CHƯƠNG 10: PI - A - NÔ THUỶ TINH (1)
Hôm sau, khi mặt trời còn chưa ló dạng, trước cửa lán của tiểu đội 3 đã vang lên tiếng rương đồ kêu lộc cộc. Mười hai đồng chí nữ đứng vây quanh nàng Chi, mọi người ôm riết nàng, gửi lời chúc đi đường tới nàng một cách luyến tiếc. Chi đáp lại cái ôm của các chị lớn, nước mắt ngắn dài không nỡ chia ly. Dù chỉ mới ở lại đây một đêm, vài tiếng ngắn ngủi như thế, nhưng Chi lại cảm tưởng, dường như giữa mình và mười hai đội viên đây đã có một mối thân tình lâu lắm rồi. Chị Trang đại diện tiểu đội tới nói những lời cuối, trước khi chỉ huy trung đoàn tới đưa Chi đi. Chị bắt tay nàng, giọng cố tỏ ra cứng rắn:
- Chi đi đường nhớ cẩn thận. Đã kiểm tra đầy đủ giấy tờ chưa? Bị mất là không cứu được mô.
Chi vỗ vỗ vào ba lô con cóc đeo sau lưng, đáp:
- Có trong đây hết rồi chị nờ.
Chị Trang gật đầu. Đoạn chị kêu chị Trúc đem tới một xâu sáu, bảy đòn bánh tét nhỏ vừa mới hấp xong để nguội. Đưa xâu bánh cho Chi, chị nói:
- Chi cầm xâu bánh ni, đi đường có đói thì ăn.
Nhìn từng đòn bánh nhỏ chỉ bằng nắm tay, được quấn bên ngoài là lớp lá dong ngả màu xanh đậm, tự dưng Chi thấy hốc mắt mình cay cay. Nàng đem xâu bánh để trong giỏ xe đạp. Bên kia, một đồng chí nam đương giúp nàng ràng lại rương đồ.
Đương lúc mọi người còn nói chuyện hỏi thăm đường đi về nơi sơ tán của Chi, thì từ phía hông lán, chỗ con dốc dẫn từ đài quan sát lên bờ suối, bóng dáng Nhung thoắt ẩn thoắt hiện sau bãi lau sậy um tùm mọc cao quá đầu. Em chạy nhanh như một con báo, bộ đồ ka ki xanh da trời rộng quá khổ chính là thứ giúp nàng Chi nhận ra sự có mặt của em. Em cố lách người qua đám đông, đứng ở hàng đầu, chống tay thở hồng hộc. Chi ngửi thấy trên áo quần em phảng phất mùi thơm của gạo pha lẫn mùi khói lam, nàng đoán, em vừa nấu cơm xong và chạy ngay ra đây để đưa tiễn nàng. Trái tim Chi như có ngọn lửa hơ vào, nóng ấm.
Trong lúc Nhung lấy hơi để nói điều gì đó, thì nàng đã chủ động bước tới gần. Chi xoa đầu em, cười âu yếm. Nhung ngẩng lên nhìn, vừa hay bắt gặp nụ cười duyên dáng của nàng, em lại ngẩn ngơ, những lời chúc định nói ra cũng tự dưng trôi tuột đi đâu mất.
- Em ở lại mạnh giỏi nghe.
Nghe lời từ biệt của nàng Chi, Nhung sững sờ, hai hàng nước mắt chầm chậm tuôn ra. Em chỉnh lại tư thế thẳng lưng, đưa tay dụi mắt hệt như một đứa trẻ. Chi rút khăn mùi xoa, dịu dàng chạm lên gương mặt đỏ bừng của em. Từ tận đáy lòng nàng dâng lên sự chần chừ không nỡ.
Trải qua một đêm ở cùng nhau, chẳng biết từ lúc nào mà nàng lại quý Nhung như quý một đứa em họ hàng xa lâu ngày không gặp. Bây giờ phải rời đi vội vã thế này, thú thật Chi cũng thấy lòng mình đau nhói. Nhưng nhớ lại cảnh cha mạ đương ở bên kia chiến khu trông nàng mỏi mắt từ hôm qua tới giờ, nếu nàng không sang Hương Thọ nội trong sáng nay, thì nhất định thầy Lĩnh sẽ phát điên vì lo cho nàng mất. Chi rùng mình khi nghĩ tới cặp mắt phừng phực lửa giận của cha. Nàng vội dúi hẳn cái khăn vào tay Nhung, xoa đầu em lần cuối và nói:
- Em ngoan, đừng khóc. Khi mô có dịp, tôi sẽ gặp lại em.
- Biết khi mô mới... mới có dịp hả chị Chi?
