Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG 7: HOẠ MI CỦA SÔNG TẢ TRẠCH

Cuối tháng 4 năm 1964, cũng tức là trước khi phong trào Đồng Khởi đợt 1 chính thực được phát động, toàn thể thanh niên tại huyện Phong Điền đều xôn xao vì một thông tin, rằng sắp tới trên huyện sẽ mở đợt vận động mọi người tình nguyện đi xung phong, mà đối tượng chủ yếu là các thanh niên trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên nói chung, và huyện Phong Điền nói riêng. Không kể gái trai, nhỏ lớn.

Tờ mờ sáng ngày 30 tháng 4 trước cổng làng Phước Tích, hơn sáu mươi con người đứng nhốn nháo, chen chúc nhau tạo thành một hàng dài như toa tàu xe lửa. Người nào người nấy đều cầm trên tay tờ đơn tình nguyện, gương mặt rộ vẻ hớn hở, vui tươi, và còn một vài người đứng phía đầu hàng thì xúc động, sung sướng tới nỗi bật khóc khi thấy cán bộ ký tên xác nhận vô đơn của mình. Trong hàng có đủ mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu vẫn là thanh niên trong độ tuổi mười tám tới gần ba mươi, loe hoe vài chú nhóc mười hai, mười ba đứng nép mình sau lưng các anh chị lớn. Những chú nhóc ấy ăn mặc trịnh trọng với áo sơ mi cộc tay đóng thùng, đeo cái thắt lưng bản to, mặt mày lém lỉnh, cặp mắt chú nào chú nấy đều ánh lên sự thông minh, tinh anh. Các anh chị nhìn thấy mấy chú đều kiễng chân, rướn cổ, lẩm bẩm đếm xem còn mấy người nữa thì tới lượt mình mà không khỏi tức cười. Một anh thanh niên đứng ở giữa hàng ấn đầu chú nhóc đứng trước mình xuống, gằn giọng doạ:

- Mi mà nhón lên một chặp nữa, là ta đánh mi què giò.

Chú nhóc nọ quay lại nhìn, mặt nhăn nhúm đáng thương vô cùng.

- Anh có đánh thì đánh đi. Chừ bị đánh mà còn than, thì đợi tới khi bị giặc bắn, làm răng chịu nổi?

Anh ta nghe chú nhóc trả treo, chẳng những không tức giận mà ngược lại còn ôm bụng cười, kéo theo những người đứng gần nghe được câu chuyện cũng cười nốt.

- Chú mi gan như rứa, hèn chi mới dám viết đơn đi tình nguyện.

- Có phải mỗi mình em mô. Mấy đứa trẻ làng ni, đứa mô cũng gan. Tụi em kết bè lại với nhau, cùng nhau viết đơn đi tình nguyện đó anh nờ.

- Nhưng mi ốm yếu hệt con tép, cán bộ ai lại duyệt đơn. Ít ra mi phải như ta, phải cao lớn, lực lưỡng như ri thì mới được.

- Nhỏ mà có võ. Rứa anh không biết Thánh Gióng à? Thánh Gióng ba tuổi đã xin đi đánh giặc, khi ngồi trên con ngựa sắt thì hắn cao lớn ra. Chừ chộ em nhỏ con rứa thôi, chớ khi mô cầm súng là em cũng như hắn, em bắn mấy thằng Mỹ như bắn mấy con chim ơ lẫn.

Chú nhóc chỉ lên cành cây đa, nơi mấy có mấy con chào mào đương đậu thành hàng dài trên đó. Em rút cây ná được giắt bên hông quần, nhặt đại viên đá cuội dưới đất, Phốc! một con chim trúng đạn rồi chao đảo rơi bẹp xuống, trước con mắt trầm trồ, thán phục của mọi người. Hạ gục được mục tiêu, em quệt mũi, lon ton chạy tới nhặt con chim ấy lên và trở về hàng, tự hào khoe với người anh vừa nãy còn chê mình, rằng:

- Cái tài ni của em mà cầm súng thiệt, là bách phát bách trúng chớ chẳng chơi mô.

Anh nọ phá lên cười ha hả và xoa đầu em, khen rằng:

- Giỏi! Rứa là mi giỏi lắm! Ta phải nói với anh cán bộ duyệt đơn tình nguyện của mi. Tới chừng nớ, mi ra mặt trận mà bắn chết mấy thằng Mỹ cho ta nghe!

Một chị đứng gần đó cũng nói thêm:

- Nhỏ nhỏ như hắn, giặc tụi nớ mới không cảnh giác. Ai mô nỡ bắt một chú bé dễ thương như ri để móc họng tra khảo chớ.

Lại có người cãi:

- Răng mà tụi hắn không dám? Đám tụi hắn có còn là con người nữa mô. Chừ bị bắt, tụi hắn tống vô Chín hầm, lấy roi quất cho tứa da tróc thịt nớ. Mà tau tin thằng nhóc ni nếu có bị bắt, thì hắn sẽ thoát được. Chộ hắn nhanh nhẹn như con sóc rứa mà.

Khi nghe có người nhắc tới Chín hầm, đôi mắt chú bé đột nhiên mở to, tròng mắt đỏ kè, sáng rực như bùng lên ngọn lửa. Chú vứt con chim ra xa, siết chặt cán ná. Mọi người trong hàng thấy chú quệt nước mắt, bả vai gầy trơ xương nấp sau cái áo sơ mi rộng thùng thình không ngừng run lên bần bật. Ai nấy đều lặng người nhìn nhau, không biết vì lí do gì mà chú bé lại xúc động như thế. Đúng lúc này, chú lên tiếng:

- Nghe anh nớ nhắc tới Chín hầm, em nhớ ba em quá. Ba em cũng bị tụi hắn bắt nhốt vô đó tra khảo, chừ chết rồi. Mạ em nói ba bị nhốt ở hầm số năm, nhưng lúc chết, ba lại chết ở ngoài Côn Đảo.

Dừng lại hồi lâu để kiềm cơn xúc động, chú nói tiếp:

- Lỡ sau ni em có bị tụi hắn bắt vô Chín hầm, em không chịu chết ở đó mô. Em phải bắn chết cha tụi hắn, chọi bom phá nát đủ tám cái hầm, một cái nhà gác thì em mới hả dạ.

Dứt lời, chú oà lên khóc thảm thiết khiến mọi người mủi lòng. Anh chị đứng vây quanh ôm em, an ủi em những lời ngọt ngào hòng dỗ em nín. Nhưng em không nín được, gương mặt cứ đỏ bừng và khuôn miệng nhỏ nhắn của em cứ phát ra những tiếng khóc choé tai, tiếng khóc lớn tới nỗi đã thành công thu hút mấy anh chị cán bộ đương đứng gần đó.

- Chuyện chi rứa mọi người?

Một chị cán bộ hối hả chạy tới. Bắt gặp một chú bé nhỏ xíu đương đứng khóc ngon lành, chị hốt hoảng hỏi dồn:

- Ui chao! Răng em lại khóc? Mà vì răng em lại đứng ở đây rứa?

