CHƯƠNG 3: CHIẾN KHU DƯƠNG HOÀ (1)
Nghe tiếng gọi của Nhung vang lên sau lưng, nàng Chi lập tức ngoái đầu lại nhìn. Nhung đội nắng chạy tới cạnh nàng, hai tay em để trước trán, nhưng chẳng che nắng được bao nhiêu. Em cười toe toét nhìn nàng Chi, hỏi rằng:
- Rứa chị Chi về nhà giờ ni, không sợ buồn à?
- Răng mà buồn?
Chi vừa đáp, vừa kéo em vô trước hiên của một ngôi nhà lá gần đó đứng cho mát. Nàng nở nụ cười hiền, khi thấy cô bộ đội nhỏ nhắn trước mặt đương cố gắng làm ra vẻ oai phong.
Nhung ngó ra ngoài trời, nắng vẫn còn ác lắm, chưa thể dịu xuống được. Phía đình làng đương ầm ĩ tiếng ly chén cụng vào nhau loảng xoảng, tiếng nói cười của các đồng đội càng khiến em nóng ruột hơn. Em nhăn nhó mặt mày. Vốn định sẽ chạy ra đình làng hòa chung cuộc vui với mọi người, vì bụng em dù sao cũng đã đói meo lên rồi, ngặt khi nghĩ tới nàng Chi lủi tha lủi thủi về nhà một mình giờ này, không biết sao mà em lại thấy tội nàng lắm. Em giẫm chân lộ vẻ gấp rút, nói dồn:
- Thì mọi người đều tập trung ở đó hết, trong làng làm chi còn ai mô. Chị Chi ra với em đi, ra đó có cơm ăn, ngon lắm!
Trước sự mời gọi nhiệt tình của đồng chí ấy, nàng Chi lắc đầu:
- Tôi đã nói không ra thì sẽ không ra. Em đừng có vì tôi mà lỡ bữa ăn với đồng đội chớ.
- Rứa chị Chi không ra, em cũng không ra mô.
Rồi Nhung khoanh tay, quay mặt phắt đi làm vẻ giận dỗi, cứ như mình và nàng Chi nọ đã thân nhau từ lâu lắm rồi.
Ban đầu, nàng Chi cũng ngớ người với hành động và biểu cảm kì lạ của cô thanh niên xung phong ấy, nhưng chỉ chừng vài giây sau, nàng tức cười quá, không chịu nổi mà bật cười thành tiếng. Nhung nghe nàng cười, hai má em lập tức hây hây ửng hồng, có lẽ em ngại. Em cúi đầu không dám nhìn thẳng vào mắt nàng Chi, chỉ dám thỏ thẻ nói:
- Tại em muốn chị Chi ra ăn với mọi người trong làng, nên mới làm như ri.
Bẵng đi một lát sau, không thấy Chi trả lời, sự xấu hổ của Nhung càng dâng cao hơn nữa. Em cứ nghĩ, bản thân mình vừa nói ra điều gì đó không phải khiến Chi phật lòng. Thế nên, em bèn nói lời xin lỗi nàng ấy rồi chấp nhận một mình ra ngoài đình làng, không dám ép uổng Chi theo mình nữa. Đương lúc Nhung ngậm ngùi chuẩn bị rời đi, thì nàng Chi bất ngờ gọi em lại. Nhung tròn xoe mắt nhìn nàng, hai tay để lên trán che nắng còn chưa kịp hạ xuống.
- Răng em Nhung mới vừa gặp tôi, mà lại tốt với tôi rứa?
Nhung không chút chần chừ, tự nhiên đáp:
- Em với chị Chi cùng là con người với nhau, bỏ nhau một mình, răng mà đành?
Nàng Chi tiếp tục vừa lắc đầu vừa cười.
- Ý tôi không phải rứa. Em ngây thơ quá, răng mà đi đánh giặc được?
Nhung chau mày, khó hiểu hỏi:
- Răng chị Chi nói em ngây thơ? Em chỉ trả lời đúng với những chị hỏi thôi. Chị hỏi như rứa, thì em trả lời rứa đó.
Câu trả lời ngây ngô của Nhung chẳng những không có chút thuyết phục nào, mà ngược lại còn khiến nàng Chi được một phen nhịn cười muốn vỡ bụng. Nàng bụm miệng, cố gắng đè cơn cười xuống. Nhung thấy nàng chỉ vì một lời lời nói của mình mà vui vẻ thế kia, không còn nét ủ dột trên gương mặt như vừa rồi nữa, thì em mừng. Thế là, em cũng cười theo nàng.
Lạ thay, cả hai người họ tuy chỉ mới gặp nhau chưa tới một tiếng, vậy mà lại có thể thoải mái nói chuyện với nhau thế này. Chính bản thân Nhung cũng ngạc nhiên lắm, vì từ trước tới giờ, em chưa từng nói chuyện với người lạ nào một cách thân mật như khi nói chuyện với nàng Chi hết.
- Chị Chi cười rứa, là chịu ra ăn cùng em rồi đó nha.
- Ai nói tôi cười, là tôi đồng ý chớ?
- Thì...thì...Chớ chị Chi thiệt sự không muốn ra à?
Tự dưng, Chi có chút đắn đo. Dường như mấy câu hỏi dai như đỉa này của Nhung đã góp phần làm lung lay quyết định về nhà của Chi. Nàng xoa cằm nghĩ ngợi, còn Nhung ở đó cứ luôn miệng thuyết phục:
- Chị Chi ra ăn với em đi. Chị Chi mà không ra, là chị Trang tiểu đội trưởng của em ăn hết thịt bò đó.
