Chương 11TIẾP TỤC HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC TRONG QUÂN NGŨ TỪ 1978 ĐẾN 2007
1
Khoảng giữa tháng 9 năm 1978, hết thời gian nghỉ phép, tôi chia tay vợ con và gia đình lên Trạm 66, (nhà khách của Bộ Quốc phòng 51 Phan Đình Phùng) thành phố Hà Nội nhận quyết định đi học. Đến Trạm 66, tôi tới ngay phòng trực ban, Cục Cán bộ đã bố trí người đón tiếp chu đáo.
- Đồng chí là sĩ quan cấp Thiếu tá mới 33 tuổi, rất trẻ nên Bộ quyết định đồng chí về trường Văn hóa Quân đội giải quyết xong chương trình cấp 3. Sau đó đồng chí sẽ về học tiếp tại Học viện Quân sự Cấp cao - Trợ lí Cục Cán bộ thông báo.
- Bao giờ tôi có mặt ở Trường Văn hóa Quân đội thưa đồng chí? - Tôi tươi cười hỏi.
- Ngay ngày mai. Hôm nay đồng chí làm công tác chuẩn bị - Đồng chí trợ lý cục cán bộ trả lời.
Vậy là sau bao năm từ ngày nhập ngũ, đến nay tôi mới lại bước tiếp vào chặng đường đèn sách, học hành. Đất nước đã thống nhất, niềm vui đã đến với mọi nhà. Tôi rất vui khi được thực hiện ước mơ của mình. Tôi sẽ cố gắng học thật tốt chương trình giáo dục phổ thông để có cơ sở tiếp thu kiến thức ở trường đại học, các học viện sau này. Đó là cơ sở vững chắc để tôi rèn luyện, phấn đấu trưởng thành ở những miền đất mới.
Hôm sau, xe ô tô của Cục Cán bộ chở tôi lên Lạng Sơn vào nhập học tại Trường Văn hóa Quân đội. Lúc đó tình hình biên giới Việt - Trung đã hé lộ những dấu hiệu của sự rạn nứt bất ổn. Các thế lực phía bên kia biên giới đã chuyển hóa từ hữu hảo sang tráo trở đối địch. Tuyến biên giới từ Móng Cái, Quảng Ninh đến Phong Thổ, Lai Châu nóng lên từng ngày.
Bộ quyết định chuyển gấp trường Văn hóa Quân đội từ Lạng Sơn về xã Vân Nội, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Sơn Bình. Thời gian ấy, chúng tôi ăn nghỉ, học tập đều nhờ nhà dân. Sau một thời gian tìm địa điểm mới, trường Văn hóa Quân đội được chuyển về phố Gạch huyện Phúc Thọ.
Tháng 02 năm 1979 cuộc chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nổ ra đẫm máu, khốc liệt chưa từng có ở vùng biên cương này. Toàn thể học viên, cán bộ Trường Văn hóa Quân đội đều sẵn sàng tình nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc. Bộ Quốc phòng chưa có lệnh động viên cho nên chúng tôi vẫn tiếp tục ở lại trường chuyên tâm nhiệm vụ học tập.
Tại Trường Văn hóa Quân đội, tôi rất vui khi nhận được tin ngày 28-10-1978 liên quân Việt - Lào gồm: Trung đoàn 335 thuộc Sư đoàn 324 cùng lực lượng Mặt trận 11A do đồng chí Tư lệnh Sư đoàn Lê Sơn và đồng chí Bun Chăn đồng chỉ huy mở chiến dịch giải phóng Phu Bia, sào huyệt cuối cùng của lực lượng phỉ Vàng Pao. Chiến dịch quan trọng này đã thắng lợi.
Tôi càng vui hơn khi biết Bộ Tư lệnh Sư đoàn còn chỉ đạo các đơn vị thi đua tăng gia sản xuất, tự cung tự cấp tại chỗ, cải thiện bữa ăn cho chiến sĩ. Do đó đã giảm được rất nhiều chuyến xe vận chuyển từ nước ta sang tiếp tế cho sư đoàn. Nơi ở của bộ đội ngày càng khang trang đẹp đẽ. Sức chiến đấu của các đơn vị ngày càng được nâng lên và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao.
Học văn hoá cấp 3 rồi để vào đại học là ước mơ của tôi trước ngày nhập ngũ. Khi ấy tôi chưa tròn 18 tuổi. Bây giờ, sau 15 năm lăn lộn từ chiến trường gần đến chiến trường xa, từ chiến trường đất nước ta sang chiến trường đất nước bạn, Quân đội đã cho tôi thực hiện niềm ước mong ấy. Việc được tiếp tục học văn hóa đối với tôi là một cơ hội quí giá của đời người. Về trường văn hóa tôi học đều, học tốt ở tất cả các môn. Riêng môn học tiếng Nga và môn Văn tôi phải cố gắng học để đạt được điểm khá. Tôi có năng khiếu hơn ở các môn khoa học tự nhiên, nhất là Toán học và Vật lí. Thầy Hân, giáo viên môn Toán, tận tâm với tôi nhiều hơn. Cuối tuần, thầy thường cho tôi thêm một số đề toán để luyện thêm.
Mừng vì kết quả học tập không phụ công thầy, công mình, lại vui hơn khi nhận tin từ những lá thư nhà. Vợ tôi đã sinh cho tôi cậu con trai thứ hai đẹp trai và bụ bẫm vào ngày 13 tháng 4 năm 1979. Thật là hạnh phúc! Có đôi chút thắc mắc sao vợ không sinh con gái nhỉ? Nhưng rồi tôi lại gạt ngay cái ý nghĩ chợt đến,chợt đi ấy. Con của lính mà, phải là con trai chứ! Vợ chồng tôi và gia đình đặt tên cậu con trai thứ hai là Lê Duy Trọng.
Học xong chương trình cấp 3, ước mơ trở thành sinh viên đại học lại trỗi dậy trong tôi. Một người lính ở tuổi 35 sau chiến tranh, khao khát ấy thật cháy bỏng và hợp lí với thời buổi đất nước trở lại hòa bình. Nguyện vọng ấy, rất tiếc phải gác lại bởi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cấp trên đã quy hoạch tôi trong diện phục vụ quân đội lâu dài. Sau khi tốt nghiệp trường Văn Hóa Quân đội, tưởng rằng tôi được về học tập ở Học viện Quân sự Cấp cao, nhưng lại phải tuân theo một tiêu chuẩn quy định mới của Bộ Quốc phòng. Cho nên, tôi nhận quyết định đi học lớp đào tạo cán bộ chỉ huy cấp Trung đoàn - Sư đoàn tại Học viện Đà Lạt.
Thời gian đầu, tôi phải nỗ lực rất nhiều để theo kịp sức bật của nhiều sĩ quan trẻ tuổi. Và sau một năm vất vả, với sự cố gắng không ngừng của mình, kết quả học tập của tôi từng bước tốt dần lên, hầu hết các môn đều đạt loại khá.
Tôi đi học ở quá xa, nên không có điều kiện giúp gia đình. Nhưng rất mừng là, tôi có người vợ chịu thương, chịu khó, luôn tìm mọi cách khắc phục khó khăn để lo cho gia đình và luôn động viên chồng yên tâm học tập.
Lá thư viết ngày 26-3-1981 có đoạn vợ tôi viết:
... "Em đã nhận được thư anh viết ngày 28. 2. Qua thư em thấy anh lo nhiều cho mẹ con em và anh động viên em nhiều.
Anh ạ! Anh đừng quá lo cho mẹ con em. Cuộc sống non trẻ của mẹ con em gặp nhiều khó khăn thật nhưng không đến mức như anh tưởng tượng đâu. Anh đừng lo, em và con đã được rèn luyện nhiều nên khi sống như thế này mẹ con em cũng không lấy làm bỡ ngỡ anh ạ. Chắc chắn gia đình ta còn gặp khó khăn nhiều hơn nữa trong những năm tới. Mẹ con em tập dượt dần càng cứng cỏi, dạn dày phải không anh?...
... Mẹ con em chúc anh ngủ ngon và học tập tốt. Các con đã ngủ say và em cũng đi ngủ anh nhé!"...
Cuối năm 1981, tôi được phong quân hàm Trung tá. Đó là một vinh dự, một niềm vui đến với tôi.
Giữa năm 1982, tôi lại đón nhận một tin vui mới, vợ tôi sinh con trai thứ ba, mẹ tròn con vuông. Trong thư vợ tôi viết ngày 20-5-82 có đoạn:
... "Em báo tin để anh mừng, chúng ta đã có cậu con trai thứ ba: Lê Thanh Tùng lúc 0giờ 30 ngag 11-5-1982, cân nặng 3,7kg, con khỏe và ngoan. Sau khi sinh con sức khỏe của em bình thường và đến nay em đã tự giặt giũ và cơm nước cho các con được.