Nhung khóc nấc, nét mặt em co rúm lại, đỏ ửng, hai hàng lông mày chau chặt vào nhau. Từng dây thần kinh xanh ngắt trên trán em nổi cộm lên, chẳng khác gì một người phải chật vật sống chết giữa cơn sốt rét. Nàng Chi ngạc nhiên tới độ tay chân cứng đờ, nàng không nghĩ Nhung lại phản ứng một cách dữ dội như vậy. Chưa để nàng mở miệng an ủi lời thứ hai, thì Nhung đã lao tới ôm nàng chặt cứng. Em siết tấm lưng mảnh mai của nàng, đôi tay nhỏ xíu nhàu cái áo sơ mi khiến nó nhăn nhúm. Chứng kiến cảnh em khóc thảm thương, cõi lòng Chi quặn lên, như bị thứ gì đó xâu xé. Sau cùng không kìm được nữa, nàng cũng ôm em và thút thít. Tiểu đội 3, cùng hai chiến sĩ trung đoàn thấy cảnh chia tay bịn rịn giữa hai người thế này, chẳng ai còn lòng dạ nào để ngăn họ lại nữa. Một đồng chí vì sợ xúc động, nên bèn ngoảnh mặt sang chỗ khác, cởi cái nón tai bèo chấm hàng nước mắt rưng rưng.
- Đừng khóc. Tôi hứa sau khi tụi Mỹ ném bom xong, tôi sẽ quay lại đây thăm em.
- Chị Chi hứa như rứa, biết chị Chi có thiệt sự quay lại chiến khu ni không? Hay tới lúc Mỹ ném bom xong, chị quên em luôn?
Nàng Chi hơi đẩy em ra, ký nhẹ lên trán em, lắc đầu:
- Làm răng quên cô bộ đội ni được.
Nhung chun mũi, rồi mếu, nước mắt không sao ngưng chảy được. Em lại áp mặt vào lòng nàng Chi, tay dù không còn nhàu lưng áo nàng, nhưng vẫn giữ yên ở hông nàng. Chi nhẹ nhàng cầm tay em bỏ ra. Nàng nháy mắt nhìn chị Trang. Chị hiểu ý, vội kéo Nhung đứng về phía mình, để em thôi cản đường Chi nữa. Nếu bình thường khi bị chị Trang lôi đi thế này, Nhung sẽ ngoan ngoãn nghe lời, nhưng hôm nay, cái sự nghe lời ấy của em không còn xuất hiện nữa. Việc phải chia xa nàng Chi khiến máu liều cãi lời tiểu đội trưởng của em dâng lên tới đỉnh đầu. Em vùng vằng gạt tay chị Trang ra, tiếp tục bám riết lấy Chi như đỉa đói bám chân người. Đỉnh điểm là khi em ngồi bệt dưới đất mà ôm chân nàng, gào lên ỉ ôi:
- Chị Chi ở lại với em thêm một ngày nữa thôi. Qua ngày mai chị hẵng đi cũng chưa trễ mô.
- Nào Nhung, răng mà để ngày mai được hả em?
- Răng không được? Đi sơ tán thôi mà. Chừ chị Chi ở lại trong chiến khu có khi còn an toàn hơn là đạp xe phong phanh ngoài tê.
Chị Trang gầm gừ nắm cổ áo Nhung, lôi em đứng dậy. Nhung khóc tới độ hai mắt nhoè đi, nước mắt chảy ròng chắn ngang tầm nhìn khiến em không thấy rõ được sắc mặt giận dữ của chị tiểu đội trưởng. Nhưng thông qua tiếng thở nặng nhọc phía đối diện, Nhung cũng ngầm nhận ra, mình vừa làm một hành động dại dột và trẻ con hết sức.
- Mi có thôi đi không? Để yên cho o nớ còn về.
Tuy chị Trang không quát, nhưng chị gằn giọng. Và cái gằn giọng của chị lúc nào cũng khiến Nhung sợ chết khiếp. Em chỉ sợ mỗi lúc nhìn chị giận dữ như thế. Nhung mím môi, tiếp tục lau nước mắt. Em không trả lời chị Trang, chỉ lầm lũi quay lưng trốn vào đám đông. Em đứng sau lưng Hân, kê cằm lên vai chị, gương mặt trông sao mà tội nghiệp hết sức.
Không phải là một người nghiêm khắc như chị Trang, chị Hân ngay khi thấy em mò tới mình, chị sẵn sàng dang tay đón Nhung, ôm em vào lòng, dỗ dành em một cách dịu dàng và âu yếm. Chị xoa lưng em, nhẹ giọng nói:
- Mi đừng quấy, không khéo hắn lại cáu.
Chị Hân hất hàm về phía chị Trang. Nhung biết ý, không dám ăn gan hùm mò vào hang cọp, nên em liền gật đầu nghe lời.
