Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Blog Tử vi tinh quyết - 2

Luận 12 cung - Vương Đình Chi

Luận Mệnh thông qua Đẩu Số quan niệm:"Bất kể sự tình nào cũng đều có thể căn cứ vào mệnh bàn mà dự đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không".

Bộ sách Hiện đại Tử Vi quan niệm:"Đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu số mới có thể luận đoán. Nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không có cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ".

1- Cung Mệnh

Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh.

Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không, .v.v...

Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.

Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.

2- Cung Huynh đệ

Trong xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung Huynh đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn, đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao hữu), tương hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách.

Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều hay ít và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết được những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xem gia tộc có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát cung Tật Ách là rất quan trọng.

Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gì quan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn không còn hợp thời.

Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với mệnh tạo (theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn"đồng môn"và bạn"đồng niên")

Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư Huynh chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người, nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà định.

Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có"sao đôi"hội hợp thì mới có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất thân.

Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về nhiều anh chị em.

Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủ cung Huynh đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ về anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâm hiệp lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp thêm các sao Hình - Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.

Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình - Kị, lại còn gặp thêm Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranh chấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương đồng độ chủ về kiện tụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 - 5 - 9 cư Tị, tháng 2 - 6 - 10 cư Thân, tháng 3 - 7 - 11 cư Dần, tháng 4 - 8 - 12 cư Hợi ].

Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc bất lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh chấp. Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có hình thương.

Cung Huynh đệ gặp"Lộc Quyền Khoa", chưa chắc chủ về anh chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắt sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có cung một xuất thân thăng tiến nhanh hơn mệnh tạo.

Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay đến cung Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có"hình thương", hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được, hoặc chủ về anh em nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồng sự, thì tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn bên trong lại có khuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tình hình giữa đồng sự với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt.

3- Cung Phu Thê

Cung Phu Thê hội hợp"tam phương tứ chính"là cung Phúc Đức, cung Quan Lộc và cung Thiên Di. Cách phối trí này rất logic.

Sự nghiệp của một người đương nhiên chịu ảnh hưởng của sinh hoạt hôn nhân, di cư (Thiên di) tha hương, nếu không phải là vợ chồng sinh ly tử biệt thì hoặc là vợ chồng đều nên sống ở tha hương, đây cũng là vấn đề trọng đại của đời người, còn cung Phúc đức chủ về sinh hoạt tinh thần của con người, mà quan hệ hôn nhân có ảnh hưởng đến sinh hoạt tinh thần, điều này không nói cũng biết.

Cho nên việc quan sát và luận đoán cung Phu thê, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phúc đức, cung Quan lộc và cung Thiên di, các sao của ba cung này cũng chịu ảnh hưởng các sao của cung Phu thê, đây là hiện tượng rất hợp lý.

Tiết này tuy dùng phương thức trình bày giản lược về các tinh hệ của hiện tượng hôn nhân, nhưng đã suy tính đến mối liên hệ của"tam phương tứ chính". Để tiện cho người nghiên cứu những ảnh hưởng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh đối với tính chất các tinh hệ chính diệu, nên sau khi trình bầy tính chất của 14 tinh hệ chính diệu, vẫn có thêm một mục trình bầy tính chất của các sao Phụ Tá Sát ở cung Phu thê, để có thể dung hợp nó với tính chất của tinh hệ chính diệu, xem nó làm mạnh thêm hay yếu đi, hoặc tình hình chuyển hóa như thế nào.

Ví dụ tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"chủ về trước hôn nhân có sóng gió, trắc trở, hơn nữa còn chủ về phiêu bạt, còn tính chất của Lộc tồn là vợ chồng ân ái, chỉ dễ bị người phối ngẫu bắt nạt, hà hiếp, vì vậy mà hai người chia ly. Nếu dung hòa hai tính chất này, thì tham khảo thêm ở đại hạn hoặc lưu niên để luận đoán xem phần nhiều xảy ra chuyện gì.

Có điều khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xem cung Phu thê, mà còn nên xem kiêm tinh hệ của cung Mệnh. Trong xã hội hiện đại, sinh hoạt hôn nhân giữa vợ và chồng, việc luận đoán không ngoài những hạng mục như tình cảm, tài năng, dung mạo, và tài phú. Thế sự lại rất khó toàn mỹ, tài năng và dung mạo cũng rất khó lưỡng toàn, nhưng cũng không phải là không có khả năng tài năng, dung mạo, tài phú đều có đủ, cho tới trường hợp khi các phương diện đều hợp với lý tưởng, thì tình cảm lại thường thường dễ xảy ra thay đổi. Cho nên đạo của vợ chồng, quý ở chỗ biết thích ứng. Tiết này chỉ ra những hiện tượng quan trọng, mà còn gợi ý biện pháp dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu và thích ứng với cuộc sống hôn nhân.

Dưới đây là một số thể lể thích hợp cho tính hình chung, dùng để luận đoán cung Phu thê.

Luận đoán cung Phu thê xem có mỹ mãn hay không, ngoại trừ việc quan sát cung Phu thê ra, còn cần phải xem xét tinh hệ của cung Mệnh, sau đó dung hòa hai tính chất này.

Mỗi một cung Phu thê của đại hạn đều phải chú ý xem xét, sau đó mới có thể nhìn ra sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân và tình cảm vợ chồng. Nhưng thông thường không cần dùng thêm tinh hệ của cung Mệnh đại hạn để trợ giúp trong việc luận đoán, trừ khi xem tai nạn bệnh tật.

Muôn luận định về hôn nhân, tốt nhất là mang tinh bàn của cả hai người nam và nữ ra quan sát một lượt, chỉ càn quan sát cặn kẽ, tỷ mỉ thì có thể nhìn ra một số tình tiết.

Khi luận đoán cung Phu thê, phải lưu ý một nguyên tắc, nhiều Cát tinh chưa chắc có lợi, như Xương Khúc chủ về người phối ngẫu quan tâm, chăm sóc, nhưng lại đồng thời có thể có tình nhân bên ngoài. Các sao Hung, sao Ác cũng chưa chắc là không tốt, như Đà La chủ về phối ngẫu rời xa quê hương, nhưng nếu gặp Lộc tồn, nhưng nếu gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì lại chủ về phát tài ở nơi xa, hơn nữa tình cảm vợ chồng có thể rất tốt. Cho nên cần phải cân nhắc tỷ mỉ cẩn thận.

Luận đoán cung Phu thê của Đại hạn hoặc Lưu niên, ngoại trừ tham khảo tiết này, còn cần phải căn cứ vào bản chất của tinh hệ thủ cung Phu thê nguyên cục.

4- Cung Tử tức

Trong mệnh bàn Đẩu Số, cung Tử tức và cung Điền trạch đối nhau, cung Tử tức tương hội với cung Phụ mẫu và cung Nô bộc. Kết cấu dạng này rõ ràng phản ảnh chế độ đại gia tộc thời xưa.

Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, con cái là do đầy tớ (nô bộc) phục dịch, do đó cung Nô bộc có ảnh hưởng nhất định đối với cung Tử tức. Đồng thời có thể nhìn ra quan hệ"kế thừa sự nghiệp của cha ông"từ tổ hợp các sao của cung Phụ mẫu và cung Tử tức, còn đối với cung Điền trạch, Đẩu Số dùng để quan sát gia trạch, đương nhiên càng có tương quan với cung Tử tức.

Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệ của cung Huynh đệ là phô bầy cả một đại gia tộc, dùng để quan sát thế hệ bề ngang của mệnh tạo, thì tổ hợp tinh hệ của cung Phụ mẫu và cung Tử tức là một biểu đồ theo chiều dọc, dùng để quan sát từ ông Tổ đến cha mẹ, rồi từ cha mẹ đến con cái, cả một dòng họ truyền từ đời trước sang đời sau.

Ngày nay, chế độ đại gia tộc theo kiểu phong kiến đã sụp đổ, kết cấu tinh hệ ở cung Tử tức và tam phương tứ chính đương nhiên đã mất đi một số ý nghĩa ban đầu. Nhất là cung Nô bộc, ngoại trừ để xem mối quan hệ với nhân viên làm thuê và người trực tiếp dưới quyền, thì ngày nay còn dùng để quan sát bạn bè, đương nhiên sẽ cảm thấy quá cách xa cung Tử tức. Vì vậy trong thực tế ứng dụng, càng cần phải định ra một số nguyên tắc khác.

Sự tương quan hợp lý thứ nhất giữa hai cung, đó là lấy sự quan sát"mối quan hệ gia tộc"như trước kia, cải biến thành quan sát"địa vị xã hội". Bởi vì từ các tình trạng tốt xấu của cha mẹ, hay nhân viên làm thuê và bạn bè, cho tới con cái của mệnh tạo, có thể luận đoán ra địa vị xã hội của đương số.

Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì mệnh tạo phải là người lúc còn nhỏ được cha mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng được bạn bè giúp đỡ ủng hộ, đồng thời còn được nhân viên làm thuê trợ lực, đến trung niên thì phát triển sự nghiệp, đến vãn niên thì có con cái có thể kế thừa sự nghiệp của cha ông. Người này là mẫu người điển hình của loại"lúc nhỏ là thiếu gia, lúc già gọi là lão gia", có địa vị xã hội như thế nào chắc là không cần phải nói.

Nếu cung Phụ mẫu và cung Nô bộc không cát tường, nhưng cung Tử tức thì có Cát tinh tụ tập, như vậy có thể luận đoán mệnh tạo rất có khả năng phải trải quan gian lao vất vả, rồi mới tay trắng tạo nên sự nghiệp, sau trung niên ít nhất cũng có địa vị vào hạng trung lưu.

Dựa vào điểm suy đoán này, có thể trợ giúp chúng ta luận đoán ra vận trình của bản thân mệnh tạo. Ngược lại, từ vận trình của bản thân mệnh tạo, cũng có thể luận đoán ra con cái của mệnh tạo có thành tựu hay không !

Ví dụ như, nếu cung Phụ mẫu là Cát, cung Mệnh cũng cát, cung Nô không xấu, nhưng cung Tử tức lại xấu, thế thì, có khả năng không có người thừa kế, cũng có thể là con cái bất tài, phẩm hạnh quá kém.

Vì vậy có thể căn cứ vào tinh bàn để tìm ra một số chỉ dẫn. Ví dụ như quan sát sự hiển thị của cung Tử tức, để biết về tính cách con cái của mệnh tạo mà đưa ra một số lời khuyên

Đây cũng chính là nói, từ"tam phương tứ chính"của cung Tử tức ngoại trừ xem có con nhiều hay ít, còn luận đoán về tình cảm của mệnh tạo đối với con cái, và tính cách chủ yếu của con cái. Liên quan về những luận đoán này, ta cần kết hợp với cung Tử tức của đại hạn và lưu niên để đánh giá về vận mệnh của con cái đương số, để biết con cái của đương số có thành tựu hay không?

5- Cung Tài bạch

Tiền bạc (tài bạch) là tư liệu để nuôi sống, nhất là trong xã hội thương nghiệp, địa vị xã hội của một người đầu như do tiền bạc quyết định, vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu làm nghề nghiệp gì để kiếm tiền, đã trở thành vấn đề khá quan trọng.

Liên quan đến vấn đề trọn nghề nghiệp gì cho thích hợp, đã được thảo luận khi tường thuật về tổ hợp tinh hệ của cung Mệnh, nên khi nghiên cứu cung Tài bạch, chủ yếu tập trung về thành tố"tài khí"như thế nào, có tiền của dần dần hay phát lên một cách nhanh chóng, sau khi có tiền của thì có giữ được hay không.

"Tam phương tứ chính"của cung Tài bạch là đối cung Phúc đức, và hai cung tam phương là cung Mệnh và cung Sự nghiệp. Cung Phúc đức chủ về hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần. Chuyện cơm áo gạo tiền khiến cho người ta phải lo toan nghĩ ngợi, và tình trạng nghèo hay giầu có thể ảnh hưởng đến tinh thần của một người. Đủ thấy tính chất ảnh hưởng qua lại của cung Phúc đức và cung Tài bạch.

Đối với cung Mệnh, vận thế của mệnh tạo và cách cục chủ yếu được quyết định từ đây, đương nhiên có liên quan đến"tài bạch". Mối liên hệ giữa Sự nghiệp và Tài bạch, đương nhiên cũng là then chốt hỗ tương. Cung Mệnh, cung Sự nghiệp, cung Tài bạch hội hợp, đúng là tượng trưng cho"vị thế của lợi lộc".

Nếu chỉ đơn thuần dựa vào cung Tài bạch của nguyên cục để luận đoán tiến bạc"được mất", thường thì chẳng đúng, bởi vì nó chỉ hiện thị những tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán một cách tinh tế và chính xác, nhất định phải xem xét tới cung Tài bạch của đại hạn để luận đoán, sau đó mới có thể biết sự phát triển tài vận của một đời người, còn cung Tài bạch nguyên cục chỉ chủ về xu thế chung của tài vận.

Điều cần chú ý là, lúc luận đoán cung Tài bạch của đại hạn mà gặp"lưu Lộc","lưu Quyền","lưu Khoa","lưu Tồn","lưu Mã","lưu Dương","lưu Đà", thì tất cả chúng có cùng một tác dụng như các điều đã thuật về tính chất cơ bản của chúng.

6- Cung Tai ách

"Tam phương tứ chính"của cung Tai ách là cung Phụ mẫu, cung Huynh đệ và cung Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ đại gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hội phong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội, thường thường có thể liên lụy đến người thân, vì vậy tổ hợp"tam phương tứ chính"này có một ý nghĩa đặc thù.

Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi, nhưng cung Tật ách đối xung với cung Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội phương với cung Điền trạch để xem trạng thái sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Thậm chí quan sát các sao thủ các cung hội hợp với cung Huynh đệ để xem"đời người"có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của phái Trung Châu mà Vương Đình Chi đại diện thì vẫn hữu hiệu.

Cung Tai ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên quan đến vấn đề tai ách có xảy ra hay không, cung Tai ách thực ra chỉ có thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải phối hợp thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung Tai ách. Còn đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem xét cả tinh hệ của cung Mệnh lẫn tinh hệ của cung Tai ách, hai cung đều quan trong ngang nhau. Ví dụ như"Liêm trinh Thất sát"thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung Tai ách gặp tinh hệ này thì đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật ách gặp sao Ác, mà cung Mệnh là"Liêm trinh Thất sát", thì cũng chủ về đường hô hấp.

Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung Mệnh và tinh hệ của cung Tai ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ cung Tật ách gặp"Liêm trinh Thất sát", có Sát tinh hội chiếu, cung Mệnh gặp Hồng loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có thể phát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tác, đến khi cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng loan, Thiên Hỷ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì mới phát bệnh.

Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinh nghiệm bí truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề bệnh tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh hoạt, không nên quá câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung Mệnh và cung Tai ách, cùng với các sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang"Lưu diệu"của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể chính xác.

Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư vòm họng, tinh hệ chủ yếu vẫn là"Liêm trinh Thất sát", hành vận đến cung hạn Thiên đồng và Cự môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà còn gặp Long trì đồng độ hoặc xung chiếu cung Mệnh, còn"Liêm trinh Thất sát"lại hội hợp với Hỏa tinh Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong đại hạn này sẽ phát bệnh. Lấy trường hợp này làm ví dụ, để người nghiên cứu có thể thấy được phần nào phép tắc luận đoán bệnh tật.

Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấy nguyên lý Âm Dương Ngũ hành của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo Y học hiện đại.

7- Cung Thiên Di

Trong Đẩu Số, cung Thiên di dùng để luận đoán về vấn đề từ nơi sinh ra dời đến nơi khác để ở, đồng thời cũng có thể dùng để luận đoán tình trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên di của lưu niên, cũng luận đoán về những tao ngộ khi đi đâu xa, như có vui vẻ hay không? có bị trộm cướp hay không? có gặp điều gì bất ngờ hay không?

Do cung Thiên di và cung Mệnh xung chiếu nhau, vì vậy các sao của cung Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo, đặc biệt là về năng lực xã giao, quan hệ giao tế, .v.v...

Cung Di tương hội với cung Phúc, nên sự hưởng thụ tinh thần của một người đúng là có liên quan với quan hệ giao tế và hoạt động xã giao củ người đó. Còn việc đi ở nơi khác đem lại kết quả tốt hay xấu, đương nhiên có thể căn cứ phần nào vào tinh trạng hưởng thụ tinh thần mà luận đoán.

Cung Di tương hội với cung Phu thê là rất hợp lý, bởi vì cho dù ở thời cổ đại, một người rời đại gia đình để phát triển hoặc vẫn ở quê hương sinh sống làm ăn, đương nhiên cũng có quan hệ với sinh hoạt vợ chồng. Các mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh hưởng của người phối ngẫu. Đối với việc mang gia đinh đi nơi khác lập nghiệp thì càng có quan hệ mật thiết với người phối ngẫu.

Do đó có thể thấy, tổ hợp các sao ở cung Di trong Đẩu Số là rất quan trọng, thậm chí có thể nói chỉ kém hơn cung Mệnh và cung Thân. Hơn nữa khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có một điểm cần biết, đó là khi một người rời nơi sinh ra, đến nơi khác để ở, xu thế vận mệnh của năm đầu tiên, là do cung Di quyết định, mà không phải do cung Mệnh quyết định. Do đó cần phải lấy cung Di làm cung Mệnh để xem xét, các cung vị khác vẫn không thay đổi.

Giả dụ một người không ngừng di chuyển (như thuyền viên, phi công, .v.v...), không ở cố định một nơi nào, cũng phải lấy cung Di làm cung Mệnh để luận đoán.

8- Cung Giao hữu (Nô bộc)

Cung Giao hữu cổ nhân gọi là cung Nô bộc. Trong xã hội cổ đại,"nô bộc"là thành viên của gia đình. Một đời làm"nô bộc", đời đời là"nô bộc", cho nên sự tốt xấu của cung Nô bộc đúng là có liên quan đến sự thịnh suy của gia tộc. Vì vậy các nhà Đẩu Số cổ đại khi luận đoán khá xem trọng"nô bộc"có lực hay không? nô bộc nhiều hay ít? có phản chủ không? có giúp đỡ chủ không? mức độ trợ lực cho chủ là cao hay thấp?

Ngày nay, cung Nô bộc đổi thành cung Giao hữu là một sự cách tân rất lớn. Về mặt lý luận, ngày nay đã không còn mối quan hệ chủ tớ như ngày xưa, dó đó về căn bản, không cần nhìn từ"nô bộc"để suy diễn ra vận mệnh của một gia tộc. Nhưng sự tốt xấu của các mối quan hệ giao tế là rất quan trọng đối với người hiện đại, việc sửa đổi thành cung Giao hữu đúng là đã mang lại cho khoa Đẩu Số cổ xưa một hàm nghĩa mới.

Có lẽ, nhiều người sẽ hoài nghi rằng:"Cổ nhân truyền lại pháp môn này, sao có thể tùy tiện sửa đổi?"Thực ra Đẩu Số là đời đời tương truyền, đã luôn luôn biến động thay đổi, từ"Thập bát phi tinh"phát triển thành"Tử Vi Đẩu Số"chính là một biến động thay đổi cực lớn. Về sau, từ thời Nam Tống cho đến Minh Thanh, đời nào cũng có người truyền lại không ít khẩu quyết khá hữu dụng, đó cũng là sự biến đổi cách tân trong Đẩu Số. Vì vậy vấn đề không phải ở chỗ có nên thay đổi hay không, mà là những thay đổi cách tân đó có hợp lý hay không?

Thử xét tam phương tứ chính của cung Nô bộc, đối cung là cung Huynh đệ, cung hội hợp là cung Phụ mẫu và cung Tử tức, đây rõ ràng là một tổ hợp tổ tông ba đời và nô bộc, cũng tức là một mô thức điển hình của gia tộc cổ xưa.

Ngày nay lấy tính chất"nô bộc"biến đổi thành tính chất"quan hệ giao tế". Theo phái Trung Châu, cũng lấy cung Huynh đệ xem là quan hệ với người ngang vai. Lấy cung Phụ mẫu xem là quan hệ với bậc trưởng bối. Lấy cung Tử tức xem là quan hệ với những người thuộc vãn bối. Các sao của ba cung vị này hội chiếu với cung Giao hữu, vì vậy sẽ phản ảnh các mối quan hệ giao tế một cách chỉnh thể.

Lúc luận đoán Đẩu Số, khi lấy cung Giao hữu dùng để luận đoán về mối quan hệ với nhân viên làm thuê hoặc người dưới quyền, cũng cần đồng thời lấy"Phụ mẫu"xem là ông chủ, thượng cấp, hoặc bậc tiền bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, lấy"Tử tức"xem là trợ thủ trực thuộc, hoặc những người thuộc lớp vãn bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, và lấy"Huynh đệ"xem thành nhưng người ngang vai với mệnh tạo, còn cung Giao hữu là một phản ánh chung.

Người mới bắt đầu tiếp cận với Đẩu số thường mắc phải một bệnh, đó là không quan sát toàn diện các sao của các cung có liên quan. Lấy việc không quan sát các sao của cung"nô bộc"làm ví dụ, cổ nhân lấy cung Phụ mẫu và cung Nô bộc có quan hệ hỗ tương như thế nào, từ đó có thể biểu thị tình trạng"nô bộc"của đời"phụ mẫu". Nếu cũng lấy cung Huynh đệ và cung Tử tức ra quan sát, xem xét mối quan hệ hỗ tương của chúng với cung Nô bộc, thì có thể biết được tình trạng"nô bộc"ba đời.

Ngày nay quan sát cung Giao hữu cũng có thể dùng biện pháp như vậy. Nếu lấy cung Phụ mẫu và cung Giao hữu ra so sánh, đồng thời tiến hành nghiên cứu mối quan hệ của chúng, thì có thể nhìn ra mối quan hệ của thượng cấp và người dưới quyền của mệnh tạo.

Ví dụ như cung Phụ mẫu có Thiên lương độc tọa ở Ngọ, cung Giao hữu có Thiên đồng độc tọa ở Tuất, còn cung Huynh đệ là Cự môn ở Thìn có Sát tinh chiếu xạ, thế là chúng ta có một giả định tốt nhất là: thượng cấp là một người rất thích soi bói, bới lông tìm vết, trong đồng sự có người ưa đâm bị thóc chọc bị gạo, vì vậy mà bản thân mệnh tạo thường bị ở vào tình trạng lúng túng, khó xử về quan hệ giao tế ở nơi làm việc, có thể sẽ bị lôi kéo vào vòng tranh chấp, bất hòa. Điềm này có thể nhìn ra từ tính chất của Thiên đồng ở cung Tuất.

Nhưng nếu Thiên lương có hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa hội hợp, thì tính chất của Thiên lương sẽ biến thành cao thượng, độ lượng, Thiên đồng thủ cung Giao hữu cũng sẽ bị ảnh hưởng của"Lộc Quyền Khoa hội"mà được cải thiện.

Trung Châu phái đưa ra phương pháp luận đoán này, có thể giúp cho người mới nghiên cứu Đẩu Số tìm ra tình trạng quan hệ nhân tế của mỗi giai đoạn trong cuộc đời một người khá rõ ràng.

9- Cung Sự nghiệp (Quan lộc)

Cung Sự nghiệp cổ nhân gọi là cung Quan lộc, đó là vì ở thời cổ đại địa vị xã hội của những người trong giới"công","thương","nông", đều rất thấp, chỉ có học hành để ra làm quan mới là con đường tốt nhất.

Cho nên trong tinh bàn Tử vi Đẩu Số, cung Quan lộc và cung Phu thê phải đối nhau. Đó là vì Quan lộc sự nghiệp của một người có thể ảnh hưởng đến địa vị của vợ con.

Ngày nay xã hội đã hoàn toàn khác, địa vị của giới doanh nhân rất cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, có thể nói mọi con đường đều quy tụ về tiền. Học hành để ra làm quan không còn là con đường lý tưởng duy nhất. Người đàn ông thường lấy sự nghiệp làm trọng, vì vậy"cung Quan lộc"được các nhà Đẩu Số hiện đại đổi lại cách gọi tên, được gọi là cung Sự nghiệp. Mà cung Sự nghiệp và cung Phu thê xung chiếu nhau, cũng có nghĩa là xem sự nghiệp và gia đình mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát các sao của hai cung này xem có điều hòa hay không.

Trong bối cảnh như vậy, cổ nhân đã định ra một số nguyên tắc luận đoán"cung Quan lộc"có thể nói là không còn hợp thời. Ví như"Thái dương nhập miếu được Cát tinh vây chiếu là quan nhất phẩm đương triều"(Thái dương nhập miếu đắc cát củng, nhất phẩm đương triều),"Thiên đồng nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm"(Thiên đồng nhập miếu, văn vũ tam phẩm chi chức),"Phá quân ở cung nhàn nên làm nghề thủ công, gặp Cát tinh thì có thể mua chức quan"(Phá quân nhàn cung nghi thủ nghệ, kiến cát tắc khả quyên ban). Tất cả những luận đoán này, ít nhiều đã lỗi thời ở thời hiện đại.

Nói một cách thẳng thắn, chúng ta có thể biết tính chất tổ hợp các sao phù hợp với nghề gì, nhưng lại không thể dựa vào các sao mà nói ra nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngoài ra, khi phán đoán nghề nghiệp của một người, còn phải tham khảo các sao của cung Mệnh và cung Phúc đức, điểm này cần chú ý.

Liên quan đến vận thế sự nghiệp cuộc đời của một người, cũng không nên chỉ căn cứ ở cung Sự nghiệp nguyên cục để luận đoán, mà còn cần phải quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên, căn cứ vào cung Sự nghiệp của hành hạn, để nghiên cứu một cách tỷ mỉ, thêm vào đó là phối hợp"Lưu diệu", xem vận thế nghề nghiệp thuận hay nghịch như thế nào, tự nhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác hơn.

10- Cung Điền trạch

Trong Đẩu Số, cung Điền trạch có hai ý nghĩa:

Một là, quan sát các sao ở cung Điền trạch của nguyên cục, có thể biết được vận thế địa sản của cuộc đời mệnh tạo, như cha mẹ có để lại di sản không, sau khi thừa kế di sản có phá tán, thất bại không, và vận thế mua thêm nhà cửa đất đai của mệnh tạo như thế nào?

Hai là, quan sát các sao cua cung Điền trạch của lưu niên hoặc đại hạn, có thể biết được năm (hoặc đại hạn) nào có thể mua thêm nhà cửa đất đai không, có dời chỗ ở không.

Hai điểm vừa thuật ở trên, là ý nghĩa phổ biến của cung Điền trạch. Ngoài ra, cung Điền trạch còn có thể dùng để trợ giúp luận đoán vận gia trạch của lưu niên. Lúc này liên quan đến tính chất của tổ hợp các sao ở cung Điền trạch.

11- Cung Phúc Đức

Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số, là dùng để luận đoán hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu so với cung Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân là chủ về hưởng thụ vật chất, vận trình thực tế, còn cung Phúc đức thì chủ về những thứ trìu tượng hơn.

Có một số người nhìn bề ngoài thì nhận thấy"công thành danh toại"khiến cho người ta phải ngưỡng mộ, nhưng có thể nội tâm của người này đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đây là vì cung Mệnh và cung Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có những khiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm mà thôi, nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung Mệnh và cung Thân không tốt mấy, mà cung Phúc đức lại tốt.

Cung Phúc đức và cung Tài bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt tinh thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tài phú, tam phương hội chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự hưởng thụ tinh thần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt hôn nhân, tam phương cũng tương hội với cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của con người ta, có thể ảnh hưởng đến động hướng của người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm hướng phát triển, thường chỉ quyết định trong một hoài niệm.

Những điều trình bầy trong"tiết"này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau, thì rất khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ra một số điểm chính yếu quan trọng.

Khi luận đoán cung Phúc đức, lấy cung Phúc đức của Thiên bàn làm chủ, dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và xu thế chủ yếu về phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc đức của đại hạn và lưu niên (Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng năm mà xác định được sự thay đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về một vấn đề của người đó. Như cung Phúc đức của Thiên bàn là sao Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bản chất, trong một vận trình gặp Thiên cơ ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu niên, thì tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, nhưng lại chủ về mệnh tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến. Như vậy khi luận đoán nhát thiết không được xem thường tính chất chủ yếu của cung Phúc đức nguyên cục.

12- Cung Phụ Mẫu:

Trong Đẩu Số, cung Phụ mẫu có 3 ý nghĩa về luận đoán:

Một là, luận đoán duyên phận của mệnh tạo đối với cha mẹ, các tình huống sống chết tồn vong, cát hung họa phúc của cha mẹ.

Hai là, mối quan hệ giữa mệnh tạo với thượng cấp, hay ông chủ như thế nào?

Ba là, trong xã hội phải có quan lại quản hạt, hoặc cấp chủ quản trong công việc, họ có thể ước thúc hành động của mệnh tạo trong một thời kỳ. Những quan lại quản hạt hoặc cấp chủ quản trong công việc này có mối quan hệ như thế nào đối với mệnh tạo?

Trong ba điểm trên, cung Phụ mẫu của Thiên bàn (hoặc Địa bàn) chủ yếu dùng để luận đoán điểm"Một".

Sau khi luận đoán được tính chất chủ yếu, vẫn cần phải căn cứ vào cung Phụ mẫu của từng Đại hạn và mỗi một lưu niên (Nhân bàn) để luận đoán, để xác định cát hung họa phúc của cha mẹ mỗi thời kỳ.

Còn điểm"Hai"và"Ba"chủ yếu được dùng để luận đoán cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc lưu niên (Nhân bàn). Nhưng cần phải ứng dụng một cách linh hoạt những tính chất thuật ở Tiết này.

Ví dụ như Thiên Cơ thủ cung Phụ Mẫu, khi có Thiên Mã đồng độ hoặc xung chiếu, thì chủ về còn bé đã chia ly với gia đình. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, lại có thể là một vận trình ly biệt do thượng cấp đề bạt mệnh tạo, hoặc chủ về mệnh tạo rời khỏi công ty mình đang làm.

Ví dụ khác,"Thiên đồng Cự môn"đồng độ thủ cung Phụ mẫu chủ về cha con bất hòa. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, thì có thể trong năm đó, chủ về có sự bất hòa với người chủ của mình.

Hiểu rõ ý nghĩa thực sự của cung Phụ mẫu thì khi luận đoán mới phát huy tác dụng. Trong lúc ứng dụng thực tế, người nghiên cứu nhát định sẽ cảm thấy bối rối khi gặp tổ hợp các sao ở cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc lưu niên, không biết tính chất của tinh hệ rốt cuộc dùng để đại biểu cho cha mẹ, hay đại biểu cho thượng cấp, hay là đại biểu cho cơ cấu chủ quản hoặc quan lại quản hạt?

Trung Châu phái cho rằng, thông thường có thể dùng biện pháp xem kèm cung vị khác để giải quyết, như xem kèm cung Quan để luận đoán tình trạng quan hệ với thượng cấp, xem kèm cung Điền trạch để luận đoán tình trạng cát hung của cha mẹ, xem kèm cung Phúc đức để luận đoán tình trạng giao thiệp với với cơ cấu chủ quản hạt, cả ba đều nên xem kèm cung Mệnh để luận đoán.

Đương nhiên, cũng có một số tình hình thực tế vốn không có gì phức tạp. Ví dụ một người qua tuổi trung niên, có thể cha mẹ đã qua đời, bản thân lại là ông chủ, thế thì tính chất các sao ở cung Phụ mẫu của đại hạn và lưu niên đương nhiên chỉ liên quan đến đơn vị quản lý hạt. Ví dụ Thiên Lương nhập thủ cung Phụ mẫu của lưu niên, có Thiên Khôi Thiên Việt đồng độ hoặc hội chiếu, vốn chủ về mệnh tạo được cha mẹ che trở, lúc này sẽ biến thành có thể được cơ quan giúp đỡ.

Hiểu rõ những nguyên tác luận đoán vừa thuật ở trên, người nghiên cứu Đẩu Số có thể tự luận thuật một cách linh hoạt.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)Nguyên tắc luận 12 Cung - Vương Đình Chi

Luận Mệnh thông qua Đẩu Số quan niệm:"Bất kể sự tình nào cũng đều có thể căn cứ vào mệnh bàn mà dự đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không".

Bộ sách Hiện đại Tử Viquan niệm:"Đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu số mới có thể luận đoán. Nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không có cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ".

1- Cung Mệnh

Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh.

Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không, .v.v...

Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.

Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.

2. Thuận - Cung Phụ Mẫu:

Trong Đẩu Số, cung Phụ mẫu có 3 ý nghĩa về luận đoán:

Một là, luận đoán duyên phận của mệnh tạo đối với cha mẹ, các tình huống sống chết tồn vong, cát hung họa phúc của cha mẹ.

Hai là, mối quan hệ giữa mệnh tạo với thượng cấp, hay ông như thế nào?

Ba là, trong xã hội phải có quan lại quản hạt, hoặc cấp chủ quản trong công việc, họ có thể ước thúc hành động của mệnh tạo trong một thời kỳ. Những quan lại quản hạt hoặc cấp chủ quản trong công việc này có mối quan hệ như thế nào đối với mệnh tạo?

Trong ba điểm trên, cung Phụ mẫu của Thiên bàn (hoặc Địa bàn) chủ yếu dùng để luận đoán điểm"Một".

Sau khi luận đoán được tính chất chủ yếu, vẫn cần phải căn cứ vào cung Phụ mẫu của từng Đại hạn và mỗi một lưu niên (Nhân bàn) để luận đoán, để xác định cát hung họa phúc của cha mẹ mỗi thời kỳ.

Còn điểm"Hai"và"Ba"chủ yếu được dùng để luận đoán cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc lưu niên (Nhân bàn). Nhưng cần phải ứng dụng một cách linh hoạt những tính chất thuật ở Tiết này.

Ví dụ như Thiên Cơ thủ cung Phụ Mẫu, khi có Thiên Mã đồng độ hoặc xung chiếu, thì chủ về còn bé đã chia ly với gia đình. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, lại có thể là một vận trình ly biệt do thượng cấp đề bạt mệnh tạo, hoặc chủ về mệnh tạo rời khỏi công ty mình đang làm.

Ví dụ khác,"Thiên đồng Cự môn"đồng độ thủ cung Phụ mẫu chủ về cha con bất hòa. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, thì có thể trong năm đó, chủ về có sự bất hòa với người chủ của mình.

Hiểu rõ ý nghĩa thực sự của cung Phụ mẫu thì khi luận đoán mới phát huy tác dụng. Trong lúc ứng dụng thực tế, người nghiên cứu nhát định sẽ cảm thấy bối rối khi gặp tổ hợp các sao ở cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc lưu niên, không biết tính chất của tinh hệ rốt cuộc dùng để đại biểu cho cha mẹ, hay đại biểu cho thượng cấp, hay là đại biểu cho cơ cấu chủ quản hoặc quan lại quản hạt?

Theo Trung Châu phái, thông thường có thể dùng biện pháp xem kèm cung vị khác để giải quyết, như xem kèm cung Quan để luận đoán tình trạng quan hệ với thượng cấp, xem kèm cung Điền trạch để luận đoán tình trạng cát hung của cha mẹ, xem kèm cung Phúc đức để luận đoán tình trạng giao thiệp với với cơ cấu chủ quản hạt, cả ba đều nên xem kèm cung Mệnh để luận đoán.

Đương nhiên, cũng có một số tình hình thực tế vốn không có gì phức tạp. Ví dụ một người qua tuổi trung niên, có thể cha mẹ đã qua đời, bản thân lại là ông chủ, thế thì tính chất các sao ở cung Phụ mẫu của đại hạn và lưu niên đương nhiên chỉ liên quan đến đơn vị quản lý hạt. Ví dụ Thiên Lương nhập thủ cung Phụ mẫu của lưu niên, có Thiên Khôi Thiên Việt đồng độ hoặc hội chiếu, vốn chủ về mệnh tạo được cha mẹ che trở, lúc này sẽ biến thành có thể được cơ quan giúp đỡ.

Hiểu rõ những nguyên tác luận đoán vừa thuật ở trên, người nghiên cứu Đẩu Số có thể luận đoán một cách linh hoạt.

2. Nghịch - Cung Huynh đệ

Trong xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung Huynh đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn, đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao hữu), tương hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách.

Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều hay ít và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết được những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xem gia tộc có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát cung Tật Ách là rất quan trọng.

Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gì quan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn không còn hợp thời.

Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với mệnh tạo (theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn"đồng môn"và bạn"đồng niên")

Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư Huynh chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người, nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà định.

Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có"sao đôi"hội hợp thì mới có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất thân.

Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về nhiều anh chị em.

Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủ cung Huynh đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ về anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâm hiệp lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp thêm các sao Hình - Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.

Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình - Kị, lại còn gặp thêm Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranh chấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương đồng độ chủ về kiện tụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 - 5 - 9 cư Tị, tháng 2 - 6 - 10 cư Thân, tháng 3 - 7 - 11 cư Dần, tháng 4 - 8 - 12 cư Hợi ].

Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc bất lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh chấp. Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có hình thương.

Cung Huynh đệ gặp"Lộc Quyền Khoa", chưa chắc chủ về anh chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắt sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có cung một xuất thân thăng tiến nhanh hơn mệnh tạo.

Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay đến cung Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có"hình thương", hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được, hoặc chủ về anh em nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồng sự, thì tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn bên trong lại có khuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tình hình giữa đồng sự với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt.

3. Thuận - cung Phúc Đức

Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số, là dùng để luận đoán hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu so với cung Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân là chủ về hưởng thụ vật chất, vận trình thực tế, còn cung Phúc đức thì chủ về những thứ trừu tượng hơn.

Có một số người nhìn bề ngoài thì nhận thấy"công thành danh toại"khiến cho người ta phải ngưỡng mộ, nhưng có thể nội tâm của người này đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đây là vì cung Mệnh và cung Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có những khiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm mà thôi, nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung Mệnh và cung Thân không tốt mấy, mà cung Phúc đức lại tốt.

Cung Phúc đức và cung Tài bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt tinh thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tài phú, tam phương hội chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự hưởng thụ tinh thần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt hôn nhân, tam phương cũng tương hội với cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của con người ta, có thể ảnh hưởng đến động hướng của người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm hướng phát triển, thường chỉ quyết định trong một hoài niệm.

Những điều trình bầy trong"tiết"này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau, thì rất khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ra một số điểm chính yếu quan trọng.

Khi luận đoán cung Phúc đức, lấy cung Phúc đức của Thiên bàn làm chủ, dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và xu thế chủ yếu về phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc đức của đại hạn và lưu niên (Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng năm mà xác định được sự thay đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về một vấn đề của người đó. Như cung Phúc đức của Thiên bàn là sao Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bản chất, trong một vận trình gặp Thiên cơ ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu niên, thì tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, nhưng lại chủ về mệnh tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến. Như vậy khi luận đoán nhát thiết không được xem thường tính chất chủ yếu của cung Phúc đức nguyên cục.

3. Nghịch - cung Phu Thê

Cung Phu Thê hội hợp"tam phương tứ chính"là cung Phúc Đức, cung Quan Lộc và cung Thiên Di. Cách phối trí này rất logic.

Sự nghiệp của một người đương nhiên chịu ảnh hưởng của sinh hoạt hôn nhân, di cư (thiên di) tha hương, nếu không phải là vợ chồng sinh ly tử biệt thì hoặc là vợ chồng đều nên sống ở tha hương, đây cũng là vấn đề trọng đại của đời người, còn cung Phúc đức chủ về sinh hoạt tinh thần của con người, mà quan hệ hôn nhân có ảnh hưởng đến sinh hoạt tinh thần, điều này không nói cũng biết.

Cho nên việc quan sát và luận đoán cung Phu thê, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phúc đức, cung Quan lộc và cung Thiên di, các sao của ba cung này cũng chịu ảnh hưởng các sao của cung Phu thê, đây là hiện tượng rất hợp lý.

Tiết này tuy dùng phương thức trình bày giản lược về các tinh hệ của hiện tượng hôn nhân, nhưng đã suy tính đến mối liên hệ của"tam phương tứ chính". Để tiện cho người nghiên cứu những ảnh hưởng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh đối với tính chất các tinh hệ chính diệu, nên sau khi trình bầy tính chất của 14 tinh hệ chính diệu, vẫn có thêm một mục trình bầy tính chất của các sao Phụ Tá Sát ở cung Phu thê, để có thể dung hợp nó với tính chất của tinh hệ chính diệu, xem nó làm mạnh thêm hay yếu đi, hoặc tình hình chuyển hóa như thế nào.

Ví dụ tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"chủ về trước hôn nhân có sóng gió, trắc trở, hơn nữa còn chủ về phiêu bạt, còn tính chất của Lộc tồn là vợ chồng ân ái, chỉ dễ bị người phối ngẫu bắt nạt, hà hiếp, vì vậy mà hai người chia ly. Nếu dung hòa hai tính chất này, thì tham khảo thêm ở đại hạn hoặc lưu niên để luận đoán xem phần nhiều xảy ra chuyện gì.

Có điều khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xem cung Phu thê, mà còn nên xem kiêm tinh hệ của cung Mệnh. Trong xã hội hiện đại, sinh hoạt hôn nhân giữa vợ và chồng, việc luận đoán không ngoài những hạng mục như tình cảm, tài năng, dung mạo, và tài phú. Thế sự lại rất khó toàn mỹ, tài năng và dung mạo cũng rất khó lưỡng toàn, nhưng cũng không phải là không có khả năng tài năng, dung mạo, tài phú đều có đủ, cho tới trường hợp khi các phương diện đều hợp với lý tưởng, thì tình cảm lại thường thường dễ xảy ra thay đổi. Cho nên đạo của vợ chồng, quý ở chỗ biết thích ứng. Tiết này chỉ ra những hiện tượng quan trọng, mà còn gợi ý biện pháp dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu và thích ứng với cuộc sống hôn nhân.

Dưới đây là một số thể lể thích hợp cho tính hình chung, dùng để luận đoán cung Phu thê.

Luận đoán cung Phu thê xem có mỹ mãn hay không, ngoại trừ việc quan sát cung Phu thê ra, còn cần phải xem xét tinh hệ của cung Mệnh, sau đó dung hòa hai tính chất này.

Mỗi một cung Phu thê của đại hạn đều phải chú ý xem xét, sau đó mới có thể nhìn ra sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân và tình cảm vợ chồng. Nhưng thông thường không cần dùng thêm tinh hệ của cung Mệnh đại hạn để trợ giúp trong việc luận đoán, trừ khi xem tai nạn bệnh tật.

Muôn luận định về hôn nhân, tốt nhất là mang tinh bàn của cả hai người nam và nữ ra quan sát một lượt, chỉ càn quan sát cặn kẽ, tỷ mỉ thì có thể nhìn ra một số tình tiết.

Khi luận đoán cung Phu thê, phải lưu ý một nguyên tắc, nhiều Cát tinh chưa chắc có lợi, như Xương Khúc chủ về người phối ngẫu quan tâm, chăm sóc, nhưng lại đồng thời có thể có tình nhân bên ngoài. Các sao Hung, sao Ác cũng chưa chắc là không tốt, như Đà La chủ về phối ngẫu rời xa quê hương, nhưng nếu gặp Lộc tồn, nhưng nếu gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì lại chủ về phát tài ở nơi xa, hơn nữa tình cảm vợ chồng có thể rất tốt. Cho nên cần phải cân nhắc tỷ mỉ cẩn thận.

Luận đoán cung Phu thê của Đại hạn hoặc Lưu niên, ngoại trừ tham khảo tiết này, còn cần phải căn cứ vào bản chất của tinh hệ thủ cung Phu thê nguyên cục.

4. Thuận - cung Điền trạch

Trong Đẩu Số, cung Điền trạch có hai ý nghĩa:

Một là, quan sát các sao ở cung Điền trạch của nguyên cục, có thể biết được vận thế địa sản của cuộc đời mệnh tạo, như cha mẹ có để lại di sản không, sau khi thừa kế di sản có phá tán, thất bại không, và vận thế mua thêm nhà cửa đất đai của mệnh tạo như thế nào?

Hai là, quan sát các sao cua cung Điền trạch của lưu niên hoặc đại hạn, có thể biết được năm (hoặc đại hạn) nào có thể mua thêm nhà cửa đất đai không, có dời chỗ ở không.

Hai điểm vừa thuật ở trên, là ý nghĩa phổ biến của cung Điền trạch. Ngoài ra, cung Điền trạch còn có thể dùng để trợ giúp luận đoán vận gia trạch của lưu niên. Lúc này liên quan đến tính chất của tổ hợp các sao ở cung Điền trạch.

4. Nghịch - cung Tử tức

Trong mệnh bàn Đẩu Số, cung Tử tức và cung Điền trạch đối nhau, cung Tử tức tương hội với cung Phụ mẫu và cung Nô bộc. Kết cấu dạng này rõ ràng phản ảnh chế độ đại gia tộc thời xưa.

Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, con cái là do đầy tớ (nô bộc) phục dịch, do đó cung Nô bộc có ảnh hưởng nhất định đối với cung Tử tức. Đồng thời có thể nhìn ra quan hệ"kế thừa sự nghiệp của cha ông"từ tổ hợp các sao của cung Phụ mẫu và cung Tử tức, còn đối với cung Điền trạch, Đẩu Số dùng để quan sát gia trạch, đương nhiên càng có tương quan với cung Tử tức.

Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệ của cung Huynh đệ là phô bầy cả một đại gia tộc, dùng để quan sát thế hệ bề ngang của mệnh tạo, thì tổ hợp tinh hệ của cung Phụ mẫu và cung Tử tức là một biểu đồ theo chiều dọc, dùng để quan sát từ ông Tổ đến cha mẹ, rồi từ cha mẹ đến con cái, cả một dòng họ truyền từ đời trước sang đời sau.

Ngày nay, chế độ đại gia tộc theo kiểu phong kiến đã sụp đổ, kết cấu tinh hệ ở cung Tử tức và tam phương tứ chính đương nhiên đã mất đi một số ý nghĩa ban đầu. Nhất là cung Nô bộc, ngoại trừ để xem mối quan hệ với nhân viên làm thuê và người trực tiếp dưới quyền, thì ngày nay còn dùng để quan sát bạn bè, đương nhiên sẽ cảm thấy quá cách xa cung Tử tức. Vì vậy trong thực tế ứng dụng, càng cần phải định ra một số nguyên tắc khác.

Sự tương quan hợp lý thứ nhất giữa hai cung, đó là lấy sự quan sát"mối quan hệ gia tộc"như trước kia, cải biến thành quan sát"địa vị xã hội". Bởi vì từ các tình trạng tốt xấu của cha mẹ, hay nhân viên làm thuê và bạn bè, cho tới con cái của mệnh tạo, có thể luận đoán ra địa vị xã hội của đương số.

Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì mệnh tạo phải là người lúc còn nhỏ được cha mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng được bạn bè giúp đỡ ủng hộ, đồng thời còn được nhân viên làm thuê trợ lực, đến trung niên thì phát triển sự nghiệp, đến vãn niên thì có con cái có thể kế thừa sự nghiệp của cha ông. Người này là mẫu người điển hình của loại"lúc nhỏ là thiếu gia, lúc già gọi là lão gia", có địa vị xã hội như thế nào chắc là không cần phải nói.

Nếu cung Phụ mẫu và cung Nô bộc không cát tường, nhưng cung Tử tức thì có Cát tinh tụ tập, như vậy có thể luận đoán mệnh tạo rất có khả năng phải trải quan gian lao vất vả, rồi mới tay trắng tạo nên sự nghiệp, sau trung niên ít nhất cũng có địa vị vào hạng trung lưu.

Dựa vào điểm suy đoán này, có thể trợ giúp chúng ta luận đoán ra vận trình của bản thân mệnh tạo. Ngược lại, từ vận trình của bản thân mệnh tạo, cũng có thể luận đoán ra con cái của mệnh tạo có thành tựu hay không !

Ví dụ như, nếu cung Phụ mẫu là Cát, cung Mệnh cũng cát, cung Nô không xấu, nhưng cung Tử tức lại xấu, thế thì, có khả năng không có người thừa kế, cũng có thể là con cái bất tài, phẩm hạnh quá kém.

Vì vậy có thể căn cứ vào tinh bàn để tìm ra một số chỉ dẫn. Ví dụ như quan sát sự hiển thị của cung Tử tức, để biết về tính cách con cái của mệnh tạo mà đưa ra một số lời khuyên

Đây cũng chính là nói, từ"tam phương tứ chính"của cung Tử tức ngoại trừ xem có con nhiều hay ít, còn luận đoán về tình cảm của mệnh tạo đối với con cái, và tính cách chủ yếu của con cái. Liên quan về những luận đoán này, ta cần kết hợp với cung Tử tức của đại hạn và lưu niên để đánh giá về vận mệnh của con cái đương số, để biết con cái của đương số có thành tựu hay không?

5. Thuận - cung Quan lộc

Cung Sự nghiệp cổ nhân gọi là cung Quan lộc, đó là vì ở thời cổ đại địa vị xã hội của những người trong giới"công","thương","nông", đều rất thấp, chỉ có học hành để ra làm quan mới là con đường tốt nhất.

Cho nên trong tinh bàn Tử vi Đẩu Số, cung Quan lộc và cung Phu thê phải đối nhau. Đó là vì Quan lộc sự nghiệp của một người có thể ảnh hưởng đến địa vị của vợ con.

Ngày nay xã hội đã hoàn toàn khác, địa vị của giới doanh nhân rất cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, có thể nói mọi con đường đều quy tụ về tiền. Học hành để ra làm quan không còn là con đường lý tưởng duy nhất. Người đàn ông thường lấy sự nghiệp làm trọng, vì vậy"cung Quan lộc"được các nhà Đẩu Số hiện đại đổi lại cách gọi tên, được gọi là cung Sự nghiệp. Mà cung Sự nghiệp và cung Phu thê xung chiếu nhau, cũng có nghĩa là xem sự nghiệp và gia đình mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát các sao của hai cung này xem có điều hòa hay không.

Trong bối cảnh như vậy, cổ nhân đã định ra một số nguyên tắc luận đoán"cung Quan lộc"có thể nói là không còn hợp thời. Ví như"Thái dương nhập miếu được Cát tinh vây chiếu là quan nhất phẩm đương triều"(Thái dương nhập miếu đắc cát củng, nhất phẩm đương triều),"Thiên đồng nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm"(Thiên đồng nhập miếu, văn vũ tam phẩm chi chức),"Phá quân ở cung nhàn nên làm nghề thủ công, gặp Cát tinh thì có thể mua chức quan"(Phá quân nhàn cung nghi thủ nghệ, kiến cát tắc khả quyên ban). Tất cả những luận đoán này, ít nhiều đã lỗi thời ở thời hiện đại.

Nói một cách thẳng thắn, chúng ta có thể biết tính chất tổ hợp các sao phù hợp với nghề gì, nhưng lại không thể dựa vào các sao mà nói ra nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngoài ra, khi phán đoán nghề nghiệp của một người, còn phải tham khảo các sao của cung Mệnh và cung Phúc đức, điểm này cần chú ý.

Liên quan đến vận thế sự nghiệp cuộc đời của một người, cũng không nên chỉ căn cứ ở cung Sự nghiệp nguyên cục để luận đoán, mà còn cần phải quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên, căn cứ vào cung Sự nghiệp của hành hạn, để nghiên cứu một cách tỷ mỉ, thêm vào đó là phối hợp"Lưu diệu", xem vận thế nghề nghiệp thuận hay nghịch như thế nào, tự nhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác hơn.

5. Nghịch - cung Tài bạch

Tiền bạc (tài bạch) là tư liệu để nuôi sống, nhất là trong xã hội thương nghiệp, địa vị xã hội của một người đầu như do tiền bạc quyết định, vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu làm nghề nghiệp gì để kiếm tiền, đã trở thành vấn đề khá quan trọng.

Liên quan đến vấn đề trọn nghề nghiệp gì cho thích hợp, đã được thảo luận khi tường thuật về tổ hợp tinh hệ của cung Mệnh, nên khi nghiên cứu cung Tài bạch, chủ yếu tập trung về thành tố"tài khí"như thế nào, có tiền của dần dần hay phát lên một cách nhanh chóng, sau khi có tiền của thì có giữ được hay không.

"Tam phương tứ chính"của cung Tài bạch là đối cung Phúc đức, và hai cung tam phương là cung Mệnh và cung Sự nghiệp. Cung Phúc đức chủ về hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần. Chuyện cơm áo gạo tiền khiến cho người ta phải lo toan nghĩ ngợi, và tình trạng nghèo hay giầu có thể ảnh hưởng đến tinh thần của một người. Đủ thấy tính chất ảnh hưởng qua lại của cung Phúc đức và cung Tài bạch.

Đối với cung Mệnh, vận thế của mệnh tạo và cách cục chủ yếu được quyết định từ đây, đương nhiên có liên quan đến"tài bạch". Mối liên hệ giữa Sự nghiệp và Tài bạch, đương nhiên cũng là then chốt hỗ tương. Cung Mệnh, cung Sự nghiệp, cung Tài bạch hội hợp, đúng là tượng trưng cho"vị thế của lợi lộc".

Nếu chỉ đơn thuần dựa vào cung Tài bạch của nguyên cục để luận đoán tiến bạc"được mất", thường thì chẳng đúng, bởi vì nó chỉ hiện thị những tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán một cách tinh tế và chính xác, nhất định phải xem xét tới cung Tài bạch của đại hạn để luận đoán, sau đó mới có thể biết sự phát triển tài vận của một đời người, còn cung Tài bạch nguyên cục chỉ chủ về xu thế chung của tài vận.

