CHƯƠNG 5: LÊN THĂM CHIẾN KHU (1)
Chừng hai giờ sáng, Nhung đương ngủ thì giật mình thức giấc, vì em nghe tiếng sột soạt như có ai đó lục lọi thứ gì ngay sát bên mình. Trong cơn mơ màng, em trở mình, căn lán bây giờ tối hù, cây đèn bão treo ở vách đã tắt ngúm từ khi nào, vậy nên Nhung phải căng mắt lắm mới có thể nhìn được người nọ là ai. Em gượng dậy, dụi mắt. Người kia thấy em đã tỉnh, biết hành động vừa rồi của mình đã đánh thức em, nên họ liền ngừng tay, thì thào nói rằng:
- Mi ngủ tiếp đi. Chị đương tìm đồ thôi.
Em gật gù định nằm xuống ngủ tiếp, nhưng không biết vì sao, em lại ngồi thẳng dậy, ngáp một hơi dài tới chảy cả nước mắt và hỏi:
- Chị Trang tìm cái chi rứa? Có cần em tìm phụ không?
Chất giọng khàn khàn do còn say ke của Nhung làm chị Trang phì cười. Chị xoa đầu em, dịu dàng đáp:
- Không cần. Ngủ đi.
Sau một hồi dụi mắt, tầm nhìn của Nhung đã rõ hơn. Em đảo mắt nhìn khắp căn lán. Cách tấm phản em và chị Trang nằm là phản của chị Hân và chị Trúc, Nhung rướn cổ nhìn, hai chị ta đương ôm nhau ngủ say sưa, thậm chí đôi lúc Nhung còn nghe tiếng chị Hân nói mớ. Chị gọi tên anh Hinh - người yêu chị, rồi chị buông chị Trúc ra, lăn đùng xuống đất, tiếp tục ngáy. Nhung nhìn cảnh tượng lạ lùng đó thì mắc cười tới nỗi tỉnh ngủ. Em ngó sang chị Trang vẫn còn loay hoay tìm đồ trong ba lô, khẽ hỏi:
- Nhưng răng chị Trang lại đi tìm đồ giữa đêm rứa? Chị mất cái chi à?
Chị Trang không trả lời. Đúng lúc này, em thấy chị lôi từ trong ngăn nhỏ ba lô ra một tấm hình. Chăm chú nhìn tấm hình đó một lúc lâu, chị thở phào nhẹ nhõm, như vừa tìm được thứ mình muốn.
- Không có chi. Mi lôi thôi quá, nằm xuống ngủ mau.
Chị Trang tặc lưỡi mắng, rồi chị bỏ tấm hình vào túi áo, nằm xuống cạnh Nhung. Chị giũ mền, kéo tầm mền phủ qua đầu. Mặt chị quay ra ngoài, đưa lưng về phía em. Nhung lặng người nhìn ngắm tấm lưng mảnh mai của chị, câu chuyện tình của giữa chị Trang và anh Trung bỗng dưng xuất hiện trong đầu khiến tim em đau nhói. Vừa nãy nhân lúc chị Trang không để ý, Nhung có nghía qua nhìn trộm tấm hình chị cầm. Tuy không có ánh sáng để nhìn rõ, nhưng Nhung cũng lờ mờ biết người trong hình là đàn ông. Em chắc như đinh đóng cột rằng, kia là anh Trung chứ không đâu xa lạ.
Nhung cắn môi, bất ngờ, em đặt tay lên chiếc eo nhỏ nhắn của chị Trang. Chị Trang vẫn chưa ngủ được, nên khi cảm giác em đương chạm vào mình, chị thót tim buông tấm mền ra, hỏi:
- Mi làm cái chi rứa?
- Chị Trang, chị đương buồn hay răng?
- Mắc chi ta phải buồn?
Nhung nhích người nằm sát chị hơn. Chị Trang cũng xoay người, nhẹ nhàng nâng đầu em gối lên tay mình. Chị vuốt ve mái tóc xõa dài của em, dùng móng tay cạy cạy lên da đầu em. Nhung nhột, em càng rúc sâu vào lòng chị, cơn ngáy ngủ tưởng chừng đã dứt hẳn nhưng bây giờ lại đột ngột ập tới khiến hai mắt Nhung nặng trĩu.
Chị Trang vỗ lưng em thật đều, hệt như mạ dỗ con. Hồi lâu sau, không còn thấy Nhung hỏi thêm gì, chị nghía xuống, con bé đã ngủ rồi. Hơi thở Nhung phả ra đều đều, cả người em cuộn tròn lại như con tôm, và hai tay em vẫn còn ôm eo chị chặt cứng.
- Nhỏ như con mèo mà hỏi lắm rứa.
Nói rồi, chị mò vô túi áo được may trước ngực, lấy bức ảnh vừa nãy mình giấu Nhung ra ngắm. Bốn góc bức ảnh đều đã bị bị lửa bén vô cháy xém, nhưng may rằng gương mặt của người đàn ông trong ảnh vẫn còn hiện rõ. Chị Trang nâng niu bức ảnh trong tay, ngón cái xoa nhẹ lên gương mặt của người đàn ông ấy. Chóp mũi chị đỏ hỏn, hốc mắt cay xè, rất nhanh sau, một dòng nước mắt tuôn ra, chảy xuống cổ và thấm ướt cổ áo chị. Chị Trang để im không thèm lau. Chị cắn môi thật chặt hòng ngăn bản thân phát ra tiếng khóc lớn và bấu lấy mép mền.
Đợi cho bản thân bình tĩnh, chị kề môi, hôn thật khẽ lên bức hình, ngay giữa mặt của người chiến sĩ đã khuất. Rồi, chị tiếp tục khóc, khóc tức tưởi, khóc như thể đây là lần cuối cùng chị còn được khóc trên đời. Nước mắt chị đổ như thác. Không còn kiềm nổi nữa, chị nhấc tay Nhung ra khỏi người và tung mền chạy xộc khỏi lán.
Chị chạy tới bờ suối, trườn theo thân cây tre, chị ngồi thụp xuống mỏm đá nhỏ, chỉ cách con suối chưa tới ba bước chân. Lần này không còn phải sợ những chị em khác thức giấc nữa, có bao nhiêu buồn khổ đau đớn, chị đều bộc phát ra hết qua tiếng khóc xé lòng. Chị Trang ôm khư khư tấm hình của anh Trung, từng cơn gió lạnh thốc tới, cộng thêm cơn xúc động trào dâng như lũ khiến toàn thân chị run lẩy bẩy.
- Anh ơi, em gặp được mạ rồi.
