quả rồi đuổi cháu đi nhanh nhanh."
Người đàn bà gật đầu rồi thong thả ăn quả hồng tôi đưa.
Không biết đã bao giờ bà ấy được bình yên như thế này chưa, vì dường như trong đôi mắt bà dõi về phía xa xa ánh lên những tia nắng cuối chiều, và khoé miệng bà khẽ nhếch lên trông hạnh phúc lạ thường.
"Con có muốn biết" người đàn bà đột ngột hỏi tôi, "cha ruột con là người như thế nào không?"
"À... vâng," tôi bối rối đáp lời. Dù chẳng phải việc của tôi nhưng nghe qua một chút chắc là không sao nhỉ.
Bằng giọng điềm đạm, người đàn bà bắt đầu.
"Reytlor là một chàng trai đôn hậu. Khi bé chàng thường chạy việc vặt cho lão làm vườn lâu năm của nhà ta, nhưng lần đầu tiên ta được tiếp xúc và có ấn tượng sâu sắc về chàng là khi chàng cứu ta khỏi bọn nhóc trấn lột đầu đường xó chợ trong một chuyến dạo chơi bí mật ngoài thị trấn. Chân ta đau và chàng đã cõng ta về điền trang, dù đường rất xa và chàng cũng chẳng lớn hơn ta nhiều lắm. Ta thấy chàng dễ thương, và sau lần đó, mỗi khi ngắm chàng đang làm việc từ xa, ta lại càng thấy chàng dễ thương hơn những lần trước. Dần dần ta đã cảm mến chàng, ta ao ước được làm vợ chàng, dù chẳng mấy khi có dịp để ta có thể đến gần chàng. Ta biết chàng cũng để ý đến ta, vì mỗi sáng thức dậy đều có một nhành hoa tuyệt đẹp được đặt trên bệ cửa sổ phòng ta. Tình yêu của chúng ta đã bắt đầu lặng thầm và dịu dàng như thế.
Vài năm sau đó, Reytlor được cha ta gửi đi học việc cho một tên kỵ sĩ. Nhưng tên kỵ sĩ đó là một gã bất tài. Hắn giao hết cho Reytlor mọi việc từ đóng móng ngựa, đánh bóng vũ khí, đến cưỡi ngựa chiến đấu trong các cuộc tranh tài hiệp sĩ. Trong một cuộc so tài dưới danh nghĩa gã kỵ sĩ, chàng đã từ chối đâm chết đối phương, khiến gã kỵ sĩ mất mặt và hắn đuổi chàng về lại trang viên.
Tất nhiên sự trở về của chàng làm ta hạnh phúc lắm. Ta đã nhớ nhung chàng biết bao nhiêu. Ta lén ra vườn hoa gặp chàng, một đêm, hai đêm, rồi dần dần, hầu như đêm nào ta cũng đến. Mẹ ta mất sớm, cha ta lại xa cách, chỉ mỗi chàng nâng niu ta, trân trọng ta, đưa ta vào vương quốc say đắm ngọt ngào, cho ta nếm thử dư vị dâng trào cảm xúc, dạy ta biết thế nào là tình yêu - thứ tình cảm mà cha ta không bao giờ nhắc tới."
Nói đến đây, người đàn bà đột nhiên thở dài.
"Ta khao khát chàng. Ngoài tiền bạc, chàng có tất cả mọi thứ mà những gã thanh niên nhà giàu không có được. Chàng cao to, chàng ưa nhìn, chàng khoẻ mạnh, chàng chăm chỉ, chàng tốt bụng. Bọn hầu nữ cứ nhìn chàng thèm khát. Bọn chúng không hề dè dặt đề cập đến chàng và làm sao để chàng xiêu lòng chúng nó. Vậy nên ta đã có một quyết định, ta muốn chàng hoàn toàn thuộc về ta, chỉ một mình ta. Nhưng ta đã không biết rằng một khi chàng trở thành chồng ta, mọi nỗ lực phấn đấu cả đời chàng đều không thể bù đắp được gánh nặng chăm sóc một người vợ xuất thân từ tầng lớp khác."
