Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG 9: MÁU NHUỘM TRƯỜNG SƠN - ĐÈO PHU LA NHÍCH

Tây Trường Sơn, đèo Phu La Nhích, ngày 19 tháng 5 năm 1972

"Tìm đường mà đi, mở đường mà đến, đánh giặc mà tiến"

Đó, là khẩu hiệu của quân dân Việt Nam vào khoảng thời gian đen tối tại tuyến đường Trường Sơn, tuyến đường được mệnh danh là huyết mạch giao thông nối liền hai miền, đồng thời cũng là tuyến đường duy nhất có thể đưa cán bộ chiến sĩ, vũ khí và lương thực từ Bắc vào Nam, và thương binh từ Nam ra Bắc chữa trị. Vì lẽ đó, nên dĩ nhiên Trường Sơn không thể tránh khỏi những lần bị quân Mỹ ném bom, hòng cắt đứt cái "huyết mạch" ấy. Tụi hắn nghĩ, Trường Sơn cũng giống như một cây cầu, chỉ cần đánh sập đoạn giữa, thì hai đoạn đầu cuối sẽ gãy đôi, từ đó cắt đứt được đường liên lạc và viện trợ từ hậu phương cho tiền tuyến. Nhưng tụi Mỹ đâu ngờ, chúng ta lại quyết tâm giữ cái "huyết mạch" ấy như giữ lấy mạng sống của chính mình. Chúng đặt bao nhiêu bom, ta phá bấy nhiêu đó. Chúng đưa quân tới thăm dò địa hình, lắp mạng lưới thu phát, cử máy bay tiêm kích, tiến hành ngăn chặn bộ đội, những đoàn xe tiếp tế vào ban ngày. Chúng ta lại lén lút, bí mật di chuyển vào ban đêm, hoặc đi vào ban ngày nhưng sẽ có cách để qua mặt mạng lưới thu phát và bom mìn. Đã có rất nhiều cách vận chuyển được các chiến sĩ nghĩ ra hòng qua mặt sự truy quét của giặc. Chẳng hạn tiêu biểu nhất là cách lót mảnh gỗ dưới đế giày, hoặc sử dụng tấm ván gỗ lót đường để khi di chuyển đất không in dấu chân. Mọi hành động bí mật của bộ đội nhằm tuân theo khẩu hiệu: "Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng".

Không ai có thể đếm được, đã có bao nhiêu sinh mạng bị đất đá vùi lấp, bom mìn nổ tan thây giữa chốn rừng núi bom bay, đạn lạc này. Người ta hay kháo nhau rằng, đường Trường Sơn không phải được đắp bằng đất đá, mà nó được đắp bằng xương thịt của những con người đã tử trận trong công cuộc giành lấy huyết mạch giao thông cho kháng chiến. Mỗi bước đi của bộ đội mang vác đồ tiếp tế, ai biết được, có khi, họ đã vô tình giẫm lên hàng ngàn nấm mồ chôn của đồng đội mình mà không hay. Máu nhuộm Trường Sơn năm ấy đỏ rực như màu hoa phượng, xác chiến sĩ bỏ mạng chất chồng cao hơn núi. Những xác được chôn cất vẹn nguyên không nhiều, những người bị thương còn sống sót cũng không nhiều. Đa phần bọn họ đều phải bỏ mạng với hình hài không còn lành lặn nơi binh lửa chiến trường, hoặc nếu may mắn lắm cũng giữ được đầy đủ tứ chi. Ngặt nếu bom mìn tha, thì còn giòi bọ, chúng nào tha. Những con giòi bò lúc nhúc khắp các vết thương lở loét, nồng mùi thịt thối và bầy nhầy máu pha bùn đã khiến cho nhiều thương binh lâm vào cảnh sống không bằng chết.

Sự tang thương tới mức kinh dị, buồn tẻ tới mức chán sống là không khí người ta thường cảm nhận được ở vòm trời Trường Sơn. Một khi đã bước vào con đường này rồi, thì dù cho ở "túi bom" ATP phía Tây, hay thấu tận thung lũng A Sầu phía Đông, thì cái cảm giác chết chóc ấy vẫn không ngừng vây hãm bộ đội. Nó len lỏi qua từng thớ đất lạnh lẽo nhầy nhụa bùn những khi trời mưa, nó thấm vào trong từng làn khói bom lửa đạn dựng cao như cột trụ trời, khiến cho cây cối xung quanh xơ xác và chết khô theo nó.

Chao ôi! Thà sự chết chóc ấy được dự báo trước như bệnh tật thì ta không nói gì, nhưng khốn thay, nó không phải bệnh. Cái chết ở Trường Sơn tới vô cùng chậm, chậm như những cái kíp từ hằng hà sa số các quả bom mìn không biết khi nào sẽ nổ. Chúng bắt ta phải thấp thỏm lo sợ không biết mình sẽ chết vào hôm nay, hay ngày mai. Chẳng thà bị một viên đạn ghim thẳng vào đầu, xuyên thấu vào ngực, như vậy sẽ nhanh hơn, còn hơn là phải sống trong những tháng ngày đoán trước số phận một cách chậm rì thế này.