Ngày 29 tháng 8 năm 1960
- Anh cho em xem cái ni.
Anh Trung dẫn chị Trang lại dưới gốc cây sung rừng được trồng bên cạnh bếp Hoàng Cầm. Khu vực bếp hiện giờ không có ai, các đồng chí được phân công nhiệm vụ hậu cần sau khi quét dọn bếp xong cũng đã về lán nghỉ trưa, hoặc là đi nhận nhiệm vụ khác, nên thành ra xung quanh bây giờ chỉ còn mỗi anh Trung và chị Trang mà thôi.
Anh cùng chị Trang ngồi xuống tấm bạt mình vừa trải sẵn, dưới tán cây sung rợp bóng mát. Kéo chị Trang tựa vào lòng mình, anh thủ thỉ:
- Nhắm mắt lại đi.
Chị Trang tò mò nhìn anh, anh lại nháy mắt và giục:
- Em không nhanh lên, là một lát có người tới đó.
- Nhưng anh kêu em nhắm mắt làm chi?
- Anh vừa nói rồi mà. Anh có cái ni cho em xem.
Chị Trang lấm lét ngó ra sân, tới khi chắc chắn rằng ngoài sân không có chiến sĩ nào, thì chị mới dám làm theo những gì anh Trung nói. Chị nhắm chặt hai mắt, anh Trung kêu chị phải lấy tay che lại, chị cũng im lặng làm theo.
Anh Trung lục lọi trong cái ba lô mình đem theo, ngay ở ngăn nhỏ ba lô anh đựng toàn những hộp diêm và thuốc lá, ấy thế mà trong mớ thuốc lá ấy lại lẩn một bức hình mới toanh, phẳng phiu như vừa được chụp cách đây không lâu. Anh tủm tỉm cười, ép bức hình cho nó phẳng hơn nữa rồi đưa sang cho chị, nói:
- Chừ em mở mắt ra đi.
Chị từ từ hé mắt, rồi thốt lên ngạc nhiên khi thấy bức hình anh Trung đưa mình xem. Bức hình ấy anh Trung chụp cùng với một người đàn bà đứng tuổi, theo như chị đoán, thì người đàn bà nọ chắc cũng đã ngoài bốn mươi. Anh Trung trong bức hình mặc quân phục, đúng bộ đồ mà bây giờ anh đương mặc, anh đội mũ cối, dáng vẻ đúng chuẩn tác phong quân đội, còn người đàn bà nọ thì mặc áo bà ba và quần vải đen vá chằng vá đụp đủ chỗ. Người đàn bà đứng nép vô người anh, trông có vẻ ngại ngùng trước ống kính, và gương mặt bà hằn lên một vẻ nghèo khổ cơ cực, với làn da nhăn nheo còn lấm lem những vết bùn đất, đôi mắt một mí tuy sáng nhưng lại chất chứa một nỗi buồn gì đó lạ lắm.
Chị Trang nhìn qua là biết, đó là mạ của anh Trung chứ không phải ai xa lạ. Chị cướp bức hình từ tay anh, đưa lên cao cho ánh sáng rọi xuống rõ hơn. Chị cười, vui vẻ nói rằng:
- Mạ đẹp rứa anh.
Anh có hơi ngạc nhiên khi chị Trang biết người trong hình là mạ mình. Anh lập tức hỏi:
- Răng em biết đó là mạ anh?
Chị nghiêng đầu tựa vào vai anh, hồn nhiên đáp:
- Thì nhìn hai người giống nhau như rứa mà.
- Giống lắm à?
- Như hai giọt nước.
Anh Trung hôn lên tóc người yêu, âu yếm kéo chị ngồi sát gần mình. Anh chỉ vào mặt mạ trong bức hình, nói bằng giọng nghẹn ngào:
- Mạ anh tên Trinh, hồi trẻ mạ đẹp nhất làng, nhưng thời gian trôi qua, ba mất làm mạ phải lo buôn gánh bán bưng đủ thứ để có tiền nuôi anh, nên trông mạ mới già như rứa. Mạ anh bán chè ở làng Vĩnh Hoá dưới Phú Lộc nớ. Mạ bán đủ mọi loại chè, ngon lắm! Chè đậu đen, chè đậu ngự, chè đậu xanh ni, rứa mà khách hay ăn món chè bột lọc heo quay nhất. Em biết không, mạ thường xuyên thức sớm, gà chưa gáy là mạ đã thức để nấu chè rồi. Sáng mô anh cũng thức theo mạ, phụ mạ gánh chè ra ngoài đầu làng bán, bán tới xế chiều mới về. Nhưng mấy năm ni anh đi bộ đội, chắc mạ phải tự làm lấy mọi việc. Trước lúc đi anh có hứa với mạ, khi mô về anh sẽ tích góp tiền mở cho mạ một quán chè lớn nhất cái làng Vĩnh Hoá ni, cho mạ nở mày nở mặt chơi.
Vừa kể về mạ mà anh vừa cười, một nụ cười tươi tắn, sáng rỡ và tràn ngập sự tự hào khiến chị Trang suýt khóc vì xúc động. Cuộc đời chị đã mất ba mạ từ nhỏ, thậm chí chị còn chưa nhìn thấy rõ mặt mạ là mạ đã về nơi chín suối rồi. Chị lớn lên nhờ sự nuôi dạy bất đắc dĩ của người bác ruột, hai mươi ba năm cuộc đời chưa hề biết mùi được ba mạ chở che, yêu thương là gì. Vậy nên những khi được nghe ai đó kể về gia đình, chị đều sẽ cảm thấy ghen tị với họ, trong lòng có chút gì đó đố kỵ xen lẫn đau xót. Chị ước chi mình cũng có một gia đình giống vậy. Nghe anh Trung kể về mạ xong, chị rơm rớm nước mắt. Sợ anh biết mình khóc, nên chị giả vờ dụi đầu vào vai áo anh, đợi tới khi hết xúc động rồi mới dám ngẩng mặt lên. Anh Trung ngây thơ ngồi đó không hề biết những suy nghĩ đương dằn xé nỗi lòng chị, anh chỉ tưởng người yêu bị con gì đó bay vào mắt, nên anh liền vạch mắt chị ra, thổi phù phù mấy hơi, cho tới khi chị vịnh tay anh lại thì anh mới chịu ngừng.
- Con chi bay vô mắt em rứa?
- Làm chi có con mô. Em chỉ hơi ngứa mắt chút xíu thôi.
Anh lại hôn lên mi mắt chị, dỗ ngọt:
- Thôi không sao không sao! Khi mô em được về phép, anh sẽ đưa em về làng thăm mạ.