Anh ạ, thế còn việc làm nhà của ta trong thời gian tới là hết sức khó khăn thế nhưng ta vẫn phải chuẩn bị để làm có phải không anh?...
... Em viết thư này trong lúc em chưa thật khỏe mạnh. Mong anh khỏe đó là điều em mong nhiều nhất"...
Đọc thư, tôi rất mừng nhưng nghĩ mà thương vợ... Do tôi đi học xa cho nên khi vợ sinh con, tôi đã không có điều kiện ở bên cạnh chăm sóc, chia sẻ, động viên. Vì vậy vợ tôi sau khi sinh chưa đầy mười ngày đã phải tự giặt giũ, lo cơm nước cho các con...Lại còn phải lo chuẩn bị làm nhà nữa... Vợ, con bộ đội thời ấy thật là vất và... Tôi còn rất lo, rồi đây, một mình vợ tôi phải nuôi 3 con nhỏ, cuộc sống sẽ rất chật vật, thiếu thốn, không rõ vợ tôi sẽ xoay xở ra sao nữa?...
Mùa Hè năm 1982 tôi về nghỉ phép, vợ chồng tôi được sự giúp đỡ của bố mẹ hai bên nội ngoại, anh em, bạn bè đã dựng được một căn nhà bốn gian lợp ngói. Sau đó, chúng tôi xin bố mẹ cho phép được đưa các con ra ở riêng. Tôi rất trân trọng và biết ơn công lao to lớn của bố mẹ hai bên và hai bác Bao, chú thím Rựng đã cưu mang, đùm bọc gia đình, vợ con tôi lúc khó khăn. Đặc biệt khi vợ chồng tôi làm nhà, cả đại gia đình, mọi người đã không tiếc công, tiếc sức giúp đỡ. Bác Bao trai còn dành cả tháng trời ra nhà tôi, trông coi để vợ con tôi yên tâm trong thời gian đầu ra ở nhà mới.
Sau dịp về nghỉ phép thăm gia đình, cuối mùa hè năm 1982 tôi đi thực tập tại Sư đoàn 347 Quân khu 1 ở vùng Thất Khê tỉnh Lạng Sơn với cương vị Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn. Tuy là sĩ quan thực tập nhưng tôi được Sư đoàn trưởng Nguyễn Khắc Viện giao cho nhiều nhiệm vụ quan trọng. Tôi đã cùng Phòng Tham mưu trực tiếp xây dựng, điều chỉnh Kế hoạch Tác chiến Phòng ngự của sư đoàn trên địa bàn huyện Thất Khê, tỉnh Lạng Sơn; xây dựng Kế hoạch Diễn tập sư đoàn Phản công có pháo binh, xe tăng chi viện. Tôi còn được phân công trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo Trung đoàn 751 đánh chiếm lại điểm cao 636 sát gần điểm cao 820 trên địa bàn biên giới thuộc khu vực Pò Chả, huyện Thất Khê, tỉnh Lạng Sơn.
Sư đoàn trưởng Nguyễn Khắc Viện và đoàn Cố vấn Quân sự Nga đánh giá cao công tác tham mưu tác chiến và chỉ huy huấn luyện của tôi. Lần thực tập ấy, tôi học hỏi được rất nhiều về công tác quản lý bộ đội, công tác tham mưu xây dựng kế hoạch tác chiến, huấn luyện và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chiến đấu.
Hoàn thành tốt nhiệm vụ thực tập ở Sư đoàn 347 - Quân khu 1, tôi trở về học viện Đà Lạt tập trung ôn thi và đã tốt nghiệp khóa đào tạo cán bộ chỉ huy cấp Trung đoàn - Sư đoàn vào tháng 6 năm 1983. Do kết quả học tập khá tốt, tôi được lãnh đạo Học viện chọn, giữ lại học đào tạo lớp giáo viên Chiến dịch - Chiến thuật thời hạn một năm.
Dịp tôi nghỉ phép hè năm 1983, vợ chồng tôi mừng vui bên ba đứa con thơ quấn quýt trong căn nhà của mình. Từ khi gia đình tôi được bố mẹ cho ra ở riêng, nơi ăn ở rộng rãi, thoáng mát hơn nhưng vợ tôi rất vất vả. Nghĩ tới công việc của gia đình quá nhiều và những khó khăn do điều kiện thu nhập quá hạn hẹp, tôi lo lắng mình sẽ phải động viên chia sẻ với vợ con ra sao đây?... Nhưng chính vợ tôi lại động viên khích lệ tôi cố gắng yên tâm học tập "Việc nhà cửa, con cái đã có các cụ hai bên nội, ngoại giúp đỡ. Em sẽ cố gắng lo liệu, anh không phải suy nghĩ nhiều mà ảnh hưởng đến sức khỏe, đến kết quả học tập". Tôi thầm cảm phục và biết ơn người vợ đảm đang, mẫu mực trong cuộc sống gia đình, làm dâu, làm vợ, làm mẹ... Tôi cũng không bao giờ quên được tình cảm của gia đình chị Hường, gia đình em Hệ - Thanh đã dành cho vợ con tôi trong nhiều lần vợ tôi bồng con Lê Thanh Tùng lên thành phố Nam Định học tập để nâng cao trình độ chuyên môn... Rất may, những năm tháng tôi đi công tác xa; "Khu liên gia đặc biệt" bốn nhà của đại gia đình chúng tôi, có chị Hạc và các em áp út và út: Lương, Mỵ, Quang, Trinh, Doanh, Thanh còn đang học phổ thông ở quê cũng tận tình giúp đỡ, chăm sóc các con tôi... Chính những công sức, tình cảm đáng quí ấy, đã góp phần quan trọng giúp vợ chồng tôi vượt qua những lúc khó khăn nhất khi tôi đi công tác xa nhà...
Do điều kiện bố đi công tác vắng nhà liên tục, nên các con tôi biết giúp mẹ rất sớm.
Thư ngày 20. 10. 1983 vợ tôi viết:
..."Anh thương yêu của em!
Em mới viết thư thăm anh, nhưng vài tuần nay ở nhà không nhận được thư anh, em mong nhiều. Hôm nay kỷ niệm ngày tròn mười năm chúng ta về với nhau, em dành ít phút viết thư thăm anh. Em mong tình cảm của chúng ta đẹp mãi như mùa thu ấy.
Anh, chắc anh đã nhận được thư em báo tin cơn bão số 6. Đến nay tất cả mọi việc lại trở lại bình thường rồi anh ạ, mấy hôm nay nắng đẹp, lặng gió nên lúa quê ta hứa hẹn một vụ mùa bội thu nên bà con phấn khởi.
Còn nhà mình do việc vay vôi và mượn thợ khó khăn nên em quyết định để lại chưa sửa mà mới dàn tạm. Đến nay nhà mình không dột nữa, em chỉ lo gió to thôi. Vì vậy nên em tính đến hết tháng Chạp âm lịch ta phải mua lấy một ít vôi để sửa và làm trần hiên anh ạ.
Thế còn anh yên tâm về các con mình, con Trung chịu khó và học giỏi. Nếp sinh hoạt của mẹ con trở lại như cũ và khẩn trương: 4 giờ 30 sáng cả 4 mẹ con đều dậy, hai anh em trông em cho mẹ nấu cơm và thu dọn,... 5 giờ 45 các con ăn cơm và 7 giờ mẹ đi làm, con Tùng vào cô Mỵ, hai anh em rửa bát, quét nhà... và anh Trung học bài. Trưa mẹ về đón em, hai anh chơi với em để mẹ nấu ăn, giặt giũ, thu dọn... sau đó ăn trưa, con Trung đi học.
Tối đến con Trung học đều đặn từ 7h đến 8h 30. Con Tùng đang tập nói, con biết nói được nhiều từ rồi, ai hỏi bố đi đâu con nói: bố - Lạt - kẹo - ăn... (con nói từng từ) con đã khỏe hơn một chút nên vui cười nhiều.
Em đã khỏe lại bình thường, anh yên tâm. Năm nay nhà trường vẫn quyết định chỉ định em làm tổ trưởng tổ tự nhiên nên việc trường cũng tốn thêm ít thì giờ. Ỏ nhà lại thêm từ 20 - 30 phút tối hướng dẫn con Trung học nên mẹ con cũng bận. Thế nhưng, dịp này em định nuôi lợn vì xét thấy không làm thế không được; nhưng khó khăn nhất hiện nay là chuồng. Em định nhờ người đắp tạm ngay sau bếp, sát bếp và dàn ngói lên nuôi tạm...
... Thế anh nhé! Em mong anh khỏe. Anh cho em chúc sức khỏe các anh cùng đơn vị anh."...
Đọc thư tôi rất thương con, thương vợ, nhưng không biết làm thế nào được.