Đôi con mắt bà già long lanh, từng giọt từng giọt rơi ra. Giọng bà ta run run, nhưng câu chuyện vẫn còn tiếp tục.
"Vì nghèo khó mà chúng ta cãi nhau nhiều, nhưng không vì thế mà chúng ta hết yêu nhau. Bằng chứng là con, sự tồn tại của con là mình chứng cho tình yêu của ta và chàng. Từ khi có con ta đã biết sống cần kiệm hơn. Ta nhận làm công việc quay len kéo sợi, một công việc mà khi là một tiểu thư ta không bao giờ phải đụng tay tới, vì ta muốn con lớn lên được no ấm đủ đầy. Những đồng tiền ít ỏi ta kiếm được ban đầu đã giúp gia đình chúng ta bớt vất vả phần nào. Cả nhà ta lẽ ra đã hạnh phúc từ đó.
Cha con không phải một người hay tính toán thiệt hơn. Chàng nhiệt tình, tốt bụng và thành thật. Nhưng chính những đức tính ấy đã lấy đi của chàng khả năng cảnh giác trước những lão cáo già như Wilmot. Dẫu vậy, khi biết mình bị lừa, chàng không nề hà mà phản kháng. Một người không ra tay kết liễu đối thủ không có nghĩa là người đó không có khả năng sát thương. Nhưng một khi người đó đã vung kiếm lên thì chắc chắn đấy sẽ là trận tử chiến. Cha con là người như thế. Một người như thế lại chọn cách tự sát vì tiền, có chết ta cũng không bao giờ tin. Ta đã thề sẽ trả thù cho chàng, và cuối cùng ta đã làm được."
Rồi ba ta quay về phía tôi, nắm lấy bàn tay tôi giữ trong lòng bà.
"Con giống cha con, cũng ưa nhìn, chăm chỉ và tốt bụng hệt như ông ấy. Điều đó khiến ta sợ rằng rồi sẽ có ngày ta cũng đánh mất con. Ta biết việc ta làm cũng độc ác chẳng kém gì lão già Wilmot, nhưng ta làm tất cả là vì con. Xin con đừng ghét ta, đừng giận ta, xin đừng bỏ lại ta, được không con?"
Câu chuyện buồn kết thúc. Suốt cả quãng đường đi ấy, chúng tôi chẳng nói gì với nhau nữa. Lòng tôi bề bộn, cơ thể mỏi mệt của tôi nhói đau mãi không thôi. Người đàn bà đang mong chờ điều gì ở một kẻ xa lạ như tôi? Tôi cứ tự hỏi bản thân mình. Một người như tôi có đáng để bà phó thác nhiều hy vọng như thế không? Những câu hỏi cứ bủa vây, và tôi nghĩ, có lẽ điều tệ nhất khi phải làm một việc khó chính là đánh mất bản thân mình.
Chúng tôi tiếp tục men theo đường lớn mà đi, lúc đói khát lại xin nhờ ai đó. Đêm đến chúng tôi rẽ vào đồng cỏ xen kẽ những khu rừng già, lót lá cây làm giường, mái nhà là bầu trời đêm thoáng đãng ngập tràn ánh sao sa. Cảnh đêm tuyệt diệu phần nào làm lòng tôi vơi đi những cảm xúc hỗn loạn.
Tôi nhớ lại hồi Fig còn ở nhà, thỉnh thoảng tôi lại kéo đứa bạn ra trước cửa căn chồi giả vờ chơi trò cắm trại. Cũng đều nằm giữa thiên nhiên và trước mắt là dải ngân hà đầy tinh tú, nhưng cảm giác ngủ trong rừng giữa những rạng cây cao chót vót và một cái hõm trời chỉ đủ để thấy một vùng thiên không khác hẳn cảm giác ngủ giữa đồng cỏ mênh mông không một thứ gì che đi tầm mắt.
Thì ra là thế này... thì ra là thế...
