Sưu tập các bài viết của tác giả Kim Hạc - Ma Y Cung
1. Cách hóa giải các cách Kình đà giáp Kỵ, Hình Tù giáp Ấn, Kiếp Không giáp Kỵ, Hình Kỵ giáp ấn.
Các Bại cách có rất nhiều loại khác nhau, cho nên cách Hóa giải cũng rất đa dạng,
- Như Kình đà giáp Kỵ là Cách làm gì cũng bị trở ngại, thất bại, thì cần Thanh long, hay Long -Hà, cần có Chính tinh Miếu / vượng, nếu Chính tinh Hãm thì lại cần có Tuần/ Triệt + Tứ Cát (vì Nhị Cát thì nhiều khi không vực nổi). Nếu có Nhị Tú (Khoa- Quyền / Quyền - Lộc,) và nhất là Mệnh / Thân phải có Cách Cục mới hay. Vì Long Kỵ, Tứ Cát, Tam minh. V. V là những Cách dễ gặp may, tức dù bị thất bại vẫn có cơ hội ngoi lên.
- Hình Tù giáp Ấn thì cấn Khoa Quyền tường ấn, Binh quyền (Hình) tướng ấn, Lộc quyền ấn tướng,. V. V, tức là tìm những Cách cục nắm Quyền lịnh, thì sẽ hóa giải được, lúc đó là mình có Quyền bỏ tù, giam giữ kẻ khác chứ khó bị ủ tờ, vì Hình Tù giáp Ấn là cách thường dễ bị ngồi nhà lao,
- Hình Kỵ giáp ấn thì cần Khoa- Hóa lộc, Tam minh, Nhị Hỷ v. V, xin hãy ngẫm tại sao? - Kiếp Không giáp Kỵ là cách phá sản, ăn mày thì hay nhất là cần Âm / Dương Miếu, Mệnh / Thân cần có Cách cục tốt, và nhất là Song Lộc. Vì Â / D miếu thì cần Hóa kỵ, như Nguyệt lãng Thiên môn ngộ Kỵ thì quá trời đẹp, lại M/ T hội Song lộc thì thay vì đói rách sẽ phát đại phú mấy hồi, heh heh !!
2. song kị giáp sát thì hóa giải thế nào? Ví dụ song kị giáp Kiếp chẳng hạn, đây là hung cách rất kinh
Song Kỵ giáp Sát tinh có nhiều loại hình, nên không thể giải thích ngắn gọn được. Khi các câu hỏi có tính cách tổng quát, thì các câu trả lời cũng thường có tính cách, khái niệm mà thôi. Trường hợp Song Kỵ giáp Kiếp, nếu giải thích khái quát thì có nghĩa là vì chướng ngại mà xảy ra tai họa / tai bệnh, trong đó chướng ngại có thể là sự khắc kỵ, đố kỵ của nhân sự gây ra, cũng có khả năng là do hoàn cảnh khắc nghiệt gây ra. Nói tổng quan là vậy, nhưng còn tùy thuộc rất nhiều vào từng lá số, ví như Song Kỵ giáp Kiếp tại Cung nào đi với Chính / phụ tinh nào, sẽ cho ra nhiều kết quả khác nhau, biến hóa đa đoan, rất khó lường giải.
3. Kình đà giáp Kỵ là cách làm gì cũng bị trở ngại, thất bại nên cần Thanh long hay Lưu Hà, vậy trong trường hợp Thân cư Phúc (Thái Âm hãm tại Mão hội Tứ linh, Thai Cáo) có Kình Đà giáp Kỵ đồng cung với Long trì ; cung mệnh có Thanh Long ; Phúc, Phụ mẫu, Mệnh, Di có Kỵ, Khoa, Lộc, Quyền Liệu có thể hóa giải được phần nào bại cách Kình Đà giáp Kỵ không ạ?
Thân cư Phúc địa lại có Lộc - 4 Linh + Khoa-Quyền, v,v thì thuộc cách Nhất Thân khoái lạc rồi, ở đây chỉ tiếc có Thái âm hãm và Hóa kỵ, nhưng nếu Âm Miếu thì phúc phận lớn quá, chắc gì Nam phương hoàng hậu đã có diễm phúc như vậy, Vấn đề ở đây không phải là Kình - Đà giáp,, mà chỉ là Âm hãm ngộ Kỵ, tức mắt kém, khắc Mẹ, khắc nữ phái,vv, Ở đây có một tiểu cách là Long -Phượng - Kỵ = có sự khuyết hãm về tai, mũi, hoặc gia thế bị suy sụp khi mình còn nhỏ. Nếu không thấy những tiêu chí này thì cung Phúc này có cách cục tương đối tốt, dù là Âm hãm và Kình -đà giáp Kỵ.
Tuy nói là Kình đà giáp Kỵ, nhưng cách cục khác nhau rất xa, từ ăn đong cho tới đại Quý cách, khác nhau là Phúc/ Mệnh/ Thân có Bại cách / Phú Quý cách gì khác hay không mà thôi, ngộ cát tinh đa thì đỡ lo lắng, phiền hà, có khi còn cần hai thằng em Kình đà này nữa,
Long -Phượng -Kỵ hay Tứ Linh ngộ Kỵ đều có hai mặt tốt và xấu, trong một cung Phúc tốt, (ví dụ như Âm Miếu + Kỵ giáp Kình - Đà + Tứ Linh - Cát tinh,), Long -Phụng -Kỵ hay Tứ Linh -Kỵ là cách cục của một người đàn bà Quý tộc và kiêu kỳ, đi đâu cũng được tiền hô hậu ủng, vì giáp Kình -đà, ngày xưa thì được hưởng cách này nhiều lắm, xã hội ngày nay thì khó thấy, vì trong các cách đẹp, hai chàng Kình -đà tự biến (nay gọi là tự Hóa) thành những ông hộ tống, dẹp đường, cầm roi (Đà) và gậy (Kình), khi xưa mấy Bà Quý tộc ra đường đều đi kiệu và có gia nhân vung côn múa gậy dẹp cái lũ bình dân dạt qua hai bên để tránh đường cho xe,kiệu đi qua, tên nào léng phéng thì bọn này vút cho mấy roi, hè hè, nhiều khi rớt cả nón, chảy máu đầu là chuyện thường (cũng giống như cách Phong lưu thái trượng, thái trượng là cái gậy, roi ngũ sắc để đi dẹp đường, các Công tử con nhà Quan nhớn ngày xưa thường dùng bọn côn đồ, hay gia nhân mang roi, trượng theo hộ tống mỗi khi đi ăn chơi các nơi đô hội, như Phú Tuvi cũng có cách Tham- đà, phong lưu thái trượng,)
Ngày nay thì bọn Kình -đà thường là gia nhân, gát cổng, Bảo vệ, body guards, cảnh vệ, cảnh sát đi mô tô dọn đường, vv. Tùy cách cục cao thấp khác nhau mà được hưởng. Do đó nhiều khi chúng ta không nên quá có ác cảm với cặp Kình -đà, ta thấy cặp này tại sao lại chỉ giáp Lộc tồn? Vì lẽ chỉ có những tay đại gia mới có tiền để mướn đám gia nhân, bảo vệ, người thường tiền bạc đâu mà phí của trời như vậy.
Và khi sách nói Thất sát trị được Kình - Đà là tại sao? Chẳng có ai giải thích. Thất sát khi ở vị trí tốt đẹp (lá số tốt, có cách cục, hoặc cung hạn tốt) thì tự nhiên có quyền hành, ví dụ như cách Tử -Sát nơi Sinh địa ngộ Quyền -lộc + Cát tinh, nhiều khi lại cần Kình - Đà giáp hội, tức là đã có quyền lại có thêm tay chân bộ hạ (có khi sai đi ám sát hay đánh đập người khác) nữa, cho nên nói Sát trị được Kình -đà, Kình -đà khi này tựa như Tả -Hữu, cho nên sách cũng nói Kình đà là trợ tinh.
Như vậy một trong những tính lý quan trọng của Kình -đà là những Hộ tinh chuyên theo đám người có của (Lộc tồn) và có Quyền chức (Thất sát) để bảo vệ và làm công cụ sai phái, nên khi thấy chúng Giáp Mệnh/ Thân / Phúc mà Cách cục của các Bạn không bèo lắm thì đừng có mà hoang mang. Có khi còn có lợi vì đến Hạn tốt có thể dùng chúng như Tả- Hữu.
4. Tại sao Phá -Liêm Mão / Dậu không nên ngộ Kiếp -Kình?
Cách Liêm - Phá chỉ đồng cung tại Mão và Dậu, một khi đồng cung, thì có chuyện xung đột xảy ra vì Liêm thuộc Hỏa và Phá thuộc Thủy, Thủy Hỏa bất tương dung.
- Liêm có địa tượng là chí công vô tư, là tượng trưng cho bộ phậntư pháp, nói thẳng ra là giới Quan lại, cảnh sát, An ninh, mật vụ. Trên thượng giới (Thiên tượng) thì Liêm trinh được phong tặng là Đan nguyên LA tinh quân, La ở đây là La võng, tức là Thiên la, vì trong chòm Bắc đẩu, Liêm có tọa vị ở trước cung Thiên lao, (lao tù trên thiên đình) có chức vụ kiểm soát sự xuất nhập của Thiên lao nên đã được phong chức như trên. Vì thế khi nói đến Liêm trinh là liên tưởng đến ngục tù, ở Hạ giới cũng vậy.
Trường hợp một, Khi Liêm ngộ Kiếp /Không (cả Không nữa vì Kiếp - Không thường tam hợp) có thể là cơ chế chính quyền đang trong tình trạng nhũng lạm, vì Kiếp / Không cũng có nghĩa là mất đi, mất mát, tức kô còn liêm chính. Khi đó Phá với bẩm tính liều lĩnh, chống phá sẽ làm gì khi đi lại với Kình dương? Đây là một sự chống đối ra mặt, Anh dám chống phá nhà cầm đồ ra mặt hả, bỏ nó dzô, nhà đá, tụi bay ! Đã có sẵn Liêm nhà Pha ngồi ngay bên cạnh mà thằng này vẫn không sợ,
Trường hợp hai, khi này Phá ngộ Kiếp -Không + Kình, thì anh chàng này thường là dân nhà nghèo, rách nát lắm, Phá -Kình hãm thường chỉ là một anh trộm vặt thui, nhưng cũng dễ có ngày chui vào nhà lao. Đây ta chưa bàn đến những anh chống phá bằng hành động chính trị, hoặc là gian thương, đầu cơ tích trữ, vv
Cách này thường thì Kiếp - Kình đồng cung, ngoại chiếu thì nhẹ hơn. Cách tránh né: Cần Tuần -Khoa, hoặc song lộc -tam Minh v v, hay nhất là làm một kẻ thiện lương, có gì bất mãn thì đóng cửa chưởi chó mắng mèo.
5. Một người có mệnh thất sát, thân giáp kình đà, người ấy cho rằng kình đà không làm khó được vì mệnh vốn thất sát- là chính tinh dụng được kình đà, thậm chí kình đà chỉ là những lính gác đáng yêu mà thôi.
Thất sát ở đây không gia K-đ, chỉ có Thân, Thân giáp thì luận ở Thân, hông nên di dời như vậy. Chỉ có Thất sát Miếu / Vượng hợp Mệnh và đa Cát tinh mới sử dụng được K-Đ, tức là phải là một người có chút ít quyền thế và tiền bạc, không phải có Thất sát lèo bèo mà đòi sai vặt hai thằng du đãng này, Thất sát Hãm ngộ K-Đ có khi dễ bị thương tật tứ chi chứ hổng có lợi.
6. Cách Tử Sát của con có được xem Kình Đà là hộ vệ, tay chân không ạ? Lại còn giáp cả KHÔNG KIếP nữa"
Bắt đầu từ giờ Cô sẽ thấy mình thay đổi tính khí, hông còn nhân nhượng và để cho người khác lấn lướt, ăn hiếp nữa, có thể đây chỉ là một cách tự vệ, tính cách của Cô sau này sẽ thuộc loại nội cương ngoai nhu, bên ngoài thì ai cũng thích nhưng có khi cũng nghiêm trang, quyền lệnh lém, điều này sẽ làm cho các anh để í đến mình bị, chột dạ, cứ tự hỏi Bà này thuộc cái loại hình gì đây, khó deal quá, và có thể từ từ rút quân dể bảo toàn thể diện, vì thế nên để í một tý thì ăn tiền ngay.
Cách Tử-Sát tại Tỵ nếu đắc thời thì Kình đà, Không Kiếp nó ngán mình chứ tại sao mình sợ nó? Nếu chưa đắc thời thì cũng không nao núng, dùng miệng lưỡi mà trị chúng nó, miệng người Tử -Sát có gang có thép mờ, chỉ có những thằng,vừa điếc vừa ngu mí dám chống chọi thui, hì hì, nói vậy chứ có Khúc - Xương- Hồng -đào - riêu-Hỷ thì vừa đẹp vừa dịu dàng và ma lực lém, dáng dấp lại, qúy tộc nữa, nhưng mà hồng nhan thì đa truân, níu chịu hạ giá (hạ giá ở đây không phải là for sale đâu, mờ là từ trên cao bước xuống, mỉn cười ví mấy anh bình dân, thì khối thằng chít, / hạ giá = hạ kiệu, hạ chỗ ngồi từ trên cao bước xuống,).
7. Cho cháu hỏi, cung Quan có Liêm Phá Lộc Tồn tại Mão có Địa Không xung, Cung Tài bị Triệt có Địa Kiếp xung. Mệnh có tuần. Cách cục như vậy thì luận về tài và quan chung chung như thế nào ạ?
Địa không, Địa kiếp ở đây hãm địa, Lộc tồn tại Quan có nghĩa là cũng có nghề làm ra tiền, nhưng Phá- không -Lộc = chẳng giữ được tiền, thằng Liêm tích cóp được bao nhiêu thì Phá, Không cũng có dịp xài, mất. Thê và Di cũng bị ảnh hưởng.
Kiếp xung Tài thì Phúc có Kiếp = bất cát, ít khi được ngồi mát ăn bát vàng, sống bình thường, đạm bạc. Kiếp xung Tài = có tiền nhiều thì dễ bị nhòm ngó, mất mát, có Triệt thì cũng ok, vì cửa đóng then gài, nhưng không nên tin tưởng thằng Triệt một cách quá đáng, vì Kiếp- Triệt cũng có khi là lấy mất hết. Kiếp - Không tuy tượng là trộm, cướp, nhưng trên thực tế tài vật bị mất mát có rất nhiều nguyên nhân, chẳng phải cứ là trộm, cướp, ví dụ bị lừa gạt, giựt hụi, bị thua cá độ, bị rơi mất, bị sang đoạt, bị thất nghiệp, phá sản vv. Nhưng đừng bi quan quá mà nhìn đâu cũng bị thua mất, sống là có tiền vô thì có một vài lần trong đời phải bị mất mát, không ai thoát khỏi, vậy cứ bình chân như vại và vui vẻ, forget all about Không Kiếp, cứ nghĩ như là lâu lâu xui xẻo bị Cảnh sát phạt tiền, đi làm là có tiền lại mấy khi.
8. Con xin được hỏi bác ngoài câu phú. Muốn giải tam ám thì cần những gì thưa bác. Tam ám con chỉ mới biết là xấu nhưng chưa biết nó gây họa gì bác ạ.
Người ta nói hóa giải nghe thì phê lắm, nhưng có một phần lớn là chúng đã tự giải rồi, tức là trong cuộc đời chúng nó đã thanh toán ví nhau rồi, ta can thiệp hay không chúng không cần biết, Tam Ám ám vào đâu thì đen đủi đến đó, ám vào cung nào thì nên để í đến cung đó một tý, không thể nói hết cách giải Tam ám, va khi hóa giải có nghĩa là phải chịu thiệt thòi, hy sinh một mặt nào đó,chứ không có cái Hóa giải nào perfect và free cả, ông Thày nào mà nói tui hóa giải này nọ nói nghe ngọt xớt là ổng muốn xớt cái ví của Bạn, hoặc là chẳng hiểu mô tê gì trong việc Hóa giải cả, hoặc là hiểu và đã thấy có hóa giải ngay trên lá số nhưng vì danh lợi hay cái gì đó mà cứ bảo rằng phải cần hóa giải. Như một người có Cung Thê Thái âm Hãm ngộ Tam Ám, lấy vợ thì vợ đầu tiên có thể yểu tử, hóa giải thì dùng Tam Minh / Khoa/ Tuần, nhưng nếu không có giải cách nào cả thì làm sao, không lẽ suốt đời ở giá, các Bạn có cách nào không?
9. Thất sát thủ thân chung thân thị yểu - nghĩa là sao Thất sát thủ cung an Thân thì độc, yểu, giầu, sang thì khó toàn mạng. Bác cho cháu hỏi ý nghĩa câu này là như thế nào? Cách hóa giải nó.
Thất sát là sao thuộc Hỏa biến thành Kim, tức là kim loại đã trải qua sự trui rèn nên tính chất sắc bén còn hơn Kình, Hình. Thất sát là Thượng tướng trên Thiên đình chủ về sát phạt, chết chóc. Thất sát nếu đắc địa thì không có chuyện nghèo yểu, nên ở đây chỉ kuận về Thất sát Hãm địa.
Thất sát hãm thì về số thì nên đi về con đường tu hành là cách hóa giải hay nhất, nhưng nếu biết vậy thì cũng chẳng có mấy ai tin theo, vì khó quá. Thất sát hãm tại Thân, thường là bần hoặc yểu, có khi vừa bần vừa yểu nếu hãm đĩa lại thêm đa Sát tinh. Mệnh là gì? Thân là gì?
Nói đi nói lại không gì hay bằng nói vắn tắc, Mệnh = Hồn (linh hồn), Thân = xác thân, thân thể.
Khi Thất sát hãm địa thì tính cách sẽ xấu đi (Chính tinh nào cũng vậy), có nghĩa là từ anh hùng biến thành gian hùng, từ Thượng tướng biến thành Tướng cướp, đồ tể, kẻ cướp giựt, giết người, lính trận, đao phủ thủ,
Khi ta có Thất sát hãm địa có thể ta thuộc loại người xấu đó hoặc là sống chung cận kề với loại người này. Hoặc là đã có oan gia gì đó. Thất sát hãm lại thêm đa Sát tinh thì càng tệ hại, trường hợp này được ví như là, bạn hổ miên, tức làm bạn với một con hổ đang ngủ, chẳng biết lúc nào nó thức dậy và xơi tái mình.
Cách Hóa giải: đi tu, tu tại gia hoặc làm công quả ở nhà thờ, chùa. Nếu bị tàn tật thì có nghĩa là đã được hóa giải (nếu Thất sát hãm chỉ ngộ Kình -đà, không đa Sát tinh) có thể sống khá lâu như người thường. Hành vận thì cần Đế - Lộc tồn có thể giải, hoặc có thể cưới con vợ Đế - Lộc (bít đâu tìm em đây).
10. Theo một số thầy có kinh nghiệm nói Tam ám chủ yếu ảnh hưởng đến mặt tinh thần là chính, chứ không hẳn ảnh hưởng đến mặt thể xác hay vật chất. Ví dụ tam ám vào cung thê, thì vợ chồng hay cãi cọ xung khắc, nghi ngờ nhau, sự nghi ngờ rất mạnh (nghi vợ về tiền bạc, ngoại tình, hay gì đó..) Làm cho đương số nghĩ ngợi, đau khổ, dằn vặt..
Trường hợp tui đưa ra là Thê cung có Âm hãm ngộ Tam ám (và trên lá số có một vài chi tiết xấu về con vợ nữa nhưng tui lượt bớt), đại khái là một trường hợp khá xấu và nan giải, nên tui mí hỏi í kiến quý bạn. Còn trường hợp mà các Thầy coi tương đối nhẹ hơn, có thể là vì Thê cung có Chính tinh Miếu / Vượng hay có Cát tinh gì đó, cho nên có kết quả nhẹ hơn. Điều này các Thầy nói đúng, phải nói là giải thích rất hay.
Chỉ không đúng là khi nói tam ám chỉ ảnh hưởng trên mặt tinh thần. Trên thực tế thì Tam ám ảnh hưởng lên cả hai mặt, Thần và Xác,
Tui lấy ví dụ sơ qua, Thiên đồng -đà la = mắt hiếng / ham chơi. Cự môn- hóa kỵ = miệng méo / ưa gây ra thị phi. Tham- kỵ = hôi nách, thân thể có mùi / bị tai tiếng vì dâm ô. Tam thai - kỵ = bất nhàn, bất quý / 3 nốt ruồi hình tam giác. Riêu -Sát = hay ghen, đa nghi / đi với Kình -hình có thể gây án mạng,
Đây chỉ phân tích về một Ám, 3 ám thì nặng hơn nữa. Có thể nói hành tung của tam ám di hại trên cả hai mặt là không sai.
11. đồng tử hạn như thủy thượng phao ấu, lão nhân hạn tự phong trung nhiên trúc. Ngộ sát vô chế nãi lưu niên tối kỵ.
Hạn ấu thơ tựa bọt bèo trên sóng nước, Hạn tuổi già như tàn đuốc trước đông phong. Lưu niên có Sát tinh mà vô chế giải là điều tối kỵ.
12. Nhân sinh vinh nhục hạn nguyên tất hữu hưu cữu. Xử thế cô bần sổ trung phùng hồ bác tạp, học chí thử thành huyền vi hĩ.
Đời người khi gặp Hạn Vinh (hạn Tốt) thì cũng có năm Xấu, và trong hạn Nhục (Xấu) thì cũng có năm Tốt.
Ở vị thế cô bần là vì trong (lá) số gồm toàn cách cục tạp nhạp, học đến trình độ xem được như thế cũng đã nắm được điều huyền vi vậy.
Trời, học có mấy chương mà đã khuy được cái lý huyền vi thì mấy ông tác bút này cũng tự sướng nhỉ.
13. Phá, Kình Mão, Dậu: anh hùng một phương.
Liêm Phá tại mão, tuổi giáp, được Khoa Quyền Lộc, Kình Đại, Quan có việt khoa, Âm Dương hãm, ngoài Tướng triệt, lưu hà. Tuổi canh Liêm Phá tại Dậu tam minh, giáp cái mã, cung Quan được hưởng tam hóa, Vũ hóa Quyền, giáp Quang Quý ÂM Dương sáng Vậy tuổi giáp tốt hơn tuổi canh hay tuổi canh tốt hơn? Rõ ràng tuổi giáp độc lập hơn vì nhìn từ mọi phía đều thấy quyền lộc tại mệnh. Liêm- Phá Mão /Dậu, đối cung là Thiên tướng, tam hợp có Tử- Sát và Vũ -Tham, mỗi cung đều thủ hai Chính tinh và phần lớn là các Chính tinh có tính cách quật cường, tham vọng.
Thế nhưng chung quanh Bản cung lại có đến 4 cung VCD, lần lượt rơi vào Phụ, Bào, Thê/ Phu, Tử. 4 cung này đều thuộc người Thân.
Đây quả là một kết cấu lạ lùng, vì các cung phận của Thân nhân đều VCD, tức thuộc loại lực bất tòng tâm, vì thế Cách Phá- Liêm M/D thường xa rời người Thân lúc nhỏ, tự lực mưu sinh, nên có thể gọi cách này là Tứ dã vô Thân cách.
Tuy nhiên cách này lại được đền bù bằng tam cung hội Mệnh đều là Cường cung, cường Tinh như Tài cư Tử- Sát, Tham -Vũ cư Quan, Thiên tướng trấn Di, vô hình chung đã tạo thành một thứ khí thế hùng hậu, dễ dàng cho việc xây dựng sự nghiệp về sau.
Và cũng vì cái thế lực hùng hậu này cho nên người Liêm-Phá M/D có tính cách khá Bá đạo, đôi khi có thể đánh đổi ích lợi của người Thân để chiếm lĩnh sự nghiệp, vì thế có khi bị xem là vô tình, lãnh đạm. Một khi đắc thời họ có thể đứng ở địa thế Miệt thị quần Anh, anh hùng trong thiên hạ là ai? C'est Moi ! Kể cả những Liêm - Phá bình dân cũng vậy, dù đang ở thế hạ phong, vẫn ngẩng cao đầu, Thân phục nhưng ta đây tâm bất phục.
Nội cung Liêm- Phá có Liêm Âm Hỏa, Phá thuộc âm Thủy, cũng lại Thủy Hỏa bất tương dung, nhìn từ bề ngoài có thể người Liêm -Phá vẫn bình thường như mọi người, có khi ôn tồn, hiền lành nhất mực, nhưng nội tâm của họ đôi khi là những cơn xung động ngấm ngầm. Liêm thì tượng trưng cho thể thức Hình pháp, Pháp luật, nói rộng ra là một thứ trật tự xã hội nào đó, Phá là hình tượng của sự chống đối, nếu đồng cung với Kình thì tính cách phản xã hội càng cao, nhưng không có nghĩa là lúc nào anh chàng Phá- Liêm cũng âm thầm chống trả, chỉ có những khi sự nghiệp nằm ngay trên miệng vục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân và gia đình, hoặc xã hội ngày càng chướng mắt. Mang đến đủ mọi thứ áp lực thì anh ta mới có hành động mà thôi.
Liêm - Phá thuộc loại hình Tam âm, hai âm tinh và tọa tại âm cung nên tính cách thường thư sinh nhã nhặn và sâu sắc, Phá lại nhị hợp Cơ- Lương nên bản tính ưa hoạt động không thích ngồi yên một chỗ (trừ khi đi vào con đường nghiên cứu, sáng tạo thì khác vì Phá quân đi cùng Văn tinh có tính nghiên cứu chuyên môn rất cao), Cơ - Lương nhị hợp làm cho Phá - Liêm có nhiều khuynh hướng hoạt động cùng lúc, kiêm cả văn lẫn võ, khi thì thích văn chương lúc thích võ thuật, thuật số, bói toán, đạo giáo, nói chung là thích đủ thứ. Vì thế mà các thầy khi phán đoán một lá số Liêm-phá thường thấy trật đường rầy, vì nó, lung tung quá, không biết có phải đúng là nó hay không nữa.
Một / Liêm Phá tại mão, tuổi giáp, được Khoa Quyền Lộc, Kình Đại, Quan có việt khoa, Âm Dương hãm, ngoài Tướng triệt, lưu hà.
Hai / -Tuổi canh Liêm Phá tại Dậu tam minh, giáp cái mã, cung Quan được hưởng tam hóa, Vũ hóa Quyền, giáp Quang Quý ÂM Dương sáng Vậy tuổi giáp tốt hơn tuổi canh hay tuổi canh tốt hơn? Rõ ràng tuổi giáp độc lập hơn vì nhìn từ mọi phía đều thấy quyền lộc tại mệnh.
Cách một / Tuy Mệnh được Quyền - Lộc nhưng vì Âm -Dương Hãm giáp Quan nên phải chờ sau Trung niên mới có cơ hội áo gấm hoàn hương. Đó là chưa kể Thiên tướng ngộ Triệt cư Di, nhiều khi mất việc làm, thất nghiệp, tình trạng trung niên khó ổn định.
Cách hai / Cung Quan đắc Tam hóa, lại giáp Âm - Dương sáng + Quang - Quý, trung niên hoàn thành đại nghiệp (nói cho kêu một tí), cung hỷ phát xồi, heh heh, Tui xin chọn cách hai.
14. Phá Liêm hãm cư Mão Dậu bằng Nguyệt Đức dĩ từ nhân
Nguyệt đức Quý nhân là một loại cát tinh chủ về Phúc, Thọ. Được NĐ QN tọa thường là người nhân từ, phúc hậu, cuộc đời thường dễ gặp may và hạnh phúc. Tuy chỉ là một tiểu tinh, nhưng tọa ở trục Mão / Dậu được xem là nơi hội họp của chư Thánh, Thần, Phật nên xem như là chỗ Miếu địa của NĐQN, có thể làm nó phát huy tận những đức tính tốt đẹp của nó.
Kim xà rất khó nuôi nhưng sau có người chữa cho bằng cách xin đi qui của phật (tu tại gia ạ) để tránh cách tù tội và dễ nuôi hơn.
Những người Mệnh cung tọa trục M/D thường có nhân duyên nào đó với tôn giáo của họ, khá nhiều người phải mang vào chùa để giải Ách. Tui cũng có một lá số Nam Thân cư Mão địa có Tử - Tham, lúc nhỏ khóc mãi không thôi, có một người đi đường nhìn tướng diện bảo phải mang vào chùa, vào trong chùa thì, im re, lấy Pháp danh cúng kiến xong thì về nhà, từ đó không khóc bậy nữa. Thật tình cũng khó hiểu.
15. mệnh cung cháu tại Dậu có Liêm Phá Kình Lực Hồng, đối cung đào hỉ thành Tam minh. Có tiền mã hậu cái và nhị hợp có phượng các liệu có giải được cách cục toàn hãm địa và kình lực trên không ạ, (Mệnh tam phương xung chiếu không có tuần triệt)
Cách Liêm - Phá bị xem là Hãm địa vì thuở nhỏ thường vất va vất vưởng, tân khổ vì 4 cung Thân nhân đều trống trơn, Anh hên là vì có mấy cung Phụ, Thê, Tử ngộ Tuần Triệt.
Cách Kình - Lực thực ra cũng chẳng phải là một cách xấu như sách nói đâu, một phần í nghĩa của nó là ra sức đóng góp công lao cho một cấp trên nào đó, công trạng không được như mong đợi, nhưng cũng được hưởng chứ không phải là về tay không. Kình - Lực còn có những nghĩa khác như dùng cơ bắp để chơi thể thao, học võ nghệ, có tính ưa chống đối. Vv
Còn vụ Lý Quảng không được phong cho Hầu tước thì không thể trách Vua Hán cảnh đế được, ngày xưa nếu một người được phong Hầu thì phải chia đất cho ông ta, ông ta sẽ có quyền có binh đội riêng và thâu thuế, trưng binh. V. V ngang với một ông Vua nhỏ vậy. Lý Quảng là một Đại tướng tài ba nhất nhì Trung nguyên thời đó, nếu được thụ phong có binh có dân có đất thì sau này ông ta ngứa mình xâm chiếm Trung nguyên mấy hồi, ngoải ra sau vụ bình loạn cùng Châu á Phu, Lý Quảng đã tự tiện lén nhận Ấn tín Tướng quân cùng với tặng vật từ Lương vương, một Tướng kô thể thờ hai Chúa, dù họ có là anh em ruột đi nữa, nếu Hoàng thượng có hỏi í kiến thì tui cũng vote cho việc không phong Hầu. Đây là một việc liên quan đến chính trị, chưa hẵn đã do con Kình - Lực.
16. Tuổi Đinh mệnh tại dậu có Liêm, Phá, Hỏa, Linh, hao, Bạch hổ đồng cung và có Đà, không kiếp tại tỵ. Vậy Tuần tại cung mệnh, khoa nhị hợp có đủ sức có hóa giải được họa cách của cách này không bác?
Tuần tại Mệnh và Khoa nhị hợp làm cho đ/ số hiền ra và học hành cũng khá, Liêm - Phá ngộ Tứ Sát thì ra đời khá vất vả, lý do là vì không có cái nghề nào ra hồn cả, vì thế nên cho theo học một cái nghề nào đó (xảo nghệ an thân) hoặc đi theo đường công chức nhà nước thì cũng khỏi vất vả và được an nhàn tấm thân. Hạn có Hình -Kỵ nên đề phòng sự nghiệp phá bại. Không nên ngộ Kình - Hình dễ bị thương tật.
Tài cung vì có Tử -Sát - Kiếp - không -Đà, không thể hội song Lộc, nên dù là có khí thế cũng khó phát tài. Lá số này thường là những người bình dân như chúng ta mà thôi.
17. "Thiên tướng hãm phùng Dương mẫn, nữ nhân thi luỵ" nghĩa là Nam mạng Thiên tướng hãm địa gặp sao Kình dương thường bị đàn bà làm khổ (khổ vì tình). Vì sao Tướng hãm gặp kình lại xấu như thế. Để tránh việc này thì đương số phải làm gì, hay có sao nào khiến đương số thoát khỏi hoàn cảnh đó không ạ
Thiên Tướng tuy sách nói không có Hãm địa, nhưng gặp đa Sát cũng gọi là Hãm địa, ngoài ra tại cung Mão, Thiên tướng lọt vào Tử địa, tại Sửu / Mùi thuộc Cung khắc Tinh, tại Tỵ là Tuyệt địa đều có thể gọi là Hãm địa.
Tướng tại Mão cung, thì Thê là Vũ - Tham cư Sửu, nói chung bà này thích tiền hơn là tình, làm sao mà biết cái chuyện lạ kỳ dậy?
Vì Vũ - Mộ là thích giấu tiền ở một cái xó xỉnh nào đó, cũng có nghĩa là bị tiền mê hoặc, Vũ là chủ về tiền bạc (Kim tiền), tiền mặt càng tốt ! (Vũ thuộc Kim, trường sinh tại Tỵ đến Sửu cung nhập Mộ, nhập Mộ thì làm gì? Thì là chôn dấu tiền chớ hông lẽ chôn cất bà ta, heh heh, mà bà nì chôn tới hai chỗ lận.)
Lại xét về nội cung thì Vũ Kim được Thổ cung sinh nên thuộc Chủ vị, lúc này Tham Mộc đới Thủy đóng vai Khách vị, cho nên Tham khách phải nghe theo đường hướng của Chủ là Vũ, Tham là Tham lam, tham lận, Vũ thì ai cũng biết là tiền. Như thế bố cục của nhị tinh trong trường hợp này sẽ là Tham tiền. Tham tình chỉ là thứ cấp.
Nên nhớ khi này Thiên tướng đang bị Hãm, Thiên tướng là sao chủ quản về phẩm tước, là Quan lộc văn tinh, nôm na mà nói thì Thiên tướng là một sao chủ quản về Chức vụ và Sự nghiệp ! Đây là một điều rất Quan trọng.
Vì thế khi Tướng bị hãm, tức người chồng có thể là vô công rồi nghề, chức vị lại bé tí, nghề ngỗng thì nay trồi mai sụt, hoặc giả có thể đi bán bia ôm (đẹp trai mà), kẹo kéo gì đó, liệt chư vị có nghĩ rằng cái bà Vũ - Tham này có tiếp tục nằm ôm cái ông đẹp trai bán kẹo kéo này không?
Lại nói về phần ông chồng, Thiên tướng là một sao chủ về tình iêu, khi iêu ai thì trung thành lắm, mờ hay ghen nữa, thêm anh Kình ở đây thì vì ghen mà kình lộn mí bà xã, có thể đánh ghen nữa, chắc bà nì có vụn trộm gì đây, vì Tham lang thì ở mí ông này nhưng cũng thích ông kia, đa tình lắm,
Như vậy thì ai sẽ khổ đây !
Vậy thì chúng ta biết tại sao mấy ông Tàu nói phùng Phủ thì khán Tướng rùi nhé. Mấy vị trí Thiên tướng hãm khác thì dài quá, chắc khi nào có dịp sẽ nói seo.
A quên, riêng trường hợp này thì Cô cũng có thể chọn cách hóa giải rồi, phải không? Nói với đương sự phải trau dồi nghề nghiệp sau này có thể săn sóc vợ con, nếu cứ vô công rồi nghề thì ai giải được đây?
18. Tại sao cổ nhân lại dùng tượng "thạch trung ẩn ngọc" để chỉ Cự môn tí ngọ không? Cự môn tí ngọ khoa quyền lộc Thạch trung ẩn ngọc phúc hưng long.
Cự = To lớn. Cơ = Đá tảng, hòn đá, cơ mưu, cơ hội v. V Vậy một trong những Tượng của Cự- Cơ là Tảng đá lớn = Thạch. Cách nào muốn phát lớn cũng cần có Khoa - Quyền- Lộc, còn gọi là Tam Kỳ, Kỳ = kỳ tài, kỳ năng. Chữ Kỳ này cũng là tên của một loại ngọc ngày xưa, là một họ của loài ngọc jade, cò gọi là Bích ngọc, ngọc Phỉ thúy, tên của loài ngọc này cũng dùng làm tỷ dụ để ám chỉ các vật quý báu. Ẩn = giấu, trốn, bên trong.
Vì cách Cự - Cơ (Tý / Ngọ) thường là xuất thân từ dân dã, chẳng phải thuộc đám quyền quý, không có phong cách nổi bật từ bên ngoài như mấy công tử nhà giàu, cho nên gọi là ẩn, tức núp trong đám dân đen.
Kết hợp của Cự- Cơ (Tý / Ngọ) + Tam hóa = ngọc quý trong tảng đá. = Thạch trung ẩn ngọc. Như vậy Cách này chỉ gọi là Thạch trung ẩn ngọc khi nào có Tam Kỳ gia hội mà thôi. Nếu không có Tam Kỳ và đa Cát tinh thì gọi là Thạch trung chi thạch, trong đá chỉ, có đá mà thui.
19. Cung Phu Tử Sát giáp KHÔNG KIếP, Kình Đà tại sao lại có thể nói là Lấy chồng một là Công an; hai là xã hội đen?????
Tử -Sát cư Tỵ là kẻ có quyền thế, KHÔNG KIếP, Kình đà là đám tay sai cho nên ông Thầy mới đoán là Công an, hoặc anh chị xã hội đen, bây giờ có quỳên thế và sử dụng đám côn đồ có nhiều loại người lắm, như các đại gia, đám cho vay nặng lãi, nhà cầm đồ, vv, nếu lấy Anh chị giang hồ mà cỡ Ông Tướng Bảy Viễn ngày xưa thì cũng nên chúc mừng, tui cũng mê cuộc đời của ông B. Viễn lắm.
Cung thê của một người dính Riêu Kiếp Kỵ, Cô Quả, Hình Khốc Hư nhưng chính tinh hội Hợp Âm Dương Đồng Lương miếu vượng thì chắc cũng bớt được cái xấu phải không ạ?
20. Bác Indochine kính mến, như trong trường hợp này Thất sát ở cung thân gặp Triệt thì sao hả bác:
Cung Thân có Thất sát - Triệt thì có thể hiền khô như người thường, Phúc có Tham- Đà coi chừng dễ bị gái dụ ăn chơi hết tiền đó.
21. Có một số người nhận định rằng, Thất Sát ở đây ám chỉ Lục Sát+Hóa Kị-đa sát, 6+ một =7, nên khi lâm vào cung an Thân thì sẽ yểu. Theo bác thì cái này có hợp lý hơn không, chứ trường hợp Thất Sát thế kia thì oan ức cho những người có Thất Sát quá.
Đáp: -Chỉ có Thất Sát Hãm địa + đa Sát tinh mới thuộc Yểu cách, hoặc hành vận ngộ đa Sát tinh, hoặc có những cách yểu khác gia thêm vào, hoặc Phúc cung quá tệ. V. V mới thuộc bần yểu cách. Chứ không phải Thất Sát nào lâm Thân cũng yểu. Vã lại khi nói phi bần tắc yểu có nghĩa là không phải trường hợp Thất Sát Hãm địa gia Đa Ác tinh nào cũng chết, có những số bần hàn hoặc sống bình thường, có khi giàu nữa là khác Phú chỉ là nói lên một Mặt nào đó của lá số thôi, lá số còn chứa nhiều loại Cách cục khác nữa, cho nên Quý bạn đừng có thấy Thất sát Hãm, cọng đa Sát (3, 4 Sát tinh) mà vội phán thì có thể sai lầm.. Còn Lục Sát lại là Cách khác, Lục Sát lâm Thân/ Mệnh cũng là một yểu cách, nhưng hai Cách này là hai cách riêng biệt, còn Lục Sát + Kỵ = Thất Sát là chiêu mới sáng tác của ông Thầy nào đó thui, không đáng quan tâm.
22. Thất sát dần thân tý ngọ củng tả hữu, khúc xương, khôi việt hội tứ phương phục kẻ anh hùng.
Theo quan điểm của hậu bối đại ý câu phú trên chỉ người có cách này có khả năng thao lược lớn, bất khuất, anh dũng. Vậy theo quan điểm tiền bối câu phú này có đúng trong thực tế không, hay cần những điều kiện đi kèm (vd: câu phú chưa đầy đủ, bổ sung thêm cho một số trường hợp có ngũ hành tương sinh).
Thất sát là sao chủ về tranh đoạt, giết chóc, ngoài ra còn nhiều ý Tượng nữa, một trong số đó thì Thất sát = các hạt đậu, như Quan cung có Thất sát cũng có thể là người buôn bán các loại hạt đậu xanh, đỏ, đỗ phộng, mè, cà phê v. V, Cung Quan/ Mệnh. Của Quan vân Trường có thể là Thất sát, hoặc Đại hạn tiền trung niên có Thất sát, nên thiếu thời có lúc đi giang hồ theo Mẹ bán chiếu, có khi thì bán đậu xanh, nhưng cũng vì Thất sát mà sau này bị ám sát, nếu ông ta chỉ là một anh bán đậu xanh, không tranh danh đoạt lợi, không gây nhiều sát nghiệp thì khả năng chết vì già trên giường bệnh rất lớn, nhưng cái nhìn của một con chim sẻ như ta làm sao cao xa như chí hướng của một loài chim ưng được.
Nếu bỏ ra 5,7 phút tính toán thì khó mà có một cách Thất sát ngộ Lục Cát, thông thường thì những cách Đại tướng chỉ huy những mặt trận lớn chỉ cần hội Nhị, Tứ Cát, có Các Cách về uy quyền như Vũ -Tham, Tham -Hỏa, Thiên không -, Thiên không / Địa không - Hỏa., Tướng - Mã, Vũ- Quyền, Phá- Kình, Sát- Kình, Vũ- Sát v. V Và hay nhất lá Phúc cung phải tốt nữa !
Phúc đẹp thì thường sống lâu, quýnh nhau riết thì bọn bay chết mặc bay chứ tao đây vẫn sống, hè hè, bay càng chết nhiều thì lon lá của tao càng lớn, uy danh càng to. Đời nhiều khi đểu như vậy.
Phụ kiện đi kèm cho một lá số Tứ phương củng phục về Ngũ hành thì thấy có khi cần Mệnh Thổ / Hỏa (đa số Sát tinh thuộc Hỏa / Kim nên nếu Mệnh Thổ / Hỏa thì an toàn hơn), trên thực tế thì có những lá số không cần Ngũ hành tương sinh gì cả mà vẫn phát triển sự nghiệp quân sự, có thể là về mặt Tinh đẩu chúng nó đã giải quyết thỏa đáng mí nhau rồi, ví như Thất sát - Tuần = mình giết người ta nhưng người ta khó giết mình vì đã có " cái thuẫn chắn đạn " hay áo giáp chống đạn là thằng Tuần rồi. Có Khoa- Phượng / Tuần -Phượng / Tam giải / Khoa-Phủ / Tử -Tướng v v = giải được nhiều tai ách.
23. Khốc hư tý ngọ minh danh vũ thế.
Câu phú này đại ý nói về danh của một người, nhưng hậu bối nghĩ người có khốc hư mệnh cung thì cuộc đời củng có ít nhiều bất mãn, phiền muộn. Đã bất mãn mà vẩn có danh vậy danh này là xú danh hay tiếng thơm, hay có danh xong bất mãn.
Mệnh Khốc -Hư đa số thuộc con nhà tế bần, nhà lá vách đất, hoặc sang hơn thì là nhà cũ kỹ mốc meo, tức từ bình dân đi lên, bất mãn, phiền muộn là khi chưa vị ngộ, khi đã đạt được công danh thì mấy anh này mừng hết lớn thì giờ đâu mà bất mãn nữa? Chẳng phải như vậy, Cố tật của mấy ông Khốc -Hư này (cũng như ông Điếu khách) là ưa than thở, phiền trách, thật ra nhiều khi mấy ổng còn giàu có và danh vọng gấp trăm lần những kẻ khác, nhưng cứ gặp mặt là bất mãn, sầu đời. V. V
Cũng như thi sĩ Hàn mặc Tử, có ai mà danh vọng như ổng, nhưng cũng cứ than vãn hết mối tình này rùi đến em gái khác đã bỏ ta ra đi, sau khi thề thốt loạn cả lên, ông này thiệt chắc chưa học qua khóa một tâm ní phụ nữ, chứ liền bà con gái đứng mí anh nào cũng dùng cái chiêu con ma nhà họ Hứa này cả, anh nào cả tin lúa đời ráng chịu, mấy nường hứa rùi đi mí anh khác là quên phén ngay, hihhii,
Nổi danh về mặt nào cũng có, nhưng ai cũng chỉ để ý đến danh thơm cả, kô ai đi ngược hướng cả,
24. Tang Môn thậm khổ ư Thiên La, hung thuyên lãnh đạm
Đây là một câu hỏi về Phú HAY nhất trong Mục này !!! Vì rất khó thích giải, tuy là rất ngắn gọn, nhưng càng ngắn càng, hóc búa chít người.
Tại sao Tang môn lại phải khổ tâm tại Thiên la, lãnh đạm Mẹ Cha??
Trong bài Vọng giang đình của Quan hán Khanh thời nhà Nguyên có câu
Hoa hoa Thái tuế vi đệ nhất, Lãng tử Tang môn thế vô hồi,
Có lẽ nói lên cái tâm trạng của một tên lãng tử bên góc trời phiêu bạc, Nguyên ý của Tang môn = Tang gia đích môn, nhà có Tang. Thìn cung = Thiên la, còn được gọi là Thiên nhai (lưng trời,) tại sao gọi là lưng trời? Tuất, Hợi cung là Thiên môn, đối diện có Thìn -Tỵ cung là Địa hộ (cánh cửa vào Địa giới), Tỵ cung thuộc Tốn = Gió. Tỵ lại chứa Đinh Hỏa và Kỷ Thổ,
Một nơi mà chứa cả Đinh hỏa và Kỷ thổ đó chính là Hỏa đài, các Hỏa đài được làm bằng đất (Kỷ thổ, đất để xây cất), xây trên núi, vào thời kỳ tiên Tần để báo động mỗi khi có giặc Mông xâm lấn Trung nguyên thì đốt lửa (Đinh hỏa) lên thông báo cho nhau, dĩ nhiên là phải có nhiều hỏa đài và đốt ban đêm, ban ngày thì chỉ hun khói lên cho nhiều là tốt. Các Hỏa đài này cũng cần sức gió để thế lửa được mạnh, vì thế gọi là Phong hỏa đài. Đây là lý do Tỵ cung thường được người xưa xem là phong hỏa đài. Hoặc gọi Tỵ cung là Núi. Ngày nay mà nói Tỵ cung là Phong hỏa đài gì đó thì mấy ông Tân học (học văn hóa của Âu/ Mỹ) sẽ bảo cha này chắc điên rồi, (điên = bệnh phong điên)
Cung Thìn là một khoảng đất cạnh rừng vì là lân cung của Dần / Mão (Mão được gọi là Đông Lâm, cánh rừng phía Đông -), khoảng đất bằng này (Thìn thuộc Bình địa mộc = khoảng đất bằng) lại nằm sát bên Tỵ cung (Núi) cho nên được tặng danh hiệu là Thiên nhai (miếng đất cheo reo lưng chừng núi, nhìn xuống vực thẳm, và có nghĩa là nơi tận cùng của thế giới),
Như vậy, Thìn là chốn Sơn cùng và Tuất là nơi Thủy tận. Tang môn thậm khổ ư Thiên la,
Thân là lữ khách, đang cư trú tại Thiên nhai (Thìn) mà nghe tin có Tang Cha / Mẹ, vì Đối cung là Tuất (chỉ nơi Cha mẹ đang cư ngụ) có Hổ -Tang - Tuế = Cha / mẹ mất. (khi Tang cư Thìn thì Tuế cư Dần, Hổ cư Tuất).
Thìn là Thiên la = Thiên lao, nơi lao tù xa xứ. Có thể người này đang bị lưu đày biệt xứ, hoặc ở trong một tình trạng, khó xử nào đó không thể quay về cố hương thăm Mẹ / Cha lần cuối, Đó được coi là sự lãnh đạm đối với mẹ cha (thung huyên). Cũng có thể giải thích ngược lại, Cha mẹ vì xa xôi cách trở đã quên đi người con phiêu giạt, tội tù đang buồn phiền (Tang) nơi chốn tận đầu.
25. Sao Tỵ cung lại có Đinh hỏa và Kỷ thổ ạ
Các sách nói về Ngũ hành, cung vị ngày xưa có trường phái lấy Tỵ cung = gồm Đinh/ Kỷ và Ngọ cung gồm Bính/ Mậu, khác với sách hiện đại không thấy cái chiêu này. Lý do là họ cho rằng Bính = ánh sáng /lửa mặt trời không thể ở Tỵ được, ở Ngọ mới chính vị vì Ngọ thuộc Càn = Trời, mặt trời và Ngọ = chính Ngọ, giữa trưa không có loại lửa nào có thể đại diện cho lửa mặt Trời được.
Theo lý thuyết này thì Cung Ngọ phải có Bính, không thể là Đinh hỏa được !
Còn Mậu là lấy Dư khí của Tuất trong Tam hợp Dần Ngọ Tuất.
Hai Cung Hỏa mà một cung đã chiếm Bính thì cung kia phài là Đinh, vậy Tỵ chứa Đinh và Kỷ, Kỷ là lấy Dư khí của Sửu cung trong Tam hợp.
Tỵ là núi, gió, chỉ có nơi đây mới đốt phong hỏa đài và mấy bác tiều mí đốt than được Áp dụng chiêu này mới giải thích được đâu là Thiên nhai đâu là Hải giác, không thì bó tay.
26. Khi xét tới ngoại hình đương số thì nên chú trọng đến cung gì hả bác (Thân chỉ thế xác, vậy chỉ xét đến cung thân và cung tật thôi phải ko bác).
Khi xét Ngọai Hình thì dùng các Chính tinh trong Mệnh cung trước, như Vũ khúc thì thấp, đầu nhỏ hơn thân (so với tỷ lệ) và mặt tai hơi có dạng vuông tròn, Thiên Lương cư Ngọ thì cao gầy, vv xong xem đến các bộ vị khác thì phải xét hết một hai cung nếu coi cho kỹ, ít ai làm như vậy, khi này thì Bạn phải dùng Hình tượng các Sao để coi tướng, như Long trì là cái gì, Phượng các là gì, Âm -Dương chỉ cái gì, hình, mã, Riêu, Tuế phá, phá toái,. V. V là cái gì.
Thông thường thì chỉ cần dùng mấy cungtam hợp Mệnh là cũng đoán sơ qua hính dáng được rồi.
27. Dương cư Đòai Chấn, lục Mậu lục Giáp phúc nan tồn. (Kình Dương xung chiếu Mệnh cư Dậu hoặc Mão, người tuổi Mậu Giáp cuộc đời lắm tai ương) Con thấy tuổi Giáp được Lộc Quyền(phá hóa quyền, Liêm hóa lộc) xung chiếu cũng không giải được tai họa sao thưa bác
Cách 7 cung/ Vị thì là vùng đất của Thất sát, Tử bình và Tử vi có cùng quan điểm về Thất sát, sách nói Thất Sát chủ tại Thân thì lịch nạn tân, tức kinh qua nhiều nạn tai và khổ ải, Lục Giáp có gốc tại Dần, trải qua 7 vị thì đến Dậu cung, đây là Thất sát chi địa (không phải là sao Thất Sát) và âm Kim thì khắc dương Mộc, nếu có Kình xung chiếu, có nghĩa là Lục Giáp đang ở thế Thất sát Hãm địa lại ngộ Kình - Đà, Cung và Tinh đều thuộc Kim mà Kim đa thì Mộc chiết, nên Phú nói là lắm tai ương.
Cùng lý như trên, Lục Mậu thuộc Thổ có gốc ký sinh tại Thân, cách 7 vị là Mão cung, Lục Mậu nhập Mão là Thất sát chi địa mà cũng là Tử địa, tại đây Thổ khí đang Suy vì ngộ Kình - Đà, lại phùng Vượng Mộc thì sách gọi là Thổ Suy phùng Mộc tất vi Khuynh hãm. Lại theo Tượng số mà luận thì tại Tử địa mà ngộ Kình - Đà (cuốc, xẻng) thì cũng dễ ra nghĩa địa chơi với dế lắm,
Trong khi có câu phú khen thiên tướng xung hóa lộc.
28. thiên tướng ngộ lộc, xung trung tọa cửa mận đào có gã tài chân
Cung Mệnh có Thiên Tường gặp Hoá Lộc xung chiếu là người có sức quyến rũ đàn bà con gái. Nên hiểu thế nào thưa bác?
Sơn nguyên dạ vũ độ tiên gia triêu phát đông viên đào lý hoa đào hoa hồng hề lý hoa bạch chiếu chước thành ngung phục Nam mạch Nam mạch thanh lâu thâp nhị trùng xuân phong đào lý vị thùy dung,
Thiên Tướng là một chàng đẹp trai, hào hoa thanh lịch, lại biết ăn diện mày râu nhẵn thín, áo quần toàn chơi đồ hiệu, lại có Hóa lộc là tiền trời ơi, từ trên trời rớt xuống mà kô đổ mồ hôi đi cày, Mận đào tức là Đào lý, hoa đào và hoa lý, tức lúc nào trước cửa cũng có mấy em (đào lý) xôn xao, kô xôn xao sao được, vừa bảnh trai vừa có tiền, biết ăn chơi chìu chuộng mà không cần nao động, chỉ có những em mentally retarded mí kô mở cửa nhòm lén thui, chàng mà đua một chiếc Ducati nữa thì.
29. Như trong môn lục nhâm thì Đinh, Kỷ ký tại cung Mùi và hai can Bính, Mậu ký tại cung Tỵ.
Dựa vào đâu? Lục Nhâm ! Là con trai hay con gái vậy? Môn này tui hỏng rành, nhưng cũng tạm giải cho mấy anh vui, chứ bi giờ đi hỏi ai. Mấy ổng chết mấy trăm năm rùi, sách vở cũng chẳng còn gì, mà mấy cái này nó cũng như là mấy cái Định đề, phải chấp nhận chứ không được xét hỏi, lấy gì tra cứu, Can ký cung của môn Lục nhâm / kỳ môn có khác với Tử bình và Tử vi. Theo Lục nhâm thì Giáp ký tại Dần, Ất ký tại Thìn, Bính/ Mậu ký tại Tỵ. Đinh/ Kỷ ký tại Mùi, Các loại Kỳ môn học chỉ dựa trên 8 Cung hay gọi là bát Môn (theo nguyên lý Bát quái) mà Thiên Can thì có đến một 0 Can, như vậy là dư ra hai, nên ta có hai Cung phải chứa đến hai Thiên can. Thường thì ngày xưa muốn định Cung khí người ta có thể dùng Thiên văn, Thiên Tượng, Tiết khí / Thời tiết để đưa ra những tiên đề và sau đó áp dụng trên thực tiễn. Tỵ cung là Thái Ất, thuộc Hỏa thần, Tỵ vị trí ở gần Trời (Càn) và giũa bình nguyên (Thìn là vùng đất bằng ven rừng), như vậy xét về vị thế thì phải cao hơn bình nguyên (vì gần trời hơn), cái gì cao hơn bình dã thì chỉ có núi non mà thôi.
Tỵ cung lại có Tượng là Phong, Hà, Tuyết, Nguyệt (Hà = cầu vồng, mây ngũ sắc, ráng sớm ban mai / như trong Tử vi cũng có Cách Liêm - Tham cư Tỵ được gọi là Vân lập vô Phong, mây đứng không gió, vì trong câu này dùng đến hai từ Vân (= Hà) và Phong là hai Tượng của Tỵ cung nên vừa có ý nghĩa công danh vật vờ như mây thiếu gió, (vì hội phong vân là gió mây tương hội, ám chỉ công danh đang lúc đắc thời) vừa đủ ý tượng nên được các Cụ ưa thích, chứ không phải muốn nói càn bậy gì cũng cho qua tuốt, Hà ở đây là ráng, mây ửng đỏ trên đầu non, tuyết thì ngày thường chỉ đọng trên núi, nguyệt quải đầu non, nên nói về tượng thì chỉ có Núi mới hội đủ phong vân tuyết nguyệt. Tỵ - Ngọ - Mùi thuộc Nam phương, Ngọ không dùng vì cư Chính vị, trong Lục nhâm Tứ Chính cung Tý Ngọ Mão Dậu không có, hay không cho Can, vì Ký = gửi, nương tựa, ăn đậu ở nhờ, không có địa vị chính thống, do đó không thể trụ tại Chính cung, chính hướng, cho nên mới gọi là Kỳ Môn. Chính khác với Kỳ, ví như thi tuyển ngày xưa cũng có chính khoa và kỳ khoa, kỳ khoa là các khoa đặc biệt, được Hoàng thượng đặc ân cho tuyển dụng vì cần thêm quan lại các cấp. Không dùng, nên còn thừa lại Tỵ chứa Mậu - Bính, thổ chất của núi non là Mậu thổ vì Mậu thổ thuộc loại hậu trọng, có Mậu thổ thì phải có Bính, bỡi Dương hỏa thì sinh dương thổ Nhị Hỏa chỉ lưu lại một tại Nam phương Mùi cung, và tại đây có Đinh âm hỏa ký sinh cùng Kỷ âm thổ.
30. Cho cháu hỏi câu phú về sao Thiên cơ và sao Khốc Hư đồng cung cư Tý Ngọ cho người tuổi Canh (Dương Nữ) làm sao hóa giải bại cách và lý giải ra sao ah.
- "Thiên Cơ Khốc Hư chẳng màng Phổi kia hãy phải lo toan lấy mình" -
Đáp:- Mệnh có Cơ - Khốc - Hư = bị bệnh phổi, ho, lao, phong (đơn).
Tuổi nào cũng bị chứ không riêng gì Canh. Trời lạnh nên ăn mặc đủ ấm, ra đường nên mang khẩu trang (Vn), khi ho, bệnh nhớ đi gặp Bác sĩ, Khoa, Lương, Lộc tồn, Riêu,Y có thể giải (tốn tiền cho Bác sĩ, Dược sĩ).
31. Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục, chủ bần tiện (5, hai 7, TTL) Kiếp Không giáp Mệnh vi bại cục, phi yểu tắc bần.
Kiếp - Không giáp Mệnh, thiếu thời thì dễ mất mạng nếu Mệnh Nhược và hội đa Hung tinh.
Lúc trưởng thành thì hay bị mất mát vật chất (tiền bạc, đồ vật), nếu không thì cũng là loại người hà tiện, có khi keo kiệt.
Mệnh đẹp (có cách cục. Đa Cát tụ) có nghĩa là ta thì giàu mà chung quanh toàn là người nghèo, cách Hóa giải cho người giàu giáp Không Kiếp rất dễ, chịu khó bố thí cho người nghèo khổ quanh mình, họ sẽ mang ơn và nhờ phúc khí này Không Kiếp không làm gì được.
Hóa giải cho người nghèo hay bình dân thì khó hơn, và cũng tùy lá số, khó có thể nói đại lược. Kiếp Không giáp Mệnh vi bại cục, phi yểu tắc bần = Chỉ khi nào Mệnh có thêm Hóa Kỵ, thiếu Cát và có vài ba Hung tinh xuất hiện.
32. "THÂN CƯ TÀI BẠCH LAI KIẾN SONG HAO LỘC QUYỀN KIẾP HÓA tất thành thương nghiệp kỵ mãi miên đơn ngũ cốc Hỏa Hoạn tu phòng nhược phung binh nhận gia lâm".
Thân cư Tài Bạch lai kiến Song Hao Lộc Quyền Kiếp Hỏa Tại sao lại Kiếp, kiếp đây là địa kiếp hay kiếp sát. Cháu không hiểu cách dùng bại tinh ở đây. Với tuổi nào thì hợp câu phú trên ạ.
Đây là một câu Phú chung, dùng cho tuổi nào cũng được.
Tài cung có Quyền - Lộc nếu buôn bán thì dễ giàu, cái này thì ai cũng hiểu, nếu Tài ngộ thêm Kiếp -Hỏa - Song Hao = dễ bị hỏa hoạn, cho nên Phú nói không nên buôn bán những vật phẩm dễ cháy như mùng mền, ngũ cốc v,v
Vì Thân cư Tài nên một khi hỏa hoạn có thể liên lụy đến tấm thân, nên pải đề phòng (tu phòng).
Nhược phùng Binh - Nhận gia lâm, Câu phú đến đây mạch văn còn nữa nhưng đã bị cắt đi không nói hết ý, nhưng Cách này nếu gia thêm Phục - Nhận có nghĩa là bị trộm, cướp vừa phóng hỏa vừa ăn cướp.
Chủ tiệm như vậy phải vừa lo cứu hỏa vừa phải để ý những kẻ vờ vác hàng của mình ra ngoài và, chuồn luôn Kiếp ở đây là thằng Địa Kiếp.
33. Câu phú THIÊN TƯỚNG HữU BẬT PHÚC LAI LÂM mình nên hiểu như thế nào hả cụ?
Thiên Tướng cư Mệnh thì Phúc cung có sao Thất sát, Thất sát có thể đứng một mình một cõi hoặc đi chung với Tử vi, Liêm, Vũ,
Dù đi với sao nào thì Thất sát cư Phúc cũng chủ về tranh đoạt quyền lực hay địa vị, cũng có khi lập công ngoài chiến trận. Thiên tướng là kẻ dũng mãnh, khi lâm sự, đối diện với kẻ địch không hề biết sợ là gì (nhất là khi đã nổi nóng thì ông Trời cũng không sợ), nên Thiên tướng thường được chọn làm dũng tướng,
Hữu bật (với bộ Cung bên cạnh), cung ở đây là cung tên, các đội cung thủ ngày xưa khi ra trận, thường theo sát Chủ soái của mình với mục đích hộ giá. Khi chủ tướng đánh thắng thì truy sát kẻ địch, giết càng nhiều càng tốt. Khi chủ soái, bị thua, tính mệnh sắp lâm nguy, cái đầu rất dễ bị rơi xuống đất thì các đội cung thủ có nhiệm vụ cản trở bước tiến địch quân, phát tiễn xua đuổi tướng soái của địch, hộ tống tướng súy phe ta chạy trốn cho đến chốn an toàn.
Thiên tướng khi xưa ra trận mà thiếu đội cung thủ thì coi như chỉ còn có một / hai cái mạng, nên Phú nói Thiên tướng Hữu bật thì Phúc lai lâm (Phúc mang đến khi hữu sự),
34. "Phụng Long Mão Dậu đôi miền Vượng thì kim bảng chiếm tên ở đầu" và "Phụng Long Mão Dậu số ai, Trước sau vinh hiển trong ngoài nổi danh"
Hai câu trên đều cùng một ý là Phượng Các - Long Trì ở Mệnh (Thân) thì được nổi danh. Xét về cách an sao thì Phụng - Long luôn đối xứng qua trục Sửu - Mùi, do đó chỉ đồng cung tại Sửu hoặc Mùi, và không xung chiếu nhau ở thế Mão - Dậu. Vậy có phải ý hai câu phú trên là chỉ cần một trong hai sao Phượng Các hoặc Long Trì ở Mệnh (Thân),kèm điều kiện Mệnh (Thân) phải tọa ở cung Mão hoặc Dậu, là được nổi danh (tất nhiên phải tính đến số Vượng, mà nếu nó số Vượng thì vô cùng quá, mà đã Vượng thì chắc gì đã cần Phụng - Long mới ngon)? Nếu vậy thì có phải là quá đơn giản không?
Long - Phượng tại Mão/ Dậu:
Tuổi Sửu / Mùi = Phượng cư Dậu / Mão. Tuổi Tỵ / Hợi = Long cư Dậu / Mão.
Còn có thể là Tuổi Mão = Long - Phụng đ/ cung tại Mùi. Tuổi Dậu = Long - Phụng đ/c tại Sửu.
Tại các vị trí này đều có Tứ Linh hội tụ, điều này có nghĩa là đi thi dễ đỗ hoặc làm thơ, viết văn, làm báo v. V thì có chút đỉnh tiếng tăm, nhưng chỉ trong một địa khu nhỏ mà thôi. Muốn có công danh thực sự thì cần phải hội đủ các điều kiện như:
Có Chính tinh Miếu / Vượng tại Bản cung Gia thêm Cát tinh Khôi - Việt - Khoa. / hay Khôi - Khoa (Việt bị Triệt) / Khoa-Khốc / Xương - Khúc - Khôi - Khoa -Kỵ + Tam Minh / Song Hỷ v,v nếu thêm Quyền / Lộc thì quá tốt Nếu thêm Tam kỳ / Tứ Hóa thì danh tiếng lẫy lừng. Về Thi thơ, bật nhứt là cần Khúc - Xương - KỴ đ/c Mùi địa / Sửu cung thứ chi. Là bậc kỳ tài trong Thi đàn. Hoặc là Khôi -việt - Tả - Hữu - kô- Kiếp Miếu - hành vận ngộ thêm Xương -Khúc - Khoa., tức là Cách Ngũ Cát ngộ Khôi - Khoa, cách này rất hiếm, chẳng có bằng cấp gì mà vẫn trèo lên giựt chức Thi Bá. Các nhà thi bá nào mà chỉ có Khúc - Xương + Khoa - Quyền gì đó nhiều khi Danh thì to mà Thơ thì chỉ xoàng xoàng,
Nếu muốn nổi danh như sấm sét thì cần Kiếp - Không Miếu địa đ/ cung + đa Văn tinh, Quyền - Lộc. U 're absolutely right ! Muốn nổi danh trên đàn văn học mà chỉ cần hai em Long - Phượng để đánh khắp thiên hạ là chuyện khoa học viễn tưởng, Cách cục văn thơ còn nhiều lắm, chỉ trưng ra một ít thui.
35. Con muốn hỏi bác cách Hình Riêu Không Kiếp ở phối cung và cách hóa giải.
Hình -riêu -Không Kiếp hay Hình -riêu -Tang -Mã tại Phu/ Thê cung hay nhất là ngộ Tuần / hoặc Khoa-Tuần, nếu có Tuần thì rất khó bỏ nhau dù rằng cứ hục hặc đòi bỏ cho được. Nếu không có Tuần mà H-R-Không Kiếp chỉ xuất hiện tại Tiểu hạn thì mỗi khi có, chuyện (cãi vã) nên ẵm con lên taxi về nhà ngoại nằm năm bữa nửa tháng, cứ như vậy cho qua hết Hạn, qua Tết, năm sau sẽ tự nhiên đâu vào đấy. Không chỗ nào đi thì phải nhẫn nhịn, vì xã hội ngày xưa cũng gặp rất nhiều lá số có HRKHÔNG KIếP nhưng họ có bỏ nhau bao giờ đâu, có lẽ thời bấy giờ đàn bà ít khi đi làm, phải phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, và xã hội thời xưa lên án người vợ một cách rất khe khắc và không công bằng.
Nếu chỉ có Hình -Riêu thì mức độ hình khắc nhẹ hơn, thường thì không đến nỗi ly dị. Cách này không nên gia thêm Hóa kỵ, hay Phục -Kỵ, vợ chồng sẽ đi dến mức ghét bỏ không muốn nhìn mặt nhau, không nên thêm Cự -Tang, phòng trung lạnh ngắt như tờ, phòng ai nấy ở, ngưới đi cửa trước, kẻ bước cửa sau, không nên ngộ thêm Quan Phù, sẽ tạo thành cách Phù -Hình -K - K, từ yêu dẫn đến hận và thù. Có thể giết (nếu đi với Chính tinh Thất sát / Vũ-Sát / Phá,) và hại nhau, nếu thêm Hỏa tinh là cách đổ dầu thêm lửa, nhất là Sát/ Phá + Hỏa -Hình -riêu (thêm vài hung tinh trong bộ Lục Sát.). Không nên có thêm Khốc - Hư / Tang - Tuế, chủ lắm ưu phiền, v,v
Cách này có một phần là ngoại tình, hoặc lén lút với gái giang hồ, có thể mang bệnh, nhưng đây chỉ là một số ít, ngoài ra có thể vừa ly dị vừa bị trộm (vì có K - K, nếu thêm Phục / Nhận cũng nên đề phòng), sau khi ly dị thì bị sạt nghiệp, bị mất căn nhà đang ở (vì bộ K - K - Kỵ / Không Kiếp - Thiên Không), bị cho uống thuốc chuột (K - K - riêu -Kỵ),
Những ông chồng tuổi Tý nên đề phòng (thuốc chuột), tui tuổi con Mèo mướp chắc không seo.
36. Liêm đà kỵ ở cung thân kim, bản mệnh thổ, làm cho đà la càng mạnh, thì tính người đó có xấu xa hông cụ
- Không dám khẳng định vì trong lá số còn không biết bao là Cách cục nữa chứ đâu phải chỉ có cái tổ hợp Liêm- đà -Kỵ.
37. Kiếp Không giáp Mệnh vi bại cục, phi yểu tắc bần. Cho cháu hỏi là kiếp không hãm giáp mệnh với kiếp không đồng cung giáp mệnh đắc địa cũng vậy?
- Kiếp - Không đồng cung đắc địa không gọi là Giáp Mệnh được, nó không thuộc Cách Không Kiếp giáp Mệnh anh à.
38. "Bệnh Phù ngộ Hình vô nài Chốn ấy thì phải có người phong sang"
Theo câu phú trên thì Phù - Hình sẽ bị bệnh phong sang. Nhưng cháu search khắp nơi mà cũng chẳng có thông tin gì về cái "bệnh phong sang" này là bệnh gì hay bệnh như thế nào cả. Bác lý giải giúp cháu với ạ. Cám ơn bác nhiều nhiều
Cái từ bệnh phong sang chắc ngày nay ít người biết, vì những người lớn tuổi biết về bệnh này gần như đã, ra nghĩa địa nằm hết rùi, xưa kia một trong những đệ tử của tui là một ông Y sĩ Đông y, tui có hỏi phong sang là gì thì ổng có giải thích,
Phong sang còn gọi là Huyết phong sang, vì liên quan đến máu huyểt,, nguồn cơn là do con bệnh trải qua phong nhiệt ẩm thấp, các loại khí này giao cảm với nhau mà thành, lúc khởi đầu ngoài da nổi lên những mụn nhỏ ngứa ngáy và đau đớn vô cùng, nếu dùng tay gãy đờn cò thì các bọc nước sẽ vỡ ra và nó lan ra những chỗ da chung quanh, dịch nước trong bọc có lẫn nước, máu và mủ, sau khi bị phá sẽ để lại vết thẹo í., trên đỉnh đầu bọc ngứa có một vảy cứng tròn như đầu cây kim và có màu đen, nên có khi còn gọi là mục hay nhọt Đầu đinh.
39. Mong bác Kim Hạc giúp cháu hiểu thêm câu phú:"Phá Quân xung phá Văn tinh, tam canh bão vân song chi hận" Văn tinh ở đây có phải nhóm bảy sao gồm: Xương, Khúc, Khoa, Khôi, Việt, Phụ, Cáo không ạ?
Không ! Văn tinh ở đây ám chỉ Khúc - Xương. Vì Phá -Khúc đ/ cung = một bần cách. Phá -Khúc - Xương = bần Nho, bần sĩ, nói nôn na là giới học sinh, sinh viên nghèo. (nếu có Lộc tồn / Hóa lộc tại Mệnh / Thân thì đỡ hơn một chút nhưng vẫn không giàu),
Mấy anh bần sĩ này suốt ngày cứ lo ba cái việc văn chương thi từ, triết học ví lại ngôn ngữ học. Vv. Chả bao giờ để ý đến thế giới $ bạc chung quanh nên làm gì có tiền, chữ nghĩa thì nhiều nhưng đánh 3 ngày kô ra một đồng đô la, Mấy em chân dài lỡ dại thương nhầm ba cái anh sinh viên nghèo học ban Văn chương này, sau một thời gian sẽ tự nhận thức là đã lâu quá mình chưa đi Diamond làm một cú shopping và đi cao lâu (mấy cái restaurants hạng sang) Quận Một thưởng thức mấy cái món gân hổ hầm măng, Gan ngỗng hấp mí đông trùng hạ thảo, thế là mấy em phải đổi, con đường xưa em đi, quay lợi đi mí mí đại za cho đời nó bớt ảm đạm.
Thế là chiều chiều mí anh Phá Khúc - Xương nằm trên con gát trọ nẻ noi tiếp tục ôm chiếc ghi ta (thay vì ôm người đẹp) tróc sơn ca bài:
Ngày ấy có em anh bao giờ buồn
Nay lang thang hoài đường phố không tên
Em nay đâu dồi mà lòng giá buốt
Có con chim lạnh câm,
Đang chờ ngày vui.. Đã qua
Tam canh = 3 canh, ý nói đêm đêm, từng đêm. Nan bão vân song chi hận = không thể chịu đựng được mối hận, đã để em ra đi.
40. Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
Phồn hoa sự tán trục hương trần lưu thủy vô tình thảo tự xuân nhật mộ đông phong oán đề điểu lạc hoa do tự trụy lâu nhân,
Mối tình Thạch Sùng - Lục Châu đã đi vào những mối tình lớn của văn hoc sử TQ / ta cũng nên biết sơ qua về hành trạng kỳ bí của người đẹp này, Lục Châu xuất thân từ Huyện Bác bạch, tại Bạch Châu (xưa một Châu có nhiều Huyện, như nước Nam ta gọi là Giao châu,), nàng họ Bạch sinh ra dưới chân ngọn núi có tên là Song giác sơn, lón lên thành một thôn nữ mỹ diễm bậc nhất trong vùng và là gốc người Việt tộc, người Việt thời xưa xem trân châu (pearl) là một quý vật, nên thường gọi con gái là Châu nương, con trai là Châu lang hay Châu nhi,
Thạch Sùng là người đời nhà Tấn, lúc đó đang làm Thái thú phải dùng đến 3 hộc trân châu để mua được Lục Châu, ông hết lòng ái mộ, xây Kim cốc viên và tự chế các bài ca tặng người đẹp, Lục Tú lúc đó lá một đại quan quyền lực, nghe đại danh của Lục Châu liền phái sứ giả đến ép Thạch Sùng nhường lại, Thạch Sùng đem ra cả trăm người đẹp để hiến tặng, nhưng sứ giả vẫn chỉ đích danh Lục châu, Sứ giả ra về vì họ Thạch kiên quyết từ chối, sau đó Lục Tú mang binh đội đến bao vây Kim cốc, Lúc đó Thạch Sùng đang cùng tân khách yến tiệc trên lầu, nghe tin bị vây cùng người đẹp ra balcony nhìn xuống, Thạch Sùng quay lại nhìn người yêu than: Ta vì nàng mà phải lâm đến tình cảnh tuyệt vọng như thế này ! Lục Châu gạt lệ hồi lâu, nói lời vĩnh biệt xong nhảy lầu tự tiết, Thạch Sùng bị bắt ngay sau đó và bị hành hình ở một cái chợ phía đông thành.
Điếu khách chủ về té, ngã, lại có nghĩa là buồn thương, tang tóc, đi với Tang môn thành cặp Tang - Điếu là liên quan đến, chuyện điếu tang, mất mát, mà cú té ngã của Lục Châu nỗi tiếng đình đám, nên được đưa luôn vào cái môn văn sử của Tử vi..
"lục châu" ở đây là ám chỉ những giọt nước mắt hay ám chỉ về lục thân hay ám chỉ gì khác mà từ "lục" lại viết là (màu xanh lục)? Đem đối với "công dã" thì "công dã hữu luy tiết chi ưu" liệu có phải người sinh thành mắc nạn chịu trói, bị bắt???
41. Như vậy tính ra câu phú có ý nói khi gặp Long Phượng ở Mão Dậu thì nên chú ý thêm dễ có cách văn chương. Mệnh Thân ko nhất thiết đóng ở Mão Dậu, ví dụ Phượng ở Dậu với tuổi Sửu thì Mệnh ở Sửu vẫn có Tứ Linh
Vâng, đúng là như vậy, ngoài ra ở thế Thái tuế cũng được, ví như tại cung Thái tuế mà có Khôi -Việt giáp hay củng + Khoa- Tấu cũng là một cách văn chương, ở đây Tấu thư khá quan trọng vì Tấu có nghĩa là làm Thi / Từ / văn chương lưu loát và tụ họp được nhiều bạn bè. Cách này thì bạn là một ông vua nho nhỏ trên văn đàn, thi văn trang nhã, thanh kỳ. Nhất là có Chính tinh là Thái âm sáng, vì Thái âm chủ là Ngọc thố (sách có câu ngọc thố thanh kỳ), là tinh hoa của Hành Thủy lại ngộ Tứ / Tam linh đều là những biểu tượng của sự thánh khiết. Các Chính tinh khác về khía cạnh thi từ thanh nhã không hay bằng Thái Âm. Nếu Thái âm Hãm thì chỉ là một cây viết nổi trội trên văn đàn local mà thôi, tiếng tăm không thể rộng lớn, tuy rằng về tài nghệ không hẵn Thái âm sáng là phải giỏi / cao hơn Thái âm hãm.
42. Các sách thường nói Thiên Phủ gặp không vong tượng như kho rỗng. Theo cháu tự suy luận thì kho tuy rỗng nhưng vẫn là cái khó. Nên có thể luận là "không giàu tiền bạc nhưng vẫn giữ được các tính chất tốt khác của Thiên Phủ" được không bác. Hay mất là mất hết ạ?
Khi Phủ phùng Không sách nói là Tài suy, có nghĩa là về mặt tài chánh bạn đang ở tư thế Suy, tiền bạc chênh vênh, dường như thấy lúc nào mình cũng cần thêm tiền, thấy mình không đủ tiền. Vì Thiên phủ có nghĩa là bao phủ, bao bọc rộng khắp, tính của người thiên phủ hơi rộng rãi về tiền bạc (nhưng không xài phung phí), bao bọc giúp đỡ người thân, bè bạn, vv, nên ông trời mới cho những người Thiên Phủ có nhiều tiền, đó chỉ là qui trình của hệ nhân -quả.
Khi Thiên Phủ ngộ Không, tài bị Suy, thì về tinh thần, tính cách của Bạn cũng bị khuyết hãm, không thể nói là tốt bằng một Thiên Phủ không ngộ không, có thể là bạn có tính ích kỷ hơn, lo cho bạn hơn là những người chung quanh, đại để là vậy. Dĩ nhiên là chỉ mất một phần nào thôi, tính ôn lương, từ tốn vẫn còn đó.
43. Nhưng cháu thắc mắc là sao thiên tướng lại quan trọng trong việc làm Thầy ạ. Bảo sao nhân vật tướng song lộc thành công nhanh vậy. Tính ra nhân vật này làm thầy tốc độ về tiền và danh phải nhanh gâp 3 ng khác. Về cơ bản tướng chính là kẻ đứng sau tử vi giữ ấn dấu, nói cho oai. Chứ thật ra là anh thử ký, mưu sĩ của tử vi, thay tử vi việc vặt như đóng dấu nhưng đồng thời anh ta cũng hiến ối mưu sâu kế bẩn.
Thiên Tướng là ngôi sao chưởng về Ấn = tức nắm quyền lệnh. Lại là Ty Tước chi tú = là ngôi sao Chưởng quản, coi xét về cấp bật, chức vị. Lại là Quan lộc văn tinh, tức chưởng quản trên mặt giấy tờ về Sự nghiệp.
Điều này có nghĩa là gì?
Kết hợp lại Thiên Tướng - Chưởng Ấn = Tướng ấn, có nghĩa là một ông Tướng chính thức đăng đàn với cái Ấn của Vua ban cho. Đó là khi nói Thiên tướng = Tướng cầm binh.
Còn điển tích của một ông Thầy Bói thì như thế nào? Chúng ta hãy xét:
Một / Ấn là Quyền lịnh. Hai / Tước = Thứ bậc, chức vị. 3/ Quan lộc văn tinh = một ông văn sĩ chuyên khán xét về Công danh, sự nghiệp (có nói rõ là trên giấy tờ).
Kết hợp một - hai -3, ta có:
Một văn tinh có quyền chưởng quản / khán xét về mặt Công danh / sự nghiệp / thứ bậc / Chức vị, rên giấy tờ.
Nếu đó không phải là một ông Thầy Tướng chuyên hành nghề coi số Mệnh thì là cái gì?
44. Xin được phép hỏi bác cách hình kị giáp ấn tại mệnh có tuần đóng liệu có nhẹ đi phần nào và phải hóa giải nó ra sao ạ (và có phân biệt hành của mệnh khác nhau thì nặng nhẹ khác nhau k ạ).
Đáp: Về Cách Hình Kỵ giáp Ấn này trước hết tui xin được lược dịch một đoạn kiến giải của Trung Châu phái như sau:
* Trung Châu phái cho rằng bản chất sao Cự môn đã chứa sẵn đặc tính của Hóa Kỵ, còn Thiên Lương thì mang sẵn tính chất của Hình quan (Quan Tòa, Quan chủ sự Hình đường thời xưa) Sở dĩ khi Cự môn hoặc một tinh diệu nào khác đồng cung với Cự môn hóa thành Hóa Kỵ điều này làm cho Cách Hình Kỵ lai Ấn được thành lập. Hình Kỵ lai Ấn có hai kiểu biến hóa: Lương tính (tốt) và Ác tính (xấu):
- Khi Thiên tướng mất đi sự trợ lực khách quan. Vì cần đối diện với áp lực của hiện thực. Lúc này (ta sẽ thấy) tam phương tứ chính có tả bổ chư tinh diệu cùng với Thiên phủ tạo thành cách tốt., hình thức Hình tù lai ấn này khiến cho độc lập tính của Thiên tướng được tăng cường, biến hành nội viên ngoại phương (í nói trong ngoài đều được tốt đẹp lưỡng toàn), là cách cục có đủ cương nhu tịnh tề. Ngược lại nếu Tam phương Tứ Chính có Tứ Sát củng chiếu, (lúc này) Thiên phủ sẽ biến thành cách Lộ Khố (lộ khố = kho tàng lộ ra, ai muốn lấy gì thì lấy, còn tệ hại hơn là tình trạng Thiên phủ ngộ Không -Kiếp), khi này Hình - Kỵ trở thành một Hung cách thật sự, làm cho Thiên tướng biến thành thế cô lập vô trợ, với nhược điểm là nhu nhược vô năng., càng làm cho Cách cục bị bạo lộ chẳng còn chi.
45. Có lần tui lướt Mạng và đọc thấy những lý luận rất lạ, ví như nói Thiên Tướng là sao nhu nhược nhất trong Chính tinh và rất dễ bị ảnh hưởng gì đó vv, giờ mới biết nguồn gốc từ đâu. Vậy cái Cách Hình -Kỵ giáp Ấn này phải giải thích như thế nào?
Xin vẽ sơ cách cục này:
CỰ / KỴ cư Tỵ ----------- TƯỚNG / LIÊM cư Ngọ ------------ LƯƠNG / HÌNH cư Mùi.
Hình -Kỵ giáp Ấn chỉ có một Cách độc nhất là Thiên Tướng cư Ngọ (Tướng cỡi ngựa, để phân biệt với các Tướng khác, Tướng cư Ngọ là ông Tướng thống lĩnh quân đội đàng hoàng, bỡi vì ông ta đang cỡi ngựa và cầm cây Thương (Liêm, Thương là một Tương của Liêm _), còn Tướng tại Tý là Tướng, cỡi chuột thì không bàn nhé.
Tại đây vì Mệnh có Liêm -Tướng = tức là một ông Tướng liêm chính. Nhị hợp Thiên Lương cư Mùi = Tướng lương thiện, có lương tâm, cũng có nghĩa là trong sạch, không làm gì nên tội.
Nhưng trong cái xã hội chính trị phức tạp của thời xưa, trong Triều ngoài dã cũng chia phe chia phái đấu đá với nhau kinh hồn chứ chẳng trong sạch như nước ao thu đâu, bỡi thế có khi những ông Tướng thanh liêm, công chính, có lòng với đất nước, được lòng cả dân lẫn quân lại bị kết những cái tội vô bằng vô chứng và bị triệu về Kinh cho cai ngục, Hình quan thẩm tới tra lui, đánh đập tra tấn rất man dã trước khi cho mang gông đem ra chợ xử hình. Đó là hình ảnh của vị đại tướng Hàn Tín và Nhạc Phi trong sử Tàu.
Ở đây ta thấy có sự liên đới giữa 3 Cung:
Cự -Kỵ + Liêm -Tướng = có sự nghi ngờ, bài xích, bôi xấu mấy ông Tướng thanh liêm, tại Triều đình (Ngọ cung),
Hinh - Liêm - Tướng = bị Tù ngục. Vì Hình là Hình pháp, hình luật, Liêm ở đây biến thành xà liêm (một Tượng của Liêm là tù ngục), Tướng là một vị Tướng của Triều đình (tại Ngọ = tại Triều dã) đang áp giải phạm nhân. Phạm nhân đây là ông Tướng đang sa cơ, ổng ở đâu? Ai cha, Mệnh đóng ở đây mà còn hỏi.
Tướng -Cự -Liêm -Hình = hình ảnh một ông Tướng mang một cái gông to tổ nái (Cự - Liêm = gông to, vì một Tượng khác của Liêm là cái Gông, cái Cùm).
Hình -Kỵ = bị đánh đập đến mang thẹo. Liêm - Hình - Kỵ = bị tra khảo, đánh đập trong nhà đá, Liêm -Tướng + Cự- Hình = dĩ nhiên là ông Tướng cũng ta thán, cự nự về cái sự bắt nhốt, tra tấn của mình.
Như vậy là mấy ông Hong Kong không hiểu gì cả, đúng hông??
46. Phá quân Xương Khúc hội Lộc thì hẳn không chỉ một người khá. Thậm chí sách ông VDTTL và một vài sách nữa cũng đề cao Phá hội văn tinh cùng Khôi Việt Thai Tọa Tả hữu, cho làm cái chức gọi là Ba Công, tam công
Anh tanhongthuy nói cũng có phần đúng, vì trên thực tế thì Cách Phá - Xương - Khúc đâu phải lúc nào cũng nghèo, bỡi qua một đại vận mới nào khác, Co' Cát tinh tụ hội, Lộc -Quyền triều củng. Vv. Thì có thể mấy ông sinh viên nghèo này nhảy ra buôn bán làm ăn, bỏ cái vụ Văn chương thi phú qua một bên, thì thành ông chủ như ai.
Nhưng vì là đang giải theo Phú, ta phải focus vào một nhóm nhỏ tinh tú nào đó, phân tích chúng một cách tỷ mỷ, để có cái nhìn cơ bản của vấn đề, đó cũng là cách làm việc theo lối phân tích của phương Tậy. Và cũng là để cho phù hợp một cách tự nhiên (không gượng ép, vì chỉ cần một chút gượng ép là hư, có thể đi Sai với tầm nhìn của người xưa.) Với quan điểm của các bậc Tiền bối đã di lưu lại cho chúng ta một kho tàng quý giá là các câu Phú.
Như tui có nhắc nhở, Phú chỉ là những cách cục lớn có nhỏ có, có cách tác dụng đến trọn đời, lại có những cách tạm thời, chỉ xảy ra trong một thời hạn nào đó. Và trong một lá số có nhiều Cách cục chứ không phải một. Mà cũng đừng buồn khi mình có một cách cục văn chương, dù biết con đường thi văn lâu dài khó đưa đến một đời sống sung túc, nhưng những người đã chọn con đường thi thư có thể có một quan niệm khác về sự sống, có thể họ muốn lưu danh hơn là lưu lại tiền bạc. Lưu $ thì chỉ có một vài người nhớ, còn lưu Thi văn thì có thể là muôn đời.
47. Cháu nhờ bác Kim Hạc giải nghĩa cho câu phú Lưỡng sát trùng phùng, sát nhân bất biến Phải chăng là người khát máu ạ? Cháu thấy có người nói đôí với người mệnh kim thì là anh dũng có đúng ko thưa bác
Đúng ra là lưỡng Sát trùng phùng, sát nhân bất biếm nhãn. Vâng đó là cách Thất Sát- Kiếp Sát, là kẻ sát nhân không nháy mắt, tức có máu lạnh, nhưng cách sát nhân này có nhiều loại lắm, và Nhị Sát cũng chưa phải là yếu tố đủ để làm nên một cách cục đa sát, Mệnh nào cũng có người Anh dũng và cũng có thể giết người hàng loạt, chẳng cần phải Mệnh Kim, mấy ông thích Ngũ hành kỳ trận thì nhìn đâu cũng thấy Ngũ Hành hết, nhiều khi là một sự méo mó nghề nghiệp, cũng như có một số Cô giáo tui quen khi về nhá thì la mắng, sai chồng như một thằng đầy tớ, tụi nghiệp mấy ông bạn này lắm, nhưng mà đó là thói quen nghề nghiệp mà, ai chữa được.
48. cung an thân mà có Cự Môn gia thêm Đà La thì thường tính cách thế nào ạ?
Đà thuộc âm tính, tính cách phản đối, phản kháng cũng như Kình, nhưng Kình thì lộ ra còn Đà thì ẩn dấu, nên Cự- Đà khi bất mãn thì có thể không nói nên lời nhưng để trong bụng và tác hại cũng lâu dài hơn. Về Tượng thì là con cá to, mắt lớn và cái kia cũng, không bít có đúng kô? Heh heh,
49. Ông Tôn Tẫn ở trong trướng thì bày mưu đặt bẫy, ra ngoài thì cưỡi trâu xung phong chắc ông này cũng mang số Hình Kị giáp Ấn nên mí bị Bàng Quyên hắn vu oan rùi chặt chân, bỏ ngục,..
Trâu thì chạy chậm hơn ngựa rất nhiều, nói về binh pháp thì có lẽ không ai lại cỡi trâu xông trận, nhưng ra trận dùng trâu thì đối phương khó địch lại vì ngựa sợ cặp sừng và trâu lì lợm hơn, ra trận mà ngựa gặp voi thì cũng yếu thế hơn nhiều nên thời Quang Trung dùng voi nhiều là vậy.
50. Trên một hai cung trên lá số chỗ nào cũng là hình kị hiệp ấn vì thiên tướng luôn giáp cự môn và thiên lương trong tử vi trung quốc, chỉ có mấy cách cục hay nhắc đi nhắc lại: tham linh tham hỏa hình kị hiệp ấn song kị hiệp kị linh xương đà vũ kình hỏa kiếp.. Không phải tự nhiên mà chọn ra mấy cách cục đó làm gốc
Tử vi Đài Cảng trước kia chỉ chuyên dùng Tứ Hóa phi tinh để giải thích vũ tru (chữ của Bút Tre) con người, họ không nghiên cứu để sử dụng Kiếm chiêu, trong khi Tử vi Việt nam tuy thua về mặt Tứ Hóa nhưng sở trường là Chiêu thức, Kiếm chiêu như rừng, thiên biến vạn hóa., càng luyện càng say mê. Còn Tứ Hóa thì lại quá đơn điệu, xoay qua xoay lại chỉ thấy có anh Hóa Kỵ một mình một ngựa tả xung hữu đột, đánh khắp một hai Huyện thì có gì mà thích thú, đó là họ tự đi vào con đường ngõ cụt, chẳng có lối thoát, lâu lâu họ cũng đưa ra một vài chiêu thức gọi là (như các chiêu Linh xương đà vũ, Linh Hỏa Kiếp, Hỏa đà Kiếp, bên trên) nhưng mà trông nó thật lọng khọng, so với cái rừng chiêu thức của Vn ta thì nó giống như giỡn chơi vậy.
Gần đây với sự xuất hiện của VDC và Trương thanh Tiêu thì họ có quay lại đường xưa lối cũ, tức là dùng kiếm chiêu, nhưng vì mới phục hồi, việc nghiên cứu phần lớn là lo giải thích về Cách cuộc, các Tinh Hệ, vv, tức là vẫn đang ở dạng thức cơ bản, chưa ai có dịp đào sâu vào mặt chiêu thức, mà nói về Chiêu thức Kiếm tông thì Vn ta có ai?
Tui nghĩ đó là Buu Dinh, Trình độ chiêu thức của Anh B Đ đi trước Tuvi Đài Cảng rất xa, ngay Trương thanh Tiêu là Đại cao thủ Kiếm tông Thế giới cũng chẳng thể bì kịp nhưng bỡi vì vấn đề là Bụt nhà lúc nào cũng không có linh, với lại có một phần nhỏ cách thức biến nghĩa của chư Tinh của anh ấy bị hiểu lầm và bị nhân rộng ra, nên có một số người hiểu lầm. Tuy nhiên nếu tui là một người nghiên cứu Tuvi ở trình độ Sơ- Trung hay Sơ Cao, thì chắc chắn tui sẽ chọn trường phái B Đ mà không phải là các Trường phái Đài Cảng, vì nó sẽ giúp rút ngắn thời gian học hỏi rất nhiều.
51. Tham Lang Không Kiếp là kỳ cách(cách lạ) giàu sang bất thần"
Tham-Không -Kiếp là cách vì lòng tham mà mất của hoặc trôi giạt giang hồ thì có, còn Tham -Không -Kiếp mà muốn giàu sang bất ngờ thì ít nhất phải có Tài tinh, Tam Minh. Vv. Gì đó chứ chỉ Tham -kô- Kiếp thì có mà đi ăn giựt thì có. Có lẽ đánh máy thiếu hoặc là buồn ngủ viết thiếu một đoạn, cũng có khi nhìn Cách cục chưa được rõ ràng đã vội ghi xuống.
52. Ấn mang vi liệt công hầu Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung
Cụ Nguyễn Mạnh Bảo lý giải trong sách Tử vi bổ túc là Mệnh có Tướng Cáo thì làm đến Công Hầu (hình như là quan lớn được cấp đất đai riêng). Nhưng theo cháu hiểu thì "Ấn mang Vi" thì là Tử Vi - Quốc Ấn. Nghĩa là câu phú có ý nói Tử vi - Quốc Ấn gia Thiên Tướng - Phong Cáo thì có sự nghiệp? Mong bác cho vài lời kiến giải ạ,
- Ấn = Quốc ấn, câu này có 3 Sao: Tướng -Ấn -Cáo, nhưng để nói lên cách cục phong Hầu hay phong tước thì thường phải đủ 4 sao, còn sao Thai Phụ nữa. Vậy Thai phụ ở đâu?
Câu đầu là " Ấn mang, ", như vậy Thai phụ = mang, vì cái ông nhà thơ này ở cái xứ nào không biết mà làm thơ thì ngố ơi là ngố, Tại sao ta có chữ mang, vì ông này cho Thai phụ = phụ nữ có thai = có mang., đơn giản thế thôi, hay là ông này chơi chữ theo kiểu ", ấn dô thì phải có mang, " thì còn chít người nữa, thơ ông này cũng cỡ Bút Tre chứ không vừa, ai muốn hiểu sao thì hiểu,
Ngày xưa muốn phong chức thì một Thái giám hay một đại quan sẽ thay mặt Vua đem áo mão, ấn cáo đến phủ trướng của người được gia phong để chính thức ban thưởng, thiếu một thứ cũng không được, nó thành ra một thứ thông lệ rồi, như gia phong mà thiếu mũ thì đâu có được, hông lẽ tui là quan lớn mà mang áo, triều đình mà ra đường lên xe xuống ngựa mà thiếu cái mão thì hơi kỳ cục. (chữ quan lúc nào cũng có bộ Miên trên đầu).
Vua gia ban Áo = Thiên tướng (một Tượng của T. Tướng là y phục). Thiên tướng cũng chỉ về phẩm tước được ban cho bỡi vì Thiên tướng là sao thống quản về tước vị (Ty tước tinh). Mão = Thai phụ, vì chữ Thai 台 có dạng hình cái nón (đời nhà Thanh các Quan thường đội nón chứ không mang mão, cũng thấy có một dạng mão dưới tròn trên là hình chóp. Và vì thế mà Thai phụ có Tượng là cái nón, mão). Ấn tín = Quốc ấn. Sắc phong = Phong cáo. Như vậy là đầy đủ 4 món Áo mão sắc ấn của một cuộc triều ban nhé,
Chức vị phong đến đâu thì tùy trường hợp, không phải lúc nào cũng được thụ phong Công, Hầu (Vị liệt Công, Hầu) phong kiểu này chắc sau một thời gian thì Vua phải dời ra đảo khỉ mà ở,
Câu Phú này tuy ngô nghê, nhưng cũng đủ bộ lệ của nó, đó là Bộ Tướng -Phụ -Ấn -Cáo = được gia phong tước vị. Trong câu thứ nhì có chữ " Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung " tức là Bộ Tứ này nếu gia thêm Cát tinh (Sao Lành) hội Mệnh thì sẽ thành Cách cục. Thực tế thì tại đại / tiểu hạn vẫn hưởng như thường.
53. "Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay Tham Linh vẫn kể làm số phát mau"
Không phải là mọi người có ấn tượng xấu đối với Không - Kiếp nhưng vì biết rõ tính cách phản phé của Kiếp- Không nên lúc nào người ta cũng phải đề phòng. Phúc cung có Kiếp- Không mà Mệnh / Thân có Tham - Hỏa / Tham -Linh gì đó thì phát mau. Chúng ta không nên ham những cung Phúc đức như vậy, vì chẳng có cái gì control và hướng dẫn cho hai thằng Không -Kiếp, cho nên sau khi phát lên một thời gian ngắn thì thảm họa (những công thức đi cùng với Không Kiếp trong lá số đó) cũng lần lượt đi tới, không xảy đến cho gia đình thì cũng cho bản thân.
Muốn phát mạnh thì Phúc cung phải cần Tam Không hội tụ (Thiên Không - Địa Không - Địa Kiếp) + Tam Minh - (hoặc Đào- Hồng -Nhị Hỷ + Quang -Quý (hay Quang Phúc, chư Phúc thiện tinh) để làm đối trọng và làm hướng đạo khiến Tam Không khó tác họa sau khi phát phúc. Nếu chẳng có lực lượng nào quản chế một cách tốt đẹp, đương nhiên là Nhị Không (Không - Kiếp) / Tam Không sẽ ra oai tác quái sau khi đưa đương sự lên ngôi.
Phúc cung chỉ có Kiếp - Không nếu có phát cũng không tốt là vì vậy.
54. Cung phối con có đủ Hình -riêu -Tang -Mã luôn, nhưng ko được ngộ tuần mà lại ngộ triệt tại thìn, con tuổi 86 mà, liệu triệt thì có tác dụng tốt hơn giống như tuần hông hả cụ.
Hơn nữa, cung phối con còn có thêm cả đà la và địa không, thiên khốc tại chính cung nữa. Tam chiếu từ cung phúc về có hỏa linh và hóa kị. Cung phối con có đủ tam ám riêu đà kị luôn. Tuy nhiên vẫn có may mắn quang quý nữa. Liệu triệt và quang quý có giúp con yên ổn một vk yên bề gia thất được hông cụ. Người ta nói cung phối có tang khốc, thì cưới chạy tang là giải được, điều đó cũng k cụ.
Triệt hay Tuần ở cung Phối đều chỉ có thể giảm bớt / ngăn chận bớt sự tác họa từ khoảng 30 đến 50 % mà thôi, nếu có Sát tinh (Hỏa - Linh -Kỵ..) Từ bên ngoài chiếu về thì e rằng Tuần / Triệt khó lòng ngăn chận, cũng tựa như ta đang ra sức hòa giải cho vợ chồng trong nhà thì đột nhiên bên ngoài có hai, 3 người thân gia nhảy vào và đổ lửa thêm dầu vậy. So sánh về lực lượng thì T/ Triệt - Quang -Quý đang ở vào thế yếu.
Nếu hiểu rõ tính chất từng Sao thì nó có thể giúp cho các Bạn khi gặp các trường hợp đại loại như trên. Ví như T/ T là gì trong trường hợp này, nó phải được cụ thể hóa thì mấy ông Thầy mới phán đoán được chứ nếu có nhìn Tuần Triệt mà chỉ thấy một mớ lý thuyết hỗn độn về hai thằng này và ruốt cuộc không nắm được gì hết, chỉ thấy Tuần Triệt chính là T/ T hoặc là cái hàng rào, cái bức tường, cái mâu cái thuẫn gì đó lung tung thì dù có học bao lâu cũng chỉ loanh quanh một chỗ mà thui, không thể làm sao mà phán đoán, Tam Ám cũng vậy, riêng trong các trường hợp này Tam ám có nghĩa là gì, tại sao lại có Đà -Không -Khốc tại Phối cung, và Hỏa-Kỵ từ Phúc chiếu về là gì, vv Phải nói lá số này rất hay nhưng lại không hiếm, Nói chung thì Bạn vẫn không ly dị (sau này), yên tâm đi nhá.
Còn vấn đề cưới chạy Tang là một chiêu khá hay mà ngày xưa nhiều người đã dùng, tui thấy vẫn có thể sử dụng được, nhất là nó làm cho ta được yên ổn về mặt tâm lý.
55. Đào Tang ở Mệnh cung sau trước, Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô.
Tại sao cách này lại chỉ người lẵng lơ. Câu trên chỉ mệnh Đào Hoa giáp tang môn hay ngược lại.
Câu này nói đúng ra là Mệnh có Đào, Tang cư Phụ mẫu. Mệnh là Cung Đại hạn đầu tiên, cung này đối với một người con gái mới lớn lên thì cao nhất là một 5 tuổi, con gái thường biết yêu rất sớm, không ít thiếu nữ chưa đến tuổi xuân thì, thì đã biết mùi vị của tình đầu, Trong giai đoạn này, trong những gia đình lễ mạo cha mẹ thường ngăn cấm những mối tình ngây thơ này, cho nên cung Phụ mới có Tang môn (buồn phiền vì sự ngăn cấm của Cha mẹ, và Mẹ cha cũng bị phiền lụy),
Gái lẳng lơ bước nhỡ cầu ô.
Đó là quan điểm của xã hội xưa khi yêu hơi sớm thì bị gọi là lẳng lơ. Nếu ngược lại, Đào cư Phụ / Tang cư Mệnh, tình hình sẽ như thế nào,?? Trường hợp này cũng hay lắm,.
56. Tang cư Phụ và Đào cư Mệnh thì thành ra cách Đào Hoa - Thiên Không.
Vậy có khi nào mà câu trên có thể giải thích theo nghĩa khác một chút được không bác Kim Hạc.
Giả như: Vì phụ mẫu có thể mất sớm nên ở đại vận một 6 (với Hỏa cục) nên cô nàng phải chịu tang tối thiểu 3 năm, do đó tối thiểu phải tới một 9 tuổi (có thể là hai 5 + 3 = hai 8 tuổi - hai 5 là tuổi cuối cùng nằm trên đại vận một 6- hai 5 của Hỏa cục) mí có thể cưới nên bị coi là muộn, là lỡ bước vì qua mất tuổi trăng tròn. Từ đó, xét lại cách Đào Hoa - Thiên Không, có đặc tính là lỡ làng, nhỡ duyên, lắm mối thì tối cũng nằm không..
Nếu Cô nường vì Tang chế của Cha/ Mẹ, chỉ cần một năm chịu tang thui thì tui cũng đã cho là " good girl " rùi, gái chịu để tang Cha / Mẹ đến 3 năm là, của hiếm thì đâu thể gọi là: Gái lẳng lơ lỡ bước cầu ô được,
57. Hỏa Linh giáp mệnh vi bại cục hiểu như thể nào cụ ơi?
Hình như mấy người mênh tọa Dần - Ngọ - Tuất, ví như Mệnh tọa Dần có giáp H-L, thì có cách này (tui lười tính, các bạn tính giùm nhé), mấy người có cách giáp Hỏa - Linh cá tính thì nóng nảy, dễ bị xung động, liều mạng và gan lì lắm, cỡ đại ca giang hồ có khi họ cũng chẳng nể nang gì, có cách này thường dễ bị tai nạn, thương tổn vì cái tính liều mạng và ưa xung đột của mình, nếu Mệnh có Tham lang thì tốt, vì Tham chế được Hỏa - Linh. Mệnh Tham- Hóa Lộc ngộ thêm Cát tinh thì là cách tốt, đi buôn, làm đàn anh giang hồ, đi lính đều rất tốt.
Cách này không nên có Đà / Kỵ ở Mệnh, sẽ trở thành Bại cách, tức là khó tạo nên sự nghiệp như ý mình mong đợi
Hỏa -Linh giáp Mệnh, chủ sơ niên ly gia, có thể xa Cha/ Mẹ, anh em, lục Thân duyên nợ khá đạm bạc, thường sống một mình. Vì Hỏa / Linh chủ về cô đơn, hoặc là con Thứ xuất (con của vợ nhỏ), lại chủ về vất vả. Cá tính cô tỵ, độc lai độc vãng, không thích tiếp cận với người lạ.
H- L giáp Tài / Quan / Điền = Bản cung không nên gia thêm Sát tinh, vì dễ gặp chuyện bị phá bại. Cách này biến hóa rất nhiều tùy vào Chính tinh và Sát tinh tại Mệnh, không thể nói hết trong một bài ngắn được.
H-L giáp Mệnh là cách không người giúp đỡ, lại thêm Đà/ hoặc Kỵ là Ám tinh, tức bản thân thiếu ý chí phấn đấu, không học hành hoặc có một planning gì khả dĩ làm đến nơi đến chốn (thiếu kiên trì), cho nên công danh khó đạt, trở thành một Bại cách là vậy.
Tuổi Canh Ngọ mệnh Thái dương tại thìn có đủ bộ tang mã khốc hư, thân cư phu tại dần có hỏa linh (Đồng cung tại dần), hình việt. Vậy Hóa khoa tại đây có hóa giải được không bác? Nếu đây là Hóa kỵ thì sao hả bác? Quan điểm của bác thì đây là Khoa hay Kỵ ạ?
58. Nếu lấy chồng ở nước ngoài hay là người nước ngoài có phải là một cách hóa giải không ạ? Cách cưới chạy tang có phải lúc nào cũng làm được đâu bác nhỉ?
Tui theo kiểu Dương vũ đồng âm, Khoa tại đây có thể giải được, nhưng nên hiểu là suýt bị hoặc có khi bị rồi mới được giải họa, không chết thui, chứ không có nghĩa là giải sạch tuốt tuồn tuột, nếu đây là Hóa Kỵ thì càng dễ bị và bản tính sợ sấm sét lắm, Nếu lấy chồng nước ngoài mà chờ hai,3 niên và trong khi chờ thì đ/sự buồn nhớ thảm thiếc thì nó hợp cách có thể tháo giải một phần nào, nếu lấy chồng ngoại mà có tiền vui vẻ đi shopping hàng tuần thì chẳng giúp được gì cả, Cưới chạy tang thì không vui lắm, kẹt lắm mới làm chứ hai họ nhiều người cũng chẳng thích.
59. Mệnh Không Thân Kiếp Lại Hội Song Hao Ư Nhân Mệnh Vô Chính Diệu Thiểu Học Đa Thành Mạc Ngộ Phúc Âm, Hao Tình Thân Mệnh Niên Tho Nan Cầu Vượng Hưởng..
Với cả mệnh cháu VCD ở Tuất có Tuần, Thân ở Thìn có Triệt.. Không Kiếpiếp song hao ở trục Dần Thân thì có ứng vào cách trên ko ạ.. Lai - Trên đây là Cách Mệnh VCD có một Không tọa thủ + Hao tinh, đã Vcd mà lại ngộ Không Hao thì thuở nhỏ rất nghèo, bữa đói bữa no, ngày xưa những cách như thế này thường cha mẹ cho đi ở mướn, cho làm thuê hoặc gửi vào chùa, hay làm con nuôi mấy bà Xơ, vv. Tại sao gọi là thiểu học đa thành? Những người này thường ít có cơ may được ăn học, chỉ được đứng ngoài lớp học ké thôi, chủ kêu về thì phải chạy về làm công chuyện, cho nên gọi là thiểu học, mình không được gì thì mới thấy nó quý, ở đời là vậy, không được một em marie de fontaine nào để cặp mắt ốc nhồi của em, để í đến mình thì ui thui, xem em tựa như Thánh mẫu giáng trần ngày đêm làm thơ chỉ tán tụng cái dáng đi cà lơ phất phơ của em và dù em chẳng coi mình ra cái đếx gì cũng vẫn nấy nàm xung xướng,
Mấy ông nhà nghèo này cũng vậy, được học thì sướng lắm nên học ít mà hiểu nhiều, với sự hiểu biết và đức tính kiên trì (Mệnh Không Thân Kiếp thì hay chịu khó chịu khổ và rất có chí) sau này lớn lên ra đời, nếu hướng tới có Đại hạn tốt đẹp, đa Cát (mấy ông nhà nghèo này Mệnh đã ôm nhiều Hung tinh rồi nên các Hạn trung niên dễ ngộ Cát tinh) thì đương nhiên sự nghiệp phải phát đạt, nên sách nói là sự nghiệp đa thành, thực ra mấy ông này cuộc đời lúc nhỏ đã chìm đến bottom rồi, chìm sâu nữa đâu có được, không lẽ mang xà beng xuống đào sâu thêm? Cho nên sự nghiệp chỉ có một hướng oneway là đi lên, thiệt là thoải mái, heh heh,
MẠC NGỘ PHÚC ẤM, HAO TINH THÂN MỆNH NIÊN THỌ NAN CẦU VƯỢNG HƯỞNG..
Sách lại nói không nên ngộ Thiên Đồng (Phúc), Thiên Lương (Ấm), là vì Thiên Đồng ngộ Kiếp - Không gọi là bất Cát, cũng như là không có phúc khí vậy, tức là kẻ ích kỷ không thích làm việc phúc thiện, không phúc thì lấy gì hưởng, nên nói là nan cầu vượng hưởng.
Thiên lương ngộ Không - Kiếp cũng vậy, Lương có nhiều nghĩa, một nghĩa là Thọ mệnh, trường thọ, ngộ Không Kiếp có nghĩa là giảm thọ.
Còn Hao tinh (Phá Quân) mà đi chung với Không Kiếp- Song Hao thì dễ đoản thọ vì Mệnh bị tiết khí nhiều quá (tới 5 sao) và sự nghiệp cũng dễ lụn bại, Nói chung, thêm 3 chàng này vô thỉ Phúc - Lộc - Thọ đều suy giảm.
Mệnh cách của Baoha thấy vậy mà không phải đâu, đừng thấy kẻ sang mà bắt quàng làm họ nhen, hà hà,
60. Cung Huynh Đệ Triệt Tuần Xung Củng Chim Đầu Đàn Bay Bổng Xa Khơi
Cách này không nói đến sự thành đạt của huynh đệ cũng như khoảng cách tuổi tác chênh lệch giữa hai người, dù rằng có vẻ như là vậy. Và chúng ta có thể lợi dụng theo cách hiểu của Cô Phuongmai06 để né tránh những đáng tiếc có thể xảy ra, như vậy xin Cám ơn cô Phuongmai06 đã chỉ ra một phương án quý giá Cách này thì Tọa / Xung / Củng gì cũng có thể bị cả, Tuần Triệt tọa thì gọi là CÔ, Đối xung thì gọi là HƯ, Ví như Tuần / Triệt tọa Huynh đệ cung, thì Huynh đệ cung ở đây đang bị Cô, Cô tức cô đơn, tức là thuở thiếu thời của đ/sự không có anh em chung quanh, dù là có anh em chứ không phải là con độc đinh. Chim đầu đàn bay bổng xa khơi ý nói là người Anh vì một lý do nào đó đã không có mặt trong gia đình.,nên người em mới rơi vào thế Cô. Khi Tuần Triệt tọa Đối xung với Huynh đệ thỉ cung Bào rơi vào tình trạng Hư. Hư ở đây có nghĩa là Hư vị, hư hao, tức là từ hư giả, có cung Bào mà cũng như không, có thể ảnh hưởng đến tình cảm và số lượng, cũng có thể đi đến thiếu vắng, hao hụt. Nhưng Hư ở đây vì là đối xung, Củng nên chỉ, tàn phá một phần, không tàn phá cả một Cung. Nếu Tuần Triệt tại Củng vị (Tam hợp) theo lý thuyết thì phải nhẹ hơn tại Đối xung.
Như vậy thì Tuần Triệt có tầm ảnh hưởng rất mạnh chứ không phải như mọi người hình dung đâu nhé, các Cung bị nó chiếu, quét đều cần phải cảnh giác, giống như bạn đang sống trong khu xã hội đen ở Hong kong vậy, nhưng ảnh hưởng như thế nào thì các bạn phải tự nghiên cứu mới hiểu được, như vậy mới vui, chứ kể ra hết thì còn gì hay ho nữa Một trong những đặc điểm của T/ T là Cô và Hư, chỉ cần một chiêu này các bạn có thể làm các ông Thầy lát mắt, đừng nói gì người thường.
61. Liêm trinh bạch hổ hình ngục nan đào.. Bạch Hổ, Phi liêm đồng cung gọi là Hổ mọc cánh..
Trong trường hợp Thân cư Quan tại Dần có Liêm trinh Bạch Hổ đồng cung Phi liêm, Thiên Việt giáp Hỏa Linh thì được luận theo cách nào?
Tại sao chỉ có hai sao Liêm -Hổ mà đã khẳng định hình ngục nan đào? Vây cánh của Bạch hổ là Tuế- Hổ - Phù, Tuế có thể hiểu là Phán Quan (Quan Tòa, Chánh án, Đề hình, Thanh tra,), ngày xưa Trung ương thường phái những quan lại tin cẩn đi khắp các địa phương để Tuần tra (giống như Bao Công vậy, tuy chỉ là một Viên Phủ doãn phủ Khai Phong nho nhỏ nhưng được Vua cho phép mang Thanh long, Bạch hổ trảm đi càn quét giang hồ, làm cho giang hồ phải bấn xúc xích,).
Bạch hổ là Hổ phù, một loại tín vật có hình mặt cọp, Bach hổ cũng là một thứ trảm hình (chặt đầu), cũng là một loại chó trắng (chó Ngao) để canh ngục. Cũng là tên các đội lính địa phương chuyên truy bổ các tội phạm,
Quan phù là nơi nhận công văn, giấy tờ án lệnh trát tòa linh tinh các thứ, Quan phù cũng là một loại trúc phù cho các Quan ngày xưa thường dùng trong các civil actions.
Liêm trinh có thể hiểu là ngục tù, mà cũng chính là Tội nhân. Liêm -Sát = có thể phạm tội giết, đâm chém, cướp giựt, sang đoạt,. Liêm -Tham = liên quan đến dụ dỗ gái vị thành niên cho tới gái già, gái góa, trộm cắp, cờ gian bạc lận, linh tinh. Liêm - Phá = nghe lời xúi xiểm của phe địch (đế quốc Mỹ?) Mà biểu tình, chống phá bằng hành vi chính trị, vv
Như vậy, xét về Tượng thì Liêm kết hợp Hổ có nhiều nghĩa liên hệ đến ngục tù quá, nếu nói rằng Liêm -Hổ đồng cung dễ ăn cơm trong nhà đá thì chắc cũng nhiều người tin.
Bạch Hổ, Phi liêm đồng cung gọi là Hổ mọc cánh.. Phi liêm = thường bay tới một cách đột nhiên. Phi- Hổ = trong một cách có quyền hành thì hành xử, trấn áp nhanh gọn, kiến hiệu, gọi là hổ bay cũng đúng. Trong những cách xấu thì có nghĩa là tai họa từ đâu rớt xuống một cách bất ngờ.
Trong trường hợpthân cư Quan tại Dần có Liêm trinh Bạch Hổ đồng cung Phi liêm, Thiên Việt giáp Hỏa Linh thì được luận theo cách nào? Nhẹ thì bị điều tiếng, nặng thì có thể liên hệ đến việc công mà ra tòa, nếu hành nghề liên quan đến luật thì vô sự.
62. Phá Kình Mão Dậu nhi phùng Khoa Bật khởi ngụy Hoàng Sào (Phá Quân Mão Dậu gặp Hữu Bật Hóa Khoa sẽ như Hoàng Sào làm phản loạn) Là Hoàng Sào thì tốt cũng tốt, đã là vua. Nhưng xấu cũng là xấu. Vậy đây là cách tốt hay xấu thưa bác kim Hạc, hạn gặp thì thế nào ạ,
Tiếc là không ai giữ lại được lá số của Hoàng Sào, dù rằng có người đương thời như Dương quân Tùng vẫn còn có lá số, (họ Dương này ai chơi địa lý phong thủy, Dịch học đều phải biết, đời Đường hy tông, ông đã lên đến chức Kim tử quan lộc đại phu, coi về công việc kiến trúc cung điện, quan sát thiên tượng, tế tự cho Hoàng tộc v,v Năm 875 TL, Hoàng Sào bắt đầu khởi binh, năm 880 kinh đô Trường an bị bao vây, Dương quân Tùng phải bỏ kinh chạy loạn mang theo được mấy bộ sách quý trong Ngự khố tàng thư như Táng thư của Quách Bốc, vài cuốn trong Cấm trung ngọc hàm, có lẽ có mang theo mấy cuốn Tử vi cổ? Vì ông ta là Quan xem về Thiên tượng để định ngày lành tháng tốt mà làm sao không biết Tử vi, nghe nói ông chạy xuống phía Nam lánh nạn, có lúc bôn ba đến tận Lư châu phủ và xin được tá túc ở Hoàng thiền tự. Dương quân sinh 08 tháng 3 AL, năm Tân Mão, 84 một, giờ Tuất).
Liêm-Phá -Kình Mão/ Dậu thì cách cục cũng có tính cách chống báng ngược ngạo như Phá -Kình Thìn / Tuất, còn hỏi Cách cục này tốt hay xấu thì cũng khó trả lời, vì khi nào có áp bức thì có sự chống trả, đó là lẽ thường tình, chẳng xấu mà cũng chẳng tốt, nó cũng tựa như sự thay đổi của thời khí, Hạ nóng quá thì Thu / Đông sang, Đông lạnh quá thì Xuân / Hạ đến. Chỉ xấu cho cái đám dân đen mà thôi,
Như Hoàng Sào sau khi tiến chiếm Kinh thành, liền hạ lệnh tịch thu tất cả tài sản của các nhà phú gia trong kinh, sau khi rút binh thì quay lại Kinh thành làm thêm một cuộc đồ sát (giết người tập thể) vì cho rằng dân kinh đô đã ủng hộ quan quân trong thành, truy sát phe ta. Trận đồ sát này đã biến nước trong các hào thành thành màu máu đỏ., vì thế Tàn Đường diễn nghĩa có nói: Hy tông dĩ mạo thu nhân, thất chi Hoàng tặc, chí linh sát nhân bát bách vạn, huyết lưu tam thiên lý,
Bát bách vạn = 8 Triệu nhân mạng bị sát hại. Huyết lưu tam thiên lý = máu đổ 3 ngàn dặm, tức nếu mỗi ngày một người đi được 30 dặm, thì đi quá 3 tháng mới hết thấy cảnh dân lính bị đồ sát, Như vậy thì tốt hay xấu? Mất 8 triệu cái đầu để đưa một ông Vua tham tàn bỉ ổi như những ông Vua khác trước đó lên thay thì có đáng không? Nghe nói sau này Hoàng Sào thua chạy vào Lang hổ cốc ở Thái sơn rồi tự sát, cũng có thuyết nói ông giả làm nhà sư ẩn trốn dưới sự che chở của Hà nam doãn Trương Thuyên, sau này có bài thơ:
Tam thập niên tiền thảo thượng phi,
Thiết y trước tận trước tăng y
Thiên tân kiều thượng vô nhân vấn
Dộc ỷ nguy lan khán lạc huy
Ba mươi năm trước tung hoành trên lưng ngựa,
Hết giáp y rồi đến mặc tăng bào,
Trên cầu Thiên tân (nơi Kinh đô?) Có ai biết ta là ai,
Chán quá tựa vào thành lan can mà ngắm trời chiều,
Hạn gặp thì như thế nào? Mỗi một, hai trăm năm mới có một ông Phá - Kình làm loạn thôi, hạn gặp thì lo ôm vợ con và mấy cuốn Tử vi chạy trốn, còn phải hỏi, hà hà níu ông có Phá- Kình + Cát tinh thì lúc đó cho tui một chức quan be bé cũng đặng,
63. Chả nhẽ khoảng 20 năm nữa qua đại hạn Không - Hao số cháu phải đi ăn nhờ ở đợ ạ.. Hic..
Hầy ! Cái ôn lầy, hai 0 năm nữa ông dọn qua ở bên dợ cho dợ nó lo, ông ngồi không viết truyện kiếm hiệp hay khoa học giả tưởng thì là đúng cách lun đó,
64. Phượng Long Tả Hữu Mệnh Viên Chung Thân Phú Quý
Cung Mệnh có Long Trì, Phượng Các, Tả Phú Hữu Bật hội hợp thì giàu sang cả đời. Nếu gia thêm không kiếp kình thì như thế nào hả cụ. Có sách nói long phượng không sợ sát tinh t. T điều này có đúng không cụ.
Long là tá (thay cho) chữ Loan là chim phượng mái (vợ), Phượng là phụng hoàng đực (Chồng), Tả- Hữu = một cặp, một cặp tài năng và quý hiển vì Tả - Hữu còn chủ về Tài năng, Long -Phượng chủ về quý hiển, vừa sang vừa quý. Nên nhớ Long ở đây có quý cách hơn Hồng loan, vì Hồng chỉ các giống chim bình thường như én (yến tử), oanh, két (anh vũ) hay các loại chim nào hay hót hoặc hót nhiều đến nhức óc.
Long trì còn chỉ về hồ, hồ tắm, mà Mệnh viên = cái vườn của mình, trong cái vườn nhà mình mà có hồ tắm thì chỉ có dân có tiền mí dám chơi thui, Phượng các, là lầu cát, ít nhất cũng là nhà một tầng lầu. Tả- Hữu tại Mệnh viên còn có nghĩa là có hai, 3 cái nhà chứ không phải một.
Nên nếu cho rằng Long Phượng Tả Hữu tại Mệnh viên chung thân phú quý thì không có gì sai. Cách này thường có Chồng giàu và có tài, hoặc vợ là người thanh cao, đẹp theo kiểu quý phái. Nếu gia Không -Kiếp - Kình thì là phá cách rồi, uổng quá, Long -Phượng là quý tinh nên rất sợ chư Sát.
65. Bác cho cháu hỏi Tuần đóng cung thiên di có thái dương cự Ngọ thì xấu hay tốt hả bác?
Thuở nhỏ xa Cha. Thiên di có Thái dương cư ngọ thì quá tốt, nếu lá số có Cát tinh, cát cách, ra ngoài ai cũng tôn trọng như vua (ông trùm một ngành nào đó), danh dự hiển hách, nay bị Tuần thì dĩ nhiên là giảm Quý cách rồi.
66. Thiên đồng sợ Không -Kiếp
Cháu thưa bác kim hạc cháu cũng có cách mệnh VCD tại tuất và cung an thân tại thân,mệnh kiếp thân không,mệnh tuần thân triệt xung cơ lương tại thìn và phúc cung có đồng âm gặp địa không. Cháu xin hỏi bác ạ: như lời bác nói: thiên đồng gặp kiếp không như kẻ ích kỷ không thích làm việc thiện,nam cầu vượng hưởng. Nhưng với lá số của cháu cháu thấy mình ăn vào cả cơ lương và cự nhật cho lên cháu rất thích làm việc thiện và quan tâm đến cung phúc của nhà mình hiện nay cháu cũng đang từng bước cải tạo lại cái phúc khí đã bị phạm của đời trước. Như vậy thì cháu có chiến thắng được không kiếp không ạ.
Sách nói Thiên đồng sợ Không -Kiếp nhưng không giải thích, các bạn có Đồng ngộ Kiếp/ Không đã biết tại sao, thì rất dễ sửa đổi để loại trừ sự tác hại của Không Kiếp, nhất là với sự trợ lực của Cơ và Lương. Có Đồng cũng như có một lu nước Phúc trong nhà, nhưng nhiều khi bạn phải chịu khó đổ thêm Phúc vào, cũng tựa như hết hay cạn nước uống thì ta mua nước lọc châm vào vậy, cái lu Phúc đức của mỗi người không phải lúc nào nó cũng đầy đủ cho ta xài, cứ nhớ là như vậy ! Không phải tự nhiên mà dòng họ Rockerfeller hay đám Bill Gates tự nhiên bỏ ra hàng tỷ đô làm viêc phúc, họ có những ông Thầy Astrologers đứng bên trong cố vấn đấy.
67. Nếu người tuổi thìn có cung Thân đóng tại Thìn có Thiên Đồng hãm thì có đựoc coi là long cự long vị không?
Tuổi Thìn mà Thân cung tại Thìn thì chỉ có Khí mà thiếu Tượng, không thể gọi là Long cư Long vị vì Bạn thiếu Tượng, nhưng nếu bạn vẫn khẳng định đây là Cách Long cư long vị thì không ai dám phủ nhận vì đã có Khí. Tượng ở đây là Thanh long (Long đức cũng gọi là Long tượng nhưng không được dùng rộng rãi như Thanh long là vì Long đức thuộc âm tính, tức âm đức nên nó không hiển thị khí thế một cách bộc lộ như Thanh long). Thanh long -Long đức đ. Cung tại Thìn, có Thái dương tọa = Lưỡng long giá nhật cách, Cách này danh chấn giang hồ ! Dây là một Cách xưa, nay không nghe ai nhắc tới, ngày xưa người ta cho rằng thần mặt Trời mỗi ngày tọa trên một chiếc xe có hai con rồng trì giá (thay cho ngựa, vì ngựa không bay được) để đem ánh sáng cho thế gian. Cũng có thể dùng Long trì đi với Thanh long (tại Thìn) = đây là Song long nhập uyên cách. Thìn là Thủy khố, thủy khố có nghĩa là thủy được chứa sâu hay bên trong lòng đất, cho nên người ta dùng chữ uyên, vì uyên là Vực sâu có chứa đàm thủy (đàm = đầm nước ngọt), lại có thuyết cho rằng rồng thường sống ẩn núp dưới các vực sâu, nên có chữ song long nhập uyên. Thanh long chỉ về thanh danh, Long trì chỉ về sự ủng hộ của đám đông và sự danh giá. Ngay cả khi đã có Thanh long, bạn còn cần đi với các Chính tinh như Tử / Phủ/ hay Thái Dương tại Thìn + đa Cát tinh mới thành cách, Thiên Đồng hãm mà có Thanh long ở đây cũng vô dụng.
68. Trong tử vi có cách giáp song long (thanh long và long đức) cho người tuổi rồng không bác? Tức là bên trái có thanh long bên phải có long đức ! Cám ơn bác!
Nếu Anh không hỏi thì tui cũng quên vì đã từ lâu, không hề có ai nhắc nhở gì đến mấy cái Cách cục xa xưa bụi bám dày dặc này, - Thanh long - Long đức lai giáp Thân / Mệnh / Tài / Quan = gọi là LƯỠNG LONG LAI GIÁ Cách, Cách này chỉ dùng cho 3 Chính tinh là Thái Dương / Tử vi và Thiên Phủ mà thôi. Tại bất kỳ cung nào, không nhất thiết phải giáp cung Thìn. Vì 3 sao này là 3 ông Vua thứ thiệt mới được song long lai chầu. Đây là một Quý cách nếu hội đa Cát tinh.
69. Thanh Long và Long Trì đồng cung tại Hợi. Hợi cung thuộc Thủy, đây có phải là cách rồng vùng vẩy trong nước. Nếu có thêm Thiên Đồng Trường Sinh đồng cung tại Hợi thì có thành cách không?
Tý và Hợi là nguồn của Thanh long, có điều Hợi là Đại hải thủy, thủy thế vượng và ba động, Các Chính tinh đến đây cũng bị ảnh hưởng sự giao động này nên cuộc sống thiếu ổn định. Thanh long cư Hợi thì được tặng cho cái mỹ hiệu là LONG DU ĐẠI HẢI, nhưng thực tế thì không thành lập được Cách cục., cho nên có Long trì đồng cung cũng chẳng có tác dụng. Thiên đồng, Trường sinh chẳng giải quyết được cái gì cả. Thanh long cư Hợi đã biến thành cá tôm, hải sản, tại đây Thanh long cũng là điềm đi xa bằng thuyền, có thể làm những nghề chài lưới, đánh cá, mua bán hải sản. Vv.
Sau khi Thiên nhất sinh Thủy thì chúng ta có được đại hải thủy phải không? Từ lúc này mới có thể mặc bikini tắm biển, trước đó thì không. Tại Hợi và Tý là hai cung " nhà " của Thanh long, long cư Tý / Hợi thì gọi là THỦY PHỦ THẦN LONG, Thanh long tại Tý được coi là cư Hào một (vì dương Thủy sinh cho dương Mộc), đó là lý do Hợi cung không được chọn làm hào một. Tại Tý Thanh long vẫn có Tượng là thuyền bè, có khi là con lươn, rắn biển. Tại đây bạn vẫn có thể đi xa, du lịch bằng thuyền, chủ về may mắn, thai sản. Tại Sửu thuộc âm Thổ lại chứa Quý (Quý = nước mưa, Sửu gồm 3 Can là Kỷ / Quý / Tân), âm thổ là đất trên đường hay là đất ở hai bên vệ đường, khi gặp mưa thì sẽ hóa ra bùn lầy, Thanh long cư Sửu vì thế được ví như rồng đang trong tư thế bị sa lầy, đang. Chờ thời, không thể mưu tính gì xa xôi được, mình tự cứu còn chưa xong, đây là thế bất toại, muốn phấn phát phải nhờ sự trợ giúp của gia đình.
Tại Sửu địa có một Cách nhỏ là: Thanh long - Trì - Các = gọi là TRÌ CÁC LONG, nếu Chính tinh sáng sủa, Tam phương lại có Cát củng thì vinh quý vô nghi.
Thanh long cư Dần có gì lạ? Tý / Hợi là Phủ đệ, là nhà của Thanh long, Dần thì gọi là Cung của Thanh long, vì Thanh long thuộc dương Mộc mà Dần là Giáp Mộc. Dần cũng là đất của Bạch hổ, có Long - Hổ đồng cung thì gọi là LONG HỔ GIAO TRỢ Cách, không phải là Long tranh hổ đấu đâu. Trong chiêm bốc thì gọi là Vân tòng long, tại đây là chỗ Thanh long có thể thừa vân xuất nhập tùy tiện. Có Thanh long là điềm được mời thỉnh, cầu cạnh, là chỗ người quân tử có ước nguyện sắp thành, gặp được vận tốt.
Thanh long cư Mão:
Long thuộc dương mộc, Mão thuộc âm mộc, âm dương đồng loại đồng cư nên đắc ý và thân mật, tại đây có nhiều người đang muốn giao hảo và cầu thân như ở Dần địa, tại Dần - Mão vì có tượng là Thừa vân trì lôi, (Mão = Chấn, chấn vi lôi,) đang thời đắc ý, nếu có Lưu hà tam hợp thì gọi là THANH LONG HÝ THỦY Cách, là cách đắc tài lợi và vận hạn đang lúc thịnh thời.
Thanh long cư Thìn: Có một cách nữa là Thanh long - Hóa kỵ = long ẩn vân trung cách, đây là một tiểu cách chủ về nổi tiếng., cũng như cách Long - Mộc, nhưng Long - Mộc thì lưu danh lâu dài hơn (thừa vạn đại dĩ thanh quang). Thanh long lâm Thìn nếu thiếu cách cục và ít Cát tinh tụ hội thì gọi là Thanh long tiềm tu, đang chờ cơ hội để biến hóa, trước mắt vấn đề tiền tài đang gặp khó khăn, có những rủi ro bất ngờ làm cho lo phiền.
Thanh long cư Tỵ:
Mặt trời đang ở gần, lửa viêm thịnh làm cho mây chạy mưa tuôn, Thanh long tại đây là thời điểm huy động vân phong để làm mưa làm gió, là tượng người quân tử đang ra tay hành động. Thanh long cư Tỵ là Mộc kiến hỏa vi cừu, Tỵ lại là xà huyệt (hang động loài rắn), không phải là chốn dung thân nên gọi là Yểm mục (mắt nhắm mắt mở cho qua ngày).
Thanh long từ Tý lâm Sơ hào di chuyển đến Tỵ cung biến hóa 6 lần, không phục hồi vì Tỵ vị là Thượng hào (hào cuối) lại là phong đỉnh (đỉnh núi) lại có đủ phong vân tuyết nguyệt, Thanh long đến đây chỉ có một đường duy nhất là bay thẳng lên trời, không hà cớ gì lại quay lộn ngược để, tiềm tu trở lại, vì lý do này mà Thanh long trong Tử vi chỉ có Lục biến. Tức chỉ có 6 Vị trí mà thôi. Đi đến Tỵ cung có Thái dương đồng cư gọi là LỤC LONG GIÁ NHẬT Cách, là Cách cuối cùng, từ Tý đến Tỵ chỉ có 6 Cách, loại bỏ các cách còn lại, có nhắc đến nhưng không bao giờ xài.
70. Bác Kim Hạc cho hỏi nếu Thanh Long, Long Đức xung chiếu có được coi là cách không? Có được coi là lưỡng long chầu mệnh? Hay song long ngưỡng đẩu..?
Thanh long -Long đức xung chiếu không được gọi là Cách Cục gì cả, Song Long tại bản cung là thay ngựa làm một cỗ xe song Mã để chở thần Mặt Trời đi tuần du trên không thôi, không có tác dụng trên các cung khác. Không có tác dụng nào trên cung xung chiếu cả.
71. Vậy theo bác thì Thanh Long từ Ngọ đến Hợi là ko còn tác dụng gì, hoặc tác dụng yếu phải không ạ? Nhưng cháu vẫn phân vân bởi còn có cách Long Kỵ, Long hà. Tại sửu mùi được nhắc đến rất nhiều, cũng ko có tác dụng sao bác hay nó chỉ có tác dụng khi đi cùng Nhật Nguyệt?
Thanh long từ Ngọ đến Hợi vẫn có tác dụng, nhưng vì không biến hóa (Thanh long chỉ biến hóa được từ Sửu cung đến Tỵ cung) nên không thể thành lập Cách cục, đây là theo quan điểm của Tử vi chứ không phải quan điểm của riêng tui.
Tại các Cung khác Bạn vẫn có thể gọi là Long -Kỵ / Long -Hà / Long - Hổ / Lưỡng Long giá Nhật (lai giá) / Thanh long ngộ Nhật - Nguyệt / Long - Đới / Long - Dưỡng / Long -Phi- Phục / v. V nhưng vẫn phải biết rằng Cách cục của Thanh long trên những cung Từ NGỌ đến HỢI là không Chính thống ! Có những tác giả vẫn nhắc nhở đến Cách cục này kia tại các Cung này bỡi vì không ai giải thích cho họ về vấn đề Đắc Hãm của Thanh long.
Ví như tại Mùi địa, Mùi là Mộc khố, Thanh long nhập Mộ tại đây, nhập Mộ địa thì cũng giống như bây giờ ta hay dùng cái từ bó tay vậy ! Có sừng có sỏ cũng chẳng làm gì được ai vì thân đơn lực nhược, nên tại Mùi người ta gọi là Thanh long chiết giác (gãy sừng). Nhưng cái gì cũng có lệ ngoại, tại Mùi nếu được Thái Âm / Tử vi / Lương / Cơ hội đa Cát tham tọa Đới / Mộc / Dưỡng địa thì Thanh long có thể phục hồi, nhân phẩm và quay lại giúp cho Cách cục tại đây thêm phần vinh quang. Nhưng đây là Các sao khác vực Thanh long trở lại có khí thế, chứ tự thân Thanh long không làm nổi việc này.
Tại Sửu cung cũng vậy, nhưng tại Sửu thì Thanh long có thể biến hóa vì đắc địa. Tức là cũng là Thanh long nhưng tại Sửu hào hoa và đa tài hơn tại Mùi, Anh nói đúng, tại Sửu / Mùi Thanh long phục hồi khí lực là nhờ vào Thái âm. Bạn có thể nghĩ là mấy Cụ ngày xưa đã đưa ra một cái Game tương đối unfaired, nhưng thực tế Thanh long là con rồng phía Đông, nó thuộc dương Mộc, nên chỉ Đắc địa tại Đông Bắc, nơi mà Thủy và Mộc Vượng.
Từ Ngọ đến Tuất là khu vực Tây Nam, Thanh long lúc này lâm vào thế Hãm địa, tự cứu giải mình còn chưa xong huống chi nói đến dùng lực lượng của mình để làm vinh danh cho các Chính tinh khác.
Tại Hợi cung, Thanh long được sinh ra từ một cung Âm Thủy (tức là Tý / có một bài trên đề là Dương thủy Tý cung là sai, xin sửa lại giùm) Dương mộc không thể sinh và sống trong Đại hải thủy được, đó là lý do tại sao Thanh long tại Hợi là chốn thủy phủ bao la mà không thành lập được Cách cục nào cả. Thanh Long + Lưu Hà ở Dần có được thành Thanh Long Hí Thủy Cách không ạ, Ở đây có Tử Phủ nữa ạ. Tại Dần / Mão Thanh long đang Đắc thế nên ngộ Lưu hà đ/ cung sẽ tạo thành cách Thanh long Hý thủy.
Tại Mão nếu Lưu hà tam hợp cư Hợi thì không tạo thành cách này. Vì Thanh long là loài rồng nước ngọt, chỉ ở những uyên đàm, sông hồ nước ngọt, không phải là rồng biển.
Có Tử - Phủ thì Cách cục cáng hay. Với tiểu cách: Long - Trì - Phượng cư Sửu mà Thứ nhất Trì - Phượng giáp cung có thành cách không khi Thanh Long đồng cung cùng Nhật Nguyệt - Quang Quý - Tuần - Quan đới? Thứ hai nếu Long - Trì đồng cung có sợ bị chết đuối ko thưa cụ nếu có thêm Mộc dục? Khi Trì -Cát giáp Mệnh / Thân/ Quan thì cách cục càng thêm đẹp và thêm phần Quý tộc, do đó người ta nói Giáp là đệ nhất Quý. Nhưng đối với xã hội ngày nay, an nhàn quý tộc quá có thể lại, mất vui, nhảy ra đời làm ăn mua bán làm giàu nhiều khi vui hơn, đó là tùy theo quan điểm sống của mỗi người nữa, ngày xưa giáp Long - Phụng (Trì - Cát) là Đệ Nhất cách, nhất là khi đi lấy vợ, kiếm được một em Long - Phượng hay giáp Trì- Phượng thì là Đệ nhất khách sạn rùi, Quý như sừng Tê vậy, phải dành giựt đổ máu đổ của mới được, không phải là dễ đâu Khi có Long - Mộc Mệnh / Thân nên cho em đi học bơi thành thạo và nên có người lớn theo dõi cận kề mỗi khi các em tắm.
72. Long Hổ đồng cung tại Dần - Long Hổ Giao Trợ Cách, vậy nếu đồng cung tại Tỵ thì sao vậy bác có được kể là Long Hổ Giao Trợ Cách không? Giả sử Thanh Long tại Tỵ tam hợp tại dậu có Hóa Kị thì có được tính đến phần nào không? Có thể đồng cung mới thực sự tốt đẹp Rồng mây hội tụ nhưng ở thế tam hợp vẫn có thể được cho là gặp gỡ?
Long -Hổ đối cung ở đâu cũng là Long -Hổ giao trợ cách (Quan nhân đắc chức), đây chỉ là một Tiểu cách thôi.
Lại có cách Long -Hổ ngộ Âm - Dương = thì Âm Dương biến hóa, nãi cát hội chi Cách dã (Thanh long thuộc Âm vật, Bạch hổ thuộc Dương tinh, Long Hổ hội làm tăng tinh khí cho Âm - Dương).
Long -Hổ ngộ Âm / Dương tại Sinh / Vượng địa = Quý cách. Long -Hổ + Â- D Mùi cung = Cát. Long -Hổ ngộ Tứ Cát = Cát cách.
Long - Hổ + Thai- Tọa tại Thân/ Mệnh = Quý cách. Quan / Mệnh có Long - Hổ ngộ Tử / Phủ = Chí quý.
Long củng Mệnh, Hổ củng Thân = Quý cách Nhị Hổ nhất Long cách = bất cát, đa tai / bệnh.
Long -Kỵ cần Đồng cung, tại Tam hợp không nhập cách.
73. Bác nói cách cục của Thanh long từ Ngọ đến Hợi là không chính thống, tự cứu mình còn không xong. Nếu những cách cục này gặp tuần Triệt thì tình thế có thay đổi không ạ?
Tuần thì có thể tạm dùng vì Tuần có phần là Mộc tính, nhưng khi dùng Tuần thì có thể làm cho Thanh long trở nên Cô thế, do đó nên xét lại dùng Tuần có đẹp hay không. Triệt thì Không nên xài, vì Triệt có khả năng là Kim tính, có thể làm tổn thương thêm anh chàng Thanh long đang lúc què quặc.
74. Linh Hỏa Khả Tỵ Sửu, Mùi, Việt Tham Ưu Ngộ Lai Phùng Kiếp Diệu Đao Binh Dị Tác Tai Thương
Cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Linh, Hỏa tọa thủ gặp Việt, Tham, Kiếp, Sát hội hợp tất bị thương vì đao kiếm súng ống nếu Điền Trạch có cách này tất mất nhà, mất của phá sản Ở đây cách Tham Linh Hỏa là cách bạo phát, liệu cách phát này có còn ứng hợp tức theo con hiểu là vẫn bị thương vì đao kiếm nhưng vẫn bạo phát phải không ạ (hay là bị thương xong sẽ bạo phát) thưa cụ,
Có nhiều cách về tai ách, tai nạn là do một phần lớn là sự bất cẩn của chính đương sự, ví dụ như các căn cứ chế tạo chất nổ, đạn dược ở khắp nước Mỹ này bạn có bao giờ nghe họ bị phát nổ thình lình và chết một đống người không? Nhưng Vn ta mà làm thuốc pháo thôi, là năm nào cũng có vụ nổ chết người, cháy nhà. Vv. Tại sao vậy, không lẽ Hỏa - Linh - Việt - Kiếp nó tự động né, người Mỹ?? Những công thức như trên không thể cho ta một câu trả lời đại loại như bao giờ sẽ xảy ra. Nó sẽ xảy ra khi nào hội đủ điều kiện, có lửa /điện / tia lửa vv cọng với sự lơ đễnh, cẩu thả, không an toàn trong khi làm việc hoặc ngay trong nhà của bạn. (không bàn đến khi ra trận nhé, ra trận thì sự nguy hiểm còn tăng lên cả trăm lần).
Còn bạo phát là khi nào, năm nào bạn đầu tư, kinh doanh đúng nơi đúng chỗ đúng thời điểm thì nó sẽ phát, bỡi vì cách Tham- Vũ - Hỏa/ Linh là cách, dám liều mạng vì tiền, cách này nó hơn người khác ở chỗ là có khi mê tiền còn hơn mê gái, và có thể đi ngược với trào lưu để kiếm tiền, không sợ mất mạng, nhờ vậy mới mau giàu, chứ chẳng có gì là bí mật trong cái cách cục này cả, ví dụ, năm một 97 hai, trong thời buổi mà báo chí miền Nam gọi là Mùa hè đỏ lửa, hai bên đang đánh nhau chí chóe ở vùng một chiến thuật, hàng trăm ngàn dân vùng một C. T dang gồng gánh hay mướn xe, đi nhờ xe chạy trối chết về Nam, trong khi đó tui có quen một ông Vũ -Tham -Hỏa là dân kinh doanh nhiều mặt, trong đó có món đồ cổ, ông này rủ vài người bạn đáp xe khách chạy ngược ra vùng Thừa Thiên, đi mua bàn ghế, tủ, đồ thờ, đồ đồng cổ của dân chạy loạn đang bán đổ bán tháo, (vì để ở nhà cũng không biết khi trở về có còn hay không hay cháy mẹ nó cái nhà rùi, hay ăn trộm nó dô chôm hết,), người ta chạy loạn thì mất cả gia tài, có khi mất mạng, còn mấy ông này cũng chạy loạn cào cào mà càng chạy càng giàu, thế mới lạ,
Cho nên không thể nói phát rồi mới bị thương hay bị thương rồi mới Phát. V. V Nếu cẩn thận, làm việc theo phương cách an toàn là trên hết thì bạn sẽ chẳng bị gì cả, đó là cách Hóa giải.
75. Cháu mệnh Thiên Tướng cư sửu có tả hửu, tứ linh. Hóa lộc xung, giáp lộc quyền, XK, Quang Quý, thai tọa. Mệnh lại có Triệt, kình, không kiếp hỏa chiếu. Cháu tuổi Quý, thì có bị phá cách không
Triệt tại Mệnh ở đây có khả năng ngăn chận Không -Kiếp -Hỏa chiếu, có nghĩa là cháy ở đâu thì cháy, đến hàng rào nhà anh thì dừng lại., ăn trộm cũng vậy. Chắc hàng rào nhà anh hai,3 lớp như thế nào đó mà nó khó chun vô lọt. Nhưng Triệt ở đây cũng ngược lại làm cho anh bấp bênh trong việc làm ăn sau này, nhất là làm cho nhà nước hay tư nhân, dễ bị thất nghiệp, hay nhất là anh mở một cơ sở làm ăn riêng tự mình làm chủ thì không lo cái vụ Tướng - Triệt. Triệt ở đây ý nghĩa là vậy, nó giúp ta mặt này nhưng có thể làm tổn hại mặt khác, dù sao biết được tính cách của nó thì ta có thể né tránh được, làm giảm thiểu cái gọi là Phá cách của nó.
76. Bác Kim Hạc cho hỏi trường hợp Thanh Long và Long Trì đồng cung tại Hợi. Tuần đóng tại Tuất Hợi thì có thay đổi tình thế gì không? Ở đây cũng là cung Tử Tức, có thêm Thiên Đồng Trường Sinh đồng cung.
Hợi là Đại hải thủy, Thiên đồng cũng là dương thủy, tính thích ngao du thay đổi nên Mệnh ở đây rất hợp cách, lại ngộ thêm Trường sinh thì chỉ nên dành cho con trai, với tang bồng hồ thỉ chi chí mà thôi, con gái là hỏng vì đơn giản là con gái không nên đối mặt với giang hồ, Thanh long - Long trì tại đây chỉ tốt về mặt đức tính, đức hạnh mà thôi chứ không có cách cục gì đẹp. Nếu có Tuần (đối với con gái) thì rất hay vì nó làm giảm phong ba và đời sống trở nên ổn định hơn.
77. Thiên tướng không kiếp cư quan, công danh chẳng được tân toan nhiều bề
Theo như trong các sách có ghi là bộ Tướng Phá (phá quân- thiên tướng hoàn toàn có thể tương hợp tức là có thể chế ngự và sử dụng bô không kiếp. Nhưng cháu thấy vẫn có một câu phú: " Thiên tướng không kiếp cư quan, công danh chẳng được tân toan nhiều bề " Vậy thì cháu có thắc mắc là câu phú trên đúng trong trường hợp nào. Nó còn phải cần điều kiện gì khác nữa (như thiên tướng ngộ tuần triệt, thiên hinh hay ở thế hãm hay.... Vv). Dựa vào câu phú này cháu có cảm giác là thiên tướng không sợ sát tinh không phải là có nó trấn bản cung thì họa không xảy ra mà là họa vẫn xảy ra nhưng vượt qua được. Đây chỉ là ý kiến mang cảm tính và chủ quan của cháu. Mong bác cho cháu đôi lời. Cảm ơn bác
Thiên Tướng có nhiều nghĩa, nhưng luận về công danh, sự nghiệp thì Thiên tướng chính là cái jobs, công việc làm, con đường quan lộc của mình, như vậy Thiên tướng + Không - Kiếp = Mất việc làm, dễ bị mất việc, thất nghiệp, vì thế mới có câu: " Thiên tướng không kiếp cư quan, công danh chẳng được tân toan nhiều bề "
Nếu không hiểu theo kiểu tách bạch này, mà cứ hiểu theo nghĩa Hàn lâm viện Thụy điển thì cuối cùng ta học Tử vi mà cứ ngỡ như đọc, kinh Coran vậy. Khi hiểu ra Thiên tướng chỉ là việc làm, thì câu Phú trên không giải mà tự khai, Thế tại sao người ta vẫn nói Thiên tướng / Phá quân không những không sợ mà còn quản chế được Không -Kiếp nữa??
Cái này cũng không sai, Có những mẫu người rất sợ giới giang hồ, không bao giờ tìm hiểu và chơi thân với các tay anh chị, riêng Thiên tướng và Phá quân thì khác, bạn bè của họ có thể gồm cả giới trí thức và cả giang hồ, cho nên đứng về mặt giao du, làm ăn ngoài lề, thì Thiên tướng thật sự là không sợ Không -Kiếp vì Kiếp -Không ở đây có thể là đàn em, tay chân hay bạn bè làm ăn (trong giới giang hồ) của họ. Thiên tướng + Không -Kiếp là cách cục lúc đầu họ cũng làm ăn theo lề thói đàng hoàng, quy củ như làm công chức, tư chức v v nhưng dần dần lại cảm thấy quá bấp bênh (nay làm mai thất nghiệp) nên họ dễ đi vào con đường tự tổ chức hoặc gia nhập vào một nhóm làm ăn phi chính thức (cũng có thể hiểu là phi pháp) nào đó., mà Thiên tướng là kẻ chủ sử, Không -Kiếp thường là những gã ít học nên rất cần sự, quản giáo và chỉ bảo của Thiên tướng. Không -Kiếp ở đây có thể giúp ích cho Thiên tướng, nhưng làm ăn hay chơi chung với đám giang hồ lâu ngày thì có thể bị mang họa lây.
78. Nếu Thân hay Mệnh giáp Khôi Việt nhưng Khôi bị Triệt thì có thành cách nữa không?
Khôi bị Triệt có nhiều nghĩa nhưng đây ở vào thế giáp Mệnh thì ta phải hiểu theo cái thế này, Khôi ở đây có nghĩa là tôn trưởng, cha mẹ ông bà hay khi lớn lên ra ngoài làm ăn thì có nghĩa là những xếp lớn trong chỗ làm của ta. Bị Triệt là lúc nhỏ ta thiếu sự cưng chìu của Cha mẹ, ông bà (có thể là bận công việc hay bất kỳ lý do gì không thể chăm sóc ta một cách kỹ lưỡng,) Lớn lên thì ta thiếu đi sự ra tay trợ giúp của các Xếp, bị Triệt có nghĩa là khó thân cận với họ (do chính ta mà cũng có thể do hoàn cảnh,), có nhiều khi họ cũng muốn giúp nhưng ta không chịu, chìu lòn trước, và vì là xếp lớn họ không có lý do gì phải tìm gặp ta trước khi ta chưa có dấu hiệu gì, nên thường là họ không giúp. Bị Triệt cũng có thể là do những bạn làm chung thấy ta được xếp giúp vài lần thì tìm cách phá đám, làm mất đi sự tương trợ. Về thi cử thì khi Khôi ngộ Triệt tại tiểu hạn việc học có thể bị gián đoạn, ngoài ra một khi bạn chỉ còn có Việt, học hay lắm thì cũng chỉ đỗ hạng nhì mà thôi. Thường thì khi Khôi ngộ Triệt, bạn chỉ còn tìm được sự trợ giúp hay thông cảm với những người nhỏ tuổi hơn (hay phái Nữ) mà thôi. Khôi bị Triệt rồi thì cách giáp này bất thành cách.
Nhân tiện cụ cho con hỏi, khi mệnh mà yếu, tài quá Vượng thì lúc đó có phải là mệnh không khiển được Tài phải không ạ?
Cụ thể như: Mệnh Thiên Lượng Tỵ, chính cung mệnh không sao cát. Nhưng cung Tài thì Âm Dương Xương Khúc - Lộc Khoa - Quang Quý - Hồng Loan - Tấu Thư. Họa tụ chỗ nào (cung nào) thì cung đó (hay năm đó) bị họa, Phúc tụ chỗ nào thì hưởng phúc chỗ đó. Tài cung chỉ có Â-D - Xương -Khúc - Khoa - Lộc, tức là mới có nhị Cát + Khoa- Lộc thôi đâu có gì ghê gớm mà sợ Mệnh không khiển được Tài? Tại sao có cái lý thuyết Mệnh không quản được Tài?
Theo tui đây không phải do Mệnh yếu mà không thể quản được, cái chính yếu chính là về mặt tâm lý. Người Tàu, người Mỹ đa số khi đang giàu họ không thấy họ giàu, họ vẫn tỉnh bơ vẫn tiếp tục kéo cái cày cày tiếp, họ vẫn cần kiệm, đi ăn tại các tiệm bình dân, đi xe cũ, ở nhà cũ. V. V con cái của họ vẫn vậy, không đột nhiên trở thành những ông Hoàng con. Khi xưa có người chủ của tui khá giàu, khi đi đường thấy một cent, 5 cent ngoài lộ vẫn cẩn thận cúi xuống nhặt lên, ông ta lấy tà áo chùi xong thổi mấy phát vào đồng xu, xong, trịnh trọng bỏ vào túi áo vest, Người mình thì trái lại, phần đông mới có vài trăm ngàn, một, hai triệu đô là đã vênh cái mặt lên, xài đồ hiệu, đi xe sang, mướn người làm, con cái gửi qua Tây qua Mỹ du học, ở Mỹ thì nướng vào các sòng bài, ngồi thâu đêm không chịu về, Vài triệu đô mà xài phí như vậy thì một, hai năm là phải bán tiệm, bán nhà lớn, ở nhà thuê đi cày kiếm 7 đồng một giờ lại như cũ, Vì thế mới có cái thuyết Mệnh yếu với Mệnh mạnh.
Thực chất nó là khuyết điểm tâm lý khá sâu rộng trong người Việt chứ không liên quan gì đến mệnh. Mệnh Bạn yếu xìu, Tài cung sáng lạng, ngũ hành lại trấn áp Mệnh nữa, nhưng khi có tiền mà bạn cứ tiếp tục sống bình thường như bao người Tàu, người Mỹ một thời gian sau đó bạn nhìn lại câu nói của tui có đúng hay không.
79. Thanh long + thiên không có được coi là một cách
Thanh long -Thiên không = không có cách cục nào được ghi nhận, nhưng Thiên Không thuộc Hỏa, đi với Hồng loan hay Thanh long thuộc Mộc đều không đẹp, là điềm hoa nở chóng tàn, tình yêu cũng như niềm vui dễ tan vào mây khói, đi vào hư không.
80. Mệnh Thanh long + vận đến Kị, hoặc đến Lưu Hà hoặc Đại vận Thanh Long đến tiểu vận Lưu Hà, Kị có được coi là cách tốt cho vận đó?
Long -Kỵ và Long -Hà đều cần đồng cung và cũng tùy cung như Long -Kỵ đẹp nhất là Thìn hoặc tại Tứ Mộ, Long -Hà thì tùy Hà này là Hà gì?
Nước ngọt hay nước mặn? Khi đã tách rời ra thì không nhập cách, đơn giản là không xài được. (có những Cách/ Bộ sao tách ra vẫn dùng được).
81. Thê/Thân của cháu có Thanh Long tại Mùi, giáp Long-Phượng.. Thảo nào từng có người bảo là con rồng nằm trong chum, có chí hướng nhưng không làm được gì,
Giáp Long - Phụng thường có tướng người thanh lịch, đẹp và nổi bật hẵn giữa đám đông, như là phượng lạc giữa bầy gà, lôi vậy. Nếu Thanhthien có thêm cách giáp Hổ cái thì chắc đời tàn trên xa lộ không đèn quá, vì Hổ cái nào cũng dữ như Bà Chằng lửa vẹy, heh heh, mấy Cụ ngày xưa vì vậy đâu Cụ nào dám đưa Hổ cái lên thành cách cục,
Đệ của anh có Mã, nhị hợp có Triệt, đây là cách Mã hợp Triệt, ở chung mí nhau một thời gian thì xa nhau. Nếu Thê cung có cách này cũng vậy, bà xã bỏ đi " riêng một góc trời " sau một thời iêu rấu. Cách này rất hay nhưng ít người bít.
82. Bác cho cháu hỏi: mệnh tại Tuất (đất La - Võng), THÂN có Tử, Phủ đồng cung(tại Dần), tướng-ấn, Tả phụ nhưng dính Triệt, hihi,đồng thời lại bị lục hại Thái tuế thì có thoát được bại cách này ko.83. Mệnh Vũ Tham tại Mùi, Linh tinh nhị hợp giáp tại Ngọ thì có thành cách Vũ Tham Linh không thưa cụ?
Có và Không, nếu giờ sinh của Anh làm cho Mệnh lấn qua Ngọ cung trên 8 độ thì có khả năng thành cách, nếu lấn qua không nhiều thì không thành cách.
84. Tuổi Giáp Mậu khi mệnh tại Sửu mùi thì Khôi bị cả hai ông Tuần và Triệt vừa trói vừa chém, vậy thì hỏng hết sao bác? Mà ở đây được gọi là cách tọa quý hướng quý cơ mà bác? Hay chỉ cần khôi ở mệnh tam hợp gặp Việt là được coi tọa quý hướng quý?
Tuần / Triệt có rất nhiều nghĩa khi phân tích, có khi ảnh hưởng trên tinh thần (như muốn dấu mình, không thích ra ngoài) có khi ảnh hưởng đến vật chất nên rất khó nói, về vật chất nó chỉ chặt / chém khoảng một /3 hay trên một chút, không bị chém hết đâu mà lo, hi hi, tọa Quý hướng Quý thì cần Mệnh / Di đều có Khôi / Vịt.
85. Linh Xương Đà Vũ với tuổi Nhâm thì như thế nào (Nhất là tuổi Nhâm Thìn nạp âm Thủy, Nhâm cũng Thủy, Thìn là kho nước) ạ. Ở đây là cung phụ mẫu nhập thái tuế chính là cháu vì cháu tuổi Nhâm Tuất. Bé nhà cháu con trai đầu tuổi Nhâm Thìn, mệnh vô chính diệu. Sinh vào Bàng giờ, Dạ đề, "trai mùng một "..
Linh -xương -đà -vũ thật ra chỉ là một cách nhỏ trong Mục chết đuối / tự vẫn, mục này có trên một 00 Cách cục tương tự như vậy, mấy phái, Tàu lạ (không dám nói thẳng tên) chơi Phi tinh lâu lâu họ buồn họ lấy kiếm ra múa cho thay đổi không khí, cho nó hưng phấn lên một tý, cũng như ta rắt chocolate màu mè lên ly kem cho nó đẹp mắt vậy,.. Nhưng có bao giờ họ múa kiếm đâu nên múa có, 5, một 0 chiêu là đã thấy đuối rồi, trong số các chiêu họ múa có anh chàng Linh xương đà vũ, anh này đột nhiên nổi tiếng khơi khơi, đi đâu ai cũng nhắc đến, dù trước đó chẳng ai biết anh ta ở cái hang nào ngoi ra. Ngày xưa có chuyện vui Nhân dân tự vệ, nay chúng ta cũng có chuyện vui Tử vi, Linh xương đà vũ từ một anh cắc ké trong một đêm nite club nhảy lên làm bá chủ giang hồ chắc do công của Phan tử Ngư không nhỏ, qua khỏi biên giới Vn thì L-x-đ-v cũng tạo thành một phong trào gió bụi lun, đi đâu cũng nghe nói, từ người nổi tiếng đến mấy anh vô danh đều ve vuốt nó, thằng em này ở đâu mà oai và đẹp giai ra phết nhỉ, đúng là, con nhà !! Thằng nào kô bít anh này đúng là, nhà quê,
Tui xin mấy Bác trả lại L-x-đ-v cái vị trí xưa cũ của nó, thổi quá nó bễ bụng chết thì, tụi nghiệt. Thứ nữa nếu nhìn vào lá số mà chỉ thấy có mấy công thức vớ vẩn loại này thì làm sao mà đoán với bói??
Tuổi Nhâm, Vũ khúc - Hóa Kỵ = đầu tư, kinh doanh trong năm này tiền tài bị tổn thất, phá sản, dễ buồn chán nảy sinh ý tự vận, L-x-đ-v còn cần một, hai công thức phụ như Tang -Hổ-Hình -Khốc, Phá / Sát -Hỏa -hao -Kiếp vv, tùy lá số để thành cách, mỗi một mình nó nhiều khi không có gì xảy ra.
85. Mộ nhà cháu đã được thầy địa lý tàu ở trong nhà 6 tháng xem cho, nay các thầy khác ghé qua khi đặt mộ cho các nhà khác đều khen mộ nhà cháu đẹp. Họ nói: Phát khoa bảng và xuất ngoại. Để giảm tác họa của Không Kiếp theo cụ có nên trồng cây xanh quanh mộ hay không ạ?
Về việc thay đổi hay sắp đặt trên cung Phúc đức vì tui chỉ biết vỏ vẻ nên không dám, đụng đến, hay nhất là Anh chịu khó chìu chuộng Anh Huygen (trong BĐH) một tý, ca phe cà pháo đầy đủ nhé, Anh ấy là ông Trùm về Phong thủy, tui chỉ là cắc ké mà thui, theo học chưa chắc anh ấy đã cho. Tất cả những câu hỏi về Nga my án, trồng cây v,v anh nên hỏi Anh ta hoặc người nào có thẩm quyền về phong thủy nhé,
Bài trên khi nói về L-X-V-L, Tui hoàn toàn không dám có ám chỉ vào Anh đâu, Anh có toàn quyền hỏi, tui chỉ trách mấy Bố tác giả cứ lăng xê bậy bạ, làm người học Tu vi dễ có cái nhìn sai lạc, họ lại nghĩ có những công thức quan trọng làm Trùm những công thức khác, mổi Mục dĩ nhiên có một vài đại ca cầm đầu, L-X-V-L chưa phải là công thức chính trong Mục Tự vẫn / chết đuối chứ đừng nói là làm Đại ka cả giang hồ, hix, mấy ông Thài wàn này khi lạc chân vào Kiếm trận bị hoa mắt thấy cái cày ra cái cuốc, thui kô nói nữa,
86. Thiên khôi gặp Triệt.
Tôi xin phép được hỏi thêm về Thiên khôi gặp Triệt. Trong trường hợp một người nam, mệnh thủy, lương hãm ở tỵ hồng riêu xương khúc, cung thê cự cơ ở mão, thiên khôi, đào hoa, mộc dục, tướng quân bị triệt, vậy có thể coi rằng, thiên khôi bị triệt này ứng với việc sẽ chia tay người vợ đầu không? Tất nhiên Âm Dương lúc này ở sửu bị tuần. Thái tuế cung Nô Phá quân Không Đà ở Tuất. Nếu người này sau 3 hai tuổi mới kết hôn thì chuyện chia tay người vợ đầu còn khả năng xảy ra nữa không?
Thưa Cô, tại Mão Thiên Khôi - Tướng quân ngộ Triệt là chủ về cái đầu (của đương sự mà cũng có thể là của Vợ) bị một vật gì bằng sắt va phải, ví dụ như ta đi mà không để ý bị va phải trụ điện, nếu vậy là đầu bị va phải sưng một cục đến hai lần, chứ Cách này không liên quan đến ny dị, thưa Công chúa, Ly hôn thì nên xem bản này, bản này chưa cập nhật, nhưng cứ xài đỡ.
1 / Thê cung: Mã nhị hợp Triệt
2 /. Âm -Dương -Tang - Mã -Kình -Đà.
3/. Phù - Phá - Hình = ly thân
4/. Phù - Phá - Hình - Kiếp - Kỵ = ly thân, có thể đưa đến ly dị
5/. Phối: Mã - Tuần / Triệt
6/. Đào - Hồng ngộ Kỵ
7/. Cái - Phượng - Đào - Hồng
8/. Hình - Riêu - Tang - Mã = ly dị, quan trọng # hai.
9/ Hình -Riêu -Không -Kiếp = công thức ly dị quan trọng nhất,
87. Tromg trường hợp Thiên Khôi gặp Tuần thì luận thế nào ạ.. Cung Mệnh cháu cũng giáp Khôi Việt nhưng Khôi lại gặp Tuần mà cháu theo dõi hai năm rồi mà vẫn chưa hiểu ra..
(T. Khôi của cháu ở cung Phụ Mẫu bị Tuần với chính tinh Thiên Phủ..) Khôi -Tuần = đầu bị cành cây đập phải bị thương, một ông Bác đã mất hay đi xa khi bạn sinh ra, học hành bị gián đoạn, bằng cấp dự định lấy không lấy được. Vv.
88. Cháu quên, chỉ có tuổi Mậu Khôi Việt bị dính đòn Tuần Triệt, còn Tuổi Giáp thì ngon hơn, không bị dính Tuần Triệt đồng cung. Tọa quý hướng quý chỉ có hai tuổi Giáp Mậu.. Một trong các yếu tố tuổi Giáp được đánh gía cao hơn các tuổi khác? Bác cho cháu hỏi cách an Linh Hỏa bác theo trường phái nào vậy?
Tọa Quý hướng Quý chỉ lá Cách cần có nhưng chưa đủ, tức là cách cục còn cần thêm một, hai Cách cục để gia cố (làm vững chắc thêm) hoặc cần thêm một số Cát tinh, do đó Anh có thể bỏ qua không cần bàn đến Thiên can, cũng giống như một cách cục chưa được hình thành, chờ khi hình thành ta mới định dạng được. Chúng ta cũng đừng cầu toàn phải có cả hai, dù là lúc nào có cả hai vẫn tốt hơn, nhưng tính chất của Khôi -Việt là nhiều khi đương sự được cưng chìu, che chở quá đáng, có thể làm cho đương sự mất đi một phần bản lãnh tự lập của mình, nhất là con trai, nên chúng ta phải lưu tâm đến một tỵ. Tui vẫn dùng cách an Hỏa - Linh của VDTTL.
89. Bác Kim Hạc cho cháu hỏi mệnh có Thanh Long, Long trì cư Thìn có thành cách tốt không ah. Nếu bị Hình Riêu Không Kiếp xâm phạm (Riêu thủ mệnh, Hình, Kiếp thủ tài, Không tại Di) thì có thành phá cách nặng không. Thanh Long trong trường hợp này có giải cứu được nhiều không.
Thanh long - Long trì ; hay Long đức tại Thìn = Song long nhập uyên cách và được tỷ dụ như là long nhập trì trung (rồng lặn xuống hồ, nhất là khi bị nguy hiểm, Thanh long rất sợ lửa, tức Hỏa / Linh / Không / Kiếp, khi có lửa thì long chui xuống hồ thì gọi là bất thụ hình thương ! Được an toàn, Long trì + Không / Kiếp đ/c = cái hồ đã cạn, Không Kiếp chiếu = cái hồ sắp cạn.
Trường hợp này Thanh long vì bị Hình -Không -Kiếp chiếu nên sẽ nhảy xuống hồ để cứu lấy mình thui, cứu mình chưa xong còn cứu được ai?? Nếu đã có v/c, đến hạn này hay nhất là kiếm một cái resort nào rẻ tiền ra đấy sống một năm (Thanh long lánh nạn mà) chờ hết Tết về lại cho nó êm vui. Vâng ! Năm mới chúc Bạn như ý phát tài nhé.
90. Hình đắc địa tại mão dậu, hình hóa hỉ.. Nếu ở đây mệnh VCD gặp thiên hình thì thế nào vậy bác?
Tuy nói là Hình đắc địa thì hóa thành Hỷ, nhưng Hình là Kim sát tinh, hình khắc lục thân và dễ gây ra thương tích, ở Dần / Mão thì vì đắc địa nên chế giảm được rất nhiều, không phải lo, VCD, Hình độc thủ, coi chừng hình khắc Chính diệu đối xung.
91. Phá Quân - Văn khúc đồng cung, thủy trung tác trủng.
Trủng là mộ huyệt được đắp cao lên, thành phố Sai gòn khi Pháp mới chiếm, lúc bấy giờ hình như chỉ có Quận một và khu Đakao gọi là hơi đông đúc nhộn nhịp, xung quanh Sài gòn toàn là nghĩa địa, tui nhớ có một cái nghĩa địa nhỏ ở đường Hiền Vương (Võ thị 6? Bây giờ), từ Đinh tiên Hoàng chạy qua Điện biên Phù đến rạp Ci nê Văn hoa Đakao, nếu chạy thẳng là vào một com hẻm nhỏ, nếu quẹo trái là đang trên đường Võ thị 6, đầu ngõ hẻm đó ngày xưa là một nghĩa địa rất cổ (đối diện xéo với nhĩa trang Mạc đỉnh Chi, tức cung văn hóa Thiếu nhi bây giờ) người Pháp gọi nó là nghĩa địa Thổ dân. Chạy thẳng Võ thị 6 đến bồn binh ngã 6, bên trái là đường Lê văn Duyệt với công viên Lê thị Riêng, công viên này ngày xưa là một nghĩa trang Quân đội với hai dãy, một bên là Sĩ quan và bên kia là Hạ sĩ quan, Đầu thế kỷ, dọc dường Lê văn Duyệt này toàn là mồ mả, nguyên một cánh đồng mả mồ bất tận mà Pháp gọi là Plaine des tombeauxs, ngày xưa người ta xây mồ rất lạ, mả làm bằng những hòn đá tròn to bằng trái dừa trộn vôi với đường hay mật xây lên cao khoảng một mét hay thấp hơn tùy loại, và có hình dạng như một khối hình than. Bây giờ không thấy loại mộ kỳ dị này nữa,
Thủy trung tác trủng = làm mồ dưới nước, ý nói là chết vì thủy nạn. Cách này gồm Phá quân- Văn Khúc + Hóa Kỵ (Lưu Kỵ cũng vậy) tại Thủy cung (Hợi / Tý / Sửu), Có lẽ mấy anh học trò nghèo này đi đến khúc sông (Văn khúc - Thủy cung = khúc sông), muốn qua sông về nhà thì phải trả tiền đò, mấy ông này không có tiền rủ nhau lội qua sông thì bị nước cuốn đi (Phá -Kỵ = kỵ nước, không nên giỡn chơi với nước)
Đây chỉ là giả thuyết, giả tưởng thui, chắc đâu có ai nghèo đến mức đó, không hiểu vì lý do gì mấy ông học trò nghèo sính thơ văn này cứ bị nước, hăm dọa, có vẻ như nước là tai ách của mí ổng, chẳng hạn như Vương Bột, tác giả bài Đằng vương Các với câu:
"Lạc hà dữ cô vụ tề phi"
"thu thủy cộng trường thiên nhất sắc" -
Anh này đâu phải dân nhà nghèo, nhưng khi mới ngồi thuyền qua Giao châu thăm cha đang làm Thứ sử ở đó (có vẻ như là thành Luy lâu) thì bị bão quất cho một hồi, bị bất tỉnh trôi vào bờ, cứu lại thì ổng bị điên loạn, có lẽ vì sợ quá? Sống được gần một năm sau thì mất. Thứ nhì là Khuất Nguyên, người nói một câu bất hủ nhưng hơi ngớ ngẩn một tý:
Đời đục cả, chỉ mình ta trong ! Mọi người say cả, chỉ mình ta tỉnh,
Nếu mình ông tỉnh thì ông chơi mí ai, thơ từ của Khuất Nguyên cũng thuộc loại ngàn năm có một, ngay chỉ với cái tựa đề Ly Tao (một bài từ) của ông thôi, người ta đã tốn biết bao giấy mực để cố gắng giải thích, chỉ hai từ này, và tui thấy mấy ông Đại học giả Tàu đúng là, không hiểu chữ Tàu, cuối cùng sau một hồi giải thích, người ta vẫn không hiểu Ly tao là gì, đề tài này có bàn trong một quyển Văn học sử Hán - Việt (Quyển này khá dày, khoảng một tất tay, của nhiều tác giả) Ông này cuối đời cũng chọn dòng sông êm đềm Mịch la nhảy xuống vì không ai chơi mí ổng hớt,
Còn một ông nữa cũng nỏi lém, đó là Ný Bạch, chắc các bạn quen ông này, ông Lý này đi chơi thuyền ban đêm với mấy người bạn gái, uống rụ ngâm thơ, xong rùi sàm sở sao đó bị một cô giận quá xô xuống sông rùi vờ vịt tri hô lên sau khi bít ỗng đã chít dưới nước rùi ! Cũng có thuyết nói là một thằng bạn gian ác nào đó ghen tài và ghen sắc? (Ný Bạch mà đẹp trai ư, chưa nghe,) đã huých ông một cú làm ông ngã lộn mèo xuống, tụi nghiệp ổng đâu có học bơi đâu, mấy ông nhà thơ này tui biết mà, sợ nước lắm, có khi cả tuần lễ không tắm lần nào mà,
Thêm một ông nhà thơ Vịt nam là ông họ Hàn mặc, có một lần tắm biển ở Qui nhơn (có mấy bãi tắm rất đẹp của Vua Chàm ngày xưa), ông bị voọp bẻ hay sao í mà bị chết đuối, mang lên bờ thì cũng bị giống như Vương Bột, nửa điên nửa tỉnh, và thấy nước là sợ toát mồ hôi, nhưng từ từ thì chứng bệnh này lần lần giảm đi,
Đại khái là mấy ông Trùm thơ này rất kỵ nước và cả đàn bà nữa, hah hah
92. Dương cư Đoài Chấn, lục Mậu lục Giáp phúc nan toàn (Kình Dương xung chiếu Mệnh tư Dậu hoặc Mão, người tuổi Mậu Giáp cuộc đời lắm tai ương) Có sao nào thì hóa giải đc thưa cụ (Phúc cung con bị cách này có Thiên Tướng Hữu bật trấn thủ tại dậu, tuổi Giáp)
Tại sao Kình dương cư Đoài / Chấn mà Lục Mậu và Lục Giáp thì Phúc không toàn, còn các Lục Nhâm/ Lục Canh. Vv. Thì sao? Trong Tử vi viên có nhiều chỗ bí mật lắm, có Tàng thư lâu và Cung kiếm lâu, để trả lời câu này tui phải lẻn vào Tàng thư lâu đọc trộm, nhưng tìm hoài không thấy, có vài Cụ chú thích cũng lung tung ba rọi lắm, chú kiểu này càng làm vấn đề thêm rối rắm, đành về nhà pha trà, Thái đức (thức đái) tự uống và tự giải vậy,
Người ta nói tam sao thất bổn là trường hợp này, anh nào cứ theo câu Phú này mà giải thì chắc mau vào nhà thương thần kinh, ngồi trong đó, gãi tiếp. Đúng ra phải là:
- Dương cư Đoài -Khảm, lục Giáp lục Mậu phúc nan toàn. (Lục Mậu nếu cư Mão/ Dậu thì Kình dương không thể ở vị thế Đối xung, cho nên câu Phú này có chỗ sai)
Một / Lục Giáp Mệnh cư Dậu, là Thai địa, Âm Kim khắc Dương Mộc, lại vào Thu tiết (tháng tám) Kim ngoan (cứng, bén) mà Mộc lâm Thai/ Tuyệt chi địa, nội bị Cung khắc, ngoại bị Kình tọa Mão uy hiếp, (Kình dương tại Tý Ngọ Mão Dâu Hãm địa nên tính độc, nếu Mệnh lâm vào gọi là phi yểu chiết nhi hình thương), Lục Giáp tọa Dậu lâm vào thế nội ngoại đối công, khó bề chống đỡ, dễ bị khắc hại nên gọi là Phúc bất toàn.
Hai / Lục Mậu, Mệnh tọa Tý, không thể gọi là Vượng địa vì Thủy cung khắc Thổ, lại đang vào Trọng Đông thì Thổ khí vô sinh, Kình dương cư Ngọ lúc này lại Hãm xung, nội ngoại lưỡng công, tấn thoái vô lực, tình thế cực kỳ nguy hiểm
3/ Lục Nhâm Mệnh tọa Ngọ, đối cung có Kình cư Tý.
4/ Lục Canh Mệnh cư Mão địa, Kình đối cung tọa Dậu.
5/ Lục Bính Mệnh tọa Tý, Kình cư Ngọ.
Trong 5 trường hợp, sách chỉ nhấn mạnh đến lục Giáp và Lục Mậu vì Kình thuộc Kim, lực tác hại trên Lục Nhâm / Canh / Bính = Thủy / Kim / Hỏa không nguy hiểm đến tính Mệnh, nên không đề cập.
Chú: Kình dương kim khắc lục Canh = Kim khắc Kim, dao rựa chém nhau, cả hai đều bị sứt mẻ. Kình kim khắc lục Nhâm = như kim đao chém nước, không lâm nguy. Kình kim khắc lục Bính = như kim kiếm chém vào lửa, vô đại hại.
Có những câu Phú, phần minh giải đã hay, nhưng hay hơn nữa là phần ám giải, đằng sau câu Phú này còn có một nghĩa bóng (ám nghĩa) của nó nữa, ta phải để ý không nên vội vã bỏ qua, ví như câu Phú này chỉ đề cập đến lục Giáp và lục Mậu, đàng sau câu Phú còn ám chỉ Kình dương không có tác dụng nhiều trên 3 Lục còn lại, điều này khá quan trọng trong luận giải cũng như Hóa giải.
93. Bác Kim Hạc, nếu mệnh Khôi, thân Việt mà thân cự phu thê trong tam hợp Di Phúc Phối thì có thành cách Tọa quí hướng quí không?Lá số của cháu có cách Hình Khôi Mã thì có cách nào giải vật nhọn đâm vào đầu không bác?
Mệnh Khôi Thân Việt, dù Thân tọa ở đâu cũng là Tọa quý hướng Quý. Ngày xưa để giải cách này mấy ông tướng đều mang mũ sắt (xem lại mấy cái Phim Tây/ Tàu thì rõ) Lính Đức quốc xã thì dùng một loại mũ che ngang tai, đây là loại mũ designe rất hay, mũ của lính Mỹ / VNCH thì giống nhau, mũ này nếu không khóa lại, đạn bắn vào mũ thường bị trật ra ngoài vì mũ nó xoay được, nhưng lính ra trận thường khóa lại không cho xoay vì khi di động mũ cũng xoay theo tạo cảm giác khó chịu. Cách hay nhất là tập đi đứng dềnh dàng, cẩn trọng (nếu tập lâu ngày thành cách rất tốt trên phương diện tướng học, dễ giàu và dễ có quan chức hơn, vấn đề là phải được tự nhiên, không gượng ép và kịch cỡm gì trong đó), thứ nữa, ra đường nhớ mang mũ an toàn, có vẽ họa hình càng tốt (khôi-Hình). Hình không phải chỉ là vật nhọn, thường là sự va chạm, nên mang mũ có độ bền hoặc mũ sắt càng tốt, nhớ lái xe cẩn thận. Nếu lúc nhỏ đã bị té dập đầu một lần thì khi lớn sẽ nhẹ hơn.
94. Cháu có thiên việt ở mệnh, khôi tại phúc (tam hợp với thân cư thê) nên xem ra cũng giống namha. Khôi tại phúc của cháu bị Tuần, không biết có phải cách mà bác Kim Hạc nói bên trên không nhưng đúng là có ông bác mất trước khi cháu sinh ra.
Cháu cũng có thiên hình tại Mão (di) đối cung với mệnh VCD tại Dậu, chắc nhờ nó mà hóa giải được đào hoa, tử vi, tham lang, mộc dục đồng cung.. Vì cháu có suy nghĩ khắt khe trong việc thỏa mãn nhu cầu bản thân.
Khôi tại Phúc / Phụ + Tuần = đều có nghĩa giống nhau, có điều khi ở Phúc thì bị nặng hơn. Ông có Thiên Hình tại Mão đối xung lúc nào cũng như có ông Thầy giáo nghiêm khắc nhìn các hành vi của mình, chán lắm, anh cho lay off ổng đi, cho ổng về vườn trồng bonsai và anh sẽ thấy hoàn toàn thoải mái !! Đây mí gọi là giải phóng, Xong anh đi đóng phim hay làm MC là mới dụng được cái ngoại hình của mình, Không làm MC thì đi dự giải Mr. Gentleman of the world hay tệ hơn nữa làm Hot boy cũng được, đừng để Đào Tham Mộc tụi nó không có sân chơi thì cũng bùn, phải không các Quý Cô, heh heh,
95. "Thiên di tối kị Kiếp Không lâm vào", nhưng cũng có thuyết cho rằng người sinh tháng 4, một 0 (giờ tý) thì Kiếp Không vô luận. Vậy phải hiểu thế nào cho đúng ạ?
Thuyết này cũng giống như nói Kiếp - Không Tỵ/ Hợi Đắc địa vậy, nhưng họ chỉ thấy những lá số đắc cách mà sao không nhìn thấy Hậu vận của những lá số này, cũng như nhiều lá số Không Kiếp Tỵ/ Hợi không ăn được gì nữa, đây chỉ là một cái nhìn phiến diện, tựa như một anh chàng thành thị đến sở thú 5,7 lần, thấy lần nào mấy con voi cũng ăn mía thì đâm ra kết luận: loài voi chỉ bít hít bã mía, không ăn gì khác, hê hê.
Dĩ nhiên Hậu vận có khi (không phải là tất cả các lá số) khá xấu mà liên quan trực tiếp đến Không Kiếp, chứ tích cực thì đâu có nói làm chi, chẳng hạn lá số của Indira Gandhi, nữ Thủ Tướng Ấn độ một 966- 77, bị thuộc hạ là hai người Vệ sĩ ám sát trước cổng Dinh thự của Bà vào ngày 3 một Oct, một 984. Các chi tiết ám sát các bạn có thể check lại vì lâu quá có thể tui quên.
96. Tham Lang ở Cung Di (cung Thân) giáp Hỏa (cung Dậu) Linh (cung Mùi) thì có ý nghĩa gì ạ?
Tham tại Thân (Di) giáp Hỏa- Linh = là người cao vọng, thuộc loại đa tài nhưng vì hoàn cảnh bó buộc nên chưa gặp thời, đây chỉ là một nhận định cục bộ, vì thiếu lá số.
97. Trường hợp Lục Mậu, mệnh Thổ, Thân Mệnh tại Tý, Kình Dương xung chiếu, nhưng có phải Triệt đóng ở đây thì ổn định được tình hình, ngăn được nội ngoại lưỡng công?
Nếu có Triệt tại Tý thì Mệnh tuy có thiệt hại (xa cách Cha Mẹ) nhưng có thể chống đỡ được Kình dương trực chiếu., tình hình được ổn định, tránh được Nội Ngoại lưỡng kích.
98. Một số trường hợp không đi đâu ra ngoài, chỉ ở nhà thì không bị tai nạn gì, không biết như vậy là cách hóa giải không?
Thật ra rất khó, ở trong nhà suốt cũng đâu có được, cũng không phải là cách hóa giải hay ho gì, có lẽ không ai làm theo cách này cả, em gái tui cũng bị cách này mà Sát tinh còn nhiều nữa, tui không dám nói vì sợ She lo nhưng She có biết sơ về Tử vi nên chắc cũng hiểu, She rất cẩn thận khi ra ngoài, không bao giờ dám đi xe máy tự lái, ngoại trừ xe đạp, chỉ đi xe thồ, xe Buýt, Taxi thôi., tui nghĩ hay nhất là đi xe buýt, khá an toàn, Taxi thì dành cho những người có tiền, nếu có tiền thì cũng dễ giải quyết. Khi mới đến Canada có lần đi xem Ciné lúc ra về thì trời tuyết, tui hỏi hai bà già người Canadien bên cạnh về chuyến xe bus thì mấy bã nói xin lỗi nhưng tụi tao chưa bao giờ biết xe bus là cái gì, lát sau có tài xế lái limousine đến đón hai bã.
Biết Tử vi nhiều khi cũng mệt, có nhiều chuyện mình biết mà không dám nói ra, chẳng hạn những việc liên quan đến tai nạn, chết, góa, ly dị vv, thật là khó xử, ngay trong nhà cũng có khi không dám nói, nhất là chuyện liên quan đến phong thủy ở nhà có bà Chị và mấy người cháu tân học không muốn nghe chuyện Tử vi, phong thủy, Hàng trăm cuốn phong thủy và Dịch, Tử bình, Độn, vv collect được từ mấy chục năm bi chừ không biết còn ở chỗ trọ cũ không hay là đã ra thùng rác nằm từ lâu rùi, Sách Quý của tui không nhiều, nhưng được cái là những sách tương đối quan trọng đều có, Có lần một ông bạn đến chơi hỏi mượn mấy cuốn Dịch và Tử bình, tui đưa cho ỗng, trong đó có một cuốn rách bìa vì bị, Bạch hổ xé, ổng chỉ lắc đầu than: tui thì kiếm không ra còn ông thì để cho chó cắn, hehe.
99. Đào Tham Mộc của cháu không có sân chơi cho các quý cô (mặc dù cũng muốn chơi lắm) nhưng cho nó tham gia sân chơi khác là tu tập tôn giáo, đạo lý thì có được không bác ^^
Đào tham mộc tuy bị liệt, vào hạng râm tinh, nhưng cà 3 đều có chữ Mộc, (sợ Hình vì Hình thuộc Kim), tức là còn biết nhân nghĩa lễ mạo tí đỉnh, nếu hướng dẫn chúng vào đạo lý thì đúng là một Kỳ cách, người ta tu 3 đời chưa ra cái giống gì, nhưng với cái Kỳ cách này Anh chỉ cần 3 năm. Vì kẻ nào chịu bỏ sân chơi, mà trong khi mình là Vua của cuộc chơi, thì sẽ được hưởng phần xứng đáng. Vấn đề là phải tìm đúng Thiền sư hướng dẫn. Trong giáo ný nhà Phật, ai qua được chữ Dâm sẽ dễ trở thành Once-returner, hay là Never-returner các chữ khác như Danh / Lợi dễ bỏ hơn chữ Râm rất nhiều.
100. Tuế ngộ không kiếp vận suy, Cứu tinh Mệnh có Tử vi mới lành. Như cháu biết Tử vi rất ngại Không/Kiếp như vậy có mâu thuẫn gì không ạ? Với những người mệnh không thân kiếp thì sao bác
Tử vi ngại K -K là khi đó " Ngài " đang cô thế, cũng như Càn long du Giang nam, một mình đi lạc vào Tụ thăng lầu là một nhà hàng lớn chuyên bán các món ăn nổi tiếng ở hai vùng Nam Bắc, thức ăn Mãn Hán trứ danh đều có, ăn xong lúc tính tiền mí biết là quên không mang theo tiền, thật ra các bạn chưa có dịp làm Vua thì không bít chứ mấy ông Vua có bao giờ đụng tới tiền đâu, mà bít tiền là gì. Lúc tiểu bảo mang bill tính tiền đến, Càn long thấy total là 8 lượng 6 chỉ 4, trời ui, ăn con mẹ gì mới ăn lót lòng ở Hotel xong đi vài bước ra đây lại ngốn thêm trên 8 lượng bạc, bằng cả nhà người dân ăn trong 4 tháng ! Không có tiền mà tên tiểu bảo lại đòi dằn dặc không ngừng, nóng quá Càn long, đá nó một cái.
Đó Tử vi đi một mình thì còn tệ hơn người bình dân đi một mình nữa, còn khi Tử vi có đầy đủ tướng tá hộ vệ thì chỉ có việc ban uy ban phúc chứ đâu bít chữ sợ là gì? Nếu nói hạn có Tuế -Không -Kiếp mà ngộ Tử vi đắc địa cứu giải là rất đúng. Như vậy hai câu này không có gì mâu thuẫn, chỉ phân biệt cho thấy khi Tử vi cô thế Hãm địa thì không có công năng giải cứu và khi hội Tướng tá tả hữu thì lực cứu giải rất mạnh.
101. Không Kiếp Thiên Tướng gian truân, Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa.
Câu thứ này chia làm hai phần:
Một / - Không -Kiếp - Thiên tướng gian truân = Như đã đề cập ở các bài trước, Thiên tướng là chủ về công danh / sự nghiệp / công việc làm (cho chính phủ hay tư nhân), khi gặp Không Kiếp có nghĩa là sự nghiệp 3 chìm 7 nổi 9 lênh đênh, hoặc giả đi làm 6 tháng được Chủ cho nghỉ thêm 9 tháng, ở nhà chơi tiếp thêm hai năm nữa,
Hai / Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa:
Câu này ý tứ tầm thường, ai đọc cũng hiểu hết, không phải giải thích.
102. Nhận xét về người Mệnh Không, Thân Kiếp:
Là người khôn ngoan, sắc sảo nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, thành bại thất thường, làm việc gì cũng chóng nhưng cũng mau tàn. Nếu có Đại Tiểu Hao hội họp thì hóa giải được nhiều bất lợi và lập được công danh hiển hách. Tuy nhiên, nếu có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân ở Mệnh hay Thân thì yểu mạng.
Mệnh Không Thân Kiếp đa số xuất thân từ các gia đình nghèo, thành bại thất thường vì đó là tính cách, thất thường cố hửu của K -K, Cũng như tính cách chóng thành chóng bại cũng là đặc tính trời ban cho Không Kiếp, cá tính của Không Kiếp là nóng sổi, thích là làm liều chẳng cần nghiên cứu, thị trường là cái khỉ gì cả, đầu tư, kinh doanh lung tung tùy cái hứng của mình chẳng nghe lời khuyên của ai cả, khi hên thì trúng lớn (trong những trường hợp người khác dụ dự mà Không Kiếp nhảy bổ vào đầu tư, hên thì thắng lớn), ngược lại khi xui thì cũng dễ phá sản lắm, chứ đừng thấy lá số nào có Không -Kiếp + Tài tinh thì cho rằng tay này giỏi đầu tư / kinh doanh, nhiều khi chỉ hên chứ họ không có nghiên cứu sâu sắc.
103. Tại sao nói Không Kiếp + Song Hao lại hóa giải được nhiều bất lợi / công danh hiển hách.
Khi nào Không Kiếp cư tại Đắc địa + Song Hao đi với Song Lộc, Khoa -Quyền, Tam Minh, cát Thiện tinh, thì mới thành cách, mấy ngàn lá số họa may có được một, đây là trường hợp đặc biệt thì không phải bàn, Các lá số bình thường thấy Không Kiếp - Song Hao tụ hội là biết Hạn đang đọi, bạn đứng gần người ta mượn tiền, vô thời hạn ráng chịu, Không Kiếp - Hao + Cơ - Tang là biết có thể đang là kẻ homeless, nếu không thấy Hóa lộc thì bữa đói bữa no. Cơ- Lương - Hao - Không Kiếp cũng vậy, dễ chạy gạo từng ngày lém,
Tuy nhiên, nếu có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân ở Mệnh hay Thân thì yểu mạng.
104. cung Ngọ VCD có được coi là cách Nhật Nguyệt hợp chiếu không.. Tác dụng của nó có khác j' so với cách Nhật Nguyệt Mão Hợi không..
Câu hỏi này khá hay, nếu xét về tinh tú thì Mệnh VCD cư Ngọ, được Âm Dương sáng hợp chiếu lại đắc Đồng Âm Thủy đăng quế ngạc là Quý cách, phụ thêm Cự -Dương Quan phong tam đại thì phải vừa có Danh vừa Quý, tức phải là thế cách của một nhà Quý tộc tăm tiếng chứ. Sao xưa nay cổ nhân không tạo ra một cách cục nào xứng đáng cho vị trí VCD này?
Thực tế thì VCD phải mượn Đối cung làm chủ tể của mình, khi đó Âm -Đồng là con nhà Quý tộc phải lâm vào Hỏa địa (Ngọ thuộc Hỏa gồm có Đinh và Kỷ) Thủy Hỏa tương khắc, Thủy đăng quế ngạc là cách Sương đọng cành Quế khi hội tại Ngọ vị, vừa bị Kỷ thổ thu hút vừa bị Đinh hỏa thiêu đốt thì tính chất mảnh mai quý tộc như giọt sương khuya đâu còn gì nữa, Ở vị thế này Âm -Đồng cũng như là một nhà quý tộc bị đưa ra chiến trường (Hỏa địa tại Ngọ = hình dung cho sa trường vì vừa có mã vừa có hỏa khí, súng đạn), lăn lộn cùng đất đá, mồ hôi và máu, ăn cơm trộn cát thì còn đâu là hình ảnh một nhà quý tộc, đây là lý do Cách này không được thành lập khi Ngọ cung VCD, và cũng đừng lầm lẫn khi cho rằng Đồng -Âm + Kình = Mã đầu đới tiễn là một Quý cách. Đây là thế cách của đám con nhà hào tộc dám hy sinh nơi chiến trận, chỉ vài người bản lãnh mói mong hưởng được cái danh dự của cách này.
Túy ngọa sa trường quân mạc vấn,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi,
Thói đời, người ta chỉ đánh bóng những kẻ toàn mạng quay về, còn những con em khác gục ngã nơi sa địa sẽ dần đi vào quên lãng.
Mệnh VCD tại Mùi có Nhật Mão Nguyệt Hợi gọi là Nhật Nguyệt chiếu bích cách (Cung Điền cũng vậy), cách này thường xuất thân con nhà nghèo, khác với Cách Đồng -Âm xuất thân là con nhà gia thế. Nói về tác dụng thì Đồng -Âm là kẻ sinh ra đã có phúc khí, nhìn Phúc cung thấy là Quan phong tam đại cách thì hiểu là con nhà rùi, không cần khoe. (dĩ nhiên là có cao thấp khác nhau, con một Công tước có mấy cái lâu đài cũng là con nhà, con một chủ tiệm vàng giàu có, làm nữ trang hai, 3 đời cũng có thể gọi là con nhà, vì Nữ trang là Quý kim, liên quan đến Quý tộc,)
Về phần anh cháng VCD tại Mùi mà ta gọi là Â - D chiếu bích, vậy Bích là gì? A ! Ngày xưa cái môn Tuvi này chỉ dành cho dân thứ xịn chơi thui, thường dân đừng có nói mà léng phéng, mấy chú em bình dân chỉ chơi Tử bình, Dich bốc, các môn còn lại thì cho chơi láng, riêng Tử vi thì cấm tuyệt, các Danh sĩ cũng thường thích môn này, những tên Cách cuộc thường do mấy ổng chế biến ra, mấy ổng rất tranh nhau tiếng gáy, ai cũng muốn gáy cho hay, nên đặt Cách cục phải lựa lọc chứ không phải đặt bừa đâu.
Bích = bức vách, Mùi cung thuộc Kỷ thổ, đây là cung Điền thì phải có nhà, vậy nhà này xây bằng Kỷ thổ, tức là nhà tranh vách đất, ý nói xuất thân nhà nghèo, ghê chưa,
Bích đây cũng là một loại ngọc Bích màu xanh lam hay xanh nước biển rất đẹp (ngọc Bích của họ Hòa, tại sao ngọc Bích có hai màu này lại ám chỉ cho Mệnh VCD tại Mùi? - Xanh lam vì là màu của da trời vào một ngày ban mai trời trong gió mát (ý nói Nhật - Lương cư Mão, Nhật cư Mão = mặt trời mọc, Nhật xuất lôi môn với tất cả vẻ sáng lạng của nó, Thiên lương = gió mát,)
- Xanh nước biển là do màu của Cung Hợi, vì Hợi cung = đại hải thủy, những người có Mệnh / Thân cư Hợi cụng thường thích màu ngọc Bích (jade) này. - Nghĩa thứ 3 của Bích là Nhật - Nguyệt hay Âm -Dương hợp bích. Tại Mùi cung.
Cách Â-D chiếu bích thường là nhà nghèo nhưng là kẻ có Tài cao (Âm cực sáng tại Hợi, mà Âm chủ về âm nhạc, văn chương thi phú, mỹ thuật vv) nên dễ phát huy tài năng trên các lãnh vực này. Âm cũng chủ về phú túc, giàu có nên trung vận thường giàu có và nhiều điền sản.
Tài cung Thái dương xuất hiện lúc khoảng 6,7 giờ sáng, có nghĩa là công danh phát rất sớm, đỗ đạt có danh vọng khá sớm (vì Thái dương chủ về danh vọng, tiếng tăm và cũng chủ về sự nghiệp), Lương ở đây là một hiền sĩ, Mệnh cư Mùi nhị hợp Ngọ vị = cận long nhan, cận Quý cách, tức làm việc giúp một chủ nhân có quyền chức rất lớn.
105. Với cả Bát Tọa đóng cung tài thì thường chỉ cách kiếm tiền của đsố thế nào ạ
Bát tọa cư Tài thì thường thu chi tiền bạc ở tư thế ngồi, có thể làm chưởng quẩy các nhà hàng lớn, làm quản lý khách sạn, quản lý tiệm cầm đồ, vv
106. Cháu thấy theo bác thì Thái Dương cũng là một Đế tinh thì liệu cung có Tuế - KHÔNG KIếP thì Thái Dương đồng cung có tác dụng cứu giải ko ạ.. Với cả theo bác thì điểm khác nhau cơ bản của Thiên Không với Địa Không là gì ạ.. Vì cháu thấy hiện giờ vẫn đang thấy có sự tranh cãi về sự tồn tại của sao Thiên Không.. Nếu có thì có cách cục nào hóa giải Thiên Không ko ạ..
Tuế -K -K là Lộc đảo cách, thường đi với Song lộc, thông thường đại hạn có Tuế -Không Kiếp + Song Lộc (nhiều khi gặp khá nhiều hung tinh như Thiên không / Kỵ / Kình -Đà / hư- Mã / v v và một số Cát tinh như Tam Minh, Khoa-,,) thì dù có gặp sao gì thì cuối cùng có khi giữa chừng cũng bị phá sản, te tua như miếng giẻ rách, nhất là khi mới nhập vào hạn mà làm nên ăn ra giàu có, thì phải đề phòng vì Tuế- Không Kiếp là 3 Thằng VUA trở mặt, 3 thằng mất dạy ! Có thể trở mặt bất kỳ,
Gặp một thằng thì còn đương cự được, gặp 3 thằng thì nó tung người mình lên không cho mình sướng (trở thành đại gia cấp kỳ), tung vài lần như vậy, vừa tung vừa hứng rất là, nhiệt tình cảm động lắm, dù có tình Cha con cũng chưa chắc thân thiết bằng, Rùi cái lần tung cuối, 3 thằng này tung khá mạnh tay, khá là cao, xong rùi chúng lấy mắt ngó, không chịu hứng, còn cười khoái chí, thế là làm sao,
Nếu có Thái dương sáng tại đây, đầu Hạn ăn nên làm ra lại có chức quyền hoặc có tiếng tăm, sau đó mất hết, trắng tay.
Rất nhiều người bị cái Hạn này, mới nhìn thấy thì đẹp lắm, nhìn lâu vẫn thấy đẹp. Thầy bà gì cũng bị hố nhiều lắm, Hạn đẹp cực kỳ, Thái tuế là Vua + Tứ linh (giống như đã mua bảo hiểm an toàn vậy) + Song Lộc + Tam Minh + đủ thứ ăn chơi, v,v ai mà không lầm,
3 thằng Vua lừa này nếu không có những mánh dụ khị, đưa ra chiêu bài toàn là Hung tinh thì đâu dụ được ai? Phải không, Ai nói Tinh đẩu không biết dụ dỗ, lừa gạt, qua mắt mấy ông Thầy? Hi hi,
107. Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu, chiếu vào cung Mùi vô chính diệu, có thể xem là "Nhật Nguyệt chiếu bích" ko vậy? Trong trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung tranh tối tranh sáng tại Sửu, chiếu vào Mùi, thì cách cục ở cung Mùi sẽ thay đổi tốt xấu thế nào ạ? Cám ơn bác nhiều!
Hình như có vài tác giả cũng gọi cách này là A-D chiếu bích, nhưng để phân biệt chúng ta nên gọi cách này là Â-D HỢP CHIẾU hay là Nhật Nguyệt tranh huy, hay gì đó để khỏi lộn xộn, dĩ nhiên Cách này không thể sánh với Â-D Hợi / Mão chiếu Mùi cung, vì Â-D đồng cư Sửu/Mùi ở đây chỉ bình bình, chứng tỏ tài năng và tương lai có giới hạn (đa số / không nói số ít) vì thế theo tui Cách này không thể gọi là Â-D chiếu bích, vì chữ Bích phải hiểu là ngọc Bích, một loại ngọc quý, tức ám chỉ một người hiền tài, có thực tài và nhờ vào bộ Â-D Miếu địa chiếu hư không nên rất thông minh. Cách cục đẹp như thế mới gọi là CHIẾU BÍCH, vì ngọc quý thì được ví với người Tài.
Còn cách Â-D hợp chiếu phải nói là không sánh bằng, Â-D thì bình bình mà lại tranh huy, Âm đang tàn mà Dương đang lụi, hà hà, ai sáng hơn ai, và cái anh tối hơn thì có dùng hay không? Thiên đồng thì cư Hợi Hãm địa,ý nói cần phải đi tha phương hoặc làm những việc có tính di hoán mới họa may có sự nghiệp, như vậy số lại bất ổn định.
Cách này cần Tuần để tụ sức sáng, có khi dùng Kỵ / Riêu/ Đà, hay riêu -kỵ/ đà -kỵ / riêu -Đà, để hổ trợ cho Thái âm.
Chắc có người lại cho ông này ăn nói lẩm cẩm, Thái âm nào mà cần Đà / Riêu / Kỵ, đều là một trong Tam ám mà, nhưng Cách cục có nhiều cái lạ lắm, thiên ngoại hữu thiên mà lỵ,
Nói chung là cách Â-D hợp chiếu này là một cách đẹp tương đối, chỉ hơn Cách Âm - Dương tọa thủ đồng cung (tịnh tranh huy) mà thôi. Chỉ là một Cách cục khá hơn bình thường, đó là lý do mà Cách này cần nhiều Cát tinh thủ / giáp mới trở thành cách đẹp.
108. Tài Phúc Nhi Phùng Hao Kiếp Đơn Ảnh Cô Bần
Cung Tài Bạch hay Phúc Đức có Hao, Kiếp tọa thủ đồng cung là người cô độc lại nghèo nếu Mệnh được đa Quý tính quần tu vận làm nên phi thường và Song Hao, Địa Kiếp hay Kiếp Sát ở đây chỉ sự không bền, họanh phát hoanh phá. Câu làm nên phi thường tức là thành công lớn rồi thất bại có phải là nói quá lên không thưa cụ, hay nó nằm trong phi thường cách ạnếu Mệnh Thân có cách này thì có còn ứng với sự "phi thường" hoạnh phát hoạnh phá ấy không?
Hạn phùng Hao-Kiếp thì cần có Chính tinh Miếu vượng + đa Cát tinh hội tụ mới chiêu dụ được Hao -Kiếp ngã về phe mình giúp mình thành công nhanh chóng. Vì khi đó Hao có nghĩa là hào phóng, phóng khoáng, rộng rãi, tận lực, còn Kiếp có nghĩa là chiếm đoạt (Tài lợi / lúc này có thể là chiếm đoạt một cách legally vì đã có một số Cát tinh, Quyền tinh che chở cho nó.) Nhưng tính cách của Hao- Kiếp là phản phúc, vô thường, hay là chúng muốn quay trở lại cái kiếp ăn xin, đói rách ngày xưa của chúng cho nên vẫn chờ cơ hội,
Phi thường cách tức ăn no rùi không xuống, tiếp tục ăn đến 3,4 Đại hạn thì hiếm lắm, thông thường phát phú phát quý được một Đại hạn là, phủi tay, ngồi chờ cơ hội tiếp như trường hợp các đại gia B Đ S Vn cũng ăn được một, hai đại hạn, trên Chính trường cũng vậy, ngồi lâu như Ba D nhà ta cũng đâu có mấy tay, thông thường chỉ lên một đại hạn rùi nhảy xuống, không xuống thì kẻ khác hay thời thế cũng bắt phải xuống, như TT N Đ Diệm 9 năm, Tông tông Thiệu 9 năm, Ông Kỳ chỉ 3 - 5 năm (vì Thái Dương cư Ngọ bị Triệt ngoạm mất một miếng lớn), các Presidents của Mỹ cũng chỉ từ 4 đến Max. Là 8 năm.
Túm lợi, lên được một đại hạn có thể gọi là Quý nhơn rùi, cầu mong chi cho nhiều, ăn no tức bụng, các Quý vị cứ ngồi mâm cỗ trên xơi từ đời cha đến đời con thì thiên hạ nhiều anh, không vui,
109. Bác Kim Hạc cho cháu hỏi về trường hợp người mạng hỏa, thiên Lương cư hợi cung có tuần thì có phản vi kỳ không,tinh sóng gió duoc giam toi da khong ak
Thiên lương cư Hợi là phiêu bạt, bất ổn nếu ngộ Tuần thì trở hành cách cục ổn định, giảm được nhiều sóng gió, Mạng nào cũng vậy.
110. Bác Kim Hạc cho cháu hỏi với ạ, cung tài của cháu có cách nhật trầm thủy đế, nhưng có tuần (chính tuần) lại tọa vị trí bệnh của vòng tràng sinh, thì có thể hiểu, cháu luôn có bệnh thiếu tiền đúng ko ạ, (Tuần thì ngăn chặn, bệnh thì khó nhiều tiền) kính bác
Hợi cung là một trong hai cung có độ giao động nhất trong một hai cung, có thể gọi là ba động, sóng gió tơi bời vì là đại hải thủy và vào tháng một 0, đông lạnh buốt người, Thân / Mệnh không nên cư vào, nhẩt là nữ nhân, cung Tài / Quan cũng bị ảnh hưởng, dù chính tinh là gì cũng bị giao động, bất ổn tiền tài, công việc lên xuống, thay đổi thất thường. Nếu ngộ Tuần là vẫn còn có hy vọng vì Tuần làm tăng sự yên định, nhưng muốn tăng thu nhập vẫn phải nhờ vào thế lực của bọn trung Cát tinh như Lục cát, Tam Minh, Lộc tinh. Vv Bệnh ở đây có nhiều nghĩa, income kém, vì bệnh mà tốn hao, công việc liên quan đến bệnh như làm y tá chẳng hạn, hạn Cha, con trai bị bệnh, vv Cũng như một viên kim cương có thể cho ta thấy nhiều màu khác nhau trên các facets, sao bệnh kết hợp với các sao chung quanh sẽ cho ra nhiều khía cạnh khác nhau, do đó đã có nhiều người từng thắc mắc, tiểu hạn trùng lặp tại một cung thì ta lại gặp những việc giống nhau hay sao? Sự việc không đơn giản như vậy, một chữ Bệnh nho nhỏ đã cho ra biết bao đáp án khác biệt huống chi còn các sao tam phương dồn lại.
111. Cô - Hư của Tuần Triệt: nếu Tuần & Triệt đồng cung (ví dụ tại Tí Sửu), thì Cô & Hư là nhiều hay ít hơn. Cô-Hư của Tuần khác với Cô-Hư của Triệt thế nào ạ.
Tính chất Cô -Hư của Tuần Triệt khá giống nhau, vì thế khi chúng đồng cung thì cái tính effet secondaire của chúng là doubler và khi đó tính Cô- Hư của chúng có thể interchangeable rất hay.
112. sách dạy cung Mệnh vô chính diệu cần có Tuần trấn thủ, vậy nếu trên lá số ko có Tuần thì có thể chế ra Tuần bằng cách cô lập hạn chế giao tiếp ko ạ? (trong truyện võ hiệp, các cao thủ thường bế quan luyện công, chắc vào hạn vô chính diệu !!?)
Không nhất quyết phải làm như vậy, VCD thường chỉ sợ lúc nhỏ dưới một 3 tuổi thôi, khi lớn đi qua các Đại Hạn khác đã có Chính tinh sponsor / hay đỡ đầu rồi thì không cần. Với lại đa số chỉ sợ Di có Kiếp- Kình, Hình thôi (tựa như mình ốm yếu mà ra ngoài bị bọn côn đồ ăn hiếp, đánh đập, cướp giựt vậy,) nếu Di có các sao lành thì không sao. Không cần phải ẩn mình đâu. VCD cũng có cái hay của nó là thường các Ác tinh đánh vào chốn hư không, xui lắm mới bị đánh trúng Tử huyệt, nhưng nếu xui thì Chính tinh cũng có thể bị xui vậy, cho nên VCD thường chỉ sợ lúc ấu nhi thôi, qua được một 3 (tuổi xui) là thấy đỡ ngại nhiều lắm. Cũng có những lá số VCD không Tuần mà sống rất thọ.
113. Âm Dương Sửu Mùi cần Tuần để tụ sức sáng, có khi dùng Kỵ / Riêu/ Đà, hay riêu -kỵ/ đà -kỵ / riêu -Đà, để hổ trợ cho Thái âm.
Có những vùng đất thiếu Thủy khí hay Âm khí như Mùi địa, hoặc giả tại Sửu địa Thái Âm Thủy tinh không Vượng thì cần thêm các tinh tú nhỏ thuộc Kim / Thủy như Linh/ Riêu / Đà / Kỵ. V. V để tăng thêm tinh độ, quang độ cho Thái Âm.
Tại Sửu / Mùi Khi Thái Âm sáng lên cũng có nghĩa là vực cho Thái Dương sáng theo, vì hai tinh đồng cung, cũng như Thái dương tại Thìn bị Triệt / Tuần thành tối ám, nhưng vẫn còn Thái âm sáng tại Tuất chiếu về nên cuộc đời không bị bèo nhèo mà lại ung dung (cũng có nghĩa là Vợ vực, giúp đỡ sinh kế cho chồng)
Chỉ được dùng lực lượng của Nhị Ám, không thể dùng một lượt Tam ám vì Tam ám rất mạnh, rất bất lợi vì sẽ gặp đa hung hiểm, có thể bần yểu.
Âm + một hay hai tinh trong Tam ám = Sẽ tăng tinh độ, vì chúng tương quan về ngũ hành (đều thuộc Kim/ Thủy, Kim có thể sinh Thủy và Thủy có thể trợ giúp thủy lực),
Nhưng ÂM + Riêu / Đà = tăng dâm tính, mà cũng làm mắt bị cận, nên tướng diện học có khi cho rằng những người nữ mắt cận thì thường tính dục mạnh hơn bình thường. Và một đặc tính nữa là những người mắt cận thường có học lực cũng như nghệ sĩ tính rất cao, đó là nhờ Âm đã được L-Đ -R-K hổ trợ.
Âm + Kỵ = Đau mắt, đau bụng, khắc Mẹ. V. V Âm -Linh = Chuông gọi hồn ai ! Có vẻ là hay nhất, vì Âm -Linh có nghĩa là được một người đàn bà/ con gái có thế lực ở cõi âm ám trợ về nhiều mặt, nhất là công danh, lá số Tưởng giới Thạch có cách này, và nhiều lần ông cho biết có một người con gái cõi âm đã tìm cách giúp mình. Nhưng ông không biết là ai, có biết đâu khi nhìn vào lá số mới biết là em gái của ông, chết lúc còn nhỏ.
114. Cụ Kim Hạc cho con hỏi Âm Linh tại ngọ nhị hợp giáp mùi thì có người đàn bà cõi âm ám trợ cho không ạ?
Cũng tùy trường hợp Anh ạ, vì Âm -Linh hay bất kỳ tổ hợp nào cũng có vài ý nghĩa chứ không phải một, ví như ÂM -LINH có thể là khi sinh ra có tiếng chuông nhà thờ/ Chùa dộng lên ở đâu đó (trong khi cầu nguyện), hoặc sinh ra vào một đêm có nhiều sao lóng lánh, V. V
115. Bác Kim Hạc, Hóa Khoa cung Tuất có giải được Thiên Đồng hãm địa cung Thìn có Tã, Hữu,nhị hợp cung Thìn cung Dậu có Hóa Quyền,tam hợp có cung Tý có Hóa Lộc?
Khoa -Cự tại Tuất hóa giải được thị phi và tăng học lực rất nhiều, Tý cung Thiên lương -Hóa lộc thì khả năng kiếm tiền cũng khá, Thìn cung Tả- Hữu nhị hợp Quyền, như vậy về mặt tinh tượng có thể nói đã giải được sự Hãm địa của Thiên đồng tại Thìn.
116. Tử vi ngộ tấu thư là cách thần đồng phụ nhĩ chỉ người thông minh Vậy đây có phải cách lớn trong tử vi không thưa cụ, chỉ tử vi đồng cung tấu thư mới tính hay tính cả tam hợp, xung chiếu, nhị hợp nữa thưa cụ.
Cách Tử -Tấu = Thần đồng phụ nhĩ là một cách đối xứng với Cách Phượng các -Kình dương = cũng là Cách Tấu Phượng, là Cách Quan đại thần mật tấu với Hoàng hậu.
Trong địa lý có cuộc đất gọi là Thần đồng phụ nhĩ, mạch khí hồi đầu dánh một vòng cung xong nhập vào phía Tả hay phía đầu mộ huyệt, đất này thường sinh ra Thần đồng (mấy em bé có IQ rất cao, nhất là về học hành), cách này trong Tử vi gọi là Tử vi -Tấu thư = là tượng Đại thần mật tấu cho Vua, đại thần ở đây là bé Thần đồng sau này đấy. Chỉ có Tử vi -Tấu thư Đồng cung + vài Khoa tinh mới đúng cách, không thành cách ở các dạng khác. Cách này cũng không thể gọi là lớn, vì còn tùy thuộc vào Thân và các Đại hạn Trung niên có đẹp hay không nữa, có khi lúc nhỏ học hành nổi tiếng cả tỉnh nhưng lúc lớn cũng chỉ lình bình, làm công chức Chính phủ như mọi người vậy thui.
117. "Tuần Triệt đương đầu thiếu niên tân khổ?". HTD có hai lá số Mệnh Thân đồng cung, đều là Cự Môn Không Kiếp tại Hợi. Một trường hợp có Tuần, một trường hợp không có Tuần. Vậy trường hợp nào tốt hơn? Mong bác INDOCHINE cho ý kiến.
Kiếp - Không tại Hợi có cái lợi là hoạnh phát hoạnh phá, nếu muốn cách cục này thì không cần Tuần, còn nếu muốn một đời bình ổn ít sóng gió thì cần có Tuần, nhưng mà khó có được đột phát cái nào cũng có chỗ hay và khuyết điểm của nó.
118. "Thiên Không hội với Đào Hoa, Cầm, kỳ, thi, họa tài ba tuyệt vời. Cơ mưu quyền biến hơn người. Ngàn năm mệnh bạc một đời tài hoa"
Dạo này cái anh Thiên không nổi tiếng không thua gì cái Linhxuongvula, đi đâu người ta cũng hỏi về Anh này và có vẻ, rét anh này lắm, ngộ ghê. Câu này thì không cần giải thích vì nó đã tự khai rùi, Thiên không -Đào hoa = tại Mệnh/ Thân, đàn ông thì hào hoa lém, tốt nhất là đừng lấy vợ sớm, chờ đến, 70 lấy là tạm ổn, anh này thực chất là loại lửa rơm, không bít mấy cô nương ở thành phố có bít lửa rơm là gì không nữa, giải thích lung tung quá, lửa rơm nó cháy khá nhanh và tàn cũng rất lẹ, nhiều khi chưa kịp mồi điếu thuốc nó đã tắt, đui rùi, thế mới chán. Trong tình iêu, Kô- Đào nhảy vào là iêu ra rích, iiêu gỡ kô ra, một ngày hay một canh giờ kô gặp được nường là anh ta có thể, ngất xỉu, trông đứng trông ngồi, rất là tụi nghiệp, ai thấy cũng cảm động vì cái mối tình quá vĩ đại như vẹy, Nhưng khi nắm được người iêu trong bàn tay dâm đãng của him rùi thì khoảng chừng 3 đến 6 tháng là anh chàng ngán ngẩm người đẹp, ngồi trên giường người đẹp đang ngủ mà có thể chat ra rít với em khác, cho nên có thể nhìn Sao mà bắt hình dong.
Đào hoa là tình, Thiên không là: ta từ hư không mà đến và cũng tan biến vào không hư, tức là loại tình chợt có chợt không, bíu vào nó, chưa chợt nhận ra mình đang có hạnh phúc thì đã ôm hận mấy niên. Đào hoa là hoa Đào tung cánh trong không trung, không dịnh hướng và không bến bờ, cũng như Tham lang phiếm thuỷ là một chiếc thuyền tình trôi giạt từ bến này đến vụng kia.
Những chàng Đào -Kô thường khá đẹp trai (không đẹp cũng như bị phá cách), tài hoa, cầm kỳ thi hoạ các món ăn chơi đều biết, lại rất thành thật, ngoan hiền và mộ đạo, đầu óc của họ rất nhanh nhạy, chuyên nghề bịp nên cái đầu của họ khá thông minh (loại thông minh để lừa người khá), có khả năng làm các bậc Cha Mẹ trao con gái cưng cho anh ta và tin cậy một 00%, tin hơn thằng con trai của mình. Đó là những ưu điểm của anh ta.
Lừa người nhiều lần thì phải bị trả nghiệp, thông minh sắc sảo quá mức thì bị chính cái thông minh nó hại, cuối cùng không vẫn hoàn không. Cũng có loại người Mệnh / Hạn ngộ Đào-Kô nhưng tu tỉnh lắm, đây là loại người minh trí, mộ đạo, không vay lấy nghiệp để phải trả nặng lãi, nhưng rất hiếm. Nữ lưu ngộ Đào-kô thường bị tình phụ, hoặc yêu người mà người lại thương kẻ khác, thất bại vì tình, cũng có hạng lả lướt như nam giới nhưng chỉ là thiểu số.
119. Tôi cũng tính hỏi có phải chỉ tính trường hợp Đào - Không đồng cung ko, nhưng sợ hỏi vậy ko đủ ý nên tốt nhất là hỏi chung như vậy thì có lẽ là tốt hơn.
Đào -Kô phải đ/cung, vì mấy chàng Đào-Kô rất thiếu kiên nhẫn cho nên ngoại hình phải nổi bật, nếu ai không ăn hay ít ăn vào Đào hoa thì khó sử dụng chiêu này. Còn khi có Thiên không thì luôn đi chung với (Đào)-Hồng -Phục -Hà -Sát. Đào -Hồng là ngoại hình bắt mắt, mà cũng chỉ mấy, con gà. Hà là ăn nói lưu loát, khá thuyết phục. Hà - Kô = nói có vẻ thành thật lắm nhưng có lúc chứa cái Kô (dối) bên trong. Thiên kô -Phục -Sát = bay lượn trên kô để rình mồi như chim diều hâu vậy.
Thiên không có 3 nhánh:
Một / Thiên kô = Thiên giới (Catholics),Không hư (Phật),cho nên người này nặng về tín niệm tôn giáo, sẽ quên đi hoặc áp chế được dục vọng (Đào -Hồng).
Hai / Thiên kô = Hư không, ảo ảnh. Trường hợp này là đương sự đang diện đối với hiện tượng Thiên kô + Đào -Hồng = thấy một cành hoa đào từ không trung tà tà bay xuống, sắp vói tay chụp được. Nhưng thực tế là chỉ chụp được, hư không, đây là trường hợp thất tình, kế tiếp theo là thất nhị tình, tam tình nhưng dù sao cũng được trải nghiệm những cơn mộng mị hiếm có. Vì không phải ai cũng thấy được hiện tượng này, với lại cái gì mất đi mới thấy quý, đúng kô??
3/ Đây là trường hợp Thiên kô- Phục -Sát, ở tư thế diều hâu săn bắt gà con.
Cho thấy cũng là Mệnh / Hạn Thiên kô nhưng chia ra nhiều cảnh giới.
120. Con muốn hỏi cụ là tam không ngộ tuyệt tại cung phúc thì có là thông minh xuất chúng hay ý nghĩa khác đi rồi thưa cụ?
Tại Phúc cung có nghĩa là họ hàng một, hai đời lại nảy sinh những vị thông minh. Nhưng Tứ Kô ngộ Tuyệt (Albert Einstein) hay Ngũ Kô -Tuyệt thì cao hơn.
121. Nếu cháu ko lầm thì Đào hoa- Thiên không mà bác nhắc đến luôn có tứ đức thì phải, vậy tứ đức trong vấn đề này ko cứu vãn được gì cho cách cục đó sao bác?!? ^^
Tính cách Thiên kô na ná như Thiên Hư, những cái gì Thật hội ngộ với, Kô / Hư có khả năng biến thành Hư không, hay không thực. Như vậy Tam /Tứ Đức ở những vị thế này cần đề phòng, xét nghiệm.
122. Cháu chỉ mún hiểu dc làm sao để là người dài nhất bên cạnh người đào không thui cụ,
Nếu đứng về Nam giới, để giữ cho gia đình mình yên ổn thì phải tự mình câu thúc như là đi nhà thờ, chùa, đọc kinh thường xuyên, đừng thấy gái đẹp mà niệm câu: Nam mô xô bà già ra, na con gái dô, heh heh. Nhưng mà khó quá, vì tự trói buộc mình thì khó lắm, hạn này có ai khuyên cũng như nước đổ đầu vịt thui. Nếu Chính tinh là Thiên cơ (+ Đào- Kô) thì nên đi học vẽ có thể giải. Nếu Chính tinh là Liêm -Tham Tỵ / Hợi thì cần Tuần/ Triệt / Nếu có Thiên Kô- đào-Kỵ / hay Đào - / Kình/ Hình / Lộc tồn, thì tự nó giải hoạ, Nếu có Quang-Phúc chịu khó tu niệm tại gia cũng khả giải. V. V
Về Nữ giới muốn giữ một anh Đào- kô thì phải bít chiến thuật câu cá, nhắp. Loại câu này người câu lấy một con nhái làm mồi, quăng con nhái ra xa và cứ nhắp nhắp con nhái trên mặt nước như nó đang nhảy trên đất ruộng vậy. Tức là phải bít nắm rùi buông, không bao giờ để cho anh chàng bít là mình mê anh chàng, chàng ta mời đi đâu có lúc phải biết từ chối và phải lạnh lùng đúng lúc, hồ hởi đúng lúc, cái lày hơi khó giải thích, nhưng người thông minh là phải hiểu.
123. hạn tại cung tài ở Tý có vủ phủ đào không đại hao thì có nghĩa gì ạ.
Có thể là có tiền thì ưu tiên cho việc bao gái đi chơi vòng vòng ấy.
124. Bác cho cháu hỏi: Nếu thiên không đào hoa ở Mão mà thêm thiên hình thì nó sẽ biến tướng ra sao ạ. Cháu cám ơn,
Thiên Hình thuộc Kim có thể hại Đào hoa thuộc Mộc, tức là bị Cha Mẹ hay ai đó cấm đoán, cấm cản hoặc dùng hình thức nào đó chặt đứt dây liên hệ tình cổm lãng mạn của mình. Nếu Hình tại Mệnh thì có thể vì khuôn khổ đạo đức hoặc lề thói gì đó buộc mình phải hy sinh cắt đứt liên hệ với người đẹp.
125. Cho con hỏi về trường hợp Đào hoa gặp Triệt ở Mão với ạ? Là hoa đang nở gặp mưa gió dập vùi chăng cụ, nên tình duyên bẽ bàng sao? Hu hu, lại là cư Ách nữa ạ. Có cách nào cứu vớt không cụ ơi?
Đào -Triệt tại Mão địa, khó có cơ hội tiếp cận người mình thương, nhà chàng kín cổng cao tường, hoặc chim xanh bị ngăn cấm. Bây giờ thì có nhiều cách giải, Send messages, emails, một trăm thứ để liên lạc, đâu có như ngày xưa bị ngăn cản là, bó tai.
126. bộ Đào - Không này liệu có chính tinh nào tạo hợp cách với nó
Cứ suy ra thì biết, các Chính tinh có dâm tính đương nhiên là thích hợp với Cách này hơn, chỗ này chắc các vị đã hiểu.
127. Với cả Đào - Không cư nô thì ý nghĩa sẽ thế nào ạ.. Ta hay bạn sẽ đóng vai Đào - Không đây..
Đào -Không cư Nô = thường bị thất tình.
128. Thiên Không đi với Địa Không " hai Không" có thành "Có" không hả bác,
Nhìn xuống đất (Địa) chỉ thấy cái bóng của chính mình, Nhìn lên trời (Thiên),ôi ông trời ui, bây giờ nường đang, tung cánh chim mí thằng khốn nào vậy??
129. Vậy ngoài 30 chủ yếu dùng Thân Với Cục. Thế Mệnh lúc đó sử dụng như nào hả Cụ? Ví dụ như trong giải đoán một đại hạn nào đó? Và dùng Thân với Cục như nào để luận tốt xấu trọng một hạn ạ?
Mệnh cung vẫn dùng bình thường để đối chiếu và so sánh, như khi luận Ngũ Hành thì sau 30 ta vẫn kết hợp Mệnh và Cục để suy đoán như bình thường. Lúc này đúng ra chỉ luận Cục không luận Mệnh nhưng vì Mệnh chứa đựng cái Tiên Thiên (đã được định sẵn) nên không thể phế bỏ được. Về Ngũ hành Thân và Cục lúc này là một nên chuyển qua Cục để luận. Như vậy khi luận chỉ có Mệnh và Cục mà thôi. Sau đây là một ít Tuyệt chiêu về cách luận ngũ hành của Khí tông ngày xưa:
Ví dụ: Thuỷ Mệnh Kim Cuộc mà đại / tiểu Hạn tại Kim cung ngộ Hoả tinh thì bất cát lợi.
Như: Mộc Cục, Mệnh cung có Đồng -Âm cư Tý đắc địa toạ thủ thì gọi là Lưỡng Thuỷ sinh Mộc là Cách khá tốt, nếu Mệnh Thuỷ / Mộc thì càng thêm tốt đẹp. Nếu Mệnh thuộc Hoả / Thổ thì giảm cát lợi.
Như: Mộc Mệnh sinh nhân (tức Niên chi là Mộc / không dùng Mệnh nạp Âm), Mộc Cục Thuỷ hương an Thân/ Mệnh, tắc Thuỷ cung sinh Mộc lại đắc Thuỷ tinh (như Văn Khúc), thì tuy không có đại cách thành lập, chỉ có Tham - Hoả đồng cư, có thể gọi là Cát mỹ chi cách.
130. Thưa cụ, như mệnh Kim cục Thổ đi tới hạn cung Kim ngộ sao hành Hỏa thì sao ạ?
Mệnh Kim đến cung Kim ngộ Hoả, bị Hoả khắc Mệnh = bất cát, nhưng Hoả ở cung Hạn cũng dùng một phần khí lực để sinh Cục nên hoàn cảnh về sau tương đối thuận lợi, Hoả tại Kim cung dù thất Hãm tác hại vẫn không suy giảm, có thể ảnh hưởng đến bệnh, nạn nhỏ (vì Cục tốt được sinh nên xem như bán cát bán hung). Sự nghiệp cũng vậy, khởi đầu đại hạn dễ bị thất bại về sau khá hơn. Nhưng chú ý phải luôn phối họp với hệ thống Tinh quần, vì Tử vi luôn lấy Thiên tinh làm chính (tức dùng Kiếm tông làm Chính), Địa Sát (Khí tông) làm Phụ, nếu chỉ luận Mệnh, Cục, Cung vị,Ngũ Hành, Âm Dương mà bỏ qua Tinh tú là không đúng với tôn chỉ.
Nên nhớ điều bên trên là Nguyên tắc, các bạn học hay chơi Tử vi bao lâu 6,7 chục năm không cần biết, nhưng có những Tôn chỉ mình phải hiểu.
Tử vi cũng tựa như Huyền không phi Tinh, dùng Phi tinh của Sơn hướng và toạ huyệt, căn cứ vào Phi tinh và Vận tinh để phối hợp trong luận đoán tốt xấu các hình thế phong thuỷ, Loan đầu chỉ là Phụ và có thể bỏ qua không dùng.
Và khi học hay nghiên cú Tu vi các bạn không thể nói tui chỉ học Kiếm tông hay tui chỉ thích nghiên cú Khí tông, vì Kiếm -Khí phân ra cho vui chứ đều là cùng trong một môn học, có những bạn chuyên đi lùng tìm Khí tông, mà không chịu hiểu có Khí tông nào nằm ngoài Kiếm tông? Một khi luyện Kiếm đến một giới hạn nào đó thì bạn sẽ từ từ ngộ ra Khí tông, cũng như các môn võ công luyện tập đến một giai đoạn nào đó đều có thể giúp ta thông hiểu về phần tu vi Khí công của bản phái. Nếu không chịu bỏ công sức luyện đi luyện lại một vài chiêu thức nhỏ mọn, ngày này qua tháng kia thì chẳng bao giờ đạt tới cảnh giới cao hết.
131. Đại hạn tới của cháu sẽ vô cung Tỵ - VCD có Hỏa tinh. Tam hợp có Đào hoa - Thiên Không ở Dậu (cung Tật), xung có Liêm - Tham tại Hợi. Bác cho cháu hỏi thế thì dục tính có nặng quá không khi mà vừa có Đào hoa vừa có Phiếm thủy đào hoa Tham Lang và Thứ Đào hoa Liêm Trinh.
Có thể dính đến tình cảm với một vài cô gái hơi dạn dày về tình cảm, VCD càng dễ bị phiêu lưu, sa lầy, Hỏa tinh tại Tỵ cung là Lô trung hỏa càng rực lửa, Hỏa tinh cũng chủ về ghen nữa, tính dục cũng chưa hẵn đã mạnh nhưng có thể trải qua vài mối tình đầy sóng gió, như vậy đối với đàn ông, hoặc giả là theo tui đây là một đại hạn đẹp.
Cách cục nào có thể giải được nạn đào hoa này vậy bác?
Tại sao lại giải đào hoa vận?? Muốn là nam nhân trượng phu thì phải nên trải qua trăm đắng ngìn cay chứ, đàn ông mà thiếu cái nét adventurous thì, có thể làm mấy cô thất vọng, với lại anh là Đồng -Lương ngộ Không Kiếp mà, phải đối diện với Không Kiếp thay vì e ngại nó.
Nếu có gia đình thì khác, cần Tuần /Triệt là hay nhất. Thiên kô - Đào tại Ách (Lưu Quan) thì có thể xảy ra tại nơi mình làm việc, nếu bạn làm văn phòng thì đừng nhìn lén mấy em secretaries / adm. Asistants, làm ở khách sạn thì coi chừng mấy cô chambermaids, rất nguy hiểm, làm ở niteclubs thì dòm chừng mấy tay bartenders, bọn chúng có thể phục rụ bạn và, thôi không nói nữa, có thể làm anh sợ hãi.
132. Người ta nói mệnh VCD thì không nên là người đứng đầu, vậy có nghĩa là trong một đoàn thể thì chỉ nên đứng đến thứ hai, khai trương cái gì cũng không nên đứng tên ạ? Nếu Thân cư quan mà cung quan VCD thì cũng có nghĩa như thế về mặt công việc?
Thường thì người Mệnh VCD tự thân không thích đứng đầu mũi chịu sào vì tính khí hơi rụt rè, khi có những quyết định quan trọng thì không quyết đoán, dụ dự vì cần ý kiến của người cố vấn, Cho nên VCD nếu muốn làm người đứng đầu thì phải có sẵn vài người chịu đảm nhận chức cố vấn, như cựu T. T Bill Clinton cũng vậy, Mệnh VCD nhưng vẫn làm T. T mà còn làm ngon hơn người khác. Có lần một ông cố vấn của Clinton nằm với bạn gái gọi trực tiếp cho T. T để khoe với bạn ta đây là, cái đầu của Bill, hình như sau đó bị sa thải. Nếu Thân cư quan mà cung quan VCD thì cũng có nghĩa như thế về mặt công việc, muốn làm xếp lớn cũng cần vài ngươi chịu làm cố vấn, không nên dùng một người, vì có thể trở thành, kiêu binh. Nam nhi đại trượng phu mà, khai trương ông cứ đứng tên, ai nhí nhố ông cứ giáng chức trừ lương là cả bọn im re ngay, heh heh, đừng làm mạnh tay quá nhe,
133. Hạn ở cung Hợi có Thiên Lương, Song Lộc, Cô Thần, Lưu Thiên Mã. Giáp: Khoa, Quyền, Kình Đà Tam hợp, Xung chiếu có: Đào Hồng Hỷ, Tứ Đức, Khôi Việt, Tướng Ấn Không Kiếp, Quả Tú. Với các cách trên thì luận Hạn năm nay như thế nào ạ.
Hạn cung Hợi mà có Song lộc + đa Cát tinh như vậy lại thêm Kô -Kiếp Đắc địa thường là hạn kinh doanh rất tốt, phát tài, nhưng nếu định làm ăn lớn thì phải gặp Thầy coi cho kỹ, không nên chỉ hỏi đơn giản như vậy rất nguy hiểm.
134. bác có thể nói qua về Cơ Lương thìn tuất tại sao lại miếu vượng được không ạ?Nếu gia thêm các sao hỏa ví dụ như Thiên không Phục binh thì thế nào ạ?
Cách cục Miếu -Hãm / xấu /tốt hay Cao/ Thấp, Bần/ Phú, sang -hèn v. V phần lớn các Cụ dựa vào Mệnh cung để định đoạt, dĩ nhiên là như vậy, ai cũng biết hết còn nói làm gì?
Thế nhưng Mệnh cung lại là Thuở Thiếu thời của ta ! Vậy Thuở Thiếu thời (Thơ ấu) của ta sẽ quyết định Cách cục bản cung. Đây là điều rất quan trọng trong luận đoán về Cách cục.
Ví như nhìn một lá số Đồng -Âm cư Tý là số Quý tộc chứ gì, nhưng nếu đương sự trả lời lúc nhỏ tui khổ lắm hoặc chỉ sống cho qua ngày nhà cửa không có gì khá giả khác người cả thì nên hiểu Quý cách này đã bị phá, và có thể biết bị phá cách như thế nào trên lá số.
Trường hợp có Cách Thiên Tướng cư Mão, thường lúc nhỏ đang từ một gia đình khá giả nhưng trên đường đi xuống, đến trung niên có thể phục hưng trở lại mà đương sự trả lời lúc sinh ra gia đình nghèo lắm thì cũng không đúng.
Như vậy Miếu Hãm của một Cách cục có thể giúp ta nhìn thấy một số vấn đề rất cơ bản.
Cách Cơ- Lương Thìn / Tuất vì Phụ mẫu có Tử-Sát tại Tỵ/ Hợi, như vậy thuở thiếu thời Cha Mẹ, ông bà (vì Tử vi liên quan đến ông bà) thuộc bậc trung lưu khá, có chút đỉnh danh vọng và quyền chức cùng tài sản. Cơ - Lương là tượng một căn nhà, mà Lương = lương thực, thực phẩm, như vậy đây là một nhà có dư tiền chứa thực phẩm, là một nhà có tiền của chứ không là nhà nghèo, cho nên Mệnh Cơ- Lương thuở nhỏ thường được gia đình bảo bọc, chiếu cố tươm tất. Nhờ vậy Cơ- Lương Tuần Triệt có thể được xem như Miếu vượng (không bàn về ngũ hành, cung khí)
Có Thiên Không dễ sùng đạo, dễ bị thất tình ! Có Phục binh thì không bít vì thằng Phục này đi với nhiều hạng nhơn vật lắm,tuỳ theo nhóm mà luận.
135. Thê, Nguyệt-đức ngộ Đào tinh, Trai lấy vợ đẹp, gái lành chồng sang. Vợ đẹp thì con hiểu vì có Đào Hoa, nhưng chồng sang thì con chưa hiểu vì sao? Và ở đây là dễ gặp thế đào không thì sao lại tốt thế thưa cụ, ở đây đào hoa cùng cung nguyệt đức mới thành cách hay tính cả hợp chiếu thưa cụ
Câu này dự trên tâm lý chung của xã hội nước ta, hay Tàu, chứ không phải hình thành từ tinh đẩu, ngày xưa muốn dựng vợ gả chồng, các gia đình gia thế, giàu có đều nhờ đến người trung gian làm mai mối. (các gia đình trung lưu hay bình dân thì cũng dùng hình thức này, nhưng người mai mối của họ thường không phải là dân chuyên nghiệp, chỉ là người quen biết giữa hai họ hoặc là người trong gia đình và chỉ lấy một ít lễ phẩm tượng trưng như trầu cau và chính yếu là cái đầu heo).
Những người đứng mối này (gọi là ông / bà Mai) thường lựa những người đẹp nổi tiếng trong vùng để gả bán cho những gia đình giàu có, quý phái. Làm như thế thì cả 3 phe đều có lợi, người con gái đẹp sẽ có chồng giàu sang, người con trai của gia đình sang giàu này sẽ được vợ đẹp và ông / bà Mai sẽ được tưởng thưởng công lao xứng đáng (những người làm mai chuyên nghiệp này thường có tài ăn nói, thuyết phục chứ không phải dễ, nhiều trường hợp rất khó, như cô gái biết, chú rể tuy nhà giàu nhưng rẩt xấu, xấu như Trư bát Giới chẳng hạn, thì nhiệm vụ của người mai mối là phải thuyết phục 5 lần 7 lượt chứ đâu có đơn giản mà ngồi lãnh tiền thưởng, công tác càng khó khăn thì tưởng thưởng càng hậu trọng, cho nên họ đâu bao giờ làm Mai cho đám bình dân, vì tiền thưởng không đủ đánh một canh bạc tam Cúc.
Như trong thời gian xin cưới Huyền Trân, Vua Jaya Sinhavarman III đã phải phái đi 5,7 phái bộ Sứ giả để xin cho được người đẹp, Sứ giả đóng vai trò người mai mối, gian truân như vậy vì Huyền Trân biết tin nhà Vua này bị bệnh Tham-kỵ (hôi nách),
Vì không bao giờ làm Mai cho giới bình dân, nên thường các trường hợp mối mai đều là Dâu đẹp và Rể sang,
Nguyệt đức chính là ngôi sao mai mối đó, Đào hoa có thể hiểu là tình duyên. Thiên không có thể phá Đào- Hồng, điều này đúng, Thiên không thường là sự Từ chối, lý do là vì anh không / hay chưa có sự nghiệp và tiền bạc. Khi người con gái đi lấy chồng thì họ nhắm vào cái gì? Có phải là một chỗ an thân? Đa số không muốn lao đao vất vả sau khi lập riêng gia đình, và họ muốn có căn cơ vũng chắc cho con cháu của mình, nên vấn đề nhìn vào gia thế, sự nghiệp người chồng tương lai là không tránh khỏi.
Vậy đối với những gia đình giàu có này, Thiên không có phải cũng chịu, cúi đầu hay không, đương nhiên rùi, như vậy ta có thể suy ra cũng là Thiên không, nhưng Tk của người giàu có thể khác với người bình dân, Tk của một anh đẹp giai khác với một chàng xấu trai,
Nguyệt đức - Đào hoa cần đồng cung.
136. ví dụ như Thiên không - Phục binh thì thế nào ạ?
Tui quên, Cách Thiên không - Phục binh rất hiếm được áp dụng, chỉ dành cho trường hợp phục kích máy bay địch trên không như trong các trận không chiến giữa hai phe thời đệ nhị thế chiến, trên tình trường Thiên không -Phục binh = nỗi thất vọng của một mối tình dan giếu ngấm ngầm.
137. Đại vận gặp: Đào - Không ở cung Mão(Nô cunng) có: Thiên Tướng - Thiên Quý - Thai Phụ - Phục Binh - Thiên Thương - Đế Vượng.. Thì sẽ thế nào vậy bác..? Về công danh tài lộc có bị thất thoát - Thiên Không ko ạ..? (tam hợp có: Khôi - Long - Hà - Thiên Hỷ.. Đối xung có: Tả - Việt - Kỵ - Phá toái..)
Đại hạn Thiên không nếu chỉ là một người bình thường thì chẳng có gì đáng lo cả, chỉ thất thoát về mặt tình cảm và dễ bị thất nghiệp thôi, khi nào đang ăn nên làm ra là một đại gia thì phải đề phòng.
138. Tại sao cung Dậu(Âm Kim) là Bại địa của mệnh Thuỷ? Có cách nào hoá giải bại cách khi Mệnh hay Hạn tại Bại/Tuyệt địa không ạ. Có một bác từng nói với cháu "Tuổi bính dần mệnh cư cung đoài (dậu) là tuyệt địa", tại sao lại vậy và có cách nào hóa giải không ạ?
Tử vi có 4 Bại địa, chắc Quý anh phải đọc lại sách vì các sàch đều có phần giải thích sơ qua về Bại / Tuyệt địa. Những phần nào sách đã có giải thích thì tui xin không lặp lại.
Tứ Bại = Tý Ngọ Mão Dậu.
Sách chỉ nói Bại địa mà không giải thích, Vòng Trường sinh cũng vậy chỉ giải thích về mặt lý thuyết, còn thực chất Trường sinh là cái gì thì chẳng ai biết, điều này khiến người học Tử vi cứ như kẻ mù lần từng gót chân rã rệu của mình trong mịt mùng bóng tối.
Bại địa là chỗ đất khô cằn, hết hay không còn màu mỡ, thường bạc phết, chai cứng và có pha lẫn sỏi đá. Mệnh cư tại Bại địa cũng như một cây non (Mệnh có thể hiểu là lúc thiếu thời) khi rễ lá còn chưa ra đẩy đủ mà bị trồng trên một vúng đất khô cằn sỏi đá thì khó mà phát triển, nếu có phát thì cũng, hư hoa, có nghĩa là phát nửa chừng là banh càng, tự nhiên hư ngang, tại sao có hiện tượng này? Chỉ vì cây cối trong quá trình phát triển thì cần sự màu mỡ của đất, ở Bại địa là chỗ đất thiếu hoa màu, phát đến một lúc nào đó chỉ còn đá vụn thì phải,ngưng phát, đơn giản như vậy. Mệnh cư Bại địa thường là sinh trong một gia đình đang hồi phá bại, có thể hiểu là bị phá bại về mặt tinh thần hoặc vật chất hoặc bị cả hai, chẳng hạn cha/ mẹ bị thất nghiệp dài hạn, Cha Mẹ đang ở trạng thái ly dị, phân cư, ở những gia đình như vậy thì muốn phát triển thành một người hoàn bị rất khó.
Bại địa là chỗ đất thiếu thốn về mặt hoa màu, muốn phá giải thì cần Lộc tinh, hoặc hành vận có Lộc + Cát tinh tương tụ cũng vậy. Đây chính là Mệnh xấu thì chờ Vận tốt. Tại Bại địa mà Kim cung sinh Thuỷ Mệnh thì tương đối có thể cứu chữa, tại Bại địa mà Thuỷ Mệnh ngộ Hoả địa (ví dụ Tỵ/ Ngọ cung)thì rất bất lợi vì vừa Bại vừa Khắc.
Còn Tuyệt địa là chỗ Hành Mệnh cư nơi Tuyệt khí. Như Mệnh Mộc mà Mệnh cung đóng tại Thân, Mệnh Thuỷ mà Mệnh cung cư Tỵ chẳng hạn. Tuyệt khí là nơi Hành mệnh đang hồi suy kiệt, muốn cứu giải phải dùng Ấn tinh (Phụ mẫu tinh, như Kim sinh cho Thuỷ thì Kim được gọi là Ấn tinh)) vì Ấn thì có thể sinh ra ta (Mệnh), Ví như Mệnh thuộc Hành Thuỷ thì có thể dùng Kình / Hình (Kình/ Hình có lực mạnh đủ sức cứu giải nhưng dễ để lại thương tích, tàn tật, đó là lý do có những người tàn tật rất, tài ba.), hay nhất là Vũ Khúc vì là một hành Kim mạnh có thể sinh phát cho Thuỷ mệnh và có khả năng làm giàu, nhưng Vũ lại chủ về, cô đơn. Nếu cần quyền hành cho Nam phái thì nên có Thất sát, đúng không?. Nhưng Thất sát cư Tuyệt địa cũng có thể làm cho yểu tử vậy không nên chọn. Khi phối hợp tinh tú, ta phải nhìn nhiều mặt, ít nhất là hai mặt, vì đã có lợi thi phải có mặt hại.
Mạo muội góp ý và diễn giải theo ý tưởng của Indochine để thêm rõ nghĩa cho các đọc giả đang chập chững bước vào "Ma Y Cung", bước vào khung trời Tử Vi, Lý Số ! Nếu có gì không phải ý bác Indochine, mong bác tha lỗi cho !!!
Tất cả không ngoài hai mặt, từ mục đích coi lá số cho tới sự việc sống ở đời - thì hai mặt đó không ngoài kết quả của sự việc là Hung - Kiết, Xấu - Tốt, Thành - Bại, Hợp - Tan. V. V. Không ngoài cái lẽ bất biến của Trời Đất - nôm na cho dễ hiểu là được này mất kia - tương đối - được cái này thì cái khác mất - mất cái này thì đặng cái kia - Mặt Trời hừng Đông tất Bóng đêm phải tàn lụi, Bóng Nguyệt thấp thoáng nơi đỉnh núi, thì ánh nắng phải ngừng khuất.. Thì đây chính là điểm yếu quyết đã thể hiện từ nguyên lý trong cách "an" lá số !!!
Tứ Sinh, thì có Tứ Tuyệt - cái này được sinh tất phải là cái "tuyệt" của của cái khác - Dần Thân Tỵ Hợi.. Và ngược lại, từ 4 cung này thì cái này có tuyệt thì tất phải có cái được sinh..
Tứ Chính - nơi Vượng Địa của mỗi Hành trong Ngũ Hành - cái hành này vì được vượng thì tất phải là chỗ Bại của cái khác - Vì thế, Tứ Bại đều an tại tứ chính - Tí Ngọ Mão Dậu..
Trong mục này, với chủ đề "Hoá Giải Bại Cách", vì thế Địa này góp ý, nói leo về chủ đề chính về cách Hoá Giải Bại Cách cho vui:
Mệnh cư Bại địa, thì như bác Indochine đã giải thích rồi - Xin được giải thích thêm về nguyên lý "hoá giải" Bại cách này thì, Mệnh ở đất Bại Địa tức phải có cái khác vượng, tức hành của cung đó biểu tượng cho sự Vượng hành - muốn cái Bại chẳng còn Bại thi có phải cái vượng hành kia chẳng còn vượng, trở thành phá cách của Hành vượng đó, cho nên phải gặp Xung vậy thì vượng cần gặp "xung" thì mới hoá - mà trong Dịch gọi là Ám Động của hành đó, có động thì có biến - thì cái biến động này không ngoài sự Sinh Hay Khắc của Vượng Hành đó - Tuy nhiên, Tham sinh vong khắc, Vì thế cung hành của Bại địa cần phải động để mà sinh (tiết khí) thì Vượng chẳng còn vượng vì thế hoá giải đặng bại cách..
Vì thế, cung xung với cung an mệnh phải là cung Thiên Di - Di, là dời đổi, thay đổi. V. V. Voila !!! Cùng tất biến, biến tất thông !!! Như bác Indonchine đã giải thích, đất bại địa: "Bại địa là chỗ đất khô cằn, hết hay không còn màu mỡ, thường bạc phết, chai cứng và có pha lẫn sỏi đá. Mệnh cư tại Bại địa cũng như một cây non (Mệnh có thể hiểu là lúc thiếu thời) khi rễ lá còn chưa ra đẩy đủ mà bị trồng trên một vúng đất khô cằn sỏi đá thì khó mà phát triển, nếu có phát thì cũng, hư hoa. V. V.
Vậy thì tại sao không thay đổi??? Muốn thay đổi để hoá giải "bại cách" thì xét cung Di, cùng với Lưu Mã tiểu vận, khi có Lộc Tồn, Vũ Khúc hội tụ - đó là Thời để mà thay đổi, dời đổi cho "Tài hoá lưu thông" mà thoát cái khổ (bại) của sự ngheo túng vậy !!! Chỉ là một thí dụ, xét thời để hành động, dụng việc qua lá số vậy !!!
Ngược lại, trong phần giải đoán, nếu thấy có người Mệnh Cung tại bại địa mà vẫn thành công - thì, có thể "reverse engineering" mà giải - thì đa phần chắc chắn là người đó phải "ly cư lập nghiệp" - hoặc phải có sự thay đổi gì đó để ảnh hưởng đến chính bản thân của người đó, như: thay đổi tên họ, ngày sinh. V. V. Chuyển nghành, hoặc thành công nhờ vào Thời, nhờ vào nghề tay trái, chứ chẳng phải là dùng nghề chuyên môn (theo số phận) được..
139. Vậy bà mai Nguyệt đức có phải là cách hóa giải cho cảnh ngộ Đào-Không phải ko bác!??
Nguyệt đức có thể giải và cũng không thể trong vụ giải Đào -Không, nếu chấp nhận sự sắp đặt của Nguyệt đức thì thật là dễ dàng và lẹ làng cho cả đôi bên, nhưng chỉ e thời buổi này còn có bao người để yên cho Nguyệt đức một mình hành động, right?
Tk của một anh đẹp giai khác với một chàng xấu trai => có nghĩa là Bao Tự buồn khác với nét buồn của Trương Chi àh bác?!? ^^ nếu được mong bác nói thêm nghĩa của câu này nhé bác!! TTD cảm ơn bác nhiều!!
Một trong những ý nghĩa của sao Thiên Không là = Sự Từ chối. Đó là từ Bye ! Trong tình yêu. Nếu nhìn vào lá số nào bất kỳ mà bạn thấy Thiên không là = Thiên không thì hỏng hết (chỉ dùng cho bậc cao), mình sẽ không hiểu gì hết.
Người đẹp (bất kể trai/ gái) là kẻ nắm được một thứ vũ khí quá mức lợi hại trong tay, có thể hành xử theo ý riêng của mình, có khả năng xoay chuyển con Thiên không. Họ thấy đối tượng vừa ý thì, giấu con Thiên không đi (không từ chối) bày con Đào -Hồng ra. Nếu thấy đối tượng không vừa ý, mấy người đẹp bèn đưa Thiên không ra ngút ngoắc cái đầu ! Do đó cũng là Thiên không mà có thể là yes hoặc No. Hạn Thiên Không của họ có xe hoa limousine đến rước để bạn đứng đó mà ngửi khói cùng théc méc, ụa ! Tại sao em nhỏ này hạn Thiên không mờ cứ bước gọn lên xe hoa vậy?
140. Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào tinh, Trai lấy vợ đẹp, gái lành chồng sang
Khi Nguyệt đức đã được giải thích, thì Thiên đức cũng trở nên dễ hiểu. Nguyệt đức = Bà Nguyệt. Nét đẹp tinh sáng như ánh trăng, đức độ ôn nhu thuỳ mỵ của đàn bà. Thiên đức = Ông Tơ. Nét oai nghi, đức tính sang cả, rộng lượng hải hà của đàn ông.
Ngoài ý nghĩa về Mai mối, Thiên Nguyệt nhị đức cũng có nét đẹp riêng của nó (đàn bà đẹp thuỳ mỵ / đàn ông có nét sang cả) nên mới hình thành được câu Phú bên trên.
141. Bác cho cháu hỏi, sao Hồng Loan thuộc bộ tam minh, khi cứ Tứ mộ lại bị coi là xấu, nhất là đóng cung Phu: "Phu cung đóng ở miền tứ mộ Gia Hồng Loan ấy số khóc chồng"
Hồng loan cư Phu tại Tứ Mộ lúc nào cũng có mặt của các Sao: Tủ phù - Trực phù = hạn chết, cái chết. Tử - Trực tại Mộ địa = nghĩa địa. Hông và Hỷ, lúc này không phải là chuyện vui nữa mà là: Hồng = hoa đi phúng điếu, Hỷ = nến trên bàn thờ.
Vì Phu cung như vậy mới nhìn đã có nhiều tượng để ra nghĩa địa nằm nên mới có hai câu Phú trên.
Cách hóa giải, đã có Tuần đóng ở Cung Thê là hóa giải rồi, còn đòi gì nữa? Tuần ở đây làm cho đỡ cô khắc, tính tình dễ chịu hơn một chút, nhưng cũng giảm bớt thu nhập của vợ.
142. Con hỏi cụ cũng trong phú ma thị có câu Tam không, gia nội tao cát diệu, Ngộ Dưỡng tinh cũng nẻo con nuôi Con ko hiểu là tính cung mệnh hay cung tử hay cả mệnh tử đều ứng,
Tam Không ngộ Dưỡng bất kỳ có Cát tinh hay không đều có khả năng có con nuôi, Cách này ở cung Tử.
143. vòng trường sinh Mệnh và cục khác nhau
Giật mình, khi đọc được lời Huynguyen viết - cám ơn Huynguyen - nhưng tôi phải đính chính: An vòng tràng sinh vào các cung lá số - tức là nói đến cái Dụng của cái Thể tràng sinh của Vạn Vật !
Mệnh Hành, tức niên Hành của Năm sinh người đó - cũng do cách Nạp Âm mà định - Can và Chi của Năm sinh = (gọi là mệnh hành) nhưng vẫn là một Hành trong ngũ hành - mà, vạn vật đều có tiến trình của nó đó là vòng Tràng Sinh từ sinh đến một tuyệt thai dưõng (sự tái tạo của mỗi một chu kỳ) - thì Niên Hành hay còn gọi là Mệnh Hành thì cũng phải theo chu kỳ trong tiến trình - sinh trưởng suy diệt. V. V
Vậy thì Cục Hành cũng thế - cũng từ sự giao thoa, kết hợp giữa Thiên Can và Địa Chi của một lá số trong cung mệnh, để có một hành mói - Thì Hành mới này, cũng phải theo tiến trình sinh hoá của vòng tràng sinh - tức cũng phải "sinh lão bệnh tử" tức cũng phải trải qua sinh dục đới quan vượng suy bệnh tử mộ tuyệt - và, thai duỡng trong việc tái tạo -
Tuy nhiên, vì tính "nghịch lý" Âm Nam và Dương Nữ - thì vòng tràng được An, để biết cái Dụng của nó, thì cái dụng này theo Trái và Phải từ mốc dốc Sinh của cung bàn và theo tiến trình của một hai cung trên lá số !
Để hợp với chủ đề trong mục này - Hoá Giải Bại Cách - thì thí dụ tôi đọc thấy mục viết về sự "hoang dâm" - thì tôi tạm lấy đây làm điểm thí dụ để thấy phải có sự "trái phải" (tức sự thuận nghịch, mà ngôn từ chúng ta thường dùng) - Trong cách an vòng tràng sinh của mỗi một lá số - Thì Đào Hoa luôn đóng tại Tứ Chính - tức Tý Ngọ Mão Dậu - mà theo vòng truơng sinh (Thuận) thì Tý Ngọ Mão Dậu cũng là chỗ của Mộc Dục - Đào hoa gặp Mộc Dục thì tính "Đào Hoa" bồi vượng, vượt trội hơn nhiều, như cá gặp nước.. Hihihi. Để thành "dâm đãng" - Vì thế, phải có sự nghịch lý, trái phải theo Âm Nam, Dương Nữ thì Mộc Dục sẽ đóng vào tứ mộ khố Thìn Tuất Sửu Mùi - thì mới có thể Triệt tính Đào Hoa đuoc - đó cũng là lẽ "Hoá Giải" - Vì thế Vòng Tràng Sinh được An trên Cung Bàn lá số phải có Thuận nghịch - chứ nếu chỉ có Thuận - thì phận nữ nào có đào hoa tức có mộc dục - tất là "Dam Dang" * hết chăng..???
Biết tới đây, nhớ tới bài thơ của Bà Huyện Thành Quan để lại:
"Duyên Thiên chưa Thấy ló đầu dậy
Phận Liêũ sao đành xổ nét ngang? "
Chữ Thiên, mà có thêm một nét trên đầu thành chữ Phu - nghĩa là chồng - chữ Liễu có thêm nét gạch ngang thành chữ Tử (con) - Duyên trời chưa cho có chồng - mà người nữ (sao đành) để có con.. Hihhi.. Đúng là bậc Thiên Tài - của Người Việt - Thế mới đi được vào văn học sử - từ nghĩa đến lý - từ ngôn đến từ đều thâm thuý !!!
*Chú Thích: chữ "Dam Dang" - có chyện vui về chữ Việt gõ không dấu - Có anh chàng "Việt Kiều" về Việt Nam tìm vợ - gặp người ưng ý, mưng quá, vội đánh điện tín (chữ không dấu) về gia đinh bên Mỹ báo tin: " lay duoc nguoi dan ba rat "Dam Dang".. Gia dình được tin, sợ quá, mới gọi điện thoại về mắng: lấy ai không lấy mà lại lấy người đàn bà "Dâm Đãng"? - Không phải, anh ta giải thích: người đàn bà "Đảm Đang".. Hihihi.. Chuyện vui góp cho vui thoáng !!!
144. Cung thê của con có cách này còn thêm Quả Tú, VCD tại Mùi đối cung là Nhật Nguyệt Tả Hửu Địa Kiếp (Nhật Nguyệt Chiếu Bích) có giải bớt dc xấu không bá hay càng thêm xấu chủ lập gia đình nhiều lần.
Cách Nhật Nguyệt Tả Hữu Địa Kiếp này không giải được mà còn confirmed thêm, cách giải: sau đời thứ nhất thì bỏ đi tu.
145. Bác cho cháu hỏi hai câu phú sau -Cự Môn thê thiếp đa bất mãn hoài -Cự Môn bất mãn trong lòng, ba lần kết tóc mới xong mối sầu.
Hai câu này có cùng một nguồn, đều chỉ cung Phu Thê.
146. Cách cự môn hoá kị thiên hình bạch hổ cư hợi cung phu, gặp tuần có cô thần, đà la trực chiếu, riêu y, kình dương tam hợp và mệnh có quả tú có cách nào hoá giải không ạ?
Không thể trả lời, vì đây là một nhóm sao chứ không phải là một kết hợp vài sao đơn giản, ít nhất nhóm sao này cũng cho ra mười mấy Biến thức (mỗi biến thức lại có từ hai,3 nghĩa trở lên)
147. Và Mệnh Thiên lương luôn chịu Cự môn cung Phu, căn cứ vào câu phú trên đa phần người thiên lương luôn chịu thiệt ạ?
Không hẵn như vậy, vì Cự môn Phu Thê có nhiều ý nghĩa (trường hợp):
Một / Đa bất mãn hoài. Tức là Thiên lương phải nhịn.
Hai / Khắc khẩu, ưa chống đối.
3/ tuổi tác chênh lệch
4/ bị thị phi (bị người chung quanh dị nghị)
5/ Bị xa cách, ngăn trở.
6/ Có 3 lần từ hôn, 3 mối tình lớn, hoặc có 3 đời. 7/ Vợ /hoặc Chồng là người mồm mép,đa sự. V. V
Và các câu phú dùng cho mệnh liệu có được áp dụng tương tự khi có kết cấu đó ở một cung nào khác không ạ?
Tuỳ câu Phú, có khi được, có khi không.
148. con mệnh an tại tuất cung an thân tại thân,mệnh và thân kẹp giữa hóa lộc và hóa quyền,vừa giáp mệnh vừa lục hại cho lên con rối quá,xin phép được bác chỉ bảo ạ !
Ta hãy bỏ qua cách Lộc tồn tại Dần cung không bàn vì đây là cách thông thường. Về Cách Lộc nằm giữa Mệnh và Thân cũng có khi được đề cập nhưng chỉ là một trong những tạp cách chưa được công nhận rộng rãi, cách này có hai loại:
Loại Thân Mệnh giáp Bào, Lộc (Quyền) cư Bào. Loại Thân Mệnh giáp Phụ, Lộc cư Phụ.
Thuyết này cho rằng khi Thân Mệnh giáp cung nào thì cung đó có ý nghĩa khá quan trọng đối với bản thân, điều này thì thấy không có gì sai.
Trường hợp Lộc cư Bào mà không Lục hại = có thể nương tựa thế lực của Anh em để phát triển hay an Thân.
Trường hợp Lộc (Quyền) cư Bào Lục hại = Anh em lúc đầu tốt sau thì xung khắc, khó nương tựa hay trợ lực. Nhưng cũng nên xem tinh tú tụ họp tại Bào cung tốt xấu thế nào mới quyết đoán được vì trong Tử vi Thiên tinh là quan trọng bậc nhất, với lại Lục Hại là chỉ đối với một người chứ chưa chắc đối với tổng thể anh em.
149. Nếu cung điền xấu, không có nhiều nhà đất, dễ dàng có nhà cửa nhưng bán cũng nhanh thì hóa ra lại buôn bán bất động sản được, cứ mua một - hai cái rồi bán luôn, thậm chí ở nhà thuê nhưng lại buôn bds?
Muốn buôn bán BDS cũng phải có tay buôn, tức là phải mát tay với nghề này chứ không phải có Cung Điền xấu và bán được nhà nhanh thì có thể lợi dụng điều này để hành nghề, dù rằng có nhiều người có cảm nghĩ như vậy. Nghề nào cũng phải có sự thích thú lớn mới dễ phát triển, gượng ép thì kết quả sẽ không như mong đợi. Môi giới hay buôn bán điền sản đều có thể không cần nhìn cung Điền nhưng căn bản là phải có sở thích liên quan đến điền sản.
150. "Đồng Riêu đoán ắt ngoại tình chẳng sai" áp dụng cho cung Phu/Thê thì có áp dụng cho hạn với ý nghĩa trên được ko ạ?
Tại Mệnh / Hạn gì cũng có thể áp dụng, nhưng không nên khẳng định vì một người hôn phối có ngoại tình hay không nhiều khi là do Chồng / Vợ đã tạo ra điều kiện dẫn động. Ngoài ra các Sao giải tỏa cũng nhiều lắm, như Lộc tồn / Kình / Hình / Kỵ / không vong /,
151. Cách Tham + Đào Riêu xung chiếu gặp bộ sao nào thì thay đổi ý nghĩa một 80 độ ạ?
Bộ Đà - Linh hay Linh - Riêu, còn bộ Riêu -Kỵ / Đào -Kỵ thì chủ về kén chọn, treo cao giá ngọc hơn. Như trong các lá số người đẹp thi hoa hậu, người có Riêu -Kỵ thì có cái đẹp khác lạ và kiêu kỳ, nhưng họ chưa hẵn đã đoạt chức Hoa hậu, bỡi Hoa hậu thường là các mụ có Khôi- Khoa giành lấy, dĩ nhiên Khôi- Khoa họ cũng đẹp nhưng theo cái kiểu đẹp toét loét, mồm rộng, mắt bự, mũi cao, đùi dài, miệng cười đến tận mang tai, tui thì thật tình chán ngấy kiểu đẹp này.
152. Cách Vũ Phá ở Hợi (tuổi Mậu Tý) gặp Xương Khúc Khôi Vịt, giáp Tả nhị hợp Bật Khoa Quyền Kỵ có gì khác với ý Vũ Phá gặp Khúc Xương ôm hận trong lòng vì tài mà ko dc dụng ko ạ? Thank bác!!
Hai cách này khác nhau khá xa, chúng ta hãy phân tích từ sơ bộ nhé (để quý bạn có thể dần dần tự phân tích tron các trường hợp khó hơn về sau): Vũ -xương -khúc = ngày xưa là cách Văn vũ kiêm ưu, món nào cũng biết, là người tài chưa gặp thời vì thiếu Khoa -Quyền. Ngày nay là mấy anh chàng biết vài ba món võ, hoặc có chút thể lực, cũng biết làm ra tiền chút ít. Phá -xương -Khúc = Phá là rách nát, tồi tàn (nhà cửa / quần áo / con người, nói chung) xương -khúc là sách vở, tức là một anh chàng nhà nghèo chỉ mê đọc sách, thi văn. Vũ -Phá = là kẻ cũng có tý tiền để phá chứ chẳng phải, bần cố. Nếu không có xương -khúc thì là kẻ hữu dũng vô mưu. Vậy tóm lại Vũ - Phá - xương - khúc = là kẻ sĩ làng nhàng, chưa có công danh.
Còn cách Vũ -Phá + Tứ Cát = là đã từ một anh chàng mê sách tiến lên một bực là đã có đỗ đạt rồi (Khôi-Vịt), đã có bằng cấp rồi, hai Cách này khác nhau xa lắm, cũng như so sánh sĩ Quan với binh nhì, binh nhất vậy. Còn giáp thêm Tả -Khoa -Quyền -Kỵ v v thì càng thêm thăng Quan phát tài, tiền đồ sáng lạng. Không thể so với nhau được.
153. "Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào" là Đ, R ở Mệnh hả bác? Vậy nếu Đào Riêu ở Thân cư Phu VCD Tử Tham xung chiếu thì sao ạ? Có phải ngưu tầm ngưu mã tầm mã ko ạ. Ở đó có luôn Thiên Đức Phúc Đức Thiên hỷ + Nguyệt Đức tam hợp nữa ạ. Có thêm Linh tinh, và Riêu + Linh có phải là hay mơ thấy chuyện quái dị ko ợ??
Vâng câu Phú này chỉ Đ -R tại Mệnh, Nếu Thân cư Phu thì lẫn lộn khó xét, vì nó cũng là ta mà ta cũng có thể là nó. Có thể tại vợ mà cũng có thể tại chồng hoặc cả hai. Gia thêm 3, 4 Đức = có sự xung đột giữa đức hạnh và buông thả. Linh -Riêu ở đây có thể chỉ người phối ngẫu có thể bị chứng lạnh nhạt (lãnh cảm), cũng hay mơ thấy chuyện quái dị hoặc nhà có, ma.
154. Mệnh cháu có Tham + Linh + H. Lộc + Xương + Song Hao tại Thân, Tài có Phá + Đà + Hỏa tại Thìn (thế la võng), Thân cư Quan Lộc Sát + Hổ + Tả phù (thiên tài) bị triệt. + Làm thế nào để hóa giải sát tinh Đà Hỏa tại Tài ạ.
Tài có Phá Hãm tại Thìn (Thổ khắc Thuỷ) lại ngộ Hoả, là Phá -Hoả cách = tiền kiếm khó khăn mà lại mau bốc hơi. Tức là một mình Phá quân Thuỷ hữu xung tả đột (bị Thổ- Hoả khắc) nên rất cần Đà Kim sinh cho Phá thuỷ, như vậy ở đây cần phải khử Hoả. Nhưng những gì liên quan đến tiền bạc giàu nghèo sang hèn, rất khó thay đổi, đành phải trời sinh sao chịu vậy thôi. Nếu anh biết Hoả -(Hao) ở Tài cung là gì thì muốn giảm bớt áp lực của nó cũng không khó.
155. Thân Cư Quan có Thất Sát bị triệt thì cứu giải thế nào ạ.
Thất sát là Quyền tinh / Lệnh tinh, chỉ khi nào thích quyền hành, hoặc là một nhân vật chủ não trên một phương diện nào đó hoặc phải xông xáo vào chỗ hiểm nguy thì cần một Thất sát cho toàn bích, còn nếu là người bình dân ăn cơm nhà đi vát ngà voi cho mấy chủ nhân ông như chúng ta thì không cần sợ Thất sát -Triệt. Thất sát ngộ Triệt ở đây có nghĩa là không được mấy ông chủ giao quyền rộng rãi, hoặc giao xong có khi bị kẻ khác thóc mách tước đoạt lại. Nói chung là thuộc loại công danh tắng đắng, có rồi lại mất. Anh có thể mua một con Nghê, Tỳ hưu gì cũng được bằng sắt / kim loại., đặt trên bàn làm việc của mình (hay gần đó) cũng được.
156. Cháu đọc ở đâu đó, Thiên Tài, Thiên Thọ là nhân và quả, giờ chỉ cần bồi bổ chăm lo công danh (Thiên tài cung quan) thì Tiền Tài ắt tốt (Thiên Thọ Cung tài), không biết phải ko bác?
Nói như vậy thì ai nói không được?? Vì nói suông thì quá dễ, nguyên chữ, " chỉ cần bồi dưỡng công danh, " chỉ có mấy chữ ngắn gọn thui nhé ! Là có khi mất đi một đời người rùi (mà chưa chắc đã hoàn thành được cái quái gì) và một đứa nhỏ xíu cũng biết là có công danh thì ắt có tiền, đâu cần phải có Thiên tài / Thiên thọ cư Tài / Quan mới suy luận được !!
Còn nói Nhân Quả? Cái gì mà không là Nhân và Quả? Bất cứ sao nào cũng có thể gây nhân gặt quả, ví như Đào hoa = cho là gái đẹp đi nhé, như vậy gái đẹp có thể gây nhân tạo quả hay không, sao lại không, xấu chà bá như tui đây còn gây sóng gió được thì nói chi đến mấy người đẹp,
Mấy cái chiêu mới nhìn tưởng là Cao cấp này thực ra chỉ là trò hề của vài ông Thày bói, mấy gã thày bói cũng như nhà Báo và mấy cha nội Dealers bán xe hơi là những chỗ mà các bạn phải cẩn thận khi giao tiếp nhé, heh heh, À! Nhất là mấy tay nhà báo, anh Đàm vĩnh Hưng chỉ mới mi hai ông Thầy chùa có một cái mà bọn này làm anh te tua cả ra, tụi nghiệp.
157. Chắc là Cụ thích Đào Hồng Riêu Hỷ Xương Khúc Cụ nhỷ?
Cái Cô Bảy này, chỉ có những ngừ đàn ông, mù mí kô thíc mấy Cô Đào Hồng Riêu Hỷ Xương Khúc này thui, để tui vẽ sơ nhé, Đào - Hồng, nước da hơi trắng phớt hồng, (hy vọng mặt mày đẹp một chút). Riêu-Hỷ = có nét đẹp vừa râm vừa khiu khíc rất liêu trai. Xương -Khúc = người gầy như một khúc xương, gầy quá kô tốt, cần nâng cấp. Níu kô thì chỉ có phi trường, kô có núi đồi, dễ hỉu lầm chết ngừ. Nếu có thể thì tui xin thêm hai chữ Kỵ- Việt = Đào hồng Sương Khúc Việt Riêu Kỵ. Còn Tham- Riêu = Ohh, it's too much for Me, dành cho mấy bạn trẻ thui.
158. Tại sao ngoài 30 lại dùng cục nhiều hơn mệnh được không ạ? Xin lỗi nếu đi ngoài chủ đề hóa giải bại cách.
Mệnh gồm hai phần: Tiên và Hậu Thiên, ngoài 30 là lúc hậu thiên của Mệnh được chuyển hoán bỡi Thân, Thân lúc này đã trưởng thành, đã hoà mình vào xã hội và dấn thân vào ngoại cảnh (không còn nương ỷ vào Cha Mẹ, gia đình), như thế Ngoại cảnh (Cục) và Thân (lúc này cũng là Mệnh) tuy là hai nhưng có thể xem là một, sinh mệnh cả hai gắn liền nhau như số phận trên quỹ đạo của một astronaut (Thân) cùng với chiếc Phi thuyền (Cục) của ông ta. Vì Cục chính là Quỹ đạo từng ngày (sideal movement)của mỗi Hành tinh (có 5 Hành tinh trong Tử vi: Mercury, Venus, Mars, Jupiter, và Saturn), Cục là cấp số (pas/ steps) vận hành trên quỹ đạo của mỗi một (trong 5 Hành tinh) Hành tinh đối ứng với Vị trí của sao Tử vi trong không gian theo từng ngày.
Như Quỹ đạo hằng ngày của Mercury tương ứng với vị trí của sao Tử vi sẽ cho phép ta vẽ nên một biểu đồ di động tương ứng, quỹ đạo này sẽ cho ra một cấp số liên tục là hai bước sóng (hay đúng hơn là có chu kỳ = hai), cho nên được gọi là Thuỷ nhị cục (Mercury deux pas). Các Cục khác cũng vậy.
Đây là sự hình thành chính thức của Cục số. Cần hình vẽ để hiển thị rõ hơn nhưng tui không bít vẽ trên mạng. Trong quá khứ nhiều vị đã dùng Dịch, bát quái, v,v để giải thích Cục số. Nhưng cái gì ta không bít thì có thể vẽ ra dễ dàng lắm, nó cũng như vẽ mấy con ma,
159. Mấy người Đông tẩu Tây trì Phá Quân Thiên Việt hợp về Kình Dương. Ở đây là có sao nào tọa thủ bản cung thưa cụ, hay cứ hội đủ 3 sao là thành thưa cụ
3 sao này đều chủ về bôn ba, hội kiểu nào cũng được.
160. Bác cho cháu hỏi thêm cách hóa giải hình khắc trong hôn nhân trường hợp mệnh Cự nhật đẩu tuế tại dần, thân cư phu thê tại Tý: Âm đồng hóa lộc có Địa Không Hỏa tinh Riêu y mộc dục đồng cung hội về có Kình dương, Đà La, Linh tinh. Trong trường hợp này có dẫn nhập được phúc tinh từ cung nhị hợp để hóa giải không ạ: Mệnh tại dần có Khoa Khôi tại Hợi, Thân tại tý có Quang quí tại Sửu.
Phu Thê cung Hung tinh tụ hội nhiều rất khó lòng hóa giải, botay. Com Anh ạ.
161. Khoa Quyền Kỵ nhị hợp tít từ cung Dần sang thì có tác dụng không bác?
Các cung nhị Hợp có ảnh hưởng khá lớn trên Bản cung, nên thường vẫn sử dụng được trong giải đoán.
162. Tuổi Mậu Ngọ Thiên thượng hỏa, Thái âm cư Dậu ngộ Hỏa Tinh.. Sự phá hại của Hỏa Tinh khắc chế bằng cách nào thưa Bác? Mặc khác Thân cư Quan tại Sửu Thiên Lương ngộ Tuần Triệt.. Thì có phải cuộc sống sau khi lập thân (>30 tuổi) thì toàn gặp trở ngại chẳng đặng thành việc nào cả.. Đúng vậy không thưa Bác?
Mệnh Thiên thượng hỏa nên có Thái Dương dù lạc hãm đi với Hỏa tinh rất tốt, còn đây thì nghịch lại Hỏa tinh lâm Hãm địa ngộ Thái Âm Vượng địa, cách cục bị hoán đổi, Khách phản vi Chủ, Chủ (Hỏa tinh) bị thất thế ngay trên sân chơi của mình, Thủy hỏa xung khắc tạo ra lắm bệnh, nạn. Cho nên Thái Âm - Hỏa tinh = trở thành thập ác là vậy. Nên hoán đỗi chỗ ở, không nên cư trú tại căn nhà thuở thiếu thời.
Dù sao có Thái Duơng Tài cung Miếu Vượng cũng dễ làm nên, tiếc rằng Thiên lương lại ngộ Tuần Triệt, có nghĩa là Quan vận không được hanh thông, bị gập ghềnh và gián đoạn, lá số này Tài cung có Thái Dương rực rỡ như vậy mà bị phá cách, thật là uổng phí, bây chừ chỉ trông mong vào Đại vận mà thôi, cũng đừng vội nãn chí, những lá số bị T- Triệt như thế này có nghĩa là khởi đầu dựng nghiệp gặp phải nhiều lần đổ vỡ, nhưng nếu cứ vững tâm làm đi làm lại, khi thành công lại sáng chói hơn ai hết, vì đây là luật đền bù và cũng là vì Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân, Vấn đề là rất ít người có kiên tâm như vậy. Tử vi Tây phương cũng biết chuyện này và họ rất khích lệ đương sự nên vượt qua bằng công khó của chính mình, người Tây phương luôn mạnh dạn đối diện với sự gian khó, không nhút nhát và quá tin vào Mệnh số như chúng ta, chính điều này đã đưa đến sự thành công và giàu mạnh của họ trong các Thế kỹ qua, đây là ưu điểm của ngoại nhân mà chúng ta nên học hỏi.
163. Thất Sát cư Ngọ ngộ Kiếp Sát – Riêu – Mộc là cách đồng tính cụ có thể giải thích kĩ hơn không ngoài ra còn cách nào khác ko Bác?
Trước kia tui có vào các Web của họ lấy khoảng 40 lá số về lập công thức, có ghi lại nhưng tui hiện, trắng tay, không có tài liệu bên cạnh, võ công bị giảm sút, không trả lời được.
164. Trường hợp Cự Hóa Lộc, Thiên Cơ Địa Không Bạch Hổ tại Mão (cung Phu Mẫu) tam hợp với Địa Kiếp tại Mùi (cung Nô). Khi đại hạn và tiểu hạn đi qua Mão, Mùi có gặp tai vạ gì không? Và Cự Hóa Lộc có làm giảm ảnh hưởng của Cơ Không Kiếp không?
Cự- Cơ Hóa lộc ngộ Không Kiếp = nếu làm ăn buôn bán, dễ lên và cũng dễ xuống, làm công nhân, chính phủ thì bình thường. Nếu có Đà -Tuế -Hổ = coi chừng sức khỏe người Mẹ, hạn Đà tuế hổ Mẹ dễ qua đời, đề phòng để trả hiếu.
165. Đại hạn và tiểu hạn đi qua Mão, Mùi có gặp tai vạ gì không?
Cái kiếp nhân sinh này chập chùng tai ương bệnh nạn, nào ai dám bảo đảm ngày Mai như thế nào? Kiếp nạn lớn nhất của Miền Nam trước kia là, mất tất cả thế mà có ông Thầy nào coi ra, chứ đừng nói đến từng kiếp nạn nhỏ của cá nhân ! Cho nên Các Thầy giỏi cỡ nào đoán sai sót cũng là chuyện, bình thường. Người ta đồn ông Cụ Ba la có tiên đoán, nhưng dù sao cũng chỉ là lời đồn đãi. Với lại trước đó khoảng nửa năm, người nào có Chính kiến hơn người đều có thể quyết đoán mà không cần đến số vận học. Nhìn lại lá số của một công dân quèn VNCH như tui, mới thấy sự sắp đặt đã có sẳn trước 75, (Hạn Thiên Phủ ngộ Triệt, bị Phục -Tướng chiếm đóng,), Thiên Phủ là Nam đẩu tinh Quân, là Vua mà cũng chính là Miền N.
166. Đào hồng Xương Khúc Việt Riêu Kỵ. Cụ thể nó là gì zợ Cụ ơi?Mất Kỵ thay bằng Khôi Việt được hem?
Không gì có thể thay thế Kỵ, như cách Văn chương Xương -Khúc - Kỵ mà đổi Kỵ thế bằng Khôi - Vịt thì Vn đã mất đi một ông Hàn mặc tử mà thêm một ông giáo sư Văn chương. Hay thay Vũ -Kỵ = Vũ -Khôi -Vịt thì nước Đức đã mất tiêu ông Hitler, Vn đã mất đi ông Tám Thơm (Quang Trung) và thêm vào một, hai tiến sĩ Tài chính bá vơ nào đó, Khôi- Vịt về nhan sắc cũng vậy, làm sao bằng một Hóa Kỵ? Nhưng phải nói là KỴ rất cần Vịt, (Khôi dành cho nét đẹp đàn ông, con gái có khôi có thể đẹp nhưng không thu hút, cứ trơ trơ trán bóng coi chán lắm)
(Tuyển tập những câu hỏi đáp của bác Kim Hạc)
---------------------------------------
Kiếm chiêu Kim Hạc
Khái niệm
– Mỗi SAO phải cách nhau bằng 1 dấu (–). Ví dụ: Kình – Đà – Kiếp – Kỵ không nên gõ là: Kình, Đà - Kiếp Kỵ hoặc Kình Đà, Kiếp – Kỵ, ..).
– Các SAO trong công thức thông thường thì nằm rải rác ở Tam phương (1 cung xung chiếu & 2 cung tam hợp) chiếu về bản cung, do đó phải xét đến 4 cung, đa số không kể đến nhị Hợp, (nhưng nếu ở 2 cung Nhị hợp Tý – Sửu / hoặc Ngọ - Mùi thì có khi phải kể vì vừa là Nhị hợp, vừa là lân cung, ảnh hưởng rất mạnh)
– Về Tuần / Triệt thì trừ 1 số trường hợp ngoại lệ, đa số tác dụng của công thức vẫn được biểu hiện, tuy rằng lực tác dụng có thể giảm khinh, hay trì hoãn .. nhưng đến Hạn Xuất TUẦN / Xuất TRIỆT thì công thức vẫn phục hồi khí thế như cũ:
Ví như công thức: Mệnh Thiên đồng cư Tuất ngộ Tuế - Tấu, chủ về có khoa ăn nói, thuyết phục người khác, nhưng nếu Thiên di (có Cự môn) bị Tuần / Triệt thì khoa ăn nói có khi bị giảm bán hoặc tệ hơn nữa.Ví như Mệnh có Mã – Tuyệt – Linh (nếu vô Cát tinh thì nghèo túng) ngộ Triệt thì cuộc sống đỡ hơn, nhưng không giàu.Mệnh / Hạn ngộ Liêm – Tham - Tuyệt – Linh (yểu, bần yểu) cũng vậy, nếu ngộ Không vong, thì đỡ bị bần, yểu.Ví như Hạn Hình - Riêu - Không – Kiếp (ly dị), ngộ Không vong thì bị rã đám, nhưng về mất tình cảm, hoặc giấy tờ ly dị vẫn bị trì hoãn, kéo dài ...
Tóm lại, vấn đề Tuần / Triệt ảnh hưởng đến công thức như thế nào, cần được quý vị nghiên cứu và khai thác thêm.
– Về Cách cục (các công thức) nằm ở Mệnh / Thân / hay Hạn:
Các công thức xuất hiện có thể ở khắp nơi, trải đầy 12 Cung, nên gặp đâu thì đánh đó, Ví như công thức Tang - Quang - Lộc (được hưởng tài sản thừa tự), thấy xuất hiện ở Hạn Huynh đệ (chẳng hạn 12 - 21 tuổi) thì nói là Hạn này được hưởng thừa tự, không cần chờ công thức này hiện ở Mệnh / Tài / Điền mới được xác định ...Ngoại trừ trường hợp công thức có chú rõ, như công thức Thai giáp Âm – Dương (anh em sinh đôi) thì dĩ nhiên phải coi Cung Bào, còn như câu Phủ ngộ Tam Không (túng thiếu, chật vật) thì tại Mệnh / Thân / Hạn gì cũng dùng được.
– Tại một Đại Hạn, như đại hạn ở Cung Huynh đệ, một công thức (biệt cách) có liên quan dến Huynh đệ hay không và làm sao phân biệt:
Khi xem tổng quát lá số, thì tất cả những công thức, cách cục nhỏ (biệt cách) trong cung Huynh đệ đều dùng để suy đoán cho anh em, nhưng khi ĐẠI HẠN đi đến cung huynh đệ thì những công thức, cách cục này còn ám chỉ cho BẢN THÂN đương sự, do đó, nếu nói 1 cách tổng quát, thì những công thức nào xuất hiện ở cung Huynh đệ, tại Đại hạn cũng có khả năng xảy ra cho ta (đương số), điều này mới nghe hình như có vẻ mơ hồ, lộn xộn và giải đáp nước đôi.Nhưng điều này không có gì là lạ, chẳng hạn như Thân cư Tài, thì có phải là những những công thức nào trong Tài cung đều có thể dùng để luận THÂN hay không? Cũng vậy, Thân cư DI / THÊ / QUAN ... cũng xảy ra tình trạng tương tự.Nói tổng quát là vậy, nhưng khi đi vào thực tế và tiểu tiết, thì tùy theo từng cách cục, từng công thức mà luận, khi đó qua công thức, phần nào đó ta có thể suy luận việc đó có ảnh hưởng đến người nào, nhưng không phải lúc nào sự việc cũng dễ dàng như lý thuyết, vì thực tế, có những lá số rất ... khó xem (cũng như Toán học vậy, có bài toán dễ, có bài rất khó), đến những vị Thầy kinh nghiệm nhiều khi cũng phán .. chung chung, như: "năm nay đề phòng tang chế nhé, thân nhân có người mất ..." tức là cũng chẳng dám chỉ rõ 1 người nào.Khi xem 1 lá số, tức đã đi vào chi tiết, thì tùy trường hợp, Ví như Thân cư Thê mà có Hồng – Lộc, thì biết ngay là ta hưởng, không phải mụ vợ. Còn người vợ mà xem lá số của mình, thấy Thân (Thân cư Phúc) có Khốc – Hỏa – Kiếp thì thở phào ... hú vía, vì biết ngay là thằng chồng sẽ bị .. tàn tật, hổng phải là mình.
– Khi xem Tiểu Hạn (1 Năm) thì ta phải xem:
1 Cung Chính chiếu và 2 Cung Bàng chiếu (Tam hợp chiếu), tức là 3 Cung, cộng với Bản Cung tất cả là 4 Cung.Trường hợp bình thường, chỉ cần xét 4 Cung là đủ, không cần thiết phải so với gốc Đại hạn hay đối chiếu với Thân / Mệnh (trừ khi xem cho những trường hợp quan trọng hoặc những case cần sự cẩn thận và chính xác 1 chút), thường thì khi 1 hay 1 số công thức xuất hiện ở Tiểu Hạn thì năm đó sẽ bị ảnh hưởng của những công thức này chứ chúng không lý do gì mà xuất hiện khơi khơi đâu.Đa số các công thức được vận hành theo kiểu Tam phương hội tụ Bản cung, nếu có ngoại lệ thì đã được ghi chú, dường như không có công thức nào ghi theo lối kết hợp 1 ở Tiểu hạn, 1 ở Đại hạn và 1 tại Tam hợp chiếu Mệnh / Thân, cách kết hợp từng Sao ở mỗi Cung này trước kia các Tử vi gia nhà Trần thấy có xài nhiều, nhưng nay dường như môn phái này đã bị tuyệt truyền, không thấy hậu duệ xuất sắc xuất hiện (ngoại trừ ông Trần Đại Sĩ), nhưng ngay như ông Trần Đại Sĩ thấy cũng chẳng bao giờ giở đến chiêu này, có lẽ là bị thất truyền thật rồi, điều này thật là 1 mất mát lớn đối với làng Tử vi VN.
– Nếu không xét gốc Đại hạn thì cứ mổi 12 năm thì lại có sự trùng hợp hay sao?
Thật ra khi xem Tiểu Hạn, không nhất thiết phải theo 1 quy cách nào cả, mà chỉ là theo hướng riêng của cá nhân, theo cách xem của 1 phái hay nhóm nào đó, tức có nhiều phương pháp xét Tiểu hạn khác nhau, có người dùng LN Tiểu hạn làm chính, có người dùng LN Đại han làm chính, có người kết hợp 2 loại Lưu niên này để xem, còn phái nhà Trần thì lại dùng thêm Cung lưu Thái tuế nữa ... Nhưng vì hướng xem Tiểu hạn hiện nay đa số dùng kết hợp giữa 2 cung Lưu niên cho nên anh thấy có sự khác biệt.Anh có đặt vấn đề về: cứ mỗi 12 năm lại có sự TRÙNG HỢP, vấn đề lo sợ / thắc mắt về Trùng hợp này đã được giới nghiên cứu đưa ra trước đây khá lâu, ý kiến chung thì cho rằng phải dùng Ln Đại hạn hay gốc Đại hạn để phân biệt giữ 2 chu kỳ thập nhị địa chi, Giải quyết này hoàn toàn hợp lý và thỏa đáng không chê vào đâu được.Nhưng ngoài ra, chúng ta còn cần hiểu thêm 1 khía cạnh khác mà tôi thấy chưa ai đề cập. Đó là vòng Thiên bàn (Eclipse) hay Địa bàn đều chỉ có 12 cung, đi hết 12 cung thi dù muốn dù không cũng phải có sự lặp lại, dù có áp đặt thêm gốc Đại hạn, nhưng các SAO trong từng Cung vẫn không hề thay đổi (ngoại trừ các Sao lưu).Điều tôi muốn nhấn mạnh là tuy có sự lập lại sau khi đi hết 1 Chu kỳ Hoàng đạo, nhưng có 1 sự thật là "trong sự Trùng hợp đã chứa sự Khác biệt", do đó chúng ta sẽ hưởng được cảm giác là cuộc đời vẫn luôn thay đổi, chẳng có năm nào giống với năm nào. Chẳng hạn như năm Hợi cách đây 12 năm, anh có đi ăn đám cưới, năm nay anh cũng có đi ăn đám cưới thì dù có trùng lặp, rõ ràng là đã có những chi tiết khác biệt to lớn giữa 2 cuộc cưới, chẳng hạn khác biệt về cô dâu chú rể, về xe đưa đón, về phục sức của riêng anh và những người chung quanh, về các món ăn, về thành phố anh đang ở, đám cưới cách đây 12 năm làm ở Chùa nay lại tổ chức trong 1 công viên chẳng hạn, đại khái nếu mà phân tích chi ly 1 chút, chúng ta sẽ thấy có hơn 1001 sự khác biệt giữa 2 cái đám cưới!!!Những sự việc khác như tang ma, di chuyển, thăng thưởng, bệnh hoạn, đụng xe, mất xế, bị lừa gat v v.. cũng như vậy, đều xảy ra rất mực khác nhau. Như vậy tại sao chúng ta lại cứ phải lo lắng, thắc mắc cho cái sự Trùng lặp mong manh này?Ngoài nữa, đối với những vị khởi đầu luyện kiếm tông, việc ưu tiên nhất là phải chuyên chú học thuộc từng chiêu thức một, cũng giống như bạn đọc kiếm hiệp, tại sao người ta lại chia đệ tử thành nhiều nhóm nhỏ để dợt lại, ôn lại các chiêu vừa mới học, hoặc trốn vào hang đông 1 mình để nghiền ngẫm, nghiên cứu từng chiêu.
- Trong khoảng thời gian này, việc trước mắt là phải thấu ngộ chiêu thức, gát bỏ qua 1 bên những linh tinh khác,cho nên tôi có nói là không cần phải xem xét gốc ngọn Đại hạn, Thân / Mệnh chi cả là vậy.
Tham khảo thêm:
(Tác giả: Kim Hạc)
----------------------------------------
Tử vi phân loại Kim Hạc
Tác giả Kim Hạc
Mục lục
1. Hỏa Tai
2. Phạm Pháp - Hình Tù
3. Hỏa Nạn – Sét – Điện
4. Hiếm Muộn
5. Ác Thú
6. Té Ngã
7. Thủy Nạn
8. Yểu Vong
9. Tự Vẫn
10. Bị Giết – Ám Sát
11. Hình Khắc
12. Góa Cô
13. Nghèo Hèn – Vất Vã
14. Bị Trộm Cướp
15. Chết Bất Kỳ Tử
16. Nô Cung – Bạn Bè
17. Điền Sản
18. Thừa Tự
19. Tang Chế
20. Ăn Nói – Thị Phi
21. Phá Thai – Xẩy Thai
22. Con Nuôi – Con Riêng – Dị Bào
23. Buồn Phiền
24. Vui Vẻ
25. Dâm Bồn – Ngoại Tình – (Loạn Luân)
26. Đứng Đắn – Nết Na
27. Phá Tán – Hao Phá – Phá Sản
28. Hung Ác – Sát Nhân – Trộm Cướp
29. Bị Hiếp Dâm – Mất Trinh
30. Đau Mắt – Chột – Mù
31. Bịnh Tật – Đau Ốm
...........................................
1. Hoả Tai
1. Kiếp - Cơ ngộ hoả
Ðôi khi phải dùng Lưu Ðiền để tính
2. Hoả nhập hạn mão / ngọ
Danh tài hưng vượng nhưng đến cuối hạn thì nhà bị cháy
3. Điền: Cự - Tang hay Cự Hoả
Nhà hay bị cháy
4. Hoả - Hình - Không - Kiếp hay Hoả / Linh - Hình - Không - Kiếp
Tại Ðiền hạn cháy nhà
5. Kiếp - Hoả - Song Hao
Cháy nhà
6. Kỵ giáp Kình Ðà
Bị cháy nhà
7. Thiên Không - Hoả Tinh nhập Mệnh
Thiên Không, Hoả tọa hãm địa
8. Hoả - Mộc
Phỏng nước sôi, phỏng lửa, bị tạt axít
9. Hoả / Linh - Trì - Mộc
Phỏng nước sôi, phỏng lửa, bị tạt axít
10. Mã - Hoả / Linh
Cháy nhà
11. Tang - Hoả / Linh, Tang - Mã - Hoả / Linh
Chắc chắn cháy / bị phỏng / bị lao (Tang Mã Hoả Linh)
12. Hình - Linh / Hoả
Cháy, hoả nạn
13. Cự - Tang - Linh / Hoả
Ngoài ra: đau ốm – có tang – hao tài
14. Sát - Liêm - Hoả
cháy
15. Liêm - Phá - Kỵ - Tham
bị hoả thiêu, chết cháy
16. Ách: Cơ - Hoả / Linh hay Hoả / Linh - Không -Kiếp
cháy / phỏng - điện giật – sét đánh
17. Ðiền: ở cung Hoả ngộ Linh
cháy nhà
18. Cơ - Hoả / Linh
Ðề phòng lửa, nước sôi
19. Hoả Linh nhập thất (Ngọ cung)
Ðề phòng hoả hoạn
2. Hình Tù (Phạm Pháp)
1. Tuế - Hổ - Phù
Nếu có thêm Liêm – Hình / Liêm – Tham hạn càng nặng
2. Phá - Tuế - Kỵ
Lo lắng vì kiện cáo, cạnh tranh
3. Hổ - Phục
Hay đau yếu
4. Âm - Hoả / Linh
Hạn: Đau yếu, kiện cáo
5. Kỵ - Phục - Tuế
Bị thù hằn – lo lắng vì sợ mưu hại
6. Phù - Tuế - Đà - Kỵ
Thị phi / Kiện cáo
7. Phù - Phá - Hình
Quan tụng / Ly dị
8. Tuế - Kình đ/c hay Tuế Kình / Đà
Hay cãi cọ - Kiện tụng
9. Thất Sát - Riêu - Hình
Lắm điều
10. Mệnh: Kình - Đà + Không Kiếp
Lắm điều, hay cãi, ưa dây dưa chuyện thị phi
11. Liêm - Hổ
Kiện tụng
12. Mệnh: Cự - Kỵ / giáp Cự - Kỵ
Ưa sinh chuyện
13. Liêm - Hổ - Tuế - Phù
Ưa sinh chuyện
14. Liêm (Tỵ / Hợi) - xương, khúc - Kỵ
Có hành động phi pháp! Có sách đề là Liêm – xương – khúc (Tỵ / Hợi) nếu có Kỵ / Tuần Triệt / Lộc Tồn khả giải
15. Liêm (Phá) - Kiếp - Kình
Kiện tù. Ám sát
16. Liêm - Phá - Hoả
Còn đọc là Phá Liêm Hoả. Ngoài ra: còn bị phá sản / chết
17. Liêm, Tham (Dần / Thân) - văn xương đồng cung hay Tham - xương (Dần / Thân)
Hình tù hay lưu đày
18. Liêm - Tham - Linh - Đà - Mã
Tù, có thể tử hình
19. Liêm - xương - phù (cung Quan)
Kiện – Tù
20. Phá - Liêm (Mão / Dậu) - Kiếp - Kình
trùng lập
21. Liêm - Tứ Sát (Hoả + Linh + Kình + Đà)
(Kình – Đà – Không - Kiếp = Tứ Hung) tạo hình lục – có thể bị ám hại
22. Liêm - xương - khúc (Tỵ / Hợi)
Như #14 _ ngoài ra: yểu
23. Liêm giáp Quan phù - giáp Hình
24. Liêm - Hình đồng cung Tỵ / Hợi
Yểu - tai ách - tù tội
25. Liêm - Sát - Hình
Họa (tù tội) đến trở tay không kịp. (nhanh chóng)
26. Liêm - Tướng - Tuế - Hình
Phạm pháp - tù tội
27. Thiên Di: Quan phù giáp Hình - Sát gặp hạn Thái Tuế
Hình tù - bị ám sát - ám hại kẻ khác - kẻ khác ám hại
28. Liêm - Sát - Hổ - Phù
29. Phù - Hình - Không - Kiếp
Có kẻ thù oán, phải e dè
30. Hình - Sát - Kình (Ngọ) hay Sát - Hình - Kình
Tù hay chết
31. Tuế - Hình (hay Tuế - Hình tại Dậu)
Tai bay vạ gửi
32. Hổ - Phù
Kiện - giam cầm
33. Cự - Tham - Hao
Kiện cáo
34. Mệnh: Quan phù (Tuất) hạn ngộ Thái Tuế Quan Phù
Hình tù, kiện cáo
35. Đại hao - Quan phù
Bị hình phạt, kiện cáo
36. Tham Kỵ
Bị giam bắt - thuỷ tai
37. Sát - Hình / Kình - Phù - Hổ
Hay lo âu, nếu có Tuần / Triệt khả giải
38. Sát - Phá - Liêm - Tham - Không - Kiếp - Tuế - Đà
Có thể chết nếu hạn xấu
39. Tướng - Liêm - Hình
Phạm pháp - tù tội
40. Đà - Hình (Đà thủ tại Thìn Tuất - Thiên Hình)
kiện cáo - bị đả thương
41. Phù - Liêm - Tang - Hổ
Kiện tù - tai nạn
42. Hình - Tù (Liêm) giáp Ấn (Th. Tướng)
Tù tội - giáng chức
43. Giáp Kình Liêm Tướng
Tù tội - giáng chức
44. Kình - Hình (Ngọ) hay Kình - Hình - Thất Sát - Kiếp
Tù hay chết, nếu thêm lục sát đi đến chết x.#71
45. Phù - Sát - Hổ - Hình
Hay lo âu, nếu có Tuần / Triệt khả giải
46. Xương - Khúc - Liêm - Kình - Đà
Tù tội - tai nạn - chết, nếu hạn xấu
47. Đường Phù - Bạch Hổ đồng cung
Kiện tụng - phạm pháp
48. Phá - Không - Kiếp đồng cung hay Phá - Hình - Không - Kiếp
Tù đày, đánh đập - Âu đả, bị giam cầm, đánh đập
49. Hình - Không -Kiếp
Tù hay bị đâm chém, đánh đập
50. Hình - Kỵ đồng cung (Hợi / Tý)
Tù tội - đau mắt
51. Hình - Kiếp - Kỵ đồng cung
Giam cầm, tù tội hay bị đao thương
52. Tả - Hữu - Trinh - Dương
Tao hình lục
53. Mệnh: Cơ - Âm - Hạn: Liêm - Hổ - Linh - Riêu - Kiếp - Kình
Lao tù ưu khốn, có Khoa, Phượng khả giải
54. Quan phủ giáp Liêm - Hình
xem.#27
55. Thất Sát - Hình đồng cung
Tù tội, bị giết, đao thương
56. Quan Lộc: Hình - Liêm - Sát hay đại / tiểu hạn trùng phùng
Tù tội
57. Tả - Hữu - Liêm - Kình - Đà
Xem.#52. Tại mệnh có tính gian phi hay bị tù tội
58. Tang - Tử đồng cung
Khó thoát tù tội
59. Tướng - Liêm - giáp Kình (Tý / Ngọ đồng cung)
Đa chiêu hình tướng. Nên đi tu hay bớt tham vọng thì được yên thân!
60. Mệnh: Thất Sát - Kình - Linh đồng cung hạn: ngộ Bạch Hổ
Hình tù, phạm pháp
61. Xương - Khúc - Phá (Dần)
Phạm pháp - tù tội
62. Cự - Đà - Tấu - Tuế
Kiện cáo
63. Phá - Sát - Linh
Hình tù, phạm pháp
64. Phá - Hình hay Sát - Phá - Hình
xem.#48 vd (tiểu hạn có Sát Phá + niên hạn có Hình - tù tội)
65. Liêm Phá đồng cung - Kiếp - Kình
Xem.#20 - Hình tù, phạm pháp
66. Đà - Tuế - Kỵ
xem.#6 - Có tang lớn, đau nặng
67. Linh - Xương - Vũ - La (Thìn)
Tù tội - Chết đuối
68. Xương - Khúc - Liêm (Tỵ / Hợi - Sửu / Mùi - Mão / Dậu)
Như #14 _ ngoài ra: yểu
69. Tuế - Đà (Dần / Thân)
Hay bị tù tội, quan hình
70. Tuế - Phục - Kỵ
Tranh cãi, gây gỗ, thị phi
71. Kình (Ngọ) - Hình - Sát
Tù tội - Yểu - Tàn tật x.#44
72. Mệnh: Thiên Tướng giáp Kình - Liêm
Hình tù giáp Ấn hình ngục nan đào
73 Liêm - Kiếp - Kình (Mão / Dậu)
Tù ngục
74. Quan Lộc: Hình - Liêm - Sát hay hạn
Hoạ (tù tội) đến tử vong trở tay không kịp x.#25
75. Mệnh: Kình - Linh - Hổ
Bị hình lục (tử hình)
76. Thiên Hình
Nếu công thức có Th. Hình có thể bị đánh đập. Phần hình tù này thiếu các sao: Tang - Hoả / Linh v.v...
77. Cơ (Tỵ / Hợi) - Hình
Dễ bị tù tội
78. Liêm Tham (Tỵ / Hợi)
Không nên giao dịch với người lạ, dễ bị hình tù
79. Quan phù (Tuất)
Dễ bị gông cùm
80. Liêm - Kiếp đồng cung (Tỵ / Ngọ)
Hình ngục
81. Liêm - Kiếp Sát (Hợi)
Tự ải trong tù
3. Hoả Nạn Khác: Sét - Điện
1. Phá - Hỏa - Linh - Hình
Sét đánh hay bị điện giựt
2. Liêm - Phá - Hình (Mão / Dậu)
Sét đánh hay bị điện giựt
3. Mệnh: giáp Hình - Việt
Sét - Điện
4. Vũ - Sát hay Pháp Liêm (Mão)
Mộc yểu lôi kinh cách. Sét / điện / lửa hay bị thần kinh
5. Đà La (Tỵ / Ngọ) - Phù
Sét - Té bị thương
6. Hoả / Linh - Hình - Việt - Phi liêm hay Liêm - Việt - Hoả / Linh - Hình
Sét - Súng, đao thương - điện
7. Hình - Hoả - Phi
Sét - Súng, đao thương - điện
8. Việt - Linh - Hình
Sét điện
A. Nếu có Cơ - Lương: Sét đánh vào cây
B. Nếu có Âm - Dương: Sét đánh vào chốn không
9. Tham / Sát (Dần / Ngọ) - Tứ Sát - Tang - Hổ
Tứ Sát = Hoả + Linh + Kình + Đà. Bị sét điện / Bị thú dữ cắn
10. Kình / Đà - Quan phù đồng cung
Kình Đà hãm, bị sét điện - té ngã - tù tội
11. Đà (Tỵ / Ngọ) - Quan phù
Kình Đà hãm, bị sét điện - té ngã - tù tội. Có sách đề là (Tỵ / Hợi)
12. Đà - Quan phù đồng cung ((Tỵ / Hợi)
Kình Đà hãm, bị sét điện - té ngã - tù tội. Đà la trùng phùng tại đây
13. Việt - Hoả / Linh - Hình - Kỵ - Không Kiếp
Bị sét / điện mà chết
14. Binh - Hình - Hoả / Linh - Việt
Bị điện giật (chết), bị sét đánh
15. Việt - Linh - Hình - Cơ Lương
Sét đánh gãy cây (trong vườn)
16. Việt - Linh - Hình - Âm Dương
Sét đánh chết (? Check lại)
4. Hiếm Muộn – Tuyệt Tự
1. Phúc: Cô - Quả
Đàn ông có cô ở cung Phúc - Hiếm con
Đàn bà có quả ở Phúc - Hiếm con
2. Tử Tức: Thất Sát - Hình - Khốc - Hổ
Không con, hiếm muộn
3. Tật Ách: Cự - Đồng - Riêu - Đà - Tang - Hổ
Sinh nhiều, nuôi ít
4. Mệnh: Vũ khúc
Hiếm con và cô độc
5. Tử Tức: Kình - Đà - Không - Kiếp
(?)
6. Tử Tức: Bệnh / Tử / Mộ / Tuyệt
7. Tử Tức: Lộc Tồn / Cô Quả / Đẩu Quân
8. Tử Tức: Đào - Tham
Lãnh cảm (nghĩ là Đào Tham không phải Đào thai)
9. Âm (hãm) - Hỏa - Linh
Tuổi già hiếm con
10. Tử Tức: Bệnh - Phá
ít con
11. Âm (hãm) - Riêu - Đà - Kỵ
Hiếm con, còn bị nghèo - tai nạn - bịnh tật (đại hạn)
12. Tử Tức: Hình - Sát
Con cái khó nuôi
13. Tang - Hổ - Hình - Sát
Có thể không con
14. Tang - Hổ - Không - Kiếp
Sát con
15. Tử Tức: Vũ Khúc
16. Đà - Kỵ
Muộn con
17. Tử Tức: Hỏa - Linh
Không con, hiếm muộn - Sát con - Con bị tàn tật (Đáo lão vô nhi) về già xa con hay không con
18. Tử Tức: Mộc Dục - Kỵ
Hiếm muộn
19. Hổ - Linh - Riêu
Khó có con
20. Cô - Hao - Kỵ
Không con (Đàn ông)
21. Kình - Hao - Sát
Hiếm - Hao hại
22. Tử Tức: Phi liêm
23. Tử Tức: Hình / Phi / Đẩu
24. Hình - Phi
25. Khốc - Hư - Dưỡng - Tang - Hổ
Đẻ nhiều nuôi ít
26. Khốc - Hư - Dưỡng - Cô
Đẻ nhiều nuôi ít
27. Tật Ách: (nữ) Hóa Kỵ
Đàn bà mắc chứng âm hư nên ít con
28. Tử Tức: Âm - Dương (hãm)
29. Hỏa - Linh - Cô - Quả - Tuyệt
Không có
30. Tật Ách: Tham - Đào đồng cung - Linh - Riêu
Bị chứng lãnh cảm nên ít con
31. Mệnh: Hóa Kỵ
Hiếm con, tính cô độc
32. Tử Tức: Thất Sát - Hình - Hổ
Hiếm muộn
33. Mệnh: Bạch Hổ
Hiếm hay không con
34. Tử Tức: Hình - Phá - Hổ
Hiếm hay không con
35. Thiên Hình - cát tinh
Nghịch lại, không hiếm con, sinh con rất tốt
36. Phúc Đức: Cô thần
Nghịch lại, không hiếm con, sinh con rất tốt
5. Ác Thú Cắn
1. Riêu - Hổ hay Hổ - Hình
Chó cắn hay hổ cắn
2. Đà - Kình - Kỵ
Chó cắn
3. Hổ - Kình
Thú dữ cắn nguy hiểm
4. Hổ - Kình / Đà
5. Hổ - Kình / Đà - Kỵ
6. Mệnh:Hổ (Dần) - Ác tinh (Sát - Kình - Không - Kiếp)
Bị hổ cắn (khó cứu)
- Ngộ Tuần / Triệt thì sống sót, hoặc không bị
- Mệnh cư Tỵ gặp các sao trên thì bị rắn cắn
- Mệnh cư Tuất gặp các sao trên thì bị chó cắn
7. Hổ - Đà - Kỵ - Kình (nhận)
Ác thú, cọp
8. Hổ - Đà - Hình
9. Hổ - Khốc hay Hổ - Khốc - Riêu
Có tang, chó cắn
10. Hổ (Dần) - Địa kiếp(Tuất)
11. Hổ - Tham
12. Hổ - Tham (Thìn / Tuất)
13. Hổ - Tham - Riêu (Tuổi năm hạn)
14. Tham - Sát - Tang - Hổ (Dần / Ngọ)
15. Tham - Sát - Tang - Hổ (Dần / Ngọ)- Tứ Sát
Ác thú cắn hay bị sét điện
16. Tham - Đại / Tiểu hao
Chó cắn & tốn tiên (coi lại)
17. Cự - Kỵ (Thìn / Tuất / Sửu / Mùi) - Đà - Hổ
Tứ Mộ có Cự Kỵ Đà Hổ thì bị thú cắn - xe cộ
18. Tham - Kiếp - Đà - Hổ
19. Hình - Riêu - Tham - Hổ - Khốc - Hư / Không Kiếp
Có thể bị thú cắn chết
20. Riêu - Hổ - Hình - Khốc - Hư / Không - Kiếp
Có thể bị thú cắn chết
21. Đà - Tuế - Long Trì
Loài sâu bọ, rắn rết có nọc cắn phải
22. Tham (Dần) - Hổ (Tuất)
Ác thú cắn - Tai nạn xe cộ
23. Tuế - Quan phù
Bị rắn rết cắn hay gặp thị phi
24. Hổ - Đà - Kỵ
Bị chó dại cắn
25. Riêu - Kỵ - Hổ
Bị chó dại cắn
26. Bệnh (1 hay 2 sao Bệnh)
Bị ác thú cắn (xe gắn máy cán phải)
27. Tham - Hổ (Dần) - Kiếp (Tuất)
Bị ác thú cắn (xe gắn máy cán phải)
28. Mệnh/Thân: Sát - Tham - Tang - Hổ Lưu niên: Dần / Ngọ
Năm Dần / Ngọ sẽ bị thú cắn
6. Té Ngã
1. Hoả - Tuế - Hình
Té ngã
2. Cơ - Lương - Tang - Tuế
Té ngã - có tang
3. Tang - Điếu hay Tang - Điếu - Tuế hay Điếu - Tang - Hình
Tang Điếu Tuế = Té ngã, xe cộ - Té ngã - Tai nạn xe cộ - Bệnh - Tang chế
4. Tang - Riêu
Té đau có thương tích (coi lại)
5. Âm - Dương (hãm) - Đà / Kình - Kỵ
Què chân - mù mắt - khan tiếng
6. Tật Ách: Điếu khách
Té ngã
7. Mã - Tứ Sát (kình đà linh hoả)
Tay chân bị tàn tật - Té nặng - Chết
8. Thất Sát - Cự - Kình - Đà
Thương tổn tay chân - Tăng đạo thì tránh khỏi
9. Mệnh/Thân: Liêm - Sát
Gãy chân - Ho lao
10. Mã - Tuần / Triệt
Thương tích tay chân - tai nạn xe cộ
11. Khôi - Triệt hay Khôi - Hình đồng cung
Té hay bị thương ở đầu
12. Hoả - Tuế - Hình - Đại hao - Tiểu hao hay Không - Kiếp
Té bị thương nặng - có thể chết
13. Cơ Lương (Thìn / Tuất) - Tuế / Tứ Sát / Không Kiếp
Té có thể chết
14. Kình / Đà (Tỵ / Ngọ) - phù
Té bị thương. Nhất là Đà trùng phùng tại Tỵ / Hợi
15. Hổ - Hình - Kiếp
Té có thể chết
16. Cơ Lương (Thìn / Tuất) - Tuế
như #13 nhưng nhẹ hơn
17. Mã - Hình - Kiếp - Kỵ
Té (què / gãy / tê liệt)
18. Mã - Hình đồng cung
Té bị thương tay / chân - xe cộ
19. Phá - Liêm - Tang - Đẩu / Điếu
Té nặng
20. Phá - Liêm (Mão / Dậu) - Tang - Điếu
Té nặng - ngã cây
21. Bạch Hổ - Kình - Hình
Té (gãy xương) bạch hổ = xương
22. Mã - Không - Kiếp / Đà / Tuần / Triệt
Các cách
• Mã - Đà ; \
• Mã - Không kiếp > Ngã, té - què
• Mã - Tuần / Triệt /
23. Cơ - Tang - Khốc
Té ngã - Có tang lớn
24. Cơ - Tang - Sứ
Té ngã - Bị đánh đập
25. Mã - Đà - Không - Kiếp - Tuần / Triệt
Té ngã – què
7. Thuỷ nạn - Chết đuối
1. Cự - Kỵ đồng cung
Chết về sông nước _ nhất là Cự cư Thìn / Tuất. Ngoài ra thất trinh hay bị chết đuối hụt!
2. Thân: Cự - Kỵ
Chết về sông nước _ nhất là Cự cư Thìn / Tuất. Ngoài ra thất trinh hay bị chết đuối hụt!
3. Cự - Tham - Riêu
4. Kỵ - Tham - Riêu
5. Cự - Kỵ - Kình Đà - Không Kiếp
6. Tật Ách: Cự - Kỵ
7. Cự - Hỏa - Dương - Đà (gia ác tinh)
Đầu hà - Ải tử
8. Tham - Kỵ đồng cung
9. Tham - Riêu đồng cung
10. Lưu Hà - Cự - Kỵ
11. Tham - Vũ - Văn Khúc (Ngọ / Sửu)
12. Tham - Vũ (Thìn / Tuất) - Tang - Tuế / Kình Đà - Không kiếp
13. Hạn tại (Thìn / Tuất) phùng Tham - Vũ - Tang (hổ) - Tuế
14. Vũ - Tham - Tang - Tuế đáo La / Võng (gia sát tinh)
15. Tuế - Đà - Cự - Kỵ
16. Cự - Kỵ - Đà - Linh, lưu niên (Thìn / Tuất)
17. Mệnh Thìn / Tuất) - Cự - Kỵ - Đà - Linh
18. Ách: Tham - Vũ
19. Kiếp - Tham đồng cung
20. Kỵ - Đào - Hồng
21. Lưu Hà - Địa kiếp đồng cung
22. Liêm - Hỏa đồng cung hay Phá - Liêm - Hỏa đồng cung
23. Phá - Cự - Kỵ đồng cung
24. Tuyệt - Riêu - Kỵ
25. Thái Dương - Thanh long - (Long trì)
26. Hỏa (Thìn) - Linh - Kình
27. Tham - Kỵ - Linh - Dương - Đà - Vũ (Mệnh / Hạn) / (Thìn / Tuất)
28. Vũ Khúc - Văn khúc - Tham (Ngọ / Sửu)
29. Xương - Khúc (Tân / Nhâm / Kỷ sinh nhân) hạn (Thìn / Tuất)
30. Cự - Đồng nhập Mộ - Kỵ - Kình
31. Ách: Mộc Dục
32. Phúc: Tử - Phá / Liêm - Sát (Mùi) - Mộ đồng cung
33. Linh - Xương - Vũ - La / Linh - Xương - Đà - Vũ (Thìn / Tuất)
34. Liêm - Hỏa - Hao - Kiếp (hãm / không vong)
35. Liêm - Hỏa (hãm / không vong)
36. Nô: Phá (hạn) ở Hợi / Tý
37. Phá - Cự - Hao (Tuất) Sát - Kỵ
38. Vũ - Phá - Tham (Tý) ở Khảm cung
39. Phá Quân - Văn khúc đồng cung
40. Xương - Khúc - Kỵ (Sửu / Mùi)
41. Cự - Đồng - Hình - Kỵ
42. Ách: Mộc Dục - Thanh long - Long trì
43. Thiên Đồng - Hình - Kỵ
44. Phá - Liêm - Hỏa đồng cung (hãm)
45. Kình - Cự (Tý) đồng cung
46. Tham - Xương - Khúc (Sửu / Mùi)
47. Thiên Đồng - Hỏa đồng cung (hãm / không vong)
48. Cơ - Lương (hãm)
49. Cự - Đồng (Thìn / Tuất)
50. Riêu - Tham - Kỵ
51. Thanh long - Kỵ
52. Kiếp - Mộc - Trì
53. Trì - Mộc
54. Long - Phượng - Cự - Kỵ
55. Trì - Mộc - Kiếp (thủ / chiếu)
56. Mệnh: (Thìn) Cơ - Cự - Đà - Linh hạn (Thìn / Tuất)
57. Mệnh: (Tuất) Cự - Kỵ
58. Thiên Lương (Dần / Tỵ) - Đà - Riêu - Kỵ
59. Mệnh / Ách: Cự - Kình / Đà - Riêu - Kỵ
60. Tham (hãm) - Hình - Riêu - Kỵ (Dần / Thân / Tỵ / Hợi)
61. Trì - Kiếp - Không - Đà - Kỵ
62. Liêm - Sát - Kỵ
63. (hạn) (Thìn / Tuất) Xương - Khúc - Đà - Linh (sát tinh)
64. (Thìn / Tuất) Vũ - Tham - Tang - Khốc - Tuế
65. Liêm - Xương - Đà - Vũ (Tân / Nhâm / Kỷ)
66. Long trì - Mộc - Không - Kiếp
67. Mộc Dục - Địa kiếp
68. Ách: Kỵ - Đà – Sát
8. Yểu Mạng (Bần yểu)
1. Đào - Hồng - (sát tinh)
2. Đào - Hồng - Không - Kiếp
3. Mệnh: Đào - Hồng (Tý)
4. Đào - Hồng - Không - Kiếp - Đà - Linh
5. Âm - Dương phản bối
6. Mệnh - Thân: không hợp
7. Mệnh: (Lục sát)
9. Chết
1. Phá Quân - Triệt / Tuần
Câu 1 - 4 đều là cách chết bất đắc kỳ tử hay chết đường
2. Phá - Triệt / Tuần – Cô
Câu 1 - 4 đều là cách chết bất đắc kỳ tử hay chết đường
3. Phá - Vũ - Liêm đồng cung cư Thiên Di
Câu 1 - 4 đều là cách chết bất đắc kỳ tử hay chết đường
4. Phá - La / Võng (Di)
Câu 1 - 4 đều là cách chết bất đắc kỳ tử hay chết đường
5. Phá - Liêm - Hỏa
Tử nghiệp vô nghi _ chết _ bị tù _ phá sản
6. Phá - Kỵ - Hao - Thất Sát (Mệnh / Di)
Bất đắc kỳ tử
7. Phá / Sát - Hoả - Hao - Hình - Việt
Lão hạn quy thân hạn hoạn lai
8. Phá - Phục - Hình - Không - Kiếp
Bị giết chết
9. Sát - Liêm (Sửu / Mùi)
Chết vì xe cộ / súng đạn
10. Sát - Tứ Sát
Tứ sát = Kình, Đà, Linh, Hoả _ bị tật, chết trận
12. Sát - Kình (Ngọ)
Chết không toàn thây
13. Sát - Kình - Hình
Chết _ bị tù
10. Bị Giết - Ám Sát – Ám Hại
(Có khi chưa hẳn đã chết)
1. Liêm – Kiếp – Kình (Mão / Dậu)
Bị giết.
2. Liêm – Kình – Đà – Hỏa – Linh
Bị chết vì súng đạn hay tù tội.
3. Liêm – Phá (đồng cung) – Kiếp – Kình
Chết vì súng đạn.
4. Liêm – Hình – Kỵ - Kình – Đà – Linh / Hỏa
Chết vì súng đạn
5. Phá – Hỏa – Hao – Việt – Hình
Chết vì súng đạn. Nếu Phá – Hỏa – Hao đồng cung càng chắc chắn.
6. Phá – Phục – Hình – Riêu – Tướng
Tướng Tướng Quân / Thiên Tướng. Vợ / Chồng ghen mà giết nhau.
7. Phá – Việt – Hỏa / Linh – Hình
Bị súng đạn, (?) sát hại
8. Liêm – Phá – Hỏa – Hình
Bị súng đạn, bị ám sát.
9. Liêm – Sát đồng cung
Bị súng đạn.
10. Liêm – Sát cư Sửu / Mùi
Tù tội, đói khổ + Tang – Hổ càng chắc chắn
11. Liêm – Tứ Sát
Tù tội, đói khổ + Tang – Hổ càng chắc chắn.
12. Phù – Hình – Không – Kiếp
Bị thù oán. Mưu sát.
13. Tướng – Phục – Không – Kiếp (+ Tả - Hữu)
Bị mưu sát.
14. Hỏa – Hình – Không – Kiếp – Phục – Tướng
Bị mưu sát – check lại.
15. Liêm – Phá – Hỏa – Hình – Không – Kiếp
Bị ám sát. Thêm Phục – Tướng – Song Hao, hạn có Thất Sát – Tang – Hổ càng
chắc chắn.
16. Liêm – Phá – Hỏa – Tang – Hổ
Bị ám sát. Thêm Phục – Tướng – Song Hao, hạn có Thất Sát – Tang – Hổ càng chắc chắn.
17. Liêm – Việ - Hỏa / Linh – Hình
Bị súng đạn – Sét đánh.
18. Liêm – Phá – Hao – Hình – Kỵ
Bị ám sát. Thêm Tứ Sát càng chắc chắn.
19. Phá – Hỏa – Hao + Kình – Linh – Hình
Bị ám sát.
20. Phá – Hỏa + Tứ Sát
Bị ám sát.
21. Phá – Hỏa – Hình – Tang – Tuế (hay Tang – Hổ)
Bị ám sát. Check lại (?)
22. Phá (Mệnh) ngộ Binh – Hình – Tướng – Riêu
Vợ / Chồng vì ghen mà giết nhau
23. Phá – Phục – Hình – Không – Kiếp
Bị giết
24. Liêm / Phá – Việt – Linh / Hỏa – Hình
Bị ám sát.
25. Phá – Hỏa – Hao + Tang – Hổ
Bị ám sát.
26. Tử - Phục – Tướng
Bị ám sát.
27. Hình – Hỏa – Hao – Tang – Hổ
Bị ám sát – check lại
28. Tướng – Tử - Tuyệt
Chết trận vì súng đạn
29. Tướng – Tử - Tuyệt – Binh
Chết trận vì súng đạn.
30. Tuyệt – Tướng – Binh
Chết trận vì súng đạn.
31. Hỏa / Linh – Hình – Việt
Bị đâm chém. – Sét điện – Súng đạn
32. Thiên Tướng – Hình tại Mệnh
Bị mưu sát – check lại
33. Kình – Hỏa / linh – Không – Kiếp
Bị giết – Tự vẫn.
34. Nhật Trầm Thủy Để gia Sát
Tử phùng đao nghiệp
35. Kình – Kiếp – Lưu Hà
Bị ám sát – Đao thương.
36. Liêm – Tham (Tỵ / Hợi) – Không – Kiếp
Bị chết thảm.
37. Hình – Phục – Việt
Bị mưu sát.
38. Hỏa – Hình – Phục – Tướng – Không – Kiếp
Bị mưu sát.
39. Hình – Phù – Không – Kiếp
Coi chừng có kẻ muốn ám hại, thù oán – đánh chém..
40. Kiếp Sát ngộ Tứ Sát
Bị giết
41. Kình + Hỏa – Linh – Không – Kiếp (Ách)
Bị giết hay tự sát (có rồi)
42. Kình – Hình – Không – Kiếp (Ách)
Bị giết chết – Tù tội, khốn khổ.
43 Hình – Phục – Không – Kiếp
Bị giết chết – Bị đánh đập giam cầm.
11. Hình Khắc – Bất Hòa
(Xem thêm Góa Bụa / Cô Độc)
1. Cơ – Khốc – Hỏa – Kình
Tranh chấp bất hòa.
2. Kình – Âm / Dương
Trai khắc vợ - Gái khắc chồng.
3. Tang – Hổ - Trực – Tuế
Tại Bào thì anh em bất hòa.
4. Cô – Quả
Cô khắc
5. Vũ Khúc – Cô / Quả - Đẩu – Tuế
Cô khắc
6. Kình – Tuế - Khách
Sát Vơ / Chồng – Xa cha mẹ.
7. Đà – Hao – Tù (Liêm) cư Phụ Mẩu
Ly tông – Hình khắc cha mẹ.
8. Thất Sát cư Thê (Phối)
Thê Tử bất hòa – cải vã luôn – Vợ dử - Góa bụa – Lạnh nhạt
9. Cự Môn đáo Huynh Đệ ( Bào cung)
Đại vận (?) huynh đệ bất hòa.Đại vận bất mãn hoài (Phối).
10. Cự Môn cư Thê ( Phối)
Đại vận (?) huynh đệ bất hòa.Đại vận bất mãn hoài (Phối).
11. Trực – Tang – Tuế
Bất hòa – Gây thù chuốc oán.
12. Hình – Đà – Kỵ (tại Mệnh)
Tại Mệnh là người hung bạo, ưa gây gổ, bất hòa.
13. Thái Dương thủ Mệnh
Khắc cha mẹ (?) Vì đoạt phụ tinh, Mệnh – Thân đồng cung càng nặng.
(?) Khắc Tử. Dương con trai – Âm con gái.
14. Thái Âm thủ Mệnh
Khắc cha mẹ
15. Âm / Dương ngộ Hỏa – Linh – Kỵ - Cô / Quả
Khắc Mẹ / Cha.
16. Âm / Dương ngộ Kình – Đà – Kỵ
Khắc Mẹ / Cha.
17. Phá – Mã đồng cung
Người hay đố kỵ
18. Thiên Cơ – Thiên Lương – Kình Dương hội (Mệnh)
Cô khắc – Cô đơn.
19. Phá – Hình – Kỵ (Mệnh)
Người hay gây gổ, bất hòa.
20. Tử Vi ngộ Tuần – Triệt (Mệnh)
Khắc cha mẹ hay sớm ly hương.
21. Thất Sát cư hãm địa
Khắc – yểu, đa bịnh.- Khốn khó.
22. Thất Sát hãm ngộ Đà – Cự
Khắc lục thân – Thương tật
23. Kình – Hỏa – Kỵ - Không – Kiếp (Mệnh)
Kình hãm địa. Khắc lục thân.Bị thương tật.
24. Kình – Sát – Phá
Hình khắc. Hạ tiện.
25. Vũ Khúc thủ Mệnh
Khắc lục thân.
26. Cự - Kình – Đà
Bất hòa, gây gổ.
27. Âm / Dương – Kình – Đà
Khắc cha mẹ, con cái.
28. Tuế - Cự - Kỵ
Ưa gây gỗ. Cô độc.
29. Lộc Tồn – Cô – Quả
Cô đơn – Hình khắc
12. Góa Bụa – Cô Đơn – Bị Ruồng Bỏ
1. Hổ - Khốc – Riêu – Tang
Đa truân - Khốc chồng - Góa bụa liên tiếp.
2. Sát – Phá – Tham – Xương ( Nữ Mệnh tuổi Tân / Đinh)
Góa - Làm lẽ - Muộn chồng - Sát phu. (?)
3. Quả - Kỵ - Tuế
Bị thất sủng - Ruồng bỏ.
4. Thất Sát + Sát Tinh tại Tử Tức
Cô độc - Lớn tuổi không chồng con. (?)
5. Thất Sát nhập Phu / Thê
Góa bụa – Lạnh nhạt – Xung khắc – Bất hòa – Ưa cải vả - Đánh nhau.
6. Hỏa – Linh tại Tử Tức
Đáo lảo cô đơn.
7. Hình – Thất Sát
(?)
8. Đà La độc thủ (Mệnh)
Cô đơn – Ly tổ - Giỏi công nghệ - Tính hoạt bát – Cư Tứ Mộ thì tốt.
9. Mệnh Cự - Hóa Kỵ
Không nên trai gái yêu đương.- Làm nghề kỷ thuật, phi pháp (?) thì tốt.
10. Lộc Tồn độc thủ (Mệnh / Thân) vô Cát Tinh
Cô đơn
11. Đào – Hồng (Mệnh / Thân ) – Tuế (hạn)
Chẳng ai đoái hoài đến.
12. Nữ Mệnh Thất Sát
Cô độc (một thời gian) – Đàn ông thì uy dũng, nóng nảy.
13. Kình – Đà – Không – Kiếp (hội Phối cung)
Bị góa.
14. Thiên Không thủ Mệnh
Luôn ngộ ách phong hoa (?)
15. Phá Quân Tí / Ngọ
Cô thân độc ảnh.
16. Liêm (hãm) – Xương – Hỏa – Hình – Kỵ
Góa chống – Yểu mạng.
17. Cô / Quả tại Phối
Cô đơn – Lạnh nhạt.
18. Khôc – Hư – Tang – Mã (Phối / Hạn)
Cô độc / Góa – Xa cách – Chia ly – Sát phu.
19. Cô / Quả + Tứ Sát (Phối)
Cô quả (?)
20. Phu cung Tử - Phủ - Vũ – Tướng + Tam Hóa + Kình – Đà (Mệnh Tân / Kỷ)
Đàn bà tuổi Tân / Kỷ thì Cô / Giá, các tuổi khác thì vượng phu.
21. Vũ Khúc thủ Mệnh
Cô / Góa – Khắc lục thân – Đoạt quyền chồng.
22. Hư – Kình – Tuế - Khách (Mệnh / Thân hay Phối)
Cô / Giá – Buồn vì tình – Mang hận vì tình.
23. Khốc – Hư – Tang – Hỏa cư Phu
Góa bụa – hay chồng bị mù lòa.
24. Văn Xương phùng Quả Tú
Cô độc – Thích ẩn dật – Tiên đạo.
25. Thất Sát (Tí / Ngọ) + Riêu – Kiếp
Góa phụ - Lệ rơi vì tình.
26. Sát – Phá – Tham hội Văn Xương (Đinh / Tân)
Hai tuổi Đinh và Tân thì Góa – Tình dang dở.
Văn Xương tọa thủ hay xung chiếu thì giống phần #2 (?)
27. Sàt – Phá – Tham tại Phu đắc Quyền – Lộc – Xương – Khúc + Cô Quả
Nếu không có Cô / Quả là Mệnh phụ. Nếu có Cô / Quả thì bị góa sớm.
28. Thái Tuế lâm Thân
Dử nhân quả hợp – Cô độc.
29. Kình Dương – Thân / Mệnh
Tức thụ cô đơn.
30. Tang – Đào / Hồng cư Phúc hay Phối
Có thể góa bụa hay mối tình dở dang.
31. Tài / Phúc phùng Hao – Kiếp đồng cung
Cô bần.
32. Đồng – Cự (Mệnh) cư Tứ Mộ
Thê nhi lãng đãng – Muộn vợ con – Không có con - Có vợ con sớm cũng phải phế bỏ -
Đồng – Cự đồng cung hay xung chiếu như nhau.
33. Cơ – Lương – Tang – Tuế
Bị vợ con ruồng bỏ.
34. Cơ – Lương (Nhâm / Giáp) Thìn cung
Đàn bà 2 tuổi này góa chồng nhưng nhiều con.
35. Cơ – Lương (Ất / Quí) Thìn cung
Đàn ông giàu có vinh hiển nhưng góa vợ.
36. Thiên Cơ ngộ Tuần / Triệt
Xa gia đình – Yểu chiếc – Cô đơn.
37. Xương – Liêm (hãm) – Hỏa – Hình – Kỵ
Góa – Yểu vong.
38. Vũ Khúc ngộ Dương / Đà đồng cung
Cô khắc – Biệt tổ ly gia – Cô bần.
39. Liêm tọa Dần / Thân hay Liêm – Cô – Quả
Cô quả / Hình khắc vợ con (nếu có). Nếu thêm Cô Quả thì dễ đi tu.
40. Cơ - Lương – Kình Dương hội (Mệnh / Thân)
Tảo vãn cô hình
41. Lộc Tồn – Cô – Quả
Cô đơn – Hình khắc.
42. Đào – Không – Kiếp – Kỵ
Hoa đẹp bị bùn nhơ – Ở góa.
13. NGHÈO HÈN – VẤT VẢ – ĐÓI KHỔ
(xem thêm phần Giang Hồ, Bôn Ba, Hao Tán)
1. Tử Vi (Tôn Tinh) nhập tiện vị (Nô, Ách, Bào, v.v...) chủ nhân lao đao
Tử Vi nhập nhược cung, đời lao lực.
2. Hỏa – Linh giáp Mệnh (gia sát tinh)
Bần yểu, bại cục.
3. Mệnh (Thân): Không - Kiếp hoặc Thiên Không – Nhị Hao – Tuyệt
Bần bạch.
4. Vũ (Khúc) cư Tuất / Hợi tối kỵ Âm – Tham
+ Tại Tuất: Tham xung chiếu, Âm nhị hợp, tuổi trẻ lận đận, vất vả.
+ Tại Hợi: Vũ Phá tọa thủ, Cơ Âm nhị hợp, thêm Kỵ – sát tinh --> vất vả.
5. Tham Lang kỵ ngộ sát tinh (Kình – Đà – Không – Kiếp)
Về già:Nếu nghèo, sống lâu.
Nếu giàu, chết sớm (không được hưởng).
6. Tham – Vũ (Sửu / Mùi) cư Thân
Vất vả, không hiển đạt.
7. Tham ngộ Song Hao hoặc Tham – Hao ở Mệnh / Quan
Ở Mệnh / Quan / Hạn thì nghèo và gian xảo. Ở Hạn ---> đói khổ.
8. Liêm – Tham (Tỵ / Hợi) ngộ Tuyệt – Linh
Bần - yểu.
9. Liêm – Tham (Tỵ / Hợi) - Kình – Kiếp Không – Hư – Mã
Bần - yểu.
10. Tham / Liêm hãm ngộ sát tinh (hung tinh)
Bần - yểu, khổ, tù tội.
11. Liêm – Tham (Tỵ / Hợi) vô cát
Bần - yểu, khổ, tù tội.
12. Song Hao ngộ Tuyệt (tại Tí, Ngọ, Mão, Dậu)
Nghèo, ăn mày.
13. Song Hao ngộ Hình – Kỵ – (Phá) (Quan / Mệnh)
Nghèo, ăn mày. Sợ nhất là lạc vào cung Quan Lộc.
Nếu thêm Phá Quân thì càng cơ khổ.
14. Song Hao ngộ Kỵ (vô cát)
Nghèo - vất vả - khổ - túng thiếu...nếu không có cát tinh (Xương, Khúc, v.v...).
15. Hao cư Lộc vị (Phá / Song Hao cư Quan ngộ Hình – Kỵ)
Túng thiếu.
16. Song Hao cư Điền / Tài
Tán tài, khó giàu có.
17. Phá – Dương – Linh Quan Lộc vị
Tương tự 15 & 16. Ly tổ, bôn ba, nghèo đói...
Nếu Mệnh xấu, ăn mày - chết đói.
18. (Đại) Hao – Cơ – Quả (Mệnh có Đại Hao)
Nghèo đói - chết đói (Cơ).
19. Song Hao – Phá
Túng thiếu - hao tài.
20. Hao – Thương
Túng thiếu - đói khổ.
21. Thất Sát hãm ngộ Hỏa – Kình
Nghèo, làm nghề sát sinh.
22. Đồng – Kỵ cư Tuất (ngoại trừ tuổi Đinh)
Mệnh rất xấu, nghèo hèn.
23. Mã – Linh – Tuyệt
(Mệnh) nghèo.
24. Nhàn Mã tại Thiên Di
Bôn ba, khổ cực. Mã tại nhàn cung.
Mã chỉ cư Dần Thân Tỵ Hợi. Đây có lẽ chỉ Mã ngộ Không Vong.
25. Mã lạc Không Vong
Bôn ba - nghèo.
26. Thiên Cơ hãm tại Dần / Hợi vô cát
Số đàn bà vất vả.
27. Kỵ ngộ Lục sát
Nghèo, yểu - gian phi!
28. Kỵ ngộ Âm / Dương hãm
Bần yểu – tha phương – cô đơn, bệnh hoạn – đau mắt
28. Hỏa – Linh giáp Mệnh
Bất đắc chí – bất mãn – tha phương
29. Kiếp – Không giáp Kỵ (Mệnh có Hóa Kỵ, vô cát)
Nghèo yểu, bệnh tật
30. Mệnh Hóa Kỵ giáp Kình Đà hoặc Mệnh Hóa Kỵ giáp Không Kiếp
Vi khất cái. Tức Dương Đà giáp Kỵ - vi bại cục, bần yểu.
31. Lộc Tồn cư Nô
Nếu Mệnh – Tài – Quan xấu càng chắc chắn
32. Thiên (tức Địa Kiếp) / Địa Không ngộ Đà cư Điền / Tài
Tức Kiếp Không + Đà cư Điền, Tài – nghèo hèn nhưng nếu ngộ Tuần Triệt thì lại giàu có.
33. Âm – Cơ + Xương – Khúc tại Dần (đa Sát tinh)
Nam Vi Nô (Bộc) – Nữ Vi Tỳ (Thiếp)
34. Vũ – Phá cư Tỵ / Hợi
Lao khổ, bất lương – Phá tán tổ nghiệp
35. Vũ – Sát cư Mão hoặc Phá – Liêm cư Mão
Bần hàn, cô độc – bị tai nạn về điện / lữa / thần kinh
36. Nhật Nguyệt tàng hung
Lao lực
37. Thiên Không – Địa Kiếp đồng cung tại Tài
Nghèo hèn, bần khốn
38. Nhật – Nguyệt hãm xung phòng ác sát
Lao lực
39. Kiếp – Không cư Tài / Phúc
Phi Yểu Tắc Bần
40. Liêm (tại Thân cung) ngộ Tuần / Triệt
Sinh bất phùng thời, lận đận
41. Lộc (Tồn) phùng lưỡng sát (Tuần / Triệt hoặc Không / Kiếp)
Lưỡng Sát = Thất Sát + Kiếp Sát. Nghèo hèn
42. Song Lộc ngộ Không / Kiếp
Tức Lưỡng Trùng Hoa Cái
43. Tứ Sát hãm tại Mệnh (Kình – Đà – Linh – Hỏa hoặc Kình Đà – Không – Kiếp
Nghèo – đồ tể - làm nghề sát sinh
44. Phá – Hỏa – Linh
Cách Quân Tử Tại Dã
45. Phá Quân hãm địa cư Mệnh
Nghèo, bôn ba lao toái
46. Thiên Phủ ngộ Không Vong hoặc Tài tinh (Vũ Khúc, Lộc Tồn, v.v...) ngộ Không – Kiếp
Nghèo, vất vả, cô độc – Nhất sinh cô bần
47. Thái Tuế tại Mệnh, hạn ngộ niên chi
Túng thiếu
48. Kình – Đà ngộ ác tinh (Mệnh / Hạn)
Gian nan. Ví dụ: sinh năm dần (mệnh tại cung Dần) và là Bính Dần (niên)
49. Hồng Loan ngộ Không – Kiếp
Số chỉ làm tôi tớ!
50. Cơ – Quả
Nghèo / yểu – mạc đàm phú quý
51. Tử – Tham cư Hợi / Tí giáp Tứ Sát (Kình – Đà – Không – Kiếp)
Túng thiếu – nghèo – vất vả
52. Thân / Mệnh ngộ Đào – Hình – Thất Sát
Chung thân bần khổ
53. Thất Sát hãm lâm Thân
Nghèo
54. Phá Quân – Liêm Trinh ngộ Phi Liêm – Riêu
Nghèo / Yểu
55. Cự - Kình / Đà
Vất vả
56. Quan Lộc: Phá – Tham hãm + Hao – Linh – Nhận
Khổ cực – đau ốm – bất hòa
57. Âm / Dương phản bối
Nghèo mạt
58. Tuần / Triệt đương đầu
Bần yểu, vất vả, nhất sinh bất thuận
59. Kình – Hỏa đồng cung hạn phùng Linh – Phá – Lưu Kình
Thiếu niên tân khổ
60. Kình hãm + Hỏa – Linh
Sa sút, nghèo, bị giáng chức
61. Tuế – Đà – Kỵ lâm Thân (Thân / Mệnh)
Mệnh xấu (đa sát) giáp Kình – Đà hoặc Không – Kiếp
Vi hạ cách
62. Đại Hao – Hóa Kỵ đồng cung (Mệnh)
Hạ cách, khất cái, hành khất
63. Tài / Phúc phùng Hao – Kiếp
Vất vả
64. Tam Không độc thủ (không có Tam Hóa)
Đơn ảnh, cô bần
65. Mệnh / Thân phùng Không – Kiếp
Phi bần tắc yểu
66. Kình – Đà – Linh – Hỏa hội mệnh
Y thực bất túc
67. Hỏa (cư Mệnh) – Linh + Kình – Đà
Bần, yểu – về già thì thong thả, thung dung cách Quân Tử Tại Dã
68. Linh Tinh thủ mệnh + Kình – Đà
Hình khắc, bần yểu, nên xuất ngoại, đổi họ
69. Phá Quân (cư Mệnh) – Xương – Khúc + Hình – Kỵ (Thìn, Tuất, Mão, Dậu)
Cô đơn, đới tật
70. Song Hao Tỵ / Hợi ngộ Sát – Hình (Sát: Kình – Đà – Không – Kiếp)
Bất xứng ý – lao khổ tâm thần
71. Cự Môn + Tứ Sát (hoặc hung)
Giáp / Canh Dương Nữ thụ yểu bần
72. Địa Kiếp (cư Mệnh) ngộ Sát – Phá – Liêm – Tham
Chung thân đói rách. Suốt đời vất vả, bệnh tật, tai họa
73. Địa Kiếp giáp Mệnh
Hậu vận bần.
74. Lộc Tồn / Hóa Lộc cư Nô
Nghèo, vất vả.
75. Địa Kiếp độc thủ (ở Mệnh)
Bần yểu ( (M) đa sát tinh).
76. Địa Không độc thủ (ở Mệnh)
Bần cùng – yểu ( đa sát tinh).
77. Hoa Cái – Thiên Lương đồng cung (Mệnh)
Bần tiện.
78. Kỵ ngộ Cơ hãm
Gian nan, vơ vất.
79. Hóa Lộc cư Tí, Ngọ, Mão, Dậu phùng Không – Kiếp
Phát bất chủ tài – Phát lên nhưng rồi phá sản liền theo hoặc không bao giờ phát được.
Hóa Lộc hãm ư nhược địa, chủ bần hàn - cô đơn.
80. Cơ hãm + Hỏa / Linh
Bôn tẩu, khổ sở.
81. Cự – Kỵ – Tuế – Đà
Nghèo khổ.
82. Liêm Trinh ngộ Tuần / Triệt
Nghèo, sinh bất phùng thời.
83. Mệnh Lộc Tồn ngộ Tuần / Triệt + Không – Kiếp
Nghèo - Lộc phùng lưỡng Sát cách.
84. Âm / Dương hãm phùng Cự Môn
Nghèo - Nhật Nguyệt tàng hung. Bất đắc chí – bất mãn – tha phương
85. Vũ Khúc – Liêm Trinh cư Thân / Mệnh
Tài dữ tù cừu
86. Song Lộc phùng Không – Kiếp
Lưỡng trùng Hoa Cái = hà tiện cách, bủn xỉn. Không Kiếp hãm thì nghèo.
87. Lưỡng Lộc cư Nô / Ách
Nghèo, vất vả.
88. Thân an Tứ Mộ, Tham – Vũ đồng cung
Suốt đời vất vả. Tứ Mộ = Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
89. Địa Kiếp – Sát – Kỵ
Cô đơn, cùng khổ.
90. Kiếp Sát – Phục Binh cư Tài / Điền
Nghèo, vô sản.
91. Tang – Phục – Không – Quan Phù cư Điền
Nghèo, vô sản.
14. Hung Ác – Sát Nhân – Trộm Cướp
1. Liêm – Phá – Kình – Tả - Hữu (Mão / Dậu)
Sát nhân. Kẻ làm loạn, loạn quân (vua), v.v
2. Thất Sát – Tử (Vi) – Hỏa / Linh – Tuyệt
Đa sát.
3. Tử - Phá ngộ Sát tinh
Hung ác, sát nhân.
4. Tử Vi – Kình – Đà gia Quyền – Lộc
Mệnh tốt nhưng lòng dạ hung hiểm, ác độc.
5. Vũ Khúc (hãm) ngộ Kiếp – Thất Sát? & Kình chiếu
Đại gian ác, sát nhân. Xem #47.
6. Đà – Hình – Không Kiếp – Thất Sát – Kỵ
Đạo tặc, gian phi, giết người, cướp của.
7. Không – Kiếp – Binh – Hình – Kỵ
Gian phi, trộm cướp.
8. Kình – Không – Kiếp – Binh
Sát nhân, đạo tặc.
9. Kình – Hình – Riêu – Thất Sát
Trai, gái sát phu, thê.
10. Hình – Đà – Kỵ
Người hung bạo, dữ tợn, hay gây gổ.
11. Quyền – Hỏa – Thất Sát – Khốc – Hư
Hay bắt nạt kẻ dưới, bị nhiều người ghét.
12. Phục – Tướng – Không Kiếp – Tả Hữu
Gian phi, kết đảng, cướp của, giết người.
13. Kiếp Không – Phục – Nhận
Côn đồ - Kẻ cướp.
14. Thất Sát ngộ Hỏa / Linh
Kẻ giết người trên.
15. Vũ – Phá Tỵ / Hợi (gia Sát)
Tham lận, bất lương.
16. Đế (Tử Vi) ngộ Hung đồ (Hình – Kỵ)
Tuy cát nhưng vô đạo. Xem #4.
17. Tham – Hao thủ Mệnh
Chung thân thử thiết (trôm cắp vặt).
18. Liêm – Phá – Hỏa / Linh
Người cẩu hạnh lang tâm.
19. Phá (Thìn / Tuất) ngộ Tứ Sát
Gian phi, trôm cướp.
20. Kình hãm địa
Gian phi, trôm cướp.
21. Tả - Hữu + Liêm – Kình – Đà
Gian phi, trôm cướp.
22. Tử Vi (Thìn / Tuất) ngộ Phá quân (xung chiếu)
Gian phi, trôm cướp. Lương thượng (?) quân tử.
23. Tử - Phá vô Tả Hữu / vô cát diệu
Hung ác, hôn lại chi đồ.
24. Tử - Thất Sát (Tỵ) ngộ Hỏa – Tuyệt
Là người đa sát, (tướng lãnh), nếu ngộ Tuần / Triệt là hạng đồ tể, đao phủ.
25. Tử Vi hay Cự Môn cư Phúc tại Tý + Kiếp Kình Suy Triệt
Là người hung ác, chết không toàn thây.
26. Thất Sát hãm tọa Mệnh
Thủ tha tài vi kỷ (vật).
27. Phá Quân Thìn / Tuất
Gian ác, bất nhân. Nếu có KHOA-TUẦN là người lương thiện (Mậu/Quý nhân phát)
28. Mệnh Tọa Tham / Liêm / Phá
Đa số là ác, có ác tính.
29. Mệnh tọa Thất Sát / Kình / Đà
Là hung mệnh, hay có tính hung bạo.
30. Phá (Thìn / Tuất) ngộ Hỏa / Linh – Kình – Đà
Gian phi, trôm cắp.
31. Liêm hãm (Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) + Tứ Sát
Sát nhân
32. Liêm + Sát Phá Tham & Vũ Khúc cư Thiên Di
Mệnh đẹp: đánh giặc giỏi.
Mệnh xấu: làm giặc cướp.
33. Tham hãm ngộ Lục Sát
Đàn ông: trộm cắp.
Đàn bà: đĩ điếm.
34. Phá – Liêm Mão / Dậu (+Hỏa / Linh – Tả - Hữu)
Hung dữ, tàn bạo. Nếu thêm Hỏa-Linh – Tả-Hữu càng thêm dữ. (Xem #21)
35.? + Thiên Hình – Lực sĩ
Trộm cắp
36. Liêm – Phá (Mão / Dậu) + Hỏa – Linh (Tả - Hữu)
Gian ác, lòng lang dạ thú, người nguy hiểm.
37. Tham – Đào đồng cung Hợi / Tý
Nữ mệnh: độc phụ, nham hiểm và dâm đãng. Nếu ngộ Tuần/Triệt: đoan trang.
38. Thiên Cơ Dần / Hợi gia Ác sát
Gian hoạt, trộm cắp.
39. Kiếp – Không hãm địa
Có tính trộm cắp.
40. Tham cư Tý / Ngọ vô Tuần / Triệt
Bất nhân.
41. Thất Sát hãm Thìn, Tuất, Mão, Dậu
Gian ác, yểu.
42. Phá Quân Thìn / Tuất
Mưu sâu, hiểm độc, bất nhân.
43. Cư ngộ Hung / Sát (Kình Đà / Hỏa Linh / Thất Sát, Phá)
Bất nhân
44. Kình / Đà – Riêu – Thất Sát ngộ Hỏa / Linh
Sát nhân.
45. Xà Tùng Hỏa, Địa Kiếp – Hãm Âm?
Thâm ác.
46. Âm ngộ Hỏa – Kiếp
Thâm ác.
47. Vũ Khúc – Kiếp Sát – Kình
Là người độc ác, nham hiểm. Xem #5.
15. Bị Trộm – Cướp
(xem thêm Lường Gạt – Dối Trá)
1. Mệnh giáp Địa Kiếp – Thất Sát (chiếu Mệnh cũng vậy)
Bị trộm cướp, mất của.
2. Nguyệt – Đà – Kỵ (ở Hạn)
Bị trộm cướp, mất của.
3. Kỵ – Phục
Bị trộm cướp (ở Điền thì nhà bị cướp).
4. Mã – Không – Kiếp – Phục hoặc Song Hao + Không – Kiếp – Mã
Bị mất xe.
5. Phục – Thất Sát – Địa Kiếp (hoặc Kiếp Sát)
Bị trộm, mất trộm.
6. Phục – Không – Kiếp – Tả – Hữu
Tại Ách / Tài / Hạn: bị cướp của, giết người.
7. Tật Ách có: (Phục Binh) – Thất Sát – Địa Kiếp (hoặc Kiếp Sát)
Hay bị trộm cướp – Có thể không có hoặc có Phục Binh.
8. Phục Binh – Long Phượng
Người hay nghe lén, nghe trộm.
9. Phục Binh cư Tài / Điền
Hay bị trộm.
10. Tham (hãm) – Riêu cư Tài / Điền / Hạn
Thì Tham cũng có nghĩa là khuy?? tặc.
Bị trộm cắp –??? – bị người (trong) nhà trộm cắp.
11. Song Hao + Không – Kiếp
Bị lừa đảo – (sạt nghiệp) mất trộm lớn – bị cướp sạch.
12. Không – Kiếp + Tả – Hữu
Bị trộm, cướp.
13. Tướng – Phục + Không – Kiếp – Tả Hữu
Bị cướp bóc, đòi tiền chuộc, v.v...
14. Thiên Hình – Lực Sỹ
Trộm – Đạo tặc (không ở trong mục này).
15. Hỏa / Linh – Tuế – Kỵ – Hao – Phục + Không – Kiếp
- Nhẹ thì bị trộm cướp, cướp của phá nhà.
- Nặng thì có thể bị cướp giết chết (xem Đại Hạn tốt xấu mà luận).
16. Kiếp – Không ngộ Hỏa / Linh – Kỵ – Tuế – Hao – Phục
Bị cướp phá nhà, hoặc bị giết / chết.
16. Chết – Bất Đắc Kỳ Tử
1. Phá Quân ngộ Triệt (hoặc Tuần)
Bất đắc kỳ tử.
2. Phá Quân – Triệt / Tuần – Cô
Chết đường.
3. Phá – Vũ / Liêm đồng cung cư Thiên Di
Chết đường, Bất đắc kỳ tử.
4. Phá – La / Võng cư Thiên Di
Chết đường, Bất đắc kỳ tử.
5. Phá – Liêm – Hỏa
Tử nghiệp vô nghi – Chết – Bị tù – Phá sản.
6. Phá – Kỵ + Hao – (Thất) Sát (Mệnh / Di)
Bất đắc kỳ tử.
7. Phá (hoặc Thất Sát) + Hỏa – Hao + Hình – Việt
Lão hạn quy thân họa hoạn lai
8. Phá – Phục – Hình + Không – Kiếp
Bị giết chết
9. Sát – Liêm Sửu / Mùi
Chết vì xe cộ / súng đạn
10. Kình (hãm) – Hình – Riêu – Khốc
Bị ác tử (vô thiện chung) (Bắc phái).
11. Sát ngộ Tứ Sát (Kình – Đà – Linh – Hỏa)
Bị tật, chết trận (xem mục 2)
12. Linh – Thất Sát đồng cung
Đề phòng bị chết trận.
13. Sát – Kình tại Ngọ
Chết không toàn thây (lính trận, v.v...).
14.????????
15. Sát – Kình / Hình
Chết, bị tù.
16.?????
17. Thất Sát trùng phùng (nhị hạn)
18. Thất Sát cư Thân ngộ Ác Tinh
19. Thất Sát trùng phùng La / Võng
20. Sát – Liêm đồng vị Sửu / Mùi + Hình – Kỵ / Không – Kiếp
21. Thất Sát tọa Mệnh hội Tứ Sát (Kình – Đà – Không – Kiếp)
22. Thất Sát cư (nhập hạn) Thìn / Tuất mà gốc Đại hạn xấu (đa Sát tinh)
23. Thất Sát – Nhận cư Thân
Nhận = Kình Dương???
24. Thất Sát – Kình – Phục – Không – Hao – Hỏa / Linh – Kiếp – Kỵ
25. Thất Sát – Song Hao cư La / Võng (nhị hạn trùng phùng)
26.????
27.????
28.????
29. Hỏa / Linh + Hình – Việt (Ách)
30. (Lưu) Hà – Kiếp – Kình
31. Tử Vi ngộ Tuần Triệt (nhị hạn trùng phùng)
32. Toái – Hỏa / Linh – Hình
33. Liêm – Việt – Hỏa – Hình
34. Liêm – Sát đồng cung cư Thiên Di
35. Liêm – Phá – Kỵ – Tham
36. Liêm – Tham – Không – Kiếp
37. Liêm – Kỵ đồng cung Dần / Thân
38. Liêm – Sát Sửu / Mùi gia Tứ Sát
39. Liêm – Phá đồng cung tại Thiên Di (ngộ Lục Sát)
40. Liêm – Tham Tỵ / Hợi ngộ Hình – Riêu
41. Liêm – Tham Tỵ / Hợi + Không – Kiếp
42. Mệnh Liêm – Tham (Tỵ / Hợi), Hạn có Võng – Linh – Đà
43. Hao + Cơ – Quả
44.??????
45. Quan Đới + Thiên Không – Hỏa Tinh
46. Linh – (Kình) Dương hợp Mệnh ngộ Bạch Hổ
47. Trực Phù + Hao – Thất Sát
48. Phù Thi Mã (Mã – Hình đồng cung)
49.????
17. Điền Sản- Nhà Cửa
1. Tang - Phục –Không - Phù
Vô sản
2. Nguyệt hãm ngộ sát tinh
Ít của cải
3. Long - Phượng - Mộ
Nhà đất rộng rãi- có di sản
4. Long Phượng –Tam Thai – Tọa
Nhà đất rộng rãi- có ao hồ
5. Long - Mã
Dời nhà cửa
6. Tang Môn
Bất nghi Điền Trạch
7. Nguyệt sáng ngộ Cát Tinh
Điền sản nhiều
8. Phá Quân tại Điền
Phá tổ sản / đem tổ sản bán sạch
9. Linh - Việt- Hỏa tại Dậu
Mất hương hoả mà còn sinh ra tai họa (Dậu là Điền cung)
10. Cự - Cơ Điền Trạch
Nhiều nhà đất- nhà cửa to lớn- giàu có
11. Tử cư Điền / Tài
Có tiền bạc, vật qúy chôn dấu,
- là người giữ của, keo, cần kiệm
12. Điền / Tài có Giải Thần / Thiên Giải
Hao tán, khó giàu lớn
13. Đồng/ Tham miếu cư Ngọ (Điền cung)
Điền trạch thâu thiên hạ (Mệnh/ Điền)
Đồng / Tham phải miếu vượng
14. Điền ngộ Tuần Triệt
Vô tài sản - làm ra của phải chật vật
- Không được hưởng di sản - không có của để lại cho con cái
- Có cũng có khi phải mất nhà.
15. Thiên Cơ lâm Tiểu hạn (Niên hạn)
Làm nhà / Cất nhà
16. Điền ( Dần/ Thân ) ngộ Không - Kiếp
Dù gặp sao tốt cũng có khi phải phá sản
17. Điền ngộ Tuần - Triệt và Không - Kiếp
Không có nhà / Đói kém
18. Thai – Tọa / Long - Phượng / Đường Phù
Nhà cửa cao đẹp
19. Đẩu Quân cư Điền
Giữ được ruộng vườn nhà cửa
20. Cô - Quả tọa Điền / Tài
Giữ tiền của rất tốt
21. Tang Môn cư Tý tại Điền
Nhà cửa to lớn
22. Lưỡng Môn (Tang và Cự Môn) cư Tý
Nhà cửa to lớn
23. Điền: Thai – Tọa ngộ Kỵ - Không - Kiếp
Đồ đạc, quần áo hay bị mọt nát - Nếu có Bạch Hổ hay bị chuột cắn
24. Khốc - Hư tại Điền
Nhà cửa cũ kỹ, lâu đời
25. Cự - Cơ (Mão / Dậu)
Nhiều nhà đất
26. Hoả - Linh (Sửu / Mùi) ngộ Việt – Tham - Kiếp (Điền / Tài)
Mất nhà - phá sản - bị hình thương
27. Mệnh Hoả - Linh (Sửu / Mùi) Hạn ngộ Việt – Tham - Kiếp
Mất nhà - phá sản - bị hình thương
28. Hoả - Linh - Việt cư Dậu (Điền Trạch)
Không được hưởng gia sản mà còn sinh ra tai hoạ
29. Hỏa - Linh cư Điền ở cung vượng Hỏa)
Nhà cửa ruộng vườn bán hết
30. Hỏa -Linh – Tang - Suy (cư hay chiều Điền)
Cháy nhà - cửa nhà, đất bán đi
31. Cự môn cư Điền
Tổ nghiệp tan tành, nhưng sau hoán cải được
32. Ân Quang – Đào - Hồng hội tại Điền cung
Có bà con để lại gia tài, ruộng đất
33. Không - Kiếp cư Điền
Có ngày bị phá sản
34. Không - Kiếp + Tuần/ Triệt cư Điền
Bán, phá sạch tổ nghiệp
35. Phá Quân Dần / Thân cư Điền
Vô sản - nghèo (vì hoang phí, nợ nần)
36. Tang - Mã hay Lưu Tang Mã
Dời nhà - Bán nhà
37. Kiếp Sát - Phục Binh cư Điền / Tài
Vô sản
38. Ác tinh miếu
Tốt lúc đầu sau mất sạch
39. Ác tinh hãm
Điền Trạch chẳng có gì
40. Tang - Hổ - Hao
Có nhà lại bán hết
41. Cự - Tang
Có nhà đất
42. Cự - Tang (Tý /Ngọ) cư Điền
Có nhiều nhà lớn
43. Cự - Cơ (Tý / Ngọ)
Có nhiều nhà lớn
44. Cự - Cơ cư Dần / Thân
Có nhiều nhà lớn
45. Cự - Cơ cư Mão / Dậu
Có nhiều nhà lớn
46. Cơ - Hoả - Kiếp
Bị cháy nhà
47. Cơ - Mộc – Không - Kiếp
Nhà có ma
48. Cơ - Vũ
Nhà đất tốt, hay canh cải
49. Đồng / Cơ / Vũ+ Tả - Hữu
Tay trắng tậu nhà
50. Cơ – Âm - Tam Hoá
Nhiều nhà đất
51. Cự ở cung không miếu vượng
Đổi bán nhà, thưa kiện, sau có nhà
52. Hình - Riêu
Nhà cửa tầm thường, ít ỏi
53. Kình - Đà
Nhà cửa tầm thường, ít ỏi
54. Hỏa - Linh
Cháy nhà
55. Không - Kiếp
Có lại bán hết
56. Hoả - Linh tại cung vượng Hỏa
Có lại bán hết
57. Hao - Kiếp
Có nhà lại bán hết
58. Hao - Kiếp – Sát - Triệt
Có nhà lại bán hết
59. Kình - Đà
Có nhà lại bán hết
60. Hình – Hao - Lực sỹ
Giữ không bền
61. Tam Hóa
Nhiều nhà đất to lớn
62. Thiên Phủ ngộ Tả - Hữu (hay Vũ Khúc)
Nhiều nhà đất to lớn
63. Vũ Khúc - Tả - Hữu
Nhiều nhà đất to lớn
64. Khôi - Việt – Lương - Tướng
Nhiều nhà đất to lớn
65. Khúc – Xương – Lương - Tướng
Nhiều nhà đất to lớn
66. Thái Âm - Lộc Tồn
Nhiều nhà đất to lớn
67. Thiên Tướng - Lộc Tồn
Nhiều nhà đất to lớn
68. Long - Phượng - Mộ
Nhiều nhà đất to lớn
69. Lương - Tướng - Tả - Hữu
Nhiều nhà đất to lớn
70. Mã - Khốc - Khách
Nhiều nhà đất to lớn
71. Lộc - Mã
Nhiều nhà đất to lớn
72. Mã ngộ Trường Sinh / Đế Vượng
Nhiều nhà đất to lớn
73. Hoá Lộc - Mộ
Nhiều nhà đất to lớn
74. Lộc Tồn
Nhiều nhà đất to lớn
75. Âm / Dương miếu / vượng
Nhiều nhà đất to lớn
76. Vũ Khúc miếu / vượng
Nhiều nhà đất to lớn
77. Tang Môn cư Tý
Nhiều nhà đất to lớn
78. Lưỡng Môn (Tang, Cự) cư Tý
Nhiều nhà đất to lớn
79. Cự Cơ cư Mão / Dậu
Nhiều nhà đất to lớn
80. Cự - Cơ cư Điền Trạch
Nhiều nhà đất to lớn
81. Khốc - Hư cư Phụ Mẫu
Phá đang, bán sạch điền sản của cha mẹ
82. Kiếp Sát - Phục Binh
Vô sản
18. Phá thai - Sẩy thai - Sát con
1. Tang - Hổ - Thai
Phá thai - Sẩy thai - nan sản - sanh non - khó nuôi
2. Tang - Hổ - Thai - Hình
Có mổ xẻ - đẻ khó - phá thai
3. Tang - Hổ - Thai - Không - Kiếp
Hữu sanh vô dưỡng - Sảy thai
4. Tang - Hổ - Kình - Sát
Có thể không có con - Sảy thai
5. Tử Tức: Tang - Hổ - Không - Kiếp
Sát con
6. Thai - Hổ đồng cung
Hay sẩy thai
7. Thai - Không - Kiếp
Phá - sẩy thai
8. Mộc - Kiếp - Kỵ
Hư thai
9. Thai - Kình - Đà - Linh - Hỏa
Sẩy, phá thai.
10. Sát - Thai / Không - Kiếp / Đào - Hồng
Sẩy thai
11. Tam minh - Kình - Kỵ - Thai - Không - Kiếp
Sẩy thai - thai nhi chết
12. Tam minh - Tứ sát - Thai
Sẩy thai - thai nhi chết
13. Thân: Cơ - Âm hạn Liêm - Hổ - Linh – Riêu
19. Con Nuôi - Con Riêng - Dị bào
1. Tử Tức: VCD - Cự - Cơ
Con nuôi
2. Tử Tức: Cự - Cơ đồng cung
Con nuôi
3. Tử Tức: Cơ - Âm (Dần / Thân)
Có con dị bào
4. Tử Tức: Thai - Nguyệt
Con cầu tự mới nuôi được, nếu cung tử tức xấu
5. Tử Tức: Nguyệt - Thai - Hỏa
Con cầu tự mới nuôi được, nếu cung tử tức xấu
6. Vượng - Tướng - Phục - Thai
Con nuôi
7. Phúc: Triệt - Dưỡng
Thất tự - phải nhận con nuôi
8. Tướng - Phục - Thai
Con nuôi
9. Vượng - Thai - Tướng
Con nuôi
10. Sát - Đà - Không - Kiếp
Sinh con điếc, ngớ ngẩn
11. Tử: VCD - (Tam không) - Dưỡng - (Cát tinh)
Con nuôi
12. Tử Tức: Tử / Tuyệt - (Cát tinh)
Con nuôi
13. Tử Tức: Đồng - Lương
Con nuôi / có con riêng với vợ lẽ
14. Tử Tức: VCD - Dưỡng - (Cát tinh)
Con nuôi
15. Phúc: Âm - Dương - Thiên Hỷ (cung âm)
Có con dị bào
16. Mệnh / Phúc: Dưỡng
Làm con nuôi kẻ khác
17. Thiên Tướng - Tuyệt
Con nuôi
18. Thái Âm - Thiên phúc
Con nuôi
19. Tử Tức: Cơ - Nguyệt - Đồng - Lương
Con nuôi
20. Tử Tức: (dương cung)
Con nuôi
21. Tử Tức: (âm cung)
Con nuôi
22. Tử Tức: Kình - Đà - Không - Kiếp
Vợ lẽ có con làm nên (?)
20. Ly Dị
1. Mã - Tuần / Triệt
2. Mã hợp Triệt
3. Tang - Mã
4. Phù - Phá - Hình
5. Phù - Phá - Hình - Kiếp - Kỵ
6. Phối: Mã - Tuần / Triệt
7. Phối: Mã hợp không vong
8. Đào - Hồng ngộ Kỵ
9. Cái - Phượng - Đào - Hồng
10. Hình - Riêu - Tang – Mã
21. Buồn Phiền - Đau Buồn - Lo Lắng
1. Tang - Hổ
(?)
2. Tang - Mã
(?)
3. Liêm - Kình - Đà
(?)
4. Cơ - Khốc - Hỏa - Hình
Gia đình thiếu hoà khí
5. Tuế + Sát Tinh
(?)
6. Cự - Nhật+ Kiếp - Phù - Khốc - Khách
Chung thân đa lệ - đau khổ suốt đời (ở Mệnh) hay suốt đại hạn có công thức này
7. Mệnh - Thân tương khắc (Ngũ hành)
Tâm loạn không nhàn
8. Khốc - Hư lạc hãm
Bại cục, buồn thương
9. Khốc – Hư + Phượng
Đau buồn - hoạn nạn
10. Tang Môn tại Thìn
Âu sầu, dù ở nơi huyên náo vẫn không vui
11. Khốc - Hư - Tang - Mã
Đau buồn vì chia tay, tang chế
12. Hổ - Riêu đồng cung (Nữ mệnh)
Đàn bà đau khổ vì chuyện chồng con (cung Phu cũng vậy)
13. Thiên Phủ ngộ Tứ Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không)
Lo buồn về Thê Tử / chồng con
14. Tang - Hổ - Khốc - Hư
Buồn phiền - làm ân nên oán, thương người hại của
15. Kình - Đà - Không - Kiếp
Lắm ưu phiền
16. Thiên cơ hãm tại Mệnh
Âu sầu, buồn phiền suốt đời
17. Tham - Riêu - Kỵ
Có sự lo buồn - sông nước - khẩu thiệt
18. Quan Phù+ Không Kiếp
Lo buồn, kiện cáo (như Phù - Hình - Không - Kiếp)
19. Hạn: Kình - Đà - Không - Kiếp - Hình - Kỵ
Hạn lo lắng, âu sầu - gian khổ, bệnh hoạn
20. Cự - Kỵ
Hạn lo lắng hão huyền
21. Mộc mệnh phùng Tang Môn (Hạn)
Thường có nhị tang (có hai cái tang đi liền nhau)
22. Nữ Mệnh: Thất Sát cư Tý / Ngọ + Riêu - Kiếp
Lệ rơi vì tình
22. Vui Vẻ - May Mắn
1. Đào - Hồng - Hỉ
Vui vẻ, ca hát, tình yêu, may mắn
2. Long - Hỷ
May mắn về thi cử, công danh - Hôn nhân, sinh đẻ v.v.
3. Hỷ Thần - Long - Phượng
May mắn về nhiều mặt (Thi cử, hôn nhân, sinh nở, công danh)
4. Long - Phượng - Thai Phụ
Hỷ sự về tình - Công danh - Thi cử
5. Long - Phượng - Phi Liêm
Hỷ sự về tình - Công danh - Thi cử
6. Long - Phượng - Cáo - Ấn
Thi đỗ - Công danh
7. Thanh Long - Lưu Hà
Thi đỗ
8. Phi Liêm - Hổ
Thi cử, thăng chức (?)
9. Long - Kỵ tứ Mộ
Phát phúc về tài quan (?)
10. Long - Phượng - Hổ - Cái (Tứ Linh)
Phát tài quan
11. Mệnh giáp Long - Mã
Đỗ đạt công danh
12. Tả - Hữu đồng cung (Mệnh)
Là người sung sướng - may mắn, thần vô ưu (?), thọ
13. Thai –Tọa
Chủ về thi cử đỗ đạt
Bầu cử, tuyển cử gặp may
14. Long - Phượng
Có sự vui mừng về công danh, tài lộc / cưới hỏi, sinh nở
15. Đào hoa cư Mệnh
Tính khí vui vẻ
16. Thiên Hỷ hay Song Hỷ (Mệnh)
Tính vui vẻ
17. Thanh Long Phiếm Hải cư Tý
Công danh hiển đạt
23. Dâm Đãng - Đa Dâm - Ngoại Tình - Loạn Luân
1. Phá - Cái – Đào
Dâm - có khi sát phu (Xem thêm phần Đĩ Điếm giang hồ)
2. Phá / Tham (Mệnh) - Lộc - Mã
Trai đàng điếm - Gái lăng loàn, nhưng giàu
-Đa tình, đa dâm - Dễ thay đổi, không chung thủy
3. Vô Chính Diệu - Đào - Hồng nhập Mệnh
Đa dâm
4. Phá - Riêu (Tật Ách) (?)
Thủ dâm
5. Tham (hay Liêm) + Riêu
Đa dâm
6. Tham / Liêm - Đào - Hồng
Đa dâm
ngộ Tuần/ Triệt thì đoan chính
ngộ Lộc Tồn đoan chính
7. Tham / Liêm - Riêu - Mộc - Cái
Đa dâm
8. Tham - Song Hao - (Kỵ)
Đa dâm
9. Âm (Hãm) - Thiên Lương (chiếu)
Dâm đãng và nghèo
10. Cơ - Âm (Dần / Thân) + Xương Riêu
Đa dâm
11. Tham - Hao đồng cung
Dâm ngầm - Keo kiệt
12. Cơ - Xương - Khúc
Đa dâm, loạn dâm
13. Tham - Hao đồng cung
Đa dâm, loạn dâm
14. Đào - Thai
(?) Tiền dâm hậu thú
15. Đào - Riêu
Dâm đãng, có khả năng ngoại tình (Thiên Riêu)
16. Đào - Riêu (+ Kỵ) - Xương - Khúc
Lả lơi - Dâm đãng
17. Đào – Liêm / Tham
(?) Đa dâm ti tiện mà hại đến thân
18. Đào - Mã
Thay đổi nhân tình luôn - Theo Trai - Du lịch sơn thủy - đi chơi xa
19. Thai - Riêu
Rất dâm, có con riêng
20. Thai – Xương + Khúc
(?) Dâm dật
21. Thai - Đào
(?) Dâm đãng chửa hoang
22. Mộc - Cái
Chưng diện - Thủ dâm - Dâm đãng (có thể là gái giang hồ)
23. Cái - Mộc - Riêu
Chưng diện - Thủ dâm - Dâm đãng (có thể là gái giang hồ)
24. Cái - Tướng - Khúc - Mộc - Đào
Dâm đãng loại sang, quyến rũ
Nếu ngộ Cơ - Riêu càng tham dâm
25. Mệnh giáp Tả - Hữu
Đa tình, đa dâm
26. Riêu - Mộc
Thủ dâm, dâm dục
27. Riêu - Đồng
Hay thay đổi nhân tình
28. Xương - Khúc - Riêu
Đa dâm - đẹp
29. Mã - Lương (Tỵ / Hợi)
Đa dâm - đi xa. Nếu mệnh xấu thì nghèo (Gái giang hồ)
30. Đồng - Lương (Tỵ / Hợi)
Nam đa lãng đãng - Nữ đa dâm
31. Âm / Dương hội Sát (Hãm) - (Lục sát hay bộ phận của sáu Sát)
Nam đa gian đạo (Bất lương, trộm cắp)
Nữ đa dâm
32. Đào - Tang (Giáp hay thủ Mệnh)
Gái lẳng lơ cầu chồng
(Hạn) Vừa vỡ mối tình
33. Tử cư Mệnh (?) - Mã ngộ Thai - Riêu
Gái bỏ nhà theo trai
34. Xương - Khúc tại Mệnh (Hãm)
Đa dâm - nhiều người ve vãn
35. Tham Lang nhập Mệnh
Đa dâm - Đào hoa - chuyên đi ve vãn gái - dâm dục
36. Tướng Quân - Đào - Hồng - Phục
Đàn bà: Tình duyên rắc rối - thất tiết, ngoại dâm
Đàn ông: Đa dâm
37. Tướng - Phá - Binh - Đào - Hồng
Dâm dục quá độ - ngoại dâm - loạn luân
38. Xương - Khúc - Riêu - Đào
Dâm - Gái mãi dâm (Nếu Mệnh xấu / hãm)
39. Thái Âm - Đà La
Đàn bà: Loạn luân
40. Phá Quân Mão / Dậu
Đa dâm
41. Đào - Hình - Thất Sát
Lẳng lơ – nghèo hèn
42. Tướng Quân - Phá - Phục - Thai – Đào / Hồng hội Thiên Di
Dâm dục - Tư thông, bị chê cười
43. Mã ngộ Tứ Không
Tứ Không: Tuần Triệt (?)
- Dâm dật
44. Mệnh cư Tứ Bại (Tý, Ngọ, Mão, Dậu)
Phong lưu, hiếu sắc, đa dâm, thích tửu sắc
45. Lương - Mã + Đào / Hồng + Thiên Không + Tuần Triệt
Đa dâm
46. Tử Vi - Phá - Tham
Đa dâm
47. Thất Sát đơn cử Phúc Đức
Đàn bà dâm tiện, ưa du hý, chỉ có tuổi Giáp thì tốt
48. Lương - Mã ngộ Không vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không)
Lẳng lơ, ưa du hý, dâm
49. Lương - Mã Tỵ / Hợi
Đa dâm - hay đi xa
50. Mã - Cơ - Lương
Tính nết lẳng lơ, dâm
51. Vũ - Phá Tỵ / Hợi
Nam: Lãng đãng gian phi
Nữ: Đa dâm, (?)
52. Đào - Riêu - Phủ - Tướng
Gái giang hồ nhưng có tiền, sung sướng - đa dâm
53. Hạn: Đào / Hồng - Riêu - Hỷ
Có nhân tình, có người mối lái giới thiệu
54. Tướng (Thiên Tướng hay Tướng Quân) - Đào - Binh
Đàn bà hay ngoại tình
55. Quả - Sát - Riêu - Tang
Dâm dật
56. Đào - Riêu ngộ Mã
Đa dâm - Gái giang hồ
57. Hoá Kỵ cư Mệnh
Cô đơn + cuồng dâm
58. Thiên không - Đào Hoa
Dụ dỗ (lường gạt) đàn bà con gái - Thay đổi nhân tình - Đa dâm
59. Mộc - Cái - Hổ
Dâm dục
60. Đào / Hồng cư Nô
Ngoại tình - nhiều nhân tình - đa tình
61. Cơ - Cự - Hoả - Kình
Dâm đãng (dạ bồn trì (?)) - số làm tỳ thiếp (làm lẽ)
62. Cơ - Âm đồng cung
Dâm đãng
63. Đồng - Âm đồng cung
Dâm đãng
64. Đào - Kiếp
Người chơi bời, suốt đêm tưởng nhớ ngươì đẹp(?)
65. Đào / Hồng - Thai - Binh - Tướng
Loạn luân hay chửa hoang
66. Tham - Đào
Nữ: Độc phụ: Độc ác và dâm đãng
67. Phá tọa Dần / Thân
Ly dị; chia tay vì ngoại tình
68. Cự Môn hãm địa
Đa dâm
69. Cự - Đồng - Riêu tại Phu / Thê hay Mệnh
Ngoại tình(?)
70. Cự hãm ngộ Kình - Đà
Nữ: Lăng loàn; người yếu đuối; bị bệnh nan y
Nam: Trộm cắp; đàng điếm; phá phách
71. Tướng - Phục - Thai
Đàn bà có hoang thai, ngoại dâm
72. Tướng - Phục + Đào - Hồng - Hỷ
Đà bà có hoang thai, ngoại dâm
73. Thiên Di có: Mã - Xương - Riêu
Ngoại dâm
74. Tham cư Hợi / Tý + Hình - Kỵ
Trai phóng đãng; gái đa dâm
75. Phúc Đức: Đào - Hồng - Tang - Thai
Họ hàng có kẻ loạn luân
76. Đà - Kỵ
Tham dâm vô yếm (vô cùng)
24. Đứng Đắn – Nết Na
1. Đào / Hồng ngộ Hình
2. Đào / Hồng ngộ Lộc Tồn
3. Hình – (Thiên) Quý nhập Mệnh (Nữ)
4. Liêm – Lộc Tồn lâm Thân
Tinh khiết.
5. Tham (Mệnh) ngộ Tuần / Triệt hay Không – Kiếp
6. Thái Dương Nữ Mệnh
Đoan hậu, lấy được chồng hiền tài.
7. Tham – Đào (nhàn cung) ngộ Tuần / Triệt
Nhàn cung: Hãm cung. Lại thành người đoan hậu.
25. Phá Sản – Tán Tài – Hao Tán
1. Phá – Hỏa
Hao tán, phá tổ nghiệp.
2. Phá - Liêm - Hỏa
Hao tán, phá tổ nghiệp; có thể bị tù hay chết.
3. Phủ - Hình Tài cung
Hao tán.
4. Phủ ngộ Tam Không (Thiên – Địa – Kiếp Không)
Hao tài, đau ốm, phá sản, nghèo. Mưu sự chẳng thành, mắc lừa.
5. Vũ – Phá – Kình Đà
Bị khốn hại vì tiền.
6. Song Hao – Đào / Hồng
Hao tán vì nhân tình.
7. Song Hao – Phá – Tuyệt
Phá sản.
8. Song Hao – Không Kiếp
Phá sản.
9. Hao – Cự - Kỵ
Phá tổ sản.
10. Phá – Hỏa – Linh
Phá tổ nghiệp.
11. Lộc Tồn – Không – Kiếp
Phá sản, hao tài. Nếu Không Kiếp đắc địa thì đắc hoạnh tài bất ngờ, nhanh chóng.
12. Lộc Tồn – Tam Không (Tuần Triệt, Thiên - Địa Không)
Giàu nhưng không bền, phải có một lần bại sản.
13. Tử – Tham ngộ Không
Không: tức Không – Kiếp. Tài bất tụ, đến lại đi hoặc bị hao phá.
14. Khốc – Hư – Tang – Mã
Tiểu hạn có tang chế, chia ly, buồn phiền hay hao tài, mất của.
15. Lộc Tồn – Tuần / Triệt
Phá sản.
16. Lộc Tồn – Phá
Tư cơ phá hoại, phá sản.
17. Lộc Tồn – Kỵ – Tuế
Bị hao tán, dị nghị về tiền (vd, hối lộ, tham nhũng).
18. Hung tinh chiếu Tài Bạch
19. Phủ - Tuần / Triệt
Hao tán, nghèo.
20. Phá – Hao
Hao tán, nghèo, túng thiếu.
21. Phá – Hao – Kỵ chiếu Tài / Quan
Phú quý nan toàn.
22. Mệnh / Điền / Tài cư Dần / Thân ngộ Không – Kiếp
Phá sản 1 lần.
23. Liêm – Hao – Kiếp + Thiên Không hội Tài
Bị hao tán vì quan tụng.
24. Song Hao Điền / Tài
Khó giàu, tài nguyên bất tụ, bị hao tán.
25. Tử vi ngộ Tam Không + Kiếp - Kỵ
Tam Không: Tuần Triệt / Thiên - Địa không.
Phá sản, mất của, đau ốm nặng.
26. Thái Dương + Riêu – Đà – Kỵ
Hao tài, đau ốm, giáng chức.
27. Thái Dương + Hỏa Linh – Kình Đà
Tiêu hao sản nghiệp. Cha/chồng bị bệnh.
28. Âm – Đà – Kỵ
Mất của, đau mắt, mẹ đau.
29. Tham – Không – Kiếp
Hao tài, hao tán. Công việc bế tắc. Truất giáng.
30. Tử – Phủ – Khôi – Việt ngộ Không – Kiếp
Mất của; mắc lừa.
31. Tả - Hữu ngộ Sát tinh
Mất của, mắc lừa, bế tắc, đau ốm, có tang.
32. Tuyệt – Hao
Phá sản.
33. Tang – Khốc – Không
Mất của. Thay đổi chỗ ở hay công việc. Mất việc.
34. Mã – Tuyệt
Mất của, bế tắc, đau ốm.
35. Thiên Không nhập hạn
Phá bại, sa sút, mắc lừa, mất của, buôn bán thua lỗ.
Thất tình. Phá sản, khánh kiệt hay tán gia bại sản.
36. Cự – Tang – Linh – Hỏa
Tán tài, đau ốm. Tang chế, hỏa hoạn.
37. Thiên Lương ngộ Sát tinh
Bại sản (chủ về thay đổi), hao tài.
38. Đà – Hỏa – Linh
Mất của. Ẩu đả, tranh chấp. Đau nặng.
39. Linh / Hỏa (Mệnh) tại Sửu / Mùi hội Việt – Tham – Kiếp (tại Điền)
Mất nhà, phá sản, bị hình thương.
40. Thiên Cơ – Hóa Kỵ lạc nhàn (hãm) cung
Phá tán, phá sản. Tăng đạo: yểu.
41. Kình – Đà – Không – Kiếp (hạn)
Tán tài, tang thương.
42. Phá – Hao – Không – Kiếp
Hao tán, mất (chi phí) nhiều tiền.
26. Bị Hiếp Dâm – Hiếp Dâm – Thất Trinh
1. Phá – Tướng – Binh – Thai – Riêu
Bị hiếp dâm.
2. Đào – Không Kiếp (hay Kiếp Sát)
Bị hiếp dâm hay dang dở. Bị lừa gạt. Yểu tử.
3. Phục – Tướng – Đào – Thai
Bị dụ dỗ.
4. Phục – Tướng – Thai – Riêu
Gạt gẫm để hiếp dâm. Tú bà chứa điếm.
5. Phục – Tướng – Vượng – Thai
Tiền dâm hậu thú, lang chạ. Vợ chồng có con riêng.
6. Thai – Không – Kiếp
Bị hiếp dâm hay có mang. Sẩy / phá thai.
7. Thai – Riêu – Không – Kiếp
Bị hiếp dâm hay có mang. Sẩy / phá thai.
8. Đào / Hồng – Binh – Tướng – Thai
Bị hãm hiếp, chửa hoang.
9. Kỵ - Đào / Hồng
Thất trinh, tình duyên trắc trở, thủy tai.
10. Đào – Riêu (hay Đào – Riêu – Thai)
Thất trinh.
11. Đào – Hồng – Hình – Riêu – Không Kiếp
Bị cưỡng dâm.
12. Thai – Hình – Tang – Hổ
Bị hiếp dâm và giết luôn.
13. Tướng quân ngộ Thiên Phủ??????
Bị hiếp dâm (Thiên phủ hay quan phủ, quan phù?)
14. Thai – Hỏa – Hình – Tang – Hổ - Kiếp
Bị hiếp và giết. Bị mang thai và đánh đập.
15. Cự - Kỵ
Mất trinh. Mối tình ngang trái. Thủy tai.
16. Tham – Kỵ
Thất trinh.
27. Đau Mắt – Chột – Mù
Nhật: Mắt trái.
Nguyệt: Mắt phải.
1. Phá - Liêm – Hình – Kỵ - Kình / Đà
Đau mắt / thần kinh (bệnh).
2. Âm / Dương – Kỵ
Đau mắt, cận thị, mổ mắt.
3. Âm / Dương – Kình / Đà
Đau mắt, cận thị, mổ mắt.
4. Âm / Dương – Kình / Đà – Hình – Kỵ
Đau mắt, cận thị, mổ mắt.
5. Âm / Dương hãm ngộ Kỵ (Mệnh), Ách có Đà
Thong manh.
6. Âm / Dương (hãm) – Đà – Kỵ
Đau mắt, mất của (Hạn). Mù.
7. Âm – Kiếp – Kình / Đà – Hao – Sứ
Đau mắt / Mẹ mất.
8. Âm / Dương – Hình (- Kiếp Sát)
Mổ mắt, mắt bị thương (vật nhọn đâm vào....) hay có tật ở mắt.
9. Nhật / Nguyệt hãm – Long Trì
Đau mắt
10. Mệnh có Kình / Đà, Âm – Dương – Không – Kiếp chiếu
Mù.
11. Âm / Dương (hãm) Mộ cung gia Sát
Đau mắt.
12. Âm / Dương (hãm) ngộ Kình / Đà - Hình - Kỵ - Kiếp Sát
Có thể mổ mắt.
13. Âm / Dương phản bối
Mắt kém
14. Vũ Khúc – Phá Quân (Ách)
Mắt kém.
15. Đồng – Âm tại Ngọ vị ngộ Long Trì
Mắt kém, đau mắt, mù
Hai tuổi Mậu / Quý: cô bần. Hai tuổi Bính / Ất: được giàu sang.
16. Kình / Đà thủ / chiếu Tật Ách
Chột mắt, mục tật, lòa mắt.
17. Âm / Dương hãm – (Hình) – Riêu – Kỵ
Hay Âm –Dương hãm ngộ Hình – Riêu
Mắt kém.
18. Liêm – Tham hay Liêm – Thất Sát
Đau mắt.
19. Đà – Kỵ cư Ách
Đau mắt.
20. Cự - Hỏa – Kình / Đà
Có tật ở mắt, chân tay bị yếu.
21. Thái Dương Tý / Hợi ngộ Hình – Kỵ
Đau mắt, mù, yểu, cha mất.
22. Không – Kiếp chiếu Âm – Dương,
Mệnh (Thân / Hạn) có: Kình – Đà – (Riêu) – Kỵ
Mù 2 mắt.
23. Âm / Dương ngộ Riêu – Kỵ - Không – Kiếp
Mù 2 mắt.
24. Kỵ chiếu Nhật / Nguyệt.
Mệnh / Thân có Không – Kiếp (hay Kình – Đà – Riêu...)
Mù 2 mắt.
25. Kình cư Tật Ách. Mệnh/Thân: Nhật / Nguyệt ngộ Cô / Quả
Chột 1 mắt.
26. Âm / Dương cư Tật Ách. Mệnh cung Không
(Không: Tuần – Triệt - Thiên Không - Địa Không)
Đau mắt.
27. Âm / Dương hãm lạc
Mắt kém, cận thị.
28. Nhật – Riêu – Đà – Kỵ
Đau mắt nặng, hao tài, mất chức.
29. Nguyệt – Riêu – Đà – Kỵ
Trai trộm cướp, gái giang hổ, lang thang nay đây mai đó, lao khổ
30. Âm / Dương – Kình
Mắt to mắt nhỏ.
31. Âm / Dương ngộ một trong tam Ám (Riêu – Đà – Kỵ)
Cận thị.
32. Âm – Dương – Riêu – Đà – Kỵ
Mù lòa.
33. Thái Dương + Đào – Sát
Mắt to mắt nhỏ.
34. Thiên Đồng – Đà La đồng cung
Thân hình mập mạp. Mắt có thể chột hay mù.
35. Âm – Dương hãm ngộ Cô - Quả
Chột một mắt.
36. Âm Dương Mệnh / Ách ngộ Riêu – Kỵ
Đau mắt, mù.
37. Âm – Dương ngộ Kỵ. