CHƯƠNG 6: LÊN THĂM CHIẾN KHU (2)
Thầy Lĩnh và vợ không ăn cơm cùng thím ba mà xin kiếu để về Hương Thọ cho sớm, để lại nàng Chi ở nhà, đợi tới xế chiều thím sẽ dẫn đường cho nàng lên chiến khu. Sau khi dùng cơm xong, thím ba giăng mùng cho Chi ngủ trưa, ngay tới Hoài Phương ngày thường chẳng mấy khi ngủ mà bây giờ cũng tự giác chui tọt lên giường, nằm sát chị Chi mà ngoan ngoãn ngáy o o. Tới tầm ba giờ, thím giúp Chi soạn hết những đồ cần thiết bỏ vào cái ba lô con cóc mượn tạm của bé Phương, trên xe nàng chỉ ràng mỗi hũ chà bông cho Nhất, và một cái bi đông đựng nước giắt phía trước xe, phòng khi nào giữa đường có khát thì còn cái để uống. Riêng thím, những món đồ nào nặng hay cồng kềnh, thím đều để ở xe mình. Ban đầu Chi không chịu để thím mang vác nặng, nên nàng có xin đỡ cho thím phần nào, nhưng thím từ chối, thím nói:
- Thím trước giờ lao động, vác đồ nặng quen rồi, ba cái đồ quỷ này thì có hề chi đâu. Còn mày là con gái, chân yếu tay mềm. Thím biết xưa nay mày chỉ quanh quẩn với đèn sách, biết chi mấy chuyện nặng nhọc này, con.
Nghe thím nói thế, Chi chỉ còn biết cười trừ. Song nàng vẫn lén tháo một rương đồ nhỏ bên xe thím và để nó ở yên xe sau của mình, rồi đặt hũ chà bông trên cái rương ấy.
- Con nhỏ này!
Thím ba cười, tặc lưỡi mắng yêu.
...
Chiến khu Dương Hòa nằm tọa lạc trên vùng núi non hiểm trở, được bao quanh bởi những đồi cao rừng rậm, phía cuối chiến khu là hợp lưu hai nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch. Sau một khoảng thời gian dài quân Pháp tấn công bằng hỏa lực, thuỷ lực nhằm chặn mọi con đường tiếp tế lên chiến khu Hoà Mỹ, tới tháng 5/1948, nhằm bảo toàn lực lượng kháng chiến, Tỉnh uỷ và các cơ quan chỉ đạo kháng chiến đã dời chiến khu Hoà Mỹ lên vùng căn cứ Dương Hoà, sau cùng, Dương Hoà đã trở thành cơ quan đầu não của Thừa Thiên Huế, để chiến khu Hoà Mỹ cũ trở thành địa điểm đóng quân của cơ quan Phân khu Bình Trị Thiên. Chiến khu Dương Hòa là một nhân chứng lịch sử rõ ràng nhất, là đôi mắt chứng kiến toàn bộ tiến trình đấu tranh giải phóng của toàn thể nhân dân tỉnh Thừa Thiên qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Từ Phú Sơn tới Dương Hoà phải băng qua khúc sông Tả Trạch, đó là con đường ngắn nhất để lên được chiến khu. Nhằm thuận tiện cho việc đi lại giữa bờ bên này sang bờ bên kia, các anh bộ đội ngày trước đã chặt cây xây một cây cầu gỗ tạm bợ, dùng để băng qua sông cho dễ, khỏi phải mắc công đi đường vòng xa xôi. Cây cầu được xây ọp ẹp, chẳng khác gì một que củi nhỏ xíu nằm giữa một khoảng trời thiên nhiên hùng vĩ, tưởng tượng như chỉ cần một đợt bão quét qua thôi thì cây cầu cũng có thể dễ dàng đổ sập bất kỳ lúc nào. Và chẳng cần tưởng tượng nữa, đợt bão dữ dội cách đây bốn năm trước đã khiến khúc giữa của cầu sập thật. Nhận ra sự nguy hiểm của việc này, nên người ta mới bỏ cầu, dùng đò làm phương tiện di chuyển. Ở hai bên bờ tả hữu của sông Tả Trạch bố trí hai con đò dùng để chở bộ đội và dân sang chiến khu.