Nếu như các tuyến đường khác được bộ đội ví như "trường ném bom" của quân Mỹ, thì ở cụm liên hoàn ATP (cua chữ A, ngầm Tà Lê, đèo Phu La Nhích) thì lại như một "túi bom", là "toạ độ lửa" ác liệt thực sự. Đặc biệt là đèo Phu La Nhích, nơi đã sinh ra rất nhiều huyền thoại về những nữ công binh không sợ chết. Độ khắc nghiệt ở Phu La Nhích thậm chí còn vượt qua gấp trăm ngàn lần sức chịu đựng của con người.

...

"Tôi vẫn nhớ về em ấy, cô chiến sĩ nhỏ nhắn hay thắt tóc đuôi sam, ngồi trên hố bom vừa mới nổ, cặm cụi đào bới tìm cái gì đó. Mỗi lần tôi lân la mò tới hỏi, em sẽ tặng tôi một nụ cười tươi rói. Vầng trán lấm tấm mồ hôi của em, khuôn miệng chúm chím đỏ hồng của em, tôi ngắm nhìn, và rung động. Ở cái túi bom chết này mà rung động. Tôi khùng thật rồi..."

Anh Sên ngồi trong hang đá được tận dụng làm nơi ở cho đội công binh nam, chăm chú viết rồi xóa những dòng nhật ký được ghi một cách vụng về. Cuốn nhật ký của anh, rách tươm như một cái áo bị chó cắn, lem nhem nào mực, ướt đẫm nào nước mưa và dơ hầy vệt nhớt đen. Trang giấy không còn giữ được màu trắng tinh như giấy thông thường nữa, nó đã ngả sang vàng, đôi lúc ta còn bắt gặp một vài trang giấy dính thứ màu gì đó vừa nâu vừa đỏ. Khi được các chị em công binh hỏi thứ màu đó là gì, anh Sên gãi đầu cười, đáp một cách hồn nhiên rằng:

- Máu của tôi đó chớ. Hồi hôm đi đào đường, lỡ tay đào mạnh quá, lưỡi xẻng đâm trúng ngón chân. Tôi mới xé giấy, quấn vô cầm máu đỡ.

Ban đầu, các chị tưởng anh nói giỡn để mọi người đỡ căng thẳng, nhưng có ngờ đâu trong một lần đi thông đường, Mỹ bất ngờ ném bom khiến đất sạt, và sạt đúng vào chỗ anh Sên đứng. Anh ngã cắm mặt, gót chân bị mảnh mìn sắt nhọn cứa qua, vết thương sâu gần nửa đốt tay, gần như đứt mạch, máu tuôn như suối. Ở đèo Phu La Nhích không có điều kiện y tế thuận lợi, hay nói đúng hơn, là có đi dọc cả Tây - Đông Trường Sơn cũng chẳng thể nào tìm được chỗ chữa trị thương binh một cách bài bản như ở dưới xuôi hay hậu phương được. Người ta chỉ còn cách khiêng anh về lều, dùng những thứ thuốc sát trùng đơn giản và băng gạc để cầm máu cho anh. Nhưng số lượng băng gạc lại sắp hết, không đủ để cầm máu.

Trong lúc cheo leo trước cửa tử, đội công binh thì lo sốt vó tìm cách cứu sống anh Sên, nhưng trái ngược hoàn toàn với sự lo lắng của mọi người, anh lại thản nhiên nhờ đồng đội về hang và mang cuốn nhật ký của mình tới đây. Khi đồng đội đem nhật ký tới rồi, anh Sên không chút chần chừ mà xé liền hơn chục trang nhật ký, bịt vào vết thương, rồi dùng mảnh gạc cuối cùng quấn lại. Tuy máu không cầm được bao nhiêu, nhưng ít ra cũng đỡ hơn so với ban nãy. Qua bữa đó, đội công binh nữ mới tin vào những điều anh nói. Rằng là, anh lính công binh này sống dai như đỉa, lấy giấy trắng thay gạc cầm máu, ăn cỏ dại, cháo loãng mà vết thương vẫn lành nhanh như được uống thuốc bổ, tiêm thuốc Tây loại xịn. Trong suốt khoảng thời gian tịnh dưỡng đợi vết thương lành, đồng đội chẳng khi nào thấy anh nhăn nhó mặt mày than đau, hay làm ra vẻ mình chật vật, khổ sở với cái vết thương quỷ quái chết tiệt này cả.

Anh Sên vẫn cười, thậm chí, nụ cười lúc lâm vào cảnh thập tử nhất sinh của anh còn tươi hơn, tràn trề sức sống hơn là lúc còn lành lặn. Không cùng đội công binh đắp đường được thì anh ngồi trong hang, đảm nhận một nhiệm vụ khác cũng không kém phần cao cả và quan trọng, đó là tổ chức văn nghệ để giải khuây, vực dậy tinh thần chiến đấu cho mọi người.