Điều cần chú ý là, lúc luận đoán cung Tài bạch của đại hạn mà gặp"lưu Lộc","lưu Quyền","lưu Khoa","lưu Tồn","lưu Mã","lưu Dương","lưu Đà", thì tất cả chúng có cùng một tác dụng như các điều đã thuật về tính chất cơ bản của chúng.

6. Thuận - cung Giao hữu (Nô)

Cung Giao hữu cổ nhân gọi là cung Nô bộc. Trong xã hội cổ đại,"nô bộc"là thành viên của gia đình. Một đời làm"nô bộc", đời đời là"nô bộc", cho nên sự tốt xấu của cung Nô bộc đúng là có liên quan đến sự thịnh suy của gia tộc. Vì vậy các nhà Đẩu Số cổ đại khi luận đoán khá xem trọng"nô bộc"có lực hay không? nô bộc nhiều hay ít? có phản chủ không? có giúp đỡ chủ không? mức độ trợ lực cho chủ là cao hay thấp?

Ngày nay, cung Nô bộc đổi thành cung Giao hữu là một sự cách tân rất lớn. Về mặt lý luận, ngày nay đã không còn mối quan hệ chủ tớ như ngày xưa, dó đó về căn bản, không cần nhìn từ"nô bộc"để suy diễn ra vận mệnh của một gia tộc. Nhưng sự tốt xấu của các mối quan hệ giao tế là rất quan trọng đối với người hiện đại, việc sửa đổi thành cung Giao hữu đúng là đã mang lại cho khoa Đẩu Số cổ xưa một hàm nghĩa mới.

Có lẽ, nhiều người sẽ hoài nghi rằng:"Cổ nhân truyền lại pháp môn này, sao có thể tùy tiện sửa đổi?"Thực ra Đẩu Số là đời đời tương truyền, đã luôn luôn biến động thay đổi, từ"Thập bát phi tinh"phát triển thành"Tử Vi Đẩu Số"chính là một biến động thay đổi cực lớn. Về sau, từ thời Nam Tống cho đến Minh Thanh, đời nào cũng có người truyền lại không ít khẩu quyết khá hữu dụng, đó cũng là sự biến đổi cách tân trong Đẩu Số. Vì vậy vấn đề không phải ở chỗ có nên thay đổi hay không, mà là những thay đổi cách tân đó có hợp lý hay không?

Thử xét tam phương tứ chính của cung Nô bộc, đối cung là cung Huynh đệ, cung hội hợp là cung Phụ mẫu và cung Tử tức, đây rõ ràng là một tổ hợp tổ tông ba đời và nô bộc, cũng tức là một mô thức điển hình của gia tộc cổ xưa.

Ngày nay lấy tính chất"nô bộc"biến đổi thành tính chất"quan hệ giao tế". Theo phái Trung Châu, cũng lấy cung Huynh đệ xem là quan hệ với người ngang vai. Lấy cung Phụ mẫu xem là quan hệ với bậc trưởng bối. Lấy cung Tử tức xem là quan hệ với những người thuộc vãn bối. Các sao của ba cung vị này hội chiếu với cung Giao hữu, vì vậy sẽ phản ảnh các mối quan hệ giao tế một cách chỉnh thể.

Lúc luận đoán Đẩu Số, khi lấy cung Giao hữu dùng để luận đoán về mối quan hệ với nhân viên làm thuê hoặc người dưới quyền, cũng cần đồng thời lấy"Phụ mẫu"xem là ông chủ, thượng cấp, hoặc bậc tiền bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, lấy"Tử tức"xem là trợ thủ trực thuộc, hoặc những người thuộc lớp vãn bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, và lấy"Huynh đệ"xem thành nhưng người ngang vai với mệnh tạo, còn cung Giao hữu là một phản ánh chung.

Người mới bắt đầu tiếp cận với Đẩu số thường mắc phải một bệnh, đó là không quan sát toàn diện các sao của các cung có liên quan. Lấy việc không quan sát các sao của cung"nô bộc"làm ví dụ, cổ nhân lấy cung Phụ mẫu và cung Nô bộc có quan hệ hỗ tương như thế nào, từ đó có thể biểu thị tình trạng"nô bộc"của đời"phụ mẫu". Nếu cũng lấy cung Huynh đệ và cung Tử tức ra quan sát, xem xét mối quan hệ hỗ tương của chúng với cung Nô bộc, thì có thể biết được tình trạng"nô bộc"ba đời.

Ngày nay quan sát cung Giao hữu cũng có thể dùng biện pháp như vậy. Nếu lấy cung Phụ mẫu và cung Giao hữu ra so sánh, đồng thời tiến hành nghiên cứu mối quan hệ của chúng, thì có thể nhìn ra mối quan hệ của thượng cấp và người dưới quyền của mệnh tạo.

Ví dụ như cung Phụ mẫu có Thiên lương độc tọa ở Ngọ, cung Giao hữu có Thiên đồng độc tọa ở Tuất, còn cung Huynh đệ là Cự môn ở Thìn có Sát tinh chiếu xạ, thế là chúng ta có một giả định tốt nhất là: thượng cấp là một người rất thích soi bói, bới lông tìm vết, trong đồng sự có người ưa đâm bị thóc chọc bị gạo, vì vậy mà bản thân mệnh tạo thường bị ở vào tình trạng lúng túng, khó xử về quan hệ giao tế ở nơi làm việc, có thể sẽ bị lôi kéo vào vòng tranh chấp, bất hòa. Điềm này có thể nhìn ra từ tính chất của Thiên đồng ở cung Tuất.

Nhưng nếu Thiên lương có hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa hội hợp, thì tính chất của Thiên lương sẽ biến thành cao thượng, độ lượng, Thiên đồng thủ cung Giao hữu cũng sẽ bị ảnh hưởng của"Lộc Quyền Khoa hội"mà được cải thiện.

Trung Châu phái đưa ra phương pháp luận đoán này, có thể giúp cho người mới nghiên cứu Đẩu Số tìm ra tình trạng quan hệ nhân tế của mỗi giai đoạn trong cuộc đời một người khá rõ ràng.

6. Nghịch - cung Tật ách

"Tam phương tứ chính"của cung Tật ách là cung Phụ mẫu, cung Huynh đệ và cung Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ đại gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hội phong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội, thường thường có thể liên lụy đến người thân, vì vậy tổ hợp"tam phương tứ chính"này có một ý nghĩa đặc thù.

Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi, nhưng cung Tật ách đối xung với cung Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội phương với cung Điền trạch để xem trạng thái sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Thậm chí quan sát các sao thủ các cung hội hợp với cung Huynh đệ để xem"đời người"có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của phái Trung Châu mà Vương Đình Chi đại diện thì vẫn hữu hiệu.

Cung Tật ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên quan đến vấn đề tai ách có xảy ra hay không, cung Tật ách thực ra chỉ có thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải phối hợp thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung Tật ách. Còn đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem xét cả tinh hệ của cung Mệnh lẫn tinh hệ của cung Tật ách, hai cung đều quan trong ngang nhau. Ví dụ như"Liêm trinh Thất sát"thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung Tật ách gặp tinh hệ này thì đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật ách gặp sao Ác, mà cung Mệnh là"Liêm trinh Thất sát", thì cũng chủ về đường hô hấp.

Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung Mệnh và tinh hệ của cung Tật ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ cung Tật ách gặp"Liêm trinh Thất sát", có Sát tinh hội chiếu, cung Mệnh gặp Hồng loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có thể phát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tác, đến khi cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng loan, Thiên Hỷ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì mới phát bệnh.

Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinh nghiệm bí truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề bệnh tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh hoạt, không nên quá câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung Mệnh và cung Tật ách, cùng với các sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang"Lưu diệu"của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể chính xác.

Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư vòm họng, tinh hệ chủ yếu vẫn là"Liêm trinh Thất sát", hành vận đến cung hạn Thiên đồng và Cự môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà còn gặp Long trì đồng độ hoặc xung chiếu cung Mệnh, còn"Liêm trinh Thất sát"lại hội hợp với Hỏa tinh Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong đại hạn này sẽ phát bệnh. Lấy trường hợp này làm ví dụ, để người nghiên cứu có thể thấy được phần nào phép tắc luận đoán bệnh tật.

Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấy nguyên lý Âm Dương Ngũ hành của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo Y học hiện đại.

7- Cung Thiên Di

Trong Đẩu Số, cung Thiên di dùng để luận đoán về vấn đề từ nơi sinh ra dời đến nơi khác để ở, đồng thời cũng có thể dùng để luận đoán tình trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên di của lưu niên, cũng luận đoán về những tao ngộ khi đi đâu xa, như có vui vẻ hay không? có bị trộm cướp hay không? có gặp điều gì bất ngờ hay không?

Do cung Thiên di và cung Mệnh xung chiếu nhau, vì vậy các sao của cung Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo, đặc biệt là về năng lực xã giao, quan hệ giao tế, .v.v...

Cung Di tương hội với cung Phúc, nên sự hưởng thụ tinh thần của một người đúng là có liên quan với quan hệ giao tế và hoạt động xã giao củ người đó. Còn việc đi ở nơi khác đem lại kết quả tốt hay xấu, đương nhiên có thể căn cứ phần nào vào tinh trạng hưởng thụ tinh thần mà luận đoán.

Cung Di tương hội với cung Phu thê là rất hợp lý, bởi vì cho dù ở thời cổ đại, một người rời đại gia đình để phát triển hoặc vẫn ở quê hương sinh sống làm ăn, đương nhiên cũng có quan hệ với sinh hoạt vợ chồng. Các mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh hưởng của người phối ngẫu. Đối với việc mang gia đinh đi nơi khác lập nghiệp thì càng có quan hệ mật thiết với người phối ngẫu.

Do đó có thể thấy, tổ hợp các sao ở cung Di trong Đẩu Số là rất quan trọng, thậm chí có thể nói chỉ kém hơn cung Mệnh và cung Thân. Hơn nữa khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có một điểm cần biết, đó là khi một người rời nơi sinh ra, đến nơi khác để ở, xu thế vận mệnh của năm đầu tiên, là do cung Di quyết định, mà không phải do cung Mệnh quyết định. Do đó cần phải lấy cung Di làm cung Mệnh để xem xét, các cung vị khác vẫn không thay đổi.

Giả dụ một người không ngừng di chuyển (như thuyền viên, phi công, .v.v...), không ở cố định một nơi nào, cũng phải lấy cung Di làm cung Mệnh để luận đoán.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Tả phụ và Hữu bật - Toàn thư

Tả Phụ

Thuộc tính ngũ hành của sao Tả phụ là dương thổ, là trợ tinh thứ nhất trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là trợ lực, nên là ngôi sao phò tá đắc lực nhất của Đế tọa, chủ về thi hành thiên lệnh, mang tính cách hài hòa nên làm việc có hiệu quả, thiết thực mà trung hậu nên có trách nhiệm với công việc và mang lòng bao dung độ lượng, kéo đối nhân xử thế nên biết thông cảm với người, nhưng lại không thích bị ép buộc, khiên cưỡng bởi người khác.

Sao Tả phụ là ngôi sao có khả năng trợ giúp thiết thực nhất trong sáu Cát tinh, và cũng có ít khuyết điểm nhất. Không những đóng vai trò là đại thần phò tá cho Đế tọa, mà còn tiếp nhận chức vụ và trách nhiệm phò tá một cách tự nhiên không bị ép buộc. Tả phụ cũng có thể tăng cường khí thế và tác dụng của những chủ tinh khác, thế nhưng bản thân Tả phụ lại phải vất vả mệt nhọc, khó hưởng phúc nhàn. Do Tả phụ có tài phò tá nên khi đứng một mình, nó chỉ có thể trợ giúp cho những ngôi sao tại cung tam phương tứ chính mà Tả phụ hội và chiếu, chứ bản thân nó không có biểu hiện gì xuất sắc. Khi Tả phụ nằm đơn độc mà phải chống đỡ với Kình dương, Hỏa tinh và Liêm trinh lạc hãm thì Tả phụ sẽ trở nên yếu thế.

Sao Tả phụ nhập cung miếu vượng, nếu lại gặp Tử vi, Thiên phủ, Lộc tồn, Hóa Lộc tam phương hội và chiếu thì chủ về văn võ hiển quý. Nếu lại gặp 4 sát tinh Kình Đà Hỏa Linh và Hóa Kị xung phá, tuy phú quý cũng không được lâu dài.

Do Tả phụ trọng tình cảm nhưng lại có tính cô độc, bởi vậy không nên nhập cung Phu thê hoặc Tử nữ (Cung đào hoa). Nếu Tả phụ nhập cung Phu thê lại gặp Cát tinh, mà cung Mênh và cung Phúc đức đều có cát tinh trấn thủ thì chủ về hôn nhân hài hòa tốt đẹp. Nếu Tả phụ nhập cung Phu thê lại gặp Sát tinh đồng cung, cần thận trọng trong việc lựa chọn bạn đời. Nếu các sao trong cung Mệnh và cung Phúc đức không phải là Sát tinh, thì đời sống hôn nhân dễ bị người thứ ba xen vào, khiến cho tình cảm giữa cá nhân và gia đình gặp nhiều biến cố, gia đình dễ rơi vào tình cảnh phân chia mà phải đi tiếp bước nữa.

Hữu Bật

Thuộc tính ngũ hành của Hữu bật là âm thủy, là trợ tinh thứ hai của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là trợ lựclà trợ tá của sao Tử vi chủ về chế định pháp lệnh. Cũng tương tự như sao Tả phụ, sao Hữu bật là một phúc tinh mang tinh thần lạc quan tiến thủ, không sợ gian nan, chỉ có điều không được phúc hậu bằng Tả phụ.

Sao Hữu bật có khả năng trợ giúp thiết thực, làm việc tích cực và sát thực nên khó tránh khỏi vất vả, trung hậu thiện lương nên bao dung quảng đại. Sao Hữu bật không nên đứng một mình, mà tốt nhất là đồng cung với chủ tinh cấp Giáp thì mới có thể phát huy được khả năng trợ giúp, nếu không sẽ trở thành anh hùng không có đất dụng võ. Nếu Hữu bật đồng cung với Tử vi, Thiên phủ chủ về tiền tài danh vọng song toàn, văn võ toàn tài. Nếu bị Kình Đà Hỏa Linh và Hóa Kị xung phá thì sẽ thành người bần tiện. Nếu Hữu bật đứng một mình chủ về lạc quan sẵn sàng đối diện với khó khăn. Nếu đứng một mình mà phải chống chọi với Kình Hỏa Liêm lạc hãm thì trở nên yếu thế.

Sao Phụ bật thuộc tính Âm Thủy, nên có tính đào hoa, thường gây ảnh hưởng xấu đến đường tình duyên, chuyện thường vui luôn phải kết thúc bằng chuyện buồn, hoặc phải chịu nỗi khổ tâm bất đắc dĩ. Nếu Hữu bật đồng cung với Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc, thì tính đào hoa của nó càng nổi bật, phá hoại đường tình duyên khiến cho đường tình duyên không thể phát triển bình thường, có khổ tâm cũng không thể giãi bày. Bởi vậy, Hữu bật không nên nhập cung Phu thê và cung Tử nữ, vì dễ khiến tình cảm vợ chồng rạn nứt, trắc trở mà dẫn đến ly hôn. Nếu tại Phu thê có thêm Sát tinh hoặc chủ tinh hữu lực, thì vẫn có thể khiến hôn nhân trở nên hài hòa.

Do sao Hữu bật chủ về chế định pháp lệnh, nên dễ nảy sinh dã tâm chiếm đoạt, nhiều mưu mẹo, thích quản chế người khác mà không thích bị người khác ước thúc.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Thiên can Địa chi

Cuốn sách Thế Bản được biên tập từ các tài liệu do quan sứ các nước cuối thời Chiến Quốc tích lũy, sách này được thu thập trong một thời gian dài, có đoạn viết:"Dung Thành làm lịch, Đại Nghiêu chế ra Giáp Tý","cả hai đều là bề tôi của Hoàng Đế. Từ đó về sau, đều dùng cách ghi này, một Giáp Tý có sáu mươi ngày"

Vì thế, có thể cho rằng, Đại Nghiêu là người sáng tạo ra Thiên can và Địa chi.

Đại Nghiêu lấy Giáp Ất đặt ngày, gọi là Can, Tý Sửu đặt tháng, gọi là Chi.

Việc liên quan tới Trời thì dùng Ngày.

Việc liên quan đến Đất thì dùng Tháng.

Trời Đất khác nhau, nên thiên can và địa chi biệt lập.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Hóa Kị luận - Toàn thư

Thuộc tính ngũ hành của sao Hóa Kị là dương thủy, hóa khí là thị phi, chủ về đa sự, tai họa và đố kỵ, còn có tên gọi là sao Kế đô chủ về thị phi. Sao Hóa Kị dẫn thân là trắc trở bất lợi, hiển lộ là biến hóa bề ngoài đem lại nhiều tai họa, nhiều điều tiếng thị phi, là sự cụ thể hóa tình trạng bất lợi.

Sao Hóa Kị lại chủ về đa sự, chuyện gì cũng muốn xen vào nên dễ chuốc lấy điều tiếng mà gặp nhiều phiền phức, khiến cho cuộc sống thường biến động bất an.

Sao Hóa Kị tuy chủ về một đời nhiều tai họa, mất mát, gặp nhiều bất lợi trở ngại, nhưng nếu theo đuổi những lĩnh vực nghiên cứu triết học, y học, khoa học kỹ thuật tiên tiến, hoặc đảng phái chính trị, sẽ có được thành tựu và phát triển.

Nếu sao Hóa Kị nằm cùng các cung với các sao Tử vi, Thiên phủ, Xương Khúc, Tả Hữu, tam hóa Khoa Quyền Lộc thì sẽ được phú quý. Nếu như Hóa Kị đồng cung với tứ sát Kình Đà Hỏa Linh thì tuy có phát đạt nhưng cũng không giữ được lượng tiền của lớn. Sao Hóa Kị nếu đứng một mình lại gặp 4 sát tinh và Phá quân, Thiên sứ, Địa kiếp, Thiên không thì chủ về bôn ba vất vả lại thêm nhiều bệnh tật, là tăng ni đạo sỹ phải hoàn tục, mệnh nữ nghèo khổ suốt đời.

Sao Thái dương Hóa Kị tại các cung miếu vượng Dần, Mão, Thìn, Tị, sao Thái âm hóa Kị tại các cung miếu vượng Dậu, Tuất, Hợi, Tý, lại là có phúc. Những trường hợp Hóa Kị còn lại thì đều phải quan sát thuộc tính ngũ hành của bản thân các sao đó. Ví dụ như Liêm trinh hóa Kị tại Hợi địa là Hỏa nhập thủy địa, nếu lại gặp người mệnh Thủy thì Hóa Kị sẽ không có khả năng gây hại. Thiên đồng hóa Kị tại Tuất đại, lại gặp người sinh năm Đinh là cát lợi. Cự môn hóa Kị tại Thìn địa gặp người sinh năm Tân lại là cát. Các sao nếu Hóa Kị tại cung miếu vượng lại là không kị. Các sao Hóa Kị tại cung hãm thì càng thêm kị. Thái dương Thái âm hóa Kị tại cung hãm là đại hung. Liêm trinh hóa Kị tại cung hãm thì càng thêm kị.

Song trùng Hóa Kị (mệnh, đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt) trở lên, lại gặp hung tinh, sát tinh gia lâm hội và chiếu, hoặc 4 Hóa Kị đồng cung, thì sẽ là bĩ cực thái lai, nhưng vẫn phải chú ý đến tình hình sức khỏe của bản thân.

Sao Hóa Kị nhập miếu tại Tý địa, Sửu địa, đắc tại Mão địa, lợi tại Thìn địa, Mùi địa, không đắc lợi tại Thân địa, Dậu địa, lạc hãm tại tứ địa Dần, Ngọ, Tuất, Tị.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Địa không và Địa kiếp - Toàn thư

Sao Địa Không

Thuộc tính ngũ hành của sao Địa Không là âm hỏa, là sát tinh thứ hai trong chòm Trung Thiên Đẩu, và cũng là một trong sáu Sát tinh, chủ về không vong, nhiều tai nạn (đa tai), tương đối bất lợi đối với tiền tài. Sao Địa Không thật ra không phải ngay từ lúc sinh ra đã không có gì, mà chủ về được rồi lại mất, vất vả mà vô ích. Trong cuộc đời, thường là đang lúc ăn nên làm ra, đột nhiên gặp phải tai họa (tai họa gì?) khiến nửa đường đứt gánh, mất cả chì lẫn chài. Vận hạn gặp sao Địa Không, cần phải chú ý những gì đã có, không thể mạo hiểm để tránh nguy cơ phá sản, sập tiệp.

Sao Địa Không nằm một mình tại cung Mệnh, chủ về tính cách khác người, đa biến, thường không giỏi ăn nói nhưng đầu óc thông minh linh hoạt, nhân sinh quan độc đáo khác người, hành sự kỳ dị lạ thường. Dù là mệnh nam hay mệnh nữ, có gia hội cát tinh hay không, đều chủ về tuổi thơ vất vả, thất học, không nơi nương tựa, nghèo khó cơ cực, thân thể yếu nhiều bệnh hoặc thường gặp tai ương, một đời biến động đa đoan, thường lênh đênh phiêu bạt nên không tụ tài.

Sao Địa Kiếp

Thuộc tính ngũ hành của dao Địa Kiếp là dương hỏa, là sát tinh thứ nhất trong chòm Trung Thiên Đẩu, là một trong sát Sát tinh, chủ về kiếp sát, phá tán, là ngôi sao bất lợi với tiền tài nhất trong sáu Sát tinh, đồng thời cũng rất bất lợi cho đường tình duyên. Kiếp nạn của sao Địa Kiếp là kiếp tài(cướp của), không phải từ lúc sinh ra đã như vậy, mà phần lớn là được tài trước rồi mới phá sản, mất mát, thậm chí mất nhiều hơn được, khiến nợ nần chồng chất, gây ảnh hưởng đến đời sống thường ngày, khiến cho cả vật chất lẫn tinh thần đều chịu nhiều áp lực, có thể còn bị vướng vào kiện tụng lao lý. Về đường tình duyên cũng gặp nhiều kiếp nạn, nên, có thể coi sao Địa Kiếp là vua của các Sát tinh, khiến cuộc đời tựa như con thuyền trong bão, bấp bệnh không thể ổn định.

Nếu sao Địa Kiếp đứng một mình tại cung Mệnh, chủ về một đời thăng trầm bất ổn, tâm tính cũng không có nguyên tắc, có lối suy nghĩ và nhân sinh quan độc đáo khác người, thông minh linh hoạt, hành vi kỳ quặc lập dị, không theo lệ thường, không giỏi ăn nói, không thể tụ tài. Nếu đại hạn và tiểu hạn gặp phải, chắc chắn sẽ phá sản.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Kình dương và Đà la - Toàn thư

Kình dương

Thuộc tính ngũ hành của sao Kình dương là dương hỏa, lại thuộc dương kim, là sát tinh thứ nhất trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là hìnhchủ về hình thương, tại số chủ về hung hại. Sao Kình dương còn có tên gọi là sao Dương Nhận, cùng các sao Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp gọi chung là sáu Sát tinh. Sở dĩ chúng được gọi là Sát tinh là vì chúng phá hoại vận mệnh, công phá và sát thương các Cát tinh, khuyết điểm nhiều hơn ưu điểm. Nếu gặp phải cách cục không tốt hoặc chủ tinh lạc hãm chẳng khác gì lửa đổ thêm giầu, sẽ khiến cho vận mệnh càng trở nên gian nan trắc trở. Sát tinh trấn mệnh sẽ khiến cả cuộc đời sóng gió bất an, nhưng không có nghĩa là không có thành tựu, mà chỉ là thêm nhiều thăng trầm trở ngại.

Sao Kình dương là sao có lực phá hoại và sát thương mạnh mẽ nhất trong sáu Sát tinh, cá tính cương liệt lại có uy quyền, cực kỳ nóng nảy kèm thêm có sát khí, có khả năng công phá và phá hoại đối với Cát tinh, đồng thời Kình dương còn có tác dụng khống chế các Sát tinh khác. Bởi vậy, nếu sao Kình dương tọa tại cung Mệnh, dù là mệnh nam hay nữ, cũng chủ về thủa nhỏ tổn thương, để lại vết thương vết sẹo, hoặc những ký ức đau đớn.

Sao Kình dương nhập miếu tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nếu như Mệnh nằm tại 4 cung này là cách Kình dương nhập miếu, thì có thể phát huy trọn vẹn ưu điểm của sao Kình dương, là sự mạnh mẽ quyết đoán trong những tình huống nhạy cảm phức tạp, để đạt được những thành tựu xuất sắc mà trở nên giầu sang. Kình dương nằm đồng cung với sao Hỏa, nếu lại được miếu vượng đó là dùng ác chế ác, lấy uy quyền biến thành sức bật. Sao Kình dương lạc hãm trấn mệnh tại Ngọ địa là cách Mã đầu đới tiễn(Đầu ngựa mang tên) không chết non cũng phải chịu thương tật, phiêu bạt vô định tai họa trùng trùng. Kình dương ưa thích đồng cung với sao Thiên đồng, Thái âm, sẽ mang lại sức phấn đấu cho hai sao vốn mang tính nhu thuận ôn hòa, và đồng thời phát huy được tính xung lực của Kình dương để đạt được những thành tựu xuất sắc.

Sao Kình dương là sức mạnh hiển hiện, nếu lạc hãm càng bộc lộ rõ đặc điểm này. Những cung vị mà Kình dương đóng vào, hoặc hội hay chiếu cũng đem lại hình thương hoặc những trắc trở rõ ràng hiển hiện. Thường các sao khác khi gặp phải Kình dương, đều phải chịu thêm nhiều vất vả tai ương. Nếu gặp được Cát tinh trợ giúp sẽ không quá đáng ngại. Nhưng nếu lại gặp thêm hung tinh như Liêm trinh, Tham lang, Cự môn, sẽ khiến vận mệnh trở nên xấu đi hoặc thành phá cục.

Thuộc tính ngũ hành của sao Kình dương là dương hỏa và dương kim, mang khí hung sát, nhưng nếu như biết uốn nắn tính cách đó, mà hướng theo những ngành nghề như bác sỹ ngoại khoa, quân đội, hoặc những công việc liên quan đến kim loại, cơ điện, sẽ có thể biến nhược điểm thành ưu điểm, phát huy trọn vẹn các sở trường mà đạt được thành tựu xuất sắc. Nếu như lại gặp thêm các hung sát như Hỏa tinh, Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Thất sát, Phá quân xung phá, lại trở thành hạ cục.

Đà La

Thuộc tính ngũ hành của sao Đà la là âm kim, là sát tinh thứ hai trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là kịchủ về thị phi, là một trong sáu Sát tinh nhưng sát khí của Đà la không nặng bằng Kình dương. Nếu như sức công phá của Kình dương là hiển hiện dễ nhận biết, thì sao Đà la như mũi tên ngầm tai họa sóng gió đến lúc nào không hay biêt.

Hóa khí của sao Đà La là kịnên có thể coi là sao Kị, nhưng sao Kị này không hoàn toàn giống như sao Hóa Kị trong bốn sao Hóa. Sao Hóa Kị chủ về nhiều tai nạn hung hiểm, đố kỵ, thị phi dễ chuốc điều tiếng, mọi sự đều bất lợi. Còn Kị của sao Đà la khi nằm tại Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu gặp Cát tinh đồng cung hay gia hội, lại gặp Không Kiếp Hỏa Linh hoặc Hóa Kị, thì lại chủ về tích cực phấn phát, phần nhiều sẽ có được biểu hiện xuất chúng.

Sao Đà la đồng cung với Tham lang dễ vì tửu sắc mà thành tật. Sao Đà la đồng cung với Phá quân thường chóng phất chóng bại. Sao Đà la đồng cung với Hỏa tinh, Linh tinh dễ bị mụn nhọt, mắc bệnh ngoài da hoặc bệnh truyền nhiễm. Sao Đà la rơi vào cung Tật ách dễ mắc bệnh ngầm kinh niên. Đại hạn, lưu niên gặp phải Đà la, thì thành tựu đến chậm, mệnh nữ thì khó kết hôn.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Quý - Phá quân hóa Lộc - Vương Đình Chi

Phàm là Phá Quân thủ Mệnh hoặc thủ cung Tài, sẽ xảy ra biến động thay đổi ở nhiều biên độ, mà sự biến động thay đổi cũng thường ra ngoài dự liệu. Khi được hóa Lộc hoặc có Lộc tồn, có thể khiến sự biến động thay đổi trở thành khá ổn định; trong tình huống xấu nhất cũng không đến nỗi xảy ra thất bại hoàn toàn. Hơn nữa, bất kể biến động hay thay đổi như thế nào, kết quả thường sẽ tốt hơn so với trước khi xảy ra biến động thay đổi. Do nguyên nhân này, nên Phá quân rất ưa hóa Lộc.

Hễ Phá quân hóa Lộc, cung Quan ắt sẽ có Tham lang hóa Kị, đây là điềm tượng sự nghiệp có biến động thay đổi. Tham lang hóa Kị thường thường sẽ có hiện tượng"vô tâm cắm liễu, liễu xanh um", cho nên rất ưa Phá quân hóa Lộc. Có điều cung Tài là Thất sát, cũng dễ trở thành biến đông thay đổi, cuộc đời ắt sẽ có một lần gặp cảnh khốn khó. Phá quân hóa Lộc chỉ có thể cải thiện, mà không thể tránh.

Phá quân độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ hội hợp Lộc tồn, thành cách"Lộc trùng điệp". Cung Quan là Tham lang hóa Kị. Cung Tài là Thất sát. Tinh hệ toàn cục vì Phá quân có cách"Lộc trùng điệp"nên tính chất biến thành tốt lành. Chỉ cần lưu ý"Tử vi Thiên phủ"đồng độ ở cung Phúc, nếu là"bách quan triều củng"thì quá thiên nặng về"thủ thành", không thích ứng với tính chất của Phá quân"Lộc trùng điệp". Trái lại, sẽ dễ có những phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ. Nếu"Tử vi Thiên phủ"là cách"tại dã cô quân", thì Phá quân"Lộc trùng điệp"lại có biểu hiện sống cô lập, cũng không nên. Vì vậy mấu chốt để luận đoán tinh hệ này là cung Phúc nên trung hòa.

Tinh hệ"Tử vi Phá quân"thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, hội"Liêm trinh Tham lang"ở cung Quan có Tham lang hóa Kị. Cung Tài là"Vũ khúc Thất sát". Do bản chất của cung Quan, nên nhóm tinh hệ này chủ về khuếch trương sự nghiệp một cách quá đáng, đặc biệt là làm ăn trong lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, thường lập nhiều chi nhánh, làm tăng thêm tình huống rắc rối. Ngoài ra lại vì quá mải mê kiếm tiền,"thấy lợi quên nghĩa"khiến dễ xảy ra sự thay đổi trong quan hệ giao tế, thiếu trợ lực, đời người khó tránh quá vất vả. Cung Tài là"Vũ khúc Thất sát"cũng chủ về tính toán cẩn thận, đồng thời lại có hào khí dám mạo hiểm, cần phải xem xét kỹ vận hạn để định nên làm hay nên dừng.

Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là"Vũ khúc Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp. Lực phát đông của nhóm tinh hệ này là ở Tham lang hóa Kị, hội Lộc tồn và Phá quân hóa Lộc, vì vậy thường hay sửa đổi mục tiêu tiến thủ mà không biết dừng lại. Thất sát thủ cung Tài ở nhóm tinh hệ này có đặc tính giỏi tính toán, khéo dùng tiền để tạo giao tình, lôi kéo người ủng hộ, do đó tính chất của Phá quân hóa Lộc sẽ phát lộ không xót chút nào. Cung Tật là"Thái dương Thiên lương", gặp Sát tinh là chỗ tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này. Vì vậy cần phải lưu ý vấn đề sức khỏe.

Tinh hệ"Liêm trinh Phá quân"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Phá quân hóa Lộc hội Kình dương hoặc Đà la. Tinh hệ này cũng là tổ hợp sao có tham vọng khá lớn, cho nên sự nghiệp của đương số cũng là cục diện lớn, phần nhiều có liên quan đến lĩnh vực giải trí, vui chơi, nghệ thuật hoặc tiêu dùng, hưởng thụ. Do tính chất của cung Tài, nên khi vận dụng tiên bạc, thường có tình huống như"Hàn Tín điểm binh", càng nhiều càng tốt, cần phải lưu ý đến đại hạn hoặc lưu niên để"tìm cách tránh hung".

Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là"Tử vi Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc. Cung Quan là tham lang hóa Kị. Phá quân ở"thiên la địa võng"thì lực biến động thay đổi không nhiều, nên cuộc đời tương đối ổn định, nhưng thường có biểu hiện gánh vác công việc quá mức, hoặc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, đúng với hiện tượng"người giỏi thì làm nhiều". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc (ở cung Tý còn là"Lộc trùng điệp") thu nhập tất phải nhiều. Khuyết điểm của tinh hệ này là sau trung niên, phần nhiều đều thích hợp với người khác để làm ăn, nhưng thường lại là kết quả xấu.

Tinh hệ"Vũ khúc Phá quân"thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Tài là"Liêm trinh Thất sát"cũng gặp Sát tinh. Cung Quan là"Tử vi Tham lang"mà Tham lang hóa Kị, lại cũng gặp Sát tinh. Ba cung chủ yếu đều gặp Sát tinh, trở thành điều tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này, do đó cuộc đời gặp nhiều trắc trở, biến động thay đổi không như lý tưởng, mà còn thiếu trợ lực, khiến vất vả thậm tệ. Cung Tài quá không ổn định, vốn liếng tiền bạc không đủ để chống đỡ sự nghiệp, do đó tăng thêm áp lực về mặt tinh thần. Hơn nữa sau trung niên còn xảy ra nhiều tình huống rắc rối trắc trở, khiến cho đời người có nhiều điều đáng tiếc. Nhưng Phá quân hóa Lộc, dù sự nghiệp trắc trở, vẫn có thể duy trì thu nhập, đây là ưu điểm của tinh hệ này.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Nhâm - Thiên lương hóa Lộc - Vương Đình Chi

Thiên Lương là sao"giám sát", chủ về sang quý thanh cao, nên không ưa hóa thành sao Lộc. Trong mười can Hóa Lộc, đây là trường hợp rất kị. Khi Thiên lương hóa Lộc sẽ tăng phiền phức quấy rối, còn bất lợi về kinh doanh làm ăn. Lúc này, nên chú ý tính chất của cung Giao hữu (cung Nô), đó là then chốt để luận đoán toàn Cục.

Hễ Thiên lương hóa Lộc, ắt sẽ bị người ta bài xích, chèn ép, chỉ trích, nhất là trường hợp Thiên Lương ở hai cung Tị hoặc Ngọ. Chỉ nên làn những nghề mang tính phục vụ, công khai tiền lương, như chuyên viên kế toán, cố vấn tài chính, phục vụ công cộng, không nên theo đuổi danh tiếng.

Thiên Lương chủ về hóa giải tai nạn, sau khi hóa Lộc, thời gian hóa giải thường bị kéo dài hơn, khiến cho mệnh tạo cảm thấy rắc rối đa đoan. May mà kết quả hóa giải rắc rối được hoàn mỹ, còn không để lại di chứng. Đây là thông bệnh của Thiên lương hóa Lộc.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương có Kình dương đồng độ, hoặc hội hợp với Kình Đà, nhóm tinh hệ này đã có sắc thái rắc rối thị phi. Ở cung Tý tốt hơn ở cung Ngọ, đây là do tình trạng miếu hãm của Thái dương. Cung Sự nghiệp (cung Quan) là Thiên đồng. Cung Tài là"Thiên cơ Thái âm", đều chẳng phải là các sao có sắc thái tích cực. Vì vậy nếu kinh doanh làm ăn, ắt chủ về gặp nhiều rắc rối, không bằng những nghề nghiệp mang tính chuyên môn để kiếm tiền. Nhưng khiếm khuyết đáng tiếc lớn nhất của mệnh tạo là ở cung Giao hữu (Nô)."Vũ khúc Phá quân"hóa Kị, bản thân dễ ăn của đút lót, ắt sẽ bị người dưới quyền chỉ trích. Mệnh tạo khéo léo xử sự như thế nào, điều này sẽ ảnh hưởng cực lớn đến vận mệnh.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên cơ. Cung Sự nghiệp (Quan) là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm. Nhóm tinh hệ này ưa Thiên lương ở cung Sửu, vì Thái dương ở cung Tị, Thái âm ở cung Dậu, chúng đều miếu vượng. Thái dương chủ về"quý"khi ở cung Quan, Thái âm chủ về"phú"khi ở cung Tài, bản chất là rất thích hợp. Cho nên địa vị và tài bạch của mệnh tạo đều không lo thiếu, khi Thiên lương thủ Mệnh ở cung Mùi thì tệ hơn nhiều. Nhưng hễ Thiên lương hóa Lộc, mỗi lần có khoảng thời gian rắc rối khó sử xảy ra, cần phải lưu ý đến Vũ khúc hóa Kị ở nguyên cục bị cát hóa ở đại hạn hay lưu niên xung khởi, đây là thời kỳ có bất hòa, tranh chấp về tiền bạc. Vũ khúc hóa Kị ở cung Điền, doanh nhân dễ vì xoay chuyển tiền bạc khó khăn mà đình chỉ công việc kinh doanh.

Tinh hệ"Thiên đồng Thiên lương"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân mà Thiên lương hóa Lộc, hội Kình dương hoặc hội Đà la. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này thiếu tính tích cực, vốn thuộc loại kết cấu an nhàn, yên tịnh. Có điều Thiên lương hóa Lộc gây ra biến đổi toàn cục, phần nhiều những tình huống rắc rối khó xử đều liên quan đến tiền bạc. Cung Nô là"Tử vi Phá quân"mà Tử vi hóa Quyền, lại hội"Vũ khúc Thất sát"mà Vũ khúc hóa Kị, nếu có Sát tinh hội hợp, thường thường là gặp tình cảnh"đầy tớ phản chủ", người dưới quyền là người tâm phúc do bản thân mệnh tạo chọn lựa đề bạt lại biến thành đại họa. Nếu cách kiếm tiền không chính đáng sẽ dễ bị thuộc cấp thừa cơ phản chủ.

Tinh hệ"Thái dương Thiên lương"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên lương hóa Lộc. Cung Quan mượn"Thiên đồng Cự môn"nhập cung. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này cũng không thích hợp làm ăn kinh doanh, chủ về tiền bạc phải dựa vào địa vị hoặc tri thức mới có. Nhưng Thiên lương hóa Lộc thì vẫn không tránh được chuyện bị thuộc cấp gây lụy. Đại hạn hoặc lưu niên xấu nhất cũng thường ở cung hạn Vũ khúc hóa Kị, chủ về người dưới quyền gây lụy, hoặc chủ về sức khỏe không tốt, cần phải xem xét các cung liên quan mà định, nhất là phải lưu ý đến cách"Linh Xương Đà Vũ".

Tinh hệ"Thiên cơ Thiên lương thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên lương hóa Lộc ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Quan mượn"Thái dương Cự môn". Cung Tài là"Thiên đồng Thái âm"ắt cũng sẽ gặp Sát tinh. Nhóm sao này tuy không phải là chính cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương"nhưng cũng thích hợp làm công chức. Có điều trong 12 cung, hai cung Thìn và Tuất rất kị Thiên lương hóa Lộc, ngoài việc mượn lực của"Thái dương Cự môn"nhập cung Quan, thì không còn đạo"tìm cát tránh hung"nào khác. Cho nên Cơ Lương ưa ở cung Thìn hơn, vì Cự Nhật sẽ ở cung Dần, nếu cung chứa Cự Nhật gặp các sao Sát - Hình trùng trùng, thì thường vì tiền bạc mà xảy ra kiện cáo, tố tụng.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Thiên đồng ở đối cung, lại hội Lộc tồn trùng điệp. Cung Tài là"Thái dương Thái âm". Cung Quan phải mượn"Thiên cơ Cự môn"nhập cung để hội hợp với cung Mệnh. Vấn đề lớn nhất của nhóm tinh hệ này là sức khỏe vì Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tật ách. Bản thân tinh hệ cũng thiếu tính tích cực, chỉ thích hợp với cảnh làm hưởng đồng lương để có tiền. Có điều vì mệnh tạo thường dễ cảm thấy thỏa mãn, thường ba phải dễ chấp nhận, nên khó xảy ra tình huống rắc rối khó xử. Ở hai cung này lại thường chủ về đất đai nhà cửa của ông bà hay cha mẹ để lại bị phá sạch, trường hợp Thiên lương thủ Mệnh ở cung Tị nặng hơn, nhưng rời xa quê hương lại tốt.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Tân - Cự môn hóa Lộc - Vương Đình Chi

Cự Môn chủ về điều tiếng thị phi, khi hóa thành sao Lộc, thì nhuyễn hóa thành nói năng để phục vụ. Cho nên ý nghĩa cơ bản là lợi về dạy học, luật sư, làm môi giới hoặc làm quảng bá. Ở xã hội hiện đại cũng có lợi về nghệ thuật biểu diễn, có thể khiến tài năng biểu diễn (nhất là ca xướng) được hoan nghênh.

Nhưng Cự Môn là"ám tinh", không hóa Lộc, cũng đã ưa thích che hào quang của người khác. Sau khi hóa Lộc còn có khuynh hướng biểu hiện bản thân, do đó sinh ra thị phi, có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp. Người xưa cho rằng"Cự môn hóa Lộc"phú quý không được lâu", là vì luận định tính lý này.

Cự môn hóa Lộc, không ưa có Sát tinh đồng độ, có Sát tinh thì thành phá cách, ghét nhất là Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bình địa nổi cơn sóng gió, thường thường là do bản thân gây ra.

Cự môn sau khi hóa Lộc sẽ có sắc thái đào hoa, nếu lại hội các sao đào hoa thì tình cảm càng dễ nổi sóng gió. Cự môn hóa Lộc ở bản cung cũng chủ về thích ăn uống, còn chủ về phần nhiều đau khổ vì tình.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Thái dương hóa Quyền. Cung Tài mượn"Thiên đồng Thiên lương"nhập cung, ắt sẽ kèm Đà la. Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ hay hội hợp, là cách"Thạch trung ẩn ngọc", tài lộc sẽ theo tiếng tăm địa vị mà đến, nhưng lúc trẻ ắt phải chịu qua gian khổ trước. Lúc này người Cự môn hóa Lộc thủ mệnh nên giấu bớt tài năng, không quá lộ sự sắc xảo, thì mới hợp với tính chất của"Thạch trung ẩn ngọc cách". Nếu không, địa vị càng cao thì thế sẽ càng nguy, càng dễ bị người ta bài xích, chèn ép. Cung Tài là Đồng Lương mượn để nhập cung, cũng chủ về tiền của theo danh dự và địa vị mà đến. Nếu cố ý kiếm tiền thì lại khó mà được.

Tinh hệ"Thiên đồng Cự môn"thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Lộc ở cung Sửu lại có Lộc tồn trùng điệp. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài mượn"Thái dương Thiên lương"nhập cung, mà Thái dương hóa Quyền, ắt sẽ kèm Lộc tồn. Nếu Văn Xương hóa Khoa hội hợp với cung Mệnh hoặc cung Tài, thì cung Tài sẽ hình thành Cách:"Dương Lương Xương Lộc"cát tường. Cách này ở bản tinh hệ, có lợi về làm việc trong chính giới. Nếu không thành Cách, do Thái dương và Cự môn được cát hóa, nên cũng có thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) xem trọng. Vì vậy rất thích hợp làm đại lý thương phẩm nước ngoài, hoặc làm việc cho công ty nước ngoài. Nếu không chỉ nên làm những nghề mang tính phục vụ, hoặc chuyên nghiệp. Người"thiên đồng Cự môn"thủ Mệnh ở cung Mùi thì khó tránh hiếu động, trôi nổi, thường thay đổi hoàn cảnh công tác.

Tinh hệ"Thái dương Cự môn"thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có Thái dương hóa Quyền, còn Cự môn hóa Lộc ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội hợp với Kình Đà. Cung Tài mượn"Thiên cơ Thiên lương". Cung Quan mượn"Thiên đồng Thái âm". Trong các cung chỉ có cung Mệnh là mạnh, các cung khác đều yếu, tuy không giảm trợ lực, nhưng cũng bất lợi về hôn nhân, ở cung Thân càng nặng. Tiền bạc do danh dự và địa vị mà đến, vì vậy muốn tích lũy cũng không dễ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm đoạn"Cự môn hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ"đã thuật ở trước. Riêng về nữ mệnh, gặp"Thái dương Cự môn"hóa Quyền và hóa Lộc ở cung Mệnh, thường chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), và đối với nữ mệnh đều được người ngoại quốc, hay người ở phương xa xem trọng.

Tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Lộc ắt sẽ hội hợp với Lộc tồn thành cách"Lộc trùng điệp". Có điều cung Tài là Thiên đồng lại quá thích an nhàn hưởng lạc. Cung Quan mượn"Thái dương Thái âm"lại quá hiếu động, trôi nổi, nên cũng ảnh hưởng đến tài lộc của"Thiên cơ Cự môn", khó tránh phải lao lực, hoặc vất vả và nói năng, cũng thích hợp với những nghề cần miệng lưỡi, tài ăn nói. Nếu cung Tài ở cung Tị thì được"Lộc trùng điệp cách"tài khí khá vượng, chủ về tay trắng làm nên trở thành giầu có. Cách"Lộc trùng điệp"ở cung Tài ưu hơn"Lộc trùng điệp"ở cung Mệnh. Đây là đặc điểm của cách cục này.

Cự môn độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, hội Kình Đà, hoặc có Kình dương cùng bay đến, Thiên đồng ở đối cung. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền. Cung Quan mượn"Thiên cơ Thái âm". Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, vì vậy tuy hóa Lộc cũng không chủ về tài lộc dồi dào. Nếu có ý kiếm tiền thì sẽ gặp nhiều gian khổ. Nếu có thể nâng cao học lực, nhờ địa vị xã hội hoặc tiếng tăm mà kiếm tiền thì lại thích hợp. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền, cũng chủ về"danh"lớn hơn"lợi", hoặc lợi lộc theo tiếng tăm, danh dự mà đến, thích hợp làm những nghề chuyên môn như giáo chức, luật sư, .v.v... cũng thích hợp với công việc bán hàng, chào hàng, hoặc phục vụ.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái dương ở đối cung hóa Quyền. Cung Tài là Thiên cơ gặp Sát tinh. Cung Quan là Thiên đồng được Lộc tồn. Cự môn khó tương hội với Lộc và Quyền, ở cung Hợi ưu hơn ở cung Tị, vì mệnh Cự môn ở cung Hợi thì Thái dương ở đối cung miếu vượng hóa Quyền ở cung Thiên Di, cổ nhân cho rằng đây là:"danh chấn tha bang"(nổi tiếng ở nước ngoài) rất có lợi về đi du học. Thông thường tinh hệ này chủ về biến động thay đổi, hoặc liên tiếp thay đổi công việc, phải bôn ba ở đất khách, hoặc bản thân công việc đã có sắc thái lưu động, sau mới đắc lợi, nhưng về nghề thì vẫn nên có tính chuyên nghiệp, tính hưởng thụ (như quản lý nhà hàng khách sạn, hàng không) là tốt nhất.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Giáp - Liêm trinh hóa Lộc - Vương Đình chi

Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn vật chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu tiêu sài, lấy mức sống cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần, tất nhiên sẽ không keo kiệt.

Nhìn bề ngoài, Liêm trinh thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra bản chất khác nhau. Sự tiêu xài của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc, còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc"phong hoa tuyết nguyệt", tính chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và cảm tính.

Liêm trinh thường có sắc thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc, cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết phái, .v.v...

Lúc Liêm trinh hóa Lộc, lại gặp các sao Hung - Sát - Hình, sẽ chủ về tửu sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng chẳng thu hoạch được gì, mà trong công việc làm ăn, còn bị rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các sao đào hoa, thường thường sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc gặp đào hoa, mà không có các sao Sát - Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng gió, mà được hiến thân hoặc đắc tài lộc.

Liêm trinh hóa Kị ở nguyên cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài (như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc, .v.v...), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh phúc.

Tinh hệ"Liêm trinh Thiên tướng"có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó, nhưng lại thường kiêm nhiệm trọng trách và nắm giữ quyền hành.

Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ"Liêm trinh Thiên tướng"mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.

Tinh hệ"Liêm trinh Thất sát"có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc Hợi, thanh thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn"Liêm trinh Thiên tướng". Đối cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có"Tử vi Tham lang"chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ tài lộc rồi dào hơn tinh hệ"Liêm trinh Thiên tướng". Đà la thì sinh lần nữa, nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với cung Nô là Thái dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh"Liêm trinh Thiên tướng"thì lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp, tranh chấp, cho đến âm mưu ...

Liêm trinh độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc tồn cùng bay đến hoặc vây chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ"Thiên phủ Vũ khúc"trong đó Vũ khúc hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm trinh đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt. Tinh hệ"Thái dương Thái âm"thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung Huynh đệ, chủ về người dưới quyền nhiều mà không ổn định.

Tinh hệ"Liêm trinh Phá quân"thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung, hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi, cung Quan là tinh hệ"Vũ khúc Tham lang"mà Vũ khúc hóa Khoa, càng làm mạnh thêm tài vận của"Liêm trinh Phá quân", cung Tài là tinh hệ"Tử vi Thất sát"cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối cung Mệnh là Thiên tướng tại Mão, bị"Cự môn Thái dương"có Thái dương hóa Kị, và Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến"Liêm trinh Phá quân"cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân tố chắc trở của cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ ở cung Phúc (Tị Hợi) hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình - Kị giáp cung, chủ về khó giữ được sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành tựu đã đạt được mới cát lợi.

Tinh hệ"Liêm trinh Thiên phủ"khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của tinh hệ"Vũ khúc Thiên tướng"ở cung Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài cung là Tử vi độc tọa. Tính chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.

Tinh hệ này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối cũng tốt hơn nửa năm đầu. Đây là vì"Liêm trinh Thiên phủ"ở cung"thiên la địa võng", cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ từ.

Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của người phối ngẫu.

Tinh hệ"Liêm trinh Tham lang"khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi, cung Quan có"Vũ khúc Thất sát"hóa Khoa, cung Tài là"Tử vi Phá quân"hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải tự lập. Cho nên ở đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục.

Kết cấu tinh hệ này thích hợp với các nghề nghiệp liên quan đến nghệ thuật, hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là"Tử vi Phá quân"đồng độ với Đà la, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh hoặc cung Phúc có các sao"đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ vẫn còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung Nô (cung giao hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.

Bổ thuyết Liêm trinh Hóa Lộc

- Liêm trinh hóa Lộc ở cung Mệnh, ở cung Tài bạch, ở cung Sự nghiệp đều chủ về Mệnh cách có nguồn Tài Khí mới, lợi cho việc kiếm tiền, dễ được giầu có.

- Liêm trinh hóa Lộc ở cung Phúc đức, chủ về ưa thích theo đuổi cuộc sống hưởng thụ, lòng coi nhẹ sự nghiệp, có dục vọng mạnh hưởng thụ cuộc đời, có điều nhiều lúc vì ham hưởng thụ mà dấn thân liều mạng làm việc.

- Liêm trinh hóa Lộc ở các cung viên Lục thân, thì chủ về quan hệ tình cảm thâm sâu hài hòa với nhau, ở cung Phụ mẫu thì cha từ con hiếu, ở Phu thê thì tình cảm vợ chồng đều vui vẻ, ở Huynh đệ thì thủ túc tinh thâm, ở Tử nữ thì con cái hiếu thuận, ở cung Nô thì thuộc hạ trung thành, bạn bè tăng thêm niềm vui hữu nghị.

- Liên trinh hóa Lộc ở cung Thiên di thì chủ về ở hải ngoại hay nơi xa có nhiều lạc thú, nhiều thuận lợi dễ kiếm tiền.

- Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tật ách chủ về bệnh đường hô hấp.

- Liêm trinh hóa Lộc ở cung Điền trạch thì chủ về có thể mua bất động sản, hoặc giữ được cơ nghiệp, hoặc có thể đầu tư bất động sản, nhờ đó mà tiền tài tích tụ thành giầu có.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Ất - Thiên cơ hóa Lộc - Vương Đình Chi

Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén (can Bính hóa Quyền - nếu không có Quyền thì khó có thể linh động quyền biến). Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ"chủ động"(đây là lợi thế) tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp, vì vậy mà được lợi ích.

Nhưng mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim chứa phách) khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ, cho nên vẫn bị giới hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp và tiền bạc. Thiên cơ hóa Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến lược, chủ về kế hoạch, thiết kế, hoặc làm công việc đi đây đi đó cho người khác (như làm môi giới, thuyết khách, ...)

Do bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này trong núi nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng thời lưu ý các sao ở cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải có tính chất ổn định và có lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao thuộc loại không ổn định mà còn mang tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh, khiến thành tựu của người này bị nhiều hạn chế.

"Tiền tài"của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung điền trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu không phải xem cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay không.

Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn, cung Tài là tinh hệ"Thiên đồng Thiên lương"có Thiên lương hóa Quyền (can Ất), cung Quan là Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương (Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành"Cơ Nguyệt Đồng Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc, nhưng"Thiên đồng Thiên lương"lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ có thể thành tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung lạc dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà người có nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu ý.

Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương hóa Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng thì đối xung với Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền, mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha lãng phí, chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc, thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá cao, hoặc làm môi giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể phát huy.

