Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG 8: ĐÊM BÊN SUỐI

Ngày 18 tháng 10 năm 1960

Đúng vào trưa ngày hôm nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Tỉnh uỷ Thừa Thiên, toàn bộ người dân tại Hương Lâm, Phong Lâm, cùng rất nhiều khu vực miền núi của Huế đã tổ chức những cuộc mít tinh quy mô lớn, đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa để giành lại chính quyền ở các thôn, xã, và bắt những tên tay sai của chính quyền Sài Gòn, chánh tổng, phó chánh tổng ra để xét xử. Tin chiến thắng kéo dài từ ngày 18 tới nhiều ngày sau. Toàn bộ đơn vị đóng quân của lực lượng kháng chiến ở Khe Tre, Phong Điền, Hương Trà,... kết hợp với du kích địa phương, tiến hành chiếm đóng hàng chục đồn bốt lớn nhỏ của quân địch. Trước phong trào khởi nghĩa, quân Mỹ phải rút quân khỏi nhiều địa phương, chỉ còn chừa lại những đồn bốt lớn ở A So, Khe Tre.

(1) Lúc cuộc khởi nghĩa đang vào giai đoạn căng thẳng, một nhóm du kích tại Nam Đông được lệnh từ Ban lãnh đạo, trong tối hôm nay phải cử người tiếp cận một đồn bốt phía Nam của quân địch, nhằm kết nối liên lạc với một điệp báo của quân ta được cài vào hàng ngũ Mỹ, đánh cắp thông tin về chiến lược quân sự của bọn chúng. Khi nhiệm vụ được đồng chí giao liên truyền tới, Ban lãnh đạo đã nhấn mạnh đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Nếu không hoàn thành tốt hoặc bị địch phát giác, thì coi như toàn bộ công sức của huyện Nam Đông và toàn thể người dân suốt thời gian qua coi như đổ sông đổ biển, thậm chí thông tin về đồng chí điệp báo chắc chắn sẽ bị bại lộ. Nắm rõ tính chất đặc biệt của nhiệm vụ, đội trưởng đội du kích xã Hương Lộc đã cử một nhóm du kích gồm ba người, toàn bộ đều là những tay kỳ cựu có nhiều kinh nghiệm. Trong nhóm đó có một người từng là lính trinh sát, và hai người là lính đặc công.

Bọn họ lựa chọn thời gian xuất phát là vào 1 giờ sáng đêm nay.

Đồn giặc phía Nam được đóng ở đầu chợ Cồn, cách địa điểm xuất phát của nhóm du kích chừng nửa tiếng đi bộ nếu đi đường lớn, còn đi đường vòng thì mất khoảng một tiếng. Chỗ đồn bốt ấy trước kia từng là dinh thự của một tên Việt gian nổi tiếng huyện Nam Đông. Vào thời điểm quân Pháp tới chiếm xã Hương Lộc, chính hắn là người đầu tiên ra hàng và tự nguyện dâng hiến dinh thự của mình cho Pháp dùng làm nơi đóng quân ở xã. Sau khi Mỹ thay chân Pháp, nơi dinh thự ấy được bàn giao lại cho một quan chức cấp cao của Mỹ.

Đoạn đường vòng dẫn đến chợ Cồn phải băng qua một cánh rừng tre rậm rạp, rất thích hợp cho nhóm du kích tận dụng địa hình ẩn nấp. Anh Nhơn đội trưởng dẫn đầu đoàn du kích đi đường vòng. Ba người còn lại đi sau, người sau nắm vạt áo người trước, cứ như vậy mà mò mẫm đi trong đêm tối. Càng đi, những tán tre càng mọc san sát vào nhau, che khuất đi ánh sáng từ trăng rọi xuống. Sương đêm ẩm ướt lảng vảng trong không trung, tụ thành từng giọt trên phiến lá, nhỏ xuống vai của đoàn du kích. Toàn bộ quá trình di chuyển không ai dám nói với ai lời nào, mọi nhất cử nhất động của họ đều diễn ra một cách im lặng, nhẹ nhàng và cẩn trọng hết mức có thể.

Đi được gần một tiếng, anh Nhơn bất ngờ đưa tay khẽ suỵt, ra hiệu bốn người phía sau dừng lại. Anh chậm rãi giơ tay ra trước, cảm nhận sự lạnh toát và sần sùi của bức tường gạch đối diện, tim anh hẫng một nhịp, rồi đập loạn xạ như muốn rơi khỏi lồng ngực.