Hai người lái đò là một cặp vợ chồng ngoài sáu mươi, có con đương công tác tại Dương Hoà luôn. Bộ đội thấy ông bà đã già yếu, nên nhiều lúc có ngỏ ý muốn ông bà về quê nghỉ ngơi, sợ công việc lái đò nguy hiểm mà tay chân ông bà cứ run rẩy thế này, mắc công xảy ra chuyện bất trắc thì toi. Nhưng mỗi lúc được khuyên như thế, ông bà cứ nằng nặc không chịu. Phần vì ông bà muốn gần con, phần vì đây là công việc khó nhằn, những người trẻ không có kinh nghiệm thì sẽ không thể lái đò trơn tru được. Thật vậy, mỗi khi bộ đội leo lên chuyến đò của ông bà lái, ai nấy cũng đều há hốc mồm kinh ngạc, vì khả năng lái đò của ông bà tuyệt đỉnh không thể chê vô đâu được. Tuy bình thường nói chuyện, người ta sẽ thấy ông bà hơi lẫn, nhưng mỗi khi tiếp nhận đoàn người nào đó qua sông, thì hỡi ôi hình ảnh người kỵ sĩ đương nắm dây cương một con ngựa mà phi nước đại lại thoắt ẩn thoắt hiện qua hai bóng hình của đôi vợ chồng già này một cách kì diệu vô cùng. Con đò không phải ngựa, không có dây cương, chỉ có mái chèo, nhưng cái mái chèo đó lại là thứ ôm trọn toàn bộ mạng sống của những người có mặt trên đò. Mái chèo khua nhẹ, sóng nước rẽ êm, cứ như là không hề dao động. Con đò trôi thật đầm trên mặt sông Tả Trạch, thêm một chút gió thổi nhẹ trên đầu, và thêm một chút nắng dịu nữa thì quả thật, tới cái giường phủ chăn ấm nệm êm cũng không thể ru ngủ ta nhanh được như ở trên đò.
Còn mỗi lúc phải chạy đua với mưa dông bão lũ, thì cái mái chèo ấy lại khua rất nhanh và dữ dội, nhưng kỳ lạ thay, dù khua nhanh như thế nhưng chẳng khi nào người ta thấy đò mất thăng bằng lắc lư cả. Ông bà vẫn luôn giữ cho đò trôi thật ngay, cố gắng không để nước sông làm ướt áo quần, súng ống của bộ đội. Mấy khi giặc ném bom xuống sông Tả Trạch, bom dội đùng đùng, tiếng súng từ phía rừng, phía cuối sông vang điếc hết tai, thậm chí có khi người ta đã nghe tiếng chân của tụi Mỹ chạy sắp tới bờ rồi, nhưng hai vợ chồng vẫn không hề nao núng, tay cầm mái chèo vẫn chặt cứng như cầm một thứ quý giá nhất cuộc đời, và khua từng đường chèo thật chắc, thật dũng mãnh để đưa người sang bờ bên kia an toàn.
Lúc thím ba và Chi tới được bờ sông Tả Trạch, thì đã thấy cặp vợ chồng lái đò ngồi sát mép sông, với vài trái vả và hũ mắm ruốc toả mùi nồng nặc. Thím ba dặn Chi dựng xe ở cách bờ sông chừng chục bước chân, còn mình sẽ ra đó nói chuyện với hai ông bà. Thím đi thật rón rén, nhưng sự rón rén ấy chẳng thể qua mắt được một người lính già đã có kinh nghiệm mấy chục năm ngoài chiến trường, ngay tới tiếng muỗi kêu nhỏ thế nào cũng có thể dễ dàng nghe thấy - ấy là do ông chồng nói như thế.
Ông ngọ nguậy tai, cặp mắt bỗng chốc toả ra sự nghiêm trọng khiến bà vợ giật mình. Ông quay phắt về phía sau, khi trông thấy thím ba đương từng bước tiếp cận tới chỗ hai người, ông trầm giọng hỏi:
- Đi mô?
Thím ba lập tức dừng bước. Tim thím đập thình thịch, mặt mày tái nhợt. Ông chồng lại hỏi:
- Mi đi mô? Không trả lời, tau bắn chết!
Lời đe dọa của ông càng khiến cho thím hoảng sợ hơn, toàn thân run như cầy sấy, đầu óc thím tê cứng chẳng thể suy nghĩ được gì. Ông chồng thò tay vô túi quần, hình như, ông ấy có súng. Nhận ra điều đó, thím ba hãi hùng, không kịp lựa lời, thím nói thẳng:
- Con đi sang chiến khu!
Giọng ông càng gằn hơn:
- Mi đi qua đó làm chi?
- Con sang đưa đồ cho thằng cháu.
Nói xong, thím nhắm tịt mắt vì không dám đối diện với gương mặt đằng đằng sát khí của ông nữa.
Bỗng, thím nghe tiếng người vợ cười giòn:
- Rứa thì đi, làm cái chi mô mà sợ. Hắn là người miền Nam đó ông nờ.
Thím từ từ hé mắt, thì thấy ông gật gù nhìn vợ, rồi bỏ tay khỏi túi quần. Lúc này thím mới nhận ra, hoá ra trong quần ông chẳng có cây súng nào cả, chỉ là do ông làm bộ doạ thím mà thôi.
- Có giấy tờ chi không? Tau chỉ chở dân ta, không chở giặc mô. Tau mà phát hiện mi là giặc, tau chặt đầu vứt xuống sông hết.
Thím vội lấy trong cái túi đeo chéo ra mớ giấy tờ tùy thân, luôn cả giấy đăng ký kết hôn của chú ba và thím để chứng minh. Sau khi kiểm tra qua hết mớ giấy tờ đó, ông chồng mới thả lỏng chân mày, nét mặt cũng chẳng hiện vẻ cau có nữa. Ông đưa lại giấy tờ cho thím rồi đi lại con đò, tháo dây và phẩy tay:
- Xuống đi! Từ bờ qua chiến khu tốn chừng năm phút thôi.