Như mọi người đều biết, sau chiến thắng năm 1975 của nhân dân ta, Chính quyền Mỹ và các nước phương Tây đã tiến hành một cuộc bao vây cấm vận Việt Nam với quy mô lớn. Các tổ chức phản động trong và ngoài nước chống phá ta quyết liệt. Và sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, các nước Xã hội Chủ nghĩa và các nước bạn trên thế giới đã từng bước cắt giảm viện trợ đối với Việt Nam. Hai cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia và Việt Nam - Trung Quốc diễn ra liên tiếp vào đầu năm 1979 và còn kéo dài nhiều năm sau đó đã làm cho đất nước và nhân dân ta gặp vô vàn khó khăn.
Trong suốt thời gian bốn năm từ 1980 đến 1984, tôi học tại Học viện Đà Lạt, cũng là những năm tháng đầy gian nan vất vả của thầy và trò chúng tôi. Thời gian ấy, đồng tiền Việt Nam mất giá nghiêm trọng. Lương sĩ quan Quân đội và công nhân viên chức quá thấp, chất lượng bữa ăn của bộ đội không đảm bảo, sức khỏe của học viên giảm nhiều. Khoản tiền lương cả năm giành dụm được của học viên quê ở miền Bắc cũng chỉ đủ chi tiêu tằn tiện trong kỳ nghỉ phép dịp hè. Những sĩ quan đã cùng tôi học ở Học viên Đà Lạt thời ấy, nghĩ lại chắc ai cũng thấy sợ. Chắc rằng đến hôm nay mọi người vẫn còn nhớ lại những toa tàu được học viên mua gạo ở ga Nha Trang chất đầy đến mức không còn chỗ ngồi phải nằm trên những bao gạo. Tàu dừng ở ga Thanh Hóa, anh em lại vội vã bán gạo mong lấy chút lãi...
Mỗi năm học, tôi chỉ được về thăm gia đình một lần vào dịp nghỉ hè. Những lần nghỉ phép ấy, không giúp được vợ con về kinh tế, nhưng tôi được chăm sóc, chơi đùa với các con, được giúp đỡ vợ con, bố mẹ hai bên những việc nho nhỏ trong nhà. Rất mừng là trong những năm chồng đi học xa ở Đà Lạt, tuy rất vất vả nhưng vợ tôi đã sắp xếp được thời gian vừa chăm sóc các con, gia đình, vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy ở trường. Thời gian ấy, nhiều năm liền vợ tôi vẫn đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua, và có năm đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi Giải nhất cấp huyện môn toán. Với sự cố gắng không mệt mỏi ấy, năm 1984 vợ tôi đã trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Ở nơi xa xôi, tôi thầm cảm phục và tự hào về người vợ của mình.
Tháng 6 năm 1984 tôi đã tốt nghiệp lớp giáo viên Chiến dịch - Chiến thuật đạt loại khá. Lãnh đạo Học viện Đà Lạt có ý định giữ tôi ở lại làm cán bộ giảng dạy. Nhưng do khí hậu ở vùng cao nguyên Lâm Đồng không hợp với cơ địa của tôi. Vì vậy, sau khi hoàn thành chương trình hai khóa đào tạo, thể lực của tôi suy giảm nghiêm trọng, nhất là trọng lượng cơ thể của tôi lúc nhập học năm 1980 là 68 ki-lô-gam, đến năm 1984 khi ra trường chỉ còn 52 ki-lô-gam . Vì vậy, tôi đã đề nghị với Bộ Quốc phòng cho tôi được ra đơn vị ở phía Bắc công tác. Đề nghị của tôi đã được cấp trên chấp nhận.
2
Tháng 8 năm 1984, tôi được Bộ quốc phòng điều động và bổ nhiệm giữ chức Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn 431 thuộc Quân khu 1. Trước đây, đơn vị 431 nguyên là Trường Thiếu sinh quân. Trong những năm chống Mỹ, theo yêu cầu của chiến trường, Trường Thiếu sinh quân 431 trở thành đơn vị huấn luyện quân bổ sung cho các đơn vị ở các chiến trường miền Nam và Lào. Đến năm 1978, đơn vị huấn luyện quân bổ sung này đã được biên chế thành Sư đoàn 431 thuộc Quân khu 1 làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Bắc.
Sau khi tiến hành các thủ tục theo quy định ở Quân khu 1, tôi xin phép Tư lệnh Đàm Quang Trung trở về đơn vị ngay. Tư lệnh Đàm Quang Trung quê ở tỉnh Cao Bằng, là cán bộ Lão thành Cách Mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông là bộ đội Nam tiến. Thời kỳ chống Mỹ, ông chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên, và giữ trọng trách Tư lệnh Quân Khu 4. Những năm hòa bình, ông về làm Tư lệnh Quân Khu 1. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong Quân đội, Thượng tướng Đàm Quang Trung được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chiếc xe Gát 69 của Quân khu 1 đưa tôi về đến Sở Chỉ huy Sư đoàn 431 ở xã Phong Vân, huyện Lục Ngạn tỉnh Hà Bắc vào một buổi chiều. Hôm ấy, các thủ trưởng và cơ quan sư đoàn đón tôi rất chu đáo. Điều kiện ăn ở của Sư đoàn 431 lúc bấy giờ rất khó khăn, nhưng Phòng Tham mưu vẫn bố trí cho tôi ở một gian nhà lợp mái tranh rộng rãi, đủ tiện nghi để vừa sinh hoạt vừa làm việc.
Sau mấy ngày nắm tình hinh cơ quan và đi thăm các Trung đoàn 12, 155, 103, tôi bắt tay ngay vào công việc theo chức trách của mình. Thật may cho tôi, các thủ trưởng sư đoàn đều là người lớn tuổi cởi mở, chân tình. Sư đoàn trưởng Lê Khôi, Sư đoàn phó Hậu cần Hoàng Liên, Sư đoàn phó - Tham mưu trưởng Phạm Đạt, Chủ nhiệm Chính trị Trần Trọng Đức đều coi tôi như người em, người bạn, người đồng chí, đồng đội thân thuộc.
Kinh nghiệm chiến trường và kiến thức tiếp thu được ở nhà trường cùng với thực tiễn địa bàn biên giới phía Bắc đã giúp tôi thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ huấn luyện và chỉ huy tham mưu sẵn sàng chiến đấu. Tôi còn nhớ Sư đoàn phó, Tham mưu trưởng Phạm Đạt có lần nói: "Từ khi anh Mai về đơn vị, công tác tham mưu và kết quả huấn luyện của sư đoàn được nâng lên nhiều". Tôi cảm ơn anh vì đã có lời động viên chân thành.
Đầu năm 1985, kẻ địch từ bên kia biên giới có âm mưu dùng một lực lượng lấn chiếm một số địa bàn quan trọng. Thời gian ấy, Sư đoàn trưởng Lê Khôi, Sư đoàn phó - Tham mưu trưởng Phạm Đạt đi công tác. Tôi được giao nhiệm vụ trực chỉ huy. Chấp hành mệnh lệnh của trên, tôi cùng với đồng chí Trần Trọng Đức - Chủ nhiệm Chính trị, đồng chí Hoàng Liên - Sư đoàn phó Hậu cần đã trực tiếp chỉ huy, đưa toàn bộ sư đoàn vào chiếm lĩnh trận địa phòng ngự trên tuyến biên giới Bắc Xa, Kiên Mộc, tỉnh Quảng Ninh và huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn và đã ngăn chặn kịp thời âm mưu lấn chiếm của địch.
Một hôm đoàn cán bộ Sư đoàn 431 do tôi trực tiếp chỉ huy, đi nghiên cứu địa hình, trên đường cơ động qua dốc 6 độ Bắc thị trấn Đình Lập, Lạng Sơn đã bị một trận pháo kích dữ dội của địch đánh trúng vào đội hình. Do sơ tán, trú ẩn kịp thời nên cả đoàn cán bộ bình an vô sự. Trong thời gian Sư đoàn 431 thực hiện nhiệm vụ chặn địch trên tuyến biên giới ngày ấy, một chiến sĩ thuộc Trung đoàn 12 đã hy sinh do pháo binh địch từ bên kia biên giới bắn sang.
Sau một năm làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, mùa hè 1985 tôi được bổ nhiệm giữ chức vụ Sư đoàn phó Tham mưu trưởng Sư đoàn 431. Trên cương vị mới, tôi tận tâm, toàn ý hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức trách của mình. Đặc biệt, tôi cùng các đồng chí cán bộ Sư đoàn, chú trọng công tác quản lí bộ đội, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đi đôi với nâng cao đời sống cán bộ, chiến sĩ.