- Tới mô rồi anh?

Đồng chí đứng sau thì thầm hỏi. Anh Nhơn siết chặt cán súng, nuốt nước miếng khan. Anh quay xuống nhìn bốn người đồng đội đương hồi hộp chờ lệnh, mặt người nào người nấy đều lộ vẻ căng thẳng, mồ hôi lạnh chảy ròng trên trán.

- Sau bức tường này là đồn giặc.

Vừa nghe đội trưởng báo như thế, mọi người đều chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu. Anh Nhơn bước từng bước rón rén về phía trước, tới khi chỉ còn cách bức tường chưa tới một gang tay, anh áp tai vào sát tường hòng nghe ngóng xem bên kia có động tĩnh gì không. Bất ngờ, anh nghe thấy ba tiếng gõ lộc cộc. Nhận ra đó là ám hiệu của điệp báo, anh Nhơn lập tức phẫy tay, nhóm du kích men theo thành tường đi sang bên trái, tới khi chân người đi đầu giẫm phải thứ gì đó mềm mềm, có mũi tròn chìa ra như mũi giày da, thì họ mới dừng lại.

- Phong Điền.

Giọng nói trầm trầm vang lên rất khẽ. Người đi đầu vội nói mật khẩu:

- A Lưới.

Rồi họ hỏi:

- N33?

Bên kia không chút chần, đáp:

- Phải.

Những tiếng thở dài đồng loạt được thở ra, nhóm du kích như vừa trút được toàn bộ gánh nặng. N33 là biệt danh của Lương Văn Tro (2), điệp báo được cài cắm vào hàng ngũ của địch để đánh cắp nhưng thông tin tuyệt mật. anh Tro vừa gặp những người đồng đội cũ thì không khỏi xúc động. Vốn muốn chạy tới ôm lấy năm người bạn của mình, nhưng vì sợ nếu manh động sẽ gây ra sự chú ý với đám lính đương canh gác trong kia, nên anh chỉ đành đứng im trong tối, chấp nhận không lộ mặt để tránh rủi ro hết mức có thể.

Anh Nhơn rẽ hàng bước ra, đứng trước mặt anh Tro, anh Nhơn nói:

- Hôm nay đã đánh dạt được một đội lính nhảy dù. Chết mười, bắt sống được hai, thu được chín khẩu M - 16.

Từ phía đối diện truyền tới giọng nói chắc như sắt đá của anh Tro:

- Tốt.

Nói rồi, anh dúi vào tay anh Nhơn mảnh giấy nhỏ, dài chừng một ngón tay trỏ. Bằng một động tác hết sức nhanh gọn, anh Nhơn tháo sợi dây chuyền ra, mặt dây chuyền là hình cây thánh giá. Anh cạy mặt dậy chuyền, để lộ một khoảng trống nhỏ vừa khít với độ dài của tờ giấy. Anh Nhơn nhét tờ giấy vào đó, rồi cẩn thận đóng lại.

- Đi đi, nhanh lên! Mang mật thư về cho chỉ huy trưởng trước ba giờ sáng. Tin khẩn đó.

Anh Nhơn ngó đồng hồ, biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nên anh vội ra lệnh nhóm du kích rút quân.

Mang mật thư về cho Ban chỉ huy đơn vị kháng chiến, sau khi xem xét và giải mã, mọi người đã biết được kế hoạch tấn công tiếp theo của quân địch là gì. Chỉ huy trưởng lấy tấm bản đồ địa hình huyện Nam Đông trải trên bàn, dùng cành củi khoanh tròn vào khu vực xã Hương Sơn, ông nói:

- Rứa là tụi hắn sẽ cho quân ném bom xuống đây.

- Đợt này chắc tụi nó muốn chơi một vố quyết định luôn đây mà.

Giọng anh Nhơn trở nên hoảng loạn. Chỉ huy trưởng thấy anh ngồi thụp xuống ghế, ôm mặt, vò đầu bứt tai. Ông vứt cành củi xuống đất, rít lên một hơi thuốc thật dài. Tất cả mọi người có mặt trong phòng họp đều dễ dàng nhận ra sự bất lực đã thoáng ẩn hiện trên gương mặt của hai người chiến sĩ "già nghề" nhất đơn vị.