- Thiệt không anh?
Hai mắt chị sáng rực mừng rỡ. Anh Trung kiên định gật đầu:
- Thiệt chớ. Về làng rồi, anh sẽ thưa mạ chuyện cưới hỏi với em. Ta sẽ lựa một ngày thiệt đẹp, làm lễ ăn hỏi, rồi ăn cưới. Anh sẽ mời cả chiến khu về làng Vĩnh Hoá ni, chứng kiến sự hạnh phúc của đôi ta. Ui chao em ơi! Nghĩ tới đó thôi mà anh đã sướng rơn lên rồi.
Chị Trang cười, một nụ cười tràn ngập niềm hân hoan, hạnh phúc. Anh Trung đã tự tay vẽ ra cho chị một cuộc sống gia đình đầm ấm, sung túc đúng với những gì mà từ xưa tới giờ chị vẫn thường ước ao, chẳng khác gì bọn họ đương ở trong một giấc mơ cổ tích. Giấc mơ ấy được cả hai đồng lòng hứa với nhau, rằng là sẽ cùng vun đắp, đợi tới khi nào chiến tranh qua đi, hai miền thống nhất thì cũng là lúc giấc mơ được chín muồi. Ở thời của họ, không thiếu những người có những niềm mơ ước giống vậy, thậm chí là hơn thế nữa. Họ coi đó như là một động lực lớn lao, để có thể gắng gượng sống qua những tháng ngày mà cái chết lúc nào cũng như quả bóng căng tròn treo lủng lẳng trên đầu, chỉ cần một cây kim chích vô cũng có thể vỡ ra bất kỳ lúc nào.
Chị Trang vốn là một người có nghị lực sống khủng khiếp, bởi vì có nghị lực ấy nên dẫu cho sau này phải đối diện với biết bao lần thập tử nhất sinh, chị vẫn cứ can trường, vững dạ gượng dậy, chẳng khác gì cây vả đầu chiến khu sau một lần bật gốc vẫn sinh sôi, mọc lên một cây vả mới thay thế cho cái cây cũ. Sở dĩ chị dám sống như thế, là vì chị tin vào cái giấc mơ giữa anh Trung và mình sẽ trở thành sự thực, ở một khoảng thời gian nào đó, có thể là vài chục năm sau chẳng hạn, dù có lâu tới bao nhiêu, chị cũng sẽ đợi.
Và chị đợi anh, cũng đã được bốn năm rồi.
- Anh ơi, mạ đẹp lắm. Em được nói chuyện với mạ, được ôm mạ đó, anh tin không? Mạ nói, mạ nhớ anh lắm, rứa mà em không thể tìm được lời nào để an ủi mạ hết. Tại vì, em cũng nhớ anh, anh ơi...
Trên bầu trời đêm tại Hương Thuỷ hôm đó, tiếng súng, tiếng bom đã bắt đầu vang lên rát cả tai.
...
Từ lúc các cô bộ đội về làng tuyên truyền tới nay đã trôi qua hơn một ngày, trong suốt thời gian đó, nàng Chi cứ tự giam lỏng mình trong buồng, không dám ra ngoài gặp mặt ai, hay thèm nói chuyện với ai hết, ngay tới con Cẩm bưng cơm bưng nước vào dỗ nàng ăn, nàng cũng chẳng hề đoái hoài gì tới. Cẩm sốt ruột không biết làm thế nào. Nó thấy lúc từ đình làng trở về, nàng cứ khóc rấm rứt hoài, nó hỏi chuyện cỡ nào nàng cũng không chịu nói. Cẩm loay hoay dưới bếp nấu cơm dọn dẹp, lâu lâu nó còn nghe từ buồng nàng Chi vọng lên tiếng khóc, tiếng bàn ghế xô vào nhau lạch cạch, rồi còn cả tiếng nàng ném mền ném gối nữa. Những lúc đó, Cẩm đều hớt hải chạy vào, gõ cửa buồng năm lần bảy lượt nhưng nàng vẫn không chịu mở, chỉ trấn an nó bằng một câu ngắn gọn:
- Tôi không sao mô.
Cẩm áp tai vào mà nghe, tiếng khóc vẫn cứ vang từng hồi dai dẳng. Cứ như vậy cho tới giữa trưa ngày hôm sau, lúc thầy Lĩnh và vợ về nhà thì nó mới thấy nàng ló mặt ra chào hỏi cha mạ.
Thầy Lĩnh vừa vào nhà đã húng hắng ho, Cẩm hiểu ý bèn tới giúp thầy cất gậy và đem ấm đi pha trà. Thầy tiến lại bật radio, trên đài bây giờ đương phát tin kháng chiến:
"Sau một khoảng thời gian phong trào Đồng Khởi đợt 2 được tổ chức (từ ngày 16/9/1964 tới tháng 3/1965), tại Phú Lộc, các cán bộ cùng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị đã liên tiếp tiêu diệt được hàng trăm binh lính, bắt sống nhiều tên Liên gia trưởng (1), cũng như nhiều tay sai của chính quyền Sài Gòn, gây ra một sức ép khủng khiếp cho quân địch. Lực lượng chính trị còn tổ chức các buổi mít tinh cho người dân các ấp, rải truyền đơn,... nhằm củng cố thêm tinh thần kháng chiến cho nhân dân và đẩy mạnh phong trào ngày càng phát triển, tạo tiền đề cho nhiều chiến thắng của nhân dân tại Phú Lộc sau này. Cho tới hôm nay, đêm ngày 12 rạng sáng ngày 13 tại ấp Hà Vĩnh, lực lượng vũ trang địa phương đã tiến hành xét xử và xử tử 3 Liên gia trưởng và 1 Ấp trưởng (2). Toàn thể nhân dân tại Phú Lộc đều đồng lòng hướng về Cách mạng, càng ngày phong trào càng lớn mạnh và thu được nhiều thắng lợi, tạo nên một sự hân hoan, phấn khởi trong lòng người dân và của các cán bộ, lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị. Niềm hy vọng về một ngày đất nước toàn thắng, hai miền thống nhất đã tới rất gần..."
Thầy Lĩnh nghe đài xong, gương mặt không giấu được sự vui mừng. Thầy búng tay cái chóc và ngó sang vợ, bà Nhàn cũng sung sướng chẳng kém thầy là bao. Thầy ngồi xuống bộ trường kỷ, đúng lúc con Cẩm đem trà lên. Nó rót trà cho hai người, nói:
- Con ở dưới bếp mà nghe trên ni rộn ràng tin chiến thắng, vui quá ông bà ạ!