- Rứa cứ để các đồng chí nớ ăn. Các chị, các em đi hành quân từ sáng tới chừ mệt rồi, ăn cho có sức chớ.
- Nhưng để chị Chi về nhà, em thấy tội chị Chi lắm.
Nói xong, nét mặt Nhung ỉu xìu thấy rõ. Nàng Chi thở dài, đứng đó dưa nãy giờ với con bé này làm nàng càng mệt thêm, chứ có khoẻ hơn chút nào đâu. Vốn dĩ Chi định sẽ lánh mặt mọi người trong làng, vì chuyện vừa nãy giữa nàng với trưởng làng đã khiến người dân tỏ ra khinh ghét nàng lắm, nàng biết điều đó, nên tạm thời nàng không muốn nói chuyện với ai hết. Tự dưng nghĩ tới chuyện ấy, nàng Chi lại thấy bụng dạ mình có chút lo. Nàng lo về cha mạ.
Cha mạ nàng đã rời làng Vĩnh Hoá sang làng Văn Xá có chút chuyện từ hôm qua, hình như là thăm bà con họ ngoại, nên bây giờ nàng chỉ ở nhà với một con ở tên Cẩm. Con Cẩm ấy tính tình hay tọc mạch, lẻo mép lắm, nàng sợ sau khi cha mạ về, thì nó sẽ đem chuyện hồi sáng này ra nói lại với cha mạ nàng, tới lúc đó, Chi không biết phải đối diện với họ làm sao nữa. Nàng thở dài, và thất thần nhìn về phía con đường dẫn về nhà giờ đó đã bị ánh nắng buổi trưa chiếu rọi tới chói mắt. Nàng tự trách, biết thế thì lúc ấy mình im lặng cho xong, nói ra làm chi để rồi bây giờ phải e dè lo sợ thế này?
- Thôi, không nói chuyện nớ nữa mô. Tôi về nhà đây.
Nàng Chi thẳng thừng lướt qua mặt Nhung. Ngặt còn chưa đi được mấy bước, thì tay áo nàng đã bị em ta kéo lại. Nàng cúi xuống nhìn đôi tay khô sạm của người kia chạm vào bộ áo gấm mình đương mặc, nàng trầm giọng hỏi:
- Em định nói chi rứa?
- Không, em có định nói chi đâu. Hình như... chị Chi sốt à?
Đoạn Nhung lại gần, đưa tay sờ lên trán nàng Chi một cách tự nhiên. Cảm nhận trán nàng ấy đương nóng hầm hập, y hệt như lúc em bị sốt rét hồi ở chiến khu, Nhung không giấu được vẻ lo lắng.
- Chị Chi bị sốt thiệt rồi. Không giỡn mô.
- Nắng làm tôi nóng, chớ không phải tôi sốt.
- Nắng chi mà nắng dữ rứa? Nhưng em nói thiệt đó, chị Chi bệnh rồi. Bệnh mà tự về nhà giờ ni, giữa đường chị xỉu thì làm răng ai hay?
- Nếu như không nói chuyện với em, là tôi về nhà nằm được mười phút rồi đó.
Nghe giọng nàng Chi khó chịu, Nhung cũng nhận ra nãy giờ mình làm phiền người nọ hơi nhiều rồi. Em rụt tay lại và thọt vô túi áo ka ki, cúi đầu đáp:
- Em xin lỗi chị Chi, em không biết. Rứa... rứa chị Chi về nhà nghỉ ngơi đi, em không làm phiền chị Chi nữa mô.
Nhung nói xong, thì phồng má. Nàng Chi có chút mủi lòng, tự ngẫm lại rằng, em Nhung đã có lòng tốt muốn cùng mình ra đình vì sợ mình về nhà cô đơn, ngờ đâu mình lại phũ phàng em ấy quá, làm người với nhau, sao mà phũ nhau thế được? Nhưng nếu ra sẽ phải đối diện với người làng, tới lúc đó thì còn khó xử hơn. Biết làm sao cho vẹn cả đôi đường bây giờ? Nàng Chi cứ nhìn Nhung, rồi lại nhìn chỗ sân đình đằng kia, lòng nàng bối rối không thôi. Nàng không biết phải trả lời Nhung làm sao, cũng không biết bây giờ mình cần hành xử thế nào. Cho tới khi ngẩng đầu nhìn, thì nàng đã thấy dáng người nhỏ nhắn của em chạy về hướng đình làng đằng kia. Chi không kịp gọi em lại, chỉ im lặng dõi theo tấm lưng cô bé, cho tới khi tấm lưng ấy bị cây cột đình to tướng che khuất. Cảm giác thất vọng kì lạ bất ngờ xuất hiện trong lòng khiến nàng thở dài một hơi não nề.
Riêng Nhung sau khi tới đình làng, em đã được chị tiểu đội trưởng dọn sẵn cho một chỗ kế bên mình. Chị Trang kéo em ngồi xuống, o Trinh đưa cho em cái chén với đôi đũa, mà bên trong chén đã có sẵn ít vả trộn thịt bò và cơm trắng. Vừa ăn được đũa đầu tiên, chị Trang đã hỏi em:
- Đồng chí làm chi mà lâu rứa? Tôi còn tưởng đồng chí xỉu luôn ngoài giếng tê.