Trong tờ mật thư nói, bọn Mỹ sẽ chơi đánh úp bất ngờ, bằng việc ném bom xuống thôn 6 xã Hương Sơn vào lúc giữa trưa ngày mai. Hòng tiêu diệt triệt để các đơn vị đóng quân của ta ở đó, tạo sức ép để bắt lực lượng ta ra hàng.

Vừa nghĩ tới nội dung của tờ mật thư, chỉ huy trưởng càng giận dữ. Ông nghiến răng ken két, vứt ngay điếu thuốc xuống và chà nó thật mạnh, tưởng tượng như điếu thuốc ấy là xác tụi Mỹ mà ra sức chà.

- Ném cái đầu cha hắn! Hàng cái mả mạ hắn!

Ông gầm lên, gương mặt lại chuyển sang nhăn nhó, đau đớn.

Nhưng chỉ chưa đầy một phút sau, cặp mắt chỉ huy trưởng bỗng sáng bừng, dường như, ông vừa nảy ra sáng kiến gì đó. Ông lật đật quay trở lại bàn, ngón tay nhăn nheo bị cắt cụt một đốt chậm rãi di theo đường sông Tả Trạch, nối dài tới chiến khu Dương Hoà. Chỉ huy trưởng thở hắt ra, ngó tới bàn điện thoại đã bị cắt liên lạc, ông trầm giọng nói:

- Chừ chỉ còn cách hy sinh thì mới được.

Hàng chục con mắt mệt mỏi do nhiều đêm không ngủ hướng về chỉ huy trưởng. Hy sinh? Phải hy sinh? Họ đã hy sinh bao nhiêu người, bao nhiêu lần rồi? Hai chữ "hy sinh" đối với họ bây giờ nghe còn thân thuộc hơn cả trăm lần tiếng gọi "Mạ ơi!" những lúc họ còn ở nhà nữa. Mọi người đứng san sát vào nhau, những thân hình gầy ốm trơ xương, những bộ áo quần ka ki rách tả tơi, những gương mặt đen nhẻm do khói bụi từ bom mìn có thể che được nước da họ, nhưng không sao khoả lấp được sự can trường, gan dạ thấu vào sâu trong mắt họ. Một người lính bất ngờ giơ tay xung phong. Anh ta bước ra khỏi hàng ngũ không chút do dự. Đứng trước mặt chỉ huy trưởng, anh dõng dạc nói:

- Nếu có hy sinh, chỉ huy hãy cho tôi hy sinh.

Chỉ huy trưởng chăm chăm nhìn người chiến sĩ thấp hơn mình tận một cái đầu. Ông cố tình nhìn thật lâu vào mắt anh, như để thử rằng liệu người nọ có nao núng, do dự hay không. Và thứ mà ông nhận lại được, quả thật đúng như những gì ông muốn.

- Đồng chí tên chi?

- Báo cáo! Tôi tên Trung, đảm nhận nhiệm vụ giao liên, thuộc trung đội 2, tiểu đội 1. Tôi vừa mới được chuyển quân tới Khe Tre cách đây vài tháng.

Thấy cách người chiến sĩ này ăn nói vừa cứng rắn, vừa điềm đạm, chỉ huy trưởng gật gù, song ông vẫn không nén nổi tiếng thở dài. Anh Trung đứng nghiêm, nói tiếp:

- Tôi nguyện hy sinh để thực hiện nhiệm vụ được giao. Xin hết!

- Đồng chí có biết nhiệm vụ là chi không?

- Báo cáo! Không ạ!

- Không biết, răng đồng chí dám xung phong?

- Vì tôi không sợ chết. Chỉ cần chỉ huy nói cho tôi biết kế hoạch của nhiệm vụ, thì dù có nguy hiểm hay răng, tôi vẫn sẽ hoàn thành thật tốt.

Chỉ huy trưởng đắng đo hồi lâu. Cuối cùng, ông cũng quyết định triển khai toàn bộ kế hoạch nhiệm vụ cho mọi người biết, và chính thức phân công anh Trung, cùng hai đồng chí khác lên đường thực hiện.