- Báo cáo cán bộ, hắn cũng đi nộp đơn tình nguyện giống tụi tôi. Nãy chừ tụi tôi nói chuyện với nhau, vô tình nhắc tới nhà lao Chín hầm, hắn nghe tới Chín hầm thì khóc lóc như rứa.

Chị cán bộ lấy khăn mùi xoa lau mặt cho em, ôn tồn nói:

- Chắc em đã nhớ lại những kí ức không vui về chỗ nớ rồi. Thôi em nín đi, chị cho em kẹo nì.

Nói rồi, chị đưa cho em thanh kẹo đậu phộng. Chú bé khi nghĩ tới chuyện mình sắp được đi xung phong mà lại yếu lòng khóc như thế thì đỏ mặt xấu hổ. Em cắn môi, nuốt ngược nước mắt vào trong. Đôi mắt em lúc này đã nghiêm túc trở lại, em đáp:

- Em lớn rồi, em không cần kẹo mô.

Em đưa thanh kẹo cho chị cán bộ, rồi kéo vạt áo chùi sạch nước mắt.

- Ba em trước khi chết có nhờ chú tê vượt ngục đưa thư về cho em. Ba em dặn, con trai tới từng tuổi ni đi đánh giặc, tuyệt đối không được khóc.

Giọng nói đanh thép, cứng rắn hơn cả sắt đá được thốt ra từ đứa trẻ mười một tuổi khiến chị cán bộ và mọi người ngỡ ngàng. Chị cán bộ ứa nước mắt, kéo em vào lòng, hôn lên mái tóc cắt húi cua của em, chị nghẹn ngào thốt lên:

- Chao ôi! Lớp trẻ thời ni gan dạ rứa đó. Các em không sợ khói lửa, không sợ cái chết hay răng? Nếu em viết đơn đi xung phong, thì tỉnh ta sẽ có một chú lính trinh sát, hoặc lính thông tin tài ba xuất chúng. Gia đình, nhất là ba em sẽ tự hào về em cho xem.

- Em không sợ cái chi hết. Em nói với bạn em rồi, khi mô đánh hết tụi Mỹ và giúp cho Huế giải phóng, thì em mới về. Chừ em nhỏ không cầm súng được, thì em có cái ná ni.

Em giơ cây ná cho chị cán bộ nhìn, nói một cách đầy tự hào:

- Em sẽ dùng ná và đá bắn vô hạ bộ của tụi hắn. Bắn vô chỗ nớ, thì Tây - lo (1) còn chết chớ huống chi mấy tên lính tép riu.

Nụ cười tươi rói như nắng pha lê của chú bé đã thành công làm con tim mọi người xao xuyến, đồng thời, chính nụ cười ấy cũng khiến chị cán bộ khơi dậy lòng trắc ẩn. Đôi tay chị siết lưng em chặt hơn, và nụ hôn chị đặt trên đỉnh đầu em cũng thắm thiết hơn. Chị sờ nắn hai cẳng tay gầy rộc, đen nhẻm như que củi của em, cơn xúc động trào dâng đã khiến chị không nói nên lời.

Ngày hôm đó, thanh niên kéo tới đầu làng Phước Tích nộp đơn tình nguyện đông không sao đếm xuể. Bên cán bộ chiến sĩ phải thay phiên nhau ngồi bàn ghi tên, và cắt cử người ra để giữ gìn trật tự. Mãi tới chiều tối, lượng người tham gia mới vắng hẳn, chỉ còn lát đát mấy chú nhóc trạc tuổi cậu bé lúc trưa đứng năn nỉ cán bộ chấp nhận tờ đơn được ghi bằng nét chữ xiêu vẹo như vẽ bùa của mình. Năm, sáu chú nhóc ấy bám anh chị cán bộ chẳng khác gì đỉa đói, tụi hắn hết khóc lóc rồi lại van nài, hết van nài rồi lại khóc lóc, miệng đứa nào đứa nấy đều mếu y chang nhau, và tụi hắn cũng đều có chung một câu văn mẫu nhai đi nhai lại thế này:

- Anh chị, cô chú không cho em đi đánh giặc, là em ăn vạ ở đây tới khuya luôn!

- Chừ em ăn vạ thì anh chị cũng chỉ biết đứng nhìn thôi, chớ có biết làm cái chi mô.

Anh cán bộ chống nạnh thở dài. Đứa nhỏ đương nằm lăn lóc dưới đất lồm cồm bò dậy, nó khóc ré lên:

- Em muốn đi đánh giặc! Em muốn đi đánh giặc!

- Đợi chú em lớn rồi mới đi được chớ. Con nít chín tuổi, ai cho đi?

- Em không biết mô! Em không biết mô! Em muốn đi đánh giặc!

Mấy đứa trẻ thấy bạn mình khóc lóc nài nỉ mà cán bộ vẫn cương quyết không chịu, thì tụi nó càng ức hơn. Cả bọn xúm vào nhau, đồng tâm hiệp lực thét lên một tiếng điếc tai, tới nỗi mấy con chào mào trên cành đa cũng giật mình mà lũ lượt bay đi mất.

- Tụi em muốn đi đánh giặc!

Nhóm cán bộ chiến sĩ có tổng cộng sáu người lớn, người nào cũng mang súng hẳn hoi, nhưng chẳng ai dám hó hé gì trước những ông tướng hỉ mũi chưa sạch này cả. Mọi người đùn đẩy nhau, ngó liếc nhau, song vẫn lực bất tòng tâm, để yên cho những ông tướng đó muốn làm gì thì làm.

Khi này, có một cô gái từ đâu chạy tới. Vừa trông thấy cô ấy, đám trẻ lập tức kéo nhau lùi ra xa cả thước, đứa nào cũng nhăn nhó bịt mũi, thậm chí có đứa còn nôn oẹ vì ngửi thấy thứ mùi hôi hám bốc ra từ cơ thể người nọ. Cô gái mình mẩy đầy đất cát, rơm rạ phủ khắp cái áo sơ mi cộc tay màu xanh lá mạ, ngó xuống đôi dép cô đang mang thì càng buồn nôn hơn, vì nó dính phải phân bò, phân trâu gì đó không rõ. Và đôi dép ấy chính là nguồn cơn của thứ mùi kinh dị phảng phất trong không trung từ nãy tới giờ.

- Cán bộ ơi, đợi em với!

Nhìn từ xa thấy cô gái vẫy tay, anh chị cán bộ ngớ người nhìn nhau. Cô đứng trước bàn cán bộ, mò mẫm trong túi quần một hồi rồi lấy ra tờ đơn tình nguyện nhăn nhúm. Hình như vì sợ cán bộ không đồng ý nhận tờ đơn như tờ giấy rác này, nên cô ra sức ép cho nó thật phẳng, nhưng vẫn chẳng thể cứu vãn được bao nhiêu. Chị cán bộ thấy cô loay hoay như thế thì liền hỏi:

- Em làm cái chi rứa?

- Em đương làm cho tờ giấy ni phẳng lại. Chị cán bộ đợi em chút nghe!