- Nhưng con còn đứa cháu gái đi theo...
Thím hướng mắt về phía Chi đương đứng trông xe đạp đằng kia, tiếp tục nói:
- Và còn mớ đồ nữa. Ông chở được không?
- Mười hai khẩu A - ca, mỗi khẩu nặng hơn 4 cân tau còn chở như chở lông ngỗng. Mấy thứ đồ lề của nả nớ, có là chi. Một đò chở đồ, một đò chở người.
Nghe tới đây, biết rằng ông đã đồng ý để đò của mình chở thêm người, thím liền gọi Chi lại chuẩn bị vượt sông.
Những món đồ mà hai người mang theo không nhiều, nên trong suốt quá trình chèo đò cũng không gặp khó khăn gì cả. Còn hai cái xe đạp, ông bà đã dặn thím cứ để trên bờ, khi nào đưa người qua xong thì quay trở lại lấy cũng chẳng mất được. Thím và Chi ngồi ở đò của người vợ, còn ông chồng thì chở đồ đạc chèo theo sau. Đúng năm phút là đã tới được bờ bên kia.
- Tụi con cảm ơn ông bà nhiều lắm.
Thím nói xong thì định giúp ông chuyển đồ xuống đò, nhưng còn chưa kịp đụng tay vô thì ông đã gắt:
- Lôi thôi quá, cứ để đó tau vác xuống cái một.
Chỉ trong vòng chưa tới hai phút mà ba cái rương đồ, một rương lớn, hai rương nhỏ đã được ông đặt ngay ngắn trên bờ.
- Tiền đò hết bao nhiêu? Con gửi.
Người vợ lắc đầu, miệng nở nụ cười hiền:
- Không mất tiền.
Còn chưa để thím kịp hiểu vấn đề, thì ông chồng đã chen ngang bằng một câu hỏi:
- Vợ bộ đội phải không?
Thím tròn mắt.
- Sao ông biết?
Ông chỉ vô cái túi đeo chéo của thím, trong đó có chứa mớ giấy tờ tuỳ thân mà vừa nãy thím đã cho ông xem. Lần này, ông cũng cười giống vợ, tiếng cười giòn giã của hai vợ chồng khiến thím và Chi ngơ ngác nhìn nhau.
- Tau biết chồng mi từ hồi hắn còn bé tí. Thằng Ba Khiêm nớ đi bộ đội được lâu chưa? Tau nhớ lúc còn ở Phú Sơn, hắn lì chẳng thua cha hắn mô.
Thấy ông lái đò gọi đúng tên chồng mình, thím càng sửng sốt hơn nữa. Thím không ngờ, ngay chốn thâm sơn cùng cốc thế này mà lại có thể gặp được người quen. Nét mừng rỡ đã thoáng qua trên gương mặt thím, nhưng tức khắc sau, nó lại vụt tắt, và thay vô đó là sự rầu rĩ. Thím cố làm ra vẻ mình không sao, đáp:
- Chồng con đi được chín năm rồi ông. Từ hồi đám cưới được bốn tháng, là ảnh đi luôn tới bây giờ.
- Rứa là chín năm rồi à? Nhanh thiệt, nhanh thiệt. Chớ hắn ra miền Nam hay răng?
- Dạ ở miền Nam. Cách đây một tháng ảnh có gửi thư về hỏi thăm gia đình, trong thư nói ảnh đương ở Sóc Bom Bo.
Chi đứng bên cạnh nghe thím và vợ chồng lái đò nói chuyện với nhau, cũng chẳng biết nên tham gia vào thế nào. Nhưng cuộc nói chuyện giữa ba người họ chỉ kéo dài trong chốc lát, vì thím nhận ra trời đã dần chiều rồi, sợ nếu nấn ná lại đây sẽ trễ nên thím vội kết thúc đoạn nói chuyện, bằng một lời hứa hẹn đầy thân tình:
- Khi nào chồng con về, con sẽ dẫn ảnh ra đây gặp ông bà. Tới lúc đó, ba người nhậu cá khô, chớ không nhậu vả chấm mắm ruốc nữa đâu.
Sực nhớ tới hai chiếc xe đạp còn để ở bờ, thím vội nói:
- Phiền ông chở con qua bờ, để con lấy xe đạp chạy lên chiến khu.
Ông thở hắt ra, xua tay:
- Thôi để tau tự chèo rồi tự mang qua cho, khỏi mất công mi đi cùng. Ở lại chơi với vợ tau, rồi đợi tau một chút.
Nói rồi ông phóng ngay xuống đò, chèo qua bờ bên kia rồi lại lộn ngược về đây với hai chiếc xe đạp. Ông tiếp tục giúp thím chất hết ba cái rương đồ lên hai chiếc xe, trước khi tạm biệt nhau, vợ ông còn ôm hôn thím và Chi thắm thiết.