Vẻ tráng lệ rực rỡ của bầu trời những đêm hè hôm ấy thật khó có thể miêu tả bằng bất cứ mĩ từ nào. Nếu vũ trụ là một nàng tiên, thì chiếc váy đen tuyền dệt bởi vô vàn những vì sao lấp lánh như những hạt kim sa khiến tôi gục ngã, ngã vào trái tim nàng là mảnh trăng ánh bạc tròn đầy sáng tỏ trên cao. Tôi muốn thốt lên rằng tôi đã bị nàng mê hoặc. Tôi yêu mến nàng biết bao, tôi say đắm nàng, tôi sẵn sàng chết để được bay đến bên nàng, lao vào vòng tay nàng, dù cho sức mạnh từ đôi tay ấy nghiền nát tôi, vĩnh viễn khiến tôi hoà mình vào một chiều không gian bao la vĩnh cửu.
Nàng tiên ấy đã ban phát cho tôi một sức mạnh, để tôi ngỡ mình đã sống trọn vẹn cõi đời này, với một trái tim tràn đầy hạnh phúc không vướng bận dù chỉ một chút sầu bi.
Giấc ngủ sau đó đến với tôi khá nhanh. Tôi không nhớ mình đã mơ thấy những gì, nhưng trong giấc mơ cơ thể và khối óc tôi hoàn toàn trở nên thư thái. Tôi quên mất đôi chân mỏi nhừ vì đi bộ đường dài, cũng chẳng bận tâm cái bụng teo tóp đã tiêu hoá hết sạch đồ ăn. Cái thân thể đau nhứt do vận động mạnh kéo dài lẽ ra phải hành hạ tôi về đêm nay lại hoàn toàn hồi phục. Và cứ thế, những nơ ron thần kinh trong đầu tôi giãn ra, giũ sạch những phiền muộn đắn đo, trả chúng về với bầu trời cao ấy.
Sáng ngày thứ tư, tôi thức giấc trong bãi nước bọt của một con bò. Cái mặt đần độn của nó cứ dúi vào đầu tôi mà liếm láp khiến cái khăn buộc rơi ra, để lộ cái đầu húi cua màu xám tro xấu đau xấu đớn. Vậy là những gì đẹp đẽ đến với tôi những đêm qua đã hoá thành công cốc.
"Đi ra! Tao không phải cỏ của mày!" Tôi quát.
Nhưng con bò chẳng sợ tí nào. Nó cứ lè lưỡi liếm cái đầu của tôi như một người yêu mèo nghiện cảm giác bị mèo liếm, mà so sánh thế thì có phần hơi khập khiễng, vì bọn mèo nào có chủ động đi liếm người bao giờ.
Dẫu sao thì vì con bò mà mới sáng sớm tôi đã phải chửi thề:
"Biến ngay! Đầu đã không có tóc mà cứ liếm liếm liếm thì tóc nào mọc được!"
Người đàn bà không biết vừa nãy đã đi đâu mà giờ mới xuất hiện. Bà ta thích thú đứng nhìn tôi vật lộn với còn bò một một lúc rồi mới dụ nó đi bằng một nhúm quả rừng xanh dương chín mộng. Con bò mắt sáng rỡ phủi đít quay đi, bỏ lại tôi trong tình trạng bấy nhầy bực mình không chịu nổi.
Tại con bò mà tự dưng phải đi tắm. Giờ thì chẳng biết lấy quần quần áo sạch đâu mà mặc.
Sau khi dẫn con bò ra xa chỗ tôi, người đàn bà cầm cái chăn mà chúng tôi đã từng dùng để gói nến, bảo tôi:
"Con bẩn rồi. Mau theo ta ra suối để ta tắm cho con nào."
Không đời nào, tôi cáu kỉnh, dù chỉ là đứa trẻ nhưng tôi không muốn bất cứ ai trông thấy mình khoả thân. Kể cả Fig, cả cô Bennett, cả bác Paul.
"Thôi ạ, bà để cháu tự đi."
Tôi cầm cái chăn đi ra suối, nhưng người đàn bà cứ nhất mực đi theo mặc cho tôi đã từ chối nhiều lần. Đây là lần đầu tiên sau khi đến xứ sở này, tôi cảm thấy phiền hà và cáu bẩn đến như vậy.
"Con không thể đi một mình được đâu! Nguy hiểm lắm!"