Anh Sên có tài đàn hát, anh đàn ghi - ta rất hay, hát cũng rất hay. Giọng hát của anh trầm bổng, hào hùng, mạnh mẽ và cứng rắn không thua kém gì đất đá đường Trường Sơn. Mỗi lúc nhóm công binh được nghỉ ngơi, cả trai lẫn gái, ai nấy đều xúm lại ngồi chật kín trước cửa hang, cửa lều, cứ nơi nào có anh là mọi người sẽ ngồi, để cùng nhau nghe, hát những bài hát Cách mạng. Bài "Cô gái vót chông", "Tiếng chày trên Sóc Bom Bo", "Nối vòng tay lớn", "Bước chân trên dãy Trường Sơn" là những bài hát mà anh Sên thường đàn nhất, trong đó hai bài "Cô gái mở đường" và "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" góp mặt xuyên suốt hơn cả. Hầu như, không có buổi văn nghệ nào là mọi người không yêu cầu anh đàn hai bài đó. Đơn ca có, song ca cũng có. Đặc biệt "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" được các chiến sĩ năm ấy ví như bài hát "mượn lời ca tỏ tường duyên phận".

Ở mé vực tử thần này, người ta đấu tranh với cái chết thôi đã là điều cực khổ lắm rồi, ấy thế mà ẩn sâu trong sự cực khổ, tuyệt vọng ấy lại len lỏi thứ tình cảm trai gái thiêng liêng, hiếm hoi, như giọt nước suối trong chảy tràn vào vũng sình đầy những cặn. Ngay tới bản thân anh Sên, người cầm đàn chủ trì các buổi văn nghệ cũng không thể tránh khỏi sự rung động ở chốn chiến trường binh lửa.

Nói cụ thể hơn, là anh thương một cô chiến sĩ ở đội nữ công binh, cùng làm đường, rà mìn ở đèo Phu La Nhích này. Tiểu đội nữ công binh có tổng cộng mười lăm người, cô ấy nhỏ thứ ba. Từ lúc anh được chuyển tới Phu La Nhích công tác là đã thấy cô ở đó rồi. Nhiều lần anh bắt chuyện hỏi thăm, cô đều lịch sự đáp lại, và chẳng khi nào giỡn hớt, nói cười vui vẻ như những người khác. Nhìn lâu vào mắt cô, anh Sên thoáng cảm nhận được một sự u buồn. Cứ như cuộc đời cô gái này đã phải trải qua vô vàn khổ đau, để rồi bây giờ sự khổ đau ấy như dao găm khắc sâu vào mắt cô vậy.

Bây giờ ngồi trong hang, phóng tầm mắt ra ngoài hố bom to đùng, chỉ cách chỗ anh ngồi hơn chục mét, anh Sên có thể thấy thấp thoáng hình bóng cô chiến sĩ ấy đương phá bom từ trường. Cô bước lùi thật chậm, thua cả một con rùa, nhưng việc rà bom phải chậm như vậy mới chắc được, bởi bom từ trường mà dò nhanh thì coi như tan xác lúc nào không hay.

Về cách phá bom từ trường, các chiến sĩ từ lâu đã nghĩ ra một cách dò, đó chính là sử dụng một đoạn dây, đầu dây buộc một miếng sắt. Người phá sẽ đứng từ xa kéo sợi dây, khéo léo điều khiển miếng sắt tới gần quả bom. Khi bom tiếp xúc với kim loại sẽ kích hoạt cơ chế nổ. Những đồng chí nào đảm nhận nhiệm vụ phá bom thì coi như đã bước một chân tới cái chết. Sợ lắm, nhưng một khi đã được cử ra trung điểm ATP, ra đèo Phu La Nhích rồi thì họ đều coi cái chết chỉ nhỏ xíu chẳng khác gì con muỗi.

Anh Sên nhìn chăm chăm về hướng cô gái, cái nắng bỏng da cháy thịt ở nước Lào đã phần nào che khuất đi tầm nhìn của anh. Bóng cô gái lút vào trong màn nắng. Bên tai anh Sên chỉ còn nghe tiếng muỗi vo ve, tiếng máy bay của địch bay ầm ầm trên đầu, luôn tiếng thở nặng nhọc phát ra từ chính con người anh nữa. Anh đóng nắp viết, gấp cuốn nhật ký lại, ngó xuống cái chân đau. Chục trang giấy hôm rồi anh dùng để băng vết thương giờ đây đã được thay thế bằng băng gạc trắng hẳn hoi, nhờ vào sự tiếp tế từ đồng đội ở bên kia trung điểm.

Bỗng, Đại - người em thân nhất của anh Sên trong nhóm công binh từ ngoài bước vào. Thấy anh đương ngồi thừ người trên ghế, Đại phì cười tiến tới, vỗ bộp vào vai anh và hỏi:

- Nhìn gì nhìn hoài vậy anh?

- Nhìn em Nhung.

Anh Sên không nhìn Đại mà đáp. Mồ hôi trên trán chảy vào mắt, anh xuýt xoa, vội kéo vạt áo lên chùi rồi tiếp tục nhìn ra ngoài hố bom.

- Anh thương o Nhung như vậy, sao không tỏ tình cho rồi. Chần chừ mãi, tới chết cũng không có vợ được đâu.

Đại giũ cái võng cho rơi bớt bụi, rồi nằm xuống, ngậm điếu, châm lửa, hút.

- Em nghe nói, o Nhung chưa có chồng.

Anh Sên thở dài, tập tễnh bước tới cửa hang. Đứng vịn tay vào thành hang, anh gượng cười, lắc đầu đáp:

- Thôi, nói làm chi cho mắc công. Em Nhung không có chồng, nhưng lỡ em ấy có người thương rồi thì sao?

- Em thấy o Nhung lạnh lùng lắm. Chắc... không có đâu.