Thầy Lĩnh gật gù hưởng ứng:
- Bộ đội ta giỏi thiệt bà hí! Cứ cái đà ni, chẳng mấy chốc mà giải phóng được toàn Phú Lộc. Mấy thằng Liên gia trưởng nớ, đem ra bắn chết cha hắn cho xong.
Bà Nhàn nhấp một ngụm trà, đáp:
- Chừ thằng Nhất nhà ta trên Dương Hoà cũng đương đánh nhau với tụi chính quyền Sài Gòn. Không biết hắn có bình an không? Khi bữa hắn gửi thư về, báo rằng dạo đây hắn bận lắm. Nhưng trong thư hắn nói, hắn vui ông ạ. Rứa là hắn cũng giỏi quá chớ.
- Còn phải nói. Đi bộ đội, ai cũng giỏi, đâu phải chi riêng con mình. Chừ ngày mô cũng có tin chiến thắng được báo, thì tôi không ăn cơm vẫn thấy no.
Bà cười nắc nẻ trước câu nói của chồng. Thầy Lĩnh cầm chung trà lên định uống, thì lại chợt nhớ ra không thấy con gái mình đâu. Ông quay sang Cẩm đương đứng cắm hoa ở góc nhà, sai rằng:
- Về nhà từ nãy tới chừ, răng không thấy con Chi ở mô hè? Cẩm, vô buồng kêu chị Chi ra đi con.
Cẩm dừng lại, nó nhìn thầy và bà bằng một vẻ ái ngại. Hồi lâu sau, Cẩm nhỏ giọng đáp:
- Chị Chi đương trong buồng ông ạ. Nhưng mà...
- Làm răng, con? Hắn bệnh à?
Thầy chau mày lo lắng. Cẩm lắc đầu:
- Con không biết, từ hôm qua con đã thấy chị nớ cứ buồn buồn kiểu chi đó. Con có hỏi, mà chị nớ không nói năng chi hết.
Nghe Cẩm nói xong, bà Nhàn sốt ruột định sẽ vô buồng xem thử con mình thế nào. Đương lúc bà chỉ vừa nhổm dậy thì từ buồng nàng Chi vang lên tiếng mở cửa lộc cộc. Hồi lâu sau, nàng đi ra phòng khách, gương mặt phờ phạc cùng cái áo sơ mi ướt đẫm nước mắt của nàng khiến thầy và bà được một phen kinh hoàng. Thầy đứng bật dậy chạy ùa tới chỗ con gái, sốt sắng hỏi con lia lịa:
- Bị làm răng rứa con? Làm răng mặt mày tái nhợt rứa?
Nàng chạm tay lên bọng mắt sưng húp của mình, sụt sịt đáp:
- Dạ con thưa cha mạ mới về. Con không bị chi mô cha, mấy hôm ni mưa nắng thất thường nên con thấy trong người có hơi mệt.
- Mệt lắm không con? Đau bệnh chi để cha sai con Cẩm đi mua thuốc?
Nàng lắc đầu, cố nặn ra nụ cười cho cha đỡ lo.
- Dạ thưa, mới sáng con có ăn cháo, chừ cũng đỡ nhiều rồi.
Bà Nhàn cũng chẳng yên dạ được khi biết con bệnh. Bà sờ lên trán nàng, thấy không nóng, bà lại ngó nghiêng coi thử sắc mặt nàng nhợt nhạt tới mức nào. Phát hiện ra đôi mắt Chi đỏ hoe còn long lanh ánh nước, đoán chừng con khóc, bà lập tức hỏi:
- Ai làm chi mà con khóc? Nói cha mạ nghe.
Thầy Lĩnh bây giờ mới để ý. Chính bản thân thầy cũng chắc như đinh đóng cột rằng nàng khóc, nên thầy càng lo hơn nữa. Sợ rằng trong lúc mình vắng nhà đã có kẻ làm bậy làm bạ gì con gái, ông lộn cả tiết lên, gầm gừ hỏi:
- Có phải mấy thằng từng tới nhà ta không con? Tụi hắn lại tới phá con nữa à?
- Thưa cha, không có ai tới nhà mình hết.
- Vậy chớ làm răng? Con nói cha mạ nghe, chớ cha mạ sắp cuống lên đây.
Chi ngó Cẩm, con bé cũng lắc đầu nhún vai, rồi nàng ngó lại cha mạ, những lời nói hôm qua nàng nghe được từ đám đàn ông trong làng lại ùa về tâm trí khiến nàng càng tủi thân, uất ức và thấy nhục nhã hơn. Chi gục đầu vào vai mạ, khóc không thành tiếng. Bà Nhàn đỡ nàng ngồi xuống ghế, thầy Lĩnh thì chắp tay sau lưng đi qua đi lại trước hiên nhà. Đợi tới khi bình tĩnh, Chi mới thuật cho cha mạ hay những điều mà nàng nghe được từ miệng lưỡi những kẻ trong làng hôm qua. Nàng vừa kể vừa khóc.
Thầy và bà nghe xong, ai nấy đều trợn mắt giận dữ. Đặc biệt là thầy Lĩnh không giấu được sự phẫn nộ, ánh mắt thầy như bùng lên ngọn lửa, ngay khi nghe Chi kể tới đoạn nàng bị vu cho là con hoang, mạ chửa hoang. Thầy nắm chặt tay, nghiến răng ken két. Câu chuyện vừa kết thúc, thầy không kìm nén nổi nữa mà một hai đòi phải tới nhà từng người trong làng để làm cho lẽ. Nhưng may rằng bà Nhàn đã cản thầy, vì bà sợ sẽ xảy ra ẩu đả giữa thầy và mọi người. Thầy Lĩnh cũng cố nhịn đợi cơn giận qua đi. Nhìn con bằng đôi mắt xót xa, thầy dịu dàng nói:
- Con đừng dại mà nghe những lời tụi hắn nói. Tụi hắn có biết cái chi về nhà ta mô. Cha mạ đẻ ra con, nuôi con khôn lớn tới từng tuổi ni, con không phải là con ruột của cha mạ, vậy chớ còn là con ai? Con không giống cha mạ, nhưng lại giống mệ nội của con y như đúc. Đôi mắt ni, cái miệng ni, không khác chi mô con ạ. Rứa cha mạ thấy con khóc vì mấy lời đó, cha mạ đau lòng lắm con ơi!
- Cha con nói đúng đó. Chẳng phải khi gặp ôn mệ nội, mệ vẫn hay nói con giống mệ hay răng?
