Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 8 - Một đồng vàng

Mỗi khi cảm thấy bất an tôi đều lén lúc khóc trong nhà vệ sinh. Cảm xúc ấy có lẽ quá tầm thường vì ai cũng bảo sao cứ khóc mãi toàn những chuyện bé tí hin. 

Mỗi khi tôi xuất hiện trong bộ dạng mắt đỏ hoe và mũi khụt khịt, sẽ luôn có những lời bình phẩm rằng "lại sao thế?", "con bé đó lại khóc nữa à?". Vậy nên tôi đã học cách che giấu nó đi. 

Mỗi khi khoé mắt bắt đầu cay cay, tôi luôn cố lau vội đi trước khi có ai trông thấy, rồi vừa cười vừa nói như thế chẳng có gì. 

Và nếu xảy ra chuyện giống như hôm nay, tôi sẽ luôn tự trách mình đã không kiềm nén để người ta trông thấy bộ dạng xấu hổ thiếu khôn ngoan.

Đêm nay cũng thế. 

Sau một ngày ngổn ngang và bộn bề, tôi ngồi co ro trong chiếc chăn mỏng dính bên đống lửa, lặng lẽ rơi nước mắt sau khi Fig và Berry đã ôm nhau say giấc nồng. 

Tôi nghĩ về những chuyện đã qua, những nơi tôi đã đi, những người tôi đã gặp, và về cái người trên giá treo ở quảng trường. Mọi điều tôi biết về đất nước này thật mông lung. Một sự việc kinh khủng như thế xảy ra trong địa bàn dân cư mà không có bóng dáng cảnh sát hay cấp cứu đâu.

Câu hỏi về cái chết của người kia cứ quanh quẩn bám lấy tôi khiến tôi không sao chợp mắt. 

Có phải đó đơn thuần là một tai nạn, hay là sản phẩm của một vụ giết người? Liệu chủ nhân toà lâu đài và người áo xanh kia có liên quan gì đến cái chết ấy hay không? Vì sao tối hôm đó anh lại cười? Ngẫm lại thì cách anh cười vào cái đêm hôm đó chứa đầy sự ngạo nghễ đắc thắng, khiến tôi cảm thấy mình hoàn toàn là một trò đùa lố bịch trong câu chuyện này. Liệu anh có giả vờ đối tốt với tôi, như cách những kẻ bắt cóc trẻ con dụ dỗ những đứa trẻ trước khi ra tay đưa chúng vào tròng? Liệu rằng sẽ có một ngày, người tiếp theo trên giá treo cổ ấy sẽ là tôi?

Tôi khóc vì thấy mình ngu dại quá. Tôi đã ảo tưởng đến mức nào mà tin tưởng người ta vô điều kiện khi mới vừa gặp lần đầu. 

Dẫu vậy, một tia hy vọng vẫn tồn tại trong tôi, nhắc nhở tôi không nên suy đoán viễn vông mà hay tin vào lý trí. Chẳng có bằng chứng nào chỉ ra anh có liên can đến sự việc kia. Thời nay còn mấy ai vừa cai quản lâu đài vừa cai quản cả vùng đất xung quanh như lãnh chúa phong kiến nữa đâu. Dù anh có là chủ đất, tôi cũng không thể vô lý đổ tội cho anh vì một sự việc đổ máu trên mảnh đất chỉ được viết tên anh trên mực giấy.

Tôi lấy chiếc lá khắc tên ra khỏi chỗ cất giấu, ngón tay mân mê từng nét chữ trên đó. Tôi không biết cách viết tên anh, và tôi không rõ đây có phải là tên anh hay không. Giá như tôi biết chữ, giá như tôi nghe hiểu những lời họ nói, tôi sẽ không phải hoang mang khổ sở như thế này. Nếu tôi biết chữ, tôi sẽ nhanh nhạy hơn trong việc phán đoán cái gì tốt cái gì xấu cho mình. Nếu như tôi biết chữ, thì đường về nhà sẽ chẳng còn mất hút xa xôi.

Khi đã trấn tỉnh bản thân bằng những ý nghĩ tươi sáng hơn, tôi lim dim thiếp đi trong tiếng ru tí tách của đám lửa hồng.

Sáng hôm sau, quyết định trở nên bận rộn hơn để quên đi những ưu phiền vừa mới chớm nở, tôi tắm sớm trong tiết trời lạnh queo lúc trời chưa sáng tỏ và lon ton theo Fig đi chăn cừu. Tiếng kim loại va vào nhau lẻng xẻng trong cái túi quần của tôi khiến đứa bạn ái ngại dẫn tôi ra một góc căn chồi, đào một cái lỗ rồi trút hết mười đồng tiền xu xuống đó. Khi chúng tôi đang lấp đất dở dang, cảm giác cộm cộm sau lớp vải áo khiên tôi thò tay vào túi lôi ra thêm một đồng vàng không biết nguồn gốc từ đâu.