Thời gian ấy, Sư đoàn 431 đóng quân ở một vùng rừng núi thuộc 7 xã trên đèo thuộc huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc. Đời sống bộ đội còn khó khăn, tiêu chuẩn ăn rất thấp. Các đơn vị đều ở nhà tranh, bởi vì không có kinh phí xây dựng doanh trại nên bộ đội phải vào rừng khai thác gỗ, tranh, lá nứa về tự làm nhà để ở.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, làm sao để cải thiện được đời sống bộ đội, sau đó, bàn bạc với các đồng chí trong cơ quan tham mưu, rồi đề nghị Thủ trưởng sư đoàn cho phép Phòng Tham mưu và các đại đội trực thuộc tổ chức tự đốt vôi, làm gạch để xây nhà. Riêng ngói thì rất khó khăn vì bộ đội chưa đủ điều kiện tự làm. Để giải quyết khó khăn ấy, tôi mạnh dạn đề nghị sư đoàn cho phép Phòng Tham mưu tận dụng xe không tải lượt đi của những chuyến xe về miền xuôi lấy gạo, thực phẩm để chở nứa từ trên rừng về đồng bằng đổi lấy ngói lợp nhà cho bộ đội. Bởi vì, sau khi khai thác nứa, hoàn thành nghĩa vụ thuế, sẽ được vận chuyển hợp pháp. Với cách làm ấy trong năm 1986, cơ quan sư đoàn và hầu hết các đại đội trực thuộc Phòng Tham mưu đã có nhà ngói khang trang, sạch đẹp.
Số ngói còn lại chúng tôi còn chi viện cho các phòng Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật mỗi đơn vị 5000 viên và bán được một số cho dân nên những ngày lễ, ngày tết cán bộ chiến sĩ thuộc Phòng Tham mưu được cải thiện một bước rõ rệt. Trong năm 1986, Phòng Tham mưu còn trang bị được quạt điện tại nơi ở và phòng làm việc của cơ quan. Chúng tôi còn đóng cho cán bộ trung đội, đại đội trực thuộc, cán bộ cơ quan Phòng tham mưu và cán bộ Sư đoàn bàn ghế, giường, tủ. (Tùy theo cấp hàm và chức vụ mỗi người được nhận từ một đến ba loại). Anh em cán bộ đơn vị, cơ quan Tham mưu Sư đoàn 431 rất phấn khởi, đồng lòng xây dựng đơn vị ngày càng mạnh lên. Thế trận vùng biên giới ngày càng vững chắc, ổn định hơn.
3
Tháng 3 năm 1987, tôi được thăng quân hàm Đại tá. Tháng 4 năm 1987, tôi được về học đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu Chiến dịch - Chiến lược Khóa 9 của Học viện Quân sự cấp cao, thời gian học là hai năm sáu tháng. Có lẽ những năm tháng ấy là thời kì nền kinh tế Vịêt Nam gặp khó khăn lên tới đỉnh điểm do chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và những thách thức ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Một lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có dịp đến thăm Học viện Quân sự cấp cao, ông nói: "Trong tình hình đất nước khó khăn thiếu thốn như thế mà các đồng chí vẫn miệt mài học tập như vậy thì tôi yên tâm rồi. Nhất định đất nước ta sẽ vững vàng vượt qua mọi thử thách".
Thời điểm ấy, mức lương của tôi, sau khi nộp tiền ăn và nhu yếu phẩm ra, chỉ còn đủ mua chưa tới một yến gạo trên thị trường tự do. Lúc bấy giờ, mọi người lấy hạt gạo làm thước đo nên tất cả mọi thứ đều được quy đổi ra thóc gạo. Có đủ cơm để ăn vừa đủ no là mơ ước của biết bao người.
Trong thời gian học tập ở Học viện Quân sự cấp cao, tôi không giúp được gì cho vợ con và gia đình. Vậy mà vợ tôi, một nách ba con nhỏ, vẫn nhẫn nại, chịu đựng, vượt khó, vun vén lo liệu cho gia đình. Ngoài việc dạy học ở trường, chăm sóc các con, không biết lấy sức lực ở đâu mà vợ tôi còn nuôi được lợn, gà vịt, cá và trồng rau, trồng cây ăn quả ...để cải thiện đời sống. Tuy công việc ở trường và ở nhà rất vất vả, nhưng vợ tôi vẫn cố gắng tham gia một số hoạt động ngoại khóa và học tập chuyên môn nữa. Hè năm 1988, vợ tôi được trường cử tham gia cuộc thi cờ vua do Sở Giáo dục tổ chức ở thành phố Nam Định và cùng đồng nghiệp tham gia hội diễn văn nghệ ở huyện Xuân Thủy. Dịp ấy, tôi đang nghỉ phép nên đã thay vợ chăm sóc và chơi với các con ít ngày. Tuy tôi có lúng túng đôi chút nhưng các con đều ngoan. Những ngày mẹ vắng nhà, các con Hải Trung , Duy Trọng và Thanh Tùng đã giúp bố nấu cơm, cắt cỏ cho cá, quét nhà, quét sân và phụ bố cho lợn, gà ăn. Dịp ấy, tôi còn được các ông bà nội, ngoại giúp đỡ nên đã hoàn thành "xuất sắc" nhiệm vụ của mình.
Những ngày nghỉ phép, tôi không bao giờ thấy vợ mình kêu ca phàn nàn mà còn động viên chồng yên tâm học tập. Em bảo tôi không phải quá lo lắng cho vợ con, ở nhà Em lo liệu được. Càng nghĩ, tôi càng hiểu được sự tận tụy, hy sinh cho chồng, cho con, cho gia đình của vợ mình và biết bao người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Với tôi, lại thêm những ngày tháng, mãi mãi là một thời để nhớ!
Tháng 7 năm 1989, tôi tốt nghiệp lớp đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu Chiến dịch - Chiến lược tại Học viện Quân sự cấp cao. Ra trường, tôi được Bộ Quốc phòng bổ nhiệm giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 327, Quân đoàn 14, Quân khu 1. Lúc bấy giờ, Sư đoàn 327 đóng quân ở xã Phong Vân, huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc (nay là Bắc Giang).
Trở lại khu vực Phong Vân, địa bàn khi công tác ở Sư đoàn 431, tôi rất vui khi gặp lại những người dân, những cán bộ xã, cán bộ huyện quen thuộc và càng vui hơn là tôi được về chỉ huy một sư đoàn chủ lực đủ quân số của Quân đoàn 14, Quân khu 1. Tuy nhiên, có một số vấn đề khó khăn trước mắt là tôi không được nhận bàn giao trực tiếp từ đồng chí Sư đoàn trưởng. Đồng chí Trần Đình Giai, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 327 đã nhận Quyết định bổ nhiệm Phó Tư lệnh Quân đoàn 14 và được lệnh tạm bàn giao công việc cho đồng chí Nguyễn Bá Minh - Sư đoàn phó tham mưu trưởng để về quân đoàn gấp. Sau khi nhận bàn giao từ đồng chí Sư đoàn phó Tham mưu trưởng Nguyễn Bá Minh, tôi đã bắt tay ngay vào công việc nắm tình hình và chỉ huy đơn vị.
Thời điểm ấy Sư đoàn 327 là đơn vị đủ quân, có lúc quân số lên tới gần một vạn. Cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn đã luôn hoàn thành nhiệm vụ của Quân đoàn, Quân khu và Bộ Quốc phòng giao cho. Cuối năm 1989, Quân khu 1 tổ chức hội thao quân sự ở Sông Hóa, tỉnh Lạng Sơn. Lực lượng đi dự hội thao của Sư đoàn 327 do đồng chí Chính - cán bộ Đại đội phụ trách đoạt giải nhất toàn đoàn.
Trong một chuyến về Hà Nội công tác tôi được em Nguyễn Tuyết Trinh (em gái út của Bình đang học ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội) báo tin vui: Chị đã sinh "thằng tóc đen" khỏe mạnh, rất đáng yêu... Cậu con trai út của chúng tôi tên là Lê Huy Toàn sinh ngày 16 tháng 9 năm 1989. Thế là "tứ tử trình làng". Dẫu có chút áy náy vì đông con, vì nhỡ kế hoạch, nhưng "Con là của, của là con" nên tôi rất vui.
Đang lúc sư đoàn vào mùa hội thao, huấn luyện tôi quá bận. Cho nên, cũng như những lần trước, vợ tôi sinh con, khi tôi đang ở đơn vị. Mẹ khỏe, con khỏe, con ngoan là mừng lắm rồi. Thế là cả bốn lần vợ sinh con, tôi đều không có mặt ở nhà để chia sẻ, đỡ đần, động viên. Thật là một điều đáng trách của người chồng, người bố. Nhưng chiến tranh và điều kiện công tác của người sĩ quan quân đội lúc bấy giờ là như vậy. Vợ tôi đã không một lời trách chồng về chuyện ấy.