- Thì lạnh lùng nên anh mới nghĩ Nhung có người thương đó. Chớ ai đời đã có người trong lòng, mà còn cười đùa, trêu tình với trai lạ đâu.

Cơn cười của Đại càng lớn hơn. Anh Sên liếc nhìn cậu em, gắt gỏng hỏi:

- Mày cười gì? Điên à?

- Không! Tại em thấy anh đa nghi quá. Đúng là mấy người đa nghi thường ế dài hạn.

- Ế cái đầu cha mày!

Đại rời võng, tới chỗ anh mình. Cậu lén nhìn anh, bằng một ánh nhìn đầy thương cảm.

- Thì anh cứ nói đi. Người ta có người yêu rồi thì thôi, chớ có làm sao đâu mà sợ.

Rồi, Đại không còn nghe anh Sên đáp lời mình nữa. Cậu chỉ thấy anh đứng lặng, hai mắt đo đỏ, sưng húp. Nét mặt anh hiện rõ vẻ chán chường, đúng kiểu của một người bị thất tình khi hay tin cô gái mình thương đã nên duyên nên phận với người khác.

Thình lình, một tiếng nổ rung chuyển cả mặt đất vang lên, ngay chỗ hố bom đằng kia. Cơn địa chấn lớn tới mức khiến mọi thứ trên bàn đều đổ nghiêng ngả. Lớp bụi và mạng nhện bám trên nóc hang rơi xuống, phủ đầy trên vai anh Sên và Đại những mảng bụi trắng xoá, lẩn vào trong đó là phân của các loại côn trùng. Anh Sên theo quáng tính mà bám vào người Đại cho khỏi ngã. Sau khi lấy lại thăng bằng rồi, anh thở dốc, đoán chừng, một quả bom nữa lại nổ.

- Em Nhung!

Anh Sên hoảng sợ thốt lên. Anh chắc chắn rằng trái bom mà Nhung phá đã nổ rồi. Toan đẩy Đại ra để chạy tới chỗ cô, thì Đại đã nhanh tay kéo giật ngược anh lại. Cậu chỉ lên trời, nói:

- Đừng đi, anh! Tụi nó ném bom tiếp rồi, trốn thôi!

Cả hai người cùng nằm sấp xuống đất, lấy mũ cối che đầu và ôm chầm lấy nhau. Bên ngoài, năm, sáu tiếng nổ từ bom mìn dội tới rát tai, máy bay đã vòng qua đầu hai người cả chục vòng, vòng nào vòng nấy đều mang theo âm thanh ù ù, rầm rầm rợn cả gai ốc.

Anh Sên lẩm bẩm đếm. Một, hai, ba, rồi sáu, bảy. Tụi nó thả tổng cộng bảy quả, nhưng chỉ có sáu tiếng nổ, vị chi là còn một quả chưa nổ, và chắc chắn nó đang nằm đâu đó ở khu đất cằn cỗi ngoài kia. Toàn thân anh run lên mất kiểm soát, lồng ngực anh thắt chặt, ruột gan cuộn trào, nhói lên như muốn nôn hết miếng lương khô mình vừa ăn lúc sáng ra ngoài.

Đợi tầm năm phút sau, tiếng máy bay dần dần lắng xuống, chỉ còn tiếng gió rít và mùi hăng nồng của thuốc nổ phảng phất xung quanh. Tụi nó đã đi rồi. Hai người lồm cồm bò dậy, một nửa gương mặt giờ đây nhem nhuốc cát và đất. Đại nghiến răng, làu bàu chửi:

- Mẹ kiếp! Vừa phá được hai quả thì tụi nó tọng cho thêm chục quả nữa. Tọng tọng cái cù lôi mày à?

Anh Sên không kịp thở, một hai đòi ra chỗ bom vừa nổ. Đại biết anh lo cho Nhung, hết cách, cậu chỉ còn biết cõng anh trên vai, đâm đầu về hướng gò đất trước mặt mà chạy như con thiêu thân.

Sau đợt ném bom vừa rồi, trên mặt đất xuất hiện thêm nhiều cái hố rộng chừng hai mét, đất cát bị xới tung lên, bom cày nát cây cối, và cắm những mảnh mìn to tổ bố xuống dưới lớp cát sâu. Trong không khí, làn khói trắng xám từ vụ ném bom vẫn còn bay là là, như làn sương mù vào buổi sáng sớm. Nằm trên lưng Đại, anh Sên khẽ đưa tay gạt đi làn khói ấy. Anh ước, giá như đó là sương thì hay biết mấy. Rồi, anh ho khù khụ. Mỗi lần ho là mỗi lần thân người anh giật nảy lên, đụng tới vết thương ở cổ chân đương rỉ máu. Anh cắn chặt môi, bàn tay to bè, khô sạm bám chặt hai vai Đại, cố gắng làm sao cho mình không bật ra tiếng than nào.

Bước chân Đại mỗi lúc một chậm, vì phải cõng thêm người đồng đội sau lưng. Lòng bàn chân cách lớp cát bằng đôi dép cao su, ấy thế mà Đại vẫn cảm nhận rõ sự nóng bỏng từ cát đương tấn công vào da thịt mình.