Ba người họ chỉ có đúng nửa giờ chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, trang phục, tinh thần để quyết sống chết với nhiệm vụ có thể nói là lần cuối cùng trong đời. Bọn họ được đơn vị cấp cho ba chiếc xe đạp, ba cái ba lô, còn lại không có bất kì súng ống, vũ khí gì. Bởi lẽ, họ phải đóng giả thành dân thường, vượt qua được trạm canh gác của quân giặc đóng ở thôn 6 xã Hương Sơn, từ đó mà lần mò lên tới chiến khu Dương Hoà hòng báo lại kế hoạch thả bom bất ngờ của giặc cho Ban chỉ huy kháng chiến biết để cử quân tới ứng phó.

Riêng tờ mật thư của điệp báo Lương Văn Tro gửi cho đơn vị, chỉ huy trưởng đã ký tên xác nhận, và ban đầu ông định sẽ sử dụng sợi dây chuyền thánh giá của anh Nhơn làm nơi cất giấu. Nhưng về sau, ông lại thấy sợi dây chuyền ấy nhất định có thể trở thành thứ thu hút sự chú ý của bọn giặc, nên bèn bàn với mọi người xem có thứ gì để thay thế không. Đương lúc mọi người còn loay hoay tìm cách, thì anh Trung chợt nhớ tới mớ bồ kết mình định tặng chị Trang còn giấu trong bọc quần áo, mà cái bọc đó anh để ở cuối lán trại. Bỗng một suy nghĩ loé lên trong đầu, anh đứng bật dậy lao ngay ra khỏi phòng họp, lát sau thì trở vào với túi đồ to tướng. Chỉ huy trưởng và đồng đội nhìn anh bằng cặp mắt khó hiểu. Chẳng cần để ai hỏi, anh Trung đã tự động giải thích rằng:

- Tôi có chỗ giấu mật thư rồi đây.

Chỉ huy trưởng sững sờ:

- Chỗ mô? Mà đồng chí đem cái chi vô rứa?

Anh Trung mở dây túi, đổ ra sàn một mớ bồ kết. Những trái bồ kết khô đét, đen thui như than được buộc lại thành từng chùm, chất thành đống dưới đất. Có tổng cộng bốn chùm như vậy, và đếm sơ sơ thì mỗi chùm chừng hai chục trái, nhiều phết chứ chẳng chơi đâu. Anh Trung lấy một trái bồ kết, dùng dao găm chẻ đôi nó ra và loại bỏ hạt. Ở những ô nhỏ chứa hạt, anh lại kéo một đường dao cắt đứt lằn ranh. Trái bồ kết chẻ đôi giờ đây hoàn toàn trống rỗng, dư sức để chứa bức mật thư mà không sợ bị phát hiện. Sau khi làm xong, anh đưa trái bồ kết cho chỉ huy trưởng xem, nói:

- Chỉ cần dùng keo dán hai nửa lại, thì đố thằng Mỹ nào phát hiện ra.

Chỉ huy trưởng nhìn anh chiến sĩ trông có vẻ ngờ nghệch này vừa rồi mới nảy ra một cách giấu mật thư tuyệt diệu ấy, trong lòng dấy lên sự thán phục.

- Các đồng chí nhớ, đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, chắc chắc sẽ nguy hiểm tới tính mạng. Chừ có ai hối hận không?

Ba chiến sĩ đồng loạt vung tay, hô thật lớn:

- Không có!

- Ba đồng chí có quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh không?

Tiếng hô lại càng hào hùng, uy lực hơn:

- Quyết tâm! Quyết tâm!

Cứ như vậy, ba người gồm anh Trung, anh Luông và một đồng chí khác tên Cường đã lên đường khởi hành vào lúc bốn giờ sáng. Chỉ huy trưởng đứng trước cổng đơn vị, đau đáu nhìn về hướng ba chiếc xe đạp cũ kĩ, cùng ba bóng lưng tuy ốm yếu nhưng lại toát ra một vẻ kiên cường kỳ lạ. Càng ngày, bọn họ càng khuất khỏi tầm mắt ông, mất hút vào trong những cột khói bốc lên từ hàng dừa rực cháy đằng xa.

Chướng ngại duy nhất mà nhóm chiến sĩ cần đối mặt, là phải băng qua trạm gác lớn nhất của quân địch được đóng tại Khe Tre. Nơi đó cũng chính là một trong số những đồn bốt hiếm hoi mà chúng còn giữ được sau cuộc khởi nghĩa của người dân.