- Cả ôn nội nữa. Con giống ôn mệ như rứa, thì đích thị là con gái nhà ta rồi còn chi.
Cha nói một câu, mạ nói một câu đã giúp nàng Chi đỡ phần nào sự buồn tủi. Một hồi lâu khi nghe cha mạ khuyên nhủ, cuối cùng thì Chi cũng đã nở được nụ cười. Bà Nhàn đưa cho nàng cái bánh quy, giục rằng:
- Ăn một ít đi con, cho lót dạ. Rồi chiều ni mạ với con Cẩm đi chợ, mua ít đồ về tẩm bổ cho con, sẵn tiện mua thêm thịt heo để về làm chà bông gửi lên chiến khu cho thằng Nhất nữa.
- Em con đương ở mô rứa mạ? Hắn có còn ở chiến khu cũ không?
- Không con. Khi bữa hắn gửi thư về, nói là đã được chuyển về lại Dương Hoà rồi.
Vừa nghe tới việc Nhất được chuyển về Dương Hoà, nàng Chi ngớ người. Nhớ lại chuyện hôm qua làng mình cũng vừa tiếp đón một đoàn bộ đội tuyên truyền từ chiến khu ấy về, nàng vội nói:
- Hôm qua làng ta cũng có các o từ trên nớ về tuyên truyền đó mạ.
- Thiệt à con?
Nàng Chi gật đầu, đoạn nói tiếp:
- Các o nớ về phát lệnh sơ tán, vì sắp tới nghe đâu giặc sẽ ném bom xuống Phú Lộc mình, hai hay ba ngày nữa thôi.
Thầy Lĩnh bàng hoàng:
- Ui chao! Chỉ còn mấy ngày nữa thôi à? Rứa nhà ta phải sơ tán mau thôi, không khéo bom hắn thả xuống là chết cả nhà ni.
Bà Nhàn bình tĩnh hơn chồng, bà từ tốn hỏi:
- Trưởng làng có nói chi không con?
Nhắc tới trưởng làng, nàng Chi chột dạ không biết phải trả lời thế nào. Nàng ậm ừ, rồi quyết định không kể rõ cho cha mạ nghe sự việc cãi vã giữa nàng và trưởng làng, nàng chỉ lắc đầu và đáp một cách ngắn gọn:
- Dạ mạ, trưởng làng không nói chi hết.
- Cũng phải, trưởng làng ni đời mô chịu nghe mấy lời nói đó. Thôi ai không nghe thì kệ họ, nhà ta theo Cách mạng, ta chỉ nghe Đảng chớ không nghe lời xảo trá của những người khác, đúng không ông?
Thầy Lĩnh gật gù đồng tình.
Nàng Chi thấy cha mạ mình không tỏ ra thờ ơ với chuyện giặc ném bom như một số người trong làng, thì nàng mừng lắm. Nàng hớn hở hỏi:
- Sáng mai nhà ta chuẩn bị sơ tán hay răng cha mạ?
Thầy Lĩnh suy nghĩ vài giây, rồi nói:
- Ngay sáng mai con ạ, càng nhanh càng tốt. Ta về quê ôn mệ nội ở làng Hoà Đồng, ở phía nam Hương Thuỷ ni. Ở đó có hầm trú ẩn hẳn hoi.
- Ở Hương Thọ hay răng cha?
Thầy Lĩnh gật đầu. Lúc này như vừa nhớ tới chuyện gì quan trọng, bà Nhàn lập tức chen vô:
- Rứa thì không được ông ơi. Nếu đi trong ngày mai, thì ông với các con đi trước, tôi sẽ theo sau.
- Bà còn làm chi nữa? Giặc kéo tới nơi rồi.
- Thằng Nhất nhờ tôi làm cho hắn ít chà bông gửi lên chiến khu. Nếu mai về Hoà Đồng, thì làm răng tôi gửi được cho hắn?
- Làm bộ đội thời ni mà đòi mạ phải đem chà bông lên tận chiến khu cho ăn, thì sung sướng quá rồi. Bà cứ cho hắn ăn môn ăn sắn, đừng có chiều hắn như rứa.
- Hắn là con tôi, tôi lo hắn đi bộ đội chịu đói chịu khát. Một hũ chà bông bé tí thì nhằm nhò chi, để hắn vô mà chia cho đồng đội cùng ăn chớ.
Thầy Lĩnh chau mày tỏ vẻ không hài lòng với suy nghĩ của vợ.
Nàng Chi nghe cha mạ mình bất đồng với nhau vì chuyện của em trai, nàng ngồi đây cũng nắm bắt được toàn bộ sự việc. Nhớ tới chuyện hôm qua mình có hứa với một đồng chí trong tiểu đội 3, là cho đồng chí ấy cái thắt lưng còn dư ở nhà, Chi khi sực nhớ về lời hứa đó, thì nàng ngớ người, tự trách rằng mình đãng trí để thất hứa với người nọ quá. Trùng hợp thay thằng em nàng lại chuyển về Dương Hoà công tác, nghĩa là cùng chiến khu với Nhung, nàng có thể xin cha mạ mang đồ lên cho em, rồi sẵn tiện đem cả thắt lưng cho Nhung cũng được. Nhưng điều quan trọng là, liệu cha mạ có đồng ý với lời xin này của nàng hay không?
- Dạ thưa, cha mạ cho phép con được nói một điều.
Thầy Lĩnh đương loay hoay với cái radio bỗng dưng bị tắt tiếng, nghe con gái hỏi, thầy liền quay sang đáp:
- Nói đi con.
- Nếu mạ vướng chuyện đi sơ tán vì phải đem đồ lên cho Nhất, thì để con đi thay cũng được. Con cũng có chuyện phải lên chiến khu Dương Hoà.
Bà Nhàn chưng hửng vì nghe lời xin xỏ này của Chi, bà vội từ chối:
- Răng mà được con? Đường lên Dương Hoà có phải gần mô mà con xin đi?
- Xưa ni con chưa đi lên chỗ nớ lần mô, lần ni đi cho biết mạ ạ.
- Không được mô con. Nguy hiểm lắm!
Thầy Lĩnh chen vào hỏi:
- Con nói có việc phải lên đó, là việc chi? Nói để cha mạ liệu.
- Dạ thưa, không giấu chi cha, hôm qua có một đồng chí trong nhóm tuyên truyền bị hư thắt lưng, con biết chuyện nên có ngỏ lời muốn đưa cái thắt lưng của Nhất cho em nớ xài. Mà loay hoay mãi, con quên bén đi mất. Mình đã hứa với người ta mà chừ lại thất hứa, con thấy có lỗi quá.