- Mi đứng yên đây, đợi bên trung đoàn người ta tới.
- Em sợ... em không đứng yên được mô. Em... chị Hân nói với chị Trang, khuyên chị Chi ở đây thêm một bữa nữa đi.
Chị Hân mắng khẽ:
- Không được nói như rứa. Mi mà còn xin xin xỏ xỏ, chị không thương nữa mô.
Nhắc Nhung xong, chị Hân lại khó hiểu nhìn hai đồng chí cùng trung đội nãy giờ vẫn đương án binh bất động. Phía con dốc dẫn lên lán trại, không có sự xuất hiện của bất kỳ ai, ngay tới tiếng giày nện trên đất cũng không. Chị Trang nhìn đồng hồ đeo tay, đã trễ hơn mười phút rồi, bên trung đội vẫn chưa cử người tới dẫn đường cho Chi nữa, thế là thế nào?
- Trung đội trưởng dặn các anh, là khi mô sẽ tới vậy?
- Đội trưởng nói tôi là đúng bảy giờ rưỡi.
- Chừ đã bảy giờ năm mươi, răng không thấy ai rứa hè?
Mọi người cùng đợi thêm mười phút, đồng hồ vừa chỉ tới tám giờ, chỗ đường lên dốc xuất hiện tiếng ai đó chạy dồn dập hối hả. Một đồng chí nam khác, mặc bộ quân phục rách tả tơi như tổ đỉa, máu me từ các vết thương trên ngực thấm đẫm qua lớp vải ka ki, loang lỗ một màu đỏ nâu khô quắp. Đồng chí ấy vừa leo lên tới dốc đã ngã sõng soài, như không còn sức lực bước tiếp. Vừa thấy cảnh tượng kinh hoàng ấy, mọi người có mặt đều hốt hoảng chạy tới đỡ cậu ta dậy. Đồng chí nọ nằm dưới bóng cây vả nghỉ ngơi đôi ba phút, đột nhiên cậu ấy thình lình ngồi bật dậy, gương mặt không giấu nổi vẻ bàng hoàng. Cậu đảo mắt nhìn những người đương vây quanh mình, cuối cùng, đôi mắt cậu lại nhìn chăm chăm vào chị Trang. Cậu ngửa đầu hít sâu một hơi, rồi bám vào thân cây, loạng choạng đứng lên. Không để cho những người khác kịp nói năng hỏi han gì, cậu đã nắm tay chị Trang, dẫn chị ra đầu dốc, cách đám đông chỉ mười bước chân, nhưng ở gần đó có một bãi lau sậy mọc như hàng rào chắn ngang nên cũng coi như riêng tư phần nào.
- Đồng chí Trang, trong những người nớ, ai là chị ruột của đồng chí Nhất?
Lời đầu tiên mà đồng chí nam ấy thốt ra không phải là lời chào hỏi, hay tới báo tin rằng trung đội trưởng cử người tới đưa Chi đi, mà lại nhắc tới đồng chí Nhất khiến chị Trang có chút lo lắng. Cộng thêm việc mình mẩy đầy thương tích của cậu ta nữa, càng làm cho sự nghi ngờ của chị thêm phần được củng cố.
Chị chỉ nàng Chi, đáp:
- Bên tê tề. Cái người mặc áo sơ mi hồng nớ.
Đồng chí ấy rướn cổ nhìn cho bằng được nàng Chi, mặt mày trở nên nghiêm nghị đến lạ.
- Đồng chí tạm thời giữ chân o nớ ở lại chiến khu, được ngày nào hay ngày đó.
Chị Trang chau mày hỏi:
- Đã xảy ra chuyện chi hay răng đồng chí?
Cậu ta nhăn mặt, đau không thốt nên lời, vết thương hở miệng, lộ cả miếng thịt đỏ au đương rỉ từng giọt máu xuống thảm cỏ.
- Đồng chí đau lắm không? Răng không tới quân y mà lại mò thấu tới đây rứa?
Nhận thấy đồng chí nọ sắp không chịu được nữa, chị Trang bèn khuyên cậu ta nên ngồi xuống nghỉ ngơi, nhưng cậu ta từ chối. Phải đợi một lát sau cho cơn đau dịu xuống, cậu mới đáp:
- Cậu Nhất bị bắt rồi. Tiểu đội trinh sát vừa hành quân tới Vĩ Dạ thì bị địch đánh úp bất ngờ, năm người hy sinh, hai người bị bắt. Còn lại không nghe được tung tích chi.