Ba chiếc xe đạp vừa cách trạm gác chừng chục mét là đã bị toán quân cảnh vệ chặn đường đòi khám xét. May rằng ba người đã chuẩn bị kĩ lưỡng nên cũng chẳng phải lo sợ gì. Một tên cảnh vệ da trắng vác súng M - 16, đội mũ sắt, nét mặt hung dữ hùng hổ đi tới. Hắn hất bán súng lùa ba người xuống xe, rồi thông qua phiên dịch, hắn hỏi:

- Đi đâu?

Anh Trung, người được chỉ huy giao cho chức nhóm trưởng trong nhiệm vụ lần này, bình tĩnh đáp:

- Tụi tôi về quê sơ tán. Chừ đạn bắn ác quá nên không thể ở nhà được các anh ạ.

- Trong ba lô chứa gì?

Anh Trung kêu hai người còn lại tháo ba lô xuống, tự giác mở ra đưa cho tên cảnh vệ xem. Hắn thấy trong ba lô của bọn họ chứa thứ gì đó màu đen thui, dài ngoằn như trái chuối bị héo. Tò mò quá, hắn liền hất hàm kêu ba người đổ những thứ ấy ra bàn, rồi tự tay cầm từng trái bồ kết, mà theo hắn là trái chuối bị héo lên, chăm chú ngắm nghía.

- Anh nói với anh nớ, đó là trái bồ kết. Tụi tôi hái để về quê đem bán.

Tên phiên dịch ghé vào tai cảnh vệ, thuật lại đúng như những gì mà anh Trung vừa giải thích.

Tên cảnh vệ đương nhiên không biết bồ kết là gì, nên cũng im lặng cho qua. Hắn tiến tới từng người một, bắt họ phải lộn hết túi quần, túi áo ra để xét người, thậm chí hắn còn gọi hai tên cảnh vệ khác ra để tiến hành khám xét. Nhận thấy ba người này không mang theo bất kì thứ gì khả nghi, nên toán cảnh vệ không hề tỏ ra nghi ngờ hay làm khó dễ gì.

Nhưng tụi hắn đâu biết rằng, cái thứ khả nghi nhất, hoá lại nằm trong ruột của mấy "trái chuối héo" mà tụi hắn nghĩ là vô hại ấy.

- Đi đi.

Anh Trung cởi nón phơi rồi cúi người, chào tạm biệt đám cảnh vệ:

- Cảm ơn mấy chú nghe!

Đoạn anh nhanh chóng bỏ hết mấy chùm bồ kết vào ba lô rồi dắt xe đạp, định sẽ đạp một mạch rời khỏi trạm gác, nhưng...

- Khoan đã.

Tiếng quát của một tên cảnh vệ khiến anh Trung, anh Luông và anh Cường giật thót tim gan. Từ phía sau, tên cảnh vệ da trắng vác súng lầm lầm đi tới, hắn trừng mắt nhìn vào ngăn nhỏ ba lô của anh Trung. Chĩa mũi súng về phía cái ngăn ấy, hắn ra lệnh:

- Còn ngăn này chưa xét.

Anh Trung tuy mặt mày đã tái mét, nhưng vẫn cố gắng giữ bình tĩnh mà nặn ra nụ cười. Anh nháy mắt ra hiệu cho hai đồng đội còn lại cứ giữ bình tĩnh, còn mình thì quay đầu nhìn hắn. Lúc này, nòng súng càng dí sát vào ba lô hơn, sát tới mức mà anh Trung có thể dễ dàng cảm thấy cái lành lạnh tới sởn da gà của nòng súng đương chạm vào lưng mình.

- Chú từ từ tôi cho xét. Chớ làm cái chi mà hấp tấp dữ rứa?

Anh chậm rãi bỏ ba lô xuống. Tên cảnh vệ xông tới mở toang cái ngăn đó ra, khi thấy bên trong không có gì, hắn lại trở mặt quát:

- Cút đi!

Nói rồi, hắn giơ chân đạp một cái vào giữa lưng khiến anh ngã lăn ra đất. Anh Trung lồm cồm bò dậy, giấu mặt vào cánh tay mà nghiến răng nghiến lợi. Anh làu bàu:

- Thằng Mỹ óc teo nhỏ dái!

- Trời ơi anh Ba, anh có sao không?

Anh Luông tiến tới đỡ anh Trung dậy, giả vờ reo lên lo lắng.

