Phần 1
Câu 1:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn thất, hy sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao to lớn của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta.
NHỮNG THẮNG LỢI CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Để thực hiện các nguyện vọng cơ bản là độc lập dân tộc và người cày có ruộng, nhân dân ta đã bao phen vùng dậy đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, song rốt cuộc đều bị thất bại. Kể từ ngày có sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đó của nhân dân ta mới từng bước giành được thắng lợi, trước hết là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, đưa lại độc lập tự do cho đất nước, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Phong này đã khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Quốc tế Cộng sản đánh giá cao đóng góp của phong trào cách mạng Việt Nam đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, công nhận Đảng ta là một phân bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ và tổn thất để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng cách mạng, đến năm 1936, khi tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển mới, Đảng đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, chuyển hướng đấu tranh sang đòi dân sinh dân chủ, với các hình thức đấu tranh và tổ chức thích hợp, chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giành chính quyền. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng đã biết kết hợp các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở một nước thuộc địa. Qua phong trào, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.
Từ năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những nhận định sáng suốt về tình hình thế giới và xu hướng phát triển của cách mạng Đông Dương, xác định giải phóng dân tộc, đánh đuổi phátxít Pháp, Nhật, giành độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Đảng chủ trương chuẩn bị các điều kiện để tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trong cuộc vận động giải phóng dân tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng minh, Đảng đã phát động, tổ chức thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm năm chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; đưa Đảng ta từ hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc; khẳng định trong thực tiễn tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn dân của Hồ Chí Minh và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn; nâng cao niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và nhân dân ta; mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành công vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền trong cả nước.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975
Vừa giành được chính quyền về tay nhân dân chưa đầy một tháng, dân tộc Việt Nam đã phải bước vào một cuộc chiến đấu mới chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch trong hơn 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, với ý chí "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đi tới thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín cho dân tộc và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người đi tiên phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa cố vấn quân sự rồi quân viễn chinh xâm lược miền Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", nhân dân cả nước ta đã vừa xây dựng, bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra sức chi viện tiền tuyến, vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi tới đại thắng mùa Xuân 1975.
Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn. Đối với dân tộc ta, thắng lợi này kết thúc hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm chiến tranh cách mạng, hơn một thế kỷ chống xâm lược nước ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước ta; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; để lại nhiều bài học có giá trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...
Đối với thế giới, thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ; cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc dân chủ của nhân dân thế giới; mở rộng địa bàn và tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng, người không đông nếu có Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối đúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến tranh sáng tạo, được sự ủng hộ của nhân dân thế giới hoàn toàn có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới
Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh có những thuận lợi to lớn, song cũng gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị Mỹ phong tỏa cấm vận, tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi, phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía nam, phía bắc, đòi hỏi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng được tôi luyện qua thử thách đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra đường lối đổi mới đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giành được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận: Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạchậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thắng lợi đó là minh chứng sinh động về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức mạnh to lớn của nhân dân ta.
Câu 5: Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Với những tác hại và sự ảnh hưởng xấu tới quá trình phát triển của đất nước của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã xác định công tác phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Nghị quyết 14/NQ/TW ngày 15/5/1996 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân... Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
=======================================
Là một hiện tượng xã hội tiêu cực, tham nhũng đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt đối với sự phát triển của xã hội. Do đó, việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng là đòi hỏi cấp thiết đối với nhà nước và xã hội. Cuộc đấu tranh này không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm ra khỏi đời sống xã hội mà còn là yếu tố quyết định sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của xã hội.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, việc đấu tranh chống tham nhũng càng có ý nghĩa quan trọng, trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu được thực hiện một cách quyết liệt, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Hoạt động đấu tranh chống tham nhũng được thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt là nhằm nhanh chóng loại trừ tệ nạn này khỏi đời sống xã hội, bởi đó là điều kiện cần thiết để chúng ta có thể xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó chính là ý nghĩa quan trọng và cũng là mục đích cuối cùng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, khi phân tích cụ thể, chúng ta có thể nhận thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam được thể hiện trên các nội dung sau:
3.1. Phòng, chống tham nhũng góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam và thế giới cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của sự thay đổi triều đại phong kiến này bằng triều đại phong kiến khác, chế độ phong kiến bằng chế độ tư bản là bởi sự "mục nát" của triều đại phong kiến trước đó hoặc của chế độ phong kiến ở giai đoạn suy tàn. Sự "mục nát", "suy tàn" của chế độ xã hội được thể hiện ở sự yếu kém trong điều hành, quản lý xã hội của nhà nước, sự tha hoá, biến chất của quan chức và bộ máy nhà nước. Điều đó được biểu hiện trước hết bằng sự tha hoá đạo đức, lối sống hưởng lạc, vô trách nhiệm, thiếu kỷ cương, nhũng nhiễu dân chúng của tầng lớp quan chức từ trung ương đến địa phương. Nói cách khác, sự yếu kém, trì trệ không theo kịp sự phát triển của xã hội trong hoạt động quản lý, điều hành xã hội của nhà nước phong kiến đã tạo cơ hội thuận lợi cho quan liêu, tham nhũng phát sinh, phát triển và đến lượt nó, quan liêu, tham nhũng lại làm suy yếu, mục ruỗng nhà nước phong kiến, tạo tiền đề cho sự ra đời của một triều đại khác hoặc một chế độ xã hội tiến bộ, được lòng dân hơn. Tham nhũng là hiện tựợng xã hội có tính lịch sử xuất hiện trong xã hội có nhà nước, là thuộc tính vốn có, tiềm ẩn trong xã hội có nhà nước nên nó không thể bị thủ tiêu hoàn toàn mà chúng ta chỉ có thể hạn chế, đẩy lùi hoặc "loại bỏ" nó trong những thời điểm nhất định.