"Cháu đã bảo là cháu không thích rồi mà! Bà ra kia ngồi đợi đi!", tôi hét lớn.
Người đàn bà ngay lập tức sượng trân. Nụ cười trên môi bà ta dần tắt ngủm, thay vào đó là vẻ mặt nhăn nhúm như thể đang nặn nước mắt rơi ra.
Bỗng dưng tôi thấy cực kỳ tội lỗi.
Rõ là tôi chẳng làm gì sai, chẳng hiểu sao phải gánh vác cái tội lỗi này. Vừa hối hận vừa bực mình, cơn giận trong tôi cũng vì thế càng lúc càng sôi sùng sục. Tôi ném trả chiếc chăn cho bà già rồi quay lưng bỏ đi, chẳng nói chẳng rằng, mặc bà ta muốn làm gì thì làm.
Tôi ngồi bên suối hùng hục tát nước lên đầu lên mặt. Cơn giận làm tôi loá mắt, và tôi quên hẳn chiếc khăn buộc đầu đang vắt lả lơi trên vai. Vậy nên sau vài lần cúi đầu, cái khăn rơi ra theo dòng nước trôi đi đâu mất. Khi tôi thấy bóng dáng cái gì quen quen như cái khăn của mình thì nó đã trôi tít đằng xa, loáng cái đã hoàn toàn mất dạng.
Đệt! Đến cả cái khăn cũng đổ lỗi cho mình!
Tôi bực dọc quay lại đồng cỏ, tìm một gốc cây to rồi ngồi dựa lưng vào đó, để mặc cho áo quần ướt nhem. Người đàn bà thì chẳng thấy đâu, nhưng vậy thì càng tốt, đợi quần áo khô rồi tôi sẽ một mình quay lại Làng Ngã Ba.
Dưới cái nắng hè chói chang, chắc là tôi đã ngủ được một hai giấc. Khi tỉnh lại mặt trước bộ quần áo đã tạm khô (mặt sau thì vẫn y nguyên lúc tôi vừa ngồi ở đó, thậm chí còn in vết hai bờ mông đẫm nước trên mặt cỏ), tôi đứng dậy định đi ngay thì nghe tiếng ai gọi mình.
"Nhóc đi đâu đấy? Hết giận rồi thì đến đây ăn cá nào."
Cách chỗ tôi ngồi hơn chục mét bỗng dưng xuất hiện một ông anh người ngợm đen đuốc gầy nhom, khuôn mặt hốc hác chỉ còn mỗi da bộc xương, miệng ngặm nhành hoa dại cười hếch lên tận mang tai, tay thoăn thoắt quay một cái gì đó trên đám lửa, làm khói bay mù mịt nhưng cũng toả ra cái mùi thơm thơm. Cạnh bên anh ta là người đàn bà dở hơi ấy. Bà ta ngồi khép nép trên một tảng đá nhỏ, chăm chú nhìn vật đang quay trên đống lửa của anh chàng.
Tôi định không trả lời nhưng ông anh lại một lần nữa gọi với theo.
"Không đói bụng à? Không nhanh chân lên là chú mày hết phần đấy nhé!"
"Anh là ai thế?" Tôi hét lớn.
"Chủ của con bò vừa bị chú mày đánh đuổi đây."
À à, thì ra là anh ta. Giờ thì tôi biết tìm ai để bắt đền rồi. Tôi cóc thèm đến, mà chỉ trả lời.
"Em không có đánh nó. Chính bò nhà anh gây sự trước. Nó liếm sạch tóc em rồi này!" Vừa nói tôi vừa chỉ chỉ cái đầu tròn xoe.
"Thế thì đến đây ăn. Coi như anh xin lỗi." Anh ta cũng chỉ chỉ tay vào con cá đang nướng và ra hiệu tôi đến gần.
Lẽ ra tôi sẽ không bị cám dỗ dễ dàng như thế. Nhưng mùi cá thơm quá, mà trông mặt ông anh này cũng chẳng có vẻ gì là nguy hiểm. Thế là tôi mon men bước qua chỗ anh ta. Tôi vẫn giận bà già, nên tôi chọn chỗ ngồi bên phía tay còn lại của ông anh, để lỡ bà ta mà khóc thì tôi còn chạy ngay cho kịp.