Hai anh em ai nấy đều thấp thỏm lo sợ, vì lần chạy ra cao điểm này như đánh cược mạng sống của họ. Những tưởng chỉ có mỗi Đại và Sên là hai thằng điên chạy tới gò đất khi bom nổ chưa được mười phút, nhưng ai ngờ khi chạy được vài mét, thì những tiếng kêu réo hoảng sợ từ chục người đồng đội khác cũng đuổi theo phía sau. Anh Sên lắng tai nghe, có một nữ công binh gào lên:

- Nhung! Nhung! Trời ơi con bé còn ở ngoài đó!

Mặt anh tái mét, vội giục Đại chạy nhanh hơn. Cậu thở hổn hển, hai chân như muốn đứt lìa khỏi cơ thể, song khi nghe tin đồng đội mình có thể đã hy sinh, Đại lại nghiến răng nghiến lợi, quật cường chạy tiếp.

- Nhung ở đâu rồi? Lấy xẻng đi, chỗ này bị đất lấp. Có thể con bé bị chôn dưới đó!

Mọi người luống cuống chạy đi lấy xẻng, cuốc, có người còn dùng cả tay không thay phiên nhau xúc từng miếng đất. Động tác ai nấy đều làm nhanh hết mức có thể, nhưng chẳng ai dám xúc mạnh, cào mạnh cả, vì họ sợ sự sắc bén của lưỡi cuốc sẽ làm thương tới người đồng đội của mình. Đào một lúc lâu, hai cẳng chân của Nhung cuối cùng cũng lộ ra. Chiếc dép cao su của cô rách bung cả đế, đứt cả quai, máu chảy đầm đìa, thấm vào từng hạt cát. A trưởng vội ra lệnh mọi người vứt xẻng cuốc đi và đào tay không. Chẳng mấy chốc, thân thể Nhung đã hiện ra. Trên người cô chỉ có đúng mỗi vết thương từ ngón chân cái bị bật móng, còn lại, không thấy xây xác chỗ nào, bất quá cũng chỉ là vài ba vết trầy do đá nhọn xước qua, hoàn toàn không nghiêm trọng.

A trưởng Châu kéo cô lên. Lúc này Nhung vẫn còn thở, tiếng thở nhẹ nhàng, không gấp rút, vội vã, và không giống như người vừa mới từ cõi chết trở về chút nào. Những nữ công binh đổ nước lên mặt Nhung, giúp cô rửa đi lớp đất cát đã che kín mắt và miệng. Chừng hơn một phút sau, hai mắt Nhung đột nhiên mở trừng, cô ho sặc sụa, ngửa cổ thở dốc. Mọi người xúm lại vòng quanh, nhưng chị Châu lại quát, yêu cầu không ai được tới gần, vì như vậy sẽ khiến Nhung khó hô hấp hơn. Chị nhẹ nhàng nâng đầu Nhung, cho cô nằm lên đùi mình, chị mắng:

- Em gan quá vậy? Đã phá chín quả thì vô trong đi, mắc gì phải ráng tới quả thứ mười? Tụi nó hay lượn lờ ném bom giờ này, lỡ trúng em tan xác thì sao?

Nhung chống tay đứng dậy. Cái móng chân bị bật chẳng xi nhê gì với cô cả. Cô phủi lớp đất cát bám trên áo mình. Trước sự chứng kiến của toàn đội, Nhung lấy sợi dây chuyền thánh giá ra và chắp tay, run rẩy thì thầm:

- Tạ ơn Chúa đã che chở cho con.

Tiếp đó cô nhìn chị Châu, cúi đầu đáp:

- Em xin lỗi.

Thấy cô gái nhỏ nhắn nói lời xin lỗi bằng giọng nghẹn ngào, mọi người trong đội không ai còn lòng dạ nào để trách mắng cô nữa. Chị Châu xua tay, dặn:

- Lần sau không được tuỳ tiện phá bom khi chưa có lệnh nữa, nghe không? Thoát chết lần này, nhưng không có nghĩa là lần sau em còn toàn thây đâu. Ta ở trung điểm này ác liệt lắm, mỗi một hành động là có thể kéo theo một sinh mạng xuống mồ đó.

Chị nhìn xuống phần móng đương chảy máu của Nhung, chau mày nói:

- Để chị kêu anh Tiến băng ngón chân cho em. Cảm ơn trời, may là chỉ bật có một cái móng.

Nhận thấy mọi chuyện đã lắng xuống, đám đông bắt đầu giải tán, Nhung cũng đã được đồng đội dìu về lều để tiến hành băng bó vết thương. Anh Sên nãy giờ ngồi lặng một góc, bên cạnh còn có Đại đương trông chừng. Khi thấy người mình thương toàn mạng trở ra, anh Sên như trút được tảng đá lớn trong lòng.

Đó không phải là trận bom cuối cùng trong ngày. Từ mười hai giờ trưa tới tận một giờ sáng hôm sau, đèo Phu La Nhích còn phải hứng chịu thêm trên dưới mười trận bom khủng khiếp giống như vậy nữa. Ước tính số lượng tấn bom quân Mỹ thả xuống đã lên tới cả trăm ngàn rồi. Hôm nay đã là ít hơn bình thường, và may rằng không có bất kì chiến sĩ nào phải hy sinh vì nhiệm vụ cả. Đó là một dấu hiệu tốt.