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời là thành quả của cuộc cách mạng nhân dân vĩ đại do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cùng với việc xây dựng nhà nước kiểu mới, đồng thời để có thể xây dựng được nhà nước kiểu mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, toàn Đảng và toàn dân ta phải tiến hành đấu tranh với các tệ nạn, tiêu cực xã hội trong đó có các hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng - tàn dư của chế độ cũ nhưng đã tiềm ẩn, phát sinh trong chế độ mới. Bác Hồ từng nói: "Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của chế độ cũ". Đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh gian khó, lâu dài nhưng cần thiết và phải thực hiện cho được bởi một chế độ dân chủ, vững mạnh, một xã hội tốt đẹp trong đó các giá trị công bằng, dân chủ và đạo đức xã hội được đề cao thì các tệ nạn xã hội và tội phạm trong đó có tham nhũng phải bị đẩy lùi và loại bỏ. Sự thiếu kiên quyết hoặc né tránh trong đấu tranh chống tham nhũng sẽ là cơ hội tốt để tham nhũng phát sinh, phát triển và điều đó sẽ đe doạ sự tồn vong của chế độ, phá hoại thành quả cách mạng của nhân dân. Nhìn nhận từ khía cạnh nào đó có thể thấy "tham nhũng" chính là "quốc nạn" của đất nước, là kẻ thù của nhân dân ta. Bác Hồ từng nói: "Tham ô là trộm cướp... Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội, của Chính phủ. Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng mà nó nằm trong tổ chức của ta để làm hỏng công việc của ta. Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ "giặc ở trong lòng".
Hoạt động phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Trong những năm gần đây, hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên kết quả của hoạt động này còn chưa được như mong muốn. Tham nhũng vẫn được coi là "quốc nạn" của đất nước, là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết số 14 ngày 15/5/1996 của Bộ chính trị về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã nhận định: Tình trạng tham nhũng đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm xói mòn bản chất của Đảng và Nhà nước, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá ta, uy hiếp sự tồn vong của chế độ. Trong chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Chính phủ nhận định: "Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ". Như vậy, phòng, chống tham nhũng không chỉ có mục đích đơn thuần là làm giảm tình hình vi vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm nói riêng mà nó còn có ý nghĩa quan trọng bảo vệ sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do đó, phòng, chống tham nhũng cần được xem như là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phòng, chống tham nhũng góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân
Thiệt hại vật chất do tham nhũng gây ra không chỉ là số lượng tài sản rất lớn của Nhà nước, tập thể và công dân bị các đối tượng tham nhũng chiếm đoạt mà còn bao gồm cả những thiệt hại vật chất do các đối tượng này làm thất thoát hoặc gây lãng phí.