Tên cảnh vệ quắc mắt:

- Cút nhanh! Không thôi tao bắn nát sọ tụi mày!

Anh Cường cũng lân la mò tới chỗ đồng đội. Khi này biết đã tới lúc hành động, anh Trung bí mật ra hiệu cho hai người họ chuẩn bị tinh thần, còn mình thì mở ba lô lấy một chùm bồ kết, đưa cho tên cảnh vệ, anh xởi lởi nói:

- Coi như chùm bồ kết ni là quà tôi xin lỗi nghe. Làm phiền các ngài quá.

- Mày đưa tụi tao thứ này làm gì?

Anh Trung kéo nón phơi xuống che nửa khuôn mặt, miệng nhếch lên:

- Còn làm chi nữa...

Vừa dứt lời, anh bất ngờ đá thẳng vào hạ bộ của tên cảnh vệ. Bị đánh vào chỗ hiểm, hắn thét lên một tiếng đau đớn rồi buông súng, ôm hạ bộ ngã khuỵ xuống. Chớp thời cơ, anh Trung nhặt khẩu súng lên và tặng cho hắn một phát đạn ngay đầu. Hắn chỉ kịp giãy lên vài cái như con cá, rồi hộc máu chết tươi.

- Việt Cộng! Việt Cộng!

Hai tên cảnh vệ còn lại ú ớ reo lên. Bọn hắn run rẩy như một con chó bị mắc mưa, bước lùi về sau, luống cuống tới mức không kịp gạt đạn. Anh Luông rút con dao găm, nhảy vồ tới định đâm thẳng vào ngực của tên cảnh vệ da đen, trực tiếp giằng co một chọi một với hắn. Vì dáng người nhỏ con, nhanh nhẹn nên anh Luông dễ dàng tránh được mọi đòn đánh của đối phương. Anh vung dao chém một nhát trúng vào cổ tay hắn, đứt mạch máu, máu phun phì phì. Tên cảnh vệ rú lên hoảng loạn, nỗi khiếp sợ đã tràn khắp gương mặt.

- Cấp báo! Có Việt...

Tên còn lại chưa kịp nói hết câu, là anh Cường từ đằng sau đã chĩa nòng súng vào gáy hắn, hệt như cái cách mà vừa nãy tên kia đã làm với anh Trung.

- Tao cho mày thét!

Thêm một phát đạn nữa được bắn ra, tên cảnh vệ bị bắn nát cổ, thủ cấp cũng lủng lẳng sắp rơi xuống. Máu bắn thẳng vào mặt anh Cường, mùi máu tanh nồng của tụi Mỹ này khiến anh lợm cổ vô cùng.

- Chạy nhanh!

Anh Trung ngoắc tay ra lệnh. Ba người cùng cầm ba khẩu M - 16, bỏ ba lô ở lại, chỉ đem theo mỗi cái ba lô chứa mật thư mà đạp xe chạy thục mạng về phía chiến khu.

- Trời ơi đã quá anh ơi!

Mặc kệ cho tiếng đạn phía sau vang lên rát cả tai, anh Luông vẫn ngửa cổ reo lên đầy sung sướng. Toàn thân anh nổi da gà, và hai hốc mắt anh đã đỏ hoe như khóc, khi chính bản thân mình vừa tự tay bắn chết một thằng Mỹ mà không phải nhờ tới sự trợ giúp của bất kì ai. Anh Trung đạp xe bên cạnh cũng vậy, và anh Cường nữa. Cả ba người họ đều có chung một cảm giác sung sướng hệt như nhau. Cái cảm giác được cầm vào khẩu M - 16 xịn xò ấy, cái cảm giác được dùng chính khẩu súng ấy giết giặc, và cái cảm giác đứng cheo leo giữa vực thẳm, tưởng chừng suýt bị té nhào rồi thì lại được kéo về khiến họ khoan khoái, sự khoan khoái đã đạt tới đỉnh điểm. Hơn cả sung sướng nữa. Hỡi ôi! Họ không biết phải miêu tả cảm giác đó thế nào. Họ tự hỏi, liệu đây chính là là dấu hiệu của sự chiến thắng chăng?

...