Tinh hệ"Thiên cơ Thái âm"ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay đến, hoặc bị Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp với Thiên lương độc tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà. Nhóm tinh hệ này cũng là cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo"tìm cát tránh hung"là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước mắt, và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được"nhân hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.

Tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ hóa Lộc, lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất vượng, cung Tài có Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn"Thái dương Thái âm"an cung có Thái âm hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới, .v.v... Nếu có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng bá.

Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu tư hay đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì"Thái dương Thái âm"hiếu động, trôi nổi, mà Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước khi đầu tư.

Thiên đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay trắng làm nên, nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến tranh chấp, gặp trở lực.

Tinh hệ"Thiên cơ Thiên lương"ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình dương Đà la cùng chiếu. Cung Quan mượn"Thái dương Cự môn"an cung hội hợp, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là"Thiên đồng Thái âm"mà Thái âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này, cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện. Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó phát huy. Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt, không được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)

Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa Kị, cung Tài là"Thiên đồng Cự môn". Cung Quan mượn"Thái dương Thiên lương"an cung hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ phí tâm lực, hoặc phí lời nói.

Thiên cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất, hoặc nhận lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở.

Tinh hệ"Thiên đồng Cự môn"thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội hợp, lại có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều, mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị phi phiền nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Bính - Thiên đồng hóa Lộc - Vương Đình Chi

Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.

Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong nhã, dễ mê đắm trong"thanh vận thơ phú"hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại. Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.

Thiên đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên có cách"phản bối"và"Mã đầu đới kiếm". Dù không thành cách, nhưng có gặp một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất vả, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.

Sau khi hóa Lộc, Thiên đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng không cần có sát tinh kích phát).

Tinh hệ"Thiên đồng Thái âm"ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc, hội với"Thiên cơ Thiên lương"ở cung Quan (tại Thìn Tuất) mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn"Thái dương Cư môn"an cung (tại Dần Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên, .v.v...), hoặc viên chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ hội.

Tinh hệ"Thiên đồng Cự môn"ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (tại Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn"Thái dương Thiên lương"an cung (ở Mão hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với"Thiên đồng Cự môn", chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc"sao lẻ"phụ tá (nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ. Cung Quan là Thiên cơ"Lộc trùng điệp"thích hợp với công tác kế hoạch tài vụ, tài chính, kinh tế, vạch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức (??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.

Tinh hệ"Thiên đồng Thiên lương"ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất), có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích tán gẫu. lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa, thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả. Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản chất của"Thiên đồng Thiên lương"lợi về phục vụ, cũng chủ về danh tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự vinh dự của bản thân.

Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương, chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với Thiên tướng, nếu thành cách"Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền phức.

Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là"Thiên cơ Thái âm"mà Thiên cơ hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ. Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La, thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây"kích phát", nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng, hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.

Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn, hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách"Lộc trùng điệp", thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn"Thái dương thái âm"nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì"Lộc trùng điệp", tuy có"phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm)."Thiên cơ Cự môn"của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống rỗng. Gặp"sao không"là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác"trống vắng dưới trăng trước hoa".

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Đinh - Thái âm hóa Lộc - Vương Đình Chi

Thái Âm là sao tiền tài, đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động kiếm tiền, thiếu"sức"cạnh tranh. Có thể giàu có hay không, vẫn cần phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc đại vận có"tài khí"dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc cũng bình thường mà thôi.

Hơn nữa, lúc Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở cung Phúc, mà cung Phúc gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn luôn đối nhau). Thái Âm vốn có"khí chất"dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh chấp, tâm tình âu lo thái quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại còn do không giỏi tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ gặp nhiều cảnh ngộ đáng tiếc.

Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận. Do ở đại vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại ý.

Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác sung sướng về tâm lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài lộc dồi dào. Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về những bất lợi đối với lục thân.

Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên hoặc đại hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá tài.

Thái Âm hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại hạn, chỉ cần không bị dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một cách thuận lợi trong bối cảnh rối ren thị phi.

Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú trọng vấn đề tình cảm. Nếu không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về tình cảm, thì hậu quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế, nhưng lại có một thiên tình sử để nhớ !!!

Tinh hệ"Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, như vậy là"sao Lộc"nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng. Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có"Thiên cơ Cự môn"mà Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về vất vả, còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề tình cảm ra, thì còn có điều tiếng thị phi.

Tinh hệ"Thái dương Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái âm hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn"Thiên cơ Cự môn"nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm tinh hệ này tài lộc không vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền cũng nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm mà thôi.

Tinh hệ"Thiên cơ Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng điệp. Cung quan là Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm???]. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu có. Cung Quan là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách"Lộc trùng điệp"rất thích hợp với giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng, .v.v... nếu làm việc trong chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở"thiên la địa võng"nên nội tâm thường không được yên ổn.

Thái Âm độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình Dương hay Đà La. Cung Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa (ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa Lộc và Thiên đồng hóa Quyền đối nhau, gọi là"Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người, nhưng mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng thích hợp làm những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở cung Tị.

Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại trùng điệp hội Lộc tồn, mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với cung Thìn. Cung Quan là"Thiên đồng Thiên lương"mà Thiên đồng hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự môn hóa Kị. Ở"tam phương tứ chính"có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm nghề bán lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay những nghề có sắc thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không được yên ổn, dễ chuốc điều tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực"quan phi", hôn nhân cũng thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà thôi.

Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa Khoa, mệnh ở cung Hợi tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn ba vất vả, không ổn định để theo giữ một nghề. Cung Quan là"Thái dương Thiên lương"được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược, công tác xã hội,, gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo hiểm. Cung Tài là"Thiên đồng Cự môn"một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình cảm cũng là khuyết điểm của tinh hệ này.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Mậu - Tham lang hóa Lộc - Vương Đình Chi

Bản chất của Tham Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý nghĩa của ham muốn vật chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có thể nhờ thù tạc mà phát triển sự nghiệp, từ đó mà có cơ hội kiếm tiền thông qua giao tế thù tạc.

Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần chú ý xem vận hạn có thích hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội chiếu, thì không nên đầu cơ.

Tham lang hóa Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất và sắc dục đều nặng. Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá tài.

Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc không chỉ vì thù tạc trong công việc, mà còn vì giao du với bạn xấu.

Tham lang hóa Lộc thành cách"Hỏa Tham","Linh Tham", ắt sẽ có khoảng tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ thất bại. Vì vậy không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất ngờ.

Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là Thất sát. Trong hai cung Tý Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị"phiếm thủy đào hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt hơn và là cách"Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc, mà ở cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài, ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị ở cung Nô, hội chiếu cung Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực.

Tinh hệ"Vũ khúc Tham lang"đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung Quan là"Tử vi Thất sát"hội hợp với Lộc tồn, khí thế bàng bạc. Cung Tài là"Liêm trinh Phá quân"ở cung Dậu, thì"Lộc trùng điệp", nên an Mệnh ở cung Sửu thì"tài khí"ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường, nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ sót trong việc giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp lang, thường xảy ra tệ"có người thì làm việc đoàng hoàng, không có người thì nghỉ", điều này cho thấy khả năng lãnh đạo và uy tín của người Vũ Tham thủ mệnh.

Tham lang thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này Tham lang hóa Lộc đều có khuyết điểm, dễ"bạo phát bạo tàn". Cho nên ở đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách"Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn còn cục diện để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất sát, vì vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí, vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.

Tinh hệ"Tử vi Tham lang"thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang hóa Lộc. Cung Tài là"Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực"xung kích", sức cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp, người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là"Liêm trinh Thất sát", cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của"Tử vi Tham lang"."Vũ khúc Phá quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối với người khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người hợp tác hay người dưới quyền xâm phạm.

Tham lang thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Thìn ắt sẽ đồng độ với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa thuật ở trên, thì tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng đối với nữ mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.

Tinh hệ"Liêm trinh Tham lang"thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Lộc, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là"Tử vi Phá quân"không chủ về tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là"Vũ khúc Thất sát", tam phương tứ chính có đào hoa trùng trùng, rất thích hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng thụ."Vũ khúc Thất sát"ở cung Dậu có thể theo nghề ẩm thực. Có điều nếu gặp các sao khoa văn hội hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ sản, .v.v...

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Kỷ - Vũ khúc hóa Kị - Vương Đình Chi

Vũ khúc là sao tiền tài, còn chủ về hành động, nên ưa hóa Lộc. Vì chủ về hành động, tất nhiên dễ tạo dựng sự nghiệp, hơn nữa sự nghiệp càng lớn thì tài lộc càng dồi dào. Nếu muốn tính toán tài phú của người này, không thể chỉ nhìn xem anh ta có tích lũy hay không, mà tài sản của anh ta thường thường cũng là vốn liếng của cty.

Vũ khúc hóa Lộc mà có tứ Sát đồng độ, chủ về lấy tay nghề, công nghệ để kiếm tiền. Làm ăn tốt, nên nguồn tiền tài không thiếu, có điều nếu nghỉ hưu thì không có thu nhập, do đó cần phải chú ý tích lũy. May mà Vũ Khúc có bản chất giỏi quản lý tài chính, trừ khi cung Tài quá thậm tệ, nếu không phần nhiều đều có tích lũy.

Vũ Khúc hóa Lộc rất kị có Văn Khúc hóa Kị hội hợp (can Kỷ), sẽ chủ về nghề nghiệp chính thức thì có thể kiếm tiền, nhưng đầu tư ắt sẽ bị tổn thất, do đó việc tích lũy sẽ giảm đi nhiều.

Nữ mệnh không ưa Vũ Khúc hóa thành sao Lộc, chủ về làm tăng mạnh thêm cơ hội độc thân.

Tinh hệ"Vũ khúc Thiên phủ"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ khúc hóa Lộc, là kết cấu tốt lành. Hơn nữa còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu,"Lộc trùng điệp"nên nguồn tiền tài càng vượng. Cung Tài là Liêm trinh độc tọa hội hóa Lộc, thì giỏi quản lý tài chính, cũng là sở trường lợi dụng của cải để kiếm tiền (lấy tiền để kiếp tiền, rất an nhàn, thường thường còn được nhiều). Ở cung Dần gặp"Lộc trùng điệp"là khá tốt. Cung Quan là"Tử vi Thiên tướng", chủ về ưa hợp tác với người khác, mà bản thân mệnh tạo ở địa vị lãnh đạo, địa vị chủ đạo. Ở cung Tuất gặp"Lộc trùng điệp"cũng khá tốt (Tóm lại"Vũ khúc Thiên phủ"ở cung Ngọ là khá tốt, nhưng ở đây chỉ nói về tiền bạc của cải). Nhóm tinh hệ này cần phải quan sát kỹ xem Văn Khúc hóa Kị ở cung độ nào, thường thì khuyết điểm cơ bản của mệnh cục là ở đó.

Tinh hệ"Vũ khúc Tham lang"thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Lộc còn Tham lang hóa Quyền, nhưng ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là"Tử vi Thất sát"đồng độ với Đà la, hoặc có Kình Đà giao hội. Cung Tài là"Liêm trinh Phá quân"bị Đà La hội chiếu, hoặc Kình Dương hội chiếu. Gặp Đà La thì khá bất lợi, chủ về tuổi trẻ hưởng thụ sa đà, nếu không sẽ chủ về vất vả mà không thu hoạch được gì. Nhóm tinh hệ này, ham muốn tiền bạc và sự nghiệp đều nặng, chính vì duyên cớ này mà thường có hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, thích sống sa hoa, ưa lôi kéo trong quan hệ giao tế, nhưng trong tình bạn lại không được lâu dài và tình bạn không bền vững. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Nô (cung Giao hữu) hay cung Huynh, sẽ chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại. Đánh giá về"nhân tình"là then chốt để luận đoán nhóm tinh hệ này.

Tinh hệ"Thiên tướng Vũ khúc"thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Lộc, hơn nữa ở cung Dần còn hội Lộc tồn, tài khí không phải yếu. Cung Quan là Tử vi ở cung Tý hoặc Ngọ, có khí thế độc lập, được Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, sự nghiệp có thực chất chứ không khoa trương phù phiếm. Cung Tài là"Liêm trinh Thiên phủ, chủ về giỏi quản lý tài chính, lại sở trường vận dụng tiền bạc để có tiếng tăm. Xem toàn bộ tinh hệ là một kết cấu tốt, chủ về lúc đầu thì giúp người khác gây dựng sự nghiệp, nhưng không lâu liền tự lập mà trở nên giầu có, danh lợi có đủ. Nhưng nếu Văn Khúc hóa Kị ở cung Mệnh hoặc cung Phúc, phần nhiều sai lầm là do gánh lụy cho người khác, tuyệt đối không nên đầu cơ, cũng không nên làm người bảo lãnh tiền bạc cho ai. Văn Khúc hóa Kị ở cung Huynh chủ về bị bạn bè uy hiếp.

Tinh hệ"Vũ khúc Thất sát"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Lộc. Cung Quan là"Tử vi Phá quân"đồng độ với Kình dương, hoặc có Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là"Liêm trinh Tham lang"mà Tham lang hóa Quyền, có Đà La đồng độ, hoặc Kình Đà hội chiếu. Toàn bộ tinh hệ có kết cấu mạnh mẽ, vì Vũ Sát đã có sắc thái quyền lực, lại thêm Tham lang hóa Quyền. Nếu cung Mệnh không có Hỏa Linh, thì rất thích hợp theo võ nghiệp. Gặp Xương Khúc thì có thể là Bác sỹ ngoại khoa hoặc nha khoa, cũng thích hợp với nghề ẩm thực. Nhóm này, tinh hệ cũng chủ về khéo vận dụng cơ hội, có năng lực quản lý tốt, cũng khéo vận dụng tiền bạc để lôi kéo sự ủng hộ, nên được nhiều trợ lực.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Tham lang hóa Quyền ở đối cung. Cung Tài là"Liêm trinh Thiên tướng"có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Quan là"Tử vi Thiên Phủ". Nhóm này, tinh hệ về tài lộc đều vượng, nhưng Vũ khúc hãm ở"thiên la địa võng"e rằng sức khai sáng không đủ, dễ ham thích an nhàn. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Phúc đức. Cung Tài là Liêm Tướng, nếu đồng độ với Lộc tồn thì keo kiệt ích kỷ. Nếu Lộc tồn vây chiếu thì chủ về rộng rãi hào sảng. Nếu gặp tinh hệ này ở lưu niên hoặc đại hạn, mà ở nguyên cục Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, thì lại không cát tường, chủ về vì tiền bạc mà thất bại lớn.

Tinh hệ"Vũ khúc Phá quân"thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Lộc, hội với"Tử vi Tham lang"ở cung Quan mà Tham lang hóa Quyền và hội với"Liêm trinh Thất sát"ở cung Tài. Khi luận đoán cần lưu ý tình hình 3 tinh hệ này hội hợp với Kình dương, Đà la. Tinh hệ này có sức khai sáng rất mạnh, chỉ khi đồng độ với Đà la ở cung Tị mới chủ về sức khỏe không tốt, gây ảnh hưởng đến sức khai sáng của nó. Tử Tham ở cung Quan có Tham lang hóa Quyền, chủ về cực kỳ tích cực, có thể phối hợp tốt với cung Mệnh. Nhưng cung Tài lại khá yếu, thích tích lũy tiền bạc mà lại thiếu lực, dẫn đến không thể phối hợp với cung Mệnh và cung Quan. Đây là khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nguyên nhân không thể tích lũy tiền của, là vì thường có nguyên nhân liên quan đến sức khỏe, cũng có liên quan đến hôn nhân.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Can Canh - Thái dương hóa Lộc - Vương Đình Chi

Thái Dương chủ về phát tài, khi hóa Lộc cũng chẳng làm tăng danh vọng, mà ngược lại, nhờ vào danh vọng thì mới có được tiền bạc, ví dụ như nhờ nghe danh tiếng mà được mời làm việc.

Có lúc cũng chủ về được tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc về vinh dự. Ví dụ như được bằng khen, .v.v...

Do bản thân Thái Dương có tính chất"quý"mà không"phú", nên được tiếng tăm nhiều hơn tiền tài. Lúc Thái dương lạc hãm mà hóa Lộc, có lúc còn chủ về tán tài, ví dụ như được vinh dự nhận bằng khen, vì vậy mà tổ chức tiệc mừng, mời bạn bè thân hữu đến chung vui, nên phải chi tiêu tốn kém tương đối lớn. Xét ở góc độ tính toán tiền bạc, có thể nói"thu không bằng chi".

Khi Thái dương miếu vượng mà hóa Lộc, cũng có thể quản lý được chút tài sản, nhờ vậy mà làm tăng địa vị của mệnh tạo.

Các nguyên tắc thuật ở trên, tóm lại là"Thái dương chủ về Quý mà không chủ về Phú".

Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Cự môn. Cung Tài mượn"Thiên cơ Thái âm"để hội hợp với cung Mệnh, có Lộc tồn đồng độ. Đây là"phú cục", nhưng"phú"của nó là do sao Lộc trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái dương hóa thành sao Lộc ở cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà có."Thiên cơ Thái âm"không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về có kiếm được tiền một cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn, nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là vì"quý"(có danh tiếng) chứ không phải vì"phú"(giầu có). Thái dương ở cung Ngọ tốt hơn ở cung Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái dương và Thái âm đều miếu vượng (??? kiểm), còn ở cung Tý thì Thái dương và Thái âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên Thái dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít mà quá trình kiếm tiền cũng khá hao tổn tinh thần. Nhưng Thái dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh sáng chói lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử về tình cảm, hơn nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành trống rỗng.

Tinh hệ"Thái dương Thái âm"thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương độc tọa. Cung Tài mượn"Thiên cơ Cự môn"nhập cung, ắt sẽ có Kình dương đồng độ. Thái dương hóa Lộc không bằng Thái âm hóa Lộc, chỉ chủ về"danh"lớn hơn"lợi". Cung Tài là Cự Cơ có thêm Kình dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về phải nói năng vất vả. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi có thể giải được tính"cô độc và hình khắc"của Thiên lương, khiến cho tình hình cạnh tranh trong sự nghiệp khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.

Tinh hệ"Thái dương Cự môn"thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Lộc, có Lộc tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là"Thiên đồng Thái âm"mà Thiên đồng hóa Kị. Cung Tài mượn"Thiên cơ Thiên lương"nhập cung. Do Thái dương hóa Lộc còn hội Lộc tồn, cho nên chủ về"danh"trước rồi mới có"lợi"sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều. Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải nói năng rất nhiều, mà kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung Quan là Đồng Âm mà Thiên đồng hóa Kị, chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ, có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với các sao ở cung Mệnh. Thái dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái dương ở nơi vượng.

Tinh hệ"Thái dương Thiên lương"thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Lộc ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Cung Quan mượn"Thiên đồng Cự môn"nhập cung. Thái âm so với"Thái dương Thiên lương"cùng là hóa Lộc mà khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái âm ở cung Tài, Thái âm lạc hãm thì tài khó mà tụ, cho nên"Thái dương Thiên lương"ở cung Dậu không bằng ở cung Mão. Nhưng toàn bộ các tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào"phúc ấm"để nâng cao tên tuổi. Bao gồm danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến việc được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị. Nếu thành cách"Dương Lương Xương Khúc"thì rất thích hợp nghiên cứu học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào không ngừng, như nước nhỏ mà chảy dài.

Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài là Cự môn, có thể hội Lộc tồn thành cách"Lộc trùng điệp". Cung Quan mượn"Thiên đồng Thiên lương"nhập cung mà Thiên đồng hóa Kị, có Lộc tồn đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất vượng tài lộc, nhưng Thái Dương ở"thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định, nhưng vẫn khó tránh lao tâm, lao lực. Cự môn ở cung Tài có"sao Lộc trùng điệp", tuy chủ về"phú"và được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao tâm và rất vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên đồng hóa Kị ở cung Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung Thìn thì Thái dương nhập miếu, danh lợi đều ưu.

Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi. Cung Tài là Thiên lương. Cung Quan là Thái âm. Thái dương hóa Lộc ở cung Tị chủ về hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh khí, ở cung Tị cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái dương hóa Lộc thì bất kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên lương ở cung Tài thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể trở nên giầu có. Nếu không, nên làm những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Hóa Lộc luận - Tam Hợp phái

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là"Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp"Lộc tồn Thiên mã"gọi là cách"Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ"nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ"cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói"Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói:"Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là"Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh"Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì"Liêm trinh Thiên tướng"chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Hóa Lộc luận - Toàn thư

Thuộc tính ngũ hành của sao Hóa Lộc là âm thổ, hóa khí là Tài lộc, chưởng quản phúc đức chủ về tài lộc, thọ, lại chủ về duyên phận. Hóa Lộc còn dẫn thân làm sức lưu thông, hiển lộ là tiền tài, khiến cho tài phú được cụ thể hóa.

Các sao chủ tài tinh Vũ khúc, Thái âm, Lộc tồn, Thiên phủ, cùng các sao thứ tài tinh Liêm trinh, Thiên tướng, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Cô Thần (không gặp Hóa Kị, đối với tiền tài chỉ có lợi mà không có hại), nếu gặp sao Hóa Lộc, nguồn tiền của sẽ dồi dào bất tận, dễ đắc tài. Nếu thứ tài tinh gặp sao Hóa Kị (đồng cung hoặc tại xung cung) chủ về một đời tiền của lúc có lúc không, được mất bất thường, quan hệ không tốt, phiền não vất vả, cần phải xem xét trạng thái cát hung của các sao đồng cung hoặc tại tam phương tứ chính, thì mới có thể đoán định việc đắc tài có được thuận lợi hay không. Tài tinh Hóa Lộc không gặp Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, lại nhập các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Điền, thì nguồn tài cực thịnh. Tài tinh Hóa Lộc nhập các cung Tử nữ, Phụ mẫu, Tật ách, Nô bộc, Huynh đệ, thì chủ về chỉ có biết hưởng thụ lại thường dễ mang tính đào hoa.

Sao Hóa Lộc nhập miếu tại Dần Thân, đắc tại Tị Hợi, không đắc tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, lạc hãm tại Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Sao Hóa Lộc kị nhất là tứ Mộ, tuy hóa cát cũng không có mấy tác dụng, nhưng 4 cung Mộ cũng là 4 kho của, nên tiền tài có được sẽ có nơi cất trữ. Sao Hóa Lộc rơi vào hãm địa Tý Ngọ Mão Dậu, cho dù đóng tại cung Mệnh, Tài, Quan, Điền, thì cũng không thể phất được. Sao Hóa Lộc kị nhất là bị Địa không, Địa kiếp, Hóa Kị xung phá, sẽ trở thành điềm hung, khiến cho thu không đủ chi, mất nhiều hơn được.

Sao Hóa Lộc nếu trấn các cung Mệnh, Thân, Quan tại 4 cung Mã Dần, Thân, Tị, Hợi, lại gặp hai sao Hóa là Hóa Khoa và Hóa Quyền (nếu 3 sao Hóa cùng nằm tại cung mệnh, thì sức mạnh sẽ kém hơn khi nằm tại cung vị tam hội và chiếu, nhưng hành vận thủa nhỏ sẽ thuận lợi hơn), nếu không bị sát tinh xung phá, thì vận làm quan rất tốt.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên cơ - Lục Bân Triệu

Sao Thiên cơ về ngũ hành thuộc âm mộc, ở trên trời thuộc chòm Nam tinh, hóa làm sao lành. Tính chất của sao này là nhiều kế mưu ứng biến đa đoan; ở người là giỏi quyền biến, giỏi nắm bắt cơ hội, có tính hiếu học, hiếu động, siêng năng. Song cứ thấy lạ là thay đổi cách suy nghĩ, vì vậy rộng mà không sâu, bác mà không tinh; hơn nữa dục vọng quá cao, cho nên thực tế thường không theo kịp lý tưởng, vì vậy mà nhọc tâm mệt sức, song xử sự phần nhiều là có lý lẽ.

THIÊN CƠ Ở CUNG MỆNH

Thiên cơ ở cung mệnh thì chủ về người sắc mặt trắng xanh, lúc tuổi già hơi kèm sắc vàng. Nhập miếu thì thân hình dài mập. Đồng độ với Cự môn hoặc lạc hãm chủ về người gầy dong dỏng cao, mặt dài hơi kèm tròn, tâm từ tính gấp, hiếu động, hiếu học.

Nam mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh thì nhiều cơ mưu biến hóa, đa tài đa nghệ. Hội hợp với Thiên lương thì sở trường về khẩu tài, khéo biện luận, tính tình nhạy cảm, giỏi tùy cơ ứng biến. Đồng độ hoặc hội hợp với Thái âm thì kín đáo giỏi quyền biến, trọng tình cảm.

Thiên cơ ở Thân địa thì có Tử vi và Thiên phủ giáp cung Mệnh, một đời quyền trọng lộc nhiều. Ở Tý địa hoặc Ngọ địa thì Cự môn xung cung trở thành bậc quyền quý giầu có.

Thiên cơ nhập miếu thì bàn việc quân rất giỏi. Được các sao Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Hóa quyền, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt hội hay chiếu thì một đời quyền quý. Được Lộc tồn Thiên mã vây chiếu thì nguồn tiền tài dồi dào. Có Văn xương Văn khúc giáp cung thì bẩm tính thông minh, văn chương xuất chúng. Có tam hóa tinh Lộc Quyền Khoa chiếu và hội, không có sát diệu, là trong thần triều đình. Gặp Hóa Kị thì đi đó đi đây nhiều thay đổi, lừng khừng không quyết đoán vì tính tự hay quan trọng hóa vấn đề, quan trọng hóa sự việc một cách không cần thiết, nên hay lo hay nghĩ. Đồng độ với Kình Đà Hỏa Linh tuy được phú quý song không lâu dài. Gặp Cát tinh thì nên chọn nghề kinh doanh song phải chấp nhận nhiều biến động để thích nghi với thị trường.

Nếu có Cát tinh phù trì thì chủ về bản thân kiêm mấy chức, hoặc là người có kỹ thuật chuyên môn, thành công vè nghệ thuật.

Thiên cơ Cự môn Lộc tồn đồng cung, hoặc ở cung Thiên di, chủ về đại quý (cần phải không có ác sát)

Thiên cơ Thiên lương đồng cung, có cát tinh hội và chiếu, tuy có thể phát song không được lâu dài, tuy rằng quý nhưng chỉ có hư danh. Thiên cơ, Thiên lương, Thát sát, Phá quân xung hội là người thích đàm luận thiền cơ của cửa Không. Thiên cơ, Thiên lương, Thiên đồng, Thái âm hội và chiếu thì nên tính việc phát triển ở cơ quan công sở hoặc những ngành nghề liên quan đến công chúng. Nếu gặp Văn xương Văn khúc thì thích hợp với những ngành nghề liên quan đến văn hóa đại chúng. Thiên cơ, Thiên lương, Thái âm hội và chiếu, mà Tham lang thì ở cung Thân thì chủ về người ngày đêm bôn ba, tất bật dị thường, hoặc đam mê riệu chè cờ bạc. Cùng với Kình Đà Hỏa Linh hội và chiếu thì chủ về nhiều tài nhiều nạn, hoặc sau khi suy sụp thì bỏ đi nơi khác, hay làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ hay lo sợ vô cớ. Ở Dần địa, Mão địa, Thìn địa mà hội và hợp Sát tinh Thất sát và Phá quân là chủ về chuyện bất trắc chảy máu. Phàm hội và hợp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình, lại gặp thêm Hóa Kị thì yểu thọ.

Nữ mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh chủ về tính tình cương cường, thông minh khéo léo, lanh lợi, giúp chồng ích con, giỏi lo việc nhà, tháo vát hơn chồng. Có tam cát Lộc Quyền Khoa tương hội là tạo mệnh phu nhân. Có Thái âm đồng độ là dung mạo mỹ lệ, giầu tình cảm, khéo đối xử. Có Cự môn hội và chiếu là người nhiều lời qua tiếng lại. Thiên cơ hóa Kị thì hay lo nhiều nghĩ nhiều, bị tính ưa kích thích, dễ bị ngoại giới ảnh hưởng mà gây nên cảm xúc, làm cho đối tượng nam giới vừa hận vừa yêu, là bông hoa hồng có gai. Nếu Thiên cơ, Cự môn, Thiên lương, Thái âm hội và hợp, lại gặp thêm ác sát Hóa Kị Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình Không Kiếp là chủ về hình khắc, thường làm kế thất, làm vợ lẽ, hoặc hậm kết hôn, nếu không thì tổn thương chồng khắc hại con.

Lưu niên đại hạn vào triền độ của Thiên cơ, nhiều cơ hội mới, chủ về có cơ hội chuyển động biến đổi, hoặc nhà ở, giường ngủ có chuyện phải di dời. Hội và chiếu Thiên mã là có thuyên chuyển thăng chức, đi xa. Hội với tam hóa Khoa Quyền Lộc và các cát tinh như Lộc Mã Xương Khúc Khôi Việt thì chủ về phát triển sự nghiệp, thêm tài thêm phúc. Nếu các sao Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kị Cự môn hội và chiếu thì chủ về lời qua tiếng lại liên miên, gia sự rối bời, tâm phiền ý nản, mọi việc đều biến động không được yên ổn.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thái dương - Lục Bân Triệu

Sao Thái dương trong ngũ hành thuộc dương hỏa, ở trên bầu trời là mặt trời, hóa làm quý khí. Ở nam mệnh là Phụ tinh - sao Cha, và Tử tinh - sao con trai. Ở nữ mệnh, làm Phụ tinh - sao Cha, Phu tinh - sao Chồng, và Tử tinh - sao con trai. Thích hợp người sinh ban ngày, không thích hợp người sinh ban đêm. Là chủ tinh của cung sự nghiệp trong mệnh bàn.

Thái dương ở trong 12 cung đều có tên gọi riêng:

- Thái dương đến cung Tý gọi là Thiên Nghi, chủ về người giầu tình cảm, sinh quý tử.

- Thái dương đến cung Sửu gọi là Thiên U, nhật nguyệt đồng cung chủ về người có tính tình chợt âm chợt dương, khó mà đoán trước được.

- Thái dương đến cung Dần gọi là Thiên Tang, là ý nói mặt trời mọc ở Phù tang, đó chính là lúc mặt trời rạng đông, khó mà đoán trước được.

- Thái dương đến cung Mão gọi là Thiên Ô, chủ về người anh minh khí khái đại lượng, đa tài đa nghệ, danh hiển giầu có.

- Thái dương đến cung Thìn gọi là Thiên Sảng, là lúc mặt trời ra khỏi cửa Rồng (long môn), chủ về còn trẻ đã hiển đạt, quyền thế, có tiếng tăm vang xa.

- Thái dương đến cung Tị gọi là U Trưng, chủ về người có trí khí cao ngạo, quá lộ tài năng, là người lộc hậu quyền cao, công danh hiển đạt.

- Thái dương đến cung Ngọ gọi là"Nhật lệ trung thiên", chủ về người phúc hậu, lộc trọng, chí cao khí mạnh,

- Thái dương đến cung Mùi gọi là Thiên Huy, nhật nguyệt chói lọi, chủ về quyền thế hào sảng.

- Thái dương đến cung Thân gọi là Thiên Ám, chủ về học nhiều mà thành tựu ít, xử sự nhiều quanh co.

- Thái dương đến cung Dậu gọi là Cửu Không, chủ về người làm việc hanh thông, song hữu thủy hữu chung, tối kị Sát tinh, có tai nạn tù tội hoặc hình khắc.

- Thái dương đến cung Tuất gọi là Thiên Khu, mặt trời giấu ánh sáng, tiếng tăm tuy không nổi bật, song nếu gặp Cát diệu thì lại giầu có.

- Thái dương đến cung Hợi gọi là Ngọc Tỷ, nhật nguyệt quay lưng lại nhau, trái lại trở thành đại cục, còn trẻ đã lập nên công trạng.

Sao Thái dương rất ưa thích các cát tinh Tam thai, Bát tọa, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội và chiếu, chủ về sự nghiệp lớn lao, đã phú còn quý. Thái dương ở Tuất địa chủ về tình trạng bị đau mắt, lòa. Ở Ngọ địa tuy quý song ánh mặt trời chiếu quá mạnh, nên cũng chủ về bị bệnh đau mắt. Thái dương ở Hợi địa trái lại có thể phát đạt song phải hội ngộ Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên mã mới là hợp cách. Tóm lại, sao Thái dương lấy Quý làm chủ, kế đến mới Phú, còn sao Thái âm lấy Phú làm chủ kế đến với Quý.

Thái dương ở cung Mệnh

Thái dương ở cung Mệnh thì chủ về người có sắc mặt hồng nhuận hoặc kèm sắc đỏ tía, khuôn mặt đãy đà hoặc dài tròn. Ở Ngọ địa thì thân hình cao lớn, phong thái tiêu xài thoải mái, lạc hãm thì thân hình trung bình hay lùn thấp.

Nam mệnh miếu vượng thì chủ về người tính tình hào phóng, có lòng tử bi hỷ xả, bẩm tính thông minh, chí khí cao ngạo. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa quyền hội và chiếu, chủ về quý cực phẩm, văn võ toàn tài. Song, Thái dương cần phải nhập miếu và sinh ban ngày, không gặp Sát diệu thì mới hợp cách.

Dần địa và Mão địa gọi là Húc nhật đông thăng= mặt trời mọc ở phương đông

Thìn địa và Tị địa gọi là Nhập điện= vào điện, hoặc gọi là Nhật du long môn= Mặt trời dạo chơi ở cửa rồng.

Ở Ngọ địa gọi là Nhật lệ trung thiên= Mặt trời đẹp ở giữa trời, chủ về đại phú đại quý.

Ở Sửu địa Mùi địa gọi là Nhật nguyệt đồng minh= Mặt trời mặt trăng đều sáng, cho nên nói chợt âm chợt dương

Thân địa thiên về Tây, làm việc có đầu mà không có đuôi, trước thì siêng năng công tác, làm việc cẩn thận nghiêm túc, sau thì lười biếng tùy tiện, học mà không cầu hiểu rõ

Ở Dậu địa gọi là Lạc nhật= Mặt trời lặn, quý mà không hiển, giầu mà không bền, bề ngoài thì đẹp đẽ hào nhoáng nhưng bên trong thì thật trống rỗng.

Ở Tuất Hợi Tý Sửu gọi là Thất huy= Mất ánh sáng, chủ về người làm việc tất bật, vật vả nhưng lại không thực tế. Đoạn này chú giải tên gọi Thái dương ở 12 cung, so với chú giải của Cổ nhân có chỗ bất đồng, nay đều ghi ra hết, để người học dùng làm tham khảo.

Thái dương ở Mão địa nếu được Hóa Lộc là thượng cách. Ở Hợi địa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã tuy có thể giầu song thủa ấu niên Cha bất lợi. Thái dương hóa Kị cũng bất lợi cho Cha, hoặc đau mắt. Nếu cùng Kình Đà Hỏa Linh tương hội thì chủ về người có số hoạch phát hoạch phá, quý không được lâu, phú không được dài. Có Xương Khúc Khôi Việt Tả Hữu giáp cung Mệnh là được quý.

Nữ mệnh có Thái dương đến cung Mệnh, nhập miếu, và người sinh ban ngày, tính tình trinh liệt hào sảng, có chí khí trượng phu. Có các cát tinh Tả phù, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên mã, Tam thai, Bát tọa hội và chiếu, là nhất phẩm phu nhân, vượng phu ích tử. Có tam hóa Khoa Quyền Lộc vây chiếu cung Mệnh, cũng chủ về cách được phong phu nhân. Nữ Mệnh mừng nhất là được sao Thái dương nhập miếu, phần nhiều là người thông minh từ ái, phúc lớn lượng rộng. Song nếu lạc hãm, thì làm việc lên lên xuống xuống, tính tình nóng nảy. Đồng cung với Hỏa tinh thì tính tình chân thật, xử sự theo tình cảm nhưng rất vất vả lại thiếu duyên với người. Thái dương hóa Kị, còn trẻ thì khắc chồng về già thì khắc con, nên kết hôn chậm muộn hoặc làm kế thất, vợ lẻ. Nếu gặp Kình Đà Linh Hỏa, Thiên hình, Không Kiếp thì chủ về hình khắc, phần nhiều làm ni sư ở cửa Không, hoặc sống độc thân phục vụ xã hội. Vì Thái dương gặp Sát tinh, tính tình sẽ trinh liệt, cứng cỏi, cho nên chủ về người đoan trang, chững chạc. Nếu lạc hãm thì gọi là phản bối(quay lưng lại), hai mắt cận thị, hoặc một mắt to một mắt nhỏ. Gặp Phá quân thì chủ về lấy chồng không đúng lễ nghi.

Đại hạn lưu niên ở cung độ sao Thái dương đến, nhập miếu, gặp Cát tinh, tất sẽ bình bộ thanh vân, thêm tài tiến phúc, kết hôn có con, phú quý danh tiếng đến. Nếu lạc hãm mà gặp tứ Sát còn gặp thêm Không Kiếp chủ về làm việc mà như không, nhiều tranh giành mà ít thành tựu, bị tiểu nhân xâm hại, phá tài, đầu choáng.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Vũ khúc - Lục Bân Triệu

Sao Vũ khúc trong thuyết ngũ hành thuộc âm kim, ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, hóa làm tài, là chủ tinh của cung Tài bạch. Ở trong mệnh người ta có thể phát có thể bại. Sao Vũ Khúc rất kị gặp sao Hóa Kị (năm Nhâm), gặp thì sự nghiệp thất bại. Gặp Sát tinh, thì điên đầu nát óc không thể dàn xếp được. Mừng nhất là gặp sao Hóa Lộc, nguồn tiền tài cuồn cuộn tới, sự nghiệp phát triển, uy danh lẫy lừng.

Vũ Khúc ở Thìn hoặc Tuất, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại gặp tam hóa Khoa Quyền Lộc vây chiếu, là tối thượng cách. Vũ Khúc ở Tị hoặc Hợi thì bình thường, có kỹ năng chuyên môn. Nếu gặp Kình Đà Hỏa Linh là công việc về kỹ thuật. Vũ khúc thủ mệnh ở Mão là lạc hãm. Còn Tham lang ở Hợi, có Lộc tồn xung chiếu, hoặc đồng độ với sao Thiên mã và các phụ tinh cát diệu khác, chủ về thân thể béo mập, làm việc có khí phách, can đảm, có tác phong, đây là tượng Anh hùng mạt lộ gặp được quý nhân. Nếu có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, Thiên hình, là quân nhân võ sỹ, hoặc là đồ tể giết heo giết bò.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Thất sát tọa thủ Mệnh Thân

Thất sát đồng cung với Tử vi hay đối nhau với Tử vi, đều hóa làm sao quyền. Nếu gặp Tử vi Hóa Quyền, thì quyền quá nặng,trở thành không lợi. Đến các đại hạn hay lưu niên này ắt không cát lợi, chủ về biến động thất bại, đặc biệt rất ghét gặp cung hạn Vũ khúc Hóa Kị.

Thiên lương chủ về"phong tục, luật pháp", Thất sát cũng chủ về"phong tục, luật pháp", nên cũng chủ về"hình pháp, kỷ luật". Có điều, Thiên lương thuộc"văn", Thất sát thuộc"võ"; Thiên lương có thể lui về hậu trường, Thất sát thì bước lên phía trước. Nên, Thiên lương có thể nhuyễn hóa thành"giám sát", Thất sát thì nhuyễn hóa thành"quản lý".

Cổ nhân nói"Hai cung mà gặp nó, định phải trải qua gian khổ" (Nhị cung phùng chi, định lịch gian tân), tức là hai cung Mệnh và Thân mà gặp Thất sát, đời người ắt sẽ có một thời kỳ trải qua gian khổ. Thất sát rất kị đến hai cung hạn Thiên cơ hay Cự môn tọa thủ, khi gặp hai cung hạn này, tính"hành động thiết thực" của Thất sát bị hóa giải, không còn thiết thực mà trở thành mù quáng.

Thất sát ắt sẽ đối nhau với Thiên phủ – Thất sát chủ về"công", Thiên phủ chủ về"thủ", hai sao kềm chế lẫn nhau. Cần phải xác định rõ sự ảnh hưởng từ bên nào. Ví dụ như Thất sát ở Dần hoặc ở Thân có Lộc tồn đồng độ, cung đối diện là"Tử vi Thiên phủ", mà Thiên phủ được Lộc tồn vây chiếu. Cho nên lợi về"thủ" mà bất lợi về"công". Lúc này Thất sát chịu ảnh hưởng chi phối của Tử vi ở cung đối diện, nên quyền lực của Thất sát thiên về khuynh hướng bảo thủ, chỉ muốn duy trì phát triển trong cục diện hiện có, mà không mong cầu lập ra cục diện mới, vì vậy cũng không có nhiều biến động thay đổi.

Thất sát kị Hỏa tinh Linh tinh, kị nhất là tổ hợp"Kình dương Hỏa tinh" và"Kình dương Linh tinh", trong hai tổ hợp này, thì tổ hợp"Kình dương Linh tinh" là xấu nhất; nếu có Thiên hình đồng độ, gặp các sao Âm sát, Đại hao, Thiên hư, sẽ chủ về phạm pháp hình sự.

Thất sát ở cung miếu, vượng, gặp tổ hợp"Kình dương Hỏa tinh" thì còn được, chỉ chủ về lực kích phát, đời người không ngừng trắc trở, nhưng cũng nhờ đó mà có tiến bộ. Nếu gặp tổ hợp"Kình dương Linh tinh", lại chủ về lụn bại dần dần, ở hãm địa thì càng nặng, còn chủ về không có duyên với lục thân, cuộc đời ít được trợ lực.

Thất sát hội với Văn xương, Văn khúc, mà không tụ hội thêm với các Phụ diệu hay Tá diệu khác là điều không nên. Nếu không tụ hội thêm với các Phụ diệu và Tá diệu khác, chủ về càng thông minh thì càng độc đoán, không chịu nghe ý kiến của người khác, mệnh cách thường tự gây ra trắc trở cho bản thân.

Thất sát rất ưa gặp Thiên khôi, Thiên việt, thậm chí đến các cung hạn có lưu Khôi, lưu Việt vây chiếu hay hội hợp, chủ về cơ hội chuyển biến theo hướng tốt.

Thất sát cũng ưa gặp sao Lộc, ưa nhất là gặp Phá quân Hóa Lộc, chủ về đời người trải qua một lần chuyển biến quan trọng mà được phú quý, kế đến là Tham lang Hóa Lộc, cũng có thể được vinh hoa nhưng không được lâu dài, Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt nhưng là cách kém hơn.

Thất sát đối nhau với Thiên phủ, đã mang hàm nghĩa gây trở ngại lẫn nhau, có mâu thuẫn về tính chất. Khi Thất sát gặp những sao Sát, Hình, Không, Hao, đồng độ, thường vì gặp trắc trở mà cảm thấy đời người là hư ảo, vì vậy mà tư tưởng xuất hiện khuynh hướng ẩn nấp trong tôn giáo, ưa bước vào cửa Phật, cửa Đạo. Nhưng khi Thiên phủ gặp sao Lộc, sẽ gây ảnh hưởng đến Thất sát ở cung đối diện, nhu cầu ẩn nấp trong tôn giáo sẽ bị lu mờ, trước hay sau vẫn còn tham luyến duyên trần.

Thất sát ở Tý hoặc Ngọ, có"Vũ khúc Thiên phủ" vậy chiếu, gặp sao Lộc thì"tài tinh" Vũ khúc có gốc rễ, có thể điều hòa khí chất của Thất sát, khí chất của Thất sát được nhuyễn hóa, sẽ trở thành người theo giới làm ăn kinh doanh. Nếu là người nắm thực quyền về kinh tế tài chính mà lại không có sao Lộc, chỉ cần không có các sao Sát, Kị, Hình, cũng chủ về được bậc trưởng thượng dùng tài lực giúp đỡ. Đây là hình ảnh Thất sát được dư khí che chở. Bởi vì liên quan đến"sự che chở", nên Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ đặc biệt ưa Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật. Khi đến đại hạn, lưu niên có lưu Khôi hoặc lưu Việt xung khởi Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì đại hạn hay lưu niên này, được xem là cát lợi, chủ về được người tri ngộ. Nếu có các sao Sát, Kị, Hình hội chiếu, thì trường hợp này thuộc ngoại lệ.

Nếu Thất sát ở Ngọ thành cách"Hùng tú kiền nguyên", thì đại kị Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cách này là"hỏa luyện âm kim", gặp Hỏa tinh hay Linh tinh thì hỏa hầu quá lớn, không những đời người gian khổ, mà e rằng còn bị tàn tật. Trường hợp thành cách, cũng ưa đến các đại hạn hoặc lưu niên có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt.

Thất sát ở Tý không thành cách"Hùng tú kiền nguyên", vì Tý là phương Bắc thuộc Thủy, thủy có thể khắc hỏa. Cho dù có Hỏa tinh hay Linh tinh đồng độ, chỉ chủ về bôn ba vất vả, mà không đến nỗi phá cách.

Trường hợp thành cách"Hùng tú kiền nguyên", rất ưa Liêm trinh Hóa Lộc, là thượng cách, chủ về sức sống mạnh, kiên nghị trác tuyệt, trải qua phấn đấu mà thành đại nghiệp. Vận phát đạt ắt ở cung hạn Phá quân tọa thủ. Năm phát đạt ắt ở cung hạn Liêm trinh tọa thủ hoặc Tham lang tọa thủ.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, khi không thành cách hoặc phá cách, lại không nên đến cung hạn Liêm trinh, chủ về hôn nhân gặp nhiều sóng gió, trắc trở, cũng không nên đến cung hạn"Thiên cơ Cự môn" tọa thủ, chủ về giai đoạn thất bại.

Thất sát ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với"Tử vi Thiên phủ", không ưa Tử vi Hóa Quyền mà rất ưa Tử vi Hóa Khoa và Thiên phủ Hóa Khoa, khi Tử vi hóa Khoa chủ về"công", còn Thiên phủ hóa Khoa chủ về"thủ". Thất sát ở Dần Thân, là người độc đoán, gặp Văn xương Văn khúc chủ về vì thông minh mà phạm sai lầm; Gặp Lộc tồn đồng độ, khí hòa hoãn thành mệnh cách tốt, nhưng tính độc đoán càng thêm nặng. Khi luận giải cần chú ý đến đặc điểm này, xem xét kỹ cung Phúc đức và cung Phu thê, để xác định phẩm tính của mệnh cách. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hậu vận. Gặp Hỏa tinh, Linh tinh chủ về tính tình nóng nảy, hay vô cớ nóng giận, bộp chộp. Đối với Thất sát ở Dần Thân, các cung hạn"Liêm trinh Thiên tướng", Cự môn, Phá quân, Thái dương là những đại hạn hoặc lưu niên then chốt.

Thất sát ở Thân, còn"Liêm trinh Thiên tướng" ở Ngọ, dù không thành cách"Hùng tú kiền nguyên" (vì Thất sát thuộc âm Kim, cung Thân thuộc dương Kim; Liêm trinh thuộc âm Hỏa, cung Ngọ thuộc dương Hỏa, hai khí Kim Hỏa về gốc, trở thành mỗi bên một khí, không còn tác dụng tương hỗ), nhưng vẫn ưa hai cung hạn Liêm trinh Hóa Lộc và Phá quân Hóa Lộc, đây là giai đoạn phát đạt.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, có"Liêm trinh Thiên phủ" vây chiếu, chủ về lý trí nặng hơn"Liêm trinh Thất sát" ở Sửu Mùi, mệnh cách loại này phần nhiều có tư tưởng rất đặc biệt, Thất sát tại Thìn Tuất rất kị gặp Địa không, Địa kiếp hội chiếu, nếu không, người ta khó mà hiểu và chia sẻ đối với mệnh tạo, vì mệnh cách loại này thường cảm thấy đời người thiếu tri kỷ, không bộc lộ chia sẻ nên thành người cô độc, nặng hơn thì tâm chí nhiều hoang tưởng, thiếu thực tế. Nếu gặp Xăn xương, Văn khúc thì còn được, nhưng cần phải gặp Thiên khôi Thiên việt hoặc Tả phụ Hữu bật, mới có thể phú quý. Nếu Tham lang Hóa Lộc đến hội chiếu, chủ về không thể thỏa mãn tham vọng quá cao, nên cuộc sống có thể đầy đủ nhưng lại rất vất vả. (Tham lang xung chiếu ảnh hưởng tới cung Phúc đức). Đối với Thất sát ở Thìn Tuất, các cung hạn"Vũ Khúc Thiên tướng","Thiên đồng Cự môn", Tham lang, hoặc cung hạn có tinh hệ vây chiếu đã thuật ở trên, là những đại hạn lưu niên có tính then chốt.

Thất sát ở Thìn Tuất, nếu cung Phúc đức là Tử vi Hóa Quyền, ắt sẽ bất lợi trong hôn nhân, nhất là nữ mệnh, chủ về không có sinh hoạt hôn nhân, hoặc thiếu lạc thú vợ chồng (có thể vì bận rộn hoặc vì chồng bị bệnh tật).

Thất sát ở Tý Ngọ thiết thực hơn Thất sát ở Dần Thân cũng như Thất sát ở Thìn Tuất. Phân biệt các tính"nhiều dục vọng", hay tính"giữ nguyên tắc" của các các nhóm tinh hệ liên quan đến Thất sát thủ mệnh, cũng giúp ích cho việc luận giải. Ảnh hưởng của Tham lang đối với Thất sát như thế nào, thường rất quan trọng, chi phối mối quan hệ rất lớn, như gặp hệ"Hỏa Tham"hay hệ"Linh Tham", càng chủ về dễ phát dễ phá.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên đồng - Phan Tử Ngư

Thiên đồng thuộc dương thủy, sao thứ tư của Nam Đẩu, chủ về kéo dài tuổi thọ, làm chủ cung Phúc đức, hóa khí gọi là Phúc.

Cổ nhân gọi sao Thiên đồng là"Ích thọ chi tinh, bảo sinh chi tú"(Sao ích thọ, sao bảo vệ sinh mệnh). Thiên đồng nhập mệnh chủ về thời trẻ nước da mặt trắng, trung niên về già biến sắc ngả trắng vàng, mặt hình chữ nhật. Khi Thiên đồng nhập miếu thì người béo mập, gặp hãm địa thì thấp bé, tính ôn hòa từ thiện có cơ trí, không cao ngạo, tinh thông văn chương bút mực. Nếu gặp Sát tinh đồng cung hay xung chiếu, thì chủ về cô đơn, phá tướng. Nếu đồng cung với Đà la phần lớn là mắt híp, mắt lé và thường phát phì. Nếu nam mệnh Thiên đồng nhập cung Quan, mà bản mệnh không hình thành được cách cục, thì không thể luận là cát. Vì đặc tính lớn của Phúc tinh chỉ biết an hưởng, không có năng lực sáng tạo.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên đồng- Vương Đình Chi

Thiên đồng miếu ở ba cung Mão, Tị, Hợi, hãm địa ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi.

Thiên đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc dương thủy, hóa khí là"phúc".

Trong Đẩu Số, sao Thiên đồng được ví là vị thần chuyên trông coi việc ăn uống, sắp xếp yến tiệc cho hoàng đế, vì vậy thiên đồng có đặc tính là hưởng thụ, theo đó khuyết điểm là lãng phí và nhu nhược.

Tồn tại một khái niệm khá phổ biến, cho rằng"Thiên đồng ở trong 12 cung, đều là phúc trạch", thực ra không phải vậy. Vương Đình Chi cho rằng"Thiên đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm".

Nói về cung mệnh, người có Thiên đồng thủ mệnh, Cát thì chủ về khiêm tốn, thông minh mẫn tiệp, phong thái cao thượng phong nhã; Hung thì chủ về chìm đắm trong dục lạc, hay do dự thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có kế hoạch tốt mà không thực hiện.

Thiên đồng úy kị tính cứng rắn và hình khắc của Hỏa tinh và Linh tinh, nhưng lại không sợ Kình dương. Khi Thiên đồng nằm cùng cung với Kình dương ở Ngọ, gọi là"Mã đầu đới tiễn"trái lại, sẽ chủ về người nắm thực quyền trong quân đội hoặc cảnh sát.

Thiên đồng ở Hợi không ưa Hóa Kị (năm Canh). Nếu can của cung Hợi hóa Kị, gọi là hóa xuất, lại gặp thêm Lục sát và Thiên hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.

Thiên đồng rất ưa trấn thủ tại Tuất, gặp Cự môn hóa Kị ở xung cung lai chiếu, được gọi là"phản bối", nếu được Lộc tồn và Hóa Lộc hội hợp, là hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, biến thành mệnh đại quý.

Nữ mệnh Thiên đồng cuộc sống thường sung túc, nhưng dễ cảm thấy tinh thần trống rỗng. Cổ nhân cho rằng"Nữ mệnh Thiên đồng cư Tị Hợi nhập miếu, thì đẹp mà dâm". Luận đoán này được suy diễn ra từ tính chất tinh thần trống rỗng. Ở phương diện sự nghiệp hoặc phương diện sở thích, nếu có thể làm cho sinh hoạt tinh thần trở nên phong phú, thì vẫn tránh được cái gọi là"đẹp mà dâm", đời sống hôn nhân tự nhiên sẽ được vui vẻ. Thiên đồng rất cần sinh hoạt tinh thần phong phú và đa dạng, để lấp đầy cảm giác nhàm chán.

Phàm Thiên đồng nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc đức, chỉ cần không có Hóa Kị, phần nhiều chủ về tài năng âm nhạc, hoặc ưa thích cái đẹp, do đó chẳng khó tìm nơi để ký thác về phương diện tinh thần.