Từ năm 1990 - 1991, vợ tôi được thuyên chuyển về công tác ở trường Năng khiếu Xuân Thủy tỉnh Nam Định. Về môi trường mới, vợ tôi có điều kiện công tác, giảng dạy tốt hơn và hoàn thành tốt nhiệm vụ của người Cán Bộ công đoàn mà Nhà trường giao cho. Do dạy tốt, công tác tốt nên vợ tôi được đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh quý mến, tin yêu.
Năm 1990, Sư đoàn có nhiều thay đổi về cán bộ. Đồng chí Sư đoàn phó Chính trị Phạm Việt đi nhận công tác mới. Cấp trên điều đồng chí Thượng tá Nguyễn Thanh Xuân-Trưởng phòng Tuyên huấn Quân đoàn 14 về thay. Đồng chí Nguyễn Bá Minh- Sư đoàn phó Tham mưu trưởng về Học viện Quân sự cấp cao học đào tạo. Đồng chí Ngô Giang-Trưởng phòng Tác chiến Quân Khu 1 về giữ chức Sư đoàn Phó tham mưu trưởng.
Đúng lúc ấy, Sư đoàn thực hiện nhiệm vụ tinh giản biên chế thành đơn vị rút gọn rồi chuyển quân về vùng Sông Hóa, Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn gần biên giới phía Bắc hơn. Thời điểm ấy, công việc quá nhiều. Nhưng trong dịp chuyển quân đó, tôi cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn vẫn kiên quyết cho thu gom toàn bộ vũ khí đạn dược, trang bị dồn về khu vực Cấm Sơn thành một khu kho tổng hợp duy nhất của Sư đoàn, giao cho đồng chí Dương Hiền-Trung đoàn trưởng Pháo binh 120 trực tiếp quản lý. Làm như vậy, số lượng kho giảm và giảm được hơn 100 chiến sĩ bảo vệ, trông giữ. Quân số dôi ra tập trung vào tăng gia sản xuất, chăn nuôi tại chỗ để cải thiện nâng cao đời sống bộ đội.
Phát huy truyền thống của sư đoàn, tôi cùng anh Xuân-Sư đoàn phó Chính trị và anh Ngô Giang-Sư đoàn phó Tham mưu trưởng đã chung sức, chung lòng cùng cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 327 xây dựng đơn vị ngày càng mạnh hơn.
Lúc bấy giờ đời sống bộ đội quá khó khăn cho nên quân khu cho phép các đơn vị sử dụng 2% quân số để tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống. Chúng tôi đã lựa chọn được 18 đồng chí có năng lực, rồi thành lập "Đội Kinh tế" của Sư đoàn 327 do đồng chí Nguyễn Văn Quyền - Trợ lý Công binh phụ trách. Quan điểm của chúng tôi là ít dùng phương tiện của đơn vị và đả phá cách làm kinh tế theo kiểu "nước sông công lính". Từ năm 1990 đến 1992, Đội kinh tế của sư đoàn 327 đã ký nhiều hợp đồng như: Rà phá bom mìn, bảo đảm khôi phục đường sắt Đồng Đăng - Lạng Sơn; làm đường bộ, san ủi mặt bằng bến xe, nhà ga và đổ móng, dựng cột đường điện cao thế Đồng Mỏ - Văn Quan, ...
Phương tiện và nhân công hầu hết đều đi thuê; đồng thời với các chế độ thưởng động viên rất phù hợp, công bằng như: thưởng cho người quản lý theo hiệu qủa công việc, thưởng làm ngoài giờ để động viên người lao động ... cho nên năng suất và hiệu quả công việc của đơn vị rất cao. Đặc biệt tiền lợi nhuận thu về được quản lý chặt và sử dụng minh bạch như: đưa vào bữa ăn trong những dịp lễ tết, thưởng tết cho cán bộ trong Sư đoàn, mua quạt điện, bàn ghế ăn, bàn ghế làm việc, giường phản nằm cho bộ đội ...
Thời gian đơn vị ở xã Phong Vân huyện Lục Ngạn tỉnh Hà Bắc và Sông Hóa, Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn, cơ quan sư đoàn và các đại đội trực thuộc đều thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Chúng tôi đã tận dụng đường ống dẫn dầu cũ xây dựng một đường ống dẫn nước từ hồ Cấm Sơn về phục vụ bộ đội, làm cho đời sống cán bộ chiến sĩ được nâng lên rõ rệt.
Từ năm 1990 đến 1992 ngoài việc rà phá bom mìn bảo đảm thi công tuyến đường sắt Đồng Đăng - Lạng Sơn, sư đoàn còn thực hiện nhiệm vụ rà phá bom mìn do Quân khu giao và đã giải phóng hàng trăm héc - ta đất rừng, đất ruộng, giao cho nhân dân trên vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn canh tác lâu dài an toàn. Đoạn đường sắt Lạng Sơn- Đồng Đăng được nối lại, lãnh đạo địa phương và nhân dân phấn khởi tin tưởng ở bộ đội.
Một dịp, năm 2016 tôi được về thăm đoàn Kinh tế - Quốc phòng 327 ở tỉnh Quảng Ninh. Hôm ấy, tôi được gặp lại nhiều cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn, thật vui. Đồng chí Phó Chủ nhiệm Chính trị sư đoàn chạy đến ôm chầm lấy tôi. Anh vồn vã nói:
- Gặp thủ trưởng, thấy thủ trưởng khỏe chúng em mừng lắm. Hồi Sư đoàn ở Lạng Sơn, các thủ trưởng mua cho chúng em mỗi người một cái quạt bàn, em sướng quá, nhớ mãi đến bây giờ.
- Lúc bấy giờ, cán bộ chiến sĩ ta còn khó khăn quá. Chỉ huy sư đoàn có cố gắng nhưng đã làm được gì nhiều đâu- tôi đáp lại.
- Thời điểm ấy cái quạt rất quý và quan trọng lắm đấy thủ trưởng ạ - Đồng chí Đại tá nói rõ thêm.
Dấu ấn Sư đoàn 327 tổ chức làm kinh tế có hiệu quả, giúp cải thiện phần nào đời sống của bộ đội từ những năm 90 khi tôi ở Sư đoàn còn được ghi nhận trong ký ức nhiều cán bộ chiến sĩ cho đến bây giờ.
4
Đầu năm 1993, Sư đoàn 3 Quân khu 1 thiếu cán bộ trầm trọng. Đồng chí Nguyễn Như Hoạt - Sư đoàn trưởng được cử đi học lớp chính trị cao cấp, đồng chí Lê Đăng Nhiệm - Sư đoàn phó Chính trị ốm nặng phải nằm viện dài ngày, đồng chí Ngô Trọng Phú - Sư đoàn phó lâm bệnh hiểm nghèo. Cho nên sau khi ăn Tết Nguyên đán, tôi nhận quyết định bổ nhiệm Phó Tham mưu trưởng Quân khu 1, kiêm Sư đoàn trưởng - Bí thư Đảng ủy Sư đoàn Bộ binh 3 Sao Vàng.
Trong lúc tôi chuẩn bị chia tay Sư đoàn 327 thì một biến cố đau thương đột ngột đến với tôi và gia đình. Người mẹ hết mực yêu thương và kính trọng của tôi qua đời vào chiều ngày 27 tháng Giêng năm Quý Dậu (1993) hưởng thọ 70 tuổi. Dẫu biết lá rụng về cội nhưng với tôi đó mãi mãi là sự mất mát vô cùng lớn. Suốt đời mẹ tần tảo, tận tâm tận tụy với các con, các cháu. Căn bệnh phế quản mãn tính hành hạ những năm tháng tuổi già của mẹ tôi. Anh em tôi đã đưa mẹ ra Hà Nội chạy chữa ở bệnh viện Phổi Trung ương và các bệnh viện tuyến trên ở Hà Nội, dẫu chúng tôi đã có được thời gian chăm sóc phụng dưỡng mẹ, nhưng lòng tôi vẫn khôn nguôi xót xa bởi mẹ chưa được hưởng bao nhiêu những niềm hạnh phúc tuổi già. Mẹ ra đi trong lúc chỉ có vợ, con tôi và các bác, chú thím ở quê. Đến ba giờ sáng hôm sau, tôi cùng các em mới về được bên mẹ.
Đám tang mẹ tôi tổ chức tại quê nhà. Các con, các cháu, bà con họ mạc có mặt đông đủ. Đồng đội từ Sư đoàn 327, Sư đoàn 3 Sao Vàng, các cơ quan Quân khu 1 và từ nhiều đơn vị khác cũng tới phúng viếng chia buồn, đưa tiễn mẹ tôi về cõi thiên thu. Trân trọng biết bao tình làng nghĩa xóm, bạn bè và đồng đội của tôi!