Chị Trang ngồi bật dậy, thất thần, mồ hôi đã chảy ròng khắp mặt. Chị vừa mơ một giấc mơ vô cùng kinh khủng, một giấc mơ mà chị cứ ngỡ như mọi nỗi đau trong đó đều vận vào mình ngoài đời. Bụng dưới chị nhói lên cơn đau buốt. Chị nhăn mặt, thở hổn hển. Cơn thèm thuốc đã khiến miệng lưỡi chị bắt đầu khô đắng. Chị Trang lảo đảo bước xuống phản, trong đêm tối, chị mò mẫm đường rời khỏi lán, tới bên bờ suối mà thường ngày chị vẫn  mò ra đó những khi đêm về.

Ngồi trên mỏm đá quen thuộc, chị Trang bật hộp quẹt, châm thuốc và rít lên một hơi dài. Làn khói trắng phả ra, quyện vào hương ngai ngái của cỏ rừng giúp đầu óc chị đỡ căng thẳng phần nào.

Đã lâu lắm rồi, chị mới tìm tới thuốc lá để trút nỗi buồn. Chị ngẫm, từ khi nào mà bản thân chị phải phụ thuộc vào cái thứ vốn chỉ nên dành cho đàn ông như vậy chứ? Càng hút, nước mắt chị càng chảy, tới nỗi mà hai bên má đã ướt đẫm từ hồi nào mà chị chẳng hay chẳng biết.

- Răng mình cứ mơ về chuyện nớ hoài rứa?

Chị lẩm bẩm tự hỏi. Vào lúc này, phía cửa lán chợt xuất hiện tiếng sột soạt. Chị Trang thót tim đứng phắt dậy.

Giọng một người phụ nữ vang lên thật khẽ.:

- Là...là em đây.

Nàng Chi choàng cái áo ka ki bên ngoài cho đỡ lạnh, lững thững bước về phía bờ suối. Thấy Chi, chị Trang quýnh quáng dập tắt điếu thuốc, vờ như mình chưa làm gì mờ ám. Chị hỏi:

- Chi chưa ngủ à?

Chi lắc đầu, đáp:

- Lạ chỗ quá, em ngủ không quen nên mới dậy giữa đêm. Rứa chị Trang cũng không ngủ được hay răng?

Chị Trang kéo Chi ngồi xuống mỏm đá kế bên mình, ngó ra dòng suối đương chảy êm nhẹ trước mặt, chị thở dài:

- Tôi định ra đây hóng mát một chút, rồi trở vô ngủ sau.

- Chị Trang hút thuốc phải không?

Câu hỏi của nàng Chi làm chị Trang ngớ người. Chị tự ngửi thử áo mình, và nhanh chóng nhận ra, mùi thuốc lá đã ám khắp cơ thể chị rồi. Không biết phải trốn tránh thế nào, chị chỉ đành gật đầu thừa nhận:

- Ừ, tôi có hút một chút.

Nàng Chi nhích người ngồi gần chị hơn. Hai người bây giờ chỉ cách nhau chưa tới một gang tay, vậy nên mùi thuốc ấy nàng cũng có thể dễ dàng ngửi thấy. Song, Chi không hề tỏ ra khó chịu, mặc dù chính bản thân nàng cũng không thích cái mùi hăng hắc, nồng nồng của thuốc lá chút nào.

- Chị Trang đương có chuyện buồn hay răng?

- Răng Chi lại hỏi tôi?

Chi ngập ngừng:

- Thì...người mô có tâm sự thì cũng đều sẽ ngồi một mình như ri.

Chị Trang rũ mắt, không trả lời mà lặng lẽ nhặt một hòn đá nhỏ, ném nó về phía dòng suối trôi lửng lờ. Hòn đá vừa đáp xuống, mặt nước khẽ khàng dao động, đám chim sẻ đương đậu cũng vì tiếng động ấy mà vụt bay khỏi tán cây vả. Nàng Chi ngửa đầu nhìn theo bầy chim bay về phía trăng tròn, rồi nàng nhìn sang chị Trang, lại thấy chị ấy chống cằm trầm ngâm.

- Chị Trang vô ngủ đi. Ngồi ngoài ni, không khéo ngày mai cảm lạnh.

- Chi cứ vô ngủ trước, đừng lo cho tôi mà.

Trước sự từ chối của đối phương, nàng Chi chỉ mỉm cười dịu dàng. Đoạn nàng cởi cái áo ka ki khoác ngoài của mình ra và choàng nó qua vai chị Trang, khẽ nói:

- Rứa chị Trang phải mặc thêm áo vô.