Nghe tin dữ, sắc mặt chị Trang tái hẳn đi. Mười đầu ngón tay chị trở lạnh, cứng đờ, còn tim thì như ngừng đập. Chị trân mắt ngó người đồng đội đối diện, từ đầu tới chân chị, chẳng khác gì bị ngọn lửa bùng lên thiêu cháy, nóng rát và đau đớn dữ dội. Chị không còn điều khiển được hơi thở của mình nữa, nó dồn dập, rồi lại ngắt quãng. Cổ họng nghẹn đắng làm chị không thể mở miệng hỏi thêm bất cứ điều gì. Người nọ vốn đoán trước được biểu cảm của tiểu đội trưởng khi nghe hung tin, nên cậu cũng chuẩn bị sẵn tâm lý để sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi sắp được đặt ra. Và quả đúng như cậu dự đoán, giây lát sau, chị Trang đã hỏi cậu lia lịa:
- Răng lại bị bắt? Cuộc hành quân ni được bảo mật tuyệt đối. Răng lại bị tóm dễ dàng như rứa được?
Giọng chị càng về sau càng run hơn, như sắp khóc. Người đồng chí nọ chẳng nén được đau xót về sự tình nghiêm trọng của tiểu đội trinh sát mới vừa xảy ra, nên cũng sụt sùi, bất lực lắc đầu.
- Ta có nội gián. Nhất định là đã có kẻ được cài vô đây để đánh cắp về cuộc hành quân ni cho tụi hắn biết.
Tiếng nghiến răng ken két vang lên, như nghiền nát trái tim của hai người chiến sĩ.
Cậu chiến sĩ nọ tiếp tục kể:
- Cậu Nhất bị bắt cùng cậu Luông, chừ chắc hai người đã bị giải về đồn giặc để lấy lời khai rồi.
- Chỉ có hai người bị bắt thôi?
- Ừ, chỉ có hai.
- Rứa còn cậu Cường. Chẳng lẽ, cậu Cường cũng... cũng hy sinh?
Nhận ra điều gì đó kỳ lạ, cậu chiến sĩ trố mắt, vỗ chát hai tay vào nhau, cậu nói:
- Không, cậu Cường không hy sinh. Lúc tôi giả chết để chạy về đây, tôi nhớ, tôi không thấy xác cậu nớ mô hết. Hay là cậu nớ bị bắt mà tôi không hay?
- Bị bắt hay răng chừ không quan trọng nữa. Quan trọng là chúng ta đã bị phản bội.
Nhắc tới hai từ "phản bội", nỗi đau trong lòng chị Trang lại dấy lên như một vết thương kịp lành. Phản bội, mọi người đã bị phản bội bởi chính người đồng đội của mình, đó đích thị là một nỗi đau, một vết nhơ mà dù cho có rửa cạn sông Tả Trạch cũng không thể nào rửa trôi được sự nhục nhã ấy. Là kẻ nào đã làm ra chuyện tày trời này? Là kẻ nào đã phản bội lời thề thứ 6 của quân đội kia chứ? Chị Trang tự hỏi, khi phản bội lại niềm tin của Tổ quốc, của nhân dân, thì kẻ nội gián ấy đã cảm thấy thế nào? Sung sướng khi lập được công lớn cho chính quyền Sài Gòn, chuẩn bị được thăng quan tiến chức, hưởng mức lương bổng và sống an nhàn trong cái thời loạn lạc khó khăn này, hay là dằn vặt, khổ đau khi tự tay mình giết đi những người đồng đội, và dìm chết cái lý tưởng giải phóng dân tộc cao cả được cụ Hồ truyền dạy? Một nụ cười khinh đã xuất hiện trên đôi môi nhợt nhạt, bong tróc da non của chị. Chị bóc một mảng da môi, kéo nó đến gần khoé môi, đường máu tanh nồng chảy tràn ra, chị dùng cơn đau thể xác để che đậy sự thất vọng cùng cực thấu tận tâm can.
Khốn nạn thay ở cái thời chiến tranh này, sự trung thành còn chẳng bằng một tháng lương vài chục đồng bạc.
- Rứa bên Uỷ ban kháng chiến nói ra răng?
- Tôi đã báo với chỉ huy, mọi người vẫn đương tìm cách giải quyết. Tôi bị thương nặng quá, không thể tham gia cuộc họp được.
- Rứa mà đồng chí vẫn mò tới tận đây để báo cáo với tôi? Sức mô mà đồng chí trèo qua ba con dốc hay quá.
Người nọ mệt mỏi đáp:
- Tại tôi muốn xem thử ai là o Chi. Cậu Nhất có nói tôi lúc đi hành quân, rằng là hắn sợ o Chi trên đường về Hương Thọ sẽ xảy ra chuyện bất trắc. Chừ Nhất bị bắt rồi, không biết... có nên nói với o Chi không.
- Tốt nhất đừng nói. Tôi sợ nếu nghe, không khéo o sốc chết mất.