Trong lều trại số 1 của đội nữ công binh, các chị em đương quây quần bên nhau, húp xì xụp từng ngụm cháo loãng. Bát cháo trộn lẫn đất cát và mồ hôi, lỏng bỏng nước, đếm chẳng được mấy hạt gạo, ấy thế mà họ vẫn ăn một cách ngon lành. Riêng Nhung ngồi trên võng, thẫn thờ cầm chén cháo còn y nguyên. Hình như cô không ăn miếng nào. A trưởng Châu thấy cô như thế, vội tiến lại hỏi thăm:

- Em sao vậy? Chân còn đau phải không?

Nhung lắc đầu. Cô đổ hết cháo sang bát chị Châu, nói:

- Chị ăn đi, em không đói mô.

- Em là người bệnh, phải ăn mới có sức chớ. Nào, ngoan nghe lời chị đi.

- Ba cái quỷ yêu ni, răng làm khó được em. Em nói thiệt, em không đói.

Chị Châu thở dài rồi ngồi lên võng cùng cô.

- Em xin lỗi chuyện hồi sáng.

Châu mỉm cười, đưa tay xoa đầu Nhung Tự dưng, hai mắt Nhung nhoè đi, cay như bị xông khói, chóp mũi cô nóng lên, đỏ hỏn. Cô hít thở sâu, dùng hai tay bịt mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra. Chị Châu nhìn, lại càng thương cô hơn.

- Em liều mạng phá bom chỗ đó, để tìm cái này phải không?

Nhìn cái kẹp ba lá hoen gỉ nằm trong tay chị Châu, Nhung không giấu nổi vẻ bàng hoàng.

- Chị... răng chị...

- Chị tìm thấy nó ở hố bom. Nó nằm sâu phía dưới ấy, chắc em không thấy đâu.

Nhung nhận lại cây kẹp, chậm rãi hôn lên nó, như hôn bằng tất cả niềm yêu thương da diết.

- Nó quan trọng với em tới vậy sao?

Cơn nghẹn đã dâng tới cổ, chắn ngang mọi lời nói của Nhung. Cô chỉ gật đầu, rồi cất kĩ cây kẹp vào túi áo.

- Chắc hẳn, đó là món quà của người em thương dành tặng cho em. Đúng không?

...

- Tôi nhớ lúc hắn bị gãy chân, hắn...

Chị Trang còn chưa bắt đầu câu chuyện, là tiếng ho khù khụ của Nhung đã cất lên làm cắt ngang lời nói của chị rồi.

Nàng Chi và chị Trang đồng thời nhìn về phía cửa lán, dáng đi xiêu vẹo, chân này xọ qua chân kia như kẻ say rượu của Nhung làm hai người không hẹn mà cùng bật cười. Chẳng mấy chốc, Nhung đã tới gần, Chi đoán rằng hẳn em vẫn còn đương ngái ngủ. Nàng dìu em ngồi ở giữa mình và chị Trang. Nhung ngáp dài, thều thào hỏi:

- Răng hai chị không ngủ mà lại ra đây làm chi?

Chị Trang ký trán em, bặm môi đáp:

- Chỗ ni người lớn đương nói chuyện, mi đúng là đồ phá đám.

Nhung ngả nghiêng một hồi rồi tựa đầu lên vai Chi, bất ngờ, chị Trang lại kéo em về phía mình và để đầu em lên vai chị.

- Để yên cho Chi còn nghỉ ngơi.

Trong cơn mơ màng, Nhung gật gà gật gù rồi cũng ngoan ngoãn ngồi yên. Thế là, cuộc trò chuyện giữa hai người lớn lại bị đứa con nít này phá đám. Không cần hỏi cũng đủ thấy sự khó chịu đã hiện rõ trên gương mặt chị Trang, và sự lúng túng qua đôi tay cứ đan chặt vào nhau của nàng Chi. Chị Trang ôm eo Nhung chặt cứng, để giữ vững người em khỏi ngã hẳn vào người mình. Đúng lúc sự im lặng bao trùm cả ba người, tức thì, Nhung cất lời:

- Em giật mình dậy, không thấy chị Chi ở mô nên mới đi tìm.

Rồi Nhung dụi mắt, ngồi thẳng dậy. Cái mũi nhỏ của em cứ khụt khịt như đương đánh hơi ngửi mùi. Bất ngờ, em gắt:

- Chị Trang hút thuốc phải không? Răng chị lại hút thuốc?

Chị Trang bỏ ngay điếu thuốc mình hút dở xuống, phủi tay để khói tản ra nhanh hơn. Sắc mặt chị vẫn lạnh như tiền, cứ như là trên đời này không gì có thể thay đổi được cái sự lạnh lùng này của chị vậy. Chị tặc lưỡi, đáp một cách ngắn gọn:

- Ừ! Đắng miệng quá thì hút một chút thôi.

Nhung nhăn mặt, gần như sắp mếu.

- Em đã nói chị Trang là không được hút thuốc nữa. Hút thuốc có hại lắm. Chị không nhớ à? Khi bữa đại đội trưởng ho sặc sụa, ho tới mức rớt trái tim ra ngoài cũng vì hay hút thuốc đó.

- Rồi rồi, chị biết rồi. Rứa không hút là vừa ý mi phải không?

Nhung gật đầu.