Vào lúc cái áo vừa phủ qua vai, chị Trang cảm tưởng như chính cái áo ấy cũng đương phủ qua trái tim chị. Một sự ấm áp đột nhiên dấy lên, nó làm cõi lòng chị đau đớn tới ứa nước mắt. Cơn gió lạnh từ phía bìa rừng thốc tới, cả hai người đều run bần bật, nhưng vẫn chẳng ai bỏ ai để trở vào lán cả. Chị nhường một nửa áo cho nàng Chi, để nàng cùng đắp chung. Trong cơn mơ hồ, chị Trang thoáng cảm nhận bàn tay nàng Chi đương xoa nhẹ lên eo mình. Chị nghía qua, đúng lúc nàng cũng vừa gục đầu tựa vào vai chị. Nàng khẽ nói:

- Khi hồi nói chuyện với mọi người, em cứ thấy chị ngồi tách lẻ.

- Tụi hắn nói chuyện ồn ào quá. Tôi không thích ồn ào.

Rồi chị nghe tiếng Chi cười.

- Răng Chi lại cười?

- Không có, không có chi mô. À! Chị Trang theo Đạo phải không?

Chị Trang nhìn xuống dây chuyền thánh giá mình đương đeo, gật đầu:

- Ừ, tôi theo Đạo. Mà nàng Chi để ý hay hè! Biết tôi là người theo Đạo ngay lần thứ hai gặp.

- Tại hồi tối ni em thấy chị trùm mền làm cái chi đó. Em hỏi Nhung, thì em nớ nói chị đương đọc kinh cầu nguyện.

- Ui chao! Lại là Nhung à?

Chị thở dài, ngán ngẩm nói:

- Hắn nhỏ con mà cái miệng cứ leo lẻo.

- Lúc mới lên đây, Nhung có kể với em, chị là chị cán bộ đã ghi tên em nớ vào danh sách thanh niên xung phong.

- Là tôi. Chuyện chỉ mới hồi giữa năm ni thôi, chớ có mô xa.

Nói rồi, chị Trang mở bao thuốc lấy một điếu thuốc. Trước khi kịp châm lửa hút, chị có hỏi Chi:

- Cho tôi hút một điếu được không?

- Chị cứ tự nhiên.

Ngậm điếu thuốc trong miệng, chị Trang ngửa đầu tựa vào thân cây tre sau lưng, mắt nhắm nghiền. Điệu bộ của chị bây giờ hoàn toàn khác với sự xởi lởi, thân thiện mà chị đã bày ra cho nàng thấy, vào lúc nàng chỉ vừa mới tới chiến khu. Màn đêm mỗi lúc một yên ắng hơn, xung quanh ngoại trừ tiếng cóc nhái kêu râm ran, tiếng suối chảy rì rào ra thì chẳng còn bất kỳ âm thanh nào khác. Phía trong lán, những chị em khác vẫn còn ngủ say sưa. Nhìn ra ngoài này, lại thấy thấp thoáng hai bóng người ngồi nép vào nhau.

Nàng Chi đợi hồi lâu sau mới nghe tiếng chị nói:

- Ban đầu, hắn được phân công vào nhóm thanh niên xung phong làm nhiệm vụ rà mìn tại đường Trường Sơn. Nhưng làm chưa được chừng mô, thì hắn bị tai nạn, một bên chân hắn bị gãy do đá đè trúng...

...

Chú thích:

(1): Đây là tình tiết giả tưởng, tác giả thêm vào để phục vụ cho diễn biến của truyện, hoàn toàn không mang tính chất tham khảo.

(2): Nguyên mẫu của đồng chí Lương Văn Tro là ông Lương Văn To (tự Đặng Văn Sang. Sinh năm 1933 và mất năm 2005. Quân hàm: Đại uý). Ông tham gia Cách mạng vào năm 16 tuổi, tới năm 18 thì được cử ra Hà Nội học chính trị, khi trở về thì công tác tại xưởng quân giới Bình Phước. Ông được Nhà nước trao tặng huân chương Quân giới Việt Nam, huân chương Quân giới Nam Bộ, huân chương Chiến sỹ vẻ vang,...

Cuối cùng, ông Lương Văn To là ông nội của tui!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com