Hai đứa tôi đưa mắt nhìn nhau đầy kinh ngạc.

Thằng Fig cầm lấy đồng vàng sáng bóng nghi ngờ nhìn tôi như muốn hỏi "Cậu lấy cái này ở đâu ra?". Tôi huơ tay lắc đầu hoàn toàn không biết. Tôi thề là tôi không thó bất cứ thứ gì trong lâu đài chỉ trừ túi áo choàng và... cái vòng xanh lam. Nhưng cái vòng ấy là một tai nạn. Tôi không hề cố ý mang nó về nhà. Trước khi tôi nhận ra phải làm gì với cái vòng ấy thì tôi đã ngồi trên chiếc xe cọc cạch về gần đến căn chồi. Dẫu sao thì, chuyện quan trọng trước mắt không phải là cái vòng. Làm sao mà tôi biết được đồng vàng ấy từ đâu chui ra nằm trong túi áo tôi như một sự sắp đặt đáng nguyền rủa như thế chứ.

Sau khi lưỡng lự một hồi, hai đứa tôi quyết định thả đồng vàng chung với đống tiền xu và lấp đất lên, sau đó sửa soạn cùng Berry lên đường.

Đàn cừu của Fig không con nào còn mặc chiếc áo lông mềm dày như những đụm mây. Thì ra chỉ trong mấy ngày chúng đã bị cạo sạch sẽ nhằm chuẩn bị cho mùa kéo sợi và đan len. Nhìn bọn chúng ốm nhom đỏ hỏn khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Nhưng chẳng mấy chốc sự đồng cảm ấy tan biến như bụi cát. Thoát được đám lông nặng nề đó, bọn cừu trở nên nhanh nhẹn hoạt bát hơn khiến ba đứa tôi đuổi theo bở hơi tay.

Những ngày sau đó tôi vẫn tiếp tục đi chăn cừu như một cách học việc. Dần dà tôi đã đọc được đường đi nước bước của bọn này và nhận ra không phải cứ liều mạng đuổi theo tụi nó thì sẽ được việc. Berry cũng đang dần thành thục kỹ năng lùa cừu. Cứ cái đà này khi cu cậu lớn hơn sẽ hoàn toàn làm chủ được cuộc chơi trở thành đệ nhất chó chăn cừu trên cái thảo nguyên này

Công việc chăn cừu thật ra không hề bận rộn. Vì vậy Fig có nhiều thời gian dạy cho tôi cái này là cái gì, cái kia nói thế nào. Chẳng mấy chốc mà tôi đã nói được và nghe hiểu nhiều.

Tôi biết phải nói gì với ông chủ đàn cừu để nhận được tiền công là mấy củ khoai tây mỗi khi dẫn bọn chúng về chuồng khi trời chuyển tối. Thỉnh thoảng ông ta hào phóng hơn sẽ cho chúng tôi bắp cải hoặc mấy con cá muối khô.

Tôi cũng biết gọi vợ của bác Paul là "cô" khiến bà ấy thích lắm, thỉnh thoảng "cô" lại cho chúng tôi ít trứng và rau màu tự trồng trên mảnh ruộng quanh nhà. Fig nói bác Paul là "một người nông dân độc lập", tức là bác được quyền làm chủ mảnh ruộng của mình mà không phải làm thuê cho bất kỳ ai. Quanh đây cũng có vài nhà nông độc lập như bác, nhưng không ai biết đủ chữ để xin giấy thông hành và có con xe ngựa oách xà lách như bác. Đó là lý do vì sao bác hay đánh xe đi bỏ mối nông sản khắp các miền thị trấn và cả những vùng đất xa hơn.

Nếu bác Paul biết chữ, chắc chắn là bác biết phải đi học ở đâu.

Việc học tiếng của tôi với Fig dần dà bị chững lại, nguyên nhân là vì bác Paul định mở một sạp rau củ trong thị trấn nhờ món tiền tích cóp được cả đời, và bác rất cần có người phụ trông coi cửa hàng khi bác đi vắng.

Nhân dịp này tôi bàn với Fig hãy để tôi thay nó đi chăn cừu, còn nó theo bác Paul lên thị trấn tìm trường học chữ. Mỗi lần trở về nó có nhiệm vụ phải dạy lại cho tôi tất cả những gì nó được học ở trường. Đứa bạn cùng nhà không có vẻ gì muốn thực hiện kế hoạch này cho lắm. 