Trong thực tế, tham nhũng thực sự trở thành vấn nạn có tính toàn cầu. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), tham nhũng mỗi năm gây thiệt hại cho nền kinh tế thế giới lên tới hàng tỷ USD. Ở Việt Nam, tham nhũng đã và đang gây ra sự lo lắng, bức xúc lớn của toàn xã hội. Thời gian qua, nhiều vụ tham nhũng nghiêm trọng đã bị phát hiện và xử lý như vụ Nhà máy dệt Nam định, vụ Tamexco, vụ EPCO Tăng Minh Phụng, vụ Dự án Mường Tè, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ PU18,... Những thiệt hại vật chất do các vụ tham nhũng trên gây ra là rất lớn, có vụ lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Nếu so sánh với mức thu ngân sách hàng năm của đất nước, mức chi hàng năm cho y tế, giáo dục hoặc cho an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo... thì càng thấy rõ mức độ nghiêm trọng của những thiệt hại vật chất do tham nhũng gây ra. Tham nhũng làm hao tổn lớn nguồn lực kinh tế của quốc gia, làm chậm nhịp tăng trưởng của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, tham nhũng còn làm cho người dân bị thiệt hại về kinh tế thông qua việc "buộc phải đưa hối lộ", phải trả thêm tiền khi mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ... vì giá cả hàng hoá, dịch vụ đã được cộng thêm các khoản chi phí, "tiêu cực phí"... của các nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ. Tham nhũng làm tăng thêm gánh nặng về kinh tế đối với người dân trong điều kiện kinh tế vốn đã rất khó khăn. Tham nhũng còn làm cho sự chênh lệch về tài sản, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng. Các lợi ích kinh tế trong xã hội không được phân chia hợp lý; nguồn lực kinh tế của xã hội không được sử dụng hợp lí cho việc thoả mãn nhu cầu hưởng thụ cũng như tái sản xuất của cải vật chất của xã hội. Điều này không chỉ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế mà còn làm tiềm ẩn nguy cơ mâu thuẫn, bất ổn trong xã hội.
Vì vậy, để phát triển kinh tế nhanh và vững chắc, đồng thời không ngừng nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần cho nhân dân cần thực hiện các biện pháp cần thiết để phòng ngừa và đấu tranh mạnh mẽ với tham nhũng. Việc tích cực phòng, chống tham nhũng có ý nhĩa quan trọng không chỉ đối với việc phát triển, tăng trưởng nền kinh tế mà còn có ý nghĩa to lớn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
3.3. Phòng, chống tham nhũng góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền thống, làm lành mạnh các quan hệ xã hội
Với đặc điểm đặc trưng là được thực hiện bởi những người có chức vụ, quyền hạn và với mục đích vụ lợi, các hành vi tham nhũng không chỉ gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, tài sản cho nhà nước và xã hội mà nó còn làm tổn hại nghiêm trọng đến các giá trị đạo đức truyền thống, "làm vẩn đục" các quan hệ xã hội. Sự thiếu gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn; sự tham lam, vụ lợi, "thu vén" cho lợi ích cá nhân của người có chức vụ quyền hạn; sự tha hoá nhân cách, lợi dụng, lạm dụng quyền hành làm trái pháp luật, chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ quyền hạn - sự tham nhũng đã làm cho các giá trị đạo đức truyền thống bị trà đạp nghiêm trọng. Các giá trị đạo đức truyền thống của xã hội, của dân tộc như lòng nhân ái, đức hy sinh, tinh thần tương thân tương ái... không những không được đề cao mà ngày càng mai một. Tư tưởng coi trọng quyền lực và đồng tiền (quá mức) đã làm cho nhiều người (có chức vụ, quyền hạn) thiếu trách nhiệm đối với nhà nước và xã hội, thờ ơ vô cảm với đồng loại, thậm chí hống hách, tàn bạo, coi thường kỷ cương, vi phạm pháp luật. Điều này tác có tác động xấu rất lớn đối với xã hội, làm méo mó các quan hệ xã hội, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đồng thời cổ vũ cho sự tham lam, ích kỷ, lối sống sa hoa truỵ lạc và những thói hư tật xấu khác trong xã hội phát sinh, phát triển.
Trong những năm gần đây, xã hội, lối sống, đạo đức truyền thống của người Việt Nam bị tấn công mạnh mẽ và bị biến thái ở mức độ đáng báo động. Một trong các yếu tố làm cho các giá trị đạo đức và truyền thống bị tấn công, xâm hại chính là tệ nạn tham nhũng. Những hành vi trước đây vốn bị cả cộng đồng lên án, bị coi là xấu, đáng lên án mạnh mẽ như "ăn cắp của công", "đút lót", "hối lộ",... nay đã trở thành hiện tượng khá phổ biến trong xã hội. Các cụm từ như "văn hoá phong bì", "chạy dự án", "chạy chức", "chạy tội",... đã không còn xa lạ mà xẩy ra nhiều, được nói đến nhiều trong xã hội. Tham nhũng đã và đang tấn công mạnh mẽ sang cả những lĩnh vực vốn được cả xã hội tôn vinh, kính trọng là y tế và giáo dục. Nhiều cán bộ có chức, có quyền không chỉ "rút ruột" các công trình nhà nước phục vụ dân sinh hay sản xuất mà cả những công trình dành để tôn vinh các anh hùng liệt sỹ hay ăn chặn tiền, lương thực, thực phẩm mà người dân cả nước với đạo lý "lá lành đùm lá rách" quyên góp để ủng hộ đồng bào các vùng bị thiên tai, bão lũ, ủng hộ người nghèo...