- Khi mô gặp lại chồng mi, cho mệ gửi lời hỏi thăm Ba Khiêm. Nói hắn là mệ Riềng nhớ hắn lắm nghe.
Ông chồng chỉ tay về phía núi, nói:
- Hai người đi một đường thằng từ chân núi lên là tới chiến khu, khỏi phải quẹo đi mô hết.
Đường lên chiến khu chỉ còn cách sáu, bảy cây số nữa là tới, nhưng khổ thay trong suốt quãng đường đi, thím ba và Chi phải đạp xe băng qua chừng ba con dốc. Đoạn nào dốc quá, thì hai người xuống xe dắt bộ, vì không sao đạp lên nổi. Mỗi lần chân bước đi là mỗi lần nàng muốn ngưng thở vì quá mệt, và cũng vì đoạn đường đầy rẫy sỏi đá, ổ gà thế này làm việc di chuyển càng gặp khó khăn hơn bao giờ hết. Xung quanh những con dốc bị mấy hàng cây, dây leo mọc um tùm cản trở, có mấy lúc đi ngang qua đoạn nào rậm rạp quá, Chi phải một tay cầm tay lái, một tay gạt lá cây, cành cây để thấy đường.
"Mình có ngờ mô là đường đi lại khó như rứa."
Chi tự than thầm trong bụng như vậy. Nghĩ tới chuyện lúc nào lên chiến khu, bộ đội cũng phải trèo đèo lội suối qua dăm bảy con dốc thế này làm nàng càng nể phục hơn tinh thần quyết chiến không ngại gian khó của họ, đặc biệt là những nữ chiến sĩ. Nàng với các o ấy cùng là thân con gái với nhau, Chi không thể tưởng tượng nổi những con người nhỏ nhắn như thế mà phải vác khẩu súng nặng hơn 3 cân, rồi vũ khí, lương thực, thậm chí là các hòm đạn nặng cả chục cân, còng lưng, gắng sức băng qua những chướng ngại vật ấy để mang đồ tiếp tế lên cho bộ đội, tất cả những thứ đó đều quá sức với một người phụ nữ. Chi sực nhớ tới những bức thư ngày trước cậu Nhất gửi về, thư nào cậu cũng khoe là hôm nay đi đón một đoàn tiếp tế toàn các o, các chị lên chiến khu gửi mắm, muối, khô và gạo. Ban đầu Chi thắc mắc không biết bọn họ tiếp tế lên Dương Hoà bằng đường gì, và gian khổ tới đâu mà cậu Nhất lại khen lấy khen để các o ấy như thế. Bây giờ, thì nàng hiểu rồi.
Leo dốc cực khổ như vậy tới hơn năm giờ, lúc mặt trời bắt đầu khuất núi thì hai người mới trèo thấu được chiến khu.
Đứng từ cuối con dốc, Chi thấy thấp thoáng một đài quan sát được xây ẩn nấp sau những tán cây vả và cây sim rừng, nàng vội kêu thím ba dừng xe lại và chỉ về hướng đài quan sát ấy, nói:
- Ở bên tê tề thím ơi!
Thím ba chống tay lên yên xe, thở hồng hộc. Mồ hôi mồ kê hai người đều đã vã ra ướt áo.
- Chắc còn chưa tới một cây số nữa. Ráng đi con!
Chi gật đầu, nàng cầm bi đông, tu ừng ực một ngụm nước cho đỡ khát.
Thím ba và Chi hiện tại đương ở trước cổng chiến khu, ngoài cổng còn thêm bốn đồng chí chiến sĩ khác đương trong ca gác, người nào người nấy đều cầm súng, đội mũ cối, mặt mày nghiêm nghị khiến Chi có chút run sợ khi phải đối diện.
Vừa thấy có người lạ, một đồng chí vội tiến tới hỏi chuyện. Thím ba hồ hởi đáp:
- Tụi tôi lên đây đưa đồ cho cháu trong chiến khu. Cháu tên Vũ Văn Nhất.
- O có giấy tờ chi chứng minh không?
Thấy thím lúng túng vì không có giấy tờ gì để chứng minh Nhất là cháu mình, Chi kế bên vội đáp thay:
- Tôi có đây.
Chi lấy sổ hộ khẩu và bức thư mà đợt vừa rồi Nhất gửi về đưa cho đồng chí canh gác. Đồng chí ấy xem qua một hồi rồi quay xuống nói với đồng đội rằng:
- Đồng chí Nhất có ở đây không?
- Có. Nhưng tầm một tiếng sau đồng chí nớ phải chuyển quân lên Phong Điền rồi.
- Chừ đồng chí vô trong gọi đồng chí Nhất ra đây. Nói là có người nhà muốn gặp.
Đồng chí kia hô "Rõ!" thật to, rồi chạy vào trong.
- O với chị đứng đây chờ đồng chí Nhất một chút. Hai người đem cái chi mà nhiều rứa?