Mặc dù nó tìm đủ mọi cách để lẩn đi nhưng tôi đã cố thuyết phục nó về những lợi ích của việc đi học. Khỏi phải diễn giải sâu xa, chính bác Paul là ví dụ tốt nhất cho thấy người biết chữ luôn luôn có triển vọng thành công hơn những người không biết rất nhiều. Đặc biệt là khi chúng tôi nghèo, thì việc học lại càng cần thiết để tự tạo cơ hội vươn lên vị trí khá giả hơn.

Vấn đề lớn nhất ở đây là chúng tôi không có dư dả tiền bạc. Mặc dù tôi đã đào đống xu của tôi lên và hứa rằng tất cả chỗ tiền này sẽ chỉ dành cho nó đi học, nhưng nó vẫn một mực từ chối.

Trước tình hình này, tôi phải lên kế hoạch cho đứa bạn cùng nhà thấy rằng tôi sẽ lo được cho chúng tôi tự cung tự cấp cái ăn lâu dài.

Hôm sau, tôi không đi chăn cừu mà cầm hai xu chạy quanh làng tìm mua một con gà mái mơ tuyệt đẹp và một cặp thỏ mới lớn. Sau đó tôi vào rừng nhặt cành cây về làm chuồng gà và chuồng thỏ. Tôi khá tự tin vào kỹ năng lắp ghép lego của mình, nên việc tạo ra một thứ gì đó bằng việc ghép nối chúng với nhau là một trải nghiệm khá thú vị. 

Bằng một con dao gấp nhỏ mượn từ vợ bác Paul, tôi mài nhẵn cành cây và bắt chước cách người ta tước vỏ cây bện thành dây thừng từng được phát trên ti vi. Cũng phải mất ba ngày liên tục nhặt, đan và ghép, mãi cái chuồng gà mới ra dáng cái chuồng gà, và cái chuồng thỏ mới đủ vững chắc để giữ lấy cái mái che nắng che mưa. 

Khỏi phải nói đứa bạn cùng nhà tôi đã kinh ngạc đến mức nào khi trông thấy thành tựu tôi dày công tạo lập, vừa đúng lúc con gà mái mơ ban cho chúng tôi quả trứng đầu tiên trong cái ổ rơm tôi tạo ra.

Không chỉ thử chăn nuôi, tôi còn thử trồng trọt trên mảnh đất quanh căn chồi.  Mặc dù không có tí kinh nghiệm nào, tôi vẫn xới đất bằng cái cuốc tự chế như những gì từng nghe nói rồi chôn xuống bất cứ loại rau củ nào chúng tôi có mà tôi cho là có thể trồng được.

Vấn đề đầu tiên phát sinh là làm sao giữ thành quả không bị chim ăn. Tôi phải tự đi ra tận ruộng lúa mì xin về một mớ rơm sau thu hoạch và hy sinh một bộ quần áo để mặc cho con bù nhìn. Trông nó điệu đàng đến nỗi tôi dám cá không có một con bù nhìn nào khác trong làng này này đẹp rực rỡ như con bù nhìn của tôi.

Vấn đề thứ hai là vào đêm nọ tôi phát hiện một con cáo đang rình trộm mấy bé động vật nhà tôi. Berry vẫn còn quá nhỏ để đối phó với con vật khôn ranh đó. Và từ khi tôi chuyển hai cái chuồng vào trong căn chồi thì con cáo lại bắt đầu trò đào trộm nông sản vào ban đêm. Chuyện này dần thực sự trở nên rất đau đầu. Tôi không thể bỏ một món tiền lớn để mua một con bò chỉ để dùng đuổi con vật tinh ranh này vì có thể dẫn đến một số rắc rối lớn chẳng hạn như ruồi và dịch bệnh. Thế là tôi lại đi nhặt những khúc gỗ lớn hơn và ngồi bện dây thừng bất cứ khi nào có thể. Nhờ đó, hàng rào mới xây phần nào giúp tôi yên tâm bảo vệ những thành viên nhỏ trong nhà mình.

Tôi thậm chí còn thử làm chỗ ủ phân hữu cơ để bón cho cây trồng. Kết quả không thể nhìn thấy được ngay lập tức vì cần phải đợi ít nhất nửa năm để đống thực vật phân hủy thành chất có lợi cho cây.

Ngày tiễn Fig đi thị trấn cuối cùng cũng đến. Tôi dúi hẳn vào tay cậu ta ba xu và dặn dò nhất định phải mua giấy bút để ghi chép lại cho tôi. Khi cậu ta đi rồi, tôi và Berry cứ nhìn theo mãi cho đến khi bóng dáng cỗ xe biến mất sau những rặng cây.