- Rứa con muốn xin cha mạ cho mình đem đồ lên cho Nhất, là để tiện tay đưa thắt lưng cho đồng chí nớ phải không?
Chi vui mừng gật đầu.
- Rứa hắn là trai hay gái?
- Dạ thưa cha, là con gái. Em nớ nhỏ tuổi mà đã xin đi xung phong rồi. Thiệt tình con nể lắm.
Nàng không thấy cha nói tiếp, chỉ thấy cha nhắm mắt, chẹp miệng, mà cái điệu bộ đó thường ngày nàng hay thấy cha làm những lúc phải suy nghĩ điều gì đó quan trọng. Chi hồi hộp không biết quyết định của cha thế nào, nàng sốt ruột nhưng không dám hỏi. Chừng hai phút sau, thầy Lĩnh đứng dậy, đôi mắt ánh lên nét vui mừng chứ không phải khó chịu, thầy nói:
- Cha cho con đi.
Nét mặt Chi lập tức lộ vẻ rạng rỡ, trái ngược với vẻ tối sầm của bà Nhàn.
- Ông ni! Làm răng mà cho hắn đi? Hắn là đàn bà con gái, chớ có phải đàn ông con trai mô.
Thầy Lĩnh dịu giọng trấn an vợ:
- Bà cứ bình tĩnh, đừng có càu nhàu như rứa. Chúng ta đi lên Hương Thọ thì cũng tiện đường ghé ngang Hương Thuỷ đó thôi. Chừ con Chi lên Dương Hoà trước, ta cứ về ôn mệ nội, khi mô hắn đưa đồ cho thằng Nhất xong thì cứ men theo Dương Hoà về Hương Thọ. Có cái chi xa xôi mô mà bà phải làm quá lên rứa?
Nhưng bà vẫn nhất mực không chịu. Bà đanh mặt, liên tục càu nhàu bên tai ông rằng:
- Gần hay xa chi với tôi không qua trọng, quan trọng hắn là con gái. Tôi nhắc lại cho ông nghe hí, hắn là con gái chớ không phải con trai hí! Con gái mà ông cho đi đường kiểu nớ, ông không sợ có ngày mất con à?
- Mất làm răng được mà mất? Để hắn ở trong làng ni tôi mới sợ mất, chớ cho ra ngoài, cán bộ chiến sĩ người ta đi ngoài đường đầy ra, người ta bảo vệ dân chớ có phải ngó lơ dân mô mà bà sợ.
Rồi ông nháy mắt nhìn Chi, giọng chuyển sang ngọt ngào:
- Nhà thím ba con ở Hương Thuỷ ni, cha mạ sẽ đưa con tới nhà thím nớ, rồi nhờ thím nớ cử người đưa con lên chiến khu. Khỏi phải mất công đi bộ con hí, đi bộ mỏi chân lắm.
Chi nhìn sang mẹ, bà lắc đầu ngán ngẩm vì không thể cãi lại nổi cái quyết định nhất thời này của chồng. Song khi bắt gặp sự vui mừng hiện rõ trên gương mặt hồng hào của con gái, bà cũng ráng cười, vờ như đồng ý cho con đi.
Ngay chiều hôm đó bà ra chợ sớm cùng với Cẩm, mua rất nhiều đồ về làm một bàn ăn thịnh soạn cho nàng bồi bổ, bà còn mua vài cân nạc heo về để làm chà bông cho Nhất. Còn thầy Lĩnh và nàng Chi ở nhà, tất bật gói ghém những thứ đồ cần thiết để ngày mai đi sơ tán cho kịp.
Rạng sáng hôm sau, chỉ mới độ bốn giờ là nhà thầy Lĩnh đã vang lên tiếng mở cửa lộc cộc, và tiếng người dắt xe đạp sột soạt. Những hộ gia đình sống gần nhà thầy có mấy người phải thức sớm để thổi xôi, nấu chè chuẩn bị đem bán, trong đó có o Trinh đã thức từ khi gà chưa gáy để nấu mấy nồi chè của mình. Khi vừa thấy cả nhà ông thầy đồ lũ lượt dắt ba cái xe đạp ra, o liền đón đường hỏi:
- Nhà thầy Lĩnh đi mô mà sớm rứa?
Vốn là hàng xóm với nhau, hơn nữa trước giờ o Trinh cũng thân thiết với nhà mình, nên thầy Lĩnh cũng không tỏ ra khó chịu gì khi nghe o Trinh hỏi. Thầy vui vẻ đáp:
- Đi sơ tán o ạ.
O Trinh kê cái vá lên nắp nồi chè đậu ngự toả mùi thơm lừng và bốc khói nghi ngút, chạy ra hỏi thêm:
- Sơ tán cái chi?
- Thì sơ tán khỏi trận ném bom chớ răng, o. Tụi Mỹ nó sắp ném bom, mình không chạy thì để nó ném chết cha mình à?
O Trinh chống nạnh, bĩu môi đáp:
- Còn sớm lắm.
Thầy Lĩnh vừa siết lại dây ràng, vừa đáp:
- Chừ đi là kịp rồi o. Nhà tôi sơ tán lên tận Hương Thọ ngoài tê, đợi nước tới chân mới nhảy thì chỉ có nước chôn thây tại làng ni.
Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu, thầy vội nói thêm:
- O cũng phải mau mau sơ tán đi. Thằng Trung hắn đương ngoài mặt trận, hắn nghe o ở nhà có mệnh hệ chi thì làm răng hắn chiến đấu cho nổi.
Mỗi lần có người nhắc tới con trai, trái tim o Trinh như bị ai đó lấy dao cứa vào. O giả vờ khom người ho khù khụ, như để tránh việc phải trả lời câu hỏi chí mạng ấy của thầy Lĩnh. O trở vô nhà, tiếp tục canh nồi chè đậu ngự bên trái, và nồi chè đậu đen bên phải đương sôi ùng ục. Chi thấy o Trinh nhấc nồi chè đậu ngự bự chảng, bự hơn cả thân người của o xuống bếp, rồi o tiếp tục bắt một nồi nước sôi khác, bỏ những viên bột lọc heo quay to bằng trái nhãn vào luộc. Vừa làm, o vừa cất tiếng hát:
"Hà ơi ơi ơi...
Chàng ràng bát cá mà hai tay..
Để con trong rồi cũng mất..
Hà ơi ơi ơi... Con trong rồi cũng mất..
Mà con ngoài.. ơ mà cũng không..