- Em đưa chị coi thử.

Cô gái đưa tờ giấy cho chị cán bộ bằng hai tay, dáng vẻ ngoan ngoãn như đứa con nít này của cô làm chị cán bộ ngơ ngác.

- Đơn tình nguyện đây mà. Nhưng răng nó lại khác với đơn mẫu rứa? Em tự viết à?

Cô gái gật đầu. Đám trẻ bất ngờ reo lên chế giễu:

- Chị ta ngu như rứa mà cũng biết viết đơn tụi mày ơi!

- Tớ cười nứt ruột rồi đây. Khi bữa tớ còn thấy chị ta đi chăn bò, rồi sẩy chân té cắm đầu xuống đất nữa. Tức cười lắm!

Đứng trước lời trêu ghẹo của đám trẻ, cô gái nọ vẫn không hề tỏ ra tức giận hay có ý phản kháng gì. Cô cúi gằm mặt, gò má ửng hồng xấu hổ. Chị cán bộ khi phát hiện ra cô sắp khóc, liền trừng mắt nhìn bọn trẻ. Lũ trẻ bắt gặp cái liếc đầy uy lực ấy thì vội im bặt, đứng nép sát vào nhau. Chị cán bộ dịu dàng hỏi:

- Em tới đây nộp đơn tình nguyện phải không?

Giọng nói ngọt ngào cùng ngữ điệu nhẹ nhàng ấy như dòng nước ấm, cuốn trôi mọi tủi hổ trong lòng cô gái. Cô ngẩng đầu nhìn chị cán bộ, gương mặt tèm lem nước mắt trộn lẫn vết nhọ nồi của cô càng khiến chị cán bộ động lòng. Bụng dạ chị lúc này tự dưng muốn thốt lên rằng:

"Răng cô bé lại đáng thương như rứa?"

Anh cán bộ phụ trách việc đếm số lượng đơn lên tiếng.

- Xin lỗi em, đơn hôm ni đã đủ, tạm thời bên Uỷ ban không nhận thêm nữa.

- Không...không nhận thêm đơn nữa hả anh?

Cô gái run rẩy hỏi ngược lại, như vẫn không tin vào những điều mà cán bộ vừa trình bày.

- Ừ, tụi anh không nhận nữa. Răng em tới trễ dữ rứa? Từ sáng tới chừ toạ loạ người xếp hàng.

Nhìn cô có vẻ do dự, chị cán bộ liền nói đỡ:

- Hay do em bận việc nhà nên mới tới trễ?

Vinh vào câu hỏi ấy, cô gái gật đầu lia lịa.

- Em có lí do chính đáng, cán bộ bỏ qua cho em lần ni được không? Cán bộ nhận đơn tình nguyện của em nghe? Em cực khổ lắm mới viết được tờ đơn đẹp như ri đó.

Vừa nói cô vừa chỉ vào tờ đơn được chị cán bộ giữ. Mọi người cùng nhìn qua tờ đơn của cô, nét chữ nguệch ngoạc như được viết bởi một đứa trẻ làm họ không thể đọc được cái mô tê gì. Hai dòng chữ duy nhất mà cán bộ có thể đọc là dòng ghi Quốc hiệu "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và tiêu ngữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" được cô viết hết sức nắn nót ở đầu tờ đơn.

Anh cán bộ nhẩm đọc hồi lâu mới biết cô gái tên Nguyễn Thị Nhung, nhà ở ấp 4 xã Phong Hòa huyện Phong Điền, tức là cũng gần đây mà thôi. Trong đơn tình nguyện không thấy cô ghi ngày tháng năm sinh, cũng chẳng thấy tuổi gì hết. Anh cán bộ ngó cô từ đầu tới chân, thông qua dáng dấp nhỏ nhắn, thấp chủm và gương mặt non choẹt búng ra sữa này, anh đoán chắc cô cũng chỉ độ mười bốn, mười lăm tuổi là cùng. Còn về phần cô gái sau khi đưa đơn cho cán bộ, không thấy họ nói năng gì, đã vậy nét mặt người nào người nấy đều toát ra sự nghiêm trọng khiến cô căng thẳng tột độ. Cô lo rằng không biết cán bộ có chấp nhận đơn xin đi xung phong của mình không? Hay là họ sẽ chê cô viết chữ xấu rồi đuổi về chăng? Cô suy nghĩ nhiều lắm, nhưng chẳng có suy nghĩ nào thuộc hàng lạc quan hay tràn trề hy vọng cả.

Đợi mãi tận năm phút sau, cán bộ vẫn im lặng, lúc này cô gái mới nhận ra không còn gì có thể cứu vãn được nữa. Gương mặt cô hiện rõ sự thất vọng. Cô đưa tay xin lại tờ đơn, nhưng anh cán bộ không đưa, cô nghiêng đầu nhìn anh, cặp mắt tròn xoe cùng hàng lông mi cong vút ấy làm anh cán bộ có chút rung động. Không cầm lòng nổi, anh tằng hắng nói:

- Thôi em đợi kỳ sau mà nộp đơn tiếp.

- Kỳ sau khi mô có rứa anh?

- Chắc hai hoặc ba tháng nữa thôi.

Cô gái rầu rĩ lắc đầu, nói như sắp khóc:

- Rứa thì không được mô. Em năn nỉ mệ gãy lưỡi, mệ mới cho em đi nộp đơn. Chừ anh không cho em đi mà bắt em đợi tới kỳ sau, kỳ sau làm răng mệ cho? Có khi còn bị đánh què giò.

Cô nói xong thì sụt sịt, nấc lên vài tiếng. Chị cán bộ chợt để ý cánh tay cô, từ giữa bắp tay trở lên vắt vẻo những đường lằn như lằn roi, sơ sơ chắc cũng hơn chục lằn chứ chẳng chơi đâu, mà lằn nào lằn nấy đều sưng phồng, tím bầm tứa máu hết. Chị đánh mắt nhìn anh cán bộ, len lén chỉ cho anh xem mấy vết thương ấy. Anh cán bộ trợn mắt hoảng hốt, định sẽ hỏi xem vì sao tay cô lại có những vết thương kỳ lạ này, nhưng còn chưa kịp mở miệng thì chị cán bộ đã nhéo vào lưng ra hiệu anh im lặng.

Cô gái cuống cuồng nài nỉ:

- Cán bộ làm ơn chấp nhận đơn xung phong giùm em với. Cán bộ mà không nhận em, em không biết làm răng nữa. Em khổ lắm cán bộ nờ.

Chị cán bộ tinh ý nhận ra ở cô gái này có sự khác thường, khác hoàn toàn với những cô cậu thanh niên đi nộp đơn hôm nay. Nhưng suy đi nghĩ mãi, chị vẫn không biết rốt cuộc cái khác thường đó là khác ở điểm nào. Anh cán bộ khẽ hỏi:

- Em khổ ra răng? Nói tụi anh nghe.

Trong đám trẻ ấy có đứa nói leo:

- Chị nớ hay bị mệ đánh lắm. Ngày mô em cũng thấy chị nớ đi chăn bò, vừa đi vừa khóc hu hu.