Không có Fig ở nhà thật ra tôi thấy lo lắng lắm. Tôi chưa từng tự nhóm lửa bao giờ, cũng không biết cách chăm sóc cho Berry. Trước giờ toàn là Fig chăm sóc cho hai đứa tôi còn tôi chỉ đi theo cậu ta như một sinh vật hội sinh. Mặc dù đã có thể nghe nói được một ít nhưng tôi vẫn chưa thuần thục và vẫn phải sử dụng ngôn ngữ hình thể là chủ yếu. Vậy nên tôi rất sợ cảnh tượng người ta phát hiện ra tôi là người ngoài.

Còn một điều quan trọng hơn tất thảy, tôi không nghĩ việc một đứa trẻ con, đặc biệt là trẻ em gái, sống một mình trong căn chồi tồi tàn giữa rừng là một ý kiến hay. Tất nhiên trí não của tôi hoàn toàn vượt xa với dáng vẻ bề ngoài, nhưng điều đó không có nghĩa tôi có đủ sức tự bảo vệ mình trong những tình huống khẩn cấp.

Tôi đã thử suy tính đến việc rời bỏ căn chòi và đến ở với vợ bác Paul. Chưa bàn đến việc bác ấy có đồng ý hay không, thì việc rời đi cũng không hề dễ dàng gì. Tôi khá chắc đứa bạn tôi cất giấu gia tài tích cóp của nó đâu đó bên dưới cái chòi này, và việc cứ để đống của cải y nguyên vị trí của chúng mà không có ai trông coi hay là mang chúng theo bên mình đều dẫn đến kết cục khá nguy hiểm. Chưa kể nếu không có tôi, thành tựu được gầy dựng mấy ngày qua xem như đổ sông đổ bể.

Mất cả ngày đắn đo suy nghĩ, tôi quyết định sẽ bôi tro trát trấu lên người, theo đúng nghĩa đen.

Việc cải trang thành một đứa con trai không hề khó. Tôi đã tự đan cho mình chiếc mũ rơm và mỗi ngày tôi đều lăn lộn trên đất cho lấm lem nhất có thể trước khi ra ngoài. Tôi cắt ngắn bộ đồ của Fig cho vừa với chiều cao của mình và dẹp hết tất cả đống quần áo con gái kể cả bộ đồ của con bù nhìn.

Tôi định tự gia cố lại căn chồi, nhất là cửa ra vào và cửa sổ, nhưng lại không tìm được gỗ phù hợp và sức tôi không đủ để mang vác leo trèo. Thế là tôi tự làm một cái thùng có nắp đậy kích cỡ y như cái thùng ủ phân. Tôi lót một ít rơm và nhét cái mền vào đó, buổi tối tôi chui vào đó ngủ để không một kẻ tò mò nào có thể trông thấy tôi một mình trong căn chồi.

Mỗi khi ra ngoài, tôi hạn chế tiếp xúc với người khác nhất có thể, vì tôi không muốn người ta nhớ đến sự tồn tại của một đứa trẻ như tôi. Phần lớn thời gian tôi chỉ đi chăn cừu, gặp vợ chồng bác Paul nếu hôm đó đói ăn, rồi lại trở về căn chồi đóng kín cửa. Hai cái chuồng cũng được tôi cải tạo để có thể dễ dàng di chuyển vào căn chồi khi đêm xuống, và thế là tôi không phải đốt lửa xua đuổi thú rừng vào ban đêm.

May mắn làm sao Berry càng lớn càng béo múp ra cực kỳ khoẻ mạnh. Con gà mái tơ vẫn đẻ trứng đều đều mang đến cho chúng tôi một nguồn protein ổn định. Cặp thỏ cũng đã đẻ lứa đầu tiên vừa đúng lúc vườn rau củ đang độ tốt tươi. Và Fig cũng trở về thăm tôi trông bộ dạng tươm tất rất ra dáng một cậu học trò. Khỏi phải nói cậu ta cười ngất khi trông thấy mấy việc tôi làm khi cậu ta không có ở nhà.

Tối hôm đó hai đứa tôi lại đốt đống lửa to, rồi nằm bên đống lửa kể nhau nghe những trải nghiệm mới mẻ của mình. Cậu ta không quên lời hứa dạy cho tôi tất cả những gì cậu ta học được trong thời gian qua. Với trí óc của tôi, việc học và ghi nhớ tất cả những thông tin ấy trong thời gian ngắn chỉ là chuyện nhỏ. Vậy là cứ liên tục như thế, mỗi khi Fig trở về, bọn tôi lại cùng nhau đi chăn cừu, cùng nhau học chữ, cùng nhau đi phá làng phá xóm.

Đó có lẽ là quảng thời gian tươi đẹp nhất của tôi gắn liền với ngôi làng heo hút âý.




Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com