- Đồng chí hãy lựa lời mà nói với o, tìm cách giữ chân o ở lại. Sợ rằng bên tụi hắn bắt giữ Nhất rồi điều tra thông tin lý lịch, tới chừng đó o Chi nhất định sẽ bị liên lụy.
- Tôi đã hiểu, đồng chí cứ yên... Đồng chí! Đồng chí!
Bất ngờ, cả người cậu chiến sĩ đổ rạp về phía trước như cái cây bị chặt. Chị Trang không kịp đỡ, chỉ kịp choàng tay qua vai giữ họ lại, tránh để mặt người nọ đập vào tảng đá phía dưới. Chị tri hô mọi người cùng tới đây giúp đỡ. Khi một đồng chí nam cởi áo cậu ấy để xem xét tình hình vết thương, thì lại phát hiện ra ở bên xương sườn cậu ta có một vết thủng lớn do đạn bắn trúng. Nhưng, đó không phải do một viên đạn gây ra, mà giống như do đạn liên thanh bắn liên tục, trúng vào cùng một chỗ. Đếm sơ, chắc cũng phải có tới năm lỗ thủng nằm rải rác từ giữa hông tới vùng xương chậu. Vùng da quanh miệng vết thương sưng tấy, phồng rộp, thịt bị nghiền nát trộn lẫn vào nhau, máu me bê bết chẳng khác gì khi người ta dùng mũi dao thọc liên tục vào mạn sườn của một con vật. Mùi tanh tưởi toả ra nồng nặc, xộc vào cánh mũi khiến tất cả đều bịt kín mũi, một vài người tâm lý yếu không chịu nổi thì chạy đi nôn mửa, nôn ra mật xanh mật vàng.
- Đồng chí! Đồng chí có nghe tụi tôi nói chi không?
Anh Phát - trước khi trở thành lính thông tin cũng từng là y tá cho bệnh viện chiến khu, đương liên tục ghé sát vào tai cậu chiến sĩ mà gọi. Không thấy bất kỳ dấu hiệu phản ứng nào, anh hồi hộp, chậm rãi đưa ngón trỏ lên mũi cậu ấy. Hơi thở đã tắt, mắt người chiến sĩ nọ, cũng đã đứng tròng mất rồi.
"Cái chết bất ngờ không báo trước của anh lính trinh sát đã tạo ra một nỗi kinh hoàng, khắc sâu vào tâm trí những chiến sĩ đã có mặt tại thời điểm đó. Sự sợ hãi cái chết chẳng mấy chốc đã bao trùm toàn bộ con dốc Suối Hoang. Chùn bước, đắn đo, nhụt chí, là những cảm xúc mà họ không thể tránh khỏi, khi tận mắt chứng kiến một sự việc đau lòng diễn ra với người đồng đội mình..."
Tôi đương viết giữa chừng, thì bàn tay quấn kín băng gạc trắng của Nhung bất ngờ chìa ra, nắm lấy góc giấy trên bàn. Tôi ngó sang. Nhung lắc đầu, mái tóc rối bù đám đầy đất cát phủ kín nửa gương mặt đầy sẹo lồi và vết trầy xước do mảnh mìn từ vụ nổ vừa rồi cứa vào, trông như, em vừa ngóc đầu lên khỏi một cái hố cát. Tim tôi nhói đau, rồi tôi đáp lại cái nắm tay ấy của Nhung bằng một cái nắm tay khác, thân thiết như bè bạn, tôi nhẹ giọng hỏi:
- Chị viết sai ở đâu à?
Nhung gật đầu.
Chao! Nhận được câu trả lời thẳng thắn ấy từ em, tôi hụt hẫng, thất vọng. Tự trách rằng chỉ mỗi việc ghi chép lại lời em mà tôi cũng làm không được nữa ư? Tôi đương khiến lời kể của em khác xa với tâm nguyện và trí nhớ của em, đúng không Nhung? Tôi muốn hỏi em câu hỏi như thế, nhưng ngặt, không biết vì sao mà tôi lại chẳng thể mở miệng ra nổi.