Bất kể là nam hay nữ, nếu Thiên đồng thủ mệnh, gặp sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng lại có thể có năng lực khai sáng, mà không bị sầu muộn về phương diện tinh thần. Nếu chỉ gặp sao Cát, mà không gặp các sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng dễ chìm đắm trong lạc thú mà trở thành phóng đãng. Đây giống như thời xưa, hoàng đế không có trung thần can gián, ở vào thời chưa gặp họa loạn, dễ vì lời sàm tấu của nịnh thần mà biến thành hôn quân.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên đồng - Lục Bân Triệu

Sao Thiên đồng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy. Ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm Phúc tinh, là chủ tinh của cung phúc đức trong mệnh bàn. Bẩm tính ôn hòa không sợ tính hung của sao Kình dương, không lo sao Hóa Kị làm loạn.

Cho nên, sao Thiên đồng đồng độ với sao Kình dương ở Ngọ địa thì gọi là cách"Mã đầu đới tiễn"(Đeo tên ở đầu ngựa), chủ về vì quốc gia đem sức lực ra phục vụ, nắm giữ binh phù đại quyền, là vị đại tướng lập công ở chiến trường.

Sao Thiên đồng trấn thủ ở Tuất địa thì gọi là"Phản bối". Nếu ở Thìn địa thấy Hóa Kị, đồng thời còn gặp Lộc tồn hoặc Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu, thì lại là thượng cách, chủ về vừa phú vừa quý, đó là tượng"bĩ cực thái lai".

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Liêm trinh - Phan Tử Ngư

Liêm trinh thuộc âm hỏa, sao thứ năm của chòm Bắc Đẩu, trông coi về phẩm vật và quyền uy mệnh lệnh. Hóa khí là nên còn có tên là Tù tinh, nếu đóng ở Thân Mệnh lại gọi là"th"đào hoa, người cung Mệnh có sao này mặt lưỡi cày, xương gò má cao, chân mày rộng, miệng ngang, người cao vừa, giỏi ăn nói biện luận. Nếu hãm địa lại gặp sát, phần nhiều là mặt có nốt ruồi hoặc tàn nhang, tính hung dữ điên cuồng, vô lễ nghĩa, hợp nhất là Thiên tướng đồng cung để áp chế tính ác của Liêm trinh.

Gặp thêm Đế tọa có thể nắm quyền uy, gặp Lộc tồn cũng chủ về giầu có đầy đủ. Nếu đồng cung với Kình dương thì ngày nào cũng có chuyện thị phi kiện tụng. Gặp Phá quân lại có Hỏa tinh, Linh tinh ở tam phương lai chiếu, chủ về người thâm hiểm ác độc, có thêm Bạch hổ ở cùng thì không tránh khỏi tai họa lao tù, nếu hãm địa mà gặp Hỏa Linh thì chủ về tự tìm cái chết một cách nông nổi. Cùng với Tham lang ở Tị là nhược địa, chủ về người ưa nói nhưng không có chủ kiến. Ở cung Hợi là cách"Tuyệt xứ phùng sinh"(Được cứu sống nơi tuyệt địa), thêm cát tinh có thể hiển quý.

Liêm trinh nhập nữ mệnh chủ về hay ghen, gặp miếu vượng thì trinh khiết, gặp hãm địa thì không tránh khỏi ham muốn mù quáng dẫn tới dâm tà. Nếu còn hội hợp thêm các sao đào hoa như Tham lang, Thiên diêu, Hàm trì, thì đoán có mệnh làm kỹ nữ.

Hành hạn gặp Liêm trinh, ở tại cung hãm nhược, lại có Bạch hổ xung chiếu, ắt có tai họa về kiện tụng và lao tù. Nếu gặp sát nhiều thì chủ về chết đột ngột, nhẹ thì cũng không tránh khỏi thương tật tàn phế.

Liêm trinh nhập Tị địa hoặc Hợi địa, ở Tị là hãm nhược ở Hợi là miếu vượng, nhưng không hợp Văn xương và Văn khúc đồng cung, lập Mệnh gặp trường hợp này thì chủ về chết bất đắc kỳ tử hoặc chết yểu. Hành hạn nếu gặp trường hợp như vậy thì cũng có hiện tượng hung hiểm, tan xương nát thịt.

Liêm trinh khi trấn cung Tật ách, tiên thiên tâm khí không đủ thường dễ bị bệnh ung thư, bệnh hoa liễu, tâm phế mãn gây hen suyễn, can hỏa thượng thăng gây đờm thấp ùn tắc ...

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Liêm trinh - Vương Đình Chi

Liêm trinh miếu ở Dần, Mùi, Thân, hãm ở Tị, Hợi

Liêm trinh là sao thứ năm của Bắc Đẩu, ở ngũ hành thì thuộc âm hỏa. Là sao"đào hoa thứ"trong Đẩu Số, hóa khí làm"". Về tính cách chủ thông minh mẫn tiệp, bại thì tà ác.

Về phương diện tính cách, người có Liêm trinh thủ mệnh, phần nhiều trọng tình cảm, thiếu lý trí, cho nên là người có phong độ nhưng lại phóng túng, tận tình. Đây là tính chất cơ bản của sao Đào hoa thứ.

Do tính chất đào hoa, nên Liêm trinh rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Bởi vì lúc sao Văn chương hội với đào hoa, tính chất đào hoalập tức biến thành nhàn nhã, không chìm đắm trong nhục dục, có thể hóa giải thành thú"phong lưu thơ riệu", hoặc chuyển hóa thành lực sáng tác, lực sáng tạo trong nghệ thuật. Văn học nghệ thuật phần nhiều mang sắc thái tình yêu, đây là đạo hóa giải. Trên thực tế, phàm là người có Liêm trinh thủ cung Mệnh, phần nhiều cũng yêu thích mỹ thuật, có khuynh hướng về thư họa, nếu không, cũng sẽ có cảm thụ khá đặc biệt về thưởng ngoạn, nhất là lúc hội với Tham lang thì càng đúng.

Nếu không gặp sao Văn, mà chỉ hội hợp với các Phụ diệu như Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, trái lại sẽ dễ làm tăng tính hay lúng túng khó xcủa Liêm trinh, dẫn đến tiến thoái bất an.

Lực đề kháng của Liêm trinh đối với tứ sát Kình Đà Hỏa Linh rất yếu. Cho nên, hễ Liêm trinh đóng ở cung Mệnh, thì cần phải không gặp tứ Sát, thì mới nên chuyện. Nhất là ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp tứ Sát chủ về bôn ba tứ hải, nếu gặp thêm Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, càng chủ về sống chết ở tha hương.

Liêm trinh là sao có tính chất biến hóa rất phức tạp, tuy có thuyết đào hoa thứ, nhưng lại không chắc chắn là mệnh đào hoa, hoặc có tính dâm đãng. Chỉ có một tính chất cơ bản có thể khẳng định, đó là người này tất có chút lẳng lơ và dí dỏm, nhưng nội tâm lại chủ quan cực mạnh, không dễ gì chiều lòng theo ai.

Tham lang là đào hoa chính, Liêm trinh là đào hoathứ, cùng thuộc đào hoa, nhưng người Tham lang thủ Mệnh lại khéo ăn khéo khác với Liêm trinh hơi có chút trôi nổi. Chỗ khác nhau này cần phải phân biệt rõ.

Liêm trinh tuy dí dỏm nhẹ nhàng, trong giao tế hơi có chút hài hước, nhưng do có tính chất chủ quan mạnh, cho nên không thể thấy anh ta dí dỏm nhẹ nhàng, rồi lấy đó để bàn công việc. Trên thực tế anh ta rất có thể là một người có tính "làm việc theo nguyên tắc". Lúc hội với Địa không Địa kiếp, tính chất này càng thêm rõ rệt, cho nên thích hợp theo đuổi công việc nghiên cứu về phương diện khoa học kỹ thuật, bởi vì công trình khoa học kỹ thuật rất cần ngăn nắp thứ tự. Liêm trinh đóng ở cung Mệnh cũng thích hợp theo nghề kiến trúc, bởi vì công trình kiến trúc có mang ý vị sáng tác nghệ thuật và sáng tạo bộ mặt đô thị.

Liêm trinh rất ngại Hóa Kị, chủ về bệnh tật máu mủ. Nó cư cung Mệnh, cung Tật ách và cung Thiên di, đều có ảnh hưởng đến vận trình của người đó.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Liêm trinh - Lục Bân Triệu

Sao Liêm trinh trong thuyết ngũ hành thuộc âm hỏa, ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, hóa làm . Ở mệnh bàn là sao đào hoa thứ. Nhưng nếu Liêm trinh thủ mệnh tại Mùi, hoặc Hóa Lộc thủ mệnh tại Dần, Thân, gặp Lộc tồn, thì ngược lại là thượng cách thanh bạch. Ở Mùi, Thân, mà có cát tinh vây chiếu, không gặp lục sát thì đều chủ về phú quý song toàn. Đồng độ với Thiên phủ tại Tuất thì danh tiếng vang dội xa gần. Đồng độ với Tham lang ở Tị mà không có sát diệu, chủ về làm yếu nhân trong quân đội. Liêm trinh và Thất sát cùng đến Mùi, hoặc Liêm trinh độc tọa ở Thân còn Thất sát trấn tại Ngọ, có cát tinh hội chiếu mà không bị Lục sát và Đại hao xung phá, là thượng cách phú quý song toàn, gọi là cách"Hùng tú kiền nguyên".

Bởi vì Liêm trinh là âm hỏa, Thất sát là âm kim, lấy khắc chế nhau làm dụng, tựa như nham thạch ở núi hoang, trải qua lửa trui rèn, sẽ trở thành thứ nguyên liệu cực quý.

Liêm trinh ở Tị hoặc Hợi, mà có kị tinh hoặc sát diệu, thì chủ về bôn ba tứ hải, bất luận là quân nhân hay thương nhân đều phải ở bên ngoài gió sương mưa tuyết, gian lao vất vả. Nếu hội chiếu với Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, Không Kiếp, mà không có cát tinh hóa giải, thì chủ về chêt ở tha hương. Liêm trinh ở cung mệnh mà có Thiên nguyệt vây chiếu, không có Sao làm cho tốt lên, lại hội sát diệu, thì chủ về nhiễm bệnh ở tha hương.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Hỏa tinh Linh tinh hợp luận - Đại toàn

火星 - Hỏa Tinh

Là một"Sát thần", thuộc Hỏa, Nam Đẩu phù tinh.

Hỏa tinh là một trong Tứ Sát, cũng là hung tinh. Cư Dần Ngọ Tuất là nhập miếu, cư Tỵ Dậu Sửu là đắc địa, cư Hợi Mão Mùi là ích lợi, cư Thân Tý Thìn là hãm địa. Hỏa tinh nhập Mệnh, sắc mặt đỏ vàng, mắt to, mặt tròn dài, thân hình trung bình, khá cường tráng. Là người tính tình cương cường xuất chúng, táo bạo hấp tấp, ngoan cố, tự cho mình đúng, tâm địa cay độc, răng miệng tứ chi có thương tích, tàn nhang hoặc có sẹo, râu tóc có chỗ khác thường, ví dụ như tóc nâu đỏ hay tóc xoăn. Nhập 12 hai cung đều không luận là tốt, duy nhập miếu ở cung Tật ách thì thân thể cường tráng ít bệnh. Đồng cung với Tham Lang miếu vượng nhập Mệnh, chủ có ngày lập công, võ chức quý hiển, kinh doanh hoạnh phát. Hỏa Linh tuy nhập miếu thủ Mệnh, cũng có điều không thuận lợi, thành bại thăng trầm là khó tránh, nếu nhạp cung hãm địa thì hình khắc nghiêm trọng, khắc hại lục thân, dễ rước kiện tung tai họa bất ngờ, có bệnh nặng trong người.

Nữ mệnh Hỏa Tinh, tính cách cương cường, sôi nổi hướng ngoại, dám ăn nói. Hỏa Tinh miếu vượng lại có cát tinh miếu vượng đồng thủ, vượng phu ích tử, là người vợ trinh liệt. Hãm địa thủ Mệnh hoặc đồng cung bới chính tinh lạc hãm, tâm địa thâm độc, lòng dạ xấu xa vẻ ngoài giả dối, xúc phạm chồng khắc con, không thủ phận làm vợ, nhiều thị phi, dâm dục hạ tiện.

Hỏa Tinh lợi cho người sinh phía Đông, Nam, và người sinh năm Dần Mão Tỵ Ngọ, tai họa nhẹ, không lợi cho người sinh phía Tây, Bắc, tai họa nặng.

Hỏa tinh thủ Mệnh, nhập miếu hội nhiều cát tinh, đối cung và tam hợp không hội hung tinh, thích hợp làm trong quân đội cảnh sát, lập võ công, trung niên bắt đầu phát triển hưng thịnh.

Hỏa tinh và Tham Lang thủ Mệnh, hội cát tinh, thích hợp làm võ chức, chủ có thể lập đại công ở biên cương, có cái quý của bậc làm quan tướng, kinh doanh thì tất đại phát tài lợi, chủ phú, hội Dương Đà Không Kiếp thì không luận như trên.

Hỏa Tinh hãm địa, Dương Đà đồng cung, chủ người lắm tai họa nặng nề, thiếu niên dễ chết yểu, chỉ thích hợp cho làm con nuôi để người khác nuôi dưỡng, mang hai họ, nếu nhận cha mẹ nuôi thì cũng có thể tránh được.

铃星- Linh Tinh

Còn có tên khác là"Sát thần", thuộc Hỏa, Nam Đẩu phù tinh

Linh Tinh là một trong Tứ Sát, cũng là hung tinh. Cư Dần Ngọ Tuất là nhập miếu, cư Tỵ Dậu Sửu là đắc địa, cư Hợi Mão Mùi là lợi ích, cư Thân Tý Thìn là hãm địa. Linh Tinh nhập Mệnh, sắc mặt vàng xanh, mặt và người không phù hợp, có chỗ khác lạ kì quái. Là người tính tình cương cường xuất chúng, hấp tấp táo bạo, ngoan cố, tự cho mình là đúng, tâm địa cay độc, lòng đố kỵ lớn, nói chuyện âm thấp, trầm hay khàn, mọi chuyện không bàn chuyện cá nhân, hiểm ác âm mưu, mặt đầu tay chân có vết thương, mặt tàn nhang. Nhập 12 hai cung đều không luận là tốt, riêng cư cung Tật ách nhập miếu thì luận là thân thể cường tráng ít bệnh. Linh Tinh và Tham Lang miếu vượng nhập Mệnh, có ngày lập công, võ chức quý hiển, kinh doanh hoạnh phát. Tuy nhập đất miếu vượng thủ Mệnh cũng có chỗ bất lợi, thành bại thăng trầm là khó tránh, nhập cung hãm địa, khắc hại lục thân, dễ chuốc tai họa bất ngờ kiện cáo, có bệnh nặng trong người.

Nữ mệnh tính tình cương cường, sôi nổi hướng ngoại, phản lục thân, hình thương chồng con, nhập miếu hội cát tinh thì đầy đủ, lạc hãm thì không trinh khiết, nghèo khó bần tiện.

Linh Tinh lợi cho người sinh phía Đông, Nam, và người sinh năm Dần Ngọ Tuất, họa nhẹ; không lợi cho người sinh phía Tây, Bắc, họa nặng.

Linh Tinh thủ Mệnh, nhập miếu hội nhiều cát tinh, đối cung và tam hợp không có hung tinh, thích hợp làm về quân đội cảnh sát, lập võ công.

Linh Tinh thủ Mệnh, nhập miếu hội Tử Phủ Tả Hữu, không quý tất phú.

Linh Tinh và Tham Lang thủ Mệnh, hội cát tinh, thích hợp làm võ chức, chủ có thể lập công nơi biên cương, có cái quý của bậc quan tướng, kinh doanh tất đại phát tài lợi, chủ phú, hội Dương Đà Không Kiếp không luận như trên.

Linh Tinh hãm địa thủ Mệnh, nghèo khổ, chết yểu, nếu phá tướng thì có thể kéo dài tuổi thọ.

Linh Tinh thủ Mệnh, Liêm Trinh Kình Dương hội, chủ đao binh.

Linh Tinh Thất Sát đồng cung, chủ chết trận.

Linh Tinh Phá Quân đồng cung, tất khuynh gia bại sản.

Linh Tinh thủ Mệnh, Dương Đà vây, cô đơn, rời xa quê quán tổ tiên, thương tật, có bệnh.

"Linh Xương Đà Vũ, hạn chí đầu hà", bốn sao này gặp nhau tại hai cung Thìn Tuất, người sinh năm Tân Nhâm Kỷ, hai hạn đến Thìn Tuất, tất gặp hỏa ách.

火星铃星合论- Hỏa Tinh Linh Tinh hợp luận

Hỏa Linh là Sát thần, là sao hung ác, nhập miếu ở Dần Ngọ Tuất, lạc hãm ở Thân Tý Thìn. Ở 12 hai cung đều luận là hung, nhập Mệnh, có hung tinh mà không có cát tinh, tuy nhập đất miếu vượng, cũng không tốt hoàn toàn, tất có thành bại sụp đổ. Mệnh có cát tinh và Hỏa Linh nhập miếu thì thích hợp với võ chức, có thể vinh hiển. Duy đồng cung với Tham Lang ở đất vượng địa, hoặc hai sao trên giáp Tham Lang, hoặc hội chiếu với Tham Lang, thì luận là phát phúc.

Hỏa Tinh Linh Tinh nhập Mệnh, chủ người đầu, mặt, tứ chi có vết thương, tính khí thô bạo, tâm tính tàn độc, tính khản kháng mạnh. Nhập miếu thì quả quyết cương cường, thông minh cơ duệ, có tính quyết đoán. Nhập hãm cung thì thân thể gầy nhỏ, cứng đầu, giảo hoạt, không suy nghĩ sâu xa, hành sự thiếu ổn trọng, không tính đến kết quả, một đời cũng thường gặp trắc trở, dẫn đến phiền muộn trong lòng.

"Hỏa Linh giáp Mệnh vi bại cách", người sinh năm Dần Ngọ Tuất nếu được Hỏa Linh giáp Mệnh Thân cung, chính tinh bản Mệnh không tốt, lạc hãm, hay Hóa Kỵ, hoặc có hung sát, thì là bại cách, một đời gặp hung, nghèo khó chết yểu. Nếu chính tinh miếu vượng hội cát tinh, thì chủ một đời không thuận, lắm tiểu nhân, nhưng chưa đến mức là đại hung. Nếu Tham Lang cư Mệnh có Hỏa Linh giáp, thì luận là tốt, chủ phú quý, sự nghiệp hoạnh thành.

Hỏa Linh ở vượng cung, cũng luận là phúc, hai sao này nhập miếu độc thủ, các sao ở tam hợp và đối cung đều miếu vượng hội cát tinh, hoặc Tham Lang ở cung đối, cũng là người phú quý, chỉ có điều phúc không hoàn toàn đẹp, hoặc thân thể có thương tật, hoặc khi nhỏ lắm tai họa khó nuôi, hoặc rời xa tổ tiên cho làm con nuôi, hoặc hình khắc thê tử....

Hỏa Linh gặp nhau, nhập miếu ở Dần Ngọ Tuất, hội cát tinh thì phú quý nổi danh, tài vận đột ngột phát, nhưng kiêu ngạo ngang ngược, tiểu nhân được thể.

Hỏa Linh hội kiến Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Kình Dương tất có tai nạn chảy máu, cũng chủ chết trận hoặc chết thảm.

Hỏa Linh hãm cung hội Dương Đà, khi nhỏ lắm bệnh tật, e chết yểu, tất cho làm con nuôi hay nhận bố mẹ nuôi thì có thể sống. Tổ hợp sao loại này một đời hay tai nạn khó khắn, lục thân duyên bạc, hoặc vì bạo bệnh tai họa bất ngờ mà chết, cũng dễ phạm tội, có tai ách ngục tù hoặc bị xử bắn.

Nữ mệnh cung Mệnh có Hỏa Linh, bất hòa với người thân, tâm địa ác độc, không thủ đạo làm vợ, lắm thị phi. Nếu Hỏa Linh miếu vượng thủ Mệnh hội cát tinh, thì dù phú quý cũng chủ ngang tàng, cư hãm địa, nếu không nghèo hèn tất dâm tà. Tóm lại nữ mệnh hội Hỏa Linh Kình Dương là hạ cách, miếu địa hạ tiện, nghèo khó chết yểu.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên phủ - Vương Đình Chi

Thiên Phủ miếu ở Tý, Sửu, Dần, Thìn, Mùi, Tuất.

Thiên phủ Hãm ở Dậu.

Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, thuộc dương thổ, chủ về hiền năng, là tiền bạc của kho phủ.

Do là chủ tinh, nên Thiên phủ cũng có năng lực lãnh đạo, nhưng tài lãnh đạo này lại theo khuynh hướng thủ thành, thiếu tính khai sáng. Đây giống như người giữ kho bạc, chức trách là"quản lý tài chính","bảo vệ tài chính", ..., mà không có chức năng"kiếm tiền", cho nên tính lý ở đây đòi hỏi và yêu cầu về sự cẩn thận rất cao, khi làm việc thường có biểu hiện tỉ mỉ, mà không được rộng rãi như Tử vi, cũng không phóng khoáng như Thái dương. Cũng là chủ tinh trong 14 chính tinh, nhưng có sự phân biệt, cần chú ý.

Vì vậy, người Thiên phủ thủ mệnh, chỉ thích hợp phát triển ở phương diện đã có sẵn, thiếu cái nhìn bao quát, cũng không có kiến giải riêng, không có lập trường riêng, thường bộ lộ là một chủ quản xứng đáng với chức trách được giao phó. Do có tính chất"kho ph", nên người có Thiên phủ thủ mệnh khá"thương tiền", cẩn thận, vững vàng, luôn luôn cố tìm đến sự ổn định."Kho phủ"không có năng lực"kiếm tiền", chỉ có chức năng chuyên về"giữ tiêng"và"sử dụng"tiền bạc. Do đó Thiên phủ rất ưa thích gặp Lộc, bất kể là tam phương hội chiếu với Lộc tồn hay Hóa Lộc, đều có thể làm tăng cách cục chiếm lợi, trở thành giầu có.

Khi tam phương hội tụ Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, sẽ khai mở cho Thiên phủ có thêm tính lý kiến giải riêng, đồng thời cũng làm tăng khí thế lãnh đạo của người Thiên phủ thủ mệnh.

Khi Tả phụ, Hữu bật giáp cung, hay Long trì Phượng các giáp cung, chủ về người đủ sức đảm nhiệm chức vụ cao, vững vàng giỏi tính toán, cẩn thận lại trung thực có đầu có cuối.

Người có Thiên phủ thủ mệnh không ưa gặp Tứ sát, nếu không gặp Lộc mà chỉ gặp tứ Sát, thì không thích hợp với tính chất"kho tiền", khó tránh giở thủ đoạn gian xảo để kiếm tiền.

Giả dụ Thiên phủ gặp tứ sát, đồng thời còn hội hợp với Xương Khúc, có thể là người giầu có thành nhã, bởi vì Xương Khúc chủ về giỏi văn bút, kiêm giỏi biện luận, tuy hơi xảo quyệt, nhưng cũng không mất đi phong thái văn nhân nho sỹ. Nhưng nếu Văn xương hoặc Văn khúc Hóa Kị, thì đây là tinh hệ Thiên phủ gặp sát tinh, hội hợp với Xương Khúc. cấu tạo càng lớn thì càng giảm sắc. Người này dễ trở thành hàn nho, bụng đầy lời oán trách, tự cho mình có tài mà không gặp thời.

Thông thường, Thiên phủ không nên độc tọa, cô độc thì dễ trở thành người: nhìn thấy đồng tiền thì lòng mưu toan. Nếu độc tọa mà không có sao cát, hội tứ sát, thì biến thành xảo trá, mưu mô quỷ quyệt. Cũng không nên gặp sao Không, chủ về sống cô lập không có cứu viện. Nếu Thiên phủ độc tọa, gặp sao Không và Thiên diêu, chủ về người âm mưu thủ đoạn.

Thiên phủ và Thiên tướng là cặp"sao đôi"quan trọng trong Tử Vi Đẩu Số, cho nên cổ nhân có thuyết"Phùng Phủ tầm Tướng","Phùng Tướng tầm Phủ"

Do là"sao đôi", cho nên"Phủ Tướng triều viên"có thể thành cách cục, còn cách"Tử Phủ triều viên"là cách rất khiên cưỡng. Tức là do Thiên phủ và Thiên tướng có quan hệ"sao đôi", còn Tử vi và Thiên phủ không phải là quan hệ"sao đôi". Nghiên cứu thêm về"Kiến tinh tầm ngẫu".

Nữ mệnh Thiên phủ, thông thường đều chủ về trung hậu hiền từ, thông minh, khéo léo, đặc tính nổi bật là thích giúp người. Nếu hội sao cát, đặc biệt là Tả Hữu, sẽ có oai nghi của bậc nam tử, cũng có thể phú quý. Gặp các sao tứ sát, hình kiếp, thì chồng con bất toàn, đời sống hôn hân trắc trở.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên phủ - Lục Bân Triệu

Sao Thiên phủ trong thuyết ngũ hành thuộc dương thổ, ở trên trời là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, là phủ là kho của tiền tài. Đồng độ với sao Tử vi, nếu được Tả phụ, Hữu bật, Thiên tướng, Vũ khúc, Van xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì gọi là quân thần tương hội, chủ về đại phú đại quý.

Thiên phủ ở Tuất là thượng cách, có cát diệu phụ tinh phù trì là bậc nguyên thủ trong quân đội, lãnh đạo, trưởng quan các bộ môn. Trong thương nghiệp thường chủ về người đứng đầu sáng lập sự nghiệp, người có danh tiếng trong giới thương mại.

Trong phương diện kỹ thuật hoặc nghệ thuật, cũng chủ về người có kiến thức đặc biệt, giỏi phát minh, có sở trường đặc biệt hơn hẳn người ta, một đời lừng danh.

Nhưng cần chú ý, phải có Tả phụ Hữu bật và cát tinh phù trợ; hoặc Thiên khôi, Thiên việt giáp cung mệnh, mới là thượng cách.

Ở Tị và Hợi, thì Tử vi và Thiên phủ đối diện nhau, có cát tinh phù trợ hoặc đồng độ, là đại phú đại quý hay đại thọ, hoặc đột nhiên được quý nhân đề bạt, nhẹ bước trên con đường sự nghiệp

Ở Dần và Thân, không có cát tinh trợ lực, là người sống lý tưởng thanh cao hoặc là bậc thầy của nhiều người, hoặc sống bằng nghề dạy học.

Thiên phủ an mệnh ở Thìn hoặc Tuất, hội chiếu sao Tả phụ không bằng đồng độ, là cách cục đặc biệt, vừa phú vừa quý, nhưng phải gặp được Lộc tồn mới đúng cách. Bởi vì thiên phủ nhập mệnh ở Tuất, thì Tử vị ở Ngọ miếu địa, mà Thái dương cũng sẽ ở trên cung mặt trời mọc ở phương Đông, còn Thái âm sẽ đến cung vị trăng sáng ở cửa trời, nếu có thể được cát tinh phụ diệu đồng độ, mà không bị sát diệu xung phá, đương nhiên không phải mệnh khanh hầu thì cũng là mệnh danh tài tướng soái. Có sát diệu xung phá, cũng chủ về tay cự phách trong giới thương nghiệp, gặp Địa không, Địa kiếp thì chủ về thành tựu từ lý tưởng hư ảo.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thái âm - Vương Đình Chi

Thái âm miếu ở Hợi, Tý, Sửu. Hãm ở Mão, Tị, Ngọ.

Thái âm là sao của Trung Thiên Đẩu, ngũ hành thuộc âm thủy, hóa khí làm"phú"(giầu có)

Thái âm và Thái dương là cặp"sao đôi"quan trọng trong Đẩu Số, do đó hai sao có tính chất tương đồng và cũng có tính chất tương dị. Thái âm chủ về phú, Thái dương chủ về quý; Thái âm chủ về nữ, Thái dương chủ về nam; Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương; Thái âm thuộc thủy, Thái dương thuộc hỏa; Thái âm là mẹ, Thái dương là cha; Thái âm là con gái, Thái dương là con trai.

Thông thường bất kể nam hay nữ, mà gặp Thái âm, đều chủ về bất lợi cho lục thân phái nữ. Có thể căn cứ cung vị Thái âm bay đến, và tổ hợp tinh hệ của tam phương tứ chính để luận đoán mệnh vận của người bị bất lợi. Nói chung, thường chủ về lúc nhỏ mẹ bất lợi; nếu là nam mệnh, Thái âm lạc hãm là bất lợi cho vợ hay con gái.

Nam mệnh cung Thân gặp Thái âm, chủ về dễ tiếp cận với người khác giới, cũng chủ về người này tính tình dựu dàng, nhiều nữ tính. Nếu cung Phúc đức và cung Phu thê không tốt, có thể có khuynh hướng đồng tính.

Nữ mệnh cung Thân gặp Thái âm, không hội sát tinh, chủ về là người đoan trang, thông minh. Nếu gặp các sao Sát Hình, thì có khuynh hướng khắc chồng hình con. Nếu gặp các sao đào hoa, mà cung Phúc đức và Phu thê không tốt, thì cũng có thể phát triển thành đồng tính luyến ái.

Thái âm hội hợp Văn xương, Văn khúc, chủ về tài năng học rộng, có thể phát về văn chương. Rất ưa hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, bởi vì Thái âm chủ về cất giấu, phú, tĩnh, có khí vị hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc. Hội hợp với Hóa Quyền, Hóa Khoa thì có thể cương nhu tương tề.

Thái âm và Thái dương hội hợp, nếu hai sao đều nhập cung miếu vượng, cũng chủ cương nhu tương tề, là người có nội tài, nhưng cao thượng độ lượng, phóng khoáng bất phàm.

Thái âm ở cung hãm không ngại Hóa Kị, vì Thái âm của cung hãm vốn không sáng, đương nhiên không sợ mây mù che kín. Ở cung vị miếu vượng thì lại sợ Hóa Kị, vì có mây mù che trăng sáng. Nhưng Hóa Kị ở Hợi thì gọi là"biến cảnh", trừ khi có các sát hình cùng chiếu, nếu không"biến cảnh"chỉ làm tăng vẻ rực rỡ của ánh trăng.

Vương Đình Chi kinh nghiệm, phàm là Thái âm thủ mệnh, lúc luận đoán rất nên xem kèm cung Phúc đức. Bởi vì Thái âm chủ về phú, ở xã hội cổ đại khá đơn thuần, tuy có cạnh tranh nhưng không kịch liệt, do đó việc chủ về sự hưởng thụ tinh thần của cung Phúc có ảnh hưởng không lớn. Còn trong xã hội hiện đại thì cạnh tranh kịch liệt, thủ đoạn cạnh tranh cũng nhiều âm mưu hơn, nếu cung Phúc đức mà không tốt, do Thái âm chủ về phú, thương thường sẽ trái lại, dễ dẫn đến đau khổ về phương diện tinh thần. Khi luận đoán cần chú ý.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thái âm - Lục Bân Triệu

Sao Thái âm trong thuyết ngũ hành thuộc âm thủy. Ở trên trời là tinh túy của mặt Trăng, hóa làm sao"phú". Tương phối với sao Thái dương. Ở trong mệnh bàn làm"mẫu tinh"(sao mẹ), làm"thê tinh"(sao vợ) và làm"nữ tinh"(sao con gái). Thái âm ưa thích người sinh ban đêm. Sao Thái âm ở 12 cung cũng giống như sao Thái dương, mỗi cung có một tên gọi:

Thái âm đến Tý, gọi là"Thiên cơ". Chủ về nữ mệnh vinh hóa phú quý, có duyên với người, suy nghĩ sâu sắc, giỏi mưu kế.

Thái âm đến Sửu, gọi là"Thiên khố". Nhật Nguyệt tương hội, tính tình hào sảng, quan cao lộc hậu.

Thái âm đến Dần, gọi là"Thiên muội". Mặt trời mới mọc, mặt Trăng mất sáng, chủ về người có tính do dự, tiến thoái không quyết đoán.

Thái âm đến Mão, gọi là"Phản bối". Gặp cát diệu chủ về đại phú.

Thái âm đến Thìn, gọi là"Thiên thường". Ưa tương hội với tinh diệu thuộc Kim. Nếu hội chiếu Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì chủ về làm lãnh đạo, tham dự triều chính, tay nắm quân cơ đại quyền, danh lừng bốn biển. Đây là cách"Âm tinh nhập thổ"(Tinh túy của âm khí nhập vào đất)

Thái âm đến Tị, gọi là"Thiên hưu", còn gọi là"Thất điện". Chủ về có tật ở mắt, cận thị, hoặc có chồng hữu danh mà vô thực nhưng xa cách, hoặc chồng giỏi lo cho người mà không thích lo cho nhà. Nếu gặp tam hóa Khoa Quyền Lộc thì lại chủ về hưởng thụ phú quý.

Thái âm đến Ngọ, gọi là"Thiên y", hoặc gọi là"Hàn nguyệt". Chủ về người có tình cảm phong phú, nhiều ảo tưởng, tự tác đa tình, không lợi cho nguyên phối.

Thái âm đến Mùi, gọi là"Thiên khuê". Nhật Nguyệt đồng độ, tính tình hào sảng, thẳng thắn, nhưng chợt dương chợt âm, và không lợi cho mẹ.

Thái âm đến Thân, gọi là"Thiên hoàng", chủ về người phúc đầy lộc trọng, sự nghiệp lớn lao, khéo ứng biến, có quyền biến, giầu hùng tâm, suy tưởng phong phú.

Thái âm đến Dậu, gọi là"Thiên tường", chủ về phú quý.

Thái âm đến Tuất, gọi là"Thiên trợ", là cách"Nguyệt chiếu hàn đàm"(trăng rọi đầm lạnh). Đây chính là lúc thỏ ngọc phát ánh sáng, là thượng cách.

Thái âm đến Hợi, gọi là"Nguyệt lãng thiên môn"(Trăng sáng cửa trời), chủ về đại phú, hoặc được tiền của bất ngờ, còn gọi là cách"Triều thiên"(chầu trời), nhiều mưu kế, giỏi vạch kế hoạch sách lược.

Sao Thái âm rất ưa gặp tam hóa Lộc Quyền Khoa và Lộc tồn. Do Thái âm chủ về phú, chủ về ẩn tàng, chủ về yên tĩnh, nên đồng hành với Hóa Lộc hay Lộc tồn thì hợp nhau. Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu thì cương nhu tương xứng. Xương Khúc giáp cung hoặc hội chiếu tất phát về văn chương, học rộng nhiều tài.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Thiên hình - Thiên diêu - Đại toàn

天刑 - 天姚

天刑 - Thiên Hình

Thiên Hình thuộc Hỏa, là một hung tinh, chủ hình yểu cô khắc, hợp nam không hợp nữ, lợi võ không lợi văn. Nếu nhập miếu thì là thiên hỉ thần, tốt đẹp, hỉ đồng cung cùng Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa. Thiên hình cư Dần Mão Dậu Tuất cung là nhập miếu, còn lại là hãm địa. Thiên Hình thủ thân mệnh, tính tình cương cường cố chấp, rất nguyên tắc, tư tưởng chủ quan. Thiên Hình chủ cô khắc, duyên với cha mẹ, anh em mỏng, có hình khắc với người phối ngẫu, con cái, bạn bè tri kỉ ít. Mệnh hội ác tinh gặp Thiên Hình, có khuynh hướng xấu hơn rõ rệt, không yểu tắc bần, anh em cha mẹ không được toàn vẹn. Sao này tại số là y dược, thủ mệnh thân, hội chiếu với nhiều cát tinh, có hứng thú với y liệu, pháp luật, tôn giáo, cũng dễ thành công ở phương diện này. Thiên Hình chủ hình yểu, nhập miếu thì chủ nắm binh.

Người sinh giờ Tỵ, Thiên Hình tất nhập mệnh. Người sinh giờ Tỵ Dậu Sửu, mệnh và tam hợp tất có Thiên Riêu, Thiên Hình hội chiếu.

Thiên Hình hội chiếu với hung tinh, tính tình tàn nhẫn, thích săn bắt, tàn sát, câu cá.... cũng thích hợp hành các nghề trên.

Thiên Hình thủ mệnh, gặp Kiếp Không Tứ Sát, một đời lắm tai họa, không phải bệnh tật trên người cũng là nhiều kiện cáo, dễ bị xử phạt.

Thiên Hình tại Dần Mão Dậu Tuất là nhập miếu, chủ cát, có thể nắm quyền, thường làm việc trong quân đội, cục cảnh sát, cơ quan y tế.

Thiên Hình hội Xương Khúc Khoa ở miếu địa, có sở trường độc đáo, kiến thức hơn người, văn võ toàn tài, chủ phú quý, lợi cho kinh doanh bên ngoài.

Thiên Hình và Thái Dương đồng cung và hội chiếu là quân nhân, Thiên Hình nhập miếu hội Thái Dương chủ phú quý. Hội Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, chủ võ chức quý hiển, hội Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương có thể nắm quyền lớn ở các cơ quan y tế, pháp luật.

Thiên Hình phùng Thiên Khốc Thiên Hư ở mệnh thân, khó thoát cảnh bệnh tật trên người, bị bệnh mãn tính.

Thiên Hình đơn thủ mệnh thân, lục thân không toàn vẹn, chủ nghèo khổ xuất gia, theo con đường tăng đạo.

Thiên Hình và Hóa Kỵ đồng thủ mệnh cung, là người tất có tai họa tù ngục, hoặc chết thảm. Đồng thủ cùng Tứ Sát cũng vậy.

Thiên Hình hãm địa, lưu niên thái tuế, đại tiểu hạn gặp phải phùng, chủ xuất gia, kiện tụng, tù ngục, mất tiền, đặc biệt kỵ hỏa tai. Đồng cung hay hội chiếu với Tứ Sát hoặc Hóa Kỵ, lắm tai họa bất ngờ, thậm chí tàn phế, tử vong, lưu niên mệnh cung có tổ hợp trên đa phần vì tai họa bất ngờ mà chết.

天姚- Thiên Diêu

Thiên Diêu thuộc thủy, là bại tinh, chủ phong lưu háo dâm. Cư Mão Dậu Tuất Hợi là nhập miếu, còn lại là hãm địa. Thiên Diêu thủ mệnh thân, có nhan sắc, nữ mệnh gợi cảm, tính tình thâm độc, đa nghi, giỏi quan sát, làm việc bí mật sợ người khác biết, duyên với người khác giới tốt, phong lưu háo dâm. Nhập miếu vượng, nho nhã văn vẻ, học rộng, kiến thức phong phú, xã giao rộng, phú quý lắm kẻ hầu hạ, phúc dày, đam mê tửu sắc, tính thích dâm lạc. Hội ác tinh, tan cửa nát nhà, vì sắc mà gặp họa. Thiên diêu hội chiếu với Hồng Loan, Thiên Hỉ, Đào Hoa, trọng sắc dục, chìm đắm trong tiền bạc tửu sắc. Đồng cung hay hội chiếu với Hóa Cái, Lộc Tồn, Thiên Mã, Xương Khúc, đa phần thuộc thành phần giới văn nghệ, thu được danh lợi. Người sinh giờ Sửu, Thiên diêu tất cư mệnh, người sinh giờ Tỵ Dậu Sửu, mệnh cung và tam hợp cung tất có Thiên diêu, Thiên Hình hội chiếu.

Thiên Diêu ở miếu địa thủ mệnh, tam phương tứ chính có nhiều cát tinh không có sát tinh ác tinh, thì chủ kiến thức phong phú, phúc vượng mà có phú quý, tuy nhiên cũng ham tửu ham sắc, tính tính phong lưu.

Thiên diêu ở hãm địa thủ mệnh, tất tính tình đa nghi mà âm mưu tàn nhẫn, cũng thích dâm dục, đồng thủ với ác tinh lại hội nhiều sát tinh thì vì sắc mà phạm tội tù hình, nếu cư điền trạch cung, tài bạch cung thì không tốt, chủ tan cửa nát nhà.

Thiên diêu thủ mệnh, tam hợp hội Tham Lang, Liêm Trinh, Mộc Dục, chủ phu thê hình khắc, nặng thì thiếu niên chết yểu.

Thiên diêu và Kình dương đồng thủ mệnh, vợ chồng hình khắc, nặng thì thiếu niên chết yểu.

Thiên diêu và Hồng Loan đồng thủ mệnh, chủ dâm bôn. Đa phần tự cưới không cần giới thiệu mai mối, còn trẻ đã bỏ nhà theo trai, tiền hôn hậu thú, hoặc có quan hệ tình cảm với nhiều người khác phái. Nữ mệnh dễ đi quá giới hạn, dễ thành tình nhân.

Thiên diêu thủ thân cung, tam hợp có Tham Lang xung chiếu, nam nữ vì dâm mà yêu đương vụng trộm, nếu hội Tử Vi, Thiên Phủ cũng chủ phong lưu mà không dâm loạn.

Thiên diêu và Tham Lang thủ mệnh thân cung ở đất bình hòa lạc hãm, hội nhiều ác tinh, nam chủ dâm loạn, nữ là ca kỹ, được cát tinh củng chiếu cũng khó tránh tái hôn.

Thái tuế, đại tiểu hạn gặp Thiên diêu, dễ mê đắm sắc đẹp, không cần mai mối mà tự kết hôn, sống chung, thông dâm, ngoại tình, chơi gái... Tất nhiên cũng cần mệnh thân cung có cách cục đào hoa mới luận như vậy. Người chưa kết hôn đại hạn gặp Thiên diêu, tiểu hạn và thái tuế tam hợp cũng gặp thì chủ yêu đương kết hôn. Thái tuế hoặc tiểu hạn có Thiên diêu, được Hồng Loan, Thiên Hỉ ở tam hợp xung chiếu thì càng ứng nghiệm.

Thiên diêu cùng các hung tinh Tứ Sát hóa kỵ đồng cung, tất vì tửu sắc cờ bạc mà rước tai họa nặng.

Thiên diêu nhập cung Phu Thê, tái hôn, hoặc có ngoại tình vụng trộm. Đồng thủ với Hóa Kỵ hoặc Phá Quân, Phụ Bật, thường chủ ly hôn, có thêm hung thần đồng thủ, nam nữ dễ kết hôn nhiều lần, hay chung sống mà khó có hôn thú chính thức (người sinh giờ hợi)

Thiên diêu nhập cung tử tức, miếu vượng được cát diệu thì có thể sinh con cái xinh đẹp, hãm địa thì không luận như trên.

Thiên diêu nhập cung tài bạch, có tiền mà sau có đào hoa, cũng vì tửu sắc cờ bạc mà phá sản (Người giờ Dậu)

Thiên diêu nhập Di cung, ra ngoài có thể được quý nhân phù trợ, hay tiệc tùng rượu chè, được người khác giới ái mộ (người sinh giờ Mùi)

Thiên diêu nhập cung Quan Lộc, miếu chủ cát, hãm chủ hung. Hội hung tinh, đa phần chỉ kẻ nịnh hót bợ đỡ người quyền quý (người sinh giờ Tỵ)

Thiên diêu nhập cung Điền trạch, phá tổ nghiệp, khó tự mình xây dựng sản nghiệp (người sinh giờ THìn)

Thiên diêu nhập cung Phúc Đức, thân tâm bấn loạn, dục vọng mãnh liệt, suy nghĩ bậy bạ. Cũng chủ nam nữ đều giỏi xã giao, được cảm tình tốt của người khác phái (người sinh giờ Mão)

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Tài vận luận - Toàn thư

Trong Tử Vi Đẩu Số, sao, mệnh cách, mệnh bàn khác nhau không chỉ có ảnh hưởng khác nhau tới toàn thể mệnh lý, mà đối với Tài vận của con người cũng có ảnh hưởng không giống nhau, có tổn thất có lợi ích, có tai họa có phúc đức.

Theo lý luận của Tử vi Đẩu Số, thì sao, mệnh cách, mệnh bàn khác nhau, thì có ảnh hưởng khác nhau tới Tài vận của con người. Chỉ khi hiểu rõ mối quan hệ giữa các Sao, mệnh cách và mệnh bàn với Tài vận, thì mới có thể đón lợi tránh hại, thu nhập được nguồn tài.

Sao với tiền tài

Trong rất nhiều các sao của Tử vi, thì 5 tài tinh: Thiên phủ, Vũ khúc, Thái âm, Lộc tồn, Hóa Lộc có trợ lực nhất đối với tiền tài.

1)- Sao Thiên phủ - sao Tọa tài

Sao Thiên phủ là"sao Tài khố", là tài khố ở trên trời, là cơ sở của phú quý, chủ tiền tài, điền trạch, bổng lộc. Tài khố của sao Thiên phủ thuộc về tài của quan tước bổng lộc, vì vậy không thích hợp với việc kinh doanh thương mại. Nguồn tài của sao Thiên phủ tương đối ổn định, thường là có từ tài sản kế thừa của tổ tông hoặc do tự mình tích lũy được, đối với tiền tài vô cùng bảo thủ, thường rất trân trọng tiền bạc.

2)- Sao Vũ khúc - sao Chính tài

Sao Vũ khúc là"sao Chính tài"chủ tiền tài. Chính tài của sao Vũ khúc giống như mỏ vàng, bẩm sinh vốn đã có tính chất tài lộc, khiến cho người ta giỏi việc quản lý tiền tài, nhưng trước tiên cần phải có sự nghiệp, đồng thời chăm chỉ nỗ lực sau khi kinh doanh thành công thì nguồn tài mới cuồn cuộn đến, đồng thời sẽ trở thành cự phú.

3)- Sao Thái âm - sao Gia tài

Sao Thái âm là"sao Gia tài", chủ tài bạch, điền trạch và y lộc. Gia tài của sao Thái âm thích hợp với việc đầu tư bất động sản, tiền tài có tính lưu thông, không chỉ giầu có về mặt vật chất mà về mặt tinh thần cũng rất phong phú. Nguồn tài trong cuộc đời ổn định, có thu nhập đều và cố định, đồng thời cũng có cơ hội kiêm chức, tiền tài từ đó mà dần được tích lũy, rất ít có được từ cạnh tranh, tính toán, và cũng không có hoành phát bạo phúc. Mặc dù không thực sự để ý đến tài, tiền tài, nhưng lại biết cách sử dụng tiền tài. Khi sao Thái âm miếu vượng thì thu nhập phong phú, khi rơi xuống thì lao tâm tốn sức để tiến tài. Gia tài của sao Thái âm sợ nhất là bị sát tinh, kị tinh xung phá, khi bị xung phá thì tiền tài thường không tích lũy được.

4)- Sao Lộc tồn - sao Nguyên tài

Sao Lộc tồn là"sao Nguyên tài", hay còn gọi là sao Thiên lộc. Khi để ý tới ý nghĩa tên gọi của nó sẽ thấy vừa có lộc lại có thể tích lũy, chủ thiên lộc - tài - thọ. Nguồn tài của sao Lộc tồn có tính lưu thông, có khả năng quản lý tiền tài, thường có cơ hội tiếp cận với những công việc liên quan tới tiền. Nguồn tài mặc dù không rõ ràng và cũng không cố định, nhưng nói chung là nguồn bất tận, mãi không bao giờ hết. Cho dù gặp sát tinh, kị tinh, thì nguồn tài cũng không bị gián đoạn, mà chẳng qua chỉ không thể tích lũy được mà thôi. Thiên lộc của sao Lộc tồn thuộc về tài của tích đức, người có đức thì nguồn tài vô tận, người thất đức thì vất vả để sinh nhai.

5)- Sao Hóa Lộc - sao Chuyển tài

Sao Hóa Lộc là"sao Chuyển tài", chủ tài. Chuyển tài của sao Hóa Lộc có thể thúc đẩy sự lưu thông của tiền bạc, khiến cho thu nhập tăng lên, tiến tài thuận lợi. Những vấn đề liên quan đến tiền bạc thường rất dễ giải quyết, còn tài lộc của nó thì lại tùy thuộc vào Hóa tinh chịu hóa mà có sự khác nhau.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Quan vận luận - Toàn thư

Sự nghiệp là nền móng vững chắc cho cả cuộc đời. Tử Vi Đẩu Số hơn 1000 năm trước, đã đưa ra phương pháp và lý luận suy đoán về sự nghiệp, đó là cung Quan lộc. Lấy cung Mệnh làm chuẩn, thuận đếm đến cung vị thứ 5 là cung Quan lộc tam hội chiếu về cung mệnh, có ảnh hưởng quan trọng đến cung mệnh, đồng thời là cung cơ bản để xem xét luận đoán về đường sự nghiệp, quan lộc.

Trong một thời gian dài sau khi sáng lập ra Tử vi Đẩu Số, việc được làm quan là nghề nghiệp được coi trọng nhất, có thể thấy người xưa đều lấy cung Quan lộc để luận đoán sỹ đồ của mình, với quan niệm: học để ra làm quan. Về sau cùng với sự phát triển của xã hội, thì bất luận là sỹ - nông - công - thương, đều có thể thông qua cung vị này, để luận đoán công việc và sự nghiệp của mình. Mà muốn xem cung vị này, thì trước tiên cần có nhận thức về tiêu chuẩn đối với một công việc tốt là như thê nào?

Ở xã hội hiện đại, một công việc được cho là tốt, được đa số công nhận gồm một số những điều kiện như:

- Đãi ngộ cao, phúc lợi tốt.

- Địa điểm, chế độ làm việc kiện toàn, thăng tiến thuận lợi, tiền đồ tốt.

- Địa điểm làm việc thích hợp, môi trường làm việc thoải mái, giao thông thuận tiện.

- Địa điểm làm việc có địa thế và phong thủy tốt.

- Nội dung và tính chất công việc phù hợp với bản thân, là sở trường của bản thân.

- Địa điểm làm việc có quan hệ giao tiếp tốt.

Theo như lý luận của Tử Vi Đẩu Số, thì thực hiện 6 điều kiện như trên, có liên quan đến tổ hợp sao của cung vị:

- Đãi ngộ cao, phúc lợi tốt. Đãi ngộ tốt ở đây cần xem cung Tài bạch và Phúc đức. Còn đối với vấn đề phúc lợi tốt, thì cần xem tới cung Tài bạch và cung Mệnh tốt. Tối thiểu trong cuộc đời có cung Mệnh, cung Tài bạch, cung Phúc đức đại hạn của một đại hạn đều cát lợi, thì mới có thể hưởng thụ đãi ngộ cao, phúc lợi tốt.

- Địa điểm làm việc có chế độ kiện toàn, còn đường thăng tiến thuận lợi, tiền đồ tốt. Cần xem tới cung Mệnh, cung Quan lộc và cung Phúc đức đều tốt, hơn nữa tối thiểu cung Mệnh, cung Phúc đức, cung Quan lộc của đại hạn nào đó (đại hạn tương đồng với đại hạn nói ở trên) đều đẹp, mỗi lưu niên đều tốt, hoặc tối thiểu sự khác biệt giữa lưu niên và lưu niên là không lớn.

- Địa điểm làm việc thích hợp, môi trường làm việc thoải mái, giao thông thuận tiện. Cần xem cung Mệnh, cung Phúc đức, cung Thiên di, cung Điền trạch đều đẹp, đặc biệt là cung Phúc đức và Quan lộc là quan trọng nhất.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Tham lang - Vương Đình Chi

Tham lang miếu ở Thìn Tuất Sửu Mùi, hãm ở Tị Hợi

Trong Đẩu Số, thì Tham lang và Liêm trinh là cặp"sao đôi", tính chất của hai sao có chỗ tương đồng mà cũng có chỗ tương dị. Vì vậy cũng là sao đào hoa, nhưng Tham lang theo khuynh hướng dương cương, còn Liêm trinh thì có khuynh hướng âm nhu. Cũng có thể nói, đào hoa của Tham lang rõ nét sở tính đam mê tửu sắc, còn Liêm trinh sở tính ham thích thanh sắc và còn biết tự kiềm chế.

Tham lang ở cung Mệnh hay cung Thân, chủ về có sở trường giao tế, còn có thêm tài nghệ ở nhiều phương diện. hiếu động, khéo ăn khéo ở, nhưng lại dễ chìm đắm trong tính dục như: thị hiếu, sở thích, ...

Nếu hội hợp với Xương Khúc, thì có sở thích cầm kỳ thi tửu, xét về phương diện vật dục là đam mê tửu sắc, nếu gặp thêm Hoa cái chủ về ưa thích khoa học huyền bí, xét về phương diện vật dục là ưa thích sự vật thần bí.

Có điều, nếu Tham lang hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la và Hóa Kị, thì tính vật dục rất sau nặng, dễ thành đam mê tửu sắc, cơ bạc, hút sách.

Cổ nhân đối với Tham lang, có thuyết"Tham lang ở cung vượng, suốt đời trộm cắp như chuột"(Tham cư vượng cung, chung thân thử thiết), gọi là Tham cư vượng cungtức là:

- Người sinh năm Thân Tý Thìn, có Tham lang cư Tý

- Người sinh năm Dần Ngọ Tuất, có Tham lang cư Ngọ

- Người sinh năm Tị Dậu Sửu có Tham lang cư Dậu

- Người sinh năm Hợi Mão Mùi có Tham lang cư Mão

Đây là bí truyền của Trung Châu phái; người sinh năm Tị Dậu Sửu có Tham lang cư Dậu không phải là cung vượng, đây là điều chưa có sách nào ghi chép, các phái cũng không lưu truyền.