Tham nhũng góp phần làm suy giảm, thay đổi, thậm chí làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống của xã hội, của dân tộc. Sự tha hóa trong lối sống, đạo đức và vi phạm pháp luật của một số người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước nếu không được ngăn chặn, loại bỏ sẽ nhanh chóng lan ra toàn xã hội, tạo thành xu hướng, trào lưu xã hội, làm cho xã hội bị suy đồi và dẫn đến diệt vong. Để bảo vệ xã hội, bảo tồn và phát triển các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống thì nhà nước, mỗi người dân và toàn xã hội cần đồng lòng, chung sức đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng. Việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng chính là hoạt động góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền thống và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
3.4. Phòng, chống tham nhũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ và pháp luật
Nhà nước là cơ quan quyền lực được nhân dân trao quyền, thay mặt nhân dân quản lý và điều hành xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân, duy trì kỷ cương và trật tự xã hội. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý xã hội duy trì trật tự, kỷ cương, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của công dân, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm nói chung, hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng nói riêng, Nhà nước cần phải thực hiện những biện pháp mạnh mẽ, kiên quyết và kịp thời. Đấu tranh chống tham nhũng trước hết là đấu tranh chống những hành vi tiêu cực, đấu tranh với những cán bộ, công chức mang quyền lực nhà nước nhưng lại vi phạm pháp luật nhà nước gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích của nhân dân. Đây là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, lâu dài nhưng rất cần thiết. Việc đấu tranh kịp thời, kiên quyết, không khoan nhượng với các hành vi tham nhũng, tội phạm về tham nhũng giúp cho các cơ quan nhà nước có thể loại bỏ những cán bộ thoái hoá, biến chất làm trong sạch bộ máy, củng cố lòng tin của nhân dân đối với nhà nước, đối với chế độ và pháp luật qua đó tăng cường sức mạnh của nhà nước để nhà nước có thể thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nạn tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua diễn ra rất nghiêm trọng và điều đó đã gây ra những thiệt hại lớn về cả kinh tế và xã hội cũng như làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và pháp luật. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam nhận định: "Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta". Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đánh giá: "Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội".
Mặc dù tham nhũng diễn ra rất nghiêm trọng, thậm chí có trường hợp còn khai, trắng trợn nhưng nhiều người dân cảm thấy bất lực, không dám và không muốn đấu tranh. Điều đó khiến cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng vốn đã khó khăn càng thêm khó khăn. Nguyên nhân của thực tế nêu trên có nhiều nhưng chủ yếu là bởi sự yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội nói chung, chỉ đạo, triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng nói riêng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nhiệm vụ làm trong sạch bộ máy, tăng cường sức mạnh cho bộ máy nhà nước mà chủ yếu thông qua con đường đấu tranh không khoan nhượng với nạn tham nhũng cần được thực hiện một cách quyết liệt. Chỉ có như vậy mới loại bỏ được hành vi tham nhũng, mới khôi phục được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và pháp luật.