Tiếng ầm ầm của máy bay tiêm kích đã bay rất gần chúng tôi, chỉ còn cách căn lều nằm cheo leo trên vách đá này vài cây số nữa, và chúng tôi thì bị thương nặng quá, không thể chạy trốn hay chui xuống hầm tránh bom nổi. Ruột gan tôi đương nóng lên hừng hực, tôi đoán, ruột gan em cũng thế. Nhưng có điều này, em không giống tôi. Tôi sợ cái chết, còn em thì không. Em nằm trên võng, gương mặt nhợt nhạt, xanh xao hệt tử thi, còn hơi thở của em, cách đây năm phút trước tôi đã kiểm tra, càng ngày càng yếu dần. Không còn bao lâu nữa. Nghĩ tới việc phải chứng kiến cái chết đương đày đoạ em, tôi ứa nước mắt vì thương, vì xót. Bên cạnh đó, tự dưng, đôi tay cầm bút của tôi bất ngờ ấm dần lên, như cái lắc đầu của em là một sự cảnh tỉnh cho tôi nhìn nhận lại những điều mình vừa viết. Tôi siết chặt thân bút, nhìn em, chạm phải ánh mắt kiên cường của cô chiến sĩ rà mìn tại đèo Phu La Nhích năm ấy, da gà tôi nổi rơn lên, như vừa chạm phải đôi mắt của một tượng đài sống.
- Tụi em không nhụt chí, chị nờ...
Em cong người, thở hơi lên, cố thốt ra câu nói khàn đặc.
- Lúc nớ, tụi em không sợ chi hết. Chỉ thấy... thương cho anh lính trinh sát thôi.
Tôi trân mắt, rồi không chút do dự, tôi xé ngay trang giấy chi chít chữ mình vừa viết. Em hốt hoảng định bật dậy ngăn, nhưng tôi dịu dàng trấn an em:
- Chị không muốn những điều chị viết về em, về các o là sự dối trá. Chị xin lỗi, chị chỉ nghĩ những cảm xúc ấy là những nỗi sợ bình thường của con người...
Em ngắt ngang lời tôi, bằng một tràn ho rũ rượi:
- Em có sao không? Uống ngụm nước cho đỡ.
Tôi luồn tay sau gáy, nâng đầu em lên, thật nhẹ nhàng như nâng niu một khối thuỷ tinh lấp lánh dễ vỡ. Nước mát chảy vào miệng, cơn ho đã đỡ, tôi lại đỡ em nằm xuống, lấy tấm mền rằn ri loang lổ máu và đất, đắp ngang bụng cho em.
- Chị viết không sai mô. Chỉ có điều, nỗi sợ tới lượt mình chết đối với tụi em là chuyện bình thường quá, sự phản bội vào thời điểm nớ, mới là thứ tụi em sợ nhất.
Nhung mỉm cười nhìn lên nóc lều, nóc tấm bạt đã trũng xuống do chứa một lượng đá nặng, chỉ cần thêm một tảng đá tầm trung rơi xuống nữa thôi thì chúng tôi có thể bị đè bẹp bất cứ lúc nào. Em nghiêng đầu sang bên phải, tôi không biết em muốn nhìn gì ở nơi góc lều tối tăm bốc mùi xú uế ấy, chỉ thấy em chậm rãi giơ tay chỉ. Tôi căng mắt nhìn, vẫn không thấy ai, hay đồ vật gì. Lát sau, em thều thào gọi:
- Chị Chi...
- Nhung.
Tôi khẽ gọi, và nhanh chóng nhận ra đầu óc em đã mụ mị hoang tưởng rồi. Đó là biểu hiện thường thấy ở những người cận kề với cái chết. Tôi từng thấy điều này xảy ra ở rất nhiều thương binh, lúc tôi còn công tác ở bệnh viện chiến khu. Có người thì thấy mạ, thấy ba, rồi vợ chồng con cái, hoặc có người còn nhìn thấy Đầu Trâu Mặt Ngựa đứng phía cuối giường bệnh, hăm he dẫn tội hồn xuống địa ngục. Vào lúc đó, người ta thấy mãn nguyện vì được gặp lại người thân cũng có, khiếp sợ, hoảng loạn cũng có. Và đối với Nhung, việc em thấy được người em yêu là sự mãn nguyện. Tôi trông đáy mắt em ánh lên sự yêu thương, nhung nhớ khó tả. Em gọi tên nàng Chi xong, thì khều tay tôi, hỏi một cách ngây thơ:
- Chị có thấy Chi không? Chi đương đứng ở bên tê, cách em hơn một sải tay.
Tôi hôn lên vầng trán lạnh và xanh ngắt của em, đáp:
- Chị thấy.
- Chị Chi muốn đón em đi. Chị nớ còn cầm cả khăn tay em thêu nữa.
Giọng nói em, nghẹn ngào. Tôi không muốn em chết, tôi muốn cô chiến sĩ nhỏ này phải sống. Em không thể chết như thế được, em ơi! Tôi vội lao lại hòm thuốc, lấy ống tiêm định tiêm một liều thuốc đặc trị bệnh cho em. Nhưng kim tiêm còn chưa chạm tới mạch, thì em đã ghì chặt cổ tay tôi. Nhân lúc tôi còn ngẩn người, thì em đã giật lấy xi lanh từ khi nào. Tôi nghe thấy tiếng xi lanh rơi xuống đất cái bộp, tới khi nhìn lại, không chỉ mỗi xi lanh bị em ném, mà ngay tới hòm thuốc chứa thuốc riêng cho em cũng bị em hất văng.