Thuyết của cổ nhân là do tâm lý chấp trước vào câu"Tham cư vượng cung"suy diễn dễ phát triển thành dục vọng, chiếm hữu quá sâu, nên có luận đoán"suốt đời trộm cắp như chuột". Đối với thuyết này cần phải xử lý thật cẩn thận, nhất là đối với người có cung Phúc đức hội hợp sao cát, không được khư khư luận là"suốt đời trộm cắp như chuột". Nếu mà cung mệnh của con gái mà gặp cách cục này thì phải quản giáo cho khéo, để giảm bớt dục vọng chiếm hữu của nó.

Tham lang hội sao Cát, chủ về vinh hoa phú quý, thậm chí có thể nắm đại quyền trong quân đội hay cảnh sát.

Tham lang gặp Hỏa tinh hay Linh tinh, là"Hỏa Tham cách"hoặc Linh Tham cách", đều chủ về tài lộc dồi dào, phát triển có tính đột phá. Lấy Hỏa Tham làm thượng cách, Linh Tham làm kế đó. Lại còn lấy ở Thìn, Tuất làm thượng cách, hai cung Sửu Mùi là kế đó, các cung khác là sau nữa. Nhưng nếu gặp thêm Kình dương hoặc Đà la thì không hợp cách. Hợp cách là gặp Lộc tồn hoặc Hóa Lộc, đặc biệt sẽ có nguồn tiền tài bất ngờ, có thể giầu đột ngột.

Tham lang rất ghét Kình dương, Đà la, cũng sợ Hóa Kị, nhưng gặp Địa không, Địa kiếp thì trái lại, có thể thành người có hành động thiết thực. Cho nên, gặp Không Kiếp phần nhiều chủ về có nghề chuyên môn, nếu không gặp Hóa Kị thì có thể theo ngành nghiên cứu khoa học kỹ thuật, nếu gặp Hóa Kị thì nên làm thợ.

Tham lang gặp Kình dương, Đà la, làm tăng sự trắc trở gập gềnh, bất đắc chí và vất vả trong đời người. Ở Hợi và Tý thì gọi là"Phiếm thủy đào hoa", chủ về phong lưu vì sắc tình mà chuốc họa, có sao cát thì có thể chuyển hóa thành nho nhã thanh tao. Tham lang gặp Đà la ở cung Dần, gọi là"Phong lưu thái trượng"chủ về vì ham sắc mà gặp họa.

Nữ mệnh Tham lang, đặc điểm lớn nhất là có sở thích riêng, đồng thời thích chuyện thần bí, có khuynh hướng sùng, tín ngưỡng bái tôn giáo. Thời Đường Tống, phụ nữ có mệnh này dễ làm"nữ đạo sĩ","nữ đạo sĩ"thời ấy tương đương với kỹ nữ cao cấp. Ở thời hiện đại, có thể thành người làm công việc giao tế, quan hệ công cộng, nhất là có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Thiên phúc, Thiên quan, Thiên quý họi hợp, nữ mệnh cũng có thể sang quý hoặc có địa vị xã hội. Nếu hội các sao Lộc, mà còn được Hỏa tinh, Linh tinh củng chiếu, đều chủ về giầu có. Mệnh tạo tính tình cương nghị, vương phu ích tử.

Cung Mệnh hoặc cung Phúc có Tham lang và Liêm trinh hội hợp, chủ về nhạy cảm với cái đẹp, cũng chủ về yêu thích nghệ thuật, nhất là ưa vận động hoặc khiêu vũ. Nếu Tham lang độc tọa, thì có khuynh hướng yêu thích vận động.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Tham lang - Lục Bân Triệu

Sao Tham lang trong thuyết ngũ hành thuộc dương mộc. Ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, lại thuộc thủy, hóa làm đào hoa, là tinh diệu giải trừ tai nạn ở trên trời. Ở người thì chủ về hiếu động, lanh lẹ láu lỉnh, thơ riệu hút sách cờ bạc đủ trò, lại còn thích thuật tu luyện thần tiên.

Gặp cát diệu chủ về phú quý vinh hoa, tay nắm đại quyền quân chính, lừng danh thiên hạ. Gặp ác sát thì chủ về mê hoa luyến riệu, ưa thích uống riệu ham mê cờ bạc.

Gặp Hỏa tinh, Linh tinh, là cách Hỏa Tham, Linh Tham, chủ về tiền nhiều lộc cao. Nhưng lấy trường hợp ở Thìn và Tuất là thượng cách, ở Sửu và Mùi là thứ cách, còn các cung khác thì kế đó nữa.

Tham lang đồng độ với Kình dương, Đà la ở Hợi, Tý gọi là"Phiếm thủy đào hoa", tự nổi tiếng phong lưu, vì sắc mà thân bại danh liệt.

Ở Thìn hay Tuất, đối diện có Vũ khúc xung chiếu, có cát diệu thì sau 30 tuổi có thể phát. Ở cung vị khác, Tham lang có Vũ khúc hội chiếu, trước nghèo sau giầu. Có sát tinh thì lúc nhỏ nhiều tai nạn, thọ mệnh không dài.

Tham lang ở cung Dần, gặp Kình dương, Thiên hình, có tai họa lao ngục, đồng độ với Đà la ở cung Dần, gọi là"Phong lưu thái trượng", chủ về túng dục tham sắc, hoặc vì sắc mà mang họa.

Tham lang ở cung mệnh, chủ về người sắc mặt xanh trắng, hoặc hơi kèm sắc vàng, mặt trái xoan hoặc nhiều xương. Nhập miếu thì thân người béo mập cao to. Lạc hãm thì thân hình nhỏ mà giọng nói cao.

Tính tình bất thường, nhưng đại lượng, hay thi ân giúp người. Khi có lỗi lầm, người ta thường giận thấu xương, nhưng về sau lại được người lượng thứ, tha thứ bỏ qua. Tác phong làm việc có tính gấp gáp, ưa thật khéo léo trải chuốt. Ưa nhiều đam mê, cờ bạc tửu sắc đều ham, không từ thứ gì.

Tham lang ở cung Mệnh, Thất sát ở cung Thân, gặp sát diệu thì có tác phong dâm bôn, trộm hoa bẻ liễu. Tham lang ở cung Mệnh, Phá quân ở cung Thân, gặp sát diệu, nam mệnh thì đam mê cờ bạc riệu chè, trọng sắc như mạng sống; nữ mệnh cũng chủ về dâm đãng, không yên gia thất, nhiều đam mê thích giao du.

Hội chiếu với các tinh diệu Văn xương, Văn khúc, Thiên hư, Âm sát, chủ về người không biết việc, làm việc chẳng ra sao, không thực tế, chỉ biết giỏi lừa dối, xảo trá.

Tham lang đồng độ với Tử vi, gọi là"Đào hoa phạm Đế tọa", chủ về rất dâm đãng.

Bất luận là nam hay nữ, phàm Tham lang thủ mệnh, có sao Không, Thiên hình, thì trái lại, chủ về thanh bạch đoan chính.

Tham lang thủ mệnh, tam phương tứ chính không có sát tinh, mà có cát diệu hội chiếu, đều chủ về là người trong giới quân nhân, cảnh sát hoặc chính giới.

Tham lang ở Dần địa, có cát tinh hội chiếu, chủ về người thông minh, còn trẻ đã nổi tiếng, có điều, tuy sáng lập được sự nghiệp, nhưng tai họa lao ngục và tai họa về sự nghiệp đều tới. Tham lang tọa mệnh, đến Thân địa, mộc gặp kim khắc chế, có thể lưu lại tiếng thơm trăm đời, nhưng cũng có thể để lại tiếng xấu vạn năm, vì sẽ có một số người chỉ trích phản đối, nhưng lại được một số người khác tôn kính sùng bái.

Sự nghiệp một đời là do gian khổ phấn đấu mà được, nếu chỉ lo hưởng thụ thì sự nghiệp sẽ mất đi trong sự khoái lạc. Không có sát tinh ác diệu hội chiếu, thì từ tay trắng làm nên đại nghiệp. Gặp sát tinh thì tai họa lao ngục, cuộc đời lẩn đông trốn tây, nếm đủ mùi chua đắng cay.

Tham lang ở cung Ngọ, là mộc hỏa sáng thông nhau, giỏi kế mưu, hùng tài thao lược. Nếu tam phương tứ chính không có sát tinh ác diệu, thì sự nghiệp cực lớn, tay cầm đại quyền tài chính, phân định tình thế kinh tế trái phải. Nếu có sát diệu, thì nên tìm cách phát triển trong giới thương nghiệp.

Tham lang ở Tị, thì gặp sao Liêm trinh đồng độ, chủ về hoạt động sôi nổi, trong cuộc đời gặp tai nạn rất nhiều, có điều, đều có thể thoát nguy mà yên. Ở tam phương tứ chính không sát diệu ác tinh hội chiếu, tất uy chấn biến cương, làm tướng lĩnh tay nắm trăm vạn hùng binh. Nếu có sát tinh ác diệu hội chiếu, thì chỉ nên hoạt động trong giới thương mại, song, những người giao du qua lại phần nhiều cũng trong giới quân nhân, cảnh sát hay chính giới. Có điều cuộc đời nhiều sóng gió. Phàm Tham lang tọa mệnh ở Tị, thì sao Thiên phủ đến cung Thê, có sao Vũ khúc vây chiếu, chủ về có vợ rồi lại lấy thêm vợ, vợ thứ hai tất sẽ thông minh đa tài, có thể giúp được chồng, giỏi chăm lo gia đình.

Phàm Tham lang tọa cung Mệnh, thì rất khác với các sao Cự môn, Thái dương nhập cung mệnh. Cự Nhật thủ mệnh, tuy không lỗi lầm cũng thường dễ bị người chỉ trích (Thiên lương thủ mệnh gặp Lộc tồn cũng vậy). Còn lại Tham lang tọa thủ mệnh, dù có lỗi lầm, rốt cuộc người ta cũng tha thứ bỏ qua, hơn nữa còn có tác phong đặc biệt, tức là có thể ở cùng với người oán thù mình, lâu dần có thể hóa giải mối oán thù này.

Nữ mệnh có Tham lang đến cung mệnh (cũng giống như nam mệnh, đều thuộc về cách"Hỏa kỳ lân"), chủ về hoặc là mê riệu, mê cờ bạc, mê hút sách, hoặc là hay thay đổi thị hiếu, hơn nữa còn có thị hiếu về tín ngưỡng tôn giáo. Nhập miếu thì đều phú quý, có các sao Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Thiên phúc, Thiên quan, Thiên quý, hội chiếu thì chủ về quý. Có Lộc tồn, Hóa Lộc, Hỏa tinh, Linh tinh vây chiếu thì chủ về phú. Phàm Tham lang thủ mệnh nữ, thường là người có chí trượng phu, tính tình cương nghị, trọng hình thức, vượng chồng ích con. Nhưng nếu lạc hãm thì nên làm vợ thất, vợ lẻ, nếu không sẽ tự hình khắc phá tài.

Lưu niên Đại hạn có sao Tham lang đến, không có sát diệu, thì chủ về hay bỏ cũ thay mới, thích thơ riệu thù tạc, tính tình vui vẻ, tài năng tiến triển muốn tự tác sự nghiệp mới, thêm nhân khẩu. Có tam hóa Lộc Quyền Khoa thì thăng quan tấn tước. Gặp Hỏa Linh thì được tiền của bất ngờ. Nếu hội chiếu sát tinh, ác diệu lạc hãm, và Hóa Kị, thì chủ về vì giao tế thù tạc mà sinh tai họa thị phi, hoặc vì đầu cơ, cờ bạc, mà khuynh gia bại sản. Gặp Hàm trì, Thiên diêu chủ về vì sắc mà sinh tai họa. Mừng nhất là thấy hỷ sự, hoặc mang thai sinh đẻ, nhờ đó mà tai họa biến thành cát tường.

Phàm, người sinh năm Thân Tý Thìn có Tham lang thủ mệnh cư Tý; người sinh năm Dần Ngọ Tuất có Tham lang thủ mệnh cư Ngọ; người sinh năm Tị Dậu Sửu có Tham lang thủ mệnh cư Dậu; người sinh năm Hợi Mão Mùi có Tham lang thủ mệnh cư Mão, thảy đều chủ về người có tính tình tham lặt vặt, phẩm hạnh bất chính, nhiều đam mê mù quáng có thể xảy ra hành vi trộm cắp mặc dù tiền vẫn dư giả không thiếu. Hơn nữa, thường có đầu óc không trong sáng, không hiểu thị phi, điên đảo trắng đen, ân oán không minh bạch. Nếu có nhiều cát diệu hội tụ, thì những tình huống kể trên giảm thiểu đi nhiều.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Kình dương Đà la hợp luận

擎羊 - Kình Dương

Kình Dương còn có tên là"yểu thọ sát", thuộc kim, Bắc Đẩu phù sao, hóa khí là Hình. Kình Dương là một trong tứ sát (Kình, Đà, Hỏa, Linh), cũng là một hung tinh. Tại Tý Ngọ Mão Dậu hãm địa, Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu. Thủ thân mệnh, tính tình thô bạo, cơ mưu xảo trá, thích tranh đấu tàn nhẫn, coi tình thân bạc như vôi, trở mặt lấy ân báo oán. Nhập miếu, tính cương quả quyết, chủ quyền quý. Cư tý ngọ mão dậu hãm địa, tức tác họa tai ương, hình khắc thậm tệ. Kình Dương nhập mệnh, thân cao thể cường tráng, phá tướng, đầu và tứ chi có thương tích, nhập miếu thì béo tốt, hãm địa phá tướng nặng, hoặc mắt mù, hoặc mặt có sẹo hay đốm. Kình Dương nhập miếu, chủ hoạnh thành hoạnh phá, đa phần thường thiếu chân thành, tính tham lam giả dối, hết sức tính toán, lấy oán báo ân, tính gấp gáp, to gan lớn mật, thích chuốc thị phi hoặc có xung đột với người thân bạn bè, thích đi vào chỗ nguy hiểm, tâm lý phản kháng mạnh, có khuynh hướng phạm tội. Nữ mệnh nhập miếu hội cát tinh quyền quý, tuy nhiên không được hoàn mỹ, hãm địa khắc chồng con, cô hình, phá tướng hạ tiện.

1. Kình Dương hỉ người sinh phía Tây, Bắc, hoặc người sinh năm thìn tuất sửu mùi, mệnh thân cung tại thìn tuất sửu mùi tất hoạnh lập công danh, đại phú đại quý.

2. Kình Dương cư tý ngọ mão dậu hãm địa, không chết yểu tất hình thương, một đời lắm hung họa bất ngờ, cơ thể thương tật, hình khắc nghiêm trọng (ở ngọ là hung nhất, rồi đến mão, rồi đến tý dậu, trừ cách"mã đầu đới tiễn"là tốt.)

3. Kình Dương nhập miếu có cát tinh đồng cung, chủ phú quý danh tiếng.

4. Kình Dương, Hỏa Tinh đồng cung tại thìn tuất sửu mùi thủ mệnh, uy quyền xuất chúng (người thìn tuất thì tốt, thứ đến là sửu mùi), nếu hai sao trên đồng cung hãm địa thủ mệnh, hạ cách, bần tiện hung yểu.

5. Kình Dương tại ngọ thủ mệnh, có Đồng Âm hay Tham lang đồng cung, là cách"mã đầu đới tiễn", uy trấn biên cương, người sinh năm Bính Mậu thì hóa cát, tuy có Kình Dương ở mệnh, cũng luận là tốt, có thể phú quý, chỉ là không bền. Người cách này hoặc tha hương dị quốc hoặc xuất ngoại phát triển, đa phần xây thành đại nghiệp đại sự trong gian nan khó khăn.

6. Kình Dương đồng cung với Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, chủ người có nốt ruồi kín, có đốm.

7. Kình Dương đồng cung với Liêm Trinh, Cự Hỏa, chủ có ám tật hoặc đầu mặt tay chân thương tật, một đời lắm hình họa.

8. Kình Dương thủ mệnh, Hỏa Tinh, Hóa Kỵ, Kiếp Không xung phá, chủ tàn tật, ly hương, hình khắc lục thân.

9. Kình Dương thủ mệnh, Thất Sát hay Phá Quân xung phá, chủ hình khắc hạ cách.

10."Lý quảng bất phong, Kình Dương phùng vu Lực Sĩ" người sinh năm Giáp mệnh cung ở Mão, người sinh năm Bính mệnh ở Ngọ, người sinh năm Canh mệnh ở Dậu, người sinh năm Nhâm mệnh ở Tý, cát tinh nhiều thì vẫn bình thường, hội sát tinh thì hung.

11. Đa học thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.

陀罗 - Đà La

Đà La còn có tên là"mã tảo sát", thuộc kim, Bắc Đẩu phù sao, hóa khí là Kỵ.

Đà La là một trong tứ sát, cũng là một hung tinh. Tại Dần Thân Tỵ Hợi lạc hãm, Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu. Thủ thân mệnh, hành động suy nghĩ bất chính, lắm khi nước mắt rơi trong thầm lặng, tính cương uy mãnh, hành sự không dứt khoát, có đầu không có đuôi, hoạnh thành hoạnh phá, phiêu đãng bất định, không là dân bản xứ. Đà La nhập mệnh, thân hình cường tráng, mặt vuông tròn, hai gò má khá cao, nhập miếu đa phần béo, lạc hãm thì mặt có vết thương, răng yếu. Tính tình giảo hoạt, giỏi tính toán, đa nghi.

Người có Đà la nhập mệnh, đa phần tâm thuật bất chính, bôn ba khắp nơi. Thích giở trò xảo trá, có tâm ý phản kháng, lời lẽ khoa trương, có thói quen dọa gạt người khác. Nữ mệnh Đà La, nội tâm tàn nhẫn vẻ ngoài giả dối, xúc phạm chồng khắc con, không thủ đạo làm vợ, cũng không có liêm sỉ.

1. Đà La hỉ người xinh phía Tây, bắc, người sinh năm Thìn Tuất Sửu Mùi, người có mệnh thân ở Thìn Tuất Sửu Mùi, theo nghiệp võ có thể hoạnh phát lớn, theo nghiệp văn thì phát không bền.

2. Nếu người Vô chính diệu mà Đà La độc thủ mệnh, duyên với cha mẹ bạc, đơn độc, xa quê đi xa, ở rể hoặc nhận con thừa tự, mang 2 họ, sống nhờ xảo nghệ.

3. Đà La thủ mệnh, hội Tả Phụ, Hữu bật, Văn Xương, Văn Khúc, chủ người có nốt ruồi kín.

4. Đà La hãm thủ mệnh, hội Cự Môn hoặc tứ sát, tất hình thương vợ, quay lưng với lục thân, cũng thương tật có bệnh.

5. Đà La tại Dần Thân Tỵ Hợi thủ mệnh thân, tất là người phá tướng, cơ thể có thương tật, nếu không phải số chết yểu thì tất hình thương nặng, nếu rời xa quê hương thì tai họa giảm nhẹ đi, đa phần chủ dung mạo xấu xí.

6. Đà La và Tham Lang đồng cung, là người thích đầu cơ, tất vì tửu sắc mà mắc lao, nếu đồng cung với Tham Lang ở Dần, chủ người thông minh mà phong lưu.

7. Đà La đồng cung với Hỏa tinh, Linh Tinh, mệnh đại hung, dễ có bạo bệnh, ví dụ như bệnh truyền nhiễm, bệnh dịch, bệnh truyền nhiễm về da, đường tình dục, đa phần là người có tai nạn chảy máu, tàn phế, hung tử, không có kết cục tốt.

擎羊、陀罗合论 - Kình Dương, Đà La hợp luận

1. Trước Lộc là Kình Dương, sau Lộc là Đà la, tại số chủ hung ách, là hung thần của các cung. Cư đất tứ mộ thì nhập miếu, tọa mệnh thân, chủ hoạnh phát hoạnh phá, một khi vận may vừa đến, phát vận cực nhanh, 1 đêm thành danh, đột ngột thành công, nhưng một khi gặp vận xui thì khuynh bại cũng nhanh, thời gian từ khi bắt đầu đến khi kết thúc không dài.

2. Kình Dương hóa khí là Hình, Đà La hóa khí là Kỵ, cái hung này không thể đoán trước, không những chủ người cơ mưu gian trá, phá tướng đổ máu, cũng là dự báo về tai họa ngục tù, nhập 12 cung dù bất cứ cung nào cũng có sự phá hoại. Hai sao này hãm địa nhập mệnh, tam phương hội Hỏa Linh, tất có tai họa tù ngục.

Hoặc hai sao này hãm địa, đồng cung với Thất Sát, Phá Quân, Tham lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, cũng là số phạm tội ngồi tù. Đà La tại Tỵ Hợi tọa mệnh, bất luận chính tinh đồng cung miếu vượng hay hãm, tỉ lệ ngồi tù rất cao, nếu tam phương còn có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh, hầu như ngồi tù là tuyệt đối. Hoặc mệnh có chính tinh lạc hãm hội Địa Không Địa Kiếp, tam phương hội Dương Đà Hỏa Linh, cũng là tín hiệu tù lao. Hoặc Hóa Kỵ ở mệnh, đồng cung hội chiếu với Dương Đà, cũng có kiện tụng hình phạt, tù ngục khó tránh. Hoặc cung Di có Quan Phủ và Thất Sát, Kình Dương, chủ ly hương gặp người phối ngẫu, nhập tù báo hình.

3. Kình Dương Đà la đồng cung hay hội chiếu với hung tinh Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Hỏa tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ, đầu, mặt tay chân có thương tích.

4."Nhật nguyệt Dương Đà đa khắc thân", Kình Dương, Đà La đồng cung với Thái Dương Thái Âm đồng cung tức đả thương người thân, mắt có tổn thương; gặp Tham lang, Liêm trinh thì phong lưu rước họa, hội chiếu với Tham Lang, vì hoa tửu mà diệt thân; đồng hành cùng Cự Môn, Thất sát, thì mắc bệnh mà hỏng mắt, bị lăng nhục mà sinh ám tật; đồng cung với Hỏa Linh, khi nhỏ khó nuôi, nhiều bệnh tật tai ương, phòng chết yểu phá tướng, nếu nuôi được thành người, cũng chủ tàn tật, chỉ thích hợp tăng đạo, hoặc theo tín ngưỡng tôn giáo, làm nhiều việc thiện có thể kéo dài.

Kình Dương, Đà La hội Thái Dương, Thái âm hoặc Hóa Kỵ đồng cung, nam khắc vợ, nữ khắc chồng.

6. Kình Dương hội Xương Khúc Tả Hữu có nốt ruồi kín, bệnh ở mắt.

7. Dương Đà giáp mệnh, mệnh có Lộc Tồn và chính tinh, Hóa Kỵ, là cách"Dương Đà giáp Kỵ", là bại cách, luận là nghèo khổ, nếu mệnh không có Hóa Kỵ, Lộc Tồn đơn thủ, mà Dương Đà giáp mệnh, cũng có ngày hung họa.

8. Dương Đà và Hỏa Linh thủ mệnh thân, là người lưng gù, hoặc vì lý do ngoài ý muốn mà tàn tật, tử vong, nếu thương tật có thể kéo dài tuổi thọ. Chính tinh đồng cung lạc hãm, có dấu hiệu chết yểu, nếu cũng luận là ngồi tù.

9. Dương Dà hội ác tinh, là nô bộc, cả đời không thể phát đạt.

10. Mệnh người quân tử cũng có Dương Đà Hỏa Linh, mệnh kẻ tiểu nhân cớ gì không có Khoa Quyền Lộc, khi luận mệnh gặp điều này, cần phải xem được hay mất, luận nhập miếu hay hãm, mới có thể luận chính xác được.

11. Hễ thấy trong Dương, Đà, Hỏa Linh, Kỵ có hai hoặc ba sao lạc vào cung mệnh, chủ người không những không phải người lương thiện, có nạn ngục tù, mà tất không có kết quả tốt, là mệnh hung tử, lại hội Thiên Hình, thậm chí chết không toàn thây. Niên hạn phùng tổ hợp trên, đề phòng tai họa bất ngờ.

12. Hạn có Dương Đà, đề phòng có bệnh tật nặng, hoặc có tai nạn ngoài dự kiến, ít khi có kết cục tốt, nếu tích đức thì có thể tốt lên.

13. Nam nữ mệnh có Kình Dương, tất tái hôn.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Tiểu hạn hành vận và Lưu niên hành vận - Toàn thư

Tiểu hạn và Lưu niên đều chủ về cát hung họa phúc của một năm. Tiểu hạn dựa vào niên chi và giới tính năm sinh quyết định mỗi một tuổi trong cuộc đời là thuộc Cung nào. Mỗi năm chủ về một Cung, sau 12 năm lại quay về vị trí ban đầu. Lưu niên là lấy niên chi của năm hiện tại, quyết định năm đó là Cung nào trong mệnh bàn, một năm đổi một cung. Cung của Tiểu hạn và Lưu niên là cung Mệnh của năm đó, dựa vào đó xác định 11 cung: Huynh đệ, Phu thê, Tử nữ, ..., của Tiểu hạn và Lưu niên, sau đó dựa vào mệnh bàn của Tiểu hạn và Lưu niên, tổng hợp phán đoán vận khí của năm đó.

Năm của Tiểu hạn và Lưu niên chỉ bắt đầu từ mồng 1 tháng 1 âm lịch (đoán mệnh theo Bát tự là bắt đầu từ Lập xuân). Số tuổi của Tiểu hạn là tuổi giả, tức khi sinh là 1 tuổi, sau đó cứ đến mồng 1 tháng 1 năm âm lịch tiếp theo tính thêm 1 tuổi.

Tiểu hạn và Lưu niên đều có thể dùng để phán đoán vận khí của một năm, nhưng Tiểu hạn chủ Th, Lưu niên chủ Dụng, cả hai phải hòa hợp, hài hòa. Mà ứng nghiệm với thiện - ác của sự việc thì luôn luôn phát sinh ở Lưu niên. Nhưng bất luận là Tiểu hạn hay Lưu niên đều quy về Đại hạn, tức lấy Tiểu hạn, Lưu niên làm chủ đạo còn Đại hạn là phụ, tham khảo Mệnh cung và Thân cung.

Nói cách khác, thì cát hung của Tiểu hạn hay Lưu niên chịu ảnh hưởng của Đại hạn, đồng thời bị hạn chế trong một phạm vi cát hung cố định, và không tách rời Thân cung và Mệnh cung. Đợi hành vận đến Tiểu hạn hoặc Lưu niên, một khi thời cơ chín muồi, cát hung tự nhiên sẽ ứng nghiệm.

Bốn Hóa tinh cũng có vai trò quan trọng để phán đoán cát hung của Tiểu hạn và Lưu niên, lần lượt dựa vào cung Can của cung Lưu niên và Tiểu hạn trong mệnh bàn, sắp xếp ra bốn hóa tinh của Tiểu hạn và Lưu niên để phán đoán cát hung.

Tiểu hạn của Tử vi Đẩu Số, mệnh nam hành vận thuận theo chiều kim đồng hồ, mệnh nữ hành vận ngược chiều kim đồng hồ. Lưu niên của nam hay nữ, đều hành vận thuận theo chiều kim đồng hồ. Do đó, tiểu hạn và lưu niên của mệnh nữ có cơ hội cùng cung, tiểu hạn và lưu niên của mệnh nam không có cơ hội cùng cung.

Khi Đại hạn và Tiểu hạn cùng cung, hoặc Đại hạn và Lưu niên cùng cung, thì cát hung họa phúc của cung này hiển lộ rõ. Khi Tiểu hạn và Lưu niên của mệnh nữ cùng cung thì cát hung họa phúc của cung này càng rõ hơn, nếu lại gặp Đại hạn cùng cung, thì năm đó hành vận cần đặc biệt chú ý.

Ngoài ra, khi phán đoán cát hung của Lưu niên, bên cạnh việc cần xem cung của Tiểu hạn và Lưu niên, còn dựa vào niên can của 10 lưu tinh: Lưu lộc, Lưu dương, Lưu đà, Lưu khôi, Lưu việt, Lưu xương, Lưu hóa lộc, Lưu hóa quyền, Lưu hóa khoa, Lưu hóa kị. Tính chất của những lưu tinh này, giống các sao Lộc tồn, Kình dương, Đà là, ..., sau đó lại căn cứ vào những lưu tinh này để phán đoán vận khí của năm đó.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Đại hạn hành vận - Toàn thư

Người xưa thường dùng Đại hạn để chỉ thọ số đã tận, tức đến kỳ hạn phải mất. Trong Tử Vi Đẩu Số, đại hạn chỉ kỳ hạn 10 năm, người khác nhau thì phương pháp phân chia đại hạn cũng không giống nhau, nên căn cứ vào phép định cục của mệnh bàn, đại hạn khác nhau cũng có vận trình khác nhau.

Đại hạn chủ về cát hung họa phúc 10 năm. Cầu đại hạn, là lấy ngũ hành cục số trong mệnh bàn làm chuẩn, bắt đầu từ cung Mệnh trong mệnh bàn. Cục Thủy nhị từ 2 tuổi bắt đầu đại hạn, cục Mộc tam từ 3 tuổi bắt đầu đại hạn, cục Kim tứ từ 4 tuổi bắt đầu đại hạn, cục Thổ ngũ từ 5 tuổi bắt đầu đại hạn, cục Hỏa lục từ 6 tuổi bắt đầu đại hạn. Nam dương nữ âm vận hành thuận. Nam âm nữ đương vận hành nghịch. Mười năm qua một cung vị.

Đại hạn là mấu chốt của vận thế thuận hay nghịch. Trong 12 cung thuộc mệnh bàn, thì cung tương đối cát lợi, đều tập trung ở trong phạm vi hành vận đại hạn, tuy bản Mệnh không tốt, cuộc sống không giầu sang, nhưng sự tiến triển rất ổn định, thuận lợi. Giống như lái chiếc xe cũ đi trên đường quốc lộ, tuy xe không được tốt, nhưng vẫn thuận lợi đến nơi cần phải đến. Ngược lại nếu Mệnh tốt, đại hạn có vận thế không tốt, thì giống như lái xe cao cấp lại đi trên đường núi gồ gề, lởm chởm, tuy cuộc sống rất tốt nhưng nhiều sóng gió, lúc lên lúc xuống không ổn định.

Xem cát - hung của 10 năm đại hạn, coi cung đại hạn trong mệnh bàn là cung Mệnh của 10 năm, sau đó lần lượt dựa theo chiều nghịchkim đồng hồ sắp xếp theo thứ tự thuận11 cung: Huynh đệ, Phu thê, Tử nữ, Tài bạch, Tai ách, Thiên di, Nô bộc, Quan lộc, Điền trạch, Phúc đức, Phụ mẫu, của đại hạn. Sau đó, lại dựa vào phương thức luận đoán mệnh bàn của Mệnh theo đại hạn 10 năm này, xem đặc tính và cát hung của các cung và các Sao ở tam phương tứ chính trong mệnh bàn đại hạn, để phán đoán cát hung họa phúc của 10 năm đại hạn.

Khi nghiên cứu cát hung của đại hạn, nhất định cần quay về điều kiện ban đầu của Mệnh cung và ảnh hưởng về sau của Thân cung, đây mới là phương pháp căn bản để luận đoán đại hạn.

Nói cách khác, thì cát hung của đại hạn chịu ảnh hưởng của Mệnh cung và Thân cung, đồng thời bị hạn chế trong phạm vi cát hung cố định, đợi hành vận về sau đến mỗi đại hạn, khi không gian và thời gian phối hợp thành thế"hợp Cục nhập Cách", chỉ cần thời khắc đến, thì mức độ tốt xấu tự nhiên sẽ tái hiện.

Bốn hóa tinh: Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, không ngừng có vai trò quan trọng khi luận đoán bản mệnh, mà cũng rất quan trọng trong phương diện luận đoán cát hung của đại hạn. Bốn Hóa tinh tính cát hung của đại hạn có nghĩa, coi cung Can của cung vị đại hạn này trong mệnh bàn, là niên Can của 10 năm tương ứng, sau đó dựa vào niên Can xác định bốn hóa tinh.

Cung đến của đại hạn, tiểu hạn, hoặc lưu niên hành vận, nếu trong cung có nhiều sao Cát Lợi, thì tính chất của Cung là cát lợi, ngược lại, nhiều sao trong cung không cát lợi, thì tính chất của cung này có xu hướng xấu đi.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Phân loại tinh hệ theo nhóm bệnh - Vương Đình Chi

Sách liệt kê theo nhóm Bệnh, sau đó kể ra các tinh hệ có thể xảy ra những bệnh tật này. Hễ tinh hệ này ở cung Mệnh, cung Tai Ách (có lúc bệnh thuộc hệ thần kinh và bệnh mãn tính ứng nghiệm ở cung Phúc đức), bất kể ở Lưu niên, ở Đại hạn, hay ở tinh bàn nguyên cục đều có thể ứng nghiệm.

Về nguyên tắc luận đoán, vẫn cần chú ý tính chất của cung Tai Ách. Ví dụ như Tham Lang có kèm sát tinh ở cung Tai Ách, tính chất có thể là bệnh gan, cũng có thể là bệnh thận. Đến Đại hạn, cung hạn Tai Ách gặp Liêm trinh - Thiên tướng, mà Thiên tướng bị cách"Hình Kị giáp Ấn", đây là điềm tượng chủ về bệnh Thận hoặc bệnh về tính dục. Do Tham Lang ở nguyên cục có tính chất chủ về bệnh thận, nên đến Đại hạn này chủ về ứng nghiệm. Các tinh hệ dưới đây, thông thường đều phải gặp các Sát - Kị - Hình - Hao mới đúng, và xem các sao hội hợp cát hung nhiều ít mà định bệnh tình.

Sau đó tra các Lưu niên trong Đại hạn này, sẽ tìm ra Năm phát bệnh. Nguyên tắc luận đoán này, mới nghe thật đơn giản, nhưng nhiều Danh gia Đẩu số còn không biết. Bạn đọc có thể dựa vào nguyên tắc này để thực tập, kinh nghiệm ngày càng phong phú, ắt sẽ có thành tựu.

Nhóm 1: Bệnh hệ thần kinh

Các tổ hợp sao chủ yếu là Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng. Cũng có thể nói tổ hợp cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương"rất dễ bị bệnh liên quan đến hệ thần kinh, như suy nhược thần kinh, tâm thần, thiểu năng chí tuệ, .v.v...

Nhiều lúc bệnh mang tính suy nhược thần kinh có liên quan đến"Thiên đồng - Cự môn". Nếu"Tử Vi - Tham lang"thủ cung Tai Ách gặp sao Đao hoa quá nặng, thì lúc đến hạn"Cơ Nguyệt Đồng Lương"thủ cung Tai Ách, thường dễ mắc chứng bệnh này, biểu hiện là dương nuy, di tinh, xuất tinh sớm. Ở đây không cần xem Cự Môn.

Người bị bệnh tâm thần, chủ yếu xem Thiên cơ, đông y gọi là Can phong.

Nếu"Thiên cơ - Thái âm"đồng cung với Hỏa Đà, còn gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, là rối loạn Tâm thần kinh (hysteria), thường có biểu hiện kích động, cử chỉ thất thường. Nhưng cần phải hội Thiên Lương và có Thái Dương không có nhập miếu tương chiếu, mới ứng nghiệm.

Bệnh viêm não Nhật bản-B, cũng có liên quan với tinh hệ"Cơ Nguyệt Đồng Lương", năm phát bệnh là cung hạn Tai Ách Thiên Lương lạc hãm, hội chiếu Hỏa tinh, Linh tinh. Phỉ liêm, Âm sát. Nhóm tinh hệ này khác với nhóm tinh hệ chủ về bệnh Hysterianên cẩn thận phân biệt.

Tinh hệ chủ về viêm màng mão đại khái tương tự với tinh hệ chủ về chủ về viêm mang não Nhật bản - B, chỉ khác nhau một điều, là Thái Dương nhập miếu, nếu Thái dương lạc hãm, phần nhiều là viêm não Nhật Bản-B, thời gian ứng nghiệm thường là lúc hạn Tật Ách là Thất Sát hoặc Phá Quân. Thất sát thường chủ về chứng viêm, Phá quân chủ về chứng viêm cấp tính.

Chứng miệng méo, miệng chảy nước dãi (không phải do trúng phong), thì xem các tinh hệ chủ về bệnh chủ ở tạng Thận. Có lúc cung Tai Ách ở nguyên cục là Tham lang, niên hạn ứng nghiệm là lúc cung hạn Tật Ách"Thiên cơ - Thái Âm", cũng có lúc ngược lại, nguyên cục là"Thiên cơ Thái âm", thời kỳ ứng nghiệm là hạn Tham lang. Đây là một ví dụ. Hai chứng này đều gặp nhiều Tạp diệu như Thiên hư, Thiên sứ, Thiên diêu, thì phải lưu ý.

Trong số các bệnh hệ thần kinh, có bệnh"rỗng tủy sống"(syringomyelia), xem hệ"Thiên đồng - Cự môn"và hệ"Thất sát - Phá quân". Người bệnh thường cảm thấy chân tê, không có cảm giác, nếu nghiêm trọng các ngón tay ngón chân có thể bị co quắp, hoặc tê liệt phần mặt. Cổ nhân cho rằng Thất sát, Phá quân là sao chủ về tổn thương, tàn tật, nguyên nhân có liên quan đến chứng bệnh này.

Ngoài ra còn có bệnh múa tay múa chân (ST. Vitu's dance), người bệnh không thể kiểm soát hoạt động của chân tay, thường có một số động tác nhanh không tự chủ, có lúc thì mắt máy giật, nhíu may, lè lưỡi, bệnh tình tuy không đau, nhưng rất phiền phức. Tinh hệ chủ về chứng này là Tham lang đồng cung với Địa không, Địa kiếp, lại gặp thêm Kình dương, Thiên sứ, có lúc là Thiên đồng hóa Kị đồng cung với Hỏa linh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, cũng chủ về chứng này, nhưng cung Tai Ách của nguyên cục phải là Kình dương ở cung Ngọ, cũng là một nhân tố quan trọng chủ về chứng này.

Đau dây thần kinh tam thoa, tinh hệ chủ yếu là"Thái Dương - Thiên Lương", có Hỏa Linh hội chiếu hoặc đồng độ, lại gặp thêm Thiên thương, còn có Thiên tướng bị cách"Hình Kị giáp ấn"hội chiếu cung mệnh, đều chủ về chứng bệnh này.

Tinh hệ chủ về liệt thần kinh mặt, và tinh hệ chủ về đau dây thần kinh tam thoa rất khó phân biệt. Điều cần chú ý là, Kình dương phần nhiều chủ về tê liệt thần kinh mặt, tinh hệ ứng nghiệm phát bệnh phần nhiều là Thiên Cơ, còn đau dây thần kinh tam thoa thì không phải vậy.

Bệnh thiên đầu thống mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ"Thiên đồng - Thiên lương", tạp diệu hội hợp phần nhiều có Thiên nguyệt, Thiên hình. Có lúc là"Thiên cơ - Cự môn"đồng cung với Hỏa tinh cũng chủ về bệnh xuất huyết não, khác với bệnh thần kinh đơn thuần, phân biệt chủ yếu là tinh hệ"Thiên cơ - Cự môn"có biểu hiện choáng ngất.

Nếu tinh hệ"Thiên cơ - Cự môn"mà Thiên cơ hóa Kị, còn gặp thêm Thiên hư, thì càng ứng nghiệm.

Bàn tay chân run mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ"Thiên đồng - Cự môn", cũng có quan hệ với Đà la và Cô thần.

Bệnh tay chân run do trúng độc, thì xem tinh hệ"Thái dương - Thiên lương", có Thiên nguyệt cùng bay đến tì càng đúng. Do trúng độc cũng có thể gây ra chứng tắc ruột, thời kỳ ứng nghiệm phải xem cung hạn Cự Môn

Viêm da mang tính thần kinh là tinh hệ"Liêm trinh - Thiên tướng", thời kỳ ứng nghiệm ắt cung hạn phải gặp Thiên cơ, Thiên Đồng.

Nhóm 2: Bệnh hệ tiêu hóa

Cơ quan thuộc hệ tiêu hóa, bao gồm Trường (ruột), Vị (dại dày), Can (gan), Đảm (mật). Theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, có thể phân chia như sau:

Vị hàn, thòng dạ dày (sa bao tử), thì xem Thiên phủ thuộc loại"kho lộ","kho rỗng", hoặc Tử vi là cách"tại dã cô quân", nhưng không được có Hỏa tinh đồng độ mới đúng, có Hỏa tinh thì nhuyễn hóa thành chứng viêm.

Nếu tinh hệ"Tử vi - Thiên tướng"thủ cung Tai Ách, thì thường là Vị hàn, buồn nôn, hoặc tiêu chảy thuộc chứng Hàn, Thiên phủ đồng cung với Hữu bật, phần nhiều là sa bao tử.

Chứng vị hàn cũng có thể là chứng dạ dày dư acid, các sao ứng nghiệm là Thiên phủ gặp Thiên lương, Phá toái, Âm sát, gặp Liêm trinh hóa Kị thì bệnh rất nghiêm trọng, có thể phát triển thành chứng đay dạ dày, thần kinh dạ dày quá mẫn cảm.

Nếu là viêm dạ dày, thì xem Thiên cơ hoặc Cự môn. Thiên cơ thì chủ về bệnh mãn tính, thường còn chủ về đau Gan. Cự môn đồng cung với Hỏa linh thì chủ về viêm dạ dày cấp tính, hay viêm đại tràng cấp tính. Nếu tinh hệ"Thiên cơ - Cự môn"đồng độ, nguy cơ bị viêm dạ dày hay viêm đại tràng rất lớn. Có sao Lộc thì giảm nhẹ, không có sao Lộc mà còn hóa Kị thì càng nặng thêm. Nhưng nếu có Lộc thì thường chủ về bệnh Trường Vị bất hòa, mức độ nhẹ thì viêm dạ dày cấp tính. Bệnh viêm ruột thừa cấp tính thì xem Thiên lương gặp Kình dương, hay Thất sát gặp Kình dương, hoặc Phá quân gặp Kình dương. Trường hợp Phá quân gặp Kình dương cũng chủ về viêm ruột kết, viêm đại tràng cấp tính

"Thiên đồng - Thiên lương"đồng độ, cũng chủ về bệnh dạ dày, phần nhiều thuộc chứng hàn. Nếu có Thiên mã đồng độ, lại gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì phần nhiều là rối loạn tiêu hóa, hoặc tiến triển thành tiêu chảy.

Tử vi cũng chủ về tiêu chảy, nhưng khác tính chất. Tiêu chảy của Tử vi thông thường là hấp thụ không tốt, còn tiêu chảy của tinh hệ"Thiên đồng - Thiên lương"là không tiêu hóa được.

Xơ gan thì xem Thiên cơ, cũng xem Thất sát ở hai cung Dần và Thân, nhưng trường hợp sau phần nhiều là viêm gan siêu vi.

Hễ Thiên cơ đồng cung với Phỉ Liêm, gặp các sao Sát - Kị, còn lại gặp thêm các sao Hư, Hư hao, Hao, Thiên nguyệt, phần nhiều chủ về gan nhiễm ấu trùng (Clonorchiasis) dẫn đến sơ hóa.

Nếu sơ gan do ống mật tắc nghẽn gây ra, thì xem Thiên tướng, có Đà la đồng độ thì càng đúng.

Ống mật tắc nghẽn thường do sỏi mật gây ra, tinh hệ ứng nghiệm là"Liêm trinh - Thiên tướng"đối nhau với Phá quân có sát tinh đồng độ.

Giun chui ống mật (gây nên sỏi mật), ngoại trừ Thiên tướng, Đà la, còn phải xem Phỉ liêm. Hễ bệnh liên quan đến ấu trùng, giun, đều phải xem Phỉ Liêm và Thiên Nguyệt.

Có lúc Cự môn cũng chủ về bệnh túi mật, thì vẫn lấy cung hạn Thiên tướng làm thời kỳ ứng nghiệm, nhất là tinh hệ"Liêm trinh - Thiên tướng"thì càng đúng.

Bệnh ở hậu môn chủ yếu xem Thiên đồng, phối với tạp diệu thì xem Âm sát, Long đức, Phá toái.

Trúng độc đường tiêu hóa khác với trúng độc mang tính thần kinh. Trường hợp sau có thể ví dụ là sử dụng ma túy, trường hợp trước chỉ là ăn uống trúng độc. Cung Tật Ách gặp Thiên tướng bị cách"Hình Kị giáp ấn", Thiên phủ lại không gặp sao Lộc, hoặc gặp sao Lộc mà đồng thời gặp Kình Đà, thì đều phải chú ý vấn đề ẩm thực. Nếu lại gặp Liêm trinh hóa Kị, thì càng phải đề phòng độc tố thức ăn nhiễm vào máu.

Nhóm 3: Bệnh hệ tuần hoàn

Nhóm bệnh này chủ yếu là bệnh tim mạch, huyết áp, phần nhiều xem Thái dương, kế đến là Thiên tướng.

Nhưng bệnh hệ tuần hoàn có khi do bệnh hệ thần kinh gây ra, Đông y gọi là"Tâm Thận bất giao", hoặc suy nhược thần kinh, có thể dẫn đến tâm thần phân liệt, nhịp tim rối loạn, các chứng bệnh này lại không liên quan đến Thái dương hoặc Thiên tướng, bạn đọc có thể tham khảo ở mục đã thuật ở trước.

Thái dương ở cung vượng, lại gặp Quyền - Lộc, cũng có thể chủ về huyết áp cao, không nhất định phải gặp sát tinh mới đúng.

Thái dương hóa Kị, hoặc Thái dương có Tứ sát tinh giao hội, cũng là điềm tượng huyết áp cao. Nếu là tổ hợp"Thái dương - Cự môn"thì càng đúng.

Tổ hợp"Thái dương - Thiên lương"cũng chủ về trúng phong, bại liệt, vì Thiên lương có tính chất bệnh kinh niên. Tinh hệ này cũng thường gặp các sao Thiên Nguyệt, Thiên Hình hội hợp.

Thiên tướng chủ về Thận, cho nên lúc Thiên tướng bị cách"Hình Kị giáp ấn", hoặc có các sao hung sát trùng trùng giao hội, cũng chủ về huyết áp cao, cũng có thể là đau tim. Nếu cung Tật Ách của nguyên cục, có khuynh hướng chủ về bệnh hệ thần kinh, lúc đến niên hạn Thái Dương thủ cung Tai Ách, cũng dễ bị chứng huyết áp cao.

Còn chứng huyết áp thấp có liên quan đến hệ nội tiết, cũng xem tinh hệ"Thái dương - Thiên lương", nhưng thường có Địa không, Địa kiếp hội hợp. Một tinh hệ quan trọng khác là"Thái dương - Thái âm", hễ có chứng trạng âm dương bất hòa, thì cũng là rối loạn nội tiết.

Cự môn đồng độ với Đà la, hội Thái dương có sát tinh, có lúc chủ về đau thắt ngực (angina pectoris), xơ vữa động mạch; nhưng cũng có thể là bán thân bất toại, tức trúng phong (tai biến mạch máu não)

Tinh hệ"Thiên đồng - Thiên lương"cũng chủ về đau thắt ngực, nếu hội các sao Hình - Kị, thì chủ về tắc nghẽn cơ tim, tắc nghẽn mạch máu.

Bệnh hệ tuần hoàn cũng bao gồm các chứng thiếu máu, tăng bạch cầu, các chứng này thì xem Liêm Trinh, nếu Liêm trinh hóa Kị, có các sao ác sát tụ hội, thì chứng bệnh càng nghiêm trọng.

Nếu do trúng độc gây ra thiếu máu, thì vẫn xem Thiên Lương, hoặc xem tinh hệ"Thái dương - Thái âm".

Thiếu tiểu cầu da có thể bị bầm tím, chứng bệnh này lấy Thiên đồng hóa Kị làm điềm tượng. Có lúc Thái dương hóa Kị ở nguyên cục có Âm Sát đồng độ, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến cung tật ách Thiên đồng hóa Kị gặp các sao Sát - Hình; hoặc Thiên đồng của nguyên cục hóa Kị, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến cung hạn tật ách Liêm Trinh đồng cung với Âm Sát. Nhưng trường hợp sau có sự khác biệt tinh tế, y học gọi là da bị bầm tím có tính mẫn cảm, không có liên quan đến tình trạng thiếu tiểu cầu.

Nhóm 4: Bệnh hệ hô hấp

Nhóm bệnh này chủ yếu xem Vũ Khúc, kế đến là Thiên Đồng. Nếu Thất sát, Phá quân hội hợp với các sao Sát - Kị, nhất là Vũ khúc hóa Kị, thì bệnh tình nghiệm trọng, hoặc bị ác tính.

Nhưng cũng có một số bệnh chứng không có liên quan đến các tinh hệ chủ về bệnh đường hô hấp như đã thuật ở trên; như hen suyễn thường xem Thái âm, Thiên lương, nếu hen suyễn là tính bẩm sinh thì xem tinh hệ"Liêm trinh - Thất sát". Trường hợp trước là bệnh ở ống phế quản, trường hợp sau là bệnh dị ứng bẩm sinh.

Nếu là bệnh viêm ống phế quản cấp tính, thì lấy tinh hệ Vũ khúc gặp Hỏa tinh, Linh tinh làm ứng nghiệm, có Thiên mã cùng bay đến, thì bệnh tình càng nghiêm trọng. Bệnh viêm ống phế quản mãn tính cũng có thể xem Vũ khúc, nhưng nếu do ngoại vật xâm nhập lâu ngày mà gây ra bệnh, như người hút nghiện thuốc lá, hay công nhân làm việc ở nơi nhiều bụi, thì xem Thiên đồng, Cự môn có các sao Sát - Kị tụ tập, có thể phát triển thành bệnh tràn khí phổi (pulmonary emphysema)

Ho gà thì lấy Thiên Lương làm điềm tượng, nhất là tinh hệ"Thiên đồng - Thiên lương"gặp sát tinh, có Thiên mã, phần nhiều chủ về bệnh ho gà. Khác với tắc nghẽn cơ tim là tinh hệ"Thiên đồng - Thiên lương"gặp sát tinh, mà không có Thiên mã.

Lao phổi (phổi kết hạch) thì xem tinh hệ"Liêm trinh - Thất sát", hoặc tinh hệ"Vũ khúc - Thất sát". Nếu nguyên cục gặp tinh hệ này, đến đại hạn hoặc lưu niên, gặp cung hạn tật ách Thái âm hóa Kị hội Hỏa Linh là bệnh tình nghiêm trọng, thường phát triển đến giai đoạn cuối.

Bệnh tràn khí phổi cũng xem Vũ khúc, nếu Vũ khúc hóa Kị, bị Liêm trinh hóa Kị của cung hạn xung hội, lại gặp các sao Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát thì ứng nghiệm.

Một nhóm sao khác chủ về tràn khí phổi, là Phá quân đồng cung với Văn khúc hóa Kị. Còn Vũ khúc hóa Kị đồng cung với Văn khúc hóa Kị thì chủ về kéo đàm, hen suyễn.

Nếu bệnh ở cổ họng thông thường là viêm amidan, xem Cự môn hóa Kị thì càng đúng. Nếu là bệnh bạch hầu, thì xem tình hình Thái âm và Cự môn xung hội, nếu các sao Sát - Kị trùng trùng thì ứng nghiệm. Nếu là viêm họng thì lấy Địa không, Địa kiếp, Đại hao làm biểu trưng.

Nhóm 5: Bệnh hệ tiết niệu, cơ quan sinh dục

Nhóm bệnh này, thì xem Thiên đồng, Thiên tướng, Liêm trinh.

Khi bệnh tình phát triển đến giai đoạn cuối, nhất là những bệnh có tính viêm, thì xem Thiên lương, Thất sát, Phá quân.

Hễ viêm thận cấp tính hay mãn tính, phần nhiều đều lấy Liêm Trinh làm ứng nghiệm. Nếu Liêm trinh gặp Tham lang đồng độ, hoặc vây chiếu có sát tinh, hoặc Liêm trinh hóa Kị có sát tinh, đều chủ về viêm thận.

Nhưng nếu viêm thận do hệ sinh dục bị nhiễm trùng gây nên, thì không gặp Tham Lang cũng ứng nghiệm, ví dụ như tinh hệ"Liêm trinh - Thiên tướng"bị Kình Đà giáp cung, Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hay cách"Hình Kị giáp ấn"đều có thể mắc bệnh nhiễm trùng này.

Nếu bệnh viêm thận phát triển đến giai đoạn mặt bị thũng, hoặc thậm chí ngực hay bụng giữ nước, thì lấy niên hạn cung tật ách gặp tinh hệ"Thiên đồng - Thái âm"và các sao sát kị, làm thời kỳ ứng nghiệm.

Bệnh bàng quang làm khó tiểu tiện, thì xem Thiên tướng, trường hợp đồng cung với Đà la là đúng. Nếu là bệnh do tuyến tiền liệt gây ra tiểu tiện khó, thì lấy Tham lang, Liêm trinh làm ứng nghiệm, tinh hệ"Hỏa Tham", hay"Linh Tham"càng chủ về bệnh này.

Niệu đạo kết sỏi, hay sỏi bàng quang, thì xem tinh hệ"Liêm trinh - Thiên tướng", lấy trường hợp khi bị Kình dương và Đà la giáp cung, hay cách"Hình Kị giáp ấn"là đúng. Có lúc tinh hệ"Thiên đồng - Cự môn"hóa Lộc, bị Hỏa tinh và Linh linh giáp cung, cũng chủ về bệnh này. Tinh hệ"Thiên đồng - Cự môn"chủ về bệnh ở đường ống niệu, niệu đạo kết sỏi cũng có thể gây tiểu tiện khó.

Bệnh tiểu tiện khó trái ngược với bệnh đái tháo nhạt, là tiểu ra quá nhiều nước. Chứng đái tháo nhạt, Đông y cho rằng do thận hư, vì vậy xem Thái âm, Thiên đồng. Nhưng cũng do"thùy thể"sau não phân tiết thất thường mà gây ra, thì chọn xem Thái dương hóa Kị, hội Cự môn gia sát tinh làm ứng nghiệm.

Các bệnh về tính dục liên quan đến hệ tiết niệu, đều xem Tham lang, Liêm trinh, lấy trường hợp gặp các sao Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Kị làm ứng nghiệm. Thời kỳ ứng nghiệm, có khi kéo dài đến lúc gặp niên hạn Thiên Đồng thủ cung tật ách mới phát tác. Hoặc ngược lại, cung Tật Ách của nguyên cục gặp Thiên đồng, đến niên hạn"Tham lang - Liêm trinh"thủ cung tật ách mới phát tác. Hai nhóm tinh hệ cũng có sự phân biệt, trường hợp trước là do thể chất dễ nhiễm bệnh tính dục, trường hợp sau là do thể chất dễ nhiễm bệnh hệ tiết niệu.

Cho nên, các bệnh như thoát vị bẹn, sa đì, viêm tinh hoàn, lấy tinh hệ"Liêm trinh - Thiên tướng"làm điềm tượng. Nhóm tinh hệ này, dù có gặp sao Lộc, cũng không thể xem là tránh được nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Nếu nguyên cục là"Liêm trinh - Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc (có lúc còn hội Lộc tồn), thường ở Đại hạn Liêm trinh lại gặp Lưu lộc thì phát bệnh. Cho nên Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa không đại biểu cho việc tránh mắc bệnh, đây là một ví dụ.

Nhóm 6: Bệnh ở ngũ quan

Bệnh ở ngũ quan rất phức tạp, thông thường là do bệnh ở nội tạng phát bệnh mà dẫn đến. Đẩu Số nghiên cứu về bệnh tật, cổ nhân để lại tư liệu chứng nghiệm không nhiều. Vương Đình Chi tuy có nỗ lực nghiên cứu bổ xung, nhưng do thời gian và kiến thức y học đều có giới hạn, nên tư liệu chứng nghiệm về bệnh tật ở ngũ quan càng không được đầy đủ.

Đông y giải thích bệnh tật ở ngũ quan chỉ căn cứ lý luận âm dương ngũ hành và lý thuyết tạng phủ, thực ra không đủ để từ đó, luận đoán ra nhiều bệnh tật ở ngũ quan. Ví dụ như mắt bị cườm nước (glaucoma) rất khó tìm ra tinh hệ chính xác tuyệt đối. Vương Đình Chi kể, ông từng tình cờ gặp một trường hợp Thái dương lạc hãm hóa Kị mà mắt bị bệnh cườm nước (glaucoma), nhưng trước đó Ông cũng từng gặp một người bị mù mắt vì bệnh cườm nước, mà cung Tai Ách lại là Thiên Lương. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị xem Thái Dương, Thiên Lương, Cự Môn, là điềm tượng chủ các bệnh về mắt, để bạn đọc tham khảo.

Viêm giác mạc mắt là Thái Dương gặp sát tinh, hoặc Thái Dương đồng cung với Hỏa tinh. Chứng bệnh này lấy trường hợp Thái dương hóa Quyền hay hóa Lộc làm ứng nghiệm. Nếu gặp các sao Kình dương, Thiên hình, Thiên sứ, mà Thái dương hóa làm sao Kị, sẽ chủ về phẫu thuật ở bộ phận mắt, nhẹ thì viêm thần kinh thị giác.

Mắt mù do bệnh tiểu đường gây ra, thì xem tinh hệ"Liêm trinh - Thiên tướng". Nếu do nguyên nhân khác gây ra, vẫn xem Thái dương, hoặc tinh hệ"Thiên đồng - Thái âm".

"Thiên đồng - Thái âm"chủ về Thận, gây ra bệnh mắt là do tạng thận gây ra. Vì vậy, thận khí hư, thường sẽ bị chứng ruồi bay trước mắt, cũng lấy nhóm tinh hệ này làm ứng nghiệm

Bệnh tai, các nhà Đẩu Số cổ đại chỉ xem Thất Sát, nếu có Long Trì đồng độ, sẽ chủ về tai điếc.

Nếu do thận hư gây bệnh ở lỗ tai, tai ù, thì có thể dùng tinh hệ chủ về bệnh thận để luận đoán, như tinh hệ Thái Âm.

Nhưng nếu là bệnh viêm tai giữa, theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, thì tinh hệ"Vũ khúc - Thiên tướng"có Hỏa tinh hội hoặc vây chiếu, thường chủ về chứng bệnh này.

Viêm họng, lấy Cự Môn làm ứng nghiệm, và cũng xem Thiên đồng, Thái âm.

Khoang miệng thường bị lở, miệng lưỡi bị rát bỏng, thì lấy Cự môn hóa Kị làm điềm tượng.

Đau răng thì phải xem Phá Quân, Vũ Khúc, sâu răng thì xem Thiên tướng có bị sát tinh giáp cung hoặc hội chiếu hay không.

Chảy máu mũi thì xem Liêm Trinh, không cần hóa Kị, gặp sát tinh và Âm Sát, là chủ về bị chảy máu mũi.

Mũi dị ứng và viêm mũi, thì lấy tinh hệ"Liêm trinh - Thất sát", và tinh hệ"Liêm trinh - Phá quân"có kèm sát tinh làm điềm tượng.

Nhóm 7: Bệnh phụ khoa

Các sao về bệnh phụ khoa, cổ nhân tương truyền là Liêm Trinh và Tham Lang, các sao khác như Tử vi, tinh hệ"Thái âm - Thiên cơ", Thiên đồng, Thiên tướng, Phá quân, cũng chủ về đau bụng kinh, huyết trắng, nhưng ý nghĩa trùng lặp, phân biệt giới hạn không rõ, cho nên lúc luận đoán hơi chung chung.

Luận đoán đặc biệt như Thiên Lương đồng cung với Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bệnh ung thư vú, mức độ chính xác rất cao. Theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, nếu Tham Lang hóa Kị xung hội Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, đồng thời còn gặp Kình Đà xung chiếu, thì chủ về tử cung hoặc ống dẫn trứng có khối u, độ chính xác cũng cao. Nhưng đáng tiếc, những chứng nghiệm như vậy không nhiều, vẫn còn chờ nghiên cứu thêm. Hiện chỉ thuật một số nguyên tắc rất có giới hạn.

Bệnh phụ khoa thường gặp nhất là đau bụng kinh. Mếu không kèm bị viêm thì có thể là Thiên Tướng, có lúc là tinh hệ"Tử vi - Thiên tướng". Nếu có kèm bị viêm là Tham Lang. Nếu ở hai cung Tị hoặc Ngọ mà gặp sát tinh, thì chủ về lệch tử cung, nội mạc tử cung bị dị dạng bẩm sinh.

Nếu kinh nguyệt không điều hòa và ra nhiều máu, thì xem Thiên Đồng, hoặc tinh hệ"Thiên cơ - Thái âm". Trường hợp tính chất của Thiên Đồng là ôn hòa, thì không kèm bệnh biến, gọi là"xuất huyết có tính cơ năng". Nếu tinh hệ"Thiên cơ - Thái âm"có sát tinh, sẽ chủ về bệnh biến, nếu nghiêm trọng có thể là sa tử cung.

Bệnh sa tử cung cũng gặp ở trường hợp Thiên Tướng thủ cung tật ách, gặp các sao Đào Hoa và Thiên Hư, Địa không, Địa kiếp, phần nhiều là do sau khi sinh cơ thể hư nhược gây ra.

Nếu viêm nội mạc tử cung, viêm ống dẫn trứng, thì lấy Tử vi độc tọa ở hai cung Tý và Ngọ làm điềm tượng; nếu có Kình dương đồng độ, lại gặp Hàm Trì, Đại Hao, nhất là gặp Hỏa tinh, Linh tinh, thì càng chính xác.

Hai sao Liêm Trinh, Thiên Cơ chủ về bệnh kín của phụ nữ, phần nhiều là kinh nguyệt kho ít, hoặc huyết trắng (bạch đới), còn kèm bị viêm âm đạo.

Nhưng nếu đã gặp tinh hệ chủ về bị viêm, mà đến niên hạn có sao Thiên Tướng, Đà la, Âm sát, Thiên hình, Thiên nguyệt, Thiên đức thủ cung tật ách, thường thường có thể phát triển thành khối u, hoặc ung thư. Có lúc đến niên hạn Vũ khúc hóa Kị thì cung tật ách cũng chủ về ứng nghiệm.

Phá Quân thủ cung tật ách, thì bệnh tình rất là nghiêm trọng, nhất là hội hợp với Vũ khúc hóa thành sao Kị, lại gặp Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, tạp diệu lại gặp các sao hư, hao, hình, nguyệt, phần nhiều chủ về ung thư cổ tử cung, nhưng hiện tượng bề ngoài chỉ là ra huyết trắng.

Nếu là viêm âm đạo do nhiễm trùng, thì cần chú ý Phỉ Liêm

Viêm tuyến vú thì xem Thiên lương, cần chú ý xem có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hay không, có thì bệnh tình có thể phát triển thành ác tính.

Phụ nữ mang thai thì lấy trường hợp cung Mệnh, cung Phúc đức, hoặc cung Phu thê, gặp Hồng loan, Thiên hỷ làm nguyên tắc luận đoán. Nếu lưu niên gặp Lưu Xương, Lưu Khúc hội chiếu, cung Tử Tức của Lưu niên cát lợi, thì có thể mẹ tròn con vuông. Nhưng nếu cung Tử Nữ của nguyên cục gặp Thiên đồng, Thái âm, nhưng một sao hóa làm sao Kị, lại gặp sao Không, và các sao Hoa cái, Âm sát, Thiên sứ, Thiên hư, Đại hao, thì có thể không sinh đẻ. Lúc này cung Tật ách cũng có điềm tượng, có thể hiển thị bệnh biến về tính dục bẩm sinh, hoặc bệnh biến về tính dục hậu thiên. Hai tinh hệ Tham lang và"Thiên cơ - Thái âm"ở hai cung Tị hoặc Ngọ là điềm tượng dị dạng bẩm sinh. Có thể bổ cứu là Thiên Tướng, nhưng nếu Thiên tướng là cách"Hình Kị giáp ấn", gặp Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hay Kình dương và Đà la giáp cung, thì cũng có thể bị dị dạng bẩm sinh.

Bảy nhóm bệnh chứng thuật ở trên chưa được toàn diện, còn rất nhiều chứng bệnh thiếu chứng nghiệm, Vương Đình Chi kể, ông từng gặp một trường hợp, đoán là bị sa tử cung, không sinh nở được, nhưng rốt cuộc lại là chứng bệnh rất hiếm gặp, gọi là chứng"thạch nữ", bà ta kết hôn hơn 10 năm mà vẫn không thể gần gũi với chồng. Những căn bệnh hiếm gặp, cổ nhân không để lại nguyên tắc luận đoán, ứng nghiệm như thế nào phải do người đời nay tìm tòi nghiên cứu.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Cự môn - Lục Bân Triệu

Sao Cự môn trong thuyết Ngũ hành vừa thuộc âm thổ, vừa thuộc âm kim, đây là Thổ yên tĩnh chôn Kim, cho nên hóa khí là"ám tinh"(sao u ám). Ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, ở trong mệnh bàn chủ về lời qua tiếng lại, tranh chấp ra mặt hay ngấm ngầm đấu nhau.

Nếu sao Cự môn hóa Quyền thì làm thầy người ta, thanh danh vang xa. Có Thái dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, vừa phú vừa quý. Cự môn ở Tý hoặc Ngọ, gọi là cách"Thạch trung ẩn ngọc", lấy Cự môn hóa Quyền hoặc hóa Lộc làm thượng cách, lấy Lộc tồn đồng cung làm thứ cách, lấy không có Lộc làm cho tốt lên làm kế đó, chủ về phú quý song toàn, một đời chức vị cao lộc hậu. Nhưng không thể lên tới đỉnh tối cao, nếu lên tới đỉnh sẽ có hậu quả không tốt, hoặc bị mọi người chỉ trích, dẫn đến thân bại danh liệt.

Cự môn ở Dần hoặc Thân, đều chủ về danh lợi song thu, có thể thành đại phú, thanh danh lừng lẫy ở tha hương. Có điều lấy Dần làm Thượng cách, kế đến là tới Thân. Ở Dần lấy thân thể phát mập là hợp cách.

Cự môn ở Tị không lợi cho Phụ tinh (cha), hoặc tuổi còn nhỏ đã làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ tổn hại cha, hay còn nhỏ nhiều bệnh tật, chủ về vất vả tất bật, nên theo học một nghề chuyên môn. Nếu được Lộc tồn đồng độ, thì phúc dày lộc trọng, song tính tình mộc mạc giản dị mà cẩn thận, chủ về giầu có. Nếu có Hóa Quyền, Hóa Lộc thì khí phách cực lớn, giỏi sáng lập sự nghiệp, chủ về sang quý.

Cự môn ở Hợi, có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về đã phú lại quý, lừng danh ở tha hương, song tài năng quá lộ, chí cao mà khí ngạo, nên dễ bị người chỉ trích.

Cự môn ở Thìn, nếu hóa Quyền hoặc hóa Lộc chủ về phú cách, gặp thêm Lộc tồn chủ về đại phú. Nếu Cự môn và Văn xương cùng đến tọa tại Thìn, mà Cự môn Hóa Lộc, còn Văn Xương Hóa Kị, là cách rất đặc biệt, chủ về đại phú đại quý. Bởi vì sao Thiên đồng ở Tuất có thể hóa cái xấu của sao Kị thành hữu dụng.

Cự môn và Thiên cơ ở tại Mão, có Hóa Lộc hay Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, và có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, là chủ về cực quý.

Cự môn và Thiên cơ ở tại Dậu, tuy có cát tinh Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhưng vẫn chủ về quý mà không hiển, phú mà không bền.

Các cung vị trên đều lấy tiêu chuẩn tam phương tứ chính không gặp Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh là nhập cách.

Sao Cự môn đồng độ với sao Thiên đồng ở Sửu hoặc ở Mùi, chủ về hình khắc, khổ cực, nhiều thị phi, có gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền tuy tốt nhưng không được lâu dài. Cự môn ở Tuất Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc là cách đặc biệt (kỳ cách), bởi vì Thái dương ở cung Ngọ là mặt trời giữa trời hội chiếu Cự môn, thì khí u ám tan hết.

1. Cự môn ở cung Mệnh viên

Sao Cự môn đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh vàng, có Thái dương đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về sắc mặt hồng trắng hoặc hồng vàng. Khuôn mặt hình chữ nhật dài hoặc tròn dài. Nhập miếu hoặc có Thái dương ở Tị Ngọ thì chủ về béo mập, thân hình trung bình cao, nếu không sẽ chủ về thân hình trung bình, hoặc gầy nhỏ. Tính tình trung hậu, mặt mày thanh tú, có nghề chuyên môn, khéo ăn nói, hay hùng biện. Có lòng chính nghĩa, không có việc gì nhưng lại thường thể hiện bận rộn tất bật, học nhiều mà ít tinh, có theo học về pháp luật, cơ giới, y học, và tinh tướng tạp nghệ, hoặc làm thầy mọi người, lãnh đạo bang hội. Ưa nhất là Hóa Quyền, Hóa Lộc, và Lộc tồn, chủ về vừa quý vừa phú. Nếu Hóa Kị thì lời qua tiếng lại liên miên, tai họa tơi bời. Phàm làm việc gì cũng nhiều nghi ngờ mà ít quyết đoán, tiến thoái bất định. Có Đà la đồng cung thì trong mình có nốt ruồi lạ. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Kiếp sát, Thiên hình, Âm sát, mà không có Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền hóa giải, thì xảy ra tình hình xem nhẹ mạng sống, như tự tử, đâm đầu xuống sông, uống thuốc độc, hoặc gặp hỏa tai, bị điều ra tiền tuyến, bôn ba ngàn dặm, làm việc điên đảo, hoàn toàn không có chủ trương.

Nữ mệnh có sao Cự môn lâm mệnh cung, nhập miếu hoặc có Lộc tồn, Hóa Lộc, hoặc Hóa Quyền, thì chủ về vừa phú vừa quý, hơn nữa, thọ mệnh rất dài. Nếu lạc hãm, hoặc Hóa Kị thì mang tiếng người ghét, nhiều thị phi. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu thì chủ về hình khắc, thọ yểu, lấy kế thất, vợ lẻ là thích hợp, song vẫn nhiều tranh giành đấu đá.

Lưu niên đại hạn có sao Cự môn, đồng độ với Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn thì chủ về phát triển sự nghiệp, có thể sáng lập đại nghiệp, thành đại sự, mọi việc thấy hung mà thực ra là cát, danh lợi song thu. Nếu Hóa Kị, hoặc hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, thì chủ về tai họa kiện tụng lao ngục, hình khắc, hoặc gặp hỏa tai, binh lửa, trộm cướp, nhiều tai họa vô vọng.

2. Cự môn ở cung Huynh đệ

Sao Cự môn đến cung Huynh đệ, chủ về hình khắc bất hòa, lời qua tiếng lại cãi vã, hoặc có anh em khác mẹ. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên phúc hội chiếu, và có các sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn cùng đến, thì chủ về anh em sáng lập sự nghiệp thành tựu, ba người trở lên. Song phải có Thái dương đồng độ mới nhập cách. Đồng độ với Thiên cơ thì anh chị em đều có cơ tâm, phân ly đông tây. Đồng độ với Thiên đồng là có anh em kết nghĩa, song trước tốt sau xấu. Hội Không Kiếp Hình Hao, thì bị anh em cắt xén bớt. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Âm sát, Cô thần, Quả tú hội chiếu thì hình khắc, tranh chấp thị phi. Sao Hóa Kị cũng chủ về lời qua tiếng lại thị phi, tai nạn bệnh tật, phá hao.

3. Cự môn ở cung Thê (Phu)

Sao Cự môn đến cung Thê, thường có tình trạng lời qua tiếng lại, cãi vã, gây sự, nên lấy người lớn tuổi hơn mình. Nếu có Thái dương đồng độ, thì tính tình hào sảng, làm việc sáng suốt, dũng cảm gánh vác trách nhiệm. Có các cát diệu Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật hội chiếu thì giúp chồng dạy con, thông minh lanh lẹ. Đồng độ với Thiên cơ, gặp sao làm cho tốt lên, thì thông minh nhanh nhạy, xinh đẹp giỏi chăm lo gia đình. Đồng độ với sao Thiên đồng, tuy thông minh nhưng có hình khắc sinh ly. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Cô thần, Quả tú hội chiếu, thì chủ về khắc hại vợ, sinh ly, ở riêng, lời qua tiếng lại.

Nữ mệnh có sao Cự môn đến cung Phu, có các cát tinh Thái dương, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì chủ về lấy được người chồng đã phú mà còn quý, đa tài đa năng, sự nghiệp lớn lao, còn được người kính mến. Nếu có sao Hóa Kị thì lời qua tiếng lại thị phi, lúc nào cũng cho bản thân là đúng, nhiều tranh cãi vô ý nghĩa. Nếu hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, thì chủ về hình khắc phân ly, mệnh ba lần lấy chồng. Nên làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức kết hôn. Đây là tinh diệu nóng nảy, nhiều tranh chấp.

4. Cự môn ở cung Tử nữ

Sao Cự môn đến cung Tử nữ thì nên chậm có con. Nếu có Thái dương đồng độ, hội chiếu Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì chủ về có ba con trở lên, có thể phát, đã phú mà còn quý, thông minh đa tài, sự nghiệp hơn cha ông. Có Thiên cơ đồng độ thì nên làm con thừa tự của người khác hoặc ở riêng, nếu không sẽ hình khắc. Có Thiên đồng đồng độ, gặp sát diệu, nuôi con thừa tự. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì chủ về cô độc. Có Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, thì chủ về con cái nhiều bệnh tật, phá hao tiền bạc về sau còn hình khắc. Đây là tinh diệu cô độc, cho nên cần phải có Thái dương đến chiếu sáng mới trừ khí u ám. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì mới sinh được ánh sáng tốt lành.

5. Cự môn ở cung Tài bạch

Sao Cự môn đến cung Tài bạch, chủ về nhờ có lao tâm lao lực và dựa vào trí lực, khẩu tài mà được, có thể tay trắng lập nên sự nghiệp. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn đồng độ thì chủ về giầu có, song tối kị chí khí cao ngạo, tài năng bức người, nếu không, tất sẽ bị người chèn ép, gặp phải khó khăn cực lớn, vì bị mọi người xúm lại đánh đổ, hoặc bị con cái làm hao tổn, suy bại. Có Thái dương đồng độ, chủ về được người tin cậy, mở rộng cơ nghiệp đã thành, và có thể được người ở tha hương tôn sùng. Có Thiên cơ đồng độ, vào nhiều ra nhiều, nhiều biến động. Có sao Thiên đồng đồng độ, có thể dựa vào kỹ thuật, nghệ thuật hoặc tay trắng mà sáng lập sự nghiệp; hoặc làm các nghề như luật sư, thẩm phán, bác sỹ, thầy thuốc mà làm nên. Có Kình dương Đà la cùng đến, chủ về nhiều rắc rối tranh chấp, kiện tụng. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hoặc hội chiếu, sẽ có tổn hao vì họa binh đao, cướp bóc, hỏa tai,...

6. Cự môn ở cung Tật bệnh

Sao Cự môn đến cung Tật bệnh, chủ về các chứng âm tổn, thương tổn ngầm, bệnh phổi, mụn nhọt ngầm, ung thư bao tử. Có Thiên cơ đồng độ thì"Can Vị bất hòa", hoặc trường vị nhiều khí, tâm phiền uất kết. Có Thái dương đồng độ thì huyết áp cao, đau mắt, đầu choáng, nhức đầu, hư hỏa bốc lên. Có Đà la đồng độ thì bán thân bất toại. Có Thiên đồng đồng độ thì đau thần kinh tọa, đau lưng eo, cơ nhục ngày càng teo tóp, hoặc mụn nhọt. Có Lộc tồn, Hóa Lộc thì bệnh bao tử. Có Hóa Kị thì thường lở miệng.

7. Cự môn ở cung Thiên di

Sao Cự môn có Hóa quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhập miếu đến cung Thiên di, chủ về xuất ngoại đại phát, nhờ khẩu tài diễn thuyết hùng biện mà nổi tiếng tha phương. Trong chính giới là nhân tài của ngành tư pháp, yếu nhân trong công tác ngoại giao, trong thương giới là người phụ trách doanh nghiệp công ty. Sao Cự môn Hóa Kị thì xuất ngoại nhiều tranh chấp cãi vã, tiến thoái không quyết đoán, đa nghi bất định, đông bôn tây tẩu, vất vả lạ thường. Có Thái dương đồng độ thì xuất ngoại vẻ vang, có thu hoạch bất ngờ. Nhưng, Thái dương ở Tị Ngọ dễ bị tiểu nhân đố kị. Đồng độ với Thiên đồng, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, chủ về xuất ngoại tay trắng lập nghiệp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, thì xuất ngoại gặp tai nạn, thiếu duyên với người, nhiều thị phi. Lưu niên hóa sát thì có tai họa về lao tù, hình khắc tử thương.

8. Cự môn ở cung Giao hữu

Sao Cự môn Hóa Quyền đến cung Giao hữu, gặp cát diệu nhập miếu Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, chủ về bạn hữu tuy nhiều cãi vã tranh chấp, song có nhiều bạn đa mưu, lập nên sự nghiệp, hoặc có thuộc hạ tính tình thẳng thắn, siêng năng, giỏi làm, đa tài. Có Thái dương đồng độ chủ về"úy hữu", hoặc được bạn tốt, trượng nghĩa, nói điều phải. Đồng độ với sao Thiên đồng thì nhiều bạn bè khẩu thị tâm phi, ngôn hành bất nhất. Gặp sao Hóa Kị thì ít được bạn bè giúp đỡ, nhiều lời qua tiếng lại, nhiều tranh chấp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, thì chủ về bạn bè làm liên lụy, hoặc thủ hạ là người bất nghĩa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Âm sát đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về vì bạn bè mà phá hao, hoặc bị thủ hạ trộm cắp.

9. Cự môn ở cung Sự nghiệp

Sao Cự môn nhập miếu đến cung Sự nghiệp, chủ về sáng lập sự nghiệp, hoặc phát triển từ nghề nghiệp chuyên môn, như làm thầy thuốc, luật gia, nhà quân sự, cho đến phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực tướng học, hoặc lãnh đạo bang hội, lãnh đạo tôn giáo, dùng đầu óc hơn người và khẩu tài hùng biện mà thành công. Nhập miếu, có các cát tinh, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về làm yếu nhân trong giới quân sự, người nổi tiếng trong xã hội, nhân vật lớn trong giới thương nghiệp. Có Thái dương đồng độ, thì danh tiếng lớn hơn tiền tài. Có Thiên cơ đồng độ thì biến động đa đoan không thể làm một việc một nghề suốt đời được, khi văn khi võ, khi đông khi tây, ảo tưởng nhiều, dục vọng nặng. Đồng độ với sao Thiên đồng, thì có đầu mà không có đuôi, việc nhiều mà không thể kết thúc. Có sao Hóa Kị thì sự việc không yên định, nhiều tranh chấp, cãi vã thị phi, trong sự thành công có nhiều thất bại. Gặp các sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình, thì trong công việc bị nhiều kiện tụng, dính dáng đến pháp luật, đấu đá tranh chấp, nghề nghiệp không ổn định, tai họa tơi bời. Có khi được tiền tài bất ngờ, song bạo phát bạo tàn, được đó mất đó, hoặc bôn ba giang hồ, bị thất bại bất ngờ, hay bị đả kích một cách đặc biệt.

10. Cự môn ở cung Điền trạch

Cự môn nhập miếu, đến cung Điền trạch, có cát diệu, lại Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung, chủ về tự tạo sản nghiệp. Có Thái dương đồng độ, tuy có điền sản, song vì điền sản tranh chấp ra mặt, hay ngấm ngầm đấu tranh, có nhiều điều tiếng. Có sao Thiên cơ đồng độ, lúc lên lúc xuống, dễ thành dễ bại. Đồng độ cùng sao Thiên đồng, phần nhiều vì ruộng đất thấp và sông lạch mà gây ra tranh chấp, rắc rối. Cự môn Hóa Kị thì gia trạch không yên, vì lời qua tiếng lại thị phi mà rời xa nhau, hoặc trong gia trạch lắm chuyện thị phi. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, thì chủ về vì nhà cửa đất đai mà sinh ra tranh chấp rắc rối hay liên quan đến pháp luật, hoặc người trong nhà thường hay bị hình khắc tổn thương, tai họa. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên nguyệt, Âm sát hội chiếu, thì chủ về gia trạch gặp họa binh đao, hỏa tai, cướp trộm, hoặc chủ về bản thân phải phiêu bạt tứ hải.

11. Cự môn ở cung Phúc đức

Sao Cự môn đến cung Phúc đức, chủ về người lao tâm lao lực, hao tổn tinh thần. Hóa Kị thì tâm thần bất định, mất ngủ, làm việc không có định hướng, không thể làm suốt một mạch, nửa chừng thường muốn thay đổi, hoặc nửa chừng mất đi nhiệt tình. Có Thiên cơ đồng độ thì càng nặng lòng muốn thay đổi, làm việc hay thay đổi nửa chừng, hoặc muốn làm lại từ đầu, hoặc hối tiếc, nên tinh thần không được sảng khoái, chủ người mẫn cảm. Có Thái dương đồng độ, tuy tâm chí luôn bận rộn, song có thể hưởng thụ. Chỉ khi nào đồng độ với phúc tinh Thiên đồng mà không có sát diệu, thì mới được vui vẻ, yên ổn. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì chủ về tự tìm phiền não, ngực tức khí kết, nhiều lo nghĩ ưu phiền, nói nhiều hay gây rắc rối, không được hưởng phúc.

12. Cự môn ở cung Phụ mẫu

Sao Cự môn đến cung Phụ mẫu, tất nên làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ khắc hại hình thương. Có Thiên cơ đồng độ, tất nên làm con thừa tự của người khác, hoặc bái thêm người khác làm cha mẹ, nếu không sẽ hình khắc phân ly. Có Thái dương đồng độ thì giữa cha con có sự tranh chấp, nhiều cãi vã. Đồng độ cùng Thiên đồng, không lợi cho cha mẹ, gia sản của tổ tiên dần dần lụn bại, hoặc bị kẻ khác chiếm đoạt. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng cung, thì không hình khắc, hoặc chủ về cha mẹ giầu có, được thừa hưởng di sản. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình thương khắc hại, cha mẹ không thể đầy đủ.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên tướng - Lục Bân Triệu

Sao Thiên tướng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy, ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làmấn tinh(sao ấn). Bản thân ấncó thể thiện mà cũng có thể ác. Thiện hay Ác là do người cầm ấnđi theo về bên nào. Ví như cái ấn trên pháp đường, có thể khiến cho người ta thăng quan phát tài, cốt nhục đoàn tụ, mà cũng có thể khiến cho người ta phải chịu hình phạt, gia phá nhà tan. Thiện ác khác nhau là do người cầm ấn dùng nó mà phân biệt.

Nói về sao Thiên tướng, ý nghĩa của sao Thiên tướng đúng là ý tứ"tương trợ", là địa vị tể tướng hoặc quân sư. Nghĩa vụ duy nhất của một vị tể tướng hoặc quân sư, là trung thành với chủ nhân, vì chủ nhân của mình mà tham mưu, lấy sự lợi hại của chủ nhân để tính toán mưu sự. Cho nên, chủ nhân thiện thì giúp cho chủ nhân làm thiện, chủ nhân ác thì giúp cho chủ nhân làm ác.

Do đó, tác phong của sao Thiên tướng là gặp tốt đẹp thì càng thêm tốt đẹp, gặp hung ác thì càng hung ác. Nó ở trong mệnh bàn 12 cung, chúng ta sẽ vô phương chỉ định nó, rốt cuộc, là sao cát tường hay là sao ác sát hay là sao hung. Nó là thiện hay là ác, đó là tùy theo các tinh diệu khác mà nó gặp, hoặc vây chiếu, và hoàn cảnh toàn thể mà thay đổi.

Cho nên, sao Thiên tướng đến Mệnh cung hay Thân cung, tả hữu có sao Hóa Lộc và sao Thiên lương giáp cung phù trì, sẽ là cách"Tài ấm giáp ấn", chủ về phú quý vinh hoa, hưởng thụ vui vẻ. Sao Thiên tướng hãm ở mệnh cung hoặc Thân cung, có sao Hóa Kị và sao Kình dương giáp cung, gọi là cách"Hình kị giáp ấn", chủ về người gặp phải tai họa lao ngục, kèm có sự tình"hình khắc thương tổn"phát sinh.

1. Thiên tướng ở cung Mệnh viên

Sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh trắng hoặc hơi kèm sắc vàng. Khuôn mặt hình vuông hoặc kèm hơi tròn. Dáng vóc người trung bình, cũng có người béo mập.

Tính tình khoan hậu, thái độ rộng rãi, động tác ổn trọng, có lòng chính nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình có thể rút đao tương trợ. Sùng thượng tín ngưỡng tôn giáo, thích tu hành, tình cảm dễ xung động. Đối với bất cứ ai gặp cảnh ngộ khó khăn, hay không lành, đều sinh lòng cảm thông.Thiên tướng rất ưa các cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, Thiên quý, Ân quang, Thiên đức, Giải thần, Thiên vu hội chiếu. Nếu lại gặp tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, và Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về có địa vị cực phẩm, làm tướng lĩnh, cột trụ quốc gia, lãnh đạo trong xã hội, vừa phú vừa quý. Nếu sao Thiên tướng đồng độ với sao Tử vi và Lộc tồn, thì chủ về người có thiên kiến, hoặc có chủ kiến cực mạnh, thích tranh quyền, đồng thời cũng dễ bị tiểu nhân khuynh đảo. Có các sao Vũ khúc, Liêm trinh và Tham lang, Thiên tài, Phượng các hội chiếu, chủ về người thông minh hiếu học, nhiều tài nghệ. Nếu lại có Kình dương, Đà la hội chiếu, ở hãm địa, thì chủ về người lấy kỹ thuật, hay nghệ thuật làm sinh kế. Có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc và Lộc tồn thì lấy kỹ năng chuyên môn hay nghệ thuật để khởi nghiệp. Nếu có các sát tinh ác diệu Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về hình khắc hoặc bản thân tàn tật. Nếu có các tinh diệu Vũ khúc, Phá quân, Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Đà la, Thiên mã, Hóa Lộc vậy chiếu, chủ về người lúc thành lúc bại, chợt lên chợt xuống. Thành công thì tăng thêm nhà cửa ruộng đất, hiếm có trên đời. Thất bại thì tai họa lao ngục, tiểu nhân bao quanh, hình thương khắc hại. Đây là cách"trong cát có hung","trong hung có cát", chợt tốt chợt xấu thay đổi bất thường.

Người nữ có sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người thông minh, thận trọng, có chí khí trượng phu. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên mã hội chiếu, là mệnh phu nhân, vượng phu ích tử, phú quý song toàn. Nếu có Văn xương, Văn khúc, Hóa Kị, Kình dương hội chiếu, chủ về cô độc, nên xuất gia tu hành, hoặc làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức hôn lễ, nếu không sẽ hình khắc phân ly.

Sao Thiên tướng đến lưu niên, đại hạn, tam phương tứ chính có các Cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, và Lộc tồn, Thiên phủ hội chiếu, chủ về tài lộc dồi dào, quyền cao chức trọng, kết hôn sinh con trai, danh lợi đều có. Nếu có sao Phá quân, Vũ khúc, hoặc Thất sát, Kình dương, Đà la hội chiếu, chủ về"lời qua tiếng lại cãi vã", kiện tụng, tiểu nhân ám hại, khuynh gia phá sản, nếu gặp thêm các Sát tinh Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hư hội chiếu, chủ về hình khắc trùng trùng, hơn nữa bản thân có lúc còn cảm nhận thấy trống rỗng, có ý đồ tự sát. Không có tinh diệu Cát tường hóa giải sẽ chủ về tai họa tử vong.

2. Thiên tướng ở cung Huynh đệ

Sao Thiên tướng đến cung Huynh đệ, thùa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về có năm anh chị em trở lên. Có sao Tử vi đồng độ chủ về có ba anh chị em trở lên, anh em ưa tỏ ra cao cường. Có Vũ khúc hoặc Liêm trinh đồng độ, chủ về có hai anh chị em, chủ về ý kiến không hợp nhau. Có Vũ khúc, Phá quân vây chiếu, thêm Tả phụ, Hữu bật, thì anh em tuy nhiều, song có hình khắc thương tổn, hoặc anh chị em khác mẹ, và có em nhỏ cách xa nhau nhiều tuổi. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, lục thân không nhờ cậy được. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, cũng chủ về cô độc. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn đồng độ, chủ về anh em phát đạt, có địa vị, có tiền tài.

3. Thiên tướng ở cung Thê (Phu)

Sao Thiên tướng đến cung Thê, chủ về được vợ thông minh hiền thục, giỏi chăm lo gia đình, dụng mạo mĩ lệ. Nên lấy vợ lớn tuổi, hoặc thân càng thêm thân. Có Tử vi cùng đến, chủ về vợ có chí cao, có kế hoạch, nên chậm lấy vợ. Có Vũ khúc đồng độ, chủ về có tai nạn thương tổn, hoặc khẩu qua lời lại, ý kiến bất hợp. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về hình khắc phân ly, hoặc trước khi kết hôn đã từng giải trừ hôn ước với người khác, hoặc gặp trở ngại rất nhiều trước khi kết hôn, dây dưa kéo dài mới khỏi hình khắc, nếu không sẽ chủ về hai ba vợ. Có Liêm trinh đồng độ, không hình khắc, thêm Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, là có kết quả hôn nhân mĩ mãn, hoặc nhờ vợ mà được tiền tài. Có Hóa Quyền, Hóa Khoa, Văn xương, Văn khúc, Thiên tài hội chiếu, chủ về"lời qua tiếng lại", bất hòa, hoặc nhiều bệnh nhiều lo. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về hình khắc phân ly cô độc.

4. Thiên tướng ở cung Tử nữ

Sao Thiên tướng đến cung Tử nữ, được tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, và sao Thiên phủ hội chiếu, chủ về có năm con trở lên. Có Tử vi đồng độ, chủ về con chí cao và tính khí quật cường, ba con trở lên. Có Liêm trinh đồng độ thì hai con. Có Vũ khúc đồng độ cũng hai con. Khi Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về hình khắc, nên chậm có con thì tốt hơn. Con trưởng hoặc thai đầu bị sinh non, hỏng thai hoặc tổn thương, nên có con gái trước con trai sau, hoặc cho làm con thừa tự của gia đình khác trước, nếu không đều là vợ kế, vợ lẻ sinh con. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, nếu đồng thời có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về hai ba thai trước có tổn thương, nên để vợ kế, vợ lẻ sinh con, nhưng thai đầu tiên của vợ kế, vợ lẻ vẫn xảy ra tình trạng bị tổn thương hoặc sinh non.

5. Thiên tướng ở cung Tài bạch

Sao Thiên tướng đến cung Tài bạch, thừa vượng hoặc nhập miếu, gặp sao Thiên phủ, có Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội chiếu, chủ về nguồn tiền tài dư dật, giữ gìn được. Đồng độ với sao Liêm trinh, theo thương nghiệp thì đúng với sở trường, tất nhiên có thể phát. Có Tử vi đồng độ, chủ về có tiền của bất ngờ, nhờ vậy mà đột nhiên giầu có. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về nhờ kỹ năng chuyên môn, hoặc nghệ thuật mà được tài lợi. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về tiền tài lúc được lúc mất, lúc thành lúc bại, hoặc phá gia bại sản của tổ tiên trước rồi sau mới có thành tựu. Gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về tài đến tài đi, hoặc giờ Dần ăn giờ Mão đong, ít có dành dụm. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về vì tiền tài mà gây tranh chấp, khuynh gia phá sản, hoặc dẫn đến tai họa lao ngục. Không có cát hóa chủ về nguy hiểm đến sinh mạng.

6. Thiên tướng ở cung Tật bệnh

Sao Thiên tướng đến cung Tật bệnh, có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về phá tướng hoặc trên mặt có sẹo. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về tức ngực khí trướng, da bị nhọt do thấp khí. Đồng độ với Liêm trinh, chủ về bị bệnh tiểu đường, bàng quang, hoặc sỏi thận. Nếu lại có Hồng loan, Hàm trì hội chiếu, chủ về bị bệnh giang mai, hoặc thủ dâm, di tinh. Cùng gặp các sao Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, chủ về thân thể hư nhược suy tổn, con cái bị bệnh về kinh Tỳ. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, chủ về các chứng phong thấp, đau xương, hoặc phải động tới phẫu thuật, và chủ về tim loạn nhịp hoặc Tâm tạng suy ngược, chân tay vô lực cử động bất tiện. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên nguyệt hội chiếu, chủ về cảm mạo nôn mửa, hoặc chứng thấp nhọt ngoài da.

7. Thiên tướng ở cung Thiên di

Sao Thiên tướng đến cung Thiên di, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và các sao Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về có quý nhân dìu dắt, có cơ hội đặc biệt, được nhiều người ủng hộ, địa vị đã cao mà còn có thể đại phát, chủ về được người ngoại quốc xem trọng. Đồng độ cung sao Tử vi, chủ về địa vị cao, được người kinh trọng ngưỡng mộ. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về bên ngoài được tiền tài bất ngờ, hoặc danh lợi đều có. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về tính tình cương nghị, ra ngoài có thành có bại, thiếu duyên với người. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Kiếp sát hội chiếu, chủ về ra ngoài bị phá hao, một đời nhiều sóng gió, trắc trở. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về ra ngoài cô độc, ít được người giúp, hoặc dễ gặp tai họa, hay bị tiểu nhân hãm hại.

8. Thiên tướng ở cung Giao hữu

Sao Thiên tướng đến cung Giao hữu, hội chiếu tam cát hóa Khoa Quyền Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, chủ về giao du rộng, hơn nữa còn có nhiều trợ lực, hoặc nhờ có bạn bè mà nên nhà nên cửa, và được thủ hạ trung thành. Đồng độ với Tử vi, chủ về được loại bạn đáng nể hoặc có lòng chính nghĩa. Đồng độ với Vũ khúc, chủ về quan hệ với loại người bất nghĩa mà nhiều tranh giành. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về chơi bời quan hệ với nhóm người làm ơn mắc oán, hoặc vì bạn bè mà phá tài. Có Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về bạn bè"có cũng như không", nhiều phá hao, hoặc bị chịu lỗi, bị mang tiếng, bị vạ lây thay cho bạn. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên hình hội chiếu, chủ về giao du phần nhiều toàn ăn hại, nhiều tranh giành bất hòa, hoặc bị thủ hạ trộm cắp hoặc hãm hại.

9. Thiên tướng ở cung Sự nghiệp

Sao Thiên tướng đến cung Sự nghiệp, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Quyền, Lộc, Khoa, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, chủ về là người nhân vật quan trọng của quốc gia, người nổi tiếng trong xã hội, thương gia cự phách trong giới kinh doanh, đã phú còn quý, vừa văn vừa võ. Tam phương tứ chính mà không có Sát diệu, thì đều là người mưu tính phát triển ở trên vũ đài chính trị. Đồng độ với sao Tử vi, chủ về người tiến thân trong chính giới. Đồng độ cùng sao Vũ khúc, chủ về lập công ở biên cương. Đồng độ cùng sao Liêm trinh, chủ về người tham dự việc binh, rong ruổi trên chiến trường. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về có thành có bại, lúc được lúc mất. Có Không Kiếp hội chiếu, thì nên khởi nghiệp từ kỹ năng nghệ thuật, hoặc sáng lập công xưởng sản xuất, nếu không sẽ chủ về thất bại phá hao, đầu cơ thì khuynh gia bại sản. Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về sự nghiệp nhiều tranh chấp rắc rối, nhiều thay đổi, trong thuận lợi sẽ gặp nhiều nghịch cảnh, hơn nữa còn chủ về quan tai thị phi. Trong chính giới, hay giới quân sự, có thể đột nhiên bị bãi chức, cách chức, ở trong thương giới đột nhiên bị tình huống phá sản, hay bị kiện tụng điên đảo.

10. Thiên tướng ở cung Điền trạch

Sao Thiên tướng đến cung Điền trạch, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc hội chiếu, hoặc có Lộc tồn đồng độ, chủ về sản nghiệp to lớn. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về trung niên tăng thêm ruộng đất, nhà cửa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về gia tài bị phá hao. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về gia sản của Tổ tiên dần dần bị lụn bại. Có sao Hóa Kị chủ về gia trạch không yên ổn, nhiều bệnh tật, nhiều tai họa, nhiều"lờiqua tiếng lại". Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về gia nghiệp phá tán (gia rồi đến nghiệp, nên nói gia nghiệp), hoặc vì sản nghiệp gây ra tai họa, tranh chấp, thị phi, kiện tụng.

11. Thiên tướng ở cung Phúc đức

Sao Thiên tướng đến cung Phúc đức, luôn có sao Thiên phủ hội chiếu, và gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật ở tam phương tứ chính, chủ về hưởng thụ hạnh phúc, phú quý trường thọ. Gặp sao Hóa Kị chủ về nhiều tư lự, tinh thần bất an. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về bôn ba, tinh thần mệt mỏi. Có Không Kiếp đồng độ, chủ về nhiều ảo tưởng mà ít thực hiện, phúc bạc. Có tứ Sát hội chiếu thì vô phúc, không ổn định, nhiều việc không thể đạt tới mục đích, nhiều rắc rối.

12. Thiên tướng ở cung Phụ mẫu

Sao Thiên tướng đến cung Phụ mẫu, thừa vượng hoặc nhập miếu, chủ về không có hình khắc. Có Vũ khúc đồng độ chủ về có hình khắc. Có sao Hóa Kị thì nhiều bệnh tật, nhiều tai họa. Có Liêm trinh đồng độ cũng chủ về có hình khắc. Đồng độ với tứ Sát hoặc tứ Sát hội chiếu, chủ về thủa nhỏ bị hình khắc. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Giải thần, Thiên đức, Thiên vu thì không có hình khắc.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Thiên lương - Lục Bân Triệu

Sao Thiên lương ở trong ngũ hành thuộc dương thổ, ở trên trời, là sao thứ hai thuộc hệ thống sao Nam Đẩu, chủ về thọ, hóa làm ấm tinh (sao che trở). Sao Thiên lương bất luận ở Thân cung hay Mệnh cung, hoặc đến đại hạn hay lưu niên Thái tuế, đều chủ về có phong thái danh sỹ, tính tình tùy tiện, uể oải, lần nữa. Tuổi trẻ mà nó đến cung, gặp tai họa có thể giải hóa. Tuổi già được nó chiếu hay tọa, dù có nạn tai, bệnh tật nguy hiểm, cũng chủ về trường thọ.

Sao Thiên lương ở cung Mệnh hoặc cung Thân, đều chủ về"gặp hung hóa cát", gặp nạn mà không bị sao, do đó một đời thường gặp nhiều tai nạn hiểm nguy, hoặc tao ngộ phi thường. Sao Thiên Lương mà không gặp hung, thì sẽ không thấy đủ"sức mạnh cát hóa"(làm cho tốt lên) của nó, không gặp nạn thì sẽ không thấy đủ"công đức hóa lành"của nó. Cho nên, tinh diệu này mà lâm đến, tuy có thể hóa giải tai họa, hóa giải hung hiểm, chủ về trường thọ, sống lâu, nhưng cũng sẽ gặp nhiều tai, nhiều nạn, nhiều thị phi, nhiều bệnh tật, trường hợp sao Thiên lương đến cung Tị là ứng hợp nhiều nhất.

Người có Thiên lương ở cung Mệnh, cung Thân, hoặc cung Phúc đức, đều có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo, theo Phật giáo là"cócăn tu","có thiện căn". Đồng độ với sao Thiên cơ phần nhiều đều là tăng đạo xuất thế, hoặc là người thấu hiểu cõi hồng trần. Đồng độ với sao Thái dương, hội chiếu các tinh diệu Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Phượng Các ở tại Mão, chủ về có kỹ năng chuyên môn, hoặc kỹ thuật xuất chúng. Bất kể về phương diện kỹ năng hay phương diện học vấn, đều có thể hơn người, hoặc lên tới đỉnh cao. Ở Dậu, tuy học có thành tựu, nhưng thanh danh vẫn kém xa ở Mão.

Sao Thiên lương ở Ngọ hay Mùi, đều chủ về tính tình dứt khoát, thẳng thắn, ưa thích chỉ ra sai lầm của người khác, tài năng quá lộ. Nếu tam phương tứ chính có tinh diệu cát tường hội chiếu, chủ về làm quan thanh liêm, làm ăn kinh doanh thành thực, xử sự ngay thẳng, tuy hay phê bình người khác, nhưng người khác cũng có thể chấp nhận được.

Nếu sao Thiên lương ở Ngọ hay Mùi, mà có sát tinh hội chiếu, hoặc đồng độ với Lộc tồn ở Ngọ, thì không nên phê bình người khác, nếu không dễ bị người khác oán kị, thiếu duyên với người, tiểu nhân bất mãn. Bởi vì, Thiên lương là ngự sử chính trực ở thanh cung, cho nên có thể khuyên can hoàng đế. Nếu có Tài tinh cùng đến, thì bản thân tài đã nhiều, nên không còn thanh cao (bởi vì người thanh cao phần nhiều là bần cùng), chỉ trích người khác, tất không thể làm người ta kính phục được. Không kính phục sẽ sinh oán hận, có oán hận sẽ có tiểu nhân"thị phi"vậy.

Sao Thiên lương ở Tý, cũng là thông minh thái quá, tài năng quá lộ, từ nhỏ đã không coi ai ra gì, kết quả là làm ơn mắc oán.

Hai sao Thiên lương và Thiên đồng ở Dần hoặc thân, có Lộc tồn hay Hóa Lộc đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về người thông minh mưu chí, lanh lợi, nhiều sự nghiệp, một đời thường kiêm phụ trách nhiều chức vụ. Không có Lộc tồn hoặc Hóa lộc, thì sự nghiệp nhiều biến động, hoặc có tính lưu động, lấy trường hợp ở Dần là nhiều nhất, ở Thân là kế đến. Ở Dần hoặc Thân, gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, đều chủ về làm việc trong cơ cấu chính phủ, phát triển sự nghiệp mang tính đại chúng.

Người tự sáng lập sự nghiệp, cũng thích hợp lập công ty, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân của mình. Sao Thiên lương ở Ngọ, có sao Văn khúc và Thiên tài đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tứ chính gặp các Cát tinh Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, hoặc các phụ tinh Tả phụ, Hữu bật, chủ về người được chính chính giới thừa nhận, là nhân vật có công triển khai và thực thi pháp luật vào cuộc sống, hoặc có những đóng góp trọng yếu trong ngành lập pháp. Trong thương giới cũng chủ là người có chức năng và trách nhiệm giám sát thực thi pháp luật của các công ty, hoặc giữ chức vụ quan trong của công ty. Lấy trường hợp Văn khúc đồng độ làm thượng cách, lấy trường hợp Văn khúc vây chiếu làm thứ cách.

1. Thiên lương ở cung Mệnh viên

Sao Thiên lương đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt vàng trắng, khuôn mặt hình chữ nhật, mũi thẳng, lưỡng quyền cao, thân thể mập ốm bất nhất, nhưng phần nhiều hơi mập. Ở Ngọ thân hình phần nhiều lùn mập, còn ở Tị phần nhiều gầy cao, hoặc hơi mập.

Thái độ vững vàng ổn trọng, tính tình ngay thẳng. Cuộc đời tuy có tai họa, nhưng chủ về sống thọ. Thấy hung hiểm có thể tự hóa giải, gặp tai họa có thể qua khỏi. Thích được Thái dương hội chiếu hay đồng độ. Nếu có thêm Văn xương, Văn khúc cùng đến, thì thông minh xuất chúng, nhưng hay kiêu ngạo hiếu thắng.

Sao Thiên lương ở Ngọ mà gặp cát diệu, vừa chủ về phú vừa chủ về quý, nhưng tính ưa nói thẳng, không sợ tiểu nhân, nên thường thị tiểu nhân đố kị.

Có Thiên cơ đồng độ thì bác cổ thông kim, hiếu học, giỏi nói năng và hiểu biết binh cơ.

Sao Thiên lương ở Thân, ở Tị, ở Hợi, phần nhiều chủ về phiêu lãng, gặp tinh diệu cát tường, chủ về viễn du các nơi, hoặc xa vượt trùng dương. Nếu gặp sao Thiên mã, Hàm trì, Thiên diêu, Hồng loan, Thiên hỷ, mà không có Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về phong lưu hiếu sắc, đa tình đa dâm, thích rong chơi, thích sống nhàn hạ.

Sao Thiên lương có Kình dương, Đà la hội chiếu, phần nhiều gặp tai nạn hung hiểm, có mối lo về tính mạng, có nạn tai về ngục tù, hoặc có bệnh nguy nan.

Sao Thiên lương đồng độ cùng với Hỏa tinh hoặc Linh tinh, chủ về nhiều lo sợ viển vông không đâu, dễ nảy sinh ý niệm xem nhẹ mạng sống mà tự sát, hoặc bị hỏa tai làm tổn thương.

Sao Thiên lương có Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ, chủ về thích rong chơi, không tích lũy mà hay phá tán.

Người có Thiên lương lập mệnh ở Tị, thường hay phụ trách sứ mạng hoặc chức vụ đặc biệt, hoặc một mình kiêm luôn mấy chức vụ, có công khai, có bí mật. Nếu gặp các sao Kình dương, Thiên hình, Đà la, thì vào năm Dậu hoặc năm Sửu sẽ gặp sát tinh, tất nhiên xảy ra tai họa đột ngột, nếu Sát mà nặng thì vô cùng nguy hiểm, chín phần chết chỉ một phần sống, nhưng rốt cuộc vẫn hóa nạn tai thành cát tường. Nếu sát tinh ở cung độ khác, thì lúc đại hạn, lúc thái tuế, lưu nguyệt đến, sẽ xảy ra tai họa, nhưng thế của tai họa khá nhẹ, hơn nữa, còn có chức vụ trong chính giới và giới kinh doanh, hoặc phần nhiều hay phát sinh quan hệ với người trong chính giới và giới quân đội.

Sao Thiên lương có Văn xương, Văn khúc, Phượng các hội chiếu, cũng chủ về văn sỹ trong giới văn hóa, hoặc làm công việc kinh doanh về văn hóa, báo chí.

Sao Thiên lương đến cung mệnh của nữ giới, thừa vượng nhập miếu, gặp tài tinh cát, chủ về phú quý song toàn, đa tài đa nghệ. Có Thái dương đồng độ ở Mão, gặp Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Phượng các, chủ về có sở trường đặc biệt, thông minh, giỏi ăn nói. Có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, thì giúp chồng dạy con, tâm từ ái, thích bố thí, mà thẳng thắn. Nếu Thiên lương rơi vào thế lạc hãm, có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về người nữ cô độc. Còn gặp thêm Hàm trì, Thiên diêu, Hồng loan, Thiên hỷ, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về trôi nổi đó đây, không ở yên trong nhà, hoặc phiêu bạt không nơi nương tựa. Nếu gặp Văn xương, Văn khúc, chủ về dùng tài nghệ mưu sinh. Nếu cung Thiên di ở Mão có Kình dương, chủ về Phu tinh không rõ ràng.

Đại hạn, lưu niên có sao Thiên lương đến, gặp tinh diệu cát tường, chủ về phúc dày lộc trọng, gia quan tiến tước, sự nghiệp phát triển, hỷ khí đầy nhà, chủ về trường thọ. Nếu có Lộc tồn đồng độ, thì phải đề phòng tiểu nhân bất mãn chủ ý hãm hại, sự nghiệp vì thế mà bị khuynh đảo. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, tai nạn, tật bệnh, tù ngục, thương tổn. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, hoặc có sao Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, chủ về tử vong, khuynh gia bại sản, hoặc xảy ra các tình huống âm mưu hãm hại.

Phàm, sao Thiên lương đến cung Mệnh, cung Thân, hoặc cung Thiên di, hoặc đến đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, thì nên lui nhường ba bước, không nên kiêu ngạo, và phải đề phòng tiểu nhân hãm hại, thì mới có thể thành đại sự lập nên đại nghiệp.

2. Thiên lương ở cung Huynh đệ

Sao Thiên lương đến cung Huynh đệ, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về anh em có hòa khí. Không có Tử phụ, Hữu bật, chủ về có anh em khác mẹ, anh em cùng mẹ có hai đến ba người, anh em thường ngầm tranh giành, khuynh đảo hoặc phân ly. Đồng độ với Thái dương ở Mão Dậu, chủ về anh em tranh đoạt gia sản, di sản, hoặc xảy ra chuyện hiểu lầm đố kị nhau. Có Thiên cơ đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về có hai người. Có Thái âm, Hồng loan, Thiên hỷ hội chiếu, nhiều chị em. Đồng độ với Thiên đồng, có hai người ở chung, ở riêng có thể ba người. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về bất hòa, hình khắc, phân ly, nhiều rắc rối tranh chấp.

3. Thiên lương ở cung Thê (Phu)

Sao Thiên lương đến cung Thê, nên lấy người lớn tuổi, lấy người lớn hơn mình 3 tuổi là thích hợp (hoặc lấy người nhỏ hơn mình 3 tuổi trở lên). Có Thái âm hội chiếu, chủ về dung mạo mĩ lệ, nhưng lấy trường hợp chậm kết hôn hay tái hôn là tốt, nếu không sẽ chủ về"nhuyễn khắc"(ly dị). Có điều, tuy phân ly nhưng phần nhiều thường khó dứt tơ vương, lấy trường hợp trước khi kết hôn đã từng hủy hôn ước với người khác là tốt, hoặc nên kết hôn thật chậm thì có thể tránh khỏi.

Nữ mệnh, cung Phu có sao Thiên lương, lấy trường hợp chậm kết hôn hoặc làm kế thất, vợ lẻ, hoặc trước khi kết hôn đã từng hủy hôn ước với người khác, hay sống chung mà không có nghi thức kết hôn, thì có thể tránh được sự cố ly dị. Có Thiên đồng hội chiếu, nhưng Hóa Kị, chủ về sau khi ly hôn lại tiếp tục khắc, hoặc sau khi khắc lại ly hôn. Nhưng lấy trường hợp hội chiếu với Kình dương, Đà la, Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh mới đúng.

4. Thiên lương ở cung Tử nữ

Sao Thiên lương đến cung Tử nữ, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Thiên vu, Ân quang, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về con cái phát đạt, thông minh nhiều tài, vừa phú lại vừa quý, có năm con trở lên. Đồng độ cùng với Thiên đồng, lấy trường hợp con gái trước con trai sau là tốt, chủ về ba người con. Có Thiên cơ đồng độ, đề phòng hư thai, chủ về hai người con. Có sao Hóa Kị hội chiếu, con cái nhiều tai nạn tật bệnh. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, nên cho làm con nuôi của người khác. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình hội chiếu, là cô đơn.

5. Thiên lương ở cung Tài bạch

Sao Thiên lương đến cung Tài bạch, thừa vượng nhập miếu, có Hóa Lộc, Lộc tồn, Thái âm, Thiên vu hội chiếu, chủ về phát giầu có, hoặc được thừa hưởng di sản hay tài phú hiện có khác. Đồng độ với Thái dương ở Mão, tuy có thể hay phú hay phát, nhưng có xảy ra chuyện tranh đoạt tài sản. Đồng độ cùng với Thiên đồng, có thể sáng lập gia tài, từ nhỏ mà phát triển lớn dần, hoặc tay trắng làm nên sự nghiệp - nếu có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hoặc Lộc tồn hội chiếu, là công khanh ở nhà tranh. Có Thiên cơ đồng độ, tiền đến tiền đi, lúc phát lúc phá, hoặc nhờ cần cù làm cực nhọc mà được, thời vận thường thay đổi. Đến cung Tý, tiền tài có nguồn đến nhưng bị cắt xén rất nặng. Gặp sao Hóa Kị, chủ về vì tiền tài mà nhiều lời qua tiếng lại, nhiều rắc rối thị phi, hoặc vì tiền tài mà sinh ra đau khổ về tinh thần. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình hội chiếu, chủ về khuynh gia phá sản, hoặc vì tiền tài mà sinh ra tai họa, hoặc vì dính vào chuyện kiện tụng mà phá hao. Nếu có cát tinh hóa giải thì trước khổ sau yên, hoặc ăn trước trả sau, miễn cưỡng sống qua ngày. Có điều, sao Thiên lương mà tọa cung Tài bạch, tuy gặp khó khăn, nhưng rốt cuộc cũng có tiền.

6. Thiên lương ở cung Tật bệnh

Sao Thiên lương đến cung Tật bệnh, tuy có nạn tai tật bệnh nhưng phần nhiều đều chuyển nguy thành an; chủ về các triệu chứng của trường vị không điều hòa, tiêu hóa không tốt. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, chủ về ngoại thương ở tay chân, bên trong thì gân cốt ngực eo bị thương, hoặc lan vĩ viêm. Có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ chủ về các chứng ung thư vú, ung thư bao tử, ung nhọt khối u. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu hoặc đồng độ, cũng chủ về các bệnh đau nhức, như phong thấp, tê bại, nhức mỏi. Có thêm Thiên nguyệt, Âm sát đồng độ, chủ về các chứng cảm mạo, thương phong, đầu choáng.

7. Thiên lương ở cung Thiên di

Sao Thiên lương đến cung Thiên di, thừa vượng nhập miếu, xuất ngoại chủ về được quý nhân phù trợ, là người được kính trọng. Ở tại ba nơi Tị, Hợi, Thân, chủ về"đông bôn tây tẩu"vất vả bận bịu. Nếu có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu, chủ về viễn du tha hương. Có Lộc tồn đồng độ, chủ về bị tiểu nhân khuynh đảo chủ ý hãm hại. Có Thiên cơ đồng độ, thì ra ngoài gặp nhiều cơ hội, nhưng nhiều biến hóa thay đổi, không yên định. Có Thái dương đồng độ thì ra ngoài thành danh. Đồng độ cùng với Thiên đồng thì ra ngoài yên định, nếu Thiên đồng Hóa Kị thì ra ngoài gặp nhiều"lời qua tiếng lại thị phi". Có tứ sát Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về ra ngoài gặp tai họa, hoặc ra ngoài bị tiểu nhân hãm hại.

8. Thiên lương ở cung Giao hữu

Sao Thiên lương đến cung Giao hữu, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, hoặc có tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, chủ về có bạn ngay thẳng, chủ về được bạn bè trợ lực, hoặc được thuộc hạ ủng hộ. Có Thiên cơ đồng độ, chủ về bạn bè tuy nhiều nhưng thường thay đổi. Đồng độ cùng sao Thiên đồng chủ về có những đồng nghiệp hữu ích hoặc được bạn bè trợ lực. Có Thái dương đồng độ, chủ về trong đời kết giao được với người bạn quý, phần nhiều là người trong chính giới hay quân đội, công an, hoặc kết giao được với nhân vật quan trong trong thương giới, người có danh tiếng gây ảnh hưởng lớn đến những xu hướng trong xã hội. Có tứ sát Kình Đà Hỏa Linh đồng độ hay hội chiếu, chủ về vì bạn hữu mà tai họa, nhiều rắc rối thị phi. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hay hội chiếu hoặc xung chiếu, chủ về vì bạn hữu mà bị phá hao, hoặc vì thủ hạ không cẩn thận mà tổn thất tiền bạc.

9. Thiên lương ở cung Sự nghiệp

Sao Thiên lương đến cung Sự nghiệp, nếu ở Ngọ có cát diệu hội chiếu và xung chiếu hiệp trợ, chủ về là người quan trọng trong chính giới, thương giới, danh tiếng vang xa ra nước ngoài, quyền cao chức trọng. Có Thái dương đồng độ, văn hoặc võ đều lấy tài nghệ mà dương danh. Đồng độ cùng với Thiên đồng, chủ về người có năng lực chuyên sâu chỉnh lý nội vụ, nắm thực quyền bên trong, giỏi vạch kế hoạch. Có Thiên cơ đồng độ, chủ về một mình kiêm mấy chức, những loại công việc thường có nhiều biến động, việc có ẩn có hiện. Có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình hội chiếu và xung chiếu, chủ về người có sứ mệnh đặc biệt, hoặc vì sự nghiệp mà sinh tai họa, dính líu đến kiện tụng mà bị phá hao.

10. Thiên lương ở cung Điền trạch

Sao Thiên lương là tinh diệu"che chở", đến cung Điền trạch, chủ về được di sản của tổ tiên. Có Thiên cơ đồng độ thì phải tự tạo, nhiều dời đổi biến động, hoặc có tình hình"phiên tạo trùng kiến". Có Thái dương đồng độ, chủ về vì nhà cửa hoặc tài sản chung mà xảy ra tranh giành. Có tứ sát Kình Đà Hỏa Linh đồng độ hay hội chiếu và xung chiếu, chủ về gia trạch không yên, nhiều thị phi rắc rối, nhiều tranh chấp. Hội chiếu với sao Hóa Kị thì nhiều lời qua tiếng lại. Có Không Kiếp đồng độ, ở Tị, ở Hợi, ở Thân, thì trôi dạt. Sao Thiên lương và Thiên mã đồng độ, cũng chủ về trôi dạt bất định.

11. Thiên lương ở cung Phúc đức

Sao Thiên lương đến cung Phúc đức, thừa vượng nhập miếu, chủ về hưởng thụ an lạc. Đồng độ cùng với Thái dương, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên quý, Thiên vu hội chiếu và xung chiếu, chủ về phúc dày lộc trọng, vừa quý vừa phú. Đồng độ cùng với Thiên đồng, chủ về yên định. Đồng độ cùng với Thiên cơ thì lao tâm nhọc thần, gặp Hóa Kị thì vô phúc, nhiều phiền não. Có Đà la đồng độ thì tự tìm bận rộn. Có Kình dương hội với Hỏa tinh hay Linh tinh, thì phúc bạc, nhiều tranh chấp rắc rối, nhiều thị phi không thể yên định. Sao Thiên lương nhập miếu đến cung Phúc đức, chủ về an nhàn, có phong thái danh sỹ, tư tưởng phóng túng, không chịu gò bó, lạc thiên an mệnh, không thích biến động. Thiên lương lạc hãm đến cung Phúc đức, chủ về lười biếng, lần nữa, thường để xảy ra tình trạng làm lỡ công lỡ việc. Sao Thiên lương ở ba nơi Tị, Hợi, Thân, gặp Thiên mã, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về trôi nổi bất định không yên.

12. Thiên lương ở cung Phụ mẫu

Sao Thiên lương đến cung Phụ mẫu, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu và xung chiếu, chủ về có phúc ấm hoặc thừa hưởng di sản của cha mẹ. Lạc hãm chủ về hình thương khắc hại, nên làm con thừa tự của người khác. Có Kình dương gặp Thiên mã hội chiếu hay xung chiếu, chủ về xa gia đình, hoặc làm con nuôi người ta, hoặc ở rể. Đồng độ cùng với Thiên đồng thì không hình khắc, nếu Hóa Kị hoặc hội chiếu và xung chiếu Kình Đà Hỏa Linh, vẫn chủ về hình thương, hoặc giữa cha con ý kiến bất đồng không hợp, nên làm con thừa tự người khác. Đồng độ cùng Thiên cơ, chủ về phân ly hoặc ở riêng. Đồng độ cùng Thái dương, có cát tinh hội chiếu và xung chiếu, không có sát diệu thì không hình khắc, ở Mão thì chủ về được cha mẹ che chở. Nếu có sát tinh hội chiếu và xung chiếu, chủ về hình khắc phân ly, nhận người khác làm cha mẹ.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Âm sát - Tạp diệu

Khẩu quyết an sao Âm sát

Dần Tý Tuất

Thân Ngọ Thìn

Phân lục nguyệt

Âm sát lâm

Đây là an theo tháng sinh, dựa vào thứ tự:"Dần - Tý - Tuất - Thân - Ngọ - Thìn"từ tháng Giêng đến tháng Chạp, thuận theo thứ tự này để an sao Âm sát, tuần hoàn 2 lần.

- tháng Giêng tháng Bảy ở cung Dần

- tháng Hai tháng Tám ở cung Tý

- tháng Ba tháng Chín ở cung Tuất

- tháng Tư tháng Mười ở cung Thân

- tháng Năm tháng Một ở cung Ngọ

- tháng Sáu tháng Chạp ở cung Mão

Sao Âm sát chủ về âm mưu, gian trá, giảo hoạt, lừa bịp, tâm thuật bất chính. Thường kết hợp với Thái âm Hóa Kị, Thiên cơ Hóa Kị, Cự môn Hóa Kị, Thiên diêu, Đà la mà phát sinh ứng nghiệm.

Theo Vương Đình Chi - Trung châu Tam hợp pháicho rằng, Âm sát chủ về rất thích hợp với tiểu nhân, kị nhập cung Mệnh và cung Phúc đức. Ở cung Phúc đức cung Mệnh chủ về người tâm thuật bất chính. Ở cung Tài bạch chủ về người thiên bẩm có tài giỏi trộm cắp. Ở cung Sự nghiệp chủ về ưa dùng thủ đoạn mờ ám, lật lọng, lừa đảo, hành nghề rất tinh vi sản xuất hàng giả, như chế tạo tiền giả.

Theo Chu Văn Sơn - Nam Bắc phái đoán mệnhviết: Âm sát là sao chủ về tiểu nhân. Thủ chiếu ở cung Thiên di, Phúc đức chủ về tính mạng gặp nguy khó. Trong một thời gian nào đó sẽ có người lôi kéo. Âm sát chủ về sự ẩn náu, mớ ám. Nếu sao Âm sát tọa thủ cung Mệnh cung Thân thì người đó rất gian manh, đố kị, thêm Kình dương, Đà la thì tâm tính thâm trầm, hành sự mớ ám.

Theo Vũ Tài Lục - Tử vi tinh điểncho rằng: Âm sát vào mệnh hay gặp tiểu nhân, bản tính nghi hoặc nên dễ phiền não vô ích, nếu thấy luôn cả Đà la, Hóa Kị, Không Kiếp, chủ về đi đến ảo giác, suy nghĩ vớ vẩn, hoặc vì ma túy mà con người đầu óc lơ mơ.

- Âm sát ở cung Thiên di, con người cô độc ít hợp, khó hòa đồng, hay ngại ngùng nghi kỵ, mê muội với sự vật hư ảo.

- Âm sát ở cung Phụ mẫu ưa những vọng tưởng không có thực về gốc tích của mình.

- Âm sát ở cung Nô bộc hay uất ức vô cớ với bạn bè, công việc hợp tác thì hay nghi kỵ.

- Âm sát ở cung Huynh đệ thường bị phản từ nội bộ.

- Âm sát ở cung Phu thê, đau khổ ngơ ngẩn vì người thương yêu do sinh ly hay tử biệt.

- Âm sát ở cung Quan lộc, làm một việc mê muội mà hại đến sự nghiệp, mê vợ hay tình nhân mà khốn khó, hoặc cả tin vào bạn, người trên mà lâm vào tình cảnh khốn khó.

- Âm sát ở cung Tài bạch, vì tự cao tự đại, vì tham mê mà phá sản.

- Âm sát ở cung Phúc đức, tâm lý tư tưởng quá khích, cuồng tưởng, vọng tưởng, cuồng tính, găp thêm ác sát có thể thành điên.

- Âm sát ở cung Tử nữ, con người rất chủ quan, lại hay đi vào tín ngưỡng tôn giáo đồng bóng, tuyệt đối tin rằng mình giỏi hơn, đáng kính đáng yêu hơn bất cứ ai khác.

- Âm sát ở cung Điền trạch, thường gặp nhà cửa có ma quỷ, hoặc vì vợ chết con chết, mà cứ tưởng tượng thấy lởn vởn linh hồn vợ con phảng phất.

Theo Nguyễn Đăng Quang - Bí mật Tử vi Đẩu sốviết: Đặc tính căn bản của Âm sát là gây ảo giác, đưa con người về thế giới tâm linh, Âm sát rất kỵ gặp Không Kiếp Hỏa Linh, bởi vì đây là hai thứ Hỏa vô hình, nhất là Không Kiếp, trong huyền thật của đạo sĩ phái Mao Sơn còn cho là Thiên hôn Địa ám, toàn là thứ âm khí nặng nề là gặp Âm sát, là chúa gây ảo giác, Mệnh và Vận hạn gặp phải cứ cảm giác mình đang bị người hại. Đây là loại hoang tưởng phổ biến nhất, lúc nào cũng cảm giác có người theo dõi, truy đuổi, dẫn đến cảnh bỏ nhà đi lang thang, hoặc tìm cách thu mình vào xó nhà, sợ tiếp xúc với người lạ, đôi khi lại tự nói chuyện lầm thầm trong miệng, ánh mắt khác thường, mắt chớp đảo liên hồi hoặc mắt ngây dại. Dân gian thường gọi là"người bị ma nhập", Y học hiện đại thì cho là bệnh chứng hoang tưởng. hoặc tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng, Tây y cho là rối loạn thần kinh mà ra, Đông y cho là khí hỏa uất kết mà ra. Có trường hợp chữa bằng thuốc thì khỏi, có trường hợp không khỏi. Có người bệnh qua vận Âm sát, trở lại sinh hoạt tương đối bình thường, có người bệnh nặng bỏ nhà đi luôn không biết sống chết thế nào !

Hoang tưởng còn có biểu hiện ghen tuông vô cớ, thậm chí là ghen tuông người đã quá cố. Cũng có khi lại cho là có ai yêu mình, rất khẳng định và tìm cách tiếp cận đối tượng yêu đương kia sợ hãi, xa lánh, ... Các trường hợp hoang tưởng này, là cách Âm sát, Linh Hỏa, Kiếp Không, Phục binh, Hóa Kị, gặp hạn Hồng Đào Diêu Thai.

Tôi, qua kiểm nghiệm thực tế, nhận thấy lá số Tử vi của vài người có khả năng ngoại cảm, trong lá số Tử vi có Âm sát tọa thủ tại cung Mệnh. Rõ nhất là người mệnh Vô chính diệu Âm sát thủ mệnh, Đồng Âm xung chiếu, Hỏa Linh hội hợp.

Yếu tố gây hoang tưởng là do sao Âm sát nằm sẵn trong mệnh, chỉ chờ vận hạn ráp đủ bộ là nổi lên ngay tức khắc. Bởi thế, có những trường hợp đang là sinh viên Đại học, từ nhỏ đến khi vào Đại học đều thông minh nhanh nhẹn, tự nhiên trở thành bệnh nhân hoang tưởng, làm nhiều điều (mà người bình thường cho là) dại dột, gây đau khổ và ấm ức cho gia đình, hao tổn cho xã hội.

Vấn đề tác hại của sao Âm sát gây ra chứng bệnh hoang tưởng, đáng được quý độc giả ghi nhận và nghiên cứu thêm, không nên vội vã chấp nhận hay phản đối, đó là thái độ khoa học. Đây là vấn đề rất nghiêm túc, số người mắc chứng hoang tưởng theo thống kê chiếm khoảng từ 0,3% ~ 1% dân số. Nếu Tử vi đóng góp chính xác về chứng hoang tưởng là góp phần giải quyết một vấn nạn quan trọng cho xã hội.

Vận hạn đến sao Âm sát, gia hội sát tinh và bại tinh, cũng thường có ý tưởng thoái lui công việc, xin nghỉ việc, đầu óc lang man, thích chơi nhiều hơn làm. Người có Âm sát trong mệnh cũng hay ngủ nhiều. Vận hạn gặp Âm sát gia hội Sát tinh là bại vận, phá vận, nếu tranh đoạt với người khác là cầm chắc phần thua.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Phá quân - Lục Bân Triệu

Sao Phá quân trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy, ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, hóa làm haotinh (sao hao tổn). Là cảm tử quân trong quân đội, đội tiên phong, xung phong phá địch. Lấy tranh đoạt, phá hoại làm mục đích, nhưng tính nguy hiểm của bản thân cũng lớn, không thể tránh khỏi"tổn binh hao tướng". Hơn nữa, còn một mình xông vào trận, có mối lo tiếp tế không kịp. Phá quân Hóa Lộc, là có đội quân phía sau tiếp tế bổ sung, cuồn cuộn bất tuyệt, đó gọi là"hữu căn"(có gốc rễ). Cho nên Phá quân có ý nghĩa phá hoại trước rồi sau đó mới kiến thiết, và có ý bỏ cũ thay mới.

1. Phá quân ở cung Mệnh viên

Sao Phá quân đến cung mệnh, chủ về người có sắc mặt xanh vàng; khuôn mặt trái xoan, mập gầy bất nhất. Lưng to mày rộng hoặc phá tướng, nói lắp không rõ, lúc sinh ra không đủ tháng hay sinh khó. Nhập miếu thì trung hậu, lương thiện. Vượng địa thì tính tình ngay thẳng, xử sự có trước có sau, có nghị lực. Lạc hãm thì tính tình cương, ít hòa hợp, thích tranh cường, hiếu thắng. Lập mệnh ở Tý hay Ngọ, không có Sát tinh, mà Phá quân Hóa Lộc hay Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đến cung Phúc đức hay cung Mệnh, chủ về lương đống quốc gia, đại tướng trong quân lữ, và chủ về độ lượng, phúc hậu. Đồng độ với Tử vi ở Mùi, chủ về được tiền tài bất ngờ, hoặc đột nhiên gặp quý nhân, thăng tiến ba cấp; thứ đến là ở Sửu. Ở Thìn hoặc Tuất, sao Tử vi và sao Phá quân xung chiếu, chủ về trong đời sẽ bị tai nạn lớn, hoặc bệnh tật đặc biệt nghiêm trọng và kéo dài, thuộc về thần kinh, não, tạng tâm, tạng thận, hoặc đường tiêu hóa, đường ruột. Là người có nghị lực, có sở trường, yêu nghệ thuật; song một đời nhiều sóng gió; không giữ được gia sản của tổ tiên; chủ về hình khắc vợ và con; phú mà không quý, chỉ có hư danh. Đồng độ với Vũ khúc ở Tị, mà Phá quân hóa Lộc, cũng chủ về được quần hùng kính phục, lập uy ở biên cương; kế đến là ở Hợi. Lập mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, chủ về thủa ấu niên đã xa quê hương đất tổ, nhận người khác làm cha mẹ, hình khắc rất nặng, tính tình quật cường, thích đấu đá, hoạch phát hoạch phá, song cũng chủ về có một nghề sở trường. Có Không Kiếp đồng độ thì trôi nổi, không nơi nương tựa. Có Xương Khúc đồng độ là thư sinh lãng đãng. Có Kình Đà Hỏa Linh đồng độ thì cô độc, trôi nổi.

Nữ giới Phá quân đến cung mệnh ở Tý hoặc Ngọ, chủ về phúc dày lộc trọng, vượng phu ích tử, nhưng nên chậm kết hôn; ở Tị hay Hợi thì tính tình cương cường, có chí trượng phu; ở Dần hay Thân thì hình phu khắc tử, sớm rời xa cha mẹ, làm con nuôi người khác, tự mang sức lực ra làm lấy mà ăn, nếu không sẽ ly khắc nhiều lần, về cuối đời thường sống không có chồng; gặp Kình dương Đà la thì hình khắc càng nặng.

Lưu niên đại hạn có sao Phá quân đến, chủ về bỏ cũ thay mới, mưu tính cơ hội mới, xuất hành đi xa. Phá quân Hóa Lộc chủ về từ công việc cũ mà nảy sinh ra cơ hội mới. Nếu gặp Sát tinh, hoặc tương hội với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về nhiều lần hao phá tiền tài, khuynh gia bại sản, sự nghiệp đình đốn, không cách nào thúc đẩy cho nó chuyển động, giống như thuyền mắc cạn. Nhưng, Phá quân và Tử vi ở Thìn hoặc Tuất có Kình dương, chủ về sinh thêm con trai, hoặc có tình huống để tang cha mẹ.

2. Phá quân ở cung Huynh đệ

Sao Phá quan đến cung Huynh đệ, chủ về anh em ở riêng hoặc hình khắc. Bản thân thường là con trưởng, hoặc tuy đứng hàng thứ 2 thứ 3, nhưng trong nhiều tình huống lại giống như anh cả, chẳng hạn như anh cả qua đời hoặc làm con thừa tự của người khác, chị cả xuất giá, hoặc bản thân làm con thừa tự của người khác. Có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt đồng độ hay hội chiếu, cũng chủ về anh em nương nhờ lẫn nhau. Có Tử vi đồng độ, chủ về có hai anh em. Vũ khúc đồng độ, cũng chủ về có hai anh em. Liêm trinh đồng độ, chủ về một anh em. Có Sát tinh hội chiếu, chủ về hình khắc cô độc.

3. Phá quân ở cung Thê (Phu)

Phá quân đến cung Thê, chủ về hình khắc phân ly, hoặc có danh nghĩa vợ chồng mà không thực sự là vợ chồng. Kết hôn sớm sẽ chủ về hình khắc, có ba vợ trở lên. Nên chậm kết hôn, nếu trước khi kết hôn mà bị người khác phá hoại tình cảm yêu thương, dẫn đến sóng gió trắc trở, thì ngược lại, sẽ chủ về có thể"giai lão". Nhưng sau khi kết hôn phải xảy ra các tình huống như: lại đi xa, ở riêng, xa cách mới hợp. Hoặc là kế thất, vợ lẻ, hoặc sống chung mà không cử hành nghi thức kết hôn. Sao Phá quân thủ mệnh ở Tý hay Ngọ, thì vợ đoạt quyền chồng. Có Vũ khúc đồng độ chủ về hình khắc. Có sao Hóa Kị chủ về tai họa. Có Liêm trinh đồng độ, chủ về bất hòa hoặc ngoại tình. Có Tử vi đồng độ thì lấy người lớn tuổi hơn là tốt. Có Lộc tồn đồng độ, chủ về gia đình không hợp, hoặc không được gia đình và thân hữu đồng ý, hoặc bị người khắc khuynh đảo hãm hại, hoặc bị xúi dục thị phi mà phân ly bất hòa. Có tứ Sát, Thiên hình, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về hình khắc bất hòa nặng, hoặc tai nạn tật bệnh, lời qua tiếng lại liên miên.

4. Phá quân ở cung Tử nữ

Sao Phá quân đến cung Tử nữ, chủ về hình thương. Con trưởng chủ về các tình huống như hư hỏng thai hay không đủ tháng, hoặc phá tướng hình thương. Hoặc sinh con gái trước sinh con trai sau, và chủ về chậm có con. Hoặc kế thất hay vợ lẻ sinh con trai, hoặc nhận con thừa tự trước. Nhập miếu hoặc đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về có ba con. Đồng độ cùng với Vũ khúc, gặp cát diệu, cũng chủ về có ba con. Có Kình Đà Hỏa Linh, Không Kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, hoặc có con mà không được nhờ.

5. Phá quân ở cung Tài bạch

Phá quân ở tại Tý hoặc Ngọ, mà gặp Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn, Hóa Quyền, chủ về có thể phát phú quý. Phá quân nhập Thiên la Địa võng ở Thìn và Tuất, cũng chủ về phú hoặc được thừa hưởng di sản. Đồng độ với Vũ khúc ở Tị, chủ về tài đến tài đi. Đồng độ với Tử vi ở Mùi, chủ về có tiền bất ngờ hoặc tiền thuộc loại đặc biệt, kế đến là Sửu, nhưng đến lại Sửu hoặc Mùi sẽ có mối lo phá tài. Đồng độ cùng với sao Liêm trinh, chủ về một đời phá tán thất bại, đa đoan. Ở Dần hoặc Thân, chủ về gia sản tổ tiên khuynh bại. Đồng độ cùng Không Kiếp, chủ về ăn trước trả sau. Gặp Kình dương và Hỏa tinh đồng độ, chủ về được nhiều mất nhiều. Gặp Đà là và Đại hao đồng độ, chủ về gặp tranh chấp phiền não, bị tước đoạt rất nặng.

6. Phá quân ở cung Tật bệnh

Sao Phá quân đến cung Tật bệnh, thời ấu niên nhiều bệnh liên quan đến máu mủ. Đồng độ cùng Vũ khúc chủ về răng đau, bệnh về răng, bệnh về mắt, âm khuy, di tinh, dương nuy (rối loạn dương cương), thổ tả. Nữ mệnh chủ về đau bụng kinh, hoặc xích bạch đới hạ. Đồng độ cung Kình dương, chủ về tình huống phải dùng đến phẫu thuật.

7. Phá quân ở cung Thiên di

Sao Phá quân đến cung Thiên di, chủ về xuất ngoại, đi xa dùng kỹ xảo nghệ thuật hoặc sở trường chuyên môn làm người ta kính phục. Đồng độ cùng với sao Tử vi, chủ về được quý nhân dìu dắt. Đồng độ cung với sao Vũ khúc, chủ về người có kỹ thuật vừa văn vừa võ, hoặc là nhân tài chuyên môn về nghệ thuật. Ở Tý hoặc Ngọ, xuất ngoại, đi xa có thể phú quý. Có Kình Đà Hỏa Linh đồng độ và hội chiếu, xuất ngoại, đi xa chủ về phá tài, gặp tai họa, thiếu duyên với người, phải dùng nghề vặt để mưu sinh.

8. Phá quân ở cung Giao hữu

Sao Phá quân đến cung Giao hữu, chủ về vì bạn mà phá tài, hoặc vì thủ hạ bất trung, dẫn đến tiền bạc sự nghiệp bị phá tán thất bại. Gặp thêm Sát tinh, chủ về làm ơn mắc oán. Đồng độ cùng với sao Vũ khúc, chủ về giao du với bạn bè khẩu thị tâm phi. Đồng độ cùng với sao Tử vi, chủ về được bạn bề trên. Có các sao Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, Thiên hình, Âm sát, Kiếp sát, Đại hao hội chiếu, chủ về vì bạn mà bị quan tai họa lớn, hoặc thủ hạ trộm cắp.

9. Phá quân ở cung Sự nghiệp

Sao Phá quân đến cung Sự nghiệp, thừa vượng nhập miếu, chủ về phát võ nghiệp, uy chấn tứ phương. Có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu, là trọng thần quốc gia. Đồng độ cùng với sao Tử vi, chủ về hiển quý. Đồng độ cùng với sao Vũ khúc, chủ về võ nghiệp. Đồng độ cùng với sao Liêm trinh, chủ về làm công nhân viên chức nhà nước. Nhưng Phá quân đến cung Sự nghiệp, bất luận có thừa vượng nhập miếu hay không, đều chủ về ba chìm bảy nổi, sóng gió dập dồn. Có Hóa Lộc Hóa Quyền thì lúc bại lúc hưng, có nghị lực, luôn lấy sự nghiệp làm mục tiêu. Không có cát hóa và cát diệu, thì khi khó khăn đến, áp lực sẽ rất nặng, vô phương chuyển biến, gặp sao Kị Không Kiếp, thì củ về trong đời sẽ xảy ra tình huống phá sản, bế tắc.

10. Phá quân ở cung Điền trạch

Ở hai cung Tý hoặc Ngọ thì sản nghiệp to lớn. Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đều chủ có gia sản của tổ tiên. Đồng độ cùng Tử vi, có thể được nhà cửa, ruộng đất một cách bất ngờ. Lạc hãm thì chủ về nhà cửa cũ nát. Có lục Sát hội chiếu, chủ về phá tán gia sản của tổ tiên.

11. Phá quân ở cung Phúc đức

Ở cung Tý hoặc Ngọ, chủ về an lạc, ít lo nghĩ. Đồng độ cung vơi sao Vũ khúc chủ về lao tâm lao lực. Đồng độ cùng với sao Liêm trinh chủ về vất vả bận rộn. Có sao Hóa Kị hội chiếu chủ về nhiêu lo nghĩ, hành vi bất định. Đồng độ cùng với sao Tử vi, chủ về bản thân tự có được niềm vui. Gặp tứ sát, Không Kiếp chủ về phiền não, không yên định.

12. Phá quân ở cung Phụ Mẫu

Sao Phá quân đến cung Phụ mẫu, chủ về hình khắc xa nhà hoặc làm con thừa tự của người khác. Có Vũ khúc hoặc Liêm trinh đồng độ, đều chủ về hình thương. Có Tử vi đồng độ, gặp cát diệu, có thể tránh hình khắc. Trong 12 cung, rất khó có kết cấu lý tưởng, dù không thấy Sát Hình Kị, cũng chủ về không có duyên phận với cha mẹ, tình cảm không tốt đẹp, hoặc cha mẹ không quan tâm đến mệnh tạo. Sát nặng, hung tinh thấy nhiều chủ về hình thương.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Sao Phá quân - Bí cấp

KHÂM THIÊN GIÁM

Phá quân là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, ngũ hành thuộc âm thủy, hóa khí là"hao".

Phá quân miếu ở ba cung Tý, Ngọ, Mùi, hãm ở ba cung Dần, Thân, Dậu.

Trong Đẩu Số, sao Phá quân là sao tiên phong, gặp núi thì mở đường, gặp nước thì làm cầu, hơn nữa còn xung phong phá trận, cho nên tính chất cơ bản của nó là có thể"công"mà không thể"thủ". Tính chất này khiến cho người có Phá quân thủ mệnh dễ có tính khí nóng nảy, bộp chộp, nhưng lại chính trực, cứng rắn; ở trong hoàn cảnh khốn khó sẽ biểu hiện tài năng lãnh đạo và phách lực khai sáng cục diện mới.

Do tính cách sở trường về khai sáng mà không giỏi thủ thành, nếu cung Phúc đức gặp Tử vi, Thiên phủ đồng cung, sẽ thành người có năng lực, chịu khó và tính chủ quan rất mạnh, không thể nhẫn nại một khi đã thành cục diện phát triển, thậm chí lúc sự nghiệp đã ổn định, có khi còn muốn thay đổi cục diện mới.

Sao Phá quân tranh thành đoạt trại, phá hoại trước rồi kiến thiết sau, cho nên bản thân phải chịu nguy nan cũng nhiều, dễ biến thành vượt quá tầm kiểm soát, rơi vào tình cảnh nguy khốn, mà không thể tự đứng lên được. Khi xử sự, thường dễ biến trở ngại nhỏ thành trắc trở lớn.

Cho nên, sao Phá quân rất ưa gặp sao Lộc, tiền tài là nguồn viện trợ phía sau không ngừng bổ xung, gọi là"có gốc rễ". Sao Phá quân có Lộc tồn hoặc Hóa Lộc đồng cung là tốt nhất, hội hợp với chính diệu Hóa Lộc khác là kế đó, trường hợp hội hợp với Lộc tồn là kế đó nữa.

Có Hóa Quyền, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội chiếu hoặc đồng độ với Phá quân, có thể làm tăng khí thế sáng lập sự nghiệp. Nếu gặp Địa không, Địa kiếp thì một đời nhiều trở ngại. Gặp tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, phàm mỗi khi có biến động đều gặp bất lợi trước. Gặp Thiên khốc, Thiên hư chủ về tâm hồn trống rỗng.

Do Phá quân có hàm nghĩa"phá hoại trước kiến thiến sau", nên cuộc đời và sự nghiệp phải gặp biến động lớn. Nhưng hễ có biến động thì đều có tính chất"bỏ cũ mà canh tân", cho nên trong kinh doanh làm ăn, phần nhiều đều từ sự nghiệp cũ mà lập nên cục diện mới, phần lớn cũng chủ về có hai sự nghiệp cùng mọt lúc; làm công ăn lương thì cũng chủ về kiêm thêm chức vụ khác, hoặc thường gánh vác công việc quá mức, quá với sức bản thân."Người giỏi làm nhiều"chính là hình ảnh của sao Phá quân đóng ở cung mệnh.

Nữ mệnh Phá quân, thông thường đều nên kết hôn muộn; gặp Kình dương, Đà la thì càng như vậy. Nếu Phá quân Hóa Lộc, có khuynh hướng thích tu sửa sắc đẹp; lúc này cần lưu ý xem Tiểu hạn có tương hội sao Hình, Sát, Kị hay không, nếu đúng thì phải cẩn thận kẻo để lại dấu vết.

1. Phá quân ở cung Mệnh viên

Phá quân thủ mệnh độc tọa ở Tý hoặc Ngọ

Phá quân thủ mệnh độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, cung Thiên di có Liêm trinh và Thiên tướng đồng độ, Liêm trinh là sao có lợi về làm công chức, Thiên tướng thì chủ về vất vả thay cho người khác, cho nên khi hai sao này đồng cung, xung chiếu Phá quân, càng khiến cho Phá quân thủ mệnh thành người thủ đoạn, nhưng lại là mưu tính cho người, mà không mưu tính cho bản thân.

Cho nên Phá quân an mệnh ở Tý hoặc Ngọ, đời người tuy ít biến động thay đổi, hơn nữa sẽ không chủ động thay đổi, nhưng một khi bị hoàn cảnh gây ảnh hưởng, không thay đổi thì không được, thì sự biến động thay đổi của người mệnh Phá quân sẽ rất kịch liệt, khiến cho người khác kinh ngạc.

Nếu không có các sao Sát Kị hội chiếu, Phá quân Hóa Lộc hay Hóa Quyền ở cung mệnh, hoặc có Lộc tồn đồng độ (Lộc tồn ở cung Phúc đức đồng độ với Tử Phủ cũng được), người này sẽ rất độ lượng, khí phách anh hùng, rất thích hợp theo võ nghiệp. Ngày nay, ngoại trừ gia nhập quân đội hay cảnh sát, còn có thể phục vụ trong ngành công thương nghiệp, và nên làm công việc mang tính khai sáng.

Phá quân không ưa Văn xương, Văn khúc, chỉ ưa gặp Thiên khôi Thiên việt, và rất ưa Tả phụ Hữu bật đồng độ hay hội chiếu, chủ về được bạn bè giúp đỡ, ủng hộ. Nếu gặp Văn xương Văn khúc mà không gặp sao Lộc, trái lại sẽ chủ về tính không tốt không xấu, nhưng tinh thần hay suy diễn theo sự không tưởng rất nhiều, và thiếu hành động thực tế. Nên lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu, phải xem trọng bản thân, một khi có ý nghĩ trong đầu thì lập tức lên kế hoạch thực hiện.

Không ưa gặp Sát tinh đến hội hợp hoặc đồng độ, vì sẽ khiến cho người Phá quân thủ mệnh cảm thấy rất cô tịch, nếu lại gặp Thiên hư, thì càng chủ về tinh thần trống rỗng, nếu lại gặp Thiên nguyệt, ắt sẽ mắc bệnh mãn tính.

Nữ mệnh Phá quân ở Tý hoặc Ngọ, rất ngại gặp Địa không, Địa kiếp, Cô thần, Quả tú, chủ về nửa cuộc đời cô tịch, tinh thần nhiều đau khổ. Nếu cung Phu có Vũ khúc Hóa Kị gặp Thiên hình, thì rất có thể không có chồng (hoặc không có vợ).

Phá quân - Tử vi thủ mệnh ở Sửu hoặc Mùi

Sao Phá quân thủ mệnh ở Sửu hoặc Mùi, luôn luôn có Tử vi đồng độ. Đây là kết cấu tinh hệ rất có lực khai sáng. Phá quân vốn là chiến tướng tiên phong, được Tử vi cầm cương điều khiển, lực phá hoại của Phá quân nhờ vậy mà được giảm thiểu, sức sáng tạo trái lại sẽ tăng. Tuy đời người không tránh được vất vả, nhưng nhờ có tài lãnh đạo, có tính quyết đoán, nên cũng chủ về trải qua vất vả mà có thành tựu.

Nhưng lúc Phá quân Hóa Quyền sẽ làm tăng tính chất biến động của Phá quân, vì vậy mà đời người càng thêm thay đổi. Nếu có Tả phụ Hữu bật hội hợp, có thể giảm thiểu vất vả; nếu gặp tứ Sát, thì chỉ thích hợp làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, và cần phải chú ý tính chất sáng tạo cái mới trong kinh doanh.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, đồng thời với sự khai sáng là cơ hội kiếm tiền, khiến cho sinh hoạt vật chất được sung túc, để bù đắp những vất vả đã trải qua. Nhưng như vậy, đồng thời tình cảm cũng gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử, hơn nữa, sẽ khiến cho mệnh tạo thiên về hưởng thụ nhục dục. Bởi vì lúc này sẽ gặp Liêm trinh và Tham lang đồng độ ở Tị (hoặc ở Hợi), do hội với Phá quân Hóa Lộc mà phát huy tác dụng.

Bất kể Phá quân Hóa Quyền hay Hóa Lộc, cũng chủ về khiến cho mệnh tạo trở thành phú quý, nhưng nếu đồng thời hội hợp với các sao Sát Hình Kị, thì tuy giầu có sung túc, nhưng lại dễ chuốc điều tiếng thị phi. Gặp Kình dương, Thiên Hình, Hóa Kị, còn dễ vướng vào tranh chấp kiện tụng, thích hợp theo binh nghiệp hoặc ngành pháp luật.

Tinh hệ Tử vi - Phá quân chủ về biến động, bởi vậy trong kinh doanh làm ăn, cần phải chú ý khi cơ hội đến bất ngờ, hơn nữa, có khả năng sẽ đồng thời kinh doanh hai ba lãnh vực có liên quan với nhau, hoặc cùng một thời điểm phải giải quyết hai ba việc. Nếu là nhân viên làm thuê, thì chủ về kiêm ngành, kiêm chức, hoặc làm tăng ca, nhưng nhất định sẽ một mình đảm trách công việc.

Tử vi - Phá quân đóng ở cung mệnh, là người thẳng thắn, nhưng nếu gặp Hoa cái, thì thích hợp nghiên cứu tôn giáo hoặc triết học.

Có điều, do mệnh tạo hay lo toan nghĩ ngợi, nhiều biến động, lại xét thấy Thiên phủ ở cung Phúc đức chủ về lo toan chu đáo, nên khi gặp các sao Sát, sao Không, sẽ biểu hiện tính tự tư ích kỷ. Cổ nhân nói:"Tử vi Phá quân, làm tôi thần bất trung, làm con bất hiếu"(Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu), còn nói:"Tử vi Phá quân mà không có Tả Hữu đồng cung, là phường quan lại hung ác"(Tử Phá đồng cung vô Tả Hữu, vô cát diệu, hung ác tư lại chi đ), tức là đã chỉ ra bản tính tự tư ích kỷ và khuynh hướng hay lo toan nghĩ ngợi của mệnh tạo. Nhưng chỉ cần có Cát tinh hội hợp, thì những tính cách không lành này sẽ giảm nhẹ, thậm chí tiêu trừ.

Đại hạn hoặc Lưu niên mà gặp Tử vi - Phá quân đồng độ, chủ về"khứ cựu canh tân"(bỏ cũ để đổi mới). Được Cát tinh hội hợp, đương nhiên biến động sẽ cát lợi. Nếu gặp Sát tinh, thì nên suy nghĩ kỹ, không được vội vã thay đổi. Nếu Sát tinh và Cát tinh đều có, thì phải xem đến vận hạn sau có cát hay không để quyết định làm hay dừng.

Phá quân thủ mệnh ở Dần hoặc Thân

Sao Phá quân độc tọa ở Dần hoặc Thân, cung Thiên di có hai sao Vũ khúc và Thiên tướng đồng độ. Vũ khúc là sao có tính chất cô độc và hình khắc, vì vậy nên chú trọng tình hình cát hung của cung Phụ mẫu; nếu cung Phụ mẫu có các sao Sát Kị trùng trùng, hoặc cung mệnh có"Lộc Mã giao trì"mà gặp Sát tinh, đều chủ về từ nhỏ đã rời xa gia đình, là mệnh cách lưu lạc chân trời góc bể.

Có điều, bị Thiên tướng gây ảnh hưởng, nên còn chủ về là người"hành hiệp trượng nghĩa", gặp chuyện bất bình thì lập tức ra tay; cho nên tuy tính tình cứng rắn, nhưng cũng được người đời ủng hộ và yêu mến. Hơn nữa, cần phải có một nghề tùy thân, sau đó có thể lưu lạc tha hương.

Nếu gặp tam cát hóa Lộc Quyền Khoa và Lộc tồn hội chiếu, lại có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, thì tuy hiếu động, trôi nổi, bất ổn, nhưng vẫn chủ về sự nghiệp có thành tích, có thể rời xa quê hương để phát triển. Nếu vẫn ở nơi sinh ra, tính chất hời hợt, hiếu động sẽ biến thành không chuyên một nghề nào, sự nghiệp và chức vị luôn thay đổi, hoặc hoàn cảnh công tác cũng luôn bị thay đổi.

Sao Phá quân an mệnh ở hai nơi này, nếu gặp Văn xương, Văn khúc, là văn sỹ nghèo nàn, thất chí; nếu gặp Sát tinh trùng trùng hội chiếu, thì một đời cô độc phiêu bạt. Gặp Hóa Kị, Kình dương, Đà la tụ hội ở cung Mệnh thì chủ về tàn tật, nhưng tính hiếu chiến hung dữ vẫn không thay đổi.

Nữ mệnh dễ trụy lạc phong trần, nhất là khi mệnh lập ở tại Thân thì càng nghiệm, phần nhiều còn có quan hệ hôn nhân không chính thức.

Phá quân - Liêm trinh thủ mệnh ở Mão hoặc Dậu

Phá quân và Liêm trinh đồng độ ở Mão hoặc Dậu, tam phương tứ chính có các sao mạnh mẽ hội hợp, vì vậy chủ về không giữ tổ nghiệp, cũng không được cha mẹ che chở, tay trắng làm nên, tự lập.

Về phương diện tính cách, nói mặt tốt thì cương nghị, kiên nhẫn, có lực xung kích, suy nghĩ tới công ích và có lòng chính nghĩa, còn có hoài bão lý tưởng, là nhân tài tốt để sáng lập sự nghiệp; nhưng nói mặt xấu, thì e rằng cuộc đời không được an định, không cách nào sống cho được yên ổn, một đời vì khai sáng sự nghiệp mà lao tâm lao lực.

Do tính chất của các sao chủ về biến động thay đổi, vì vậy không nên kinh doanh làm ăn, nếu không dễ đứng núi này trông núi nọ, không giữ một nghề, mà còn vì lý tưởng quá cao, dẫn đến đầu cơ mạo hiểm nên thất bại. Tuy là nhân viên làm thuê, nhưng thường thường lại được ông chủ cho đảm nhiệm công tác có tính khai sáng. Nếu không có công việc mang tính khai sáng, thì cũng dễ được chỉ định làm công việc bộ môn, chuyên môn, cũng chủ về kiêm nhiệm nhiều chức vị khác nhau, cho nên rất vất vả.

Nếu trong cung Mệnh có đủ các sao đào hoa tụ tập, thì dễ thành chủ quản một số người khác giới, hoặc tính chất của nghề nghiệp có liên quan đến người khác giới.

Nhưng bất kể thế nào, phàm Phá quân - Liêm trinh tọa thủ cung Mệnh, lúc còn bé ắt bị nạn tai bệnh tật; nếu cung Phụ mẫu gặp Sát tinh, thì lúc bé không có duyên với cha mẹ, đến khi bước chân ra đời làm việc, phải trải qua nhiều biến động thay đổi, gian nan nguy hiểm, rồi mới có thể thành tựu. Vì vậy, nói về phương diện hưởng thụ, tinh hệ Phá quân - Liêm trinh không chủ về phúc trạch. Đây là điều không may mắn thuộc về tiên thiên của mệnh tạo.

Phá quân - Liêm trinh tọa thủ cung mệnh rất ưa Liêm trinh Hóa Lộc, hoặc có Lộc tồn hội hợp, chủ về vất vả nhưng vẫn phú quý. Gặp Văn xương Văn khúc thường biểu hiện sở thích nghiệp dư thanh nhã, những sở thích vui thú này có tác dụng giảm thiểu những trắc trở, gập ghềnh trên đường đời, cân bằng cuộc sống cho mệnh tạo.

Nếu có tứ Sát hội chiếu, có thể làm nhân viên hành chính. Cổ nhân nói:"Liêm trinh Phá quân gặp tứ sát, chủ về nhờ tay nghề khéo mà yên thân". Nhưng nếu Sát tinh quá nhiều lại lạc hãm, thì chủ về một đời ắt nhiều thị phi, tranh chấp, còn dễ bị thần kinh suy nhược, hay bệnh tim mạch, dễ bị chứng da mẫn cảm, dị ứng; nếu có các sao Sát Kị Hình cùng chiếu, thì có thể thất bại do phạm pháp.

Người sinh năm Bính, Liêm trinh Hóa Kị mà còn gặp Sát tinh, nếu cung mệnh có Thiên hình đồng độ, nên đề phòng tai nạn giao thông. Tinh hệ có kết cấu Liêm trinh Hóa Kị gặp Phá quân và Thiên hình, dù không ở cung mệnh, mà ở cung Thiên di, cũng chủ về dễ xảy ra tai nạn giao thông.

Nếu gặp Kình dương ở cung đối diện, tức Thiên di gặp Kình dương (hoặc tinh hệ này ở cung Thiên di, gặp Kình dương ở bản cung hoặc bản mệnh), thì họa càng nặng. Tính chất này càng chính xác khi tinh hệ Phá quân - Liêm trinh ở tại Dậu, không thể không đề phòng. Phép"xu cát tị hung"là nên gia nhập quân đội hay cảnh sát, hoặc làm công tác nghiên cứu, hoặc công việc xét nghiệm máu.

Phá quân - Liêm trinh ở tại Dậu, có Hỏa tinh đồng độ, do Hỏa tinh lạc hãm, nên biến thành tinh hệ có kết cấu khác. Tính cách người này thiếu tình thân, hơn nữa còn mang tính phản bội. Nếu Liêm trinh Hóa Kị, gặp thêm Thiên hình, thì dễ vì sự nghiệp thất bại mà nảy sinh ý nghĩ không còn muốn sống.

Nữ mệnh Phá quân - Liêm trinh, phần nhiều nếu chồng có tình nhân bên ngoài, thì trái lại, có thể giữ chồng đến bạc đầu. Vì vậy, nên lấy sự nghiệp làm trọng, nếu không, sẽ xảy ra sóng gió trắc trở một cách vô ích; nếu ở cung Mệnh hoặc cung Phúc đức có sao đào hoa tụ tập, thì bản thân người phụ nữ này sau kết hôn cũng dễ trở thành người ngoại tình.

Phá quân thủ mệnh ở Thìn hoặc Tuất

Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc Tuất, cung Thiên di có Tử vi - Thiên tướng. Sao Phá quân một mặt bị kềm chế ở"Thiên la - Địa võng", một mặt lại bị Tử vi kềm chế; thêm vào đó Phá quân có bản chất"tướng ở ngoài mặt trận, không thụ mệnh vua", sẽ càng phản kháng sự kềm chế của Tử vi ở cung Thiên di, cho nên kết cấu tinh hệ này có nhiều tính cách mâu thuẫn.

"Mâu thuẫn"ở đây có biểu hiện cụ thể ở nhiều phương diện. Chí lớn mà tài sơ là một. Lý tưởng cao mà không có hành động thực tế là hai. Thích đầu cơ mạo hiểm mà tính toán không đủ là ba. Lúc có Xương Khúc hội chiếu, lại ưa thích văn hóa văn nghệ, trong khi nghề nghiệp và chức vị chẳng có liên quan gì đến văn hóa văn nghệ là bốn. Có một nghề sở trường nhưng lại không biểu hiện, đến lúc cần biểu hiện lại không chịu biểu hiện là năm.

Những mâu thuẫn này, chỉ có gặp Hóa Lộc mới có thể giải cứu, làm cho điều hòa, kế đó là được Hóa Lộc ở cung Phúc đức, kế đến nữa là cung Phúc đức hội hợp với Hóa Lộc. Trường hợp sao Hóa ở cung Phúc đức mà gặp Lộc tồn, chủ về người keo kiệt bủn xỉn, không phù hợp với tính cách của Phá quân. Nếu không có những điều như đã luận thuật ở trên, thì mệnh tạo ắt phải gặp nạn tai, hoặc mắc bệnh mãn tính, như bệnh ở não bộ, bệnh về tim mạch, bệnh về thận hoặc đường tiêu hóa. Nếu Vũ khúc Hóa Kị hội hợp với cung Phu thê, lại gặp thêm các sao Hung như Thiên nguyệt, Âm sát, Thiên hình, thì chủ về bị khiếm khuyết năng lực tính dục, hoặc bản thân bị lãnh cảm, hoặc có khuynh hướng đồng tính luyến ái.

Phá quân - Vũ khúc thủ mệnh ở Tị hoặc Hợi

Phá quân và Vũ khúc đồng độ ở Tị hoặc Hợi, cổ nhân đối với kết cấu này chẳng đề cao, mà còn có thuyết"Vũ khúc Phá quân khó quý hiển", về quan điểm này có quan hệ tới thuyết"Vũ khúc ở cung nhàn phần nhiều làm nghề thủ công".