Hà ơi ơi ơi... Chàng ràng e thiếp đó nỏ ràng
Mà ngó đi ơi mà ngó lại,
Hà ơi ơi ơi... ngó đi ngó lại.. nứt một đàng mà sau khu."
...
Sau khi rời khỏi Phú Lộc, cả nhà thầy Lĩnh đạp xe tới Hương Thuỷ cũng phải mất hơn ba tiếng đồng hồ. Bà Nhàn đạp xe chở thêm con Cẩm, nên thành ra bà là người mệt nhất, cả nhà chốc chốc phải dừng giữa đường để nghỉ ngơi nên càng tốn thêm thời gian hơn nữa. Tới Hương Thuỷ rồi, mọi người ghé vô nhà thím ba của nàng ở Phú Sơn để xin nghỉ chân, sẵn tiện nhờ thím cử người đưa Chi lên thẳng chiến khu luôn cho tiện.
Thím ba của Chi tên Mỹ An, là vợ của em trai thầy Lĩnh. Thím vốn không phải người miền Trung, lúc chú ba đưa thím về ra mắt gia đình thì mới hay quê thím ở làng Vân Hoà, Cần Thơ, chú biết được thím trong một lần xuống Cần Thơ tham gia kháng chiến chống Pháp.
Sau khi hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết, Pháp chính thức rút quân khỏi Đông Dương, chấm dứt ách độ hộ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam, chú thím cưới nhau và chuyển về Phú Sơn sinh sống. Nhưng chỉ trong vòng chưa tới 1 năm, sau khi thiết lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam, chính quyền Mỹ - Diệm thi hành chính sách "tố cộng, diệt cộng", tiếp đó ban hành đạo luật 10/59, lê máy chém đi khắp Nam kỳ, giết hại không biết bao nhiêu cán bộ, người dân bên phe ta, những người theo kháng chiến và ủng hộ chủ nghĩa Cộng sản. Ước tính đã có cả trăm ngàn người phải bỏ mạng dưới cái lưỡi chém của quỷ dữ ấy.
Máu ở miền Nam khi ấy đổ thành sông, thây người chất chồng thành núi, sự căm thù của người dân đã đạt tới đỉnh điểm
Nhận được tin dữ, biết giặc vẫn còn dày xéo đất nước và miền Nam thân thương, cũng giống như những thanh niên mang niềm quyết tâm "giết giặc lập công" khác, chú ba tiếp tục viết đơn xin ra chiến trường miền Nam chiến đấu. Trước khi chuyến xe chở những chiến sĩ từ miền Trung vào Nam lăn bánh, chú đã ôm hôn thím thắm thiết, và dặn thím những lời thế này:
- Đợi anh! Khi mô hai miền thống nhất, anh sẽ về với em. Anh sẽ về bằng xương bằng thịt, bằng một con người lành lặn vẹn nguyên. Em ở nhà cứ yên chí, đừng lo cho anh!
Cái ngày chú tạm biệt thím để vào Nam là ngày 15 tháng 9, đúng một tuần sau, thím phát hiện mình có thai. Một mình thím vượt cạn sinh con mà không có chồng ở bên, và một mình thím làm lụng đủ mọi việc, vất vả đủ đường để nuôi đứa con khôn lớn. Mới đó, mà đã chín năm ròng trôi qua rồi. Đứa con thím là con gái, ba nó đi bao nhiêu năm thì nó bấy nhiêu tuổi. Con bé được thím đặt tên là Hoài Phương, mang ý nghĩa là lúc nào cũng nhớ đường về, như một lời dặn dò của thím dành cho người chồng đương chinh chiến ngoài mặt trận khói lửa.
Mỗi lần nhớ tới câu chuyện tình xa cách bi thương của chú thím ba, nàng Chi không giấu nổi sự đau lòng. Đã lâu lắm nàng không gặp lại thím, không gặp lại Hoài Phương, không biết bây giờ hai người họ thế nào rồi. Càng nghĩ thì cái mong muốn được gặp thím và em càng sục sôi trong lòng Chi như lửa cháy.
Hai giờ chiều, cũng là lúc bốn người tới được Phú Sơn.
Gia đình thầy Lĩnh ghé nhà đương lúc thím ở ngoài sân tưới mấy chậu phát tài. Vừa thấy thầy Lĩnh, thím ngạc nhiên tới nỗi đánh rơi bình tưới nước, làm nước đổ ra lênh láng khắp sân. Mất vài giây để hoàn hồn, khi chắc chắn rằng nhóm người đứng ngoài cổng kia đúng là bốn người nhà anh chị chồng, thím mừng quýnh, vội vàng tìm chìa khoá ra mở cổng.
- Anh chị vô nhà chơi. Sao tới mà không gửi thư báo để em hay?
Thím đỡ phụ nàng Chi cái xe đạp chất đầy đồ lề của nả, và giúp nàng dắt xe đạp vào sân, còn thầy Lĩnh và bà Nhàn thì theo sau.
- Anh chị mới quyết định đi từ hồi chiều hôm qua, không kịp báo cho em đó chớ.
Thím cười, rồi vui vẻ nói:
- Mời anh chị, mời cháu vô nhà uống nước.
Sống ở miền Trung đã gần chục năm, ấy vậy mà chất giọng của thím vẫn không hề thay đổi, vẫn mang đậm sự chân chất, thật thà đúng kiểu cách của người miền Tây. Thím mời gia đình vào nhà, cả con Cẩm cũng được dành một chỗ ngồi cùng với mọi người. Thím rót trà mời anh chị chồng trước, rồi mới tới Chi và Cẩm. Vừa uống, thím vừa hỏi:
- Mà sao anh chị tới gấp quá vậy? Ở dưới có chuyện chi à anh?
Thầy Lĩnh ngả người ra thành ghế, chẹp miệng đáp:
- Nghe nói tụi Mỹ sắp ném bom xuống Phú Lộc, anh dẫn chị nhà và các cháu về quê nội sơ tán.
- À! Em có nghe. Nhà em cũng chuẩn bị sơ tán lên đó đây.
Rồi thím ngó ra sau, chỗ có dãy hành lang nằm khuất sau tấm rèm che. Thím cất giọng gọi lớn:
- Phương! Có bác hai và chị Chi tới chơi đây. Ra chào bác với chị đi con!
Rất nhanh sau, từ phía dãy hành lang ấy vang lên tiếng bước chân con nít chạy lạch bạch. Hoài Phương đương ôm con gấu bông trên tay, gương mặt bầu bĩnh, trắng hồng búng ra sữa của con bé lấp ló sau tấm rèm, dường như nó còn ngại không dám ra. Thím thấy thế, vội gắt:
- Nào, là bác hai chớ có phải người lạ đâu mà con sợ.