Nàng Chi nói thêm:

- Em Nhung thương chị Trang rứa. Lại còn nhắc chị Trang không được hút thuốc.

- Chị Chi không biết mô, chị Trang nhiều tật xấu lắm. Không có em về đây, là chị Trang cứ giữ mấy cái tật xấu đó hoài hoài.

Nàng Chi che miệng cười. Chị Trang ngồi ở kia cũng đỏ mặt xấu hổ. Chị đánh khẽ lên đùi em, mắng:

- Mi đừng vạch áo cho người xem lưng.

Câu đầu thì gắt gỏng với em, nhưng chỉ trong tích tắc sau, chị lại kéo em lọt thỏm vào lòng mình. Để em nằm ngang, chị liên tục chọt vào hông, vào nách em. Tiếng cười của Nhung vang lên ha hả, nó còn kinh động hơn cả tiếng đá ném xuống suối mà vừa nãy chị Trang đã làm nữa. Em quẫy đạp hai chân, toàn thân rùng lên vì nhột. Chị Trang cũng cười, đôi tay cứ sơ hở là cù lét em hết lần này tới lần khác. Tới khi Nhung lả đi vì cười mệt, chị mới chịu dừng và giở giọng ghẹo:

- Cho mi chừa tật nhiều chuyện. Cái chi về chị, mi cũng nói được hết.

Nhung thở hổn hển, cổ áo em đã bị bung tới nút thứ hai. Nàng Chị nhoài người đỡ em dậy, giúp em cài nút ngay ngắn.

- Thôi, hai chị em giỡn chặp nữa là mọi người dậy mất.

- Làm như rứa mà hắn có chịu chừa mô.

Nhung trề môi, còn lì lợm lắm.

- Cái chi xấu thì phải phê bình, cái chi tốt thì mới được tuyên dương. Chị Trang vẫn hay nói như ri mà.

Chị Trang ngán ngẩm giơ tay đầu hàng:

- Coi như mi thắng. Chị không cãi nổi cái miệng của mi.

- Nhưng em nói rồi đó, em mà thấy chị Trang hút thuốc nữa, là từ đây về sau em không đàn cho chị Trang nghe nữa mô.

- Rồi rồi! Chị không hút thuốc nữa.

Lúc này, giọng nói của Nhung mới dịu xuống, không còn chua ngoa, đanh đá như lúc bắt tội chị Trang nữa. Nhung co gối, chậm rãi hít thở sâu một hơi, tiếp tục tựa đầu lên vai chị. Mái tóc xoã ngang lưng của em không buộc gọn, nên vài sợi tóc cứ bay là là, vô tình, lại sượt ngang qua mũi chị Trang. Chị ngửi thấy hương bồ kết trên tóc em, lén lút chạm tay vào lọn tóc ấy, chị vuốt thật nhẹ, rồi di ngón tay lên đỉnh đầu, gãi gãi, hệt như lúc chị dỗ em ngủ vào đêm hôm qua.

- Em muốn nằm, chị Trang.

Nghe giọng em yếu dần, chị Trang cũng ngọt ngào đáp:

- Gối đầu lên đùi chị.

Đoạn chị tự động nhích người ra xa, chừa một khoảng rộng trên bãi cỏ. Nhung dùng đùi chị Trang làm gối, còn tự nhiên gác chân lên người nàng Chi. May rằng, nàng không hề tỏ ra khó chịu trước hành động này của em, ngược lại còn hơi ngả người về phía sau, để em gác chân được thoải mái.

- Khi bữa em mới sáng tác được bài thơ ni hay lắm.

Nhung bứt một nhúm cỏ, kề lên mũi ngửi.

Vốn là một người yêu thích văn thơ, nên khi nghe Nhung nói em mới sáng tác được một bài thơ, Chi liền trố mắt ngạc nhiên. Hiếu kỳ quá, nàng lập tức hỏi:

- Rứa em sáng tác khi mô? Răng em đa tài rứa. Vừa biết đàn hát, lại còn biết làm thơ.

- Cách đây một ngày. Trước đêm về làng chị Chi ơ tề.

Chị Trang xoa đầu em, khẽ nói:

- Hắn đa tài lắm đó chớ. Cái chi về nghệ thuật thơ ca, hắn cũng biết.

Được chị Trang khen, Nhung phổng mũi đầy tự hào.

- Em học dốt rứa thôi, chớ đàn hát không ai bằng em mô. Đúng không chị Chi?

Nàng Chi trầm giọng đáp:

- Ừ! Em rất giỏi. Cả giỏi nói dối nữa.

Rồi nàng ngó chị Trang, mắng vốn với chị rằng:

- Em nớ dám khai gian tuổi với tôi. Chị Trang coi mà kỷ luật em nớ đi hí.

- Lại chuyện khai gian tuổi. Chi khỏi lo, chuyện hắn khai gian tuổi để đi bộ đội, cả cái chiến khu ni ai mà chẳng biết. Huyền thoại đó, huyền thoại đòi ra đường cho giặc bắn chết là hắn chớ ai vô đây.

- Răng mà tới mức "huyền thoại" dữ rứa? Chị Trang cứ hay nói quá.

Nhung phồng má, hai tay che kín mặt.

- Nếu có dịp gặp lại, tôi sẽ kể cho Chi nghe chuyện của hắn. Chừ phải vô ngủ thôi, khuya lắm rồi.