"Anh lấy con cá này ở đâu thế?" Tôi hỏi.
"Anh không 'lấy' ở đâu cả. Anh bắt được nó." Anh ta cười tươi rói.
"Ý em là từ đâu anh 'bắt' được con cá này?" Tôi vặn lại. Ông anh này rõ man mát hệt như con bò anh ta nuôi. Tôi có cần biết anh làm gì để có được con cá đâu.
"Từ chỗ con suối em vừa tắm đấy. Em không thấy à? Bọn cá bơi nhiều thế cơ mà."
"Vâng, em KHÔNG THẤY!" Gì đây? Ông anh này từ đâu chui ra định kiếm chuyện với tôi vậy?
Những tưởng anh ta sẽ bốp chát lại tôi, nhưng anh ta chỉ cười cười rồi tiếp tục quay cá. Con cá chín, anh ta lấy nó xuống để lên chiếc lá sung vĩ cầm. Con cá to vừa bằng cái lá, dài khoảng hai gang tay ông anh. Tức thật! Lớn thế vậy mà tôi lại không nhìn thấy nó!
"Ăn ngay hay đợi nguội?" Anh ta hào hứng hỏi.
"Đợi nguội đi ạ." Tôi đáp. Giữa đồng không mông quạnh thế này chẳng lấy đâu ra muỗng nĩa cho bà già được. Nếu phải ăn bóc tay thì tôi nghĩ tốt hơn là con cá nên nguội bớt để không làm bà già bị thương. Dù sao thì... bà ấy cũng lớn tuổi rồi.
"Được thôi." Ông anh tán thành. "Vậy trong lúc đợi nguội, quý bà đây có thể vui lòng hái giúp chúng tôi thêm một ít quả việt quất được không, thưa quý bà?" Vừa nói anh ta vừa quay sang người đàn bà, giọng trìu mến.
"Được thôi, ta rất sẵn lòng." Bà ta đồng ý rồi lại lẩn thẩn đi đâu mất, tuyệt nhiên chẳng đá động gì đến chuyện ban nãy.
Còn lại hai chúng tôi, ông anh tiếp lời.
"Ổn rồi. Giờ thì đến lượt chú nhóc. Anh phải nói cho chú bé biết rằng anh đây đã chứng kiến mọi chuyện và anh rất không hài lòng về lối cư xử của chú mày."
"Em chẳng làm gì sai cả." Tôi đáp, vừa mới quên đi đã lại bực mình.
"Chẳng làm gì sai cả à? Này nhé, có đứa trẻ ngoan nào lại cãi lời mẹ, ném đồ vào mẹ, rồi lại làm mẹ khóc như thế không? May là chú nhóc còn mẹ đấy nhé, chứ mẹ anh thì đã bỏ anh từ lâu rồi. Nên cái việc chú coi thường mẹ như thế làm anh chướng mắt lắm đấy."
"Bà ấy không phải mẹ em." Tôi gào lên.
Phỉ phui cái mồm! Vừa nói xong thì tôi chợt nhớ ra bà già rất nhạy cảm với câu này. Tôi ngó trước ngó sau xem bà ta có ở gần đây không. Hình như bà ta đang loay hoay làm gì đó trong bụi rậm, vậy là tôi sửa lại ngay lập tức.
"Ý em là... bà ấy là... mẹ... em. Nhưng em không muốn bà ấy tắm cho em. Anh hiểu không? Em lớn rồi và em có thể tự tắm cho mình."
"Anh đánh giá cao tinh thần tự lập của nhóc, nhưng so với anh thời anh vừa bị bỏ thì nhóc vẫn còn bé quá. Lại đây xem này, đấy đấy, chú nhóc thấy không? Nhóc còn chẳng đứng đến hông anh. Rồi giờ qua bên đây, một, hai, ba, thấy không? Anh chẳng phải hạng nặng cân mà còn vác nhóc lên như bó rau thế, vậy dưới làn nước suối chảy siết, lỡ xảy chân thì chú nhóc nghĩ chú có trụ lại được không?"