Giọng đồng chí canh gác đã dịu hơn. Chi để ý đôi mắt người nọ cứ dán chặt vào ba cái rương đồ và hũ chà bông được ràng đằng kia. Nàng nhỏ nhẹ đáp:
- Một rương là đồ của Nhất, một rương là đồ của tôi, còn rương lớn tê là đồ của thím nớ.
- Tôi thấy có cái chi giống cái hũ quá.
- À! Chà bông mạ tôi làm gửi lên cho hắn.
Ánh mắt đồng chí ấy lộ rõ sự thèm thuồng khi nghe Chi nhắc tới hai chữ "chà bông". Đồng chí nọ cười, quệt mũi và nói một cách đầy hóm hỉnh:
- Lâu thiệt lâu rồi tôi cũng không ăn chà bông. Lần ni đồng chí Nhất được người nhà gửi tiếp phẩm lên là hũ chà bông to như rứa, anh em tụi tôi được ăn ké rồi.
- Mạ tôi làm nhiều lắm, cả bốn cân thịt hơn đó. Chủ yếu mang vô cho bộ đội các anh ăn lấy sức, chớ có phải dành riêng cho hắn mô.
- Rứa chị gửi lời với mạ, là tụi tôi cảm ơn mạ nhiều lắm.
Chi gật đầu. Đồng chí tiếp tục nói:
- Hai người đi đường xa chắc mệt lắm. Đợi lát đồng chí Nhất ra, tôi sẽ nhắc đồng chí nớ đưa o với chị vô lán nghỉ ngơi uống trà cho mát.
Đồng chí canh gác vừa dứt câu, thì từ phía sân đã vang lên tiếng giày nện trên nền đất. Nhất vừa gặp lại thím ba và chị, cậu mừng tới mức nhảy cẫng lên, quên mất rằng mình đương ở trước mặt đội trưởng. Nhất chạy ào tới ôm chầm lấy người thân. Trong giây phút quá khích, cậu đã nhấc bổng Chi lên và quay vòng tròn, khiến những đồng chí canh gác còn lại không kìm nổi mà bật cười.
- Đồng chí Nhất coi vậy mà hồn nhiên quá!
- Hồi bằng tuổi hắn, tôi chẳng khi mô ôm chị, ôm mạ mà nhảy sung sướng như rứa. Đúng là chưa kịp lớn đã phải xa gia đình.
Mặc kệ những lời đồng đội đương trêu ghẹo, Nhất vẫn ôm riết chị và thím ba. Tới khi nghe tiếng đội trưởng ho khan, thì cậu mới chịu bỏ họ ra và đứng thật nghiêm chỉnh.
- Xin lỗi đội trưởng, do lâu rồi tôi mới gặp lại người thân.
Anh đội trưởng mỉm cười, đáp:
- Rứa đồng chí đưa o, đưa chị vô trong ngồi cho mát. Họ đợi đồng chí nãy chừ.
Thím ba đột nhiên từ chối:
- Chắc không được rồi, tôi phải về, tại còn con nhỏ ở nhà nữa.
- Trời tối như ri, làm răng o về được?
- Tối cũng phải về thôi đồng chí. Tôi không yên tâm để nó ở nhà hàng xóm qua đêm. Thiếu tôi, nó ngủ không được.
Nói rồi, thím quay xe hướng về phía lối ra, ngay chỗ con dốc gần như dựng đứng mà vừa nãy mình và Chi vừa trèo. Anh đội trưởng lập tức cản:
- Không được mô o. Trong rừng ban đêm có thú dữ, o đi một mình như rứa thì chẳng khác chi mò vô hang cọp mô. Vả lại, đường từ đây về tới nhà o xa lắm, o đạp xe không nổi mô.
Anh đội trưởng hết lời nài nỉ, thậm chí anh còn giữa xe lại không cho thím đi vì sợ nguy hiểm. Mặc dù thím đã nói không sao, và đưa lý do rằng còn bé Phương ở nhà đợi thím về dỗ ngủ, nhưng đội trưởng vẫn cứ một mực không cho thím xuống núi.
Anh đội trưởng càng quyết liệt cản chân thím bao nhiêu, thì thím càng giằng xe đạp mạnh ra bấy nhiêu, tới mức mà các đồng chí canh gác đương đứng đằng kia cũng phải tới can hai người lại. Cậu Nhất thấy tình cảnh như vậy thì khó cho cả hai quá. Cậu biết thím ba thương con đứt ruột. Dù sao, thì Hoài Phương cũng là đứa con độc nhất của chú thím, nếu lỡ con bé mệnh hệ gì thì làm sao thím sống cho nổi.
- Rứa thì thôi, tôi có cách ni. Đội trưởng nghe có được hay không hí.
Mọi người đồng loạt nhìn Nhất. Cậu nói tiếp:
- Nhà thím tôi có con nhỏ, ép thím ở lại đây thì không tiện chút mô. Chi bằng ta cắt cử một đồng chí đưa thím ra tới đường lớn, rồi thím sẽ tự đạp xe về nhà. Đội trưởng thấy như rứa có được không?