Vừa nghe tới chuyện phải vào lán ngủ, Nhung ngồi bật dậy như con tôm, kêu lên í ới:

- Vô ngủ sớm rứa? Em mới ra chơi mà, em còn chưa đọc cho chị Chi nghe bài thơ của em.

Em rũ mi, làm bộ trưng ra nét buồn bã đáng thương cho chị Trang nhìn. Nhưng chị Trang nào thèm nhìn, hay nói đúng hơn, là chị không nỡ nhìn Nhung khi em cứ trông tỏ ra mình là một con mèo như vậy. Chị sợ, chị không kiềm lòng nổi mà thiên vị em thì chết toi.

- Đi vô ngủ liền không! Ngày mai dậy sớm nấu cơm nữa. Làm hậu cần mà nấu cơm trễ, là chị phạt mi vác nồi cơm chạy qua ba con dốc ơ chừ.

- Không chịu mô! Ngày mai chị Chi về rồi, làm răng em đọc được thơ cho chị nớ nghe? Chị Trang ác quá, bài thơ đọc có mất chừng mô mô.

Thấy em mè nheo như con nít, mắt đã ngấn lệ, nàng Chị không cầm lòng được mà xoa đầu em. Nàng hướng về phía chị Trang, xin rằng:

- Chị Trang cứ để em Nhung đọc hết bài thơ cho tôi nghe. Ngày mai tôi sẽ dậy sớm, rồi kêu em Nhung dậy cùng cho kịp giờ nấu cơm. Nếu có chuyện chi bất trắc, tôi sẽ chịu trách nhiệm thay em nớ.

Chị Trang lại giở giọng nghiêm khắc:

- Không được, chuyện ai làm người nớ chịu. Nhung được phân công nhiệm vụ nấu cơm sáng cho mọi người, chừ hắn không hoàn thành nhiệm vụ thì bị phạt. Chi đừng đứng ra xin tội cho hắn, tôi không đồng ý mô.

Nhung nắm tay chị Trang, cố gắng nặn ra từng giọt nước mắt cá sấu.

- Chị Trang, răng chị cứ giở giọng tiểu đội trưởng hoài rứa. Chị nói giọng bình thường đi mà.

- Buông ra. Xin xin xỏ xỏ! Tôi đếm từ một tới ba, đồng chí không vô ngủ thì tôi phạt đồng chí đứng ngoài tê canh mọi người ngủ.

Chị vừa nói vừa chỉ ra ngoài hàng rào mọc um tùm lau sậy. Trời đã khuya lắm, tối mịt, không có lấy bất kỳ ánh đèn nào cả. Đất ẩm ướt, bốc hơi lạnh. Hàng cây vả và cây cổ thụ mọc bên bờ suối cứ đong đưa xào xạc, rọi cái bóng đen ngòm xuống bãi cỏ, cảm tưởng như từng cành cây khẳng khiu đó là bàn tay ma đương vươn ra, trực chờ nắm lấy kẻ nào thập thò đứng gần đó. Đã thế, gió còn thổi vù vù, đôi khi rít lên từng hồi thê lương như tiếng ai đó đương đứng từ xa gào thét. Sự âm u, lạnh lẽo của chốn thâm sơn cùng cốc đã thành công khiến Nhung rợn da gà, run xương sống. Tuy đã sống ở chiến khu được một khoảng thời gian, nhưng em vẫn chưa thể làm quen được với bầu không khí ảm đạm và quỷ dị này. Em đứng sát nàng Chi mà không ngừng xoa vai, xoa tay cho đỡ run. Biết lời đe doạ của mình có tác dụng, chị tiếp tục gằn giọng doạ:

- Vẫn còn đứng im ra đó à? Một, hai...

- Em vô ngủ. Em vô ngủ liền.

Nhung hậm hực, vung tay vung chân trở vào lán. Đương nhiên, em không phục với những điều chị Trang vừa ra lệnh. Đương lúc em còn bực mình vì không được đọc thơ cho nàng Chi nghe, thì chị Trang bất ngờ kêu em trở ra ngoài. Nhung ló đầu ra khỏi tấm phên, nói mà như quát:

- Làm răng?

Thấy em ăn nói hỗn hào với người lớn, nàng Chi vội nhắc:

- Nhung! Hỗn rứa em?

Nhung chùi nước mắt, cố gắng nhẹ giọng:

- Chị Trang kêu em có chuyện chi?

Chị Trang hất hàm về phía bờ suối, đáp:

- Ra ngoài tê, đọc thơ tụi chị nghe.

...

Áo Gấm dự kiến sẽ hoàn thành trong tháng 4 này. Nếu được thì tui sẽ xong trước hoặc trong ngày 30/4 cho ý nghĩa, còn nếu trễ thì sẽ sang 2/5 (ngày tỉnh Châu Đốc được giải phóng, và cũng là tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng) nhé! Nói chung là sẽ xong trong 2 ngày đó thui. Mọi người yên tâm nè! Cảm ơn mọi người đã ủng hộ Áo Gấm ạ! Mỗi lượt vote, mỗi lần cmt của mọi người là một động lực rất lớn để tui hoàn thành bộ truyện tâm huyết này đó. Yêu cả nhà mình nhiều lắm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com