Nhung nhai miếng thịt bò, miệng còn bóng mỡ, đáp:
- Tôi bận nói chuyện với chị Chi nớ.
Rồi em chỉ tay về hướng hiên nhà lá vừa nãy mình và Chi còn đứng nói chuyện cùng nhau. Chị Trang nhìn theo hướng tay em chỉ thì chẳng thấy ai. Chị quay sang hỏi tiếp:
- Chị Chi là ai?
O Trinh ngồi cách hai đồng chí không xa, nghe họ nhắc tới tên nàng Chi, o liền chen vào hỏi:
- Rứa mi nói chuyện với Chi rồi à? Mi nói chuyện với hắn ở mô?
Nhung đặt chén cơm đương ăn dở xuống rồi mới đáp:
- Dạ thưa o, con nói chuyện với chị nớ ở chỗ giếng làng.
O Trinh và các o khác đồng loạt nhìn nhau, những gương mặt đã hằn lên sự khắc khổ vì nghèo đói giờ đó bỗng dưng phảng phất thêm nét buồn rầu. Các đồng chí khác cũng ngừng đũa vì thấy biểu cảm kì lạ trên mặt các o, họ im lặng không dám thở mạnh. Bầu không khí bữa ăn đương ấm cúng vui vẻ, bây giờ lại bất ngờ nhuốm một màu im lặng xám xịt. Chính bản thân Nhung cũng tự hỏi, rốt cuộc vì sao mà các o, các chú, các bác lại tỏ ra khó xử khi mình nhắc tới nàng Chi thế này? Em nghía qua chị Trang ngồi kế bên, khe khẽ khều đùi chị, em thì thào hỏi:
- Tôi... tôi có nói sai điều chi à?
Chị Trang chau mày nhìn em, lắc đầu biểu lộ không biết.
Lúc này, một chú ngồi phía bên kia vòng tròn, cách chỗ tiểu đội chừng mười bước chân đứng lên. Dáng chú ấy hơi còng, mặt mày đầy những vết sẹo lồi, nhìn có vẻ hung hăng, bặm trợn lắm. Chú gườm gườm nhìn ra phía bậc thềm đình làng đó lá bàng rơi rụng, gằn giọng nói:
- Hắn ăn nói với trưởng làng như rứa, làm răng có mặt mũi tới gặp mặt mọi người?
Một o khác, như là vợ chú ấy vội kéo chồng ngồi xuống. Nhưng vì đương có cơn say trong người, Nhung đoán thế, vì mặt chú ấy đỏ gay lên và hai mắt thì lờ đờ, chú gạt phắt tay o nọ ra, cầm chai rượu tiếp tục gào lên:
- Thử mà có thầy Lĩnh ở đó coi, hắn có dám đứng lên trả treo nữa không? Rứa hí, tôi nói với mọi người hay, con Chi nớ có khi là con hoang của thầy Lĩnh đó. Nhìn mặt hắn xem, có giống ai trong cái nhà nớ mô, ngay tới tính tình cũng không.
Chú ấy vừa nói xong, hàng loạt tiếng xì xầm bàn tán từ tứ phía vang lên xôn xao. Người làng, đặc biệt là những người đàn ông đều nhiệt tình hưởng ứng theo lời nói vô căn cứ đó, còn riêng các o thì im lặng không xen vào, hay nói thêm lời nào. Nhung để ý, mặt mày o nào o nấy đều tối sầm lại, có o hình như không chịu nổi những lời nói cay độc kia mà lẳng lặng đứng dậy rời khỏi sân đình, và thêm vài o nữa thì sụt sịt khóc. Nhung tự hỏi, tại sao các o ấy lại khóc vì chuyện không phải của nhà mình, và tại sao, người làng Vĩnh Hoá này lại có thể độc mồm độc miệng, nói về nàng Chi nọ bằng giọng điệu khinh khi như thế?
Miếng thịt bò trộn nuốt xuống bụng đã mấy phút, ấy thế mà bây giờ Nhung lại thấy ruột gan mình lộn lên, như muốn nôn hết những thứ mình vừa ăn ra. Em nghẹn cổ, tới mức mà chị Trang bên cạnh phải đưa nước cho em uống thì mới đỡ được.
Tiếng cười của những người đàn ông ấy rộ lên làm Nhung nhớ tới tiếng cười của gã trưởng làng hách dịch hồi sáng. Em phẫn nộ siết chặt hai tay, vốn muốn đứng đó ngăn ngay những giọng cười cợt nhã ấy, nhưng còn chưa kịp làm gì, thì ngoài cổng đình chợt vang lên tiếng gọi của o nào đó. Nhung giật mình ngó sang, một o hớt hải chạy vào, chỉ thẳng vô mặt người chú nọ, giận dữ nói:
- Ông nớ, nói lớn làm chi để hắn nghe? Nãy chừ hắn nấp ở cổng đình đó, hắn nghe hết rồi còn mô.
- Hắn là con Chi à?
Người chú tái xanh mặt mày, hỏi ngược.
O đó gật đầu lia lịa, nước mắt ngắn dài than rằng:
- Trời ơi! Giờ chừ hắn nghe hết, hắn về nói với cha mạ hắn, thì cha hắn làm ầm cả làng lên. Mấy ông làm ra chuyện nớ, thì liệu mà đi xin lỗi thầy Lĩnh đi. Bị vu oan là con hoang, mạ chửa hoang thì trời đất mô mà thấu cho nổi. Các ông say, nói bậy thì cũng bậy vừa vừa chớ, răng mà đụng chạm tới phẩm hạnh người ta rứa?