Hoài Phương chu môi, nó nhìn Chi bằng một đôi mắt hiếu kỳ. Nàng Chi biết con bé đương nhìn mình thì liền vẫy tay kêu nó lại gần, nàng dịu giọng:
- Em bé ra đây.
Lúc này Hoài Phương mới đi ra, dáng đi của nó cứ nghiêng sang bên này, lắc sang bên nọ cứ như con lật đật khiến Chi phì cười. Dang tay đón Hoài Phương vào lòng, nàng Chi đặt con bé ngồi lên đùi mình và chia cho nó nửa cái bánh quy.
Thím ba ở đây thấy Hoài Phương chịu lại gần người lạ thì ngạc nhiên vô cùng. Vốn dĩ từ trước tới nay, số lần hai chị em gặp nhau chưa đếm quá mười đầu ngón tay, lần cuối cùng mà Chi gặp Hoài Phương là vào lúc sinh nhật bốn tuổi của con bé, cách đây cũng năm năm rồi chứ ít ỏi gì. Mà Hoài Phương còn là đứa trẻ nhút nhát, khó gần, chuyện con bé vừa gặp người lạ mà đã cho ôm thế này thì thật là một chuyện khó tin.
Hoài Phương ngồi trên đùi Chi, nó ngoan hệt như một con mèo. Do Hoài Phương thuộc dạng nhỏ con, đã chín tuổi mà trông con bé cứ như sáu tuổi nên Chi không gặp khó khăn gì mấy trong việc giữ con bé ngồi yên. Hoài Phương ăn xong nửa miếng bánh, Chi lại đưa nốt cho nó miếng còn lại. Thím ba thấy con mình cười tươi như thế, thì giở giọng mắng yêu:
- Mày đòi chị Chi quá rồi con ơi! Ở nhà má không cho ăn bánh, gặp người lạ tới là đòi bánh ngay.
- Lâu lâu con mới gặp em, thím cứ để con chiều em một chút.
Thím ba thở dài ngán ngẩm. Nhìn sang anh chị chồng mình cũng đương cười tủm tỉm, thím nói:
- Anh chị làm thêm một đứa nữa đi, cho thằng Nhất nó có em.
Bà Nhàn nghe thím nói thế thì cười lớn:
- Từng tuổi ni, đẻ làm răng được thím?
Thầy Lĩnh khều vai vợ, nói thêm rằng:
- Anh cũng hay nói với chị như rứa, mà chị có chịu mô.
Bà Nhàn trừng mắt, đánh vô tay thầy một cái rõ đau.
- Mà anh chị khởi hành sao sớm quá. Muốn tới Hương Thọ, thì đi mấy hồi.
- Anh chị khởi hành sớm là để phòng ngừa chuyện chi bất trắc xảy ra. Vả lại tụi Mỹ nó nói chớ, biết nó có chơi lén ném bom sớm hay không?
- Có khi chỉ là chúng doạ, chớ không ném bom thiệt đâu đa.
Thầy Lĩnh ngồi thẳng dậy, nghiêm mặt hỏi:
- Răng thím nói như rứa?
Thím ba thở dài. Nàng Chi lặng người, khi thấy một nụ cười khổ nở ra từ đôi môi nứt nẻ rướm máu của thím.
- Em... chỉ linh cảm vậy thôi.
Mọi người trong nhà thầy Lĩnh đồng loạt nhìn nhau, bầu không khí bỗng dưng chùng hẳn xuống.
Thím ba không muốn giữ hoài cái không khí tẻ nhạt như vậy, nên liền nói lảng sang chuyện khác:
- Trời ơi em quên mất! Anh chị đi đường xa chắc cũng mệt rồi, hay thôi để em ra chợ mua cái gì ngon ngon về, cả nhà ta cùng ăn một bữa thiệt đã nha?
Bà Nhàn vội đưa tay cản:
- Được rồi thím, anh chị đi liền đây. Nhưng mà, thím cho anh chị nhờ chuyện ni được không?
- Sao anh chị đi nhanh quá vậy? Mà anh chị nhờ em chuyện chi?
Bà Nhàn thúc vào tay chồng, như muốn đùn đẩy chuyện thưa gửi này cho thầy nói. Thầy Lĩnh hiểu ý vợ, bèn đáp lời thím ba:
- Thím cũng biết nhà anh chị có thằng Nhất đi bộ đội, hắn ở trên Dương Hoà ni chớ không đâu xa xôi hết. Khi bữa hắn gửi thư về, nói với mạ là hắn thèm chà bông quá, nhờ mạ làm cho hắn một ít gửi lên chiến khu, hắn ăn cho có sức chiến đấu. Mà thím cũng biết tính chị nớ rồi, thương con lắm. Chị nớ làm cả một hũ chà bông to đùng để ngoài tê...
Thầy chỉ ra chỗ xe đạp, phía sau yên xe đúng là có một cái hũ gì đó được gói kĩ trong tấm vải đen. Đoạn thầy nói tiếp:
- Ngặt nỗi, trong lúc sơ tán như ri, anh chị không có thời gian ghé lên Dương Hoà đưa cho hắn được. Con Chi thì muốn đi, vì hắn nói hắn có việc chi trên đó. Anh chị muốn nhờ thím đưa Chi lên Dương Hoà giùm, rồi đoạn đường từ Hương Thuỷ về Hương Thọ hắn sẽ tự đi. Anh chị chỉ nhờ thím chừng nớ chuyện, không biết... thím chịu không?
Thầy Lĩnh nói xong, thì cả hai vợ chồng và nàng Chị im lặng chờ sự quyết định của thím ba. Chẳng cần suy nghĩ gì nhiều, chỉ trong vòng chưa đầy năm giây, thím đã gật đầu nói:
- Có mỗi mình chuyện đó, mà em cứ tưởng phải là chuyện chi nghiêm trọng lắm. Anh chị yên tâm, cứ để cháu nó ở đây, một lát em sẽ đưa cháu nó lên chiến khu Dương Hòa ngay. Em cam đoan với anh chị, đưa tận nơi, đón tận chỗ.
...
Liên gia trưởng: (liên gia là tổ chức gồm một số hộ sống gần nhau, do chính quyền Sài Gòn trước 1975 lập ra để tiện kiểm soát dân), và liên gia trưởng là người đứng đầu liên gia
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Hữu Phúc - Mai Thị Yên Thi. Phong trào Đồng Khởi ở Thừa Thiên Huế từ năm 1964 đến đầu năm 1965. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167). tr 59
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com