Mọi người nhìn đứa nhóc và nhìn sang cô, anh cán bộ gặng hỏi:

- Có thiệt như rứa không em? Em bị gia đình bạo hành?

Cô gái mím môi, chậm rãi gật đầu.

- Ở cái thời mô rồi mà còn đánh con trẻ như rứa hả trời?

Anh giận dữ la lên, đôi lông mày chau lại, chị cán bộ bên cạnh thấy anh bụm miệng, mặt nhăn nhó như vừa ăn phải một trái ớt. Chị thở hắt ra, trầm giọng hỏi:

- Ba mạ em mô?

Cô gái nuốt nước miếng khan, nhỏ giọng đáp:

- Ba mạ em chết rồi. Ba em chết hồi lúc em đẻ được mấy tháng, còn mạ chết lúc em chỉ mới hai tuổi hơn.

- Rứa chừ em sống với ai?

- Em sống với mệ nội và dì. Ở làng Thạnh Văn tê tề, kế bên Phước Tích nớ.

Đứa trẻ vừa nãy nói leo tiếp tục lên tiếng:

- Ba chị nớ làm Việt Minh, còn mạ chị nớ thì bị giặc giết!

Cái trừng mắt từ chị cán bộ tiếp tục hướng về đứa trẻ ấy, thậm chí lần này cái trừng còn sắc lạnh hơn khiến nó chết khiếp. Anh cán bộ biết nếu cứ để bọn trẻ ở đây nói bậy bạ thế này thì sẽ xảy ra chuyện không hay, nên liền lùa cả đám đi về hết. Ban đầu tụi nhóc không chịu và lăn ra ăn vạ, nhưng chỉ cần doạ sẽ đem chuyện tụi nó quậy phá cán bộ kể cho Uỷ ban xã nghe, và cấm tiệt không được duyệt đơn xin đi xung phong nữa, có như thế thì tụi nó mới chịu đi về.

Tới khi đầu làng không còn một ai, sáu anh chị trong nhóm chiến sĩ mới có thể thoải mái nói chuyện với cô hơn. Một anh khác kéo ghế cho cô ngồi, chị kia thì lấy nước cho cô uống, sẵn tiện nhúng khăn giúp cô lau sạch vết nhọ nồi lấm lem trên mặt. Cô gái ngồi nhìn những người xa lạ quan tâm chăm sóc mình như người nhà thế này thì cảm động không thôi.

- Chiều tới chừ em đã ăn chi chưa? Ăn bánh quy không em?

- Bánh quy là cái chi rứa anh?

Anh cán bộ bật cười, rồi đưa cho cô một hộp thiếc hình vuông nhỏ. Anh mở nắp ra, bên trong hộp chứa đầy những cái bánh tròn màu vàng nâu như màu cỏ úa, tất cả đều toả ra cái mùi thơm của bơ sữa, và một chút ngòn ngọt của đường phủ trên bề mặt. Đối với đám trẻ thành thị, thứ mùi này chúng đã ngửi tới phát ngán. Nhưng đối với lũ trẻ vùng quê, đặc biệt là đối với cô gái, thứ bánh Tây trước mặt đây chẳng thua kém gì nem công chả phượng trong cung đình, thậm chí nó có hút mắt cô hơn bất kì những món sơn hào hải vị nào trên đời. Đôi mắt cô cứ dán chặt vào mười tám cái bánh quy giòn rụm ngon lành ấy. Nước miếng cô rệu cả ra. Cô xuýt xoa, không chút chần chừ mà cầm một cái bánh cắn nhai ngấu nghiến. Anh chị bộ đội thấy cô ăn như thế, họ vừa vui nhưng cũng vừa đau lòng. Đau chẳng khác gì khi nhìn đứa con, đứa em của mình bị bỏ đói.

Ăn xong, năm đầu ngón tay cô còn sót lại chút vụn bánh, cô chẳng ngại những ánh mắt đương dòm ngó mình mà thản nhiên mút chùn chụt những vụn bánh ấy. Anh cán bộ lại dúi vào tay cô vài cái bánh nữa, anh nói:

- Em ăn thêm đi, ăn thêm đi. Anh còn nhiều lắm.

Nhưng cô lắc đầu, đáp:

- Em chỉ ăn một cái thôi. Ăn nhiều thì thèm nhiều. Lỡ khi mốt em thèm, em biết lấy bánh ở mô để ăn?

Câu trả lời hồn nhiên của cô khiến mọi người lặng đi. Chị cán bộ quỳ một chân xuống trước mặt cô, nắm hờ đôi tay gầy trơ xương của cô, nhẹ nhàng hỏi:

- Răng em lại muốn đi xung phong rứa?

Chẳng cần mất thời gian suy nghĩ, cô nói thẳng:

- Vì em không muốn khổ nữa.

- Muốn thoát khổ, thì thiếu chi cách, cần chi phải đi xung phong?

- Không phải mô. Nếu muốn mình hết khổ, thì cách trước nhất phải làm cho Đất Nước không còn khổ nữa. Nước không khổ, thì dân sẽ không khổ.

Chị cán bộ ngạc nhiên, không hiểu vì sao mà một cô bé như vậy lại có thể nghĩ và nói ra được điều đó. Chị tiếp tục bắt chuyện:

- Ai dạy em nói như rứa?

- Không ai dạy em hết.

Ngẫm nghĩ vài giây, chị tiếp tục hỏi:

- Khi hồi chị nghe tụi nhóc nói, ba em là Việt Minh?

Tới đây, cô nhoẻn miệng cười, đáp:

- Dạ phải. Ba em là Việt Minh, cụ thể ba làm tình báo viên trong quân đội. Mà ba hy sinh lâu lắm rồi.

Chị xoa đầu cô gái, như đồng cảm với những mất mát về gia đình của cô, chị khẽ hôn lên mu bàn tay mềm mịn ấy. Bất ngờ, cô rụt tay về, nói:

- Chị đừng hôn tay em. Em mới đi chăn bò về, tay dơ lắm.

- Không can chi mô. Mà em đi chăn bò cho nhà ai?

- Nhà mệ nội em. Mỗi ngày em phải chăn bò từ năm giờ sáng tới năm giờ chiều mới được về, nếu về sớm hơn thì bị mệ với dì đánh.

- Những vết roi trên tay em cũng do họ gây nên, phải không?

Tới đây cô lại có chút ngập ngừng.

- Dạ...phải. Mà em bị đòn quen rồi, không đau nữa. Mấy anh chị đừng bắt mệ với dì em nghe!

- Răng em lại không muốn anh chị làm như rứa?

- Nếu anh chị bắt họ đi, thì em không còn người thân nữa mô.

Cô nói xong lại bồi thêm một nụ cười tươi rói như nắng ngày hè, làm anh chị đương mủi lòng sắp khóc cũng phải nén lại, âu yếm ngắm nhìn.

- Tờ đơn ni là do em tự viết hay răng?