"Nhưng em bị thương," tôi bắt đầu nghĩ ra một lý do tạm bợ, "và... và... và anh xem này. Do em bị thương nên mới vây cả máu sang áo váy mẹ đây này. Mẹ em không được tỉnh táo cho lắm, nên em không muốn để mẹ thấy vết thương trên người em. Nếu không mẹ sẽ lại lo lắng mất."
"Ừ anh hiểu rồi. Nhưng ít nhất chú mày cũng phải nói với anh chứ. Anh là người lớn, và một người lớn tử tế thì sẽ không bỏ mặc đứa trẻ đang cần giúp đỡ. Nếu chú nhờ anh, anh có thể giúp trông nom chú bé mà. Vậy thì mẹ chú bé sẽ không cần lo lắng nữa. Và chú bé sẽ không cần gắt gỏng với mẹ như thế."
"Anh buồn cười thật! Em còn chẳng biết anh là ai. Mà nãy giờ em thấy anh kỳ lạ lắm nhé. Bỗng dưng anh xuất hiện rồi lại quan tâm những chuyện không liên quan đến mình. Rốt cuộc anh muốn gì?"
"Không không, không cần phải đa nghi như vậy." Anh ta lắc đầu. "Sáng nay lúc anh và Lucy đến thì trông thấy hai mẹ con nhóc. Bà phu nhân hỏi anh có gì cho chú nhóc ăn không, bà ấy sẽ trả anh một viên trân châu. Anh bảo anh không có, và trân châu anh cũng không cần. Nhưng anh biết chỗ có thể tìm thức ăn, và anh chỉ bà ấy bụi việt quất mà anh vẫn thường nhấm nháp. Bà phu nhân hái được một ít cho chú bé nên bà ấy vui lắm. Nhưng anh nghĩ tầm đó thì ít quá, thế là anh ra suối bắt một con cá cho mẹ con chú. À, có cái này anh nghĩ là chú nhóc sẽ thích-"
Vừa nói anh ta vừa lôi trong túi quần ra mảnh vài màu xanh xanh.
"Ôi trời, cái khăn buộc đầu của em." Tôi thốt lên, vui mừng cầm lấy cái khăn từ tay ông anh. Cái khăn đã khô ráo hoàn toàn và chẳng hề có mùi, hẳn là anh ta đã giúp tôi giặt và phơi dưới nắng.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ để xoá đi mối nghi ngờ trong lòng tôi.
"Vậy là bỗng dưng anh gặp một người lạ và anh muốn làm người ta vui để anh bớt rảnh rỗi. Nghe như mặt trời mọc đằng tây."
Anh ta ngửa đầu cười lớn.
"Anh thích cách nhóc so sánh đấy. Nhưng đó là châm ngôn sống của anh. Cuộc đời này vất vả thế thì giúp nhau một chút có khó khăn gì đâu, nhóc không nghĩ thế sao?"
"Không. Em chỉ thấy anh rất kỳ thôi."
Ông anh lại cười lớn.
Xem chừng cá đã nguội, người đàn bà cũng đã quay lại mang theo một nắm việt quất trong lòng bàn tay. Chúng tôi chia nhau mỗi người một phần ba số quả mọng, và ông anh bắt đầu xé cá bằng những ngón tay xương xẩu. Phần bụng nhiều thịt ít xương anh ta chia cho người đàn bà, phần đuôi bé hơn anh đưa nó cho tôi, còn bản thân chỉ ăn đầu cá và một ít thịt cổ còn sót lại.
Bà già vẫn chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ nhường tôi phần bà.
Tôi biết nhưng vẫn ra vẻ không quan tâm. Tôi sẽ chỉ ăn đúng phần mình được chia thôi.
"Nào, trước khi dùng bữa, kẻ tôi tớ này đây có đôi điều muốn trình bày."
Ông anh bỗng dưng bắt đầu một bài phát biểu trang trọng bằng giọng điệu rất kịch không hề phù hợp với anh ta.