O nói xong thì vùng vằng bước vào đám đông, ẵm thằng con trai mình rời đi, để lại những gã đàn ông ngồi đó với vẻ mặt bàng hoàng, xanh lét.
- Chị... chị Chi giờ chừ ở mô rứa o?
Trước khi o nọ rời đi hẳn, Nhung đã kịp hỏi thế.
O hất hàm ra chỗ giếng làng, đáp:
- Hắn nghe được mấy lời đó thì chạy về nhà rồi. Tội nghiệp! Lúc tôi phát hiện ra hắn nấp ở cổng đình, thì hắn đương cầm rổ xoài tê.
O chỉ mấy trái xoài vàng ươm nằm vương vãi đằng kia, bây giờ Nhung mới thấy. O nói tiếp:
- Hắn vừa chộ tôi thì làm rơi cả rổ xoài. Tôi chộ hắn khóc lóc thảm thương lắm.
O nói xong, thì đi hẳn, trước khi đi còn không quên ném cho đám đông kia, đặc biệt là mấy gã đàn ông ánh nhìn tràn ngập sự khinh thường và căm phẫn.
Nhung nghe mấy lời mà o thuật lại, tim em bỗng đau xót. Em lo lắng cho nàng Chi, sợ rằng nàng ấy vì buồn tủi mà nghĩ quẩn thì toi. Em vội vàng đứng dậy, xỏ dép cao su và định chạy đi tìm nàng, tiếc thay vô lúc này chị Trang lại kêu cả tiểu đội chuẩn bị ra về. Vì hơn ai hết chị biết, với tình hình làng đương rối ren đủ thứ chuyện thế này mà tiểu đội ở lại, thì quả thật không hay chút nào.
- Giờ chừ cũng không còn sớm nữa, tụi cháu phải về chiến khu ngay kẻo tới chiều thì trễ.
Các chị em khác nghe tới đó đều tự giác đứng dậy, sắp xếp lại chén đũa cho gọn gàng.
- Mọi người ăn thêm đi chớ, bữa ăn còn chưa kết thúc...
O Trinh cũng đứng theo. O ráng níu các chiến sĩ lại, bằng giọng van nài:
- Làng Vĩnh Hoá hôm ni mới được vui như rứa, là nhờ có các o về tuyên truyền. Hay thôi, các o nán lại thêm chút nữa được không? Tụi tôi coi các o như con cháu trong nhà, các o đừng ngại chi hết.
Chị Trang bước tới ôm o Trinh. Đứng trước tình thương của người dân thế này, thì người chiến sĩ ngoài chiến trường kia dù có mạnh mẽ, can trường bao nhiêu cũng không kiềm được nước mắt. Chị rơm rớm nhìn o, và nhìn những người đồng đội của mình, lại có chút luyến tiếc. Song vì tính chất đặc thù của nhiệm vụ, và cũng vì sự tình làng đương phức tạp, chị Trang dù muốn ở lại lắm nhưng cũng không sao ở được. Thế nên, chị bèn đáp lời o, bằng chất giọng nghẹn ngào:
- Tụi con cũng muốn lắm, mà điều không được o ạ. Vì nếu ở lại thêm, thì có thể sẽ lỡ mất nhiệm vụ đã được phân công trên chiến khu. O... thông cảm giùm tụi con nghe.
O Trinh đau đáu nhìn chị Trang, nhìn tiểu đội, và nhìn cả Nhung. O thất vọng lầm bầm, trong khi nước mắt thì rơi lã chã:
- Rứa à? Rứa là không thể ở lại được à? Trời ơi, tụi nhỏ còn chưa ăn được chừng mô. Răng mới có mười tám đôi mươi mà lại khổ rứa?
O gạt nước mắt và bật ra tiếng thở dài. Nghĩ tới chuyện những cô thanh niên phơi phới sức trẻ trước mặt mình giờ đó phải bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ cả vui chơi để phục việc nước, giúp việc dân làm lòng o đau như cắt. Bản thân o Trinh cũng có một thằng con trai viết đơn đi tình nguyện, tới giờ này đã năm, sáu năm mà vẫn không hay tin tức, chẳng biết anh ấy sống hay chết, thành ra khi trông thấy những anh bộ đội, cô bộ đội về làng, o đều thương hết thảy. O Trinh thương cả tiểu đội chẳng khác gì thương những đứa con mà o rứt ruột sinh ra. Bởi o nghĩ ở một nơi nào đó trên đất nước này, con trai của o cũng từng được những người mạ khác thương giống như vậy. Và không chỉ riêng o, mà các o trong làng đều như thế. Còn gì đau xót hơn khi thấy bóng hình đứa con ở mặt trận của mình được ẩn hiện qua gương mặt những người đương còn ở hậu phương chứ.
- Chừ các o về luôn à?
Chị Trang lưỡng lự, rồi chị gật đầu:
- Dạ o, tụi con về luôn.
Một o khác, o này tên Như, trẻ hơn o Trinh một chút. O Như xoa vai an ủi o Trinh, khẽ nói:
- Ừ thôi, các o về mạnh giỏi. Đừng lo chi ở đây hết. Khi mô có bom, tụi tôi sẽ cùng nhau vô hầm trú ẩn.
Rồi o Như quay sang o Trinh đương khóc không thành tiếng, dịu dàng khuyên rằng:
- Chị ni đừng có khóc nữa. Chị mà khóc, các o nớ răng mà nỡ đi?