Phàm người Phá quân - Vũ khúc đóng ở cung mệnh, phần nhiều ưa nghiên cứu tìm hiểu về kỹ năng chuyên môn, dù hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, Văn xương, Văn khúc, cũng ít lưu ý đến tri thức chuyên môn đối với lĩnh vực tài chính kinh tế. Quyết không chọn theo con đường lớn, mà chỉ thích làm những công việc thông thường mang tính đơn giản. Nếu cung mệnh có Sát tinh đồng độ, thì nên tập trung vào một nghề cần tay nghề khéo léo để an thân.

Trong xã hội cổ đại, nhất là trong thời đại khoa cử, người có tri thức chuyên môn và tay nghề khéo, thông thường địa vị xã hội không cao. Vì vậy có thuyết"khó quý hiển". Ngày nay, nếu cung mệnh hội hợp với các sao phụ, tá, hoặc gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì có khả năng nhân tài chuyên nghiệp đạt tới đỉnh cao, như kỹ sư, giáo sư khoa kỹ thuật, giáo sư tài chính kinh tế, chủ quản bộ môn tài chính kinh tế ... Dù gặp Sát tinh, cũng có thể dựa vào nghề nghiệp mà mưu sinh.

Thông thường, người Phá quân - Vũ khúc thủ mệnh gặp khó khăn đối với kinh doanh làm ăn, nhưng nếu Tử vi - Tham lang của cung Sự nghiệp gặp Lộc tồn, Thiên mã, hoặc Hỏa tinh, Linh tinh, thì dễ có cơ hội phát đột ngột. Nữ mệnh Phá quân - Vũ khúc, chủ về có khí khái đàn ông, nếu gặp các sao Cát lại gặp thêm Thiên hình, ắt là bậc nữ sỹ được xã hội biết tên, nhưng bất lợi về hôn nhân. Nữ mệnh, trong hạn Lưu niên Phá quân - Vũ khúc, chủ về có cơ hội thay đổi. Thay đổi tốt hay không, cần phải xem gặp các sao Cát Hung thế nào mà định. Rất sợ Hóa Kị, có nguy cơ bị đình chức vụ, hoặc thất nghiệp, gặp Kình dương, Thiên hình thì có thể phải phẫu thuật.

Nữ mệnh Phá quân, chỉ có an mệnh ở hai nơi Tý hoặc Ngọ là tốt nhất, tuy nên kết hôn muộn, nhưng nếu không gặp Sát tinh hay ác tinh, thì vẫn chủ về giai lão bạc đầu, chồng con song mỹ; khi ở Dần hoặc Thân nếu không phải nhị phòng hay kế thất, phần nhiều chủ về chia ly hay hình khắc, hơn nữa còn sớm rời xa cha mẹ, thậm chí làm con nuôi người họ khác, hoặc rơi vào chốn phong trần mà chẳng có gia đình, không nơi nương tựa. Nhưng cũng có nhiều trường hợp suốt đời không lấy chồng, các tình hình như vậy, cần phải xem xét kỹ tinh hệ của các cung mà định. Ở Thìn hoặc Tuất, thì dễ có khí chất văn nghệ, dẫn đến tính cách không hợp với chồng.

Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Phá quân, chủ về có cơ hội bỏ cũ đổi mới, đổi mới có tốt đẹp hay không phải xem các sao ở đại hạn, hoặc lấy lưu niên vài năm sau để định. Nếu Phá quân Hóa Lộc, thì gặp cơ hội mới từ nghề nghiệp cũ. Nếu gặp Vũ khúc Hóa Kị và Sát tinh đến hội hợp, thì chủ về phá tán thất bại, thậm chí sự nghiệp đình đốn.

Chỉ khi Phá quân độc tọa thủ mệnh ở Thìn hoặc Tuất của Lưu niên, nếu gặp Kình dương, thì năm đó chủ về sinh con, nếu không sẽ là tai nạn chảy máu, hoặc có tang.

2. Phá quân ở cung Huynh đệ

Phá quân chủ về anh em ở riêng hoặc hình khắc.

Phàm là Phá quân thủ cung Huynh đệ, bản thân thường là con cả, hoặc tuy ở hàng thứ hai hay ba, nhưng trong một số tình hình tuy không phải là con cả mà cũng giống như anh cả. Như trường hợp anh cả mất sớm hoặc làm con nuôi người khác, hoặc chị gái đi lấy chồng, hoặc bản thân làm con nuôi người khác; nếu không, bản thân cũng gánh vác trách nhiệm của trưởng nam hay trưởng nữ.

Phá quân có lục Cát tinh đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về anh em nương tựa lẫn nhau.

Phá quân thủ cung Huynh đệ, có Sát tinh hội chiếu, thì chủ về hình khắc cô độc.

Phá quân đồng độ cùng với sao Tử vi, chủ về ba người con, nhưng anh em bất hòa hoặc có anh em khác mẹ, đồng sự thì dễ kết bè kết đảng.

Phá quân đồng độ cùng với Vũ khúc, chủ về hai người, gặp Sát tinh thì một người nhưng thiếu hòa mục.

Phá quân đồng độ cùng với Liêm trinh thì chỉ một người.

3. Phá quân ở cung Thê (Phu)

Nam mệnh chủ về khắc vợ, hoặc chia ly rồi lấy người khác, nên kết hôn muộn; thường gặp nhiều sóng gió, trắc trở, gần nhau ít mà xa nhau nhiều, sở thích không hợp nhau, dễ vì giận hờn mà chia ly, trong hạn Cát thì có thể tái hợp.

Gặp thêm lục cát tinh thì tình cảm vẫn ở trong tình trạng thiếu thú vị, hoặc chủ về vợ lớn tuổi hơn chồng, hoặc ở chung mà không có nghi lễ chính thức, hay sau khi kết hôn thì ở hai nơi.

Có Vũ khúc đồng độ chủ về sinh ly, có thêm Hóa Kị chủ về người phối ngẫu bị nạn tai bệnh tật. Có Liêm trinh đồng độ chủ về có người tình bên ngoài. Đồng độ cùng Tử vi thì nên lấy người lớn hơn tuổi. Nếu gặp Lộc tồn, Hóa Lộc thì trái lại, sẽ chủ về bất lợi cho gia đình, nam mệnh thì vợ chế ngự chồng, nữ mệnh thì chồng có tính gia trưởng, ưa chi phối vợ.

Phá quân độc tọa cung Thê ở Tý hoặc Ngọ, chủ về người phối ngẫu tính cương, vợ đoạt quyền chồng. Phá quân Hóa Quyền thì vợ chồng tuổi tác ngang nhau.

Phá quân độc tọa cung Thê ở Dần hoặc Thân, nữ mệnh chủ về trước hôn nhân hủy bỏ hôn ước, hoặc yêu người đã có vợ, còn chủ về người phối ngẫu bận rộn vất vả. Nam mệnh có thể lấy vợ hiền thục. Nhưng bất kể là nam hay nữ mệnh, đều chủ về vợ chồng gần nhau ít mà xa nhau nhiều.

Phá quân độc tọa cung Thê ở Thìn hoặc Tuất, chủ về vợ tính cương cường. Nếu cung mệnh hoặc bản cung gặp sao Kị, sao Không, Tả phụ, Hữu bật thì dễ chia ly; nữ mệnh nên giúp chồng về sự nghiệp, phối hợp với chồng gánh vác trách nhiệm gia đình.

4. Phá quân ở cung Tử nữ

Sao Phá quân nhập cung Tử nữ, chủ về con đầu bị"hình thương", phần nhiều sinh thiếu tháng, sinh non; nhị phòng hay kế thất sinh con trai thì đỡ hơn, lập con thừa tự trước cũng được.

Phá quân nhập miếu, chủ về có ba con trai, tính cương cường. Gặp sao Lộc thì con cái làm hưng thịnh gia nghiệp.

Phá quân thủ cung Tử nữ gặp tứ Sát, chủ về có một con trai nhưng không đắc lực.

Phá quân gặp Kình dương Đà là, là tương sinh mà có khắc chế, chủ về có một con trai nhưng khó nhờ.

Phá quân gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, chủ về có một con trai nhưng khó nhờ.

Phá quân nhập cung Tử nữ, con trưởng dễ bị phá tướng, hoặc nói cà lăm, sinh thiếu tháng.

5. Phá quân ở cung Tài bạch

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Thất sát tinh

KHÂM THIÊN GIÁM

Sao Thất sát miếu ở Sửu, Mùi, Dần, Thân, Thìn, Tuất, hãm ở Mão, Dậu.

Thất sát là sao thứ sáu của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, hóa khí làm"quyền", cũng là tướng tinh bên cạnh hoàng đế, chủ về"túc sát" (nghiêm và có sát khí), cuộc đời chủ về cô độc, phần nhiều không có tri kỷ. Có thể lợi dụng tính cách độc lập mà phát triển, sáng lập sự nghiệp mới một cách bất ngờ.

Sao Tử vi tương hội với sao Thất sát, có thể giúp cho đế tinh cầm cương ra oai, chuyển hóa thành quyền lực, nhờ có vậy mà khí"túc sát" của Thất sát trở thành hòa hoãn.

Do Thất sát là sao đại tướng, cho nên rất ưa phò tá Tử vi, Thiên phủ, chủ về được quý nhân đề bạt mà hoạn lộ thênh thang. Dù gặp Sát tinh, cũng có thể theo ngành kinh doanh buôn bán mà trở nên giầu có. Nếu theo con đường kinh doanh, chỉ thích hợp với ngành công thương nghiệp, ở môi trường này sẽ là một nhân viên giỏi, năng động và tháo vát, nhưng không nên đầu cơ, vì dễ xẩy ra phá tán mà thất bại; khi đã thất bại muốn trở lại thăng bằng và lấy đà vực dậy, sẽ gặp nhiều trở ngại và rất khó khăn.

Phàm người có Thất sát thủ cung Mệnh, trong đời ắt sẽ có một lần gẫy đổ rất lớn, cung Mệnh mà gặp Địa không, Địa kiếp, Đại hao thì càng nặng. Nếu theo ngành công thương nghiệp, tuy có trở ngại nhưng lòng tin không bị mất, vẫn được sự tín nhiệm, có thể khôi phục nguyên khí, nhưng vẫn không nên đầu cơ mạo hiểm.

"Thất sát Liêm trinh" đồng độ ở Mùi, hoặc Thất sát độc tọa thủ Mệnh ở Ngọ, còn Liêm trinh thủ cung Phúc đức, đều gọi là cách"Hùng tú kiền nguyên", chủ về phách lực hùng hậu. Đây do âm Kim của Thất sát được âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện mà thành hữu dụng. Thất sát thủ Mệnh ở Tý thì tốt kế đó.

Thất sát ở Sửu, tuy có Liêm trinh đồng độ, nhưng là mệnh cách bình thường. Nếu tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, khốn khó, tổn thương, họa hại, nặng thì cuối cùng sinh tàn tật.

Thất sát rất ngại lạc hãm, cũng như không ưa gặp Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, Âm sát, chủ về tính cô độc càng thêm tăng nặng, phúc khí bất toàn. Phần nhiều, mệnh tạo thường tìm đến tôn giáo để giải tỏa tinh thần, tư tưởng nhiều ảo vọng nên thường cảm thấy tâm hồn hư ảo trống rỗng.

Thất sát ở Sửu hoặc ở Mùi, cung Thiên di ắt là Thiên phủ, chủ về bề ngoài cứng rắn mà bên trong giầu tình cảm, phần lớn hay buồn bã không duyên cớ, dễ mủi lòng, còn bất lợi về hôn nhân, cuối cùng dễ có tư tưởng xuất thế.

Thất sát gặp"Thái dương Cự môn" ở cung Đế vượng, gọi là"cát xứ tàng hung" (trong cát có hung), chủ về trong thuận cảnh bỗng sinh biến cố, nên giấu bớt tài năng.

Nam mệnh Thất sát, cung Phúc đức nên gặp các Cát tinh. Nữ mệnh Thất sát, cung Phu nên gặp các Cát tinh.

Thất sát là tướng tinh, các sao Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, cho tới Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đối với nó mà nói, đều rất quan trọng, làm tăng thanh thế cho Thất sát. Vì vậy không bằng trường hợp các sao Cát phân bố đều trong 12 cung, lúc này cách phối trí mệnh bàn được quân bình, đời người giảm thiểu những trắc trở gian nan.

THẤT SÁT TINH BÍ CẤP

Thất sát độc tọa Tý Ngọ

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện xung chiếu là"Vũ khúc Thiên phủ". Khi Thất sát ở Tý, cổ nhân có thuyết"Vũ khúc, Phá quân, Tham lang hội hợp Tý, nhảy sông tự vẫn" (Vũ Phá Tham hội vu Tý, đầu hà nịch thủy), tuy nhiên thuyết này còn phải nghiên cứu thêm. Theo truyền thừa của Nam phái, khi Thất sát ở Tý gặp Vũ khúc, Phá quân, Tham lang, năng lực kháng cự Hung tinh của Thất sát sẽ yếu đi, nếu có đột biến xung lực thì lại không đúng nơi đúng chỗ, cho nên Thất sát độc thủ ở Tý không bằng độc thủ ở Ngọ.

Có điều, Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, chủ về được quý nhân quan tâm, bạn bè trợ giúp. Nếu có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại được Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền ở cung đối diện xung chiếu hiệp trợ, chủ về theo võ nghiệp, hoặc theo nghiệp chuyên quản về tài chính kinh tế, cổ nhân gọi là"văn võ toàn tài". Nhưng nếu có tứ Sát cùng chiếu, lại thêm Thiên hình, Âm sát, Thiên hư hội chiếu, chủ về chết nơi sa trường.

Nếu không gặp Cát tinh, cũng chủ về người có mưu lược, nên theo ngành công thương nghiệp, tuy cuộc đời khó tránh một lần gặp sóng to gió lớn, nhưng nhất định sẽ lại hồi phục đứng lên.

Nếu Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ mà gặp Kình dương, Thiên hình, thì có thể theo nghề bác sỹ ngoại khoa, hoặc nha sỹ. Gặp Vũ khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền ắt thành danh y.

Thất sát và Liêm trinh đồng cung

Sao Thất sát và sao Liêm trinh đồng cung ở Sửu hoặc ở Mùi, tam phương hội hợp với các sao"Vũ khúc Phá quân" và"Tử vi Tham lang", và gặp Thiên phủ ở cung Thiên di. Kết cấu này tuy toàn là sao mạnh, nhưng bị Thiên phủ của cung đối diện gây ảnh hưởng, nên, lại chủ về muốn khai sáng nhưng lại quá thận trọng, sở trường nhất là quản lý tài chính, thường không vì hưng phấn nhất thời mà phạm sai lầm, có điều vẫn khó tránh khỏi chìm đắm trong thú hưởng lạc.

Liêm trinh bị ảnh hưởng bởi Thất sát, nên phần nhiều tâm tính hay thay đổi, vì vậy không thể làm việc quá lâu ở một bộ phận chuyên trách nào, cũng như không thể theo đuổi một sự việc quá dài lâu, khi tình trạng công việc phải tuân thủ theo thời gian lâu dài, thường nảy sinh tâm trạng buồn bực, chán nản, hờ hững, nhiệt tình thuyên giảm, thường không theo đuổi công việc từ đầu đến cuối, do vậy tính kiên nhẫn và khả năng chịu đựng thường ảnh hưởng đến mệnh cách. Mệnh tạo cũng không được thừa hưởng tổ nghiệp hoặc giữ nghiệp của cha, thậm chí còn không ưa kế thừa nghề của cha. Do hay thay đổi, nên đời người cũng khó tránh phải trải qua nhiều gian khổ.

"Thất sát Liêm trinh" ưa biến động thay đổi, nên thích hợp với những chức vị hành chính, do tính chất đào hoa của Liêm trinh bị Thất sát tác động ảnh hưởng, nên có tính yêu thích văn hóa văn nghệ, nhất là thi phú âm nhạc; nếu gặp Văn xương Văn khúc hội hợp, sở thích yêu văn nghệ càng phát triển; nếu gặp thêm các sao Sát Kị cùng tụ tập, phần nhiều khó tránh có những sở thích không lành mạnh phong hoa tuyết nguyệt, mê đắm tửu sắc. Nhưng bất kể thế nào, mệnh tạo sẽ không vì tửu sắc mà khuynh gia phá sản.

Kết cấu tinh hệ giầu tính biến động thay đổi, thích quản lý tài chính, nên thường muốn hợp tác với người để thúc đẩy sự nghiệp kinh doanh, nhưng trong quá trình hợp tác, nếu ở cương vị lãnh đạo hay ở cương vị chủ chốt, thì công việc kinh doanh và sự nghiệp sẽ phát triển không thuận lợi. Có từ hai ba Sát tinh trở lên hội chiếu, thì nên chuyển hướng theo ngành công nghệ.

"Thất sát Liêm trinh" thủ mệnh, chủ về đường hô hấp yếu; nếu có Hồng loan, Thiên hỷ đồng cung và đối chiếu, chủ về mắc bệnh hen xuyễn. Nếu Hóa Kị mà còn gặp Đà la đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh máu mủ. Có Hóa Kị lại gặp tứ Sát hội cùng chiếu, mà không có Hóa Lộc hoặc có Lộc tồn và Văn xương Văn khúc giải cứu, chủ về cả đời thân thể hư nhược, hoặc yểu mạng; Có tứ Sát cùng chiếu mà còn gặp các sao Hình Kị, chủ về các bệnh máu như tăng bạch huyết cầu, thiếu máu bẩm sinh, bệnh máu trắng.

Tinh hệ"Thất sát Liêm trinh" đồng độ, khi mà Liêm trinh Hóa Kị còn gặp tứ Sát, cổ nhân có thuyết"chôn thây trên đường" (lộ thượng mai thi); vào đại hạn Bính (như Bính Tý, Bính Dần, ...), hoặc lưu niên Bính, cần phải đặc biệt cẩn thận, không nên đi xa.

Nữ mệnh gặp tinh hệ"Thất sát Liêm trinh", thường dung mạo ưa nhìn, nhưng khó bị người khác giới dụ dỗ, cung Phu tất có Thiên tướng, nếu không gặp các sao Sát Kị thì hôn nhân hạnh phúc, phu xướng phụ tùy, vợ chồng đồng lòng thì sự nghiệp ắt sẽ phát triển, nhưng phần nhiều dễ vì đối tượng không hợp ý mà kết hôn muộn. Thích hợp nhất là lấy chồng hơn mình tám tuổi trở lên.

"Thất sát Liêm trinh" của đại hạn và lưu niên, chủ về có biến động thay đổi, gặp Cát tinh thì thăng tiến phát triển rộng, hoặc được tăng lương, chủ về có tích lũy; gặp Sát tinh thì không nên chủ động thay đổi. Nếu các sao Hình Kị cùng đến, nhất là Vũ Khúc Hóa Kị gặp Liêm trinh Hóa Kị, mà không gặp Hóa Lộc, Lộc tồn giải cứu, cần phải đề phòng tai nạn chảy máu, không nên đi xa, tránh mọi tranh chấp kiện tụng.

Thất sát độc tọa Dần Thân

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện xung chiếu là"Tử vi Thiên phủ". Lúc Thất sát ở Dần gọi là"Thất sát ngưỡng đẩu", khi ở Thân gọi là"Thất sát triều đẩu". So sánh hai trường hợp, thì Thất sát ở Thân tốt hơn ở Dần.

"Triều đẩu" và"ngưỡng đẩu" đều là cách cục được xem là tốt, chủ về có năng lực quản lý rất tốt, có thể đảm trách công việc một mình. Phát triển bất kể ở nghề nghiệp nào, mệnh tạo thường ở vị trí chủ chốt. Nhất là khi cung Mệnh hoặc cung Thiên di gặp Lộc tồn đồng đô, càng chủ về không phải lo thiếu thốn tiền bạc. Nếu gặp Sát tinh đồng độ hoặc hội hợp, chủ về đường đời nhiều trắc trở, gập gềnh. Một khi Thất sát đóng ở cung Mệnh, thì cuộc đời ắt sẽ gặp phải một lần sóng gió rất lớn. Muốn khắc phục và vượt qua vận hạn này, thì trí lực phải hành động thiết thực và tâm chí không thể nguội lạnh.

Thất sát"triều đẩu" hay"ngưỡng đẩu", thông thường chủ về công việc theo chính giới, như quản lý hành chính, quản lý nhân sự, quản lý công xưởng; nếu có Văn xương Văn khúc hội chiếu, hoặc gặp Tử vi Hóa Khoa ở cung đối diện, có thể theo nghiệp nghiên cứu khoa học kỹ thuật; nếu gặp Thiên phủ Hóa Khoa, có thể theo nghiệp quản lý kinh tế tài chính, hoặc quản lý công thương. Nếu chỉ gặp sao Văn, chủ về là nhà giáo mẫu mực.

Nếu gặp Sát tinh nặng, lại gặp Hóa Kị, Thiên hình, Lộc tồn, Thiên mã, có thêm Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hiệp trợ, chủ về gia nhập quân đội hay cảnh sát, cũng có thể là lãnh đạo chính giới.

Thất sát ưa gặp sao Lộc, vì sao Lộc hóa giải được tính cứng rắn của Thất sát (gặp lộc, cương hóa nhu). Nếu không gặp sao Lộc, mà có tứ Sát cùng hội chiếu, có thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, chủ về cuộc đời bị hình khắc rất nặng, còn chủ về tính"khăng khăng một mực","ngoan cố ương ngạnh", nên khi xử sự thường bộc lộ thái độ kịch kiệt. Vì vậy tuy phú quý nhưng vẫn bị phá tán, thất bại. Còn chủ về nhìn quá cao, tự sùng bái mình, nên khó tránh cuộc đời cô tịch. Tính chất này có thể dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.

Thất sát và Vũ khúc đồng cung

"Thất sát Vũ khúc" đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu; tổ hợp kết cấu các sao cực kỳ mạnh mẽ, cần phải được Tả phụ Hữu bật vây chiếu, nếu được gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, thì những"tế ngộ" trong cuộc đời mới được thuận lợi toại ý; nếu không dễ sống trong tình cảnh cô lập, không có cứu viện, mà còn bị phá tài.

Đặc tính của tinh hệ này là nhạy bén, nhưng lại hay nóng vội, mưu tính nhiều nhưng lại không nhìn xa; tinh tế, sáng suốt, có năng lực làm việc, nhưng lại hay thích sát phạt, cần được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc điều hòa, mới có thể biến thành thông minh, lão luyện, mà không bị rơi vào tệ suy nghĩ thiển cận, bạc tình. Nếu được Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên mã hội chiếu, có khả năng được hưởng phúc trạch dày.

"Thất sát Vũ khúc" ở Mão, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, cổ nhân nói có tai họa"cây đè sét đánh", xã hội ngày nay cần đề phòng thêm tai họa điện giật. Khi ở Dậu, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, chủ về tai họa bất trắc, đột ngột, dễ mắc bệnh ung thư, hoặc bệnh ở đầu.

"Thất sát Vũ khúc" có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về vì lợi lộc mà xảy ra bất trắc; lại gặp Vũ khúc Hóa Kị và Kiếp sát, hoặc có Đại hao đồng độ, chủ về gặp tai nạn trộm cướp; có Kình dương đồng độ, chủ về vì tài lợi mà gẫy đổ; nếu gặp Liêm trinh Hóa Kị, chủ về tai nạn chảy máu hoặc bệnh nặng phải phẫu thuật.

Do hợp lực các sao quá mạnh, khiến cho mệnh tạo luôn sung sức, làm việc có phách lực và nghị lực cao, ở thời tuổi trẻ nếu mạnh dạn bốc đồng làm ăn đầu cơ mạo hiểm, thường không có hiệu quả, chủ về thất bại.

"Thất sát Vũ khúc" tam phương có Lộc tồn Thiên mã đồng độ với"Liêm trinh Tham lang", hoặc Lộc tồn ở cung đối diện hiệp trợ cùng với Cát tinh hội hợp, là điềm tượng"anh hùng mạt lộ gặp quý nhân", chủ về đột nhiên phát đạt trong cảnh khốn khó.

"Thất sát Vũ khúc" hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, sao Hình, thì nên gia nhập quân đội hay cảnh sát hoặc là công tác bảo an. Nếu Sát tinh quá nhiều, chủ về làm đồ tể. Nếu có văn tinh, hoặc gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về hợp với nghiệp bác sỹ ngoại khoa, gặp Liêm trinh Hóa Kị thì thích hợp theo khoa phụ sản.

"Thất sát Vũ khúc" có các sao Sát Hình, mà gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì trái lại, nên làm ăn kinh doanh.

Nữ mệnh"Thất sát Vũ khúc", nên lấy chồng hơn mình ít nhất tám tuổi.

Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên có"Thất sát Vũ khúc", chủ về biến động thay đổi lớn. Thấy có Hóa Kị chủ về bị đình chỉ chức vụ, có nguy cơ vỡ nợ hay sập tiệm; gặp Sát tinh là gặp trắc trở hoặc sức khỏe không tốt.

Thất sát độc tọa Thìn Tuất

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất là nhập"Thiên la Địa võng", cung đối diện là các sao nhu hòa"Thiên phủ Liêm trinh" không thể giúp Thất sát thoát khỏi"Thiên la Địa võng", vậy nên Thất sát phải một thân một mình gắng gượng. Kết cấu tinh hệ kiểu này, khiến mệnh cách phải trải qua gian khổ, miệt mài phấn đấu chẳng hề quan ngại, vì vậy mà sóng gió trùng trùng.

Có thể sáng lập được sự nghiệp trong gian khổ, nhưng mệnh tạo vẫn không hài lòng với những kết quả đã đạt, cũng như những thành tựu mà mình đã đạt được. Không ngừng theo đuổi lý tưởng, mà lý tưởng lại càng lúc càng cao, kế hoạch mới cũng càng lúc càng nhiều, suốt đời không có được một ngày thảnh thơi, nhưng mệnh tạo lấy đó làm nguồn vui.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, đều chủ về mệnh cách là người có chỗ sở trường, có khả năng kiến giải hơn người, ưa Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Lộc Quyền Khoa tam cát hóa hội chiếu hoặc đồng độ, là người văn võ song toàn, lại còn chủ về người yếu thích văn hóa văn nghệ.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, chỉ sợ Liêm trinh Hóa Kị ở cung đối diện xung chiếu ức hiếp, nếu lại gặp Sát tinh trùng trùng, thì cần phải xem xét các cung vị khác, xem cung nào là cung chí mệnh của nó. Nếu cung Tài bạch không tốt, cuộc đời phần nhiều gặp tranh chấp, bối rối khó xử về phương diện tiền bạc. Nếu cung Sự nghiệp không cát tường, cuộc đời nhiều lần bị vỡ nợ, sập tiệm. Nếu cung Tật ách không cát tường, cả đời sức khỏe không tốt, phần nhiều phải phẫu thuật, hoặc gặp một phen hú vía. Nếu cung Phu thê không tốt, bình sinh gặp nhiều sóng gió, trắc trở về tình cảm, hoặc người phối ngẫu gặp bất hạnh. Nếu cung Tử nữ không tốt, con bị nạn tai bệnh tật, yểu mạng, hoặc phạm pháp.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, tam phương tương hội có Tham lang Hóa Kị gặp Sát tinh, chủ về mệnh tạo luôn luôn lo lắng về tiền bạc bị túng thiếu, trong khi tình trạng thu nhập lại không như ý muốn. Đó là vì lý tưởng đặt ở mức quá cao, sự nghiệp mở rộng một cách quá đáng, mà không chủ về bần cùng. Tham lang Hóa Kị ắt sẽ gặp Phá quân Hóa Lộc, càng chủ về một đời chỉ thích khai sáng, mà không chịu thủ thành. Khi Tham lang Hóa Lộc mà không gặp Sát tinh, chủ về cuộc đời mệnh tạo luôn có tiền để dùng, nhưng lại không tích lũy được; còn khi Tham lang Hóa Lộc mà gặp Sát tinh, không những chủ về tiêu xài xa hoa, mà còn thích tổ chức tiệc tùng vui chơi, giao du không biết tiết chế.

Thất sát và Tử vi đồng cung

Thất sát và Tử vi đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa, còn có tư tưởng độc đáo.

Thông thường, tinh hệ"Tử vi Thất sát" có thể xem là tượng trưng cho quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực quá cao, có biểu hiện"khí bá đạo", khiến cho cộng đồng làm việc xa gần rất khó chấp nhận.

Tinh hệ"Tử vi Thất sát" rất cần các Cát tinh hội chiếu. Như có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi"hóa sát làm quyền" của mệnh cách này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như"anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp", khó tránh khỏi có những biểu hiện"tàn nhẫn, bá đạo", chủ về phát triển lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng.

Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được"hình thương, khắc hại".

Nữ mệnh gặp tinh hệ"Tử vi Thất sát", nếu gặp Sát tinh, tuy có cơ hội thay đổi nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải chấp nhận trải qua nhiều sự biến động thay đổi, thì mới có được ích lợi.

Chung

Phàm, Thất sát thủ mệnh, nếu gặp Sát tinh, đời người ắt sẽ có chỗ thiếu sót, hoặc không thể phú quý, hoặc phú quý mà vợ chồng hình khắc phân ly, hoặc hôn nhân hạnh phúc mà lại không có con, hoặc có con mà lại không có con trai, hoặc có con trai mà bản thân nhiều bệnh tật. Nếu Lục thân không có khiếm khuyết, cơ thể khỏe mạnh thì lại không được phú quý. Cho nên cần phải xem xét toàn diện 12 cung để nhận thức những khiếm khuyết đáng tiếc của nó.

Nữ mệnh có Thất sát nhập miếu, gặp các sao Cát như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên vu, Thiên thọ, chủ về phú quý sống thọ, nhưng có chí hướng hơn chồng. Nếu Thất sát ở hãm địa, gặp Hóa Kị, hội hợp với Hung tinh, Sát tinh như Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Thiên hư, Âm sát, Thiên nguyệt, thì nửa đời cô độc, hoặc nạn tai tật bệnh đeo đẳng theo người, chủ về làm kế thất, hoặc ở hai nơi, như vậy cũng làm giảm hình khắc đối với chồng và con cái.

Đại hạn và lưu niên, có Thất sát nhập cung mệnh, nếu Thất sát nhập miếu, gặp các Cát tinh, chủ về sự nghiệp gặp cơ hội chuyển biến tốt, làm công ăn lương thì chủ về được thăng chức hoặc chuyển đổi công tác tốt hơn. Nếu lạc hãm, gặp Sát tinh và Hung tinh, chủ về hình khắc phá tán, thất bại, xem 12 cung để luận giải nguyên nhân ở cung nào? mệnh cách cao hay thấp? Nếu gặp Hung tinh mà được cát hóa, bất kể Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đều chủ về trước nguy sau an. Nếu lạc hãm mà có tứ Sát cùng chiếu, lại gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, chủ về có nguy cơ đến tính mạng.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Phá quân tinh

TỔNG LUẬN

Phá quân là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, thuộc dương Thủy. Trong Đẩu Số, sao Phá quân là"tướng tiên phong", cho nên chủ về"xung phong", mà không chủ về"lui lại phòng thủ". Phàm người có Phá quân thủ mệnh, chỉ có thể"công" mà không thể"thủ", hơn nữa, sau khi"công" thành trì xong cũng sẽ bàn giao cho người khác cố thủ, bản thân lại phải đi xung phong ở trận chiến khác.

Biểu hiện cụ thể của người có Phá quân thủ mệnh, đó là không lúc nào được yên thân, nói về góc độ công việc, ví như người chủ giao nhiệm vụ khó khăn cho anh ta, đợi giải quyết xong khó khăn, người chủ lại điều phái đi làm việc khác, cuộc đời dường như không bao giờ ngồi không mà hưởng, thậm chí còn không được hưởng thành quả do bản thân nỗ lực mà có.

Khi luận đoán tình huống cát hung của Phá quân, cần phải xem xét Phá quân có tính"an định" hay không, và năng lực khai sáng của Phá quân là lớn hay là nhỏ. Điều đáng chú ý ở đây, đó là bản thân Phá quân có thể sáng lập được sự nghiệp hay không, hay chỉ hợp với tính"bận rộn vất vả vì người khác".

Phá quân rất ưa gặp Lộc tồn và Hóa Lộc, ưa nhất là bản thân Phá quân được Hóa Lộc, khi gặp được sao Lộc, chủ về khai sáng có thu hoạch, nếu không gặp được sao Lộc, cuộc đời sẽ chủ về"bận rộn vất vả vì người", chỉ mất công vô ích, còn giá trị của bản thân được hưởng rất ít.

Khi Phá quân Hóa Lộc, mệnh cách sẽ kiêm nhiệm nhiều nghề, nhiều việc, nhiều chức vụ, hoặc gánh vác chức trách một cách quá mức.

Khi Phá quân Hóa Quyền, so với Phá quân Hóa Lộc, thì mức độ vất vả tăng hơn nhiều, nhưng thanh thế thêm phần hiển hách.

Nếu Phá quân không gặp sao Lộc, lại không gặp Hóa Quyền, thì cần phải gặp Tả phụ Hữu bật, mới chủ về có trợ lực, giảm thiểu được vất vả và lo lắng.

Nếu không gặp Cát hóa, lại không gặp các sao Phụ Tá cát, trái lại, gặp các sao Sát Kị cùng đến xâm phạm, thì cuộc đời mệnh tạo chỉ có thể làm công việc thuộc mẫu người chuyên phá hoại, mà thiếu tính khai sáng.

Cổ nhân nói"Phá quân gặp Hỏa tinh Linh tinh, chủ về bôn ba vất vả, phạm pháp kiện tụng" (Phá quân Hỏa Linh, bôn ba lao lực, quan phi tranh môn), còn nói"Phá quân có Kình dương Đà la đồng cung, chủ về bị tàn tật" (Phá quân Dương Đà đồng cung, chủ hữu tàn tật), lại còn nói"Sao Hình và sao Kị đồng cung, chủ về bị tàn tật" (Hình Kị đồng cung, chủ hữu tàn tật), là nói lý lẽ này.

Thâm chí ở cung Sự nghiệp cũng không nên có kết cấu như vậy. Cổ nhân nói"Phá quân gặp Kình dương Đà la ở cung Quan lộc, chủ về đi xứ khác kiếm ăn" (Phá quân Dương Đà quan lộc vị, đáo xứ cầu khất).

Trong số các Cát tinh, Phá quân không ưa Văn xương, Văn khúc, vì khí chất của chúng khác nhau. Cổ nhân nói"Phá quân có Văn xương Văn khúc đồng cung, chủ về một đời là bần sĩ" (Phá quân Xương Khúc đồng cung, nhất sinh bần sĩ). Chỉ khi Phá quân độc tọa ở Dần, có Cát tinh, mới ưa Văn xương, Văn khúc, vì cổ nhân nói"Phá quân ở Dần có Văn xương Văn khúc đồng cung, chủ về quý" (Phá quân Xương Khúc đồng cung vu dần chủ quý).

Liên quan đến Thiên mã, có một số tổ hợp chủ về không ổn định. Bởi lực phá hoại của Phá quân là do khí chất không ổn định, gặp thêm Thiên mã ắt ý chí bất định, rời xa người thân, lưu lạc phóng đãng, không làm nghề chính đáng. Nữ mệnh Phá quân nếu gặp thêm đào hoa, càng chủ về ý chí bạc nhược, thấy mới là thay đổi. Khẩu quyết của phái Trung Châu là"Phá quân không có cát hóa, Lộc tồn và Thiên mã hội hợp với Sát tinh, nam nữ mệnh đều chủ về phóng đãng. Nữ mệnh đẹp thì cũng như Hồng Phất" (Phá quân vô cát hóa, Lộc Mã hội sát, nam nữ lãng đãng. Nữ mệnh giai giả diệc như Hồng Phát), theo sách sử, Hồng Phất là tỳ của Dương Nghiệp, người đời Đường, đã lén bỏ theo Lý Tịnh.

Sát Phá Tham đều chủ về biến hóa thay đổi, nhưng tính chất hoàn toàn khác nhau.

Biến hóa thay đổi của Tham lang thiên về nhu hòa, có ý vị tư lợi, phấn son, trang điểm, do đó chủ về ngầm thay đổi, không có hành vi bộc lộ kinh thiên động địa, thậm chí cũng có ý vị tu bổ, bảo trì, sửa chữa.

Biến hóa thay đổi của Thất sát có thể đến đột ngột, khiến người ta không liệu tính được, hơn nữa, sự biến động thay đổi của Thất sát chưa chắc có liên quan đến chuyện cũ, nghề cũ, có thể là một hành động hoàn toàn mới, như đồi việc làm, đổi nghề.

Biến hóa thay đổi của Phá quân, thì phải"từ chuyện cũ mà sáng lập ra cái mới", từ việc nhỏ đến việc lớn, bất kể cải biến ra thứ to tát gì, cũng đều có liên quan đến chuyện cũ. Do Phá quân có ý vị"phá hoại trước rồi mới kiến thiết sau", do đó nguyên nhân sẽ vì"chuyện cũ" mà phát sinh khó khăn. Sau khi giải quyết xong những khó khăn này lại khai sáng cục diện mới. Người có Phá quân thủ mệnh đặc biệt vất vả là vì lý do này.

Sau khi Thất sát và Tham lang biến hóa thay đổi, có thể an hưởng thành quả của mình, còn Phá quân thì không, lại chủ về"công" mà không chủ về"thủ", nếu Phá quân ở tình cảnh bị buộc phải"thủ", trái lại, sẽ sầu khổ, nếu ở cung Phúc đức thì càng như vậy.

Phá quân chỉ có một tổ hợp tinh hệ cấu tạo, vừa có thể"công" vừa có thể"thủ", gọi là cách"Anh tinh nhập miếu".

Kết cấu của cách này, là khi Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ"Liêm trinh Thiên tướng", có Phá quân của bản cung Hóa Quyền, còn Liêm trinh ở cung đối diện Hóa Lộc đến chiếu, lại có các sao Phụ Tá đến hội hợp, không bị các sao Sát Kị hội chiếu. Đây là thượng cách của Phá quân, cổ nhân nói"Anh tinh nhập miếu, địa vị đến bậc tam công" (Anh tinh nhập miếu, vị chí tam công). Người sinh năm Bính, ngại vì Phá quân không có sao Lộc, hơn nữa còn có Liêm trinh Hóa Kị đối củng, chủ về cuộc đời nhiều lo toan, họa hoạn, thị phi.

Phá quân có một hung cách, đó là khi Phá quân thủ mệnh, chỉ có một mình Văn khúc Hóa Kị đồng độ, không thấy Văn xương đến hội hợp, hoặc tuy có gặp Văn xương, nhưng đồng thời còn gặp các sao Sát Kị Hình, thì được gọi là"Phá quân ám tinh", Văn khúc Hóa Kị trở thành"ám tinh" đối với Phá quân, ở đây không chỉ Cự môn.

Cổ nhân nói"Phá quân và ám tinh cùng ở một chỗ trong nước, làm mộ phần" (Phá quân ám diệu cộng hương thủy trung, tác chủng), khiến cho người đời sau hiểu lầm là nói về tai nạn sông nước, thực ra không phải, mà ý cổ nhân nói"Phá quân gặp ám tinh ở ba cung Hợi Tý Sửu, giống như nhập vào mộ phần, chủ về khốn khó đình trệ, chứ chẳng phải nói tai nạn bất ngờ", ba cung Hợi Tý Sửu thuộc chính phương của thủy, cho nên nói là"trong nước" (thủy trung) mà thôi. Còn việc hiểu lầm Văn khúc là"ám tinh" thành Cự môn"ám tinh", đã xảy ra nhiều tranh cãi. Người biết thì xem đây là điều cực kỳ bí mật, không chịu nói cho ai biết, khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số gặp nhiều khó khăn.

Phá quân ở trong 12 cung luôn luôn đối nhau với Thiên tướng, ảnh hưởng của Phá quân tới Thiên tướng rất quan trọng, đối với Thiên tướng thuộc vào cách nào, thuộc về cách"Tài ấm giáp ấn" hay thuộc về cách"Hình kị giáp ấn".

Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ"Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ; ở Mão hoặc ở Dậu có hệ"Liêm trinh Phá quân" đồng độ. Cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp"Liêm trinh – Phá quân – Thiên tướng"

Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện là hệ"Tử vi Thiên tướng" đồng độ; ở Sửu hoặc ở Mùi là hệ"Tử vi Phá quân" đồng độ. Cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp"Tử vi – Phá quân – Thiên tướng".

Phá quân độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện là hệ"Vũ khúc Thiên tướng" đồng độ; ở Tị hoặc ở Hợi là hệ"Vũ khúc Phá quân" đồng độ. Cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp"Vũ khúc – Phá quân – Thiên tướng".

Cấu tạo tinh hệ

Phá quân quan hệ với các tinh hệ, bố trí của Phá quân trong tinh bàn có sáu loại như sau:

- Ở Tý hoặc ở Ngọ, Phá quân độc tọa, cung đối diện là hệ"Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ.

- Ở Sửu hoặc ở Mùi, Phá quân đồng độ với Tử vi.

- Ở Dần hoặc ở Thân, Phá quân độc tọa, cung đối diện là hệ"Vũ khúc Thiên tướng" đồng độ.

- Ở Mão hoặc ở Dậu, Phá quân đồng độ với Liêm trinh.

- Ở Thìn hoặc ở Tuất, Phá quân độc tọa, cung đối với là hệ"Tử vi Thiên tướng" đồng độ.

- Ở Tị hoặc ở Hợi, Phá quân đồng độ với Vũ khúc.

Phá quân cũng như Thất sát và Tham lang bài bố tại 12 cung trong tinh bàn, khi nhập các cung thuộc Dương (Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất) thì Phá quân độc tọa, khi nhập các cung thuộc Âm (Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi) thì Phá quân đồng độ với một tinh diệu khác. Đặc tính quan trọng này, là cơ sở để luận giải sự phối hợp giữa"mệnh nạp âm", nguyên tắc"hợp Cục nhập Cách" và"tính lý" của các tổ hợp tinh hệ trong mệnh bàn.

Từ các tổ hợp trên có thể biết, các sao có quan hệ mật thiết nhất đối với Phá quân, ngoài Thất sát và Tham lang tương hội ở tam phương, còn có bốn sao Tử vi, Vũ khúc, Liêm trinh, Thiên Tướng.

Thông thường, Phá quân rất ưa gặp Tử vi, bởi vì Tử vi có thể khiến tính"phá hoại" của Phá quân, khi phá hoại thì đúng mục đích, đúng nơi đúng chỗ, khẳng định giá trị và hiệu quả, hơn nữa, còn khiến cho Phá quân giảm bớt lực phá hoại, hay bộc phát phá hoại một cách vô cớ. Trong tình huống này, Phá quân như con ngựa bị cương tỏa, bị kiểm soát, khiến cho cấu tạo của tinh hệ tràn đầy mâu thuẫn. Cho nên, hễ Phá quân thủ mệnh ở Thìn Tuất Sửu Mùi, đều chủ về tinh thần của mệnh tạo bất an, nảy sinh tâm lý khó chịu, thường chủ động tìm cách bộc lộ phát tiết, để giải tỏa sự mất quân bình về tâm lý. Nếu Phá quân gặp các sao Sát Kị, thì phần nhiều cảnh ngộ đời người sẽ trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí, tâm lý mất quân bình càng nặng hơn. Nói"tính phản nghịch" của Phá quân, tức là nói đến kết quả của sự ảnh hưởng kềm chế lẫn nhau giữa hai sao Tử vi và Phá quân khi đồng độ. Tuy nhiên"tính phản nghịch" này sẽ không biểu hiện một cách tùy tiện.

Hệ"Tử vi Phá quân" thêm vào tính chất của sao Thiên tướng, dễ phát triển thành mẫu người có hệ thần kinh kích thích đột biến, trừ khi cung mệnh gặp sao Lộc, mà còn phải tụ tập đủ các Cát tinh, khiến cảnh ngộ đời người thuận lợi toại ý. Nếu không mệnh cách loại này đột nhiên phản ứng dữ dội, mà bản thân họ cũng không thể khống chế kiểm soát được tâm trạng này.

Phá quân và Liêm trinh đồng độ hội hợp trong tình hình tốt, có thể cương nhu chế hóa lẫn nhau. Nếu hội hợp trong tình hình xấu, thì biến thành xung đột thị phi, mệnh cách sẽ không từ thủ đoạn nào để giải quyết mâu thuẫn.

Vũ khúc có tính chất"cô độc và hình khắc", khi hội hợp đồng độ cùng với Phá quân, khiến mệnh cách có tính lạnh lùng, nghiêm khắc một cách quá đáng, dễ phát triển thành tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến bản thân. Muốn thay đổi tính cách này, cần phải có nỗ lực hậu thiên rất lớn. Kết cấu tinh hệ"Vũ khúc Phá quân", rất kị gặp các sao khoa cử công danh, bởi vì, có thể phát triển thành tính nết kỳ quái lạnh lùng, trong khi nội tâm lại rất ưa có danh tiếng. Trời rét thấu xương mà không chịu mặc áo ấm, là mẫu người có kết cấu tinh hệ kiểu này.

Phá quân thủ mệnh không ưa an định

Phá quân có lực phá hoại khá nặng, cổ nhân cho rằng nó hóa khí là"hao". Ý nghĩa của"hao" là"tiêu ma", vì lực phá hoại của Phá quân sẽ không đến một cách đột nhiên, mà thường có mang tính chất"tiêu ma", khiến cho sự tình đang từ tiệm biến chuyển thành đột biến. Hành động của con người ở hậu thiên có thể bổ cứu cho sự thiếu xót của tiên thiên, Phá quân là một ví dụ, bởi vì trong quá trình chuyển biến, mệnh tạo có rất nhiều cơ hội để xoay chuyển tình thế của mệnh cách cũng như của mệnh vận. Khi luận đoán cần chú ý.

Cổ nhân ưa an định, mà không ưa biến động, thay đổi, do vậy không đề cao tính cách của Phá quân. Đối với nữ giới có Phá quân thủ mệnh, nhất là người dung nhan xinh đẹp, cổ nhân nói"Nếu nữ mệnh gặp Phá quân, chủ về không có bà mai mà tự gả","Sao Phá quân tính bất minh", chú thích viết"Đây là sao cô độc dâm dật, không thích hợp với nữ mệnh; thêm tứ sát, ắt sẽ vì gian dâm mà hại chồng, vì ghen ghét mà hại con, không phải vậy thì là xương kỹ, tỳ thiếp thấp hèn". Những nhận xét này, có thể đúng phần nào với xã hội cổ đại, bởi vì phụ nữ thời cổ đại không có sự nghiệp riêng. Người có Phá quân thủ mệnh, cần phải tìm kích thích, để cho tâm lý được quân bình, cho nên dễ dẫn tới gia đình bất hòa, thậm chí luân thường đảo lộn. Nhưng, xã hội hiện đại thì khác, phàm là nữ mệnh có Phá quân tọa mệnh, nhất định không chịu làm bà nội chợ, bởi vì có thể tìm được kích thích từ sự nghiệp, sức mạnh"tiêu ma" của Phá quân cũng từ gia đình dời vào trong cương vị công tác.

Về đại thể, người có Phá quân thủ mệnh, nhất định không chịu sống nhàn hạ, dù sự nghiệp đã thành cục diện ổn định, họ cũng phải tìm cho được chuyện làm để khiến người ta phải kinh hãi. Nếu sức mạnh bảo thủ quá lớn, thì họ dễ trở thành người làm mưa làm gió. Do đó muốn đánh giá Phá quân, cần phải tính đến đặc tính này. Giả dụ có thể đặt người này vào một cương vị độc lập sáng tạo, họ có thể phát huy được sở trường, khiến sự nghiệp có thể thành tựu một cách đột phá, sáng tạo ra cục diện mới. Nếu có ý định không thay đổi, thì không thích hợp với người có Phá quân thủ mệnh. Đây chính là điểm mà cổ nhân đã lấy làm căn cứ, để bình luận về nữ mệnh Phá quân. Vì vậy, ở thời hiện đại, có một số người Phá quân thủ mệnh cực kỳ oan uổng, họ bị xem là"bọn gây ra thị phi". Thực ra, có thể vì thượng cấp của họ không biết dùng sở trường của họ.

Phân biệt các"động tinh"

Trong Đẩu Số, gồm mấy sao có tính chất"động" cần phân biệt một cách tinh tế, như: Thiên cơ, Thất sát, Phá quân, Tham lang, Thiên mã.

Tính"động" của Thiên cơ là"động" của"động não", như thay đổi kế hoạch, mưu tính,...

Tính"động" của Thất sát, Phá quân, Tham lang, về đại thể, là chỉ một giai đoạn biến động thay đổi về sự nghiệp hoặc cuộc sống, như sự nghiệp căng thẳng, nhân sinh quan thay đổi,...

Tính"động" của Thiên mã, là chỉ"động" của thân thể, như đến nơi khác ở, hay đi tiếp xúc công việc, hoặc bôn ba vì sinh kế,...

Đây là đại cương phân biệt các"động tinh", nhưng có lúc về chi tiết rất dễ lẫn lộn. Ví dụ như, nhìn vào mệnh bàn, phát hiện ra mệnh tạo có sự thay đổi về công việc, đây là vì lưu niên gặp Thiên cơ, nhưng cũng có người là vì gặp phải Thất sát, Phá quân, Tham lang, làm sao phân biệt? Về đại thể, vì tính"động" của Thiên cơ mà xảy ra thay đổi, là thuộc về tính hế hoạch, còn vì Thất sát, Phá quân, Tham lang mà xảy ra thay đổi, thì ít nhiều cũng mang ý vị khai sáng.

Ví dụ như, có người bôn ba, bận rộn là vì ảnh hưởng của Thiên cơ, nhưng có người lại vì cung Mệnh hoặc cung Phúc đức gặp Thiên mã. Làm sao phân biệt các trường hợp này? Về đại thể, bôn ba của Thiên cơ vẫn là vì kế hoạch; còn bôn ba của Thiên mã là do nghề nghiệp phải như vậy. Ví dụ như một thương nhân, vì phải bàn bạc kế hoạch đầu tư, nên phải đi máy bay thường xuyên giống như đi taxi, đây là"động" của Thiên cơ, nhưng một nữ tiếp viên hàng không, cũng phải đi máy bay thường xuyên giống như đi taxi, thì lại thuộc tính"động" của Thiên mã, cũng chủ về"động", là"động" do nghề nghiệp phải như vậy.

Ba sao Thất sát, Phá quân, Tham lang ở trong mệnh bàn, là then chốt của sự biến động. Ở xã hội cổ đại, người xưa quan niệm nên"tĩnh" không nên"động", mọi việc đều chú trọng phòng thủ, đi buôn xa không bằng mở hiệu buôn bán tại chỗ, người có học thì sợ sự nghiệp có sự thay đổi, thay đổi thì danh tiếng sẽ không như ý, cho nên ba sao Sát Phá Tham bị xem là"Trúc la tam hạn".

Nhìn từ quan điểm của xã hội hiện đại, sự nghiệp thay đổi chẳng có gì phải đáng sợ, trái lại, đây còn có thể là cơ hội của đời người, do đó cách đánh giá"Sát Phá Tham" cũng sẽ phải khác với thời cổ đại. Tuy về đại thể, mỗi sao đều có tính chất biến động thay đổi trong cuộc đời hoặc sự nghiệp, nhưng mỗi sao vẫn có đặc tính khác nhau.

Tính cách của Thất sát chủ về"độc lai độc vãng", có sức khai sáng mạnh, mà còn"phá hoại trước rồi kiến thiết sau", nhưng thiếu thận trọng. Cho nên, cổ nhân đánh giá không cao người có Thất sát thủ mệnh, cho rằng khó được vinh hiển. Xã hội ngày nay khác với xã hội cổ đại, người có tính cách mạo hiểm, trái lại, sẽ dễ khai sáng sự nghiệp, hơn nữa, cơ hội khai sáng cũng nhiều hơn. Tại sao lại khó vinh hiển?

Phá quân giống Thất sát, cũng có đặc tính phá hoại, chủ về biến động cực kỳ lớn, có thể ảnh hưởng cả cuộc đời, nhưng khi phân tích tỉ mỉ thì vẫn có sự phân biệt. Phá quân thích hợp ở vai trò khai sáng, mà bất lợi ở vai trò phòng thủ, cho nên, sau khi khai sáng sự nghiệp được một thời gian vài ba năm thì bắt đầu chán, mất hứng thú; còn người Thất sát thủ mệnh thì trái lại, vẫn có thể tiếp tục phát triển sự nghiệp. Thất sát tuy có tính"độc lai độc vãng", nhưng lực phá hoại lại nhẹ hơn Phá quân. Vì vậy mà Cổ thư đánh giá Phá quân thấp hơn Thất sát, nói Phá quân là"phóng đãng".

Tham lang cũng chủ về biến động thay đổi, nhưng nhỏ mà còn ổn trọng. Vì vậy thiếu tính khai sáng, tính chất biến động thay đổi lại thiên nặng về quan hệ xã giao. Nên người có Tham lang thủ mệnh chỉ tiếp cận một số người trong nhất thời, qua một thời gian là bắt đầu xa lánh. Nói tính cách này bất lợi đối với sự nghiệp, nhưng ngày nay, tính cách này của Tham lang cần phải có cách nhìn khác, để phù hợp với hoàn cảnh xã hội khi giao thời.

Hiểu rõ những đặc tính trên, khi phán đoán vận trình sẽ mang lại tính chính xác và độ tin cậy cao hơn.

(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com