Như vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự sống còn của chế độ, hạnh phúc và tương lai của dân tộc. Đây là cuộc chiến đầy gian khó và phức tạp nhằm chống lại những thói hư, tật xấu đang tiềm ẩn trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức - những người được nhà nước và nhân dân trao quyền ở các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng chỉ có thể giành được thắng lợi như mong muốn khi có sự kiên quyết trong chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, của chính quyền cũng như sự hưởng ứng, tham gia tích cực của mỗi công dân. Ngoài ra, cần lưu ý rằng, hai thành tố hợp thành nội dung của cuộc đấu tranh này là phòng, chống tham nhũng. Việc "phòng" và "chống" tham những là hai hoạt động khác nhau nhưng có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Phương châm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là lấy phòng ngừa là chính nhưng đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng. Để phòng ngừa tham nhũng, các cơ quan, tổ chức cần thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục cán bộ, công chức, viên chức không vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, cổ vũ động viên mọi tầng lớp nhân dân phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng. Trong phạm vi quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan tổ chức phải thường xuyên nhắc nhở, giáo dục cán bộ đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, bảo vệ người tố giác... Điều đó góp phần phòng, chống tham nhũng nhưng đồng thời củng cố lòng tin của cán bộ, công chức đối với cơ quan, tổ chức và pháp luật. Khi triển khai hoạt động phòng ngừa tham nhũng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức cần chú trọng thực hiện tốt phương châm "Ba không" là:
- Thứ nhất, cần làm gì, làm thế nào để cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước ta không muốn tham nhũng. Điều này chỉ có thể đạt được khi người có chức vụ, quyền hạn có lập trường vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp cao, coi trọng danh dự bản thân và gia đình, được hưởng chế độ đãi ngộ thoả đáng và được xã hội tôn vinh. Như vậy, bên cạnh việc các cơ quan, tổ chức phải thường xuyên thực hiện tốt việc giáo dục tư tưởng, đạo đức công vụ, trách nhiệm công dân của người cán bộ, công chức để cán bộ công chức có lập trường vũng vàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm hoàn thành công vụ, phục vụ nhân dân, thì Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ, trả công xứng đáng, đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức để họ yên tâm công tác và không vi phạm pháp luật, kỷ luật. Hiện nay, "không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm" . Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng nhận định: "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng" . Do đó, trong thời gian tới cần thực hiện tốt giải pháp mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra là: :" Nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức... Cải cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức" .
- Thứ hai, làm thế nào để người muốn tham nhũng cũng không thể tham nhũng được. Đây chính là trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan tổ chức. Để người có ý định tham nhũng không thể thực hiện được hành vi tham nhũng là việc rất khó. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, các công cụ quản lý khoa học, chặt chẽ, các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát phải được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả. Yêu cầu đặt ra là bên cạnh việc Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, nhất là chính sách, pháp luật liên quan đến các lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính, đất đai, tài sản công..., còn phải xây dựng cơ chế phối hợp khoa học, khả thi trong hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức, kiện toàn và không ngừng nâng cao năng lực bộ máy giám sát, thanh tra, kiểm tra để phát hiện và xử lý tham nhũng. Theo đánh giá của Chính phủ thì hệ thống chính sách, pháp luật ở Việt Nam hiện nay còn chưa đồng bộ và đó chính là nguyên nhân chủ yếu của tình hình tham nhũng. Vì vậy, để đẩy lùi các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, tham nhũng nói riêng, Đảng và Nhà nước cần "Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp".
- Thứ ba, làm cho cán bộ, công chức không dám tham nhũng. Người có chức vụ, quyền hạn sẽ không dám tham nhũng khi Nhà nước có hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, đủ mạnh để xử lý nghiêm minh hành vi tham nhũng; có cơ chế giám sát, phát hiện tham nhũng và đặc biệt có bộ máy phòng, chống tham nhũng hoạt động hiệu quả. Khi mọi hành vi tham nhũng đều bị phát hiện kịp thời và bị xử lý nghiêm minh, các đối tượng tham nhũng đều bị trừng trị thích đáng thì điều đó có tác dụng răn đe rất lớn đối với các hành vi tham nhũng. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong xử lý tham nhũng được nhà nước ta xác định là: "Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng chỉ rõ để hoạt động phòng chống tội phạm nói chung, tham nhũng nói riêng đạt hiệu quả cần phải "... xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu sung công tài sản tham nhũng và có nguồn gốc từ tham nhũng; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực". Việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc răn đe, làm cho người có "điều kiện" tham nhũng không dám tham nhũng, qua đó góp phần hạn chế và đẩy lùi tham nhũng. Tuy nhiên, để hoạt động phòng ngừa tham nhũng đạt hiệu quả và ổn định, thì bên cạnh việc xây dựng pháp luật, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, phát hiện, xử lý tham nhũng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhất là bộ máy phát hiện, xử lý tham nhũng, thì Nhà nước cần phải đảm bảo điều kiện làm việc, có chính sách đãi ngộ thoả đáng, đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước. Đây chính là giải pháp lâu dài, ổn định và bền vững đối với việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Câu 2: Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 2011-2020 của Đảng ta khẳng định: "Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược". Đây là vấn đề quan trọng, xuyên suốt và nhất quán trong chỉ đạo thực hiện đường lối kinh tế của Đảng ta từ nay đến năm 2020.
Phát triển nhanh (PTN) gắn với phát triển bền vững (PTBV) vừa bao hàm cả phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; đồng thời, thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta.