O Trinh nấc nghẹn, gục đầu vô vai o Như.
Chị Trang đứng đó lại càng khó xử hơn. Chị giơ tay xem đồng hồ, đã hai giờ chiều mất, nếu cứ nấn ná ở lại thì trước sau gì cả đội cũng về chiến khu trễ. Chị mím môi, kìm nén dòng nước mắt đương trực trào mà ôm o Trinh, luôn cả o Như lần cuối.
- Con đại diện cả tiểu đội cảm ơn làng ta vì lần đón tiếp ni. Tình cảm của mọi người dành cho tụi con, thiệt tình con không biết sao mà kể xiết. Chừ tụi con coi mọi người như là cha, là mạ, là ôn và mệ của tụi con vậy. Nếu có dịp được đi tuyên truyền ở làng ta lần nữa, con nhất định sẽ ở lại lâu hơn với mọi người. Các o, các mệ, các chú, các bác đừng có buồn tụi con nghe.
Lời nói của chị Trang tuy không phải là những lời hoa mỹ, chỉ là những lời giản đơn, hết sức giản đơn, nhưng tự trong nó đã mang một sự cảm động không thể xem thường được. Chị Trang vừa dứt câu cuối, thì cũng là lúc mười một chị em khác trong tiểu đội rơm rớm nước mắt. Các chị nắm chặt tay nhau, ghé sát tai khuyên nhủ lẫn nhau. Thật tình mà nói, nhận được những sự quan tâm, chăm sóc ân cần từ các o thế này, thì những chiến sĩ xa nhà như họ còn lòng dạ nào mà rời đi cho được.
Chị Trang buông hai o kia ra, và nói với tiểu đội tới bắt tay từng người trong làng để tỏ lòng biết ơn. Nhưng ngặt, chỉ bắt tay được với các o mà thôi, chứ còn những người đàn ông khác trong làng lúc này không hiểu vì sao mặt mày hằn học khó chịu, khiến những chị em trong tiểu đội chỉ dám gật nhẹ đầu, chứ chẳng dám đá động gì tới nữa.
Chào tạm biệt xong xuôi, tiểu đội liền khoác lại ba lô, vác lại súng trên vai. Bây giờ mặt mày ai nấy đều trở nên nghiêm nghị, không còn ai dám hó hé, nói cười trong hàng ngũ nữa. Nhưng Nhung, cô bé ấy dường như vẫn còn mơ màng ở đâu đó. Nhung đứng phía cuối hàng, phóng tầm mắt ra chỗ cái giếng làng thoắt ẩn thoắt hiện sau tấm màn nắng đó. Nhung nhìn với cái hy vọng rằng em sẽ thấy được nàng Chi ở đó. Em lo quá, không biết bây giờ nàng ta thế nào rồi? Khi nãy em nghe o nọ kể lại tình hình của Chi mà ruột gan xào xáo không thôi. Vừa hay lúc này chị Trang đương đi xuống từng đồng chí để kiểm tra tác phong và quân tư trang, vừa nhìn thấy chị tới gần chỗ mình, Nhung liền kéo chị lại và hỏi nhỏ:
- Đồng chí cho tôi xin năm phút được không?
- Đồng chí định làm chi?
Nhung lấm lét ngó nghiêng, rồi em đáp:
- Tôi đi tìm một người trong làng. Khi mô xong, tôi sẽ bám theo đội ta.
Chị Trang đanh mặt, trừng mắt nhìn Nhung, chị gằn giọng:
- Rứa là đồng chí không coi trọng tác phong quân đội? Tôi đã tha cho đồng chí một lần, để lần ni đồng chí leo lên đầu tôi ngồi à?
Lời nói nghiêm nghị của tiểu đội trưởng khiến tim Nhung giật thót. Em lắc đầu nguầy nguậy, sợ sệt đáp:
- Tôi không có ý đó. Tại vì tôi...
- Thôi không nhiều lời nữa mô, tôi không chấp nhận cái lí do nớ của đồng chí. Chừ đồng chí đứng nghiêm túc, chúng ta hành quân về chiến khu.
Không kịp để Nhung nói thêm lời nào, chị Trang đã thổi còi ra hiệu cuộc hành quân bắt đầu. Cả tiểu đội cùng nhau đi đều bước ra khỏi cổng làng Vĩnh Hoá, trong sự tiếc nuối của các o, và sự day dứt vì không thể nhìn thấy nàng Chi của đồng chí nào đó.
Khi cả tiểu đội vừa rời khỏi làng được vài phút, thì từ phía sau bỗng xuất hiện hàng chục tiếng bước chân nối tiếp theo. Các chị em khác quay lại nhìn, mọi người đều sững sờ khi thấy các o đương tất tả đuổi theo mình. Các o ấy khi bắt kịp với tiểu đội rồi, thì dúi vô tay từng người trong tiểu đội những bức thư, những tấm hình đã bị mờ và rách theo thời gian. O Trinh đại diện cho những o ấy, dặn tiểu đội rằng:
- Đó là thư của tụi tôi gửi tới mấy đứa con ở ngoài mặt trận, và tê là hình của tụi hắn...
O nói được giữa chừng thì khóc, kéo theo cả những o khác phía sau cũng thế.
- Khi mô... khi mô các o về, các o xem trong đó có ai ở cùng chiến khu, hay ở các chiến khu lân cận thì gửi cho tụi hắn giùm tôi nghe. Hình ni là để các o dễ nhìn mặt tụi hắn. Chừ tụi tôi không biết... không biết tụi hắn còn sống hay đã chết nữa.