"Quý bà đây là một người có tấm lòng nhân hậu và thương yêu con vô bờ bến. Nhưng quý công tử đây từ chối tình cảm ấy cũng vì có lý do riêng của mình. Nay quý công tử đã chân thành hối lỗi, vậy theo truyền thống người Hemeti, mời quý công tử nói đôi lời bày tỏ tấm lòng sắc sâu của mình."
Anh có điên không? Tôi trừng mắt nhìn anh ta. Lẽ ra ngay từ đầu tôi phải bóp chết anh.
"Em không có gì để nói." Tôi bảo.
"Thôi nào. Mạnh dạn lên chú em. Biết nhận lỗi và sửa lỗi là cột mốc của sự trưởng thành đấy." Vừa nói anh ta vừa thúc vào khuỷu tay tôi.
Tôi không can tâm. Tôi có phải người Hemeti đâu mà phải tuân theo truyền thống gì gì đó. Vậy mà ông anh nhiều chuyện này cứ tiếp tục thì thào trong kẽ răng, cốt đề bà già không nhìn thấy anh ta đang thôi thúc tôi. "Nói đi nào, nhanh lên."
Nhìn bà già hiền quá tôi có chút không quen. Ngẫm lại ngoài những lúc lên cơn thì bà ta đối xử với tôi không tệ. Chần chừ một lát, tôi hít một hơi thật sâu trước khi cất lời.
"Cháu xin lỗi vì đã hành xử như thế. Mong bà hiểu cho, cháu lớn rồi và cháu cần không gian riêng tư, nhất là khi... ừm... vệ sinh cá nhân." Cảm thấy chưa đủ thuyết phục, tôi lại bắt đầu vẽ chuyện. "Cháu muốn trưởng thành mau mau và cháu nghĩ là sẽ tốt hơn nếu cháu học cách tự làm mọi việc, để khi không có bà bên cạnh cháu vẫn có thể chăm sóc bản thân mình. Cháu không có ý làm tổn thương bà và cũng không định khiến bà phải rơi nước mắt vì cháu."
"Tốt lắm." Ông anh đứng kế bên vỗ tay như một tràng pháo thưởng. "Vậy còn phu nhân? Phu nhân có đồng ý tha lỗi cho quý công tử vẫn còn trẻ dại này không?"
Lúc này bà già mới lên tiếng, lần đầu tiên sau cuộc cãi vã, bà ta mới lại nói những lời ngon ngọt với tôi.
"Con trai yêu quý của ta, làm sao ta có thể giận con cơ chứ." Rồi bà ta ôm chầm lấy tôi, vỗ về lên lưng tôi như người mẹ đang giỗ em bé. "Tất cả những điều ta làm cho con là vì ta yêu con. Tha lỗi cho ta, con yếu dấu. Ta đã không nhận ra rằng việc ta đòi hỏi ở con khiến con không thích. Ta yêu con và ta không muốn mất con. Chỉ cần con đừng rời bỏ ta, từ giờ ta sẽ không ngăn cản con làm điều con muốn nữa."
Những lời người đàn bà nói, cách bà ta vỗ về tôi, thật sự khiến tôi tin rằng mình là con trai bà trong khoảnh khắc. Nhưng rồi tôi chợt bừng tỉnh. Tôi không phải con bà, và nhiệm vụ của tôi lúc này chỉ là đưa bà về với gia đình của bà thôi. Tôi không cần phải đồng cảm với bà. Tôi chỉ cần làm đúng trách nhiệm của một người tốt và rồi đường ai nấy đi. Chấm hết!
Bà già cứ ôm tôi mãi. Nhưng tôi đói. Nên tôi đánh mắt ra hiệu cho ông anh kết thúc nhanh màn thổ lộ tình cảm sến súa này.
Đã hiểu ý, anh ta tách chúng tôi ra, và sau đó là bữa ăn sáng kỳ cục bắt đầu.
Màn kịch ông anh bày ra kéo dài quá lâu nên con cá đã trở nên lạnh ngắt. Nếu không có sự ngăn cản của tôi, ông anh vô tri đã ném cái đầu cá vào ngọn lửa trở lại và quay cho đến khi nó cháy khét đen. Trông anh ta vừa buồn cười vừa tội nên tôi đã chia bớt cho anh ta một nửa miếng cá của mình.