Thần kỳ làm sao, em có thể ngồi thẳng dậy như người bình thường, gương mặt em hồng hào trở lại, không có dấu hiệu gì cho thấy đây là một người vừa trải qua một trận sốt rét lẫn kiết lị nặng tới mức suýt chết không dưới mười lần. Tôi tần ngần dõi theo hành động sắp tới của Nhung. Em cầm cuốn sổ tôi dùng để ghi lại lời tâm sự của các thương binh, lật qua lật lại, rồi em trầm ngâm, như đương đọc một cuốn sách văn học mà trong đó, em là nhân vật chính.
Tôi nơm nớp lo sợ, rằng em sẽ phanh phui những điều mà tôi cố tình viết sai để thần tượng hoá em lên. Tôi có thể cảm nhận, mồ hôi mẹ mồ hôi con đã túa ra, chảy khắp cổ và trán tôi rồi.
Lát sau, em đặt cuốn sổ lên tảng đá tôi dùng làm bàn viết. Em hỏi:
- Mấy giờ rồi chị?
Tôi thất vọng nhìn đồng hồ đeo tay, cái đồng hồ vỡ nát, đứng kim từ lúc trận ném bom cuối cùng hôm qua vừa dứt. Tôi thở dài, đáp:
- Chị không biết.
- Vậy tụi mình sẽ nói chuyện, tới khi trận bom thứ mười ba dội thì thôi.
Nói rồi, em chỉ ra ngoài cửa lều. Khói bụi do bom đạn vẫn còn toả ra mù mịt chưa có dấu hiệu tản, nó bao khắp chúng tôi như làn sương sớm, nồng mùi thuốc nổ và hôi thối của xác người. Bầu không khí chết chóc, lạnh lẽo bất thường xộc vào bên trong, sống lưng tôi rùng lên, cứng như bị đông đá. Máy bay tiêm kích đã tới gần hơn vài cây số nữa, gió gào rít, cơn lốc bụi nhỏ bắt đầu xuất hiện, cuốn những chiếc lá khô cháy về phía tôi. Bụi bay, làm mắt tôi cay, cộm và khó chịu khủng khiếp. Tôi dốc bi đông, đổ thẳng nước lên mặt để rửa mắt. Nhung ngồi mà bật cười:
- Chừa nước để uống, chị nờ! Chừ rửa hết thì tới mấy ngày sau uống nước tiểu để sống đó.
Tưởng tượng được mùi khai của việc uống nước tiểu, tôi ớn lạnh, muốn nôn oẹ. Nhung bình thản kể:
- Hồi trước lúc bị bắt nhốt ở nhà lao Chín Hầm, đồng chí Nhất có kể cho tụi em nghe về việc nớ.
- Việc chi? Việc... uống nước tiểu để sống à?
Nhung gật đầu.
- Dạ. Chị có muốn nghe không? Có thể... câu chuyện về đồng chí Nhất sẽ góp phần làm dày cuốn sổ mỏng dính ni.
...
Sáu tên lính nguỵ cầm súng hăm he đi phía sau, phía trước, tên chỉ huy liên tục vung roi quất tới tấp vào tấm lưng trần của hai người chiến sĩ Cộng sản. Ngọn roi vừa chạm vào da, lập tức bật máu, in trên tấm da bủng beo gầy trơ xương ấy một con rắn hổ mang tím bầm, sưng rộp. Vừa giải tù nhân đi, miệng hắn vừa chửi, còn tay thì quất roi như thúc một con ngựa:
- Mẹ cha tụi mày, sung sướng không muốn lại muốn đi làm Việt Cộng!
- Có đi nhanh không? Đợi tao đánh gãy roi mới chịu đi à?
- Tiên sư tụi mày! Này thì đòi cầm súng, này thì đòi anh hùng!
Mỗi lần hắn gằn giọng, là mỗi lần Nhất và Luông phải hứng chịu cơn mưa roi tróc cả xương thịt. Cơn đau đã làm cả hai mờ mắt, tê dại, mất đi lý trí, nhưng chân thì cứ bị sợi xích ấy lôi đi, không muốn đi cũng không được. Đôi môi bầm dập, sưng vêu lên như bị ong chích của Luông liên tục phát ra tiếng rên rỉ đau đớn. Đầu gối anh khuỵ xuống, không đi nổi nữa, anh định ngồi bệt xuống thở, nhưng tụi lính lại xốc nách anh lên, chân không cử động được, thì chúng lôi anh xềnh xệch như lôi một con vật chuẩn bị đem đi làm thịt. Đùi bị chà xát dưới nền xi măng, tróc từng mảng da, tụi hắn lôi anh tới đâu, thì máu trên cơ thể anh kéo dài một đường tới đó. Tới khi dừng lại trước phòng hỏi cung, thì chúng không chần chừ mà đá thẳng hai người vào trong, sau đó khoá cửa, để mặc cho hai con sóc sắp sửa bị một bầy hổ làm thịt.