Rồi o dúi bức hình của con trai mình vào tay Nhung, dặn em thật kĩ:
- Mi giúp o, tìm cho ra tung tích của hắn giùm o. O sốt ruột quá mi ơi, o sợ hắn chết rồi. Chứ làm răng biệt tăm biệt tích năm, sáu năm ni mà không có nổi một bức thư gửi về được.
Lồng ngực Nhung quặn lên cơn đau. Em cất bức hình vào túi áo, chua xót đáp:
- Con biết rồi. Con nhất định sẽ tìm anh nớ, và nhắn anh nớ gửi thư về cho o.
Và như sợ chị tiểu đội trưởng nghe thấy lời hứa của mình, Nhung nhanh chóng bụm miệng lại, ngó lên cuối hàng để xem thử chị Trang đương làm gì. May thay, chị ấy cũng bận bịu với những lá thư của những o kia, hoàn toàn không để ý gì tới em cả.
- O không biết chữ, không viết được thư. Khi mô mi gặp hắn, mi nói với hắn, o hắn ở nhà trông hắn về lắm, nghe không? Còn nếu mi biết hắn chết, thì cứ viết thư, trong thư chỉ cần chấm một dấu chấm, là o đã hiểu rồi. Nếu hắn chết thiệt, o nguyện bỏ cái thân già ni để quyên sinh theo hắn. Trái tim của đứa con cũng là trái tim của người mạ, con chết rồi, làm răng mạ sống cho nổi?
Nói tới đó, tiếng khóc của o Trinh càng dữ dội hơn. O bất lực ngã khuỵ xuống đất, bưng mặt khóc nức nở. Nhung cũng không cứng lòng nổi, nhìn o khóc mà em đau lòng tới nghẹn thở. Em vội đỡ o đứng dậy, lau nước mắt cho o trong sự thương xót. Em gật đầu, nắm thật chặt tay o, nhỏ giọng trấn an:
- Con biết rồi. Con hứa với o, con sẽ dốc sức tìm anh nớ cho o. O ở nhà đừng lo gì nghe. O tin con! O tin con nghe o!
O Trinh khóc tới mệt lả, tới độ o không còn nghe rõ những gì mà Nhung vừa nói với mình nữa. O chỉ gật đầu trong vô thức, đôi mắt đục ngầu không ngừng tuôn ra những dòng nước mắt mặn chát, nghẹn ngào sự nhớ thương.
Sau khi nhận được nhiệm vụ hết sức cao cả mà người dân làng Vĩnh Hoá giao phó, thì tiểu đội lên đường tiếp tục cuộc hành quân. Nhưng khi tiểu đội chỉ vừa đi được mười bước, thì o Trinh lại bất ngờ gào lên, một tiếng gào xé lòng không chỉ riêng Nhung, mà còn đối với mười một chị em khác:
- Tụi con phải bình an trở về đó! Về làng ni, mạ nấu cơm cho tụi con ăn!
Nhung rưng rưng nước mắt, ngoái nhìn các o đương đứng phía xa vẫy tay chào mình. Và em cũng luyến tiếc nhìn hình ảnh cổng làng Vĩnh Hoá với tấm biển dã chiến "Quân với dân, như cá với nước" dần biến mất khỏi tầm mắt.
Chiều hôm đó ở chiến khu Dương Hoà, trong các lán được xây dựng bên một dòng suối không tên "bất khả xâm phạm", được phủ khắp bởi tán cây vả và những bờ lau sậy mọc rậm rạp, ấy là nơi ở của các nữ chiến sĩ. Các chị em trong tiểu đội 3 sau khi từ Phú Lộc trở về thì cùng nhau tắm gội dưới con suối ấy. Những chị lớn ngồi trên những mỏm đá, và người nào nhỏ tuổi hơn thì sẽ ngồi dưới, xõa mái tóc rối bời, bết nhệch những chấy của mình ra cho các chị chải và bắt chấy giúp. Mọi người cùng nhau trầm mình dưới dòng suối ấm lạ kỳ ấy, cùng nhau đùa giỡn, nói cười, để cho dòng suối trong vắt gột rửa những bùn đất, thanh tẩy mùi thuốc súng nồng nặc. Họ tận hưởng những đặc ân ấy vào những giây phút yên bình hiếm hoi của của cuộc chiến. Như một món quà quý giá mà họ đáng lẽ ra phải được hưởng như những người phụ nữ ngoài kia.
Tuy số lượng nữ chiến sĩ công tác trong chiến khu không nhiều, chủ yếu là các o làm bộ phận thông tin, giao liên, quân y,... dù ít, nhưng mọi người trong chiến khu vẫn luôn dành một sự ưu tiên đối với họ. Thêm nữa vì là con gái, nên vấn đề tắm gội của các o sẽ phức tạp hơn con trai. Vậy nên cả chiến khu mới lựa chọn xây dựng lán, trại cho các o ở gần bờ suối, khuất sau hàng lau sậy, thậm chí có cả hàng rào để đảm bảo an toàn. Trong tình hình chiến khu còn thiếu thốn, phải dựa vào sự tiếp tế từ dưới Huế lên, thì việc tiếp tế những nhu yếu phẩm dành cho các o là một trong những ưu tiên hàng đầu. Và nhờ vào sự tiếp tế từ đồng bào dưới xuôi, mà vấn đề tế nhị của chị em chiến sĩ mới tạm thời được đảm bảo. Ngặt với tần suất tiếp cận bom đạn, khói lửa nhiều thế này, thì việc cần một thứ dược liệu gì đó để chăm sóc tóc là điều mà tất cả chiến sĩ thuộc tiểu đội 3 khao khát hơn cả. Và thứ dược liệu ấy chính là bồ kết.