- Dạ em tự viết. Em được học tới hết lớp hai thôi, không được học nhiều nên cũng không biết viết làm răng cho hay. Anh chị đọc không hiểu chỗ mô thì nói em để em cắt nghĩa, phiên dịch cho.

- Lần ni bên Uỷ ban có gửi sẵn mẫu đơn tình nguyện về cho các hộ gia đình. Rứa đơn mẫu của em mô?

Điệu bộ cô gái bỗng dưng ấp úng. Cô đan hai tay vào nhau, cắn cắn môi. Hồi lâu sau, cô thều thào đáp như sợ câu trả lời của mình bị ai nghe thấy:

- Mệ em xé rồi.

Những anh chị đứng hơi xa không nghe rõ, thành ra chị cán bộ phải lặp lại câu nói của em cho họ nghe. Vừa nghe xong đã có một người gắt lên:

- Răng mà xé?

- Cường, nói nhỏ thôi.

Chị cán bộ trầm giọng nhắc nhở bạn mình, rồi chị quay sang em, giọng vẫn ngọt ngào như cũ:

- Em có sẵn lòng kể tường tận mọi chuyện cho anh chị nghe không?

Cô lấm lét nhìn chị cán bộ, cảm nhận sự ấm áp từ tay chị ấy đương xoa nhẹ lên từng đầu ngón tay mình, lòng cô mềm nhũn ra, sự căng thẳng cũng giảm đi bớt. Rồi, cô chậm rãi thuật lại mọi chuyện:

- Khi bữa Uỷ ban gửi đơn mẫu về cho các hộ gia đình có con em muốn đi xung phong, em cũng chen chúc, tranh dữ lắm mới lấy được một tờ. Em đem về giấu kĩ dưới gầm giường, vì mệ nội mà biết em có ý định đi xung phong, là mệ sẽ đánh nát thây em luôn. Không phải em nói dối mô, mệ đánh thiệt đó. Hồi trước em cũng có xin mệ cho mình đi bộ đội giống chị Như hàng xóm, mà mệ nghe xong thì lấy roi đánh em, vừa đánh mệ vừa chửi như ri:

"Mi đi như rứa thì lấy ai chăn bò cho tau? Ai làm việc nhà cho tau? Mi ưng chết ngoài nớ giống thằng cha mi à?"

Trận đòn đó làm em phải nằm sấp ngủ mấy tuần liền. Sau lần nớ em sợ quá, không dám xin xỏ mệ chuyện chi nữa. Nhưng cách đây dăm ba bữa, lúc em đi chăn bò thì nghe mấy bạn nói chuyện, mấy bạn nói là sắp có một đợt mít tinh chi chi đó lớn lắm, để ghi tên những ai muốn đi chiến đấu. Em có lân la hỏi mấy bạn, mấy bạn chỉ nói rứa thôi. Rồi ai nấy cũng tíu tít rủ rê nhau đi ghi tên, có đứa hỏi em có đi không? Em trả lời không biết. Rứa là nó mắng em:

"Cha mi đi đánh giặc, dũng cảm hy sinh như rứa mà mi lại nhát gan ở nhà! Ốt dột!"

Hôm đó về, em cứ nằm suy nghĩ mãi. Em nghĩ tụi hắn mắng em cũng đúng. Ba em từng anh dũng chiến đấu rứa mà em lại vì sợ đòn roi của mệ mà chấp nhận ở nhà thì ốt dột thiệt. Em suy nghĩ thấu đáo lắm anh chị nờ, nhưng em không biết trình bày ra răng để anh chị hiểu hết nỗi lòng em.

Trong lúc kể, nước mắt cô trào ra đẫm mặt. Những chị trong đội phải xúm lại giúp cô lau nước mắt, dỗ cô uống nước. Đợi khi bình tĩnh rồi, cô mới tiếp tục kể:

- Ngay ngày mai, nhân lúc đi chăn bò thì em theo mấy bạn đi lấy đơn. Ngặt do em ngu quá, em không cột bò kĩ để nó xổng đi mô mất. Chiều nớ về em bị dì đánh thêm một chặp nữa, nhưng may là dì không phát hiện ra tờ đơn em giấu trong túi áo. Đợi tới tối khi mọi người trong nhà ngủ hết, em lén chong đèn điền đơn. Mà trời ơi em không ngờ, dì em lại thức dậy uống nước giữa đêm. Dì phát hiện em đương cặm cụi viết cái chi đó, rồi dì lén lút đứng sau lưng em. Biết thứ em đương viết là đơn tình nguyện, dì tru tréo gọi cả nhà dậy, rồi trước mặt mọi người, dì xé nát tờ đơn nớ và đánh em chặp thứ hai...

Tới đây, cô gào khóc nức nở làm mọi người lúng túng. Chị cán bộ cuống cuồng xoa lưng, xoa đầu và xoa tay hòng dỗ cô nín khóc. Trong đội có một đồng chí nam vốn nổi tiếng với tính tình cộc cằn, nói năng cục súc, thế mà bây giờ cũng chẳng nhịn được đau lòng mà dịu giọng khuyên nhủ cô. Hết thảy mọi người đều xúm lại quanh cô gái nhỏ bé nhưng lại vô cùng đặc biệt này, như đương quấn quanh dỗ dành một đứa trẻ mới bị quở trách.

Biết cô không còn sức để kể nữa, chị cán bộ liền ngắt ngang câu chuyện, bằng cách hỏi một câu khác:

- Nói đúng ý hơn, là chừ em muốn xin đi xung phong phải không?

Dường như biết ý chị cán bộ định nói là gì, người đồng đội bên cạnh chị liền nhắc:

- Trang!

Chị ấy gạt phắt lời nhắc của đồng đội, âu yếm nhìn cô, chị tiếp tục nói:

- Em cứ trả lời, không việc chi phải sợ.

- Em...em muốn đi ạ.

- Năm ni em mấy tuổi rồi? Nói chị nghe?

Lần này, sự lúng túng từ cô càng hiện rõ. Chị cán bộ vẫn kiên nhẫn trấn an:

- Cứ từ từ mà nói. Không can chi mô.

- Rứa mấy tuổi thì mới được đi xung phong ạ?

- Chỉ cần em đủ can đảm đối diện với bom bay đạn lạc, với tử thần lúc mô cũng cầm sẵn thanh đao trên đầu, thì mấy tuổi cũng được. Khi xưa ở Huế ta có Đội thiếu niên trinh sát, ở Hà Nội có Đội thiếu niên Bát Sắt, các em nớ cũng trạc tuổi em, thậm chí là nhỏ hơn em. Nhưng sự gan dạ của các em thì quả thiệt người lớn có khi cũng không thể bì kịp. Ở cái thời ni, lứa tuổi mô cũng có thể đánh giặc được. Chỉ cần là người Việt Nam, thì già trẻ, gái trai chi chi đó không quan trọng. Quan trọng là em có chấp nhận "quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh" hay không thôi.