Sau khi tiễn biệt mẹ tôi về với tiên tổ. Lên đơn vị được ít ngày, tôi chia tay cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 327 rồi về Sư đoàn 3 Sao Vàng công tác. Yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Sư đoàn 3 rất cao. Tôi đã cùng Ban Thường vụ phát huy được sức mạnh tập thể của Đảng uỷ Sư đoàn và cùng cơ quan, đơn vị đồng thời tiến hành một loạt công việc có hiệu quả, tạo ra những chuyển biến tích cực về công tác quản lý bộ đội, huấn luyện, duy trì nghiêm kỷ luật và sẵn sàng chiến đấu.
Sau khi kiểm tra các đơn vị, Ban Chỉ huy chúng tôi nhận thấy đời sống bộ đội ta quá khó khăn. Phòng ở, phòng làm việc của cơ quan đều không có quạt điện. Từ Thủ trưởng Sư đoàn trở xuống không có nhà tắm, không có nhà vệ sinh tự hoại hoặc bán tự hoại. Đặc biệt, anh em cơ quan phải dùng nhà vệ sinh ở ngoài cánh đồng phía sau doanh trại, cách nơi ở hàng trăm mét rất vất vả và bất tiện.
Chỉ huy sư đoàn đã họp bàn với các thủ trưởng bốn cơ quan lấy ý kiến dân chủ, sau đó đưa ra quyết định: "Tổ chức xây dựng nhà tắm, nhà vệ sinh bán tự hoại cho cán bộ ngay". Quyết định đó đã được các đồng chí trong cơ quan, đơn vị đồng tình. Mấy ngày hôm sau, sư đoàn đã quyết định trích quỹ phúc lợi mua cho mỗi ban và mỗi thủ trưởng phòng, ban các cơ quan sư đoàn hai chiếc quạt bàn: Một chiếc dùng ở nơi làm việc, một chiếc dùng ở phòng ngủ.
Tiếp đó sư đoàn phát động phong trào xây dựng nhà tắm và nhà vệ sinh bán tự hoại ở Cơ quan Sư đoàn bằng cách: Công sức thì do các đơn vị trực thuộc giúp đỡ. Riêng kinh phí xây dựng thì tự đóng góp và vay đơn vị rồi trả dần. Phòng Hậu cần và cơ quan Tài chính là những cơ quan đi đầu. Kết quả là, chưa đầy ba tháng sau, cán bộ chiến sĩ cơ quan sư đoàn đều được sử dụng nhà tắm sạch sẽ và nhà vệ sinh bán tự hoại. Mọi người rất phấn khởi và phong trào xây nhà tắm, nhà vệ sinh bán tự hoại đã lan dần xuống các đơn vị, làm cho đời sống bộ đội từng bước được cải thiện.
Sau khi cùng cơ quan kiểm tra các đơn vị, tôi thấy một điều rất vô lý là bộ đội thời bình mà phải ăn thịt ướp muối, cá khô đã để lâu ngày và gạo kém chất lượng. Đặc biệt hiện tượng bỏ ngũ của chiến sĩ, quân phiệt của cán bộ cấp cơ sở, và hiện tượng cho chiến sĩ đi làm kinh tế lẻ thu tiền ở các đơn vị cơ sở vẫn còn tồn tại. Trong một phiên họp Đảng ủy Sư đoàn đã bàn bạc tìm biện pháp khắc phục những tồn tại trên. Nghị quyết Đảng ủy Sư đoàn có đoạn nêu rõ: Không để bộ đội ăn gạo kém chất lượng; Không để bộ đội ăn thịt ướp muối; Không để bộ đội ăn cá khô cũ, kém chất lượng.
Ba nội dung trên được 100% đảng ủy viên thông qua và được thực hiện nghiêm túc, triệt để. Sau một thời gian không dài, Nghị quyết của Đảng ủy Sư đoàn 3 Sao Vàng đã từng bước đi vào đời sống của bộ đội. Từ đó và về sau bộ đội Sư đoàn 3 Sao Vàng đã không phải ăn thịt lợn ướp, cá khô cũ lâu ngày và gạo kém chất lượng nữa.
Để cụ thể hóa thêm nghị quyết của Đảng ủy, khoảng giữa năm 1993, Sư đoàn 3 đã tổ chức Hội nghị Quân - Dân một ý chí. Thành phần hội nghị gồm: Đại diện lãnh đạo chính quyền, đoàn thể các xã, các huyện và đại diện gia đình chiến sĩ ở các nơi có con em nhập ngũ tại Sư đoàn 3. Mục đích hội nghị là nhằm thống nhất quan điểm với lãnh đạo, chính quyền địa phương và nhân dân nơi đơn vị nhận quân cùng với Sư đoàn 3 Sao Vàng chống đào ngũ, bỏ ngũ, chống quân phiệt, chống việc cho chiến sĩ về nhà " làm kinh tế lẻ" thu tiền.
Sư đoàn đã yêu cầu: Nếu phát hiện các trường hợp cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 3 vi phạm kỷ luật Quân đội, nhờ nhân dân, các đoàn thể, lãnh đạo và chính quyền địa phương nơi sư đoàn nhận quân báo về sư đoàn để có biện pháp xử lý. Các đại biểu còn được tham quan nơi ăn, ở của bộ đội Trung đoàn 2 và được dự lễ bế giảng lớp huấn luyện chiến sĩ mới của sư đoàn.
Được tận mắt nhìn thấy nơi ăn, chỗ ở của bộ đội và sự trưởng thành của con em mình sau 3 tháng huấn luyện, lãnh đạo, chính quyền, đoàn thể và đại biểu nhân dân địa phương nơi sư đoàn nhận quân rất phấn khởi. Hội nghị thành công ngoài sự mong đợi. Các đơn vị của Sư đoàn 3 đã phối hợp rất chặt chẽ với địa phương nơi nhận quân để cùng thực hiện tốt công tác quản lý bộ đội. Dần dần tệ nạn đào bỏ ngũ, quân phiệt và cho chiến sĩ đi về nhà để thu tiền giảm hẳn.
Trong thời gian ấy, Sư đoàn Bộ binh 3 Sao Vàng còn thu gom 7 khu kho vũ khí, trang bị, đạn dược thành 1 khu kho kỹ thuật duy nhất. Cho nên đã giảm được trên 50 chiến sĩ coi giữ kho. Sư đoàn đã sử dụng quân số coi kho dôi ra, giao cho các đơn vị tổ chức trồng rau, nuôi cá, nuôi gia cầm, gia súc cải thiện đời sống bộ đội. Phong trào giết mổ lợn tập trung mỗi tuần từ hai đến ba lần đã lan rộng khắp các trung đoàn và khối trực thuộc cơ quan sư đoàn.
Đời sống của bộ đội từng bước được nâng lên, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của sư đoàn được giữ vững và ngày càng tốt hơn. Hiện tượng vô kỷ luật, đào, bỏ ngũ giảm dần. Phong trào tăng gia, chăn nuôi tại chỗ của bộ đội ngày càng tốt hơn. Do đó, đời sống bộ đội được cải thiện, chất lượng cuộc sống của cán bộ chiến sĩ nâng lên rõ rệt. Sư đoàn Bộ binh 3 Sao Vàng giữ vững là đơn vị lá cờ đầu của Quân khu 1 và toàn quân.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Sư đoàn 3, tôi về Bộ tham mưu Quân khu 1 đảm nhiệm chức vụ Tham mưu Phó Quân khu. Cuối năm 1993, tôi đưa gia đình lên sống ở Hà Nội. Được quân đội hỗ trợ, tôi xây một căn nhà nhỏ ở số 162 - phố Nguyễn Ngọc Nại. Nơi ấy phần đông là gia đình bộ đội cư trú. Đồng thời vợ chồng tôi đưa bố tôi lên Hà Nội ở cùng gia đình chúng tôi để có điều kiện chăm sóc cụ những năm tháng tuổi già.
Thời gian công tác ở Bộ tham mưu Quân khu 1, tôi được phân công phụ trách công tác huấn luyện. Tôi đã cố gắng hoàn thành chức trách của mình và mọi nhiêm vụ được giao. Tôi có trên mười năm công tác ở Quân khu 1 vì vậy có nhiều kỷ niệm, gắn bó, tâm huyết với vùng đất biên cương thân yêu này.
Tháng 02 năm 1995, tôi được Bộ Quốc phòng quyết định giữ chức Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân đoàn 2. Đồng thời tôi được về Học viện Chính trị, học chương trình lý luận chính trị cao cấp khóa A6. Sau khi bàn giao công việc ở Bộ tham mưu Quân khu 1, tôi có một tuần chuẩn bị và chia tay anh em cơ quan, đơn vị rồi về ngay Học viện Chính trị để kịp thời gian khai giảng. Học viên về học lý luận chính trị cao cấp khóa A6 năm ấy, đều là cán bộ các Quân khu, Quân đoàn, Quân binh chủng, học viện, cơ quan Bộ quốc phòng và Quân y viện 108. Chúng tôi đã quen biết nhau nên rất vui. Suốt quá trình khóa học mọi người đều cố gắng cho nên kết quả hoc tập khá tốt.