- Nhưng đường sá xa xôi lắm, từ đây về tới Phú Sơn cả chục cây số. Lỡ o nớ có chuyện chi giữa đường thì...
Lúc này một đồng chí khác lên tiếng:
- Vậy thì tôi xung phong đạp xe cùng với o. Tôi sẽ đích thân đưa o về tới tận nhà.
Sự chú ý của mọi người tức khắc đổ dồn về phía đồng chí ấy. Đó là một đồng chí có dáng người cao ráo, trắng trẻo một cách bất thường, mặt mũi xinh trai dễ mến, trông qua vẻ bề ngoài, nàng Chi đoán có thể đồng chí nọ là con nhà giàu tham gia kháng chiến không chừng.
Anh đội trưởng hơi chau mày, hỏi:
- Ngày mai đồng chí Luông phải tập kết vô Nam, đi như rứa, đồng chí có đảm bảo sẽ về đúng giờ không?
Đồng chí ấy chính là anh Luông, người đồng đội luôn kề cạnh anh Trung lúc anh ấy còn công tác tại chiến khu Khe Tre. Anh Luông cười, đáp một cách chắc chắn:
- Tôi đảm bảo mình sẽ quay về chiến khu trước mười hai giờ đêm nay. Đội trưởng cứ yên tâm giao nhiệm vụ đưa đón o cho tôi.
Mọi người trầm mặc nhìn đội trưởng chuẩn bị ra quyết định. Sau khi cân nhắc, cuối cùng anh đội trưởng cũng đồng ý cho Luông đưa thím ba về, nhưng trước khi đi, đội trưởng nhắc đi nhắc lại với anh Luông rằng phải về đúng thời gian quy định, nếu chậm trễ sẽ bị kỷ luật ngay lập tức. Anh Luông cam kết với điều ấy, và xin một đồng chí khác cho mình mượn xe đạp, cùng thím ba xuống núi về lại Phú Sơn. Riêng nàng Chi, sau khi thím ba đi rồi thì nàng được cậu Nhất đưa vào chiến khu nghỉ ngơi, và sắp xếp chỗ ngủ qua đêm, đợi sáng mai sẽ khởi hành về Hương Thọ sớm.
Bây giờ Chi đương ngồi với Nhất trong ngôi lán nhỏ dùng để làm nơi tiếp khách, hoặc người thân của các chiến sĩ lên thăm. Ngôi lán nằm phía Tây đài quan sát, được dựng đơn giản bằng những cột tre, tường đắp đất và lợp mái bằng những lá cỏ tranh. Đằng trước lán là khoảng sân rộng trồng một hàng dài những cây sim, cây thông rừng, xung quanh cỏ và lau sậy mọc rậm rạp. Đơn vị còn dành một khoảng đất nhỏ phía sau lán để trồng khoai, sắn, là lương thực chính chống đói cho bộ đội vào những tháng ngày hết gạo. Còn phía bên trong, ngôi lán kỳ thực không có nhiều đồ đạc, chỉ có bộ bàn ghế tre, một cái tủ gỗ cũ kĩ mà Chi không biết bên trong đựng gì, chỉ thấy đầu tủ để một hàng dài những cái bi đông của bộ đội, trên tường treo ảnh cụ Hồ cùng lá cờ đỏ sao vàng, và một tấm bảng đề hàng chữ "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm".
Chi im lặng nhìn khắp ngôi lán. Cậu Nhất thấy chị mình lần đầu lên chiến khu mà cứ trưng ra bộ mặt ngơ ngác thế này, cậu cười và trêu rằng:
- Chị nhìn một chặp là mòn mắt đó.
Chi giật mình, nàng không thèm nhìn nữa và uống ngụm trà Nhất vừa pha, tấm tắc khen:
- Ở nhà chẳng mấy khi thấy em pha trà, chừ đi bộ đội lại biết pha trà ngon như rứa. Hay hè!
Nhất phổng mũi, nghênh mặt đáp:
- Ba cái đồ yêu ni, đi bộ đội cái chi mà không biết. Em không chỉ biết mỗi pha trà mô, em còn biết chẻ củi, nhóm lửa nữa.
- Rứa em bắn chết được mấy thằng Mỹ rồi?
- Cả nhóc! Em không đếm được. Hồi tháng trước lúc hành quân ban đêm từ đây về đồng bằng, có một tiểu đội địch bám sát tụi em, em nhanh tay bắn chết được ba thằng, nhiều nhất đội đó chị nờ.
Chi nghe cậu Nhất hồn nhiên kể chuyện như thế, thì vỗ tay tán thưởng không ngừng. Nhìn cậu em trai mới ngày nào còn cùng mình ra giếng đùa nghịch, lăn kềnh xuống đất tắm mưa với lũ trẻ trong làng giờ đây đã trở thành chú bộ đội mặc quân phục xanh, vai đeo súng trường oai phong, tự tay giết chết hàng chục tên địch, quyết tử cùng đồng đội xông pha trận mạt như thế thì không khỏi tự hào. Từ trong đáy mắt nàng Chi hiện rõ sự xúc động, không biết nên khen thưởng em trai thế nào cho xứng, nàng chỉ còn biết gật gù vỗ tay liên hồi, và chăm chú nghe những điều Nhất kể trong khoảng thời gian cùng nhân dân Hương Thuỷ đánh Mỹ.