Lời nói đanh thép, hào hùng của chị cán bộ như ngọn lửa phừng phực cháy, thắp sáng trái tim của cô gái nhỏ một niềm hân hoan kỳ lạ. Chưa bao giờ cô lại được nghe một màn diễn thuyết nào đầy xúc động như màn diễn thuyết này. Cô cảm thấy có một dòng điện đương chạy dọc toàn cơ thể mình, kích thích từng mạch máu và hối thúc chúng đổ về hướng trái tim ngày một nhanh hơn, mãnh liệt hơn. Toàn thân cô rùng lên ngay sau khi chị cán bộ dứt câu, da gà cô dựng đứng, và cặp mắt cô cứ ngó chị cán bộ trân trân, như đương ngó một người mà mình tôn sùng, thần tượng.

Chị cán bộ trình bày xong thì đứng dậy, tiến tới bàn và cầm tờ đơn tình nguyện mang lại cho cô xem. Chị chỉ vào dòng tiêu ngữ được viết bằng những nét chữ nắn nót hết mức trong khả năng của cô, trầm giọng hỏi:

- Em có muốn Độc lập không?

Cô gái lập tức đáp:

- Dạ có.

- Em có muốn Tự do không?

- Dạ có.

- Em có muốn Hạnh phúc không?

- Dạ có.

- Rứa nếu đi xung phong, em có thể làm được chi?

- Anh chị muốn em làm chi em cũng làm. Đi chăn bò cho đơn vị cũng được, nấu cơm, nấu nước, giặt giũ quần áo hay tăng gia sản xuất, nhiều lắm, cái chi em cũng làm được hết. Chỉ cần anh chị cho em đi, em hứa, em sẽ ngoan, sẽ giúp mọi người hết lòng mà.

Mọi người đều mỉm cười hài lòng. Chị cán bộ nhờ đồng đội đi lấy cuốn sổ ghi tên những thanh niên ngày hôm nay nộp đơn tình nguyện tới, và tự tay chị ghi họ tên cô vào sổ.

"Nguyễn Thị Nhung, ấp 4 xã Phong Hòa huyện Phong Điền."

Ngay khoảnh khắc ấy, cô cảm tưởng như cuộc sống của mình đã bừng sáng trở lại sau những tháng ngày phải sống trong sự bạo hành, đánh đập của mệ nội và dì. Cô sung sướng tới mức muốn thét lên cho ba mạ trên trời biết rằng, cuối cùng thì cô cũng có thể tiếp bước theo sự nghiệp Cách mạng của ba, trở thành một người lính đứng trong hàng ngũ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau buổi chiều hôm đó, anh chị dặn cô về nhà soạn đồ đạc để ngày mốt tập trung trước Uỷ ban, chính thức lên đường phục vụ cho Tổ quốc.

Trước khi nhóm chiến sĩ thu dọn đồ đạc để rời đi, cô đã kịp vịn chị cán bộ từ nãy tới giờ đã hết lòng giúp đỡ, nói chuyện với mình lại. Cô hỏi chị, trong niềm hớn hở trào dâng:

- Chị tên chi rứa? Liệu khi đi xung phong rồi, em có còn gặp lại chị nữa không?

Chị cán bộ xoa đầu cô, khẽ đáp:

- Chị tên Trang, làm nhiệm vụ giao liên cho chiến khu Dương Hoà. Nhất định sẽ có một ngày, chị em ta gặp nhau.

...

Mỗi lần kể về chuyện mình được đi xung phong, Nhung đều khóc lóc sướt mướt như thế, khóc chẳng thua kém cái ngày chị Trang lần đầu hỏi chuyện em là bao. Nàng Chi ngồi bên cạnh cũng chẳng nén nổi thương xót, nàng rút khăn mùi xoa dúi vào tay em, nói:

- Tôi thương em quá. Cuộc đời của em răng lại khổ cực như rứa?

Nhung gạt nước mắt, em ho khan để lấy lại giọng và đáp:

- Mà chừ em được lên đây ở với mọi người rồi, em không còn khổ nữa mô.

Rồi em cười.

Nếu như hôm qua thấy nụ cười của em, Chi sẽ ngầm khen rằng, cô thanh niên này sao mà có nụ cười trong sáng, hồn nhiên quá, nhưng bây giờ nghe câu chuyện của Nhung, nàng lại chẳng thể khen em một cách đơn thuần như trước được. Đằng sau nụ cười ấy, em đã phải chịu đựng những khổ đau gì, khi mất gần mười sáu năm cuộc đời sống trong sự mồ côi, bị đánh đập, hành hạ như một đứa ở bởi chính người thân ruột thịt. Nếu không nhờ có chị Trang kiên nhẫn khuyên răn, đồng ý đưa em đi xung phong theo đúng nguyện vọng, Chi cũng không thể tưởng tượng cuộc sống như chốn địa ngục ấy của Nhung sẽ còn kéo dài bao lâu.

Lúc nàng còn ngậm ngùi suy nghĩ về cuộc đời Nhung, thì cậu Nhất ngồi đối diện chợt lên tiếng:

- Đương vui, tự dưng hai người nói chuyện buồn dữ rứa? Trời tối luôn rồi.

Chi nhìn ra ngoài, đúng thật là trời bây giờ đã tối không thấy rõ đường đi nữa. Đồng hồ treo tường vừa nhảy kim phút tới số sáu, thì có một đồng chí cầm đuốc lồ ô cháy rực lửa, tới châm vào mấy cây đèn bão được treo ở trong và ngoài lán.

- Cậu Nhất có người nhà lên thăm đó à?

- Dạ đúng. Đây là chị ruột của tôi. Đêm ni chị ngủ lại chiến khu mình.

- Thế đội trưởng đã sắp xếp chỗ ngủ cho o chưa?

Nàng Chi nhỏ nhẹ đáp:

- Dạ thưa, vẫn chưa.

Đầu Nhung khi này chợt loé lên một ý định. Em đứng phắt dậy nói với mọi người trong lán rằng:

- Rứa để chị Chi ngủ cùng với tiểu đội em đi. Tiểu đội em toàn mấy chị, không có mấy anh mô. Chỗ ngủ lại sạch sẽ, thoáng mát nữa.

Cậu Nhất hỏi nàng:

- Chị thấy rứa có được không?

- Chị thì ngủ ở mô cũng được mà.

Thế là tối hôm đó, Nhất và Nhung đã xin đội trưởng cho nàng Chi được ngủ ở lán của tiểu đội 3 qua đêm, ngày mai nàng sẽ đi sớm. Đội trưởng đương nhiên đồng ý, nhưng cũng cần phải báo việc này cho tiểu đội trưởng tiểu đội 3, tức là chị Trang. Mà chị Trang bây giờ đương cùng tiểu đội đi làm nhiệm vụ chưa về, nên thành ra anh đội trưởng có nhờ Nhung đưa nàng Chi về lán trước, đợi khi nào cả đội về thì đích thân anh sẽ nói việc này với chị Trang sau.

Con đường từ lán thăm nuôi tới nơi ở của tiểu đội khá xa, vẫn phải leo qua hai con dốc mới tới. Vì lán của các chị được xây bên cạnh bờ suối, nên không gian cũng mát mẻ hơn hẳn. Khi tới nơi, Nhung liền đưa nàng vào trong, còn đồng chí phụ mang rương đồ của Chi, sau khi đặt rương trước bậc thềm thì đã về mất hút.