Vào cuối năm 1995, sau khi kết thúc khóa học chương trình lý luận chính trị cao cấp, tôi về Quân đoàn 2 đảm nhiệm chức vụ Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân đoàn theo quyết định của Bộ Quốc phòng. Trở về Quân đoàn 2, tôi rất phấn khởi, bởi vì trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, tôi đã gắn bó với binh đoàn chủ lực này từ ngày đầu thành lập. Khi ấy tôi đang giữ cương vị Chủ nhiệm Trinh sát - Đặc công Sư đoàn 324. Vì vậy, tôi tự hứa với mình, là sẽ cố gắng làm việc hết sức mình và vượt qua mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Lúc bấy giờ, Đại tá Phạm Xuân Thệ làm Tư lệnh, Thiếu tướng Trần Ngọc Sơn làm Phó Tư lệnh chính trị - Bí thư đảng ủy, Đại tá Hoàng Đình Thanh làm Phó Tư lệnh chung. Tôi đã cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh và Bộ Tham mưu quân đoàn tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác quản lý bộ đội, huấn luyện, diễn tập thực binh và duy trì nghiêm kỷ luật. Trên cơ sở đó, từng bước nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.
Mùa mưa năm 1996, xảy ra một trận lụt lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ. Nước sông Đuống, sông Thái Bình lên cao. Đoạn đê sông Thái Bình thuộc huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh có nguy cơ bị vỡ. Tôi được lệnh chỉ huy lực lượng Sư đoàn 325, Trung đoàn Công binh 219, Lữ đoàn Phòng không 273 và nhiều phương tiện xe máy về Lương Tài, Bắc Ninh cứu đê chống lũ.
Hơn 100 xe chở bộ đội gấp rút lên đường. Chúng tôi đến huyện Lương Tài đúng lúc nước đã mấp mé mặt đê của xã Minh Tân, Lai Hạ, Trung Kênh. Nước từ ngoài sông chảy vào cánh đồng đã đẩy cát thành từng đống. Theo kinh nghiệm, nước lụt đã đẩy cát qua thân đê vào phía trong cánh đồng thành từng đống như vậy sẽ có nguy cơ vỡ đê rất cao. Nhiều anh chị em dân quân - lực lượng chủ chốt cứu đê của huyện Lương Tài đã về nhà đưa gia đình đi sơ tán.
Đúng lúc ấy, bộ đội các đơn vị Quân đoàn 2 lại xông ra mặt đê, dùng cọc tre, các sọt đất, đá và những bó rơm, rạ, khẩn trương bịt lỗ rò và cơi nới mặt đê để chống nước tràn. Trời vẫn mưa to, bộ đội bị mưa ướt sũng, nhiều đồng chí dầm mình trong nước lũ để tìm mọi cách cứu đê. Đến tận cuối buổi chiều hôm ấy, cán bộ chiến sĩ Quân đoàn 2 đã hoàn thành cơ bản việc bịt lấp lỗ rò thân đê và cơi nới mặt đê. Tuy vậy anh em vẫn phải canh giữ đê rất chặt chẽ để xử lý những tình huống bất ngờ.
Tối hôm ấy, đồng chí phụ trách công tác hậu cần Sư đoàn 325 báo cáo: "Hiện nay gạo của các đơn vị bị ướt gần 5 tấn, bộ đội không thể sử dụng kịp. Đề nghị cho xe chở gạo ướt về quân đoàn đổi gạo mới". Nghe thấy vậy, một chị trong Hội Phụ nữ huyện Lương Tài nói với tôi: "Đề nghị các anh cho phép chị em chúng tôi lo số gạo ướt ấy. Sáng mai bộ đội các anh khắc có gạo khô để sử dụng"...Thật tuyệt vời.
Tôi cảm ơn chị. Thế là 5 tấn gạo ướt được phân phát cho chị em phụ nữ mấy xã gần đó. Mỗi người tự nhận từ 3 đến 5kg để đổi lấy gạo khô. Sáng hôm sau, bộ phận Hậu cần Sư đoàn 325 đã nhận lại đầy đủ 5 tấn gạo khô của chị em phụ nữ huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Bộ đội ta rất phấn khởi, cảm nhận thêm được sức mạnh của tình đoàn kết quân dân. Sự kiện ấy tưởng chừng là nhỏ, nhưng tôi còn nhớ mãi, nhớ tới bây giờ và sau này chắc vẫn còn nhớ. Trong chiến tranh bộ đội dựa vào dân để sống mà đánh giặc. Hòa bình rồi bộ đội cũng vẫn dựa vào dân giúp đỡ để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đúng là "... Khó vạn lần dân liệu cũng qua". Dịp ấy cán bộ chiến sĩ Quân đoàn 2 đã dũng cảm chiến đấu với "giặc nước", hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chống lũ năm 1996. Sư đoàn 325 được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Năm 1996, vợ tôi được Ủy ban nhân dân thành phố tiếp nhận và quyết định chuyển vùng từ trường Năng khiếu Xuân Thủy tỉnh Nam Định lên công tác tại trường Trung học cơ sở Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội. Do nhiều năm vợ tôi là giáo viên giỏi và có kinh nghiệm giảng dạy ở trường Năng khiếu Xuân thủy nên việc xin chuyển vùng lên Hà Nội và hòa nhập môi trường mới cũng thuận lợi hơn. Từ thời gian ấy, vợ tôi cũng có điều kiện nuôi dạy con và chăm sóc gia đình tôi tốt hơn.
Cuối mùa huấn luyên năm 1997, tôi đã cùng Bộ Tham mưu quân đoàn chỉ đạo các lữ đoàn, trung đoàn trực thuộc thực hiện tốt nhiệm vụ diễn tập chỉ huy tham mưu có một phần thực binh an toàn.
Cuối năm 1997, tôi được triệu tập về Bộ Quốc phòng nhận nhiệm vụ. Hôm ấy, tại phòng họp có Bộ Trưởng Phạm Văn Trà và anh Sáp- Cục phó Cục cán bộ.
Gặp tôi, Bộ trưởng bắt tay rồi vui vẻ nói ngay:
"Thường vụ Quân ủy Trung ương đã quyết định điều động đồng chí Lê Huy Mai về Cơ quan Thanh tra Bộ quốc phòng, giữ chức Trưởng thanh tra lục quân. Đồng chí có ý kiến gì không?
- Thưa bộ Trưởng, tôi đã nghe rõ! - Tôi trả lời rồi nói tiếp: "... Thưa Bộ trưởng! Năm nay tôi đã trên 30 tuổi quân, có 13 năm ở Sư đoàn 324 (gần 10 năm chiến đấu liên tục ở chiến trường Trị Thiên, gần 1 năm giúp nước bạn Lào) và tôi và tôi ông tác ở Quân khu 1 gần 11 năm, sau đó về Quân đoàn 2. Tôi luôn xác định, cấp trên ra lệnh, dù có hy sinh tính mạng cũng phải hoàn thành nhiệm vụ. Bộ giao nhiệm vụ nào tôi cũng đều hoàn thành, nhưng về làm việc ở cơ quan Thanh tra Bộ quốc phòng, tôi thíếu nghiệp vụ nên sẽ gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, Bộ trưởng yên tâm, tôi sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ".
- Đồng chí Mai về cơ quan Thanh tra Bộ Quốc phòng làm nguồn đấy - Bộ trưởng nói, rồi trao quyết định Trưởng Thanh tra lục quân cho tôi.
- Cảm ơn Bộ trưởng!
Sau khi nhận quyết định, tôi xin phép Bộ trưởng ra về.
Tháng 12 năm 1997, tôi tiến hành bàn giao công việc và chia tay cán bộ, chiến sĩ, cơ quan, đơn vi Quân đoàn 2 để về đơn vị mới...Từ năm 1995 đến 1997 trở về lại Quân đoàn 2 công tác, tôi đã hoàn thành chức trách được giao. Khi rời xa Quân đoàn đi nhận nhiệm vụ mới, tôi đã để lại niềm tin và tình cảm cho các đơn vị và cán bộ chiến sĩ trong quân đoàn.
6
Đầu năm 1998, tôi về Cơ quan Thanh tra Bộ Quốc phòng đảm nhiệm chức vụ Trưởng Thanh tra lục quân. Cuối năm đó, Bộ Quốc phòng bổ nhiệm tôi đảm nhiệm chức vụ Phó Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng.
Dù có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu và chỉ huy đơn vị nhưng công tác thanh tra đối với tôi thực sự còn mới mẻ. Nhưng tôi được các đồng chí trong Cơ quan Thanh tra Bộ Quốc phòng hỗ trợ, phối hợp, chia sẻ trách nhiệm tận tình. Anh Nguyễn Kiệm Chánh Thanh tra, anh Minh, anh Cốc Phó Chánh Thanh tra đã giúp cho tôi nhiều kinh nghiệm để có điều kiện từng bước hoàn thành công việc của mình.