- Chị biết không, em cùng với trung đội đánh dạt hết mấy chục thằng Mỹ ở gần sông Tả Trạch đó. Tụi hắn lúc mô cũng hăm he dò la địa hình Dương Hoà mình, mà có khi mô được. Thây tụi hắn chìm dưới sông Tả Trạch đếm không hết. Còn nữa, tụi em kết hợp với nhóm du kích dưới các xã bao vây cầu Phú Bài. Đợt nớ em suýt bị một thằng bắn thủng bụng...
Nhất kéo áo để lộ một vết sẹo trũng sâu ở giữa bụng dưới, cách rốn chừng một lóng tay. Cậu cười hì hì, dường như câu chuyện bị bắn thủng bụng đối với cậu không hề đáng sợ chút nào, ngược lại trong ngữ điệu Nhất, Chi còn cảm thấy có chút gì đó chế giễu.
- Đạn ghim vô đây ni, máu chảy nhiều lắm. Thằng Mỹ tưởng em chết rồi, nên định cướp súng em, ai ngờ em còn sống. Em vùng dậy đánh một cú vô cằm hắn tới trật cả cằm, rồi bật lưỡi lê lên đâm hắn một nhát đúng vô chỗ hắn bắn em. Rứa là hắn chết queo, còn em thì vẫn sống.
Biết chuyện em mình từng lâm vào cảnh thập tử nhất sinh mà giấu không nói cho gia đình biết, Chi lạnh người bàng hoàng. Nhìn thật lâu vô vết thương trên bụng em trai, nàng ứa nước mắt, trách cậu trong sự nghẹn ngào:
- Răng em không kể chuyện ni cho cha mạ biết? Trời ơi! Lỡ em có chuyện chi thì răng em ơi?
Cậu Nhất thấy chị mình rơm rớm nước mắt thì ngớ người, tự hỏi chuyện này có to tát gì đâu mà nàng phải làm quá lên như thế? Chuyện thương tích trong đời lính là chuyện thường như cơm bữa, cả việc hy sinh cũng vậy, thậm chí hai điều ấy còn hơn cả cơm bữa nữa. Vì cơm có khi còn thiếu, chớ thương tích thì diễn ra thường xuyên. Đi bộ đội đã lâu, nên Nhất không còn xem những điều đó là chuyện lạ. Thay vào đó thì cậu thấy sung sướng, sung sướng vì bản thân đã tự mình giết được một thằng giặc, giải phóng được một ấp, một huyện, và hơn hết là được nhìn thấy nụ cười rạng rỡ xuất hiện trên môi của người dân khi bộ đội về làng.
Trước lúc viết đơn tình nguyện tham gia chiến đấu, cậu đã tự cắt máu thề với non sông Tổ quốc, rằng:
"Thân nam nhi không sợ cái chết. Xả thân mình quyết giữ lấy non sông"
Trong trung đội của cậu, không thiếu những chiến sĩ đã ngã xuống, lấy máu mình đổi lấy trăm ngàn sự sống cho đồng bào. Cậu Nhất chợt nhớ câu chuyện xảy ra nhiều năm về trước, lúc cậu chỉ mới vô đội không lâu. Trong một lần tham gia đánh đồn giặc ở thôn Vĩ Dạ, một đồng chí đồng đội của cậu bị thằng Mỹ bắn liền mấy phát đạn vô cẳng chân. Lúc quân y xắn quần đồng chí ấy lên xem, thì ai nấy đều lắc đầu bảo không thể cứu chữa được vì da thịt đã bấy nhầy, xương đã gãy vụn hết rồi. Những tưởng đồng chí nọ phải bỏ mạng, nhưng có ngờ đâu khi vừa lấy lại được ý thức, anh ta vùng dậy, lấy lưỡi lê chặt đứt cái chân bị thương và xé áo cầm máu, sau đó đeo súng lết ra chiến trường, bắn chết hai thằng Mỹ rồi mới yên tâm nhắm mắt.
Nhất nhớ rõ khoảnh khắc ấy, cái khoảnh khắc đồng chí nọ ngã xuống, tay ôm khư khư khẩu súng, phần chân bị chặt cụt vẫn còn tuôn dòng máu đỏ thẫm. Và điều kỳ lạ thay, lúc mang xác đồng chí ấy đi chôn, mọi người trong trung đội đều kinh ngạc khi phát hiện khuôn miệng của anh ta hơi cong lên, tổng thể gương mặt giống như đương cười, một nụ cười đầy mãn nguyện.