Chi đứng từ ngoài nhìn vào, đồ đạc, mền gối được các nữ chiến sĩ sắp xếp ngăn nắp đâu vào đó, càng làm cho không gian lán trở nên thoáng đãng vô cùng. Vì đây là lần đầu Chi tới đây, nên Nhung chỉ nàng ngồi đâu thì nàng ngồi đó, không dám xê dịch đi chút nào. Mãi tới khi Nhung sực nhớ Chi vẫn còn ngồi trước hiên, thì em mới hối hả chạy ra gọi:

- Chị Chi vô đây với em.

Nàng Chi làm theo. Nhung chỉ về hướng tấm phản ở góc lán, nói:

- Đêm ni chị Chi ngủ với em ở bên tê hí.

Chi gật đầu, đáp:

- Ừ, rứa đêm ni ta ngủ chung.

- Bình thường chỗ nớ là Phương nằm, nhưng hắn xin về phép mấy bữa rồi. Chị Chi cứ nằm thoải mái nghe. Lúc ngủ em ngoan lắm, không quấy chị Chi mô.

Nàng Chi mỉm cười, coi như là đồng ý.

- Chừ chị Chi đợi em một chút, em đi nấu nước cho chị tắm.

- Bình thường mọi người có phải nấu nước tắm không?

- Không, bình thường mọi người tắm ngoài suối tê, hoặc ra đây...

Em nắm tay dẫn nàng ra phía sau lán, nơi chỗ tắm rửa được dựng lên bằng những cọc tre, phủ xung quanh là hai, ba tấm vải rằn ri để tạo sự kín đáo.

- Chị Chi muốn tắm ở mô cũng được. Nước là múc từ dưới giếng lên, tắm mát lắm. Em sợ chị Chi không quen, tắm nước lạnh giờ ni là mai bệnh chết queo.

Đắng đo một hồi, cuối cùng nàng Chi vẫn chọn tắm ở cái nhà tắm dã chiến này, và nàng cũng từ chối luôn việc nhờ Nhung nấu nước. Nàng nói, mọi người tắm nước lạnh được thì nàng cũng tắm được, cần gì phải bày vẽ cho mắc công. Vả lại Chi tới đây ở cũng là ở nhờ, nàng ngại lắm khi phải để mọi người ưu tiên một vị khách như nàng, và càng ngại hơn khi mọi người phải vì nàng mà sinh hoạt không thoải mái. Vậy nên, trong suốt buổi tối ở lại lán, Chi cố hết sức làm sao cho mình không trở thành điều mà tiểu đội bận tâm.

Sau khi Chi tắm rửa xong xuôi, thì vừa hay tiểu đội đi làm nhiệm vụ đã về tới. Nàng ra chào hỏi mọi người, bằng một thái độ hết sức ngượng ngùng. Nhưng trái ngược với nàng, chị Trang lại xởi lởi bắt tay, niềm nở nói:

- Rứa o đã ăn uống chi chưa?

- Trước khi đi, tôi có ăn nắm xôi rồi.

- Nắm xôi chắc cũng tiêu hoá từ tám hoánh. O có đói không? Tụi tôi có lương khô đây, o ăn cho đỡ hí.

Chi vội từ chối:

- Thôi được rồi o, tôi không đói mô. Nắm xôi nớ tôi ăn là no tới mai luôn, làm răng mà đói được nữa.

- Đồng chí Nhung đã chỉ chỗ ngủ cho o chưa?

Nghe có người nhắc tới tên mình, Nhung ló đầu ra ngoài cửa sổ, miệng em vẫn còn nhai nhồm nhoàm miếng chà bông mà vừa nãy nàng Chi cho.

- Chị Trang kêu em làm chi rứa?

- Mi đã chỉ chỗ cho o nớ ngủ chưa?

- Em chỉ rồi. Chị Chi ngủ cạnh em đó.

Chị Trang vẫy tay kêu Nhung ra. Tới khi em ra rồi, chị bất ngờ ký lên trán em cái nhẹ, và mở ba lô lấy năm thanh kẹo đậu phộng được gói trong giấy kiếng. Đưa tất cả kẹo cho em, chị dặn:

- Ăn ít thôi nghe chưa?

Nhung nâng niu mấy thanh kẹo trong tay, còn hơn là nâng niu một viên kim cương quý, hay một hũ muối được đơn vị thưởng. Em ngoan ngoãn khoanh tay, cúi gập người và nói:

- Em cảm ơn chị Trang.

Mọi người trong tiểu đội đều phì cười trước dáng vẻ như con nít lên ba của Nhung, cả nàng Chi cũng thế.

Đêm hôm đó, vì có khách quý ghé chơi nên ngôi lán cũng nhộn nhịp hơn hẳn. Bảy giờ là giờ mà mọi người được sinh hoạt tự do, nếu bình thường giờ này các chị sẽ ai làm việc nấy. Người thì viết nhật ký, người thì đi phơi đồ, giặt giũ, hoặc nếu người nào mệt quá thì có thể đi ngủ trước. Nhưng hôm nay mười hai đồng chí thuộc tiểu đội 3, thêm nàng Chi nữa là mười ba người đều tụ tập ngồi vòng tròn trước sân, tíu tít kể chuyện cho nhau nghe. Nàng Chi cũng dễ dàng hoà nhập với các chị em khác. Tiếng cười nói rôm rả của họ xua tan hoàn toàn không gian u ám, lạnh lẽo ở chốn rừng thiên nước độc này, và cũng giúp cho những cái đầu vốn đã căng thẳng vì làm nhiệm vụ có thời gian nghỉ ngơi, thả lỏng.

- O Chi năm ni mấy tuổi rồi hè? Để tụi tôi biết mà xưng hô cho dễ.

Chị Hân lân la mò tới chỗ nàng Chi, và khoác vai nàng như khoác vai một người bạn thân thiết. Nàng Chi đáp ngay:

- Năm ni tôi mười tám, còn hai tháng nữa là bước sang mười chín.

- Trong đây nhỏ nhất là bé Nhung, mười sáu tuổi năm tháng. Chi mười tám, rứa là cũng nhỏ nhì rồi.

- Dạ, rứa mọi người cho phép em được gọi "chị", xưng "em" cho phải phép hí.

Mọi người đồng loạt vỗ tay đồng tình. Chị Hân chỉ về phía chị Trang đương ngồi cuộn tròn trong cái mền rằn ri, thì thầm vào tai nàng rằng:

- Hắn lớn tuổi nhất nớ. Năm ni hắn đã hai mươi bảy rồi.

Chi tủm tỉm cười, đáp:

- Chị Trang đẹp quá. Từ nãy tới chừ em cứ lo ngắm chị nớ mãi.

- Hắn được gọi là "Hoa khôi của sông Tả Trạch" đó, không giỡn mô.

- Thiệt à chị?

Chị Hân gật đầu.