Phát triển nhanh (PTN) gắn với phát triển bền vững (PTBV) vừa bao hàm cả phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; đồng thời, thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta. Về phạm vi, mô hình kinh tế này thể hiện sự gắn kết hài hoà giữa PTN và PTBV trên nhiều lĩnh vực rộng lớn, đan xen nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng. Do đó, PTN gắn với PTBV là phát triển kinh tế ổn định gắn với việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Hay nói cách khác, PTBV là sự phát triển mà thế hệ hôm nay không làm phương hại đến thế hệ ngày mai. Như vậy, nội hàm của phát triển theo nghĩa rộng, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việt Nam vừa bước vào nhóm các quốc gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp. Vì thế, quan điểm PTN gắn với PTBV có một ý nghĩa to lớn trong định hướng phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển 2011) nêu rõ: "Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc"2. Trong bức tranh chung đó, có nhiều thực tiễn sinh động, nhiều bài học kinh nghiệm, cả thành công và thất bại trong lựa chọn mô hình tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới.
Thực tiễn cho thấy, số đông các nước vẫn dừng ở mức những nước đang phát triển với mức thu nhập thấp; tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, năng suất thấp, ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên quốc gia khai thác cạn kiệt; chất lượng tăng trưởng, chất lượng sống của người dân thấp, lạc hậu. Một số quốc gia do điều kiện lịch sử, có điểm xuất phát cao và đã trải qua thời kỳ phát triển TBCN; tuy nhiên, những mâu thuẫn và bất ổn xã hội vẫn thường xuyên diễn ra.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia vẫn đang loay hoay lựa chọn mô hình phát triển; chỉ có số ít nước phát triển đạt được một số tiêu chí cơ bản về chất lượng cuộc sống, chất lượng tăng trưởng, nhưng cũng phải trả giá không nhỏ trong quá trình phát triển. Bởi vậy, PTN gắn với PTBV sẽ là mô hình mà nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhất là những nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, PTN gắn với PTBV có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Thứ nhất, nước ta có điểm xuất phát thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn rất lớn, vì thế đòi hỏi bức thiết là phải rút ngắn khoảng cách, nên phải tăng trưởng nhanh. Thứ hai, về mô hình chế độ xã hội, với 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng; trong đó, đặc trưng bao trùm là "dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"3 đòi hỏi trong từng chặng đường phát triển phải gắn kết chặt chẽ giữa PTN với PTBV. Thứ ba, những kinh nghiệm của các nước trong quá trình phát triển đòi hỏi Việt Nam phải biết tận dụng lợi thế của thời đại mà lựa chọn cho mình con đường đi đúng đắn.
Trong Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, yêu cầu xuyên suốt chính là PTN gắn với PTBV. Bài học kinh nghiệm thứ hai trong Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 chỉ rõ: "Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng"4. Thực tế này khẳng định, Việt Nam sẽ thực hiện và có đủ điều kiện để đảm bảo PTN gắn với PTBV trong giai đoạn mới. Việc xác định mô hình tăng trưởng theo hướng này không chỉ thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc, mà còn là cơ sở khoa học, đảm bảo để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. PTN gắn với PTBV đòi hỏi phải phát triển bền vững về kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế.
Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được "thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử"; bước vào giai đoạn phát triển mới đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; coi trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu và phải chú trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hoá, thực hiện an sinh xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường... Đây vừa là nội dung, vừa là con đường để đảm bảo nền kinh tế nước ta PTN và bền vững trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Vì vậy, PTN gắn với PTBV là mô hình tăng trưởng xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH với nhiều cấp độ khác nhau; giai đoạn phát triển trước là tiền đề của giai đoạn phát triển sau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất có tính kế thừa, sự nhất quán, có cơ sở khoa học và thực tiễn.
Về yếu tố thời đại, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được mô hình này khi biết tận dụng những lợi thế của nước đi sau. Cách mạng khoa học-công nghệ đã tạo ra những điều kiện để các nước đi sau nhanh chóng đi ngay vào hiện đại, tiếp cận những văn minh, tiến bộ của nhân loại, lựa chọn những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phù hợp với tiềm năng của mỗi quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, lựa chọn những công nghệ thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức không chỉ gắn kết mỗi quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, mà còn làm cho nền kinh tế mỗi nước trở thành những mắt khâu bổ trợ cho nhau, tạo thành nền kinh tế thế giới thống nhất. Đó là cơ sở khách quan mang tính thời đại, đảm bảo cho Việt Nam PTN gắn với PTBV trong chặng đường tới.
Về yếu tố nội sinh, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện PTN gắn với PTBV. Trước hết, mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo đất nước xây dựng thành công một xã hội "dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Thứ hai, trong hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo cơ sở để tiếp tục PTN gắn với PTBV. Thứ ba, tiềm năng và lợi thế của đất nước cũng như những thành quả đạt được trên nhiều lĩnh vực đã tạo đà thực hiện mục tiêu này cho những chặng đường tiếp theo.