Mỗi lần nhớ về nụ cười ấy, Nhất đều rùng mình nổi da gà. Câu chuyện về người đồng đội quyết chí giết giặc tới chết đã khắc sâu vào tâm trí Nhất, vô tình trở thành một điều ám ảnh cậu. Cậu muốn được chết như đồng chí ấy, chết một cách oai hùng không hổ thẹn với lời thề năm nào. Mấy chuyện cỏn con cậu từng trải qua, như chuyện bị đạn ghim vào bụng thế này mà đem so với sự hy sinh của họ thì chỉ bé tí bằng đầu tăm, càng so thì càng bé, càng thấy bản thân hệt như một cọng cỏ chứ có tự hào gì.
- Chị đừng khóc. Em không đau mô. Chừ có thêm chục trái mìn chọi vô người em cũng không can chi, huống chi mấy cái đạn đồng ni.
Nhất vừa nói vừa cười, nhằm xua tan đi sự đau xót trong lòng nàng Chi.
- Bị mìn chọi trúng thì chết từ tám đời rồi, làm răng mà biết đau hả em?
- Chết như rứa mới bất ngờ...
Nói giữa chừng thì Nhất khựng lại, vì cậu nghe tiếng sột soạt ngoài cửa. Nhất và Chi ngó ra nhìn. Có ai đó đương nấp sau cánh cửa, Chi không thấy mặt, nhưng lại thấy mái tóc đen dài của người nọ rủ xuống ngang vai, nàng chắc chắn đó là con gái. Người nọ vẫy tay xin chào, rồi thình lình ló đầu ra, tiếng cười giòn giã vang lên làm Chi giật nảy mình.
- Nhất ơi, bạn còn kẹo cau không? Cho mình xin vài cục ăn chơi, mình lạnh bụng quá.
Ngay khi thấy mặt cô gái đó, nàng Chi ngớ người, tròn mắt.
Cậu Nhất đanh mặt, trầm giọng đáp:
- Răng mi dám gọi ta là "bạn"? Ta với mi bằng tuổi nhau hay răng?
Nhung gãi đầu, cười tít mắt. Lúc này em vẫn chưa để ý tới sự xuất hiện của Chi trong lán, nên vẫn hồn nhiên chạy tới cạnh Nhất, đặt tay lên vai cậu, em bóp bóp xoa xoa.
- Bạn với mình chênh nhau có mấy tháng mô. Gọi "bạn" xưng "mình" cho gần gũi hí.
- Ta chẳng thèm gần gũi bè bạn chi với mi.
Tuy mặt thì cau có như thế, nhưng Nhất cũng móc trong túi ra ba viên kẹo cau dúi vô tay Nhung.
- Ba viên cuối cùng. Khi bữa xuống chợ gặp mệ nớ bán còn mấy viên, ta gom về hết cho mi rồi.
Nhung gói kĩ ba viên kẹo cau ấy trong miếng giấy rồi bỏ vô túi áo. Khi này em mới để ý trong lán còn có thêm một người nữa. Nhung ngẩng lên nhìn, rồi vui mừng vỗ tay khi nhận ra nàng Chi đương ngồi phía đối diện.
- Chị Chi! Chị Chi phải không?
Nàng Chi gật đầu. Nhung sung sướng tới mức mang tai đỏ ửng lên, em hỏi:
- Chị Chi tới thăm em hả? Răng chị Chi biết em đương ở đây?
Cậu Nhất thấy Nhung hành xử trẻ con với chị mình, nên cậu mắng:
- Ai tới thăm mi? Chị ta tới thăm ta đó chớ.
Cậu quay sang nàng Chi, nhỏ giọng hỏi:
- Chị Chi biết hắn à?
Chi cười hiền, mắt không rời Nhung dù chỉ một giây.
- Biết chớ. Đồng chí nớ hôm vừa rồi mới về làng mình tuyên truyền mà.
Nhung nói chen vào:
- Rứa hai người là hai chị em à? Hèn chi giống nhau quá.
Nhất liếc Nhung chỉ bằng nửa con mắt. Cậu bặm môi, vung tay doạ đánh Nhung khiến em co vai hoảng sợ. Em chạy ra sau lưng nàng Chi, chỉ về phía Nhất, nức nở nói:
- Chị Chi cứu em...
- Hỗn! Mi quen biết chi chị ta, mà đòi chị ta cứu?
- Quen chớ răng không quen. Mình với chị Chi từng nói chuyện với nhau, thân lắm. Đúng không chị Chi?
Nàng Chi thở dài, chỉ biết gật đầu chứ chẳng nói gì thêm.
- Ta nói mi sửa lại cách xưng hô với ta đi. Mi nghe không? Mi nhỏ hơn ta một tuổi rưỡi, rứa mà mi xấc láo quá.
Nghe Nhất nói Nhung cách cậu tận một tuổi rưỡi, nàng Chi tròn mắt ngạc nhiên. Nàng nhìn Nhung lúc này đương loay hoay mở gói kẹo cau, hỏi:
- Em nhỏ hơn Nhất một tuổi rưỡi? Rứa em chỉ mới mười sáu hay răng?
- Nói đúng hơn, hắn chỉ mới mười sáu tuổi năm tháng. Chưa tới mười bảy nữa.
- Răng em lại dám nói với tôi, em đã mười bảy?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com