Sau 6 năm tang mẹ, tôi cùng gia đình lại đau đớn chịu tang cha. Bố tôi ra đi thanh thản vào ngày 04 tháng 8 năm Kỷ Mão (1999), hưởng thọ 85 tuổi. Dẫu tin rằng bố tôi đã sống vui, sống khỏe, mãn nguyện tuổi già, và được con cháu chăm sóc chu đáo nhưng tôi vẫn thấy đột ngột, đau xót. Trong những năm sống ở Hà Nội, bố tôi được chăm sóc sức khỏe tốt, mổ u xơ tuyến tiền liệt thành công, chữa trị thuyên giảm chứng ho cơn kéo dài do tuổi tác. Trước lúc qua đời, cụ còn đi thăm được con gái út ở Quảng Ninh, con gái thứ năm ở Mộc Châu, tỉnh Sơn La, con gái thứ tư ở Bình Thuận, con trai cả ở Yên Bái. Còn con gái thứ ba ở Yên Viên, Hà Nội thì đã đón cụ thường xuyên rồi. Đặc biệt, Cụ còn được các con và các cháu chăm nom, săn sóc tận tình suốt những năm tháng cuối đời.
Lễ tang bố tôi tổ chức tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 - Trần Thánh Tông, Hà Nội trang nghiêm, thành kính theo các nghi thức tâm linh truyền thống. Con cháu, bà con họ mạc, làng xóm đều có mặt đông đủ tiễn biệt bố tôi. Đồng đội của tôi đã đến viếng bố tôi rất đông và cùng chia sẻ nỗi mất mát to lớn này của gia đình. Tôi vô cùng biết ơn về nghĩa cử của bà con họ mạc, xóm giềng, những người đồng đội của mình. Tôi tin rằng bố mẹ tôi về miền cực lạc sẽ được siêu thoát. Để tri ân đấng sinh thành, tôi cùng các anh, chị, em đã khôi phục lại căn nhà cũ ở quê nhà. Những kỷ niệm thời cha mẹ tôi vẫn còn lưu giữ đó là: đôi giường nằm, chạn bát, chiếc mắc áo và chiếc đồng hồ quả lắc mà sinh thời cha tôi rất quí,... Thật trọn vẹn biết bao nơi quê nhà, khu lăng mộ chi phái tổ Lê Huy Lân, dòng họ Lê Huy của tôi đã quy tập đầy đủ những thế hệ đã quá cố. Đó chính là điểm tựa tâm linh vững chãi cho thế hệ chúng tôi và con cháu mai sau ngưỡng vọng về cội nguồn.
Giữa năm 2000, vợ tôi được chuyển về trường Trung học cơ sở Việt Nam - Angieri ở quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội. Do đó các con tôi có điều kiện học hành tốt hơn. Suốt thời gian công tác ở Cơ quan Thanh tra Bộ Quốc phòng, tôi vẫn thường xuyên đi công tác xa nhà, mỗi năm từ sáu đến bảy tháng trên khắp mọi miền của Tổ quốc, cả vùng rừng núi biên cương và biển đảo xa xôi. Vợ tôi một mình vừa đến trường dạy học, vừa lo toan mọi việc gia đình và dạy dỗ các con nên vẫn rất vất vả. Thật mừng là các con biết nghe lời bố mẹ và có kết quả học tập cũng khá tốt. Đó là niềm hạnh phúc không gì có thể so sánh đối với tôi.
Tôi cũng không ngờ cuối đời quân ngũ mình lại có gần mười năm cống hiến cho công tác thanh tra quốc phòng. Nhiệm vụ này không giống việc trực tiếp chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, càng không giống công tác huấn luyện, xây dựng đơn vị. Nhiệm vụ này đòi hỏi tôi phải nâng tầm nhận thức lí luận chính trị, nâng cao hiểu biết về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; mở rộng phạm vi kiến thức về lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân; phải có những hiểu biết cơ bản về thanh tra pháp chế, kiểm soát nhân dân và đặc biệt phải hiểu biết về pháp chế quân sự các nước để tham khảo vận dụng.
Thanh tra Quốc phòng là một lĩnh vực mang hình thái của một cuộc chiến đấu dẫu không có sự va chạm của sắt thép, chất nổ, chất cháy, nhưng nó có sự quyết liệt của cuộc chiến thầm lặng, dai dẳng giữa cái đúng với cái sai, giữa cái thẳng hướng và lệch hướng, giữa sự đồng tâm và lệch tâm, giữa chuẩn mực với lệch chuẩn, giữa cái đúng luật và cái trái luật. Những năm tháng công tác ở Cơ quan Thanh tra Quốc phòng, có nhiều đêm tôi mất ngủ!
Con đường đi của thanh tra không dễ gì bằng phẳng. Làm sao không bị sự quanh co uẩn khúc, rắc rối của những ma trận giữa đời thường chi phối. Muốn được như vậy, người cán bộ thanh tra phải là người luôn luôn kiên định, tỉnh táo; phải cảnh giác và khôn khéo ứng phó đối với mọi tình huống khó lường.
Nhưng để đi tìm sự thật chân lí cuộc đời đôi khi nó lại đơn giản hơn ta nghĩ. Đó là việc khẳng định được cái đúng, chỉ rõ được cái sai; phân định được những phần sai đúng ngay trong một nội dung, một vấn đề, một khía cạnh. Đôi khi chúng ta dễ bị nhầm lẫn, dễ bị tính cả tin, nhẹ dạ đánh lừa, dễ bị cảm tính chi phối, dễ bị sự ngộ nhận lấn lướt, dễ bị cái giả tạo hào nhoáng làm lu mờ giá trị thật. Có khi cái khuyết điểm của ngày hôm qua lại trở thành ưu điểm của ngày hôm nay! Và ngược lại, thành tích của ngày hôm qua thì hôm nay đó lại là những khuyết điểm, tồn tại, cản trở sự tiến bộ. Bằng cảm nhận nhạy bén của người lính trinh sát thời chiến, bằng trải nghiệm của người chỉ huy, cùng với những kiến thức đã được học và nghiên cứu, tất cả đã giúp tôi thực hiện nhiệm vụ Thanh tra Quốc phòng một cách thận trọng, chắc chắn nhưng cũng rất quyết đoán, đầy bản lĩnh để các đối tượng được thanh tra tâm phục, khẩu phục.
Trong quá trình công tác tại Cơ quan Thanh tra Bộ Quốc phòng, tôi đã trực tiếp đi thanh tra nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của nhiều đơn vị, nhiều tỉnh, quân đoàn, quân khu và một số cơ quan bộ ngành của chính phủ. Nhưng tôi không bao giờ quên được lần đi thanh tra Vùng 4 Hải quân vào năm 1999. Lần thanh tra ấy, tôi đến được 14 đảo, điểm đảo thuộc Quần đảo Trường Sa. Chúng tôi thấy bộ đội ta ở Trường Sa được Nhà nước quan tâm nhưng còn gian khổ quá. Nước sinh hoạt còn khó khăn, vị trí nhà ở chưa hợp lý, rau xanh không đủ, môi trường sống chưa thật tốt. Đặc biệt bố trí lực lượng và xây dựng công sự chiến đấu chưa phù hợp, trận địa phòng ngự thiếu sự liên kết chặt chẽ.
Sau lần thanh tra ấy và kết quả thanh tra về thực hiện nhiệm vụ Quân sự - Quốc phòng các Quân Khu, Quân đoàn, Quân Chủng, Binh Chủng, nhà trường, các tỉnh, thành phố, các bộ, ngành những năm sau này... Tôi đã cùng Cơ quan Thanh tra đã đề xuất nhiều nội dung với Bộ Quốc phòng thực sự có hiệu quả, sát thực tế.
Đầu năm 2002, tôi vinh dự được Nhà nước phong hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Bạn tôi, anh Nguyễn Văn Tình học cùng trường cấp hai xã Giao Hoan, huyện Giao Thủy hồi năm 1960 - 1961 cũng được phong hàm Thiếu tướng cùng một ngày. Tôi và anh Nguyễn Văn Tình quê ở xã Giao Yến huyện Giao Thủy, là hai+ chiến sĩ nhập ngũ trong những năm đánh Mỹ, được nhà nước phong hàm cấp Tướng đầu tiên của huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định.
Cảm ơn Quân đội và những người đồng đội đã giúp đỡ tôi trong suốt chặng đường công tác, chiến đấu, rèn luyện, từ một người chiến sĩ trở thành một sĩ quan cấp Tướng. Cảm ơn truyền thống quê hương, dòng họ, gia đình đã đem lại cho tôi vinh dự và trọng trách này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com