Trong những năm thực hiện Chiến lược phát triển KT-XH 1991-2000 và 2001-2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Giai đoạn 1991-2000 bình quân tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 7%/năm; giai đoạn 2001-2010 bình quân tăng trưởng kinh tế đạt 7,26%/năm, nước ta ở vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. Đến năm 2010, tổng lực kinh tế Việt Nam đã đạt 101,6 tỷ USD, bình quân GDP theo đầu người đạt 1.168 USD; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,1% năm 2010; tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm còn khoảng 21,6% và tỷ trọng dịch vụ giữ ở mức 38,3%; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 65,1% năm 2000 còn 48,2% năm 2010. Môi trường pháp lý đã được quan tâm tốt hơn, tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng hơn: từ năm 2001 đến tháng 7-2009, Nhà nước đã ban hành 133 luật, 337 nghị quyết, 46 pháp lệnh, 1.141 nghị định và hàng chục nghìn các văn bản quy phạm pháp luật khác; quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen có bước phát triển mạnh. Khu vực kinh tế tư nhân, tập thể và các hộ gia đình tạo ra 45% GDP; môi trường sống được quan tâm và từng bước được nâng lên... Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành 7/9 mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đề ra đến năm 2015.
Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng so với yêu cầu PTN gắn với PTBV vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém: chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện, các cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao và sử dụng nhiều vốn. Năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thấp và chậm được cải thiện; tiêu hao năng lượng lớn: để tạo ra 1 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn một lượng điện năng gấp 2,1 lần của Hàn Quốc, 3,12 lần của Xin-ga-po, khoảng 1,37 lần của Thái Lan; kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chất lượng thấp, thiếu đồng bộ;... Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ, vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, thiếu bền vững; thể chế kinh tế thị trường chưa theo kịp yêu cầu phát triển; sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để, môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, thông thoáng.
Trong lúc đó, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, việc hình thành các loại thị trường còn chậm và chưa đồng bộ; các lĩnh vực văn hoá, xã hội có một số mặt yếu kém, chậm được khắc phục (nhất là về giáo dục-đào tạo và y tế); đạo đức và lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp; chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư còn lớn (2001-2002 là 8,14 lần, đến 2008 là 8,9 lần)5. Môi trường tiếp tục bị xuống cấp, nhưng chúng ta chưa có các giải pháp đồng bộ khắc phục triệt để; ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng nề; tài nguyên đất đai, rừng chưa được quản lý, sử dụng có hiệu quả. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn có mặt bất cập, chậm được cải thiện...
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ảnh hưởng tới PTN gắn với PTBV của nước ta có cả chủ quan và khách quan. Về khách quan, do thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu làm cho hạ tầng kinh tế, đời sống nhân dân ở những vùng bị tác động của thời tiết xấu đã khó khăn, càng khó khăn hơn; xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, nhiều vấn đề xã hội đặt ra cần sớm được giải quyết, như: xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, lao động, việc làm... Cùng với đó là những vấn đề mới nảy sinh chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đặc biệt là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch...
Về chủ quan, đó là tư duy phát triển KT-XH chậm được đổi mới, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất nước; tồn tại quá lâu mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, bệnh thành tích còn nặng; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên nhiều mặt còn hạn chế, nhất là những khâu đột phá, then chốt, những vấn đề xã hội còn bức xúc; sức mạnh toàn dân tộc chưa được phát huy tốt nhất...
Thực tiễn trên cho thấy, nước ta hội tụ đủ các yếu tố để PTN gắn với PTBV trong giai đoạn mới; trong đó, phải PTN để rút ngắn trình độ phát triển giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nhưng, nếu chỉ chú ý PTN mà không quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội, môi trường sinh thái thì không đạt được mục tiêu "dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Để đảm bảo PTN gắn với PTBV, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chặng đường từ nay đến năm 2020, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là đối tác và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.
Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an toàn và hiệu quả trong hoạt động của nền tài chính quốc gia.
Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài bảo đảm cho tốc độ tăng trưởng cao; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bốn là, thực hiện tốt việc phát triển các lĩnh vực văn hoá-xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo nền tảng để xây dựng một xã hội đồng thuận, cởi mở.
Sáu là, thực hiện nghiêm túc chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo khả năng chủ động đối phó với biến đổi khí hậu trong các giai đoạn sau của nền kinh tế.
Câu 4: Phân tích những đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng.
Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa "cái phổ biến" và "cái đặc thù," cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh .
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh...là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc...
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp...".
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân...
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế...Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu trên vừa thể hiện tính toàn diện và sự thống nhất của các đặc trưng đó trong một chỉnh thể, phản ánh được bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Những đặc trưng ấy trả lời câu hỏi xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì? Tính phổ biến và tính đặc thù của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện như thế nào?
Có thể nói, tính toàn diện và tính thống nhất của các đặc trưng thể hiện ở chỗ các đặc trưng này phản ánh toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quan hệ đối ngoại, và sự thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, kinh tế, chính trị và xã hội, đối nội và đối ngoại.
Còn về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Chúng ta có thể tìm thấy trong các đặc trưng về chế độ chính trị và nhà nước.
Trước hết phải kể đến bản chất của chế độ chính trị mà cốt lõi của chế độ chính trị là Nhà nước. Ở nước ta, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là cộng hoà xã hội chủ nghĩa) ra đời xác lập địa vị mới của nhân dân, từ nô lệ làm thuê thành người làm chủ; đồng thời xác lập địa vị mới của Đảng ta, Đảng cầm quyền. Vì thế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ phận nòng cốt của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền. Với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo là điều kiện tiên quyết để nhân dân làm chủ, nhà nước đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân làm chủ thể hiện bản chất chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Hai là, bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã kế thừa đặc trưng thứ hai của Cương lĩnh 1991 "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu". Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện bản chất của chế độ kinh tế xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có chế độ công hữu tư liệu sản xuất với lực lượng kinh tế thuộc về xã hội, về nhân dân mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện mới thực hiện được các mục tiêu chính trị, xã hội, văn hoá ngày càng sâu rộng của chủ nghĩa xã hội. Nó khác bản chất nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với mục đích là lợi nhuận tối đa và phương thức là bóc lột giá trị thặng dư đối với giai cấp công nhân, cạnh tranh khốc liệt kiểu cá lớn nuốt cá bé, kể cả gây các cuộc chiến tranh xâm lược, chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém.
Cũng cần nói thêm rằng: 1- Khi nói, chúng ta không được chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo quy luật khách quan "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" không có nghĩa là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tự phát hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất kể cả khi giai cấp công nhân có chính quyền. Cần khắc phục khuynh hướng sùng bái tính tự phát trên vấn đề này. 2- Quan hệ sản xuất mới ra đời như những "mầm non" còn rất yếu lại đặt trong điều kiện chủ nghĩa tư bản vẫn còn sức mạnh trên nhiều lĩnh vực kinh tế, quân sự, kinh nghiệm quản lý thì chúng ta không thể đòi hỏi có đầy đủ hoàn toàn tính ưu việt của quan hệ sản xuất mới. Đặc biệt khi mà chủ nghĩa xã hội chưa thoát khỏi thời kỳ thoái trào, các thế lực thù địch ra sức tiến công vào chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá... Trong đó, kinh tế là một đối tượng mà các thế lực thù địch tiến công nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước với kinh tế, xoá bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Bản chất, mục tiêu xã hội của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện trong Dự thảo Cương lĩnh là đặc trưng phản ánh bản chất xã hội của chủ nghĩa xã hội đồng thời thể hiện mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội Việt Nam từng bước hướng tới và đạt chín muồi khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như Dự thảo Cương lĩnh ghi: "Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh. Từ nay đến khoảng giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện tính toàn diện, tính thống nhất trong chỉnh thể, phản ánh bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa được coi như mô hình tổng thể về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta định hướng xây dựng. Tuy vậy, với những đặc trưng hay cách sắp xếp thứ tự các đặc trưng như thế nào cho thật khoa học, phù hợp thực tiễn vẫn cần được thảo luận bổ sung. Thí dụ: 1- Đặc trưng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh có cần bổ sung thêm mục tiêu nào không?; 2- Cách sắp xếp theo trình tự đặc trưng thể hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh đến đặc trưng chính trị: nhân dân làm chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... do Đảng lãnh đạo theo trình tự nào cho hợp lô-gích hơn; 3- Vẫn những nội dung trên nhưng để sáu hay để tám đặc trưng, cách nào chặt chẽ hơn.
Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đóng góp ý kiến xây dựng, chắc chắn Đảng ta sẽ thu được nhiều ý kiến đóng góp có giá trị bổ sung phát triển, hoàn thiện. Và khi Đại hội XI của Đảng thông qua, Cương lĩnh đó trở thành ngọn cờ chiến đấu, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tiến lên xây dựng nước Việt Nam XHCN ngày càng vững mạnh, phồn vinh.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com