Bên trong phòng hỏi cung tối om, mùi ẩm mốc, tanh lòm của máu ngộp khắp mọi nơi, khiến Luông và Nhất không thể thở được. Tên phụ trách việc tra khảo tù nhân lần này tên Lê Văn Minh, được tù nhân ưu ái gọi bằng cái tên "Minh ác bá" vì cái sự tra tấn dã man của mình. Vừa đón nhận hai tên tù Cộng Sản vào nhà lao, Văn Minh đã trưng ra bộ mặt hí hửng khoái chí. Hắn lăm le khẩu súng lục trong tay, khoan thai ngồi xuống ghế, phía sau hắn còn có thể năm tên tay sai khác đứng canh chừng, tỉ lệ trốn thoát gần như bằng không.
- Tụi mày là Việt Cộng? Ngu dốt!
Hắn phun một bãi nước bọt xuống chân Nhất, rồi phất tay, ra hiệu lính ép hai người ngồi xuống phía đối diện. Giọng hắn bỗng trở nên dịu lại:
- Anh sẽ cho tụi mày mọi thứ tụi mày muốn, chỉ cần nói ra những điều sau đây...
- Lại cái giọng nịnh nọt. Nghe muốn ói!
Luông khinh bỉ làu bàu. Anh trừng mắt nhìn Văn Minh, đầu ngẩng cao như thách, lưng tuy đau rát vì bị đánh nhưng vẫn thẳng, chẳng khác gì cây tre mọc cao kiên cường.
- Thôi mà chú em, sao lại gắt gỏng như vậy? Anh biết chuyện em bị bắt vô đây là điều khó chịu, nhưng em yên tâm, chỉ cần hợp tác với chính quyền, thì chức cao vọng trọng như anh đây, chú em muốn thì sẽ có liền. Cần chi mà phải sống một cuộc đời chui lũi, sợ đầu kê vô máy chém thế này?
- Hoá ra, tụi mày ngoài cái chuyện móc họng ra thì còn kiêm thêm chuyện viết báo nữa à? Bịa đặt ghê gớm!
Văn Minh cười cười, lắc đầu chế giễu:
- Chú em quả là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Những tên Việt Cộng mới vừa bị bắt vô đây cũng mạnh miệng như em vậy đó, nhưng sau một thời gian được thương bằng đòn roi, bằng búa nện vào mặt thì lại ngoan ngay thôi. Chú em đừng để anh, và mọi người phải nóng chớ.
- Đập gãy răng, rút lưỡi người ta rồi tự nhét chữ ngoan ngoãn vô miệng như rứa thì mày hay rồi. Chỉ có điều, mày chỉ rút lưỡi làm họ im miệng được, chớ còn cái tâm, trái tim của họ thì đố tụi mày lay động được tới!
Luông vừa dứt chữ cuối, một bạt tai như trời giáng đã giáng thẳng xuống mặt anh. Cậu Nhất ngồi cạnh trợn mắt ngỡ ngàng, nhưng rồi sự ngỡ ngàng ấy chỉ trong tích tắc lại hoá thành phẫn nộ. Cậu vùng dậy định trả đũa thay anh mình, thì lại bị hai tên lính phía sau dùng báng súng dọng thẳng vào giữa lưng và ngực. Nhất phun ra ngụm máu, nửa thân trên bị cưỡng chế áp xuống mặt bàn. Cậu vùng vẫy chân tay. Tức thì, bên thái dương Nhất xuất hiện sự lạnh lẽo như có thứ gì đó chĩa vào. Không khó để cậu nhận ra, sự lạnh lẽo ấy bắt nguồn từ ngọn súng lục mà tên ác bá Minh đương cầm.
Văn Minh nhếch mép cười, vẫn là cái nụ cười nham hiểm ghê tởm ấy. Hắn trầm giọng đe doạ:
- Ăn cơm ngon không muốn, lại muốn ăn đạn đồng à?
Tim Nhất đập thình thịch.
Nhìn thấy sự sợ hãi đã thoáng ẩn hiện trên gương mặt của tên tù, Văn Minh phá lên cười ha hả. Hắn để sẵn tay ở cò súng, tiếp tục nói:
- Đây không phải là nơi để Cộng Sản tụi mày tác quai tác quái. Không nghe lời, tao sẽ róc thịt mày ra. Tới lúc đó, đừng trách!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com