"Anh ăn đi. Em không thích cá cho lắm. Em thích những quả việt quất này hơn."
"Không cần lo cho anh đâu chú bé. Lucy và anh thân đến nỗi nó ăn được gì là anh ăn được tất." Cùng với đó là điệu cười giòn giã.
Chẳng biết anh ta đùa hay đang nói thật. Chắc là không có chuyện anh tranh ăn cỏ với một con bò đâu nhỉ? Tôi nghĩ thầm.
Bữa sáng loáng tí là xong.
"Giờ thì bụng dạ đã no nê. Xin phép tôi được hỏi quý bà và quý công tử đi đâu mà lạc đến nơi đồng không mông quạnh này vậy?"
"Chúng ta đang trên đường đến Trang viên nhà thương nhân Rhodes ở Cathail." Người đàn bà trả lời.
"Cathail? Đây chính là địa phận Cathail. Nhưng một tên chăn bò như tôi quá thiếu học thức để biết Trang viên nhà Rhodes nằm ở đâu. Nếu quý bà và quý công tử không chê thì xin hãy để kẻ hèn mọn tôi đây chở hai người dạo quanh một vòng thủ phủ, biết đâu sẽ tìm được nơi cần tìm." Ông anh này có lẽ mơ ước trở thành một diễn viên, vì cách anh ta nói chuyện với bà già nghe phô trương hết sức.
"Anh thôi cái điệu bộ ấy đi được không?" Tôi cằn nhằn. "Em sẽ không cưỡi con bò này đâu. KHÔNG BAO GIỜ!" Tôi nhấn mạnh.
Người đàn bà lại có vẻ rất hài lòng. Bà ta lôi cái túi trân châu ra đưa cho anh ta hai viên, nhưng ông anh thẳng thừng từ chối.
"Không cần đâu thưa bà," anh ta lại cười tươi rói, "tuy chỉ là một tay chăn bò nhưng tôi luôn có máu phiêu lưu. Sẵn giúp đỡ bà và chú bé đây, tôi định sẽ làm một chuyến viếng thăm thủ phủ. Ái chà, đã lâu rồi tôi không đến thủ phủ, không biết đường xá có thay đổi gì không."
Nói rồi anh ta chui vào bụi rậm lôi ra một chiếc xe kéo cũ kỹ nhỏ hơn xe ngựa của bác Paul.
"Con xe kéo này tôi luôn để sẵn ở đây, phòng những lúc cần thì còn có cái mà dùng."
Con bò Lucy không thích bị gióng vào đòn kéo. Nó cứ lắc tới lắc lui nhưng cuối cùng chiếc xe bò kéo cũng hoàn thành láp ráp.
Kể từ khi xuất hiện, ông anh kỳ lạ này đã không ngừng đưa tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đến cả một chiếc xe kéo mà anh cũng lấy ngay ra được.
"Nào, mời quý bà và quý công tử. Nếu không còn quên thứ gì thì chúng ta khởi hành thôi."
Chiếc xe bắt đầu lăn bánh.
Suốt quãng đường đi anh chăn bò cứ nghêu ngao hát. Dù tôi chẳng biết bài hát này nhưng tôi biết ngay là anh ta đang hát trật nốt, bởi bình thường chẳng có bài hát nào được viết ra với cái mục đích tra tấn lỗ tai người nghe như thế cả. Tôi vốn chẳng hay nói lời mích lòng, nhưng ngay cái ông anh này thì tôi phải nói cho anh ta rõ.
"Anh chẳng có năng khiếu âm nhạc gì cả."
"Thế vết thương trên người nhóc sao rồi? Có cần anh xem cho không?"
"Anh be bé cái mồm thôi!"
-----------------------------------------------------------------------------
Tính đến chương này bé Ann đã mở khoá được 4 map trên bản đồ Hemeti:
Đừng để ý đến Vịnh Càng Cua dù trông nó hơi xấu thật. Còn lâu nữa mới đến đoạn cái vịnh này nên để từ từ sửa cũng được.)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com