Chị Trang ngồi đằng kia thấy hai người họ rủ rỉ rù rì nói chuyện mà mắt thì cứ nghía sang mình, chị liền đanh mặt hỏi:

- Mi nói cái chi về ta cho nàng Chi biết rứa, Hân?

Chị Hân liến láu đáp:

- Có cái chi mô, không phải nói xấu mô mà chị sợ. Em chỉ nói với Chi, là chị Trang được cả chiến khu gọi là "Hoa khôi của sông Tả Trạch" thôi.

- Mi lẻo mép là giỏi.

Tuy miệng thì nói lời gắt gỏng phũ phàng, chứ thực ra trong lòng chị cũng sướng rơn khi được người ta khen như thế.

Chị Trang không nói nữa mà chỉ im lặng nhìn vào ánh lửa từ cây đuốc lồ ô cháy bập bùng giữa sân. Lửa hắt vào mắt, càng làm lộ nên nỗi buồn hằn sâu trong mắt chị.

Xung quanh, những chị em khác vẫn tiếp tục đùa giỡn với nhau.

- Đội ta có tới bốn người được đặt biệt danh đó, Chi có muốn nghe không?

Nàng Chi ham vui, nên lập tức gật đầu.

Chị Trúc đi tới từng chị em, chỉ vào chị Bình đương ngồi bó gối hí hoáy viết nhật ký, chị nói:

- Kim Bình được gọi là "Nhà thơ của sông Tả Trạch".

Đi ngang chỗ chị Uyên, chị Hân lại khoe:

- Còn Uyên thì là "Mãnh thú của sông Tả Trạch".

Tới đây, nàng Chị bật cười, hỏi:

- Răng lại là mãnh thú, chị Trúc?

Nàng Uyên hậm hực liếc chị Hân, như muốn lao vào đánh cái kẻ vừa mới gán cho mình cái biệt danh kỳ quái này. Chị Hân vẫn bình thản giải thích:

- Thì tại vì hắn dữ quá đó. Chi không biết mô, hắn từng một mình đứng cãi nhau với ba đồng chí chiến sĩ nam, vì ba đồng chí nớ dám làm thất lạc một bao gạo nặng chục cân của đoàn tiếp tế gửi lên. Đợt cãi nhau nớ lớn lắm.

Nàng Uyên vội cãi:

- Cái đó gọi là khiển trách, ai gọi là cãi nhau? Cậu nói thì nói đúng đi chớ.

- Ừ ừ, rứa thì khiển trách. Tớ xin lỗi.

Chị Hân gãi đầu cười, một hành động có thể nói là tạm thời xoa dịu Uyên ngay lúc này.

- Còn một người có biệt danh nữa, mà biệt danh của người ni hay lắm nghe!

Nàng Chi thấy mắt chị Hân cứ nhìn Nhung không rời. Biết người chị ấy muốn nói tới là em, nàng liền khều vai Nhung, hỏi một cách thích thú:

- Em có biệt danh chi rứa?

Nhung nhìn sang Chi. Thấy hai bên mép em còn dính vụn đậu phộng, Chi vội đưa tay, lướt ngón cái qua môi em giúp em lau sạch chúng. Nhung cũng bởi vì cử chỉ dịu dàng ấy của nàng mà thẫn thờ, ngồi thừ tại chỗ như kẻ mất hồn. Phải đợi tới khi nàng Chi hỏi lại lần thứ hai, thì em mới rùng mình tỉnh người.

- Chị Chi hỏi em...

- Ừ, tôi hỏi em có biệt danh chi rứa?

Nhung đặt thanh kẹo đậu phộng mình vừa ăn dở lên đùi. Nàng Chi tưởng em sẽ nói gì đó, nhưng không, em chỉ thẹn thùng vuốt tóc rồi ngó lảng sang chỗ khác. Những người còn lại cười rộ lên. Chị Hân thay mặt em, đáp thật trịnh trọng:

- "Hoạ mi của sông Tả Trạch" là biệt danh của Nhung đó.

- Hoạ mi? Rứa là em hát hay lắm phải không?

Nhung khe khẽ nói:

- Cũng...cũng bình thường ạ.

Nhung vừa dứt câu, chị Hân đã xông xáo chạy vào lán, chưa tới một phút là chị chạy ra sân, trên tay còn cầm theo cây đàn ghi ta. Chị đưa cây đàn cho Nhung rồi trở về chỗ ngồi. Nhung cầm cây ghi ta mà tim đập thình thịch trong lồng ngực. Từ trước tới giờ em đã từng chơi ghi ta trước mặt mọi người rất nhiều lần rồi, thậm chí số lần em trình diễn ở nhà Đại chúng còn nhiều gần như gấp đôi đồng chí Phước - người được mệnh danh là "Cây văn nghệ của chiến khu" lúc bấy giờ. Nhưng chưa lần nào em lại có cảm giác hồi hộp, run rẩy và lạnh toát tay chân như lúc này cả. Không biết vì sao nữa? Ngộ quá!

- Hát đi Nhung! Lâu rồi mi không hát, chừ tiểu đội có khách quý thì phải hát đi chớ!

Một loạt tràn vỗ tay nồng nhiệt vang lên từ mọi người khiến máu nghệ sĩ trong người Nhung sôi sùng sục. Rồi tự dưng, em ngó trộm nàng Chi, thấy nàng ngồi sát bên cũng đương trông ngóng màn thể hiện của mình, em lại thấy có chút gì đó xao xuyến.

- Em hát đi.

Lời động viên nhẹ nhàng nhưng lại chan chứa niềm yêu thương của nàng Chi làm mang tai Nhung đỏ ửng lên như cà chua chín. Em để ngang cây ghi ta, tay trái vuốt nhẹ lên cần đàn, và tay phải thì để sẵn ở dây La.

- Rứa...em hát nghe.

Nàng Chi gật đầu. Nhung hít thở sâu một hơi, tiếng đàn ghi ta cùng giọng hát trầm ấm trời phú của em vang vọng khắp cả màn đêm, thấu vào từng mạch nước sông Tả Trạch. Nó khiến cho cây tre rừng, sim rừng, và những cành thông đều phải đong đưa theo từng nhịp đàn của em. Nó như sai khiến chim muông đương hót cũng phải câm nín, ngả mũ thán phục trước cái giai điệu hào hùng được phát ra từ món nghề chơi đàn bẩm sinh của cô thanh niên xung phong. Nhung hát bằng cả trái tim của mình, em như hiến trọn giọng hát ấy, và chỉ dành riêng giọng hát ấy cho sự hùng vĩ của sông núi vùng Dương Hòa. Đôi mắt em lúc nào cũng như chứa nước, ánh lửa đuốc lồ ô rọi vào, càng làm cho đôi mắt ấy long lanh, hệt như một viên đá pha lê đương phản chiếu qua con ngươi đen láy.

"Dậy mà đi, dậy mà đi

Ai chiến thắng không hề chiến bại

Ai nên khôn không khốn một lần

Dậy mà đi, dậy mà đi

Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi..."

...

Chú thích:

(1) Tây - lo: Tướng Maxwell D. Taylor

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com