Trong chiến khu không trồng bồ kết, và cũng chẳng có cây bồ kết nào sống nổi giữa một nơi có địa thế hiểm trở, thâm sơn cùng cốc thế này cả. Lúc trước nghe nói ở gần khúc Tả Trạch cũng có vài cây bồ kết, nhưng tiếc thay trong một lần giặc Pháp ném bom vào chiến khu, thì những cây bồ kết ấy cũng bị đốn hạ cùng với hàng chục cây cổ thụ khác. Rồi cho tới chục năm sau, người ta cũng không còn thấy bất kỳ cây bồ kết nào mọc trong chiến khu nữa.
Các chiến sĩ nam thì không cần gội đầu bằng bồ kết, chỉ cần tắm gội vài lần nước sông, nước suối là đủ, hoặc đôi khi là chẳng cần tắm, cũng không hề gì. Nhưng đối với các nữ chiến sĩ thì khác. Ông bà ta có câu: "Cái răng cái tóc là gốc con người", bây giờ tóc các o ai nấy đều bết nhệch, đầy chấy, da đầu tróc tới chảy máu thế này, đối với đàn bà phụ nữ, thì quả thật là một cơn ác mộng. Việc tiếp tế từ dưới xuôi lên chiến khu độ vài tháng một lần, mà không phải lần nào cũng có bồ kết để mang lên như thế. Các chị em phải nhường nhịn nhau từng trái bồ kết ít ỏi ấy, cùng gội đầu cho nhau, tới khi nào hết thì đành chịu vì không thể tuỳ tiện đi mua được.
Và hôm nay cũng vậy.
Chị Hân, người lớn thứ hai tiểu đội, chỉ sau chị Trang đương ngồi trên mỏm đá, dùng cái lược được làm từ mảnh vỏ máy bay của mình mà giúp một đồng chí khác chải tóc. Răng lược chải tới đâu, những con chấy thay phiên nhau rơi rụng tới nấy. Tới mức mà chị Hân còn phải thốt lên kinh hãi:
- Răng đầu mi nhiều chấy rứa?
Đồng chí nọ tên Trúc quay ngoắt nhìn chị Hân, đáp:
- Chừ ở tiểu đội ni, chị tìm được tóc ai không có chấy thử xem.
Chị Hân gõ nhẹ cán lược vô trán Trúc, bĩu môi chỉ về phía Nhung đương ngồi thất thần trên bờ.
- Hắn nớ. Tau thách mi tìm được con chấy mô trên đầu hắn. Nếu tìm được, tau cho mi một cục đường.
Hai mắt Trúc sáng rỡ khi nghe cái điều kiện quá hời này. Nàng hớn hở, bì bõm lội lên bờ, quần áo còn ướt nhẹp nước. Trúc mon men lại gần Nhung, chỉ bằng một động tác nhanh như chớp, nàng đã đè em ngã vật ra đất, hí hoáy vạch đầu tóc em ra thử xem, liệu có con chấy nào ở trên đó không. Nhung bị tấn công bất ngờ, không kịp trở tay nên đành chịu trận. Em bị Trúc làm cho nhột, nên cười lăn cười bò đòi đẩy nàng ra. Ngặt Trúc đè chặt quá, em không sao chống lại được. Nhung vừa cầm tay Trúc, vừa gọi chị Hân í ới:
- Chị Hân! Chị Trúc nớ đòi hành hung em.
Chị Hân cùng những chị em khác phì cười. Chị Hân đáp:
- Tau ra điều kiện cho hắn, là hễ bắt được một con chấy trên đầu mi thì tau cho hắn một cục đường. Mi để im cho hắn bắt đi.
- Đầu em làm chi có chấy mà bắt? Chị Trúc, em nhột quá!
Trúc dùng sức ghì em xuống, niềm ước mơ được hưởng một cục đường từ chị Hân dường như đã làm lu mờ những suy nghĩ khác của nàng rồi thì phải. Nàng mặc kệ lời cầu xin của Nhung, vẫn lì lợm vạch tóc em ra, cho tới khi hai người vật lộn bở hơi tai rồi thì nàng liền nói:
- Thua. Em không tìm được bất kì con chấy mô trên đầu hắn cả.
Chị Trúc ngồi đó, thở phì phò. Nhung cũng thế.
- Em đã nói tóc em không có chấy mà.
- Hay hè! Mi cũng giống như bọn ta, cũng ăn ngủ, sinh hoạt cùng nhau, rứa mà mi lại không có chấy. Ngộ quá!
Nhung dùng lược chải lại mớ tóc bị chị Trúc làm cho rối bời của mình, em chỉ mỉm cười chứ không nói gì thêm.
- Rứa là mi thua rồi nghe Trúc.
Chị Hân dưới suối nói vọng lên.
- Ừ thì chịu thua. Không ăn đường thôi, chớ có chi mô mà to tát.
Chị Trúc vừa nói xong, một chị khác lại hướng về Nhung mà hỏi:
- Răng mi không xuống dưới ni chơi với chị em mà ngồi trên đó hoài rứa?
Nhung cất cây lược vô túi áo ka ki, em ngửa lên nhìn bầu trời đương dần nhá nhem tối, thở dài như bà cụ non và đáp:
- Em đương suy nghĩ chút chuyện.
- Chuyện chi? Hay là... lúc về làng Vĩnh Hoá nớ, mi để ý anh mô rồi đúng không?
Câu đùa của chị Hân đã nhanh chóng làm cho những chị em khác cùng bật cười thành tiếng. Mọi người kéo hết lên bờ, ngồi vây xung quanh Nhung, tò mò chờ đợi câu trả lời từ em. Nhung vì bị các chị vây quanh nên em ngượng đỏ mặt, không biết phải đối đáp làm sao.
- Mi có trả lời không? Mi mà chối, là ta quăng mi xuống sông Hương liền.
Chị Trúc giả vờ đưa tay lên doạ. Nhung giật mình. Con bé cứ ậm ừ mãi mà không chịu nói, làm cả tiểu đội ngồi chờ cũng sốt ruột theo.
- Ừ thì...
Khi chỉ vừa mở miệng nói được hai chữ, thì những cặp mắt hiếu kỳ kia lại càng dán chặt vô mặt em hơn. Nhung rối rắm, bây giờ chẳng lẽ em đi nói thẳng với mọi người, là em đương lo cho nàng Chi hay sao chứ? Không, làm sao mà em có thể nói vậy được. Nếu nói như thế, thì thể nào các chị cũng sẽ hỏi em tới tấp, rằng là vì sao em quen biết với nàng ấy, quen thế nào, rồi còn ti tỉ những câu hỏi hóc búa khác mà Nhung chưa kịp nghĩ ra. Đương lúc Nhung bị tiểu đội dồn vào thế bí, thì lúc này có một đồng chí khác đột nhiên hô to lên làm mọi người đều hướng mắt nhìn. Đồng chí đó chỉ vào bức hình trong túi áo em, ngạc nhiên nói:
- Con Nhung giấu hình anh mô trong túi kìa chị em ơi!
- Ở mô? Hình ai?
Những chị em nháo nhào lên, đòi Nhung phải lấy bức hình đó ra cho mọi người cùng xem.
- Mi giấu hình ai đó? Khai mau!
Nhung thở dài, thành thật đáp:
- Hình con trai của o Trinh chớ có phải hình ai mô.
Đoạn em lấy bức hình ra, giữ chặt nó trong lòng bàn tay.
- O Trinh nhờ em tìm tung tích của anh nớ. À! Mọi người có biết chi về anh nớ không? Em nghe o Trinh nói, anh tên Trung, từng chung chiến khu với mình, giờ chừ được chuyển lên Khe Tre rồi thì phải.
Những chị em khác chụm đầu vào nhau, cùng nhìn chăm chăm vào bức hình trên tay Nhung. Không hiểu sao, mà mọi người lại chẳng nói thêm lời nào nữa. Nhung đảo mắt quan sát, em phát hiện ra các chị đều tỏ vẻ lúng túng, thậm chí chị Trúc vừa rồi còn nói cười vui vẻ giờ đó cũng im lặng bỏ đi đâu mất.
- Mọi người bị cái chi rứa?
- Rứa là o nhờ mi tìm tung tích anh Trung tê à?
Nhung ngây thơ gật đầu. Chị Hân ấp úng một hồi, rồi mới đáp:
- Anh Trung nớ... là người yêu của chị Trang đó.
Chị Hân vừa dứt câu, Nhung kinh động, mắt tròn mắt dẹt. Nhìn vào bức hình anh Trung mình đương cầm, em ngạc nhiên tới mức nói lắp:
- Anh... anh Trung là người yêu của chị Trang ạ?
Chị Hân gật đầu, đoạn chị tiếp tục nói:
- Anh Trung với chị Trang yêu nhau bốn năm ni rồi. Mi mới lên chiến khu có nửa năm, làm răng mà biết.
Nghe tới chuyện người mình cần tìm hoá ra lại là người yêu của chị tiểu đội trưởng, nét mặt Nhung lộ rõ sự sung sướng, trái ngược hoàn toàn với dáng vẻ lo lắng của những chị em xung quanh. Bây giờ em đã hiểu vì sao mà hồi sáng khi thấy bức hình của anh Trung, chị Trang lại mếu máo như thế rồi. Hoá ra, là nhớ người yêu cả, chứ có gì đâu. Nghĩ thế, Nhung bật cười khúc khích. Em nhoài người tới chỗ chị Hân, tuôn một tràn mừng rỡ :
- Chừ anh Trung đương ở mô rứa chị? Anh nớ còn ở Khe Tre không? Chị nói cho em hay, để em viết thư về cho o Trinh khỏi trông. Trời ơi! O Trinh nhớ anh nớ lắm. Mà anh nớ cũng tệ thiệt, đi cả mấy năm mà không gửi về được cho mạ lá thư, để mạ trông mòn mắt như rứa.
Nhung chẹp miệng lắc đầu, như tỏ ý chê trách sự vô tâm của anh Trung.
Chị Hân ái ngại nhìn đồng chí ngồi kế bên mình, và nhìn luôn cả mười chị em khác đương cúi đầu nín lặng. Chị Hân nuốt nước miếng khan, hít thở sâu một hơi, chị trầm giọng đáp:
- Anh Trung... chết từ bốn năm trước rồi Nhung à. Anh nớ chết vì bị giặc bắn, trong một lần gửi thư liên lạc từ Khe Tre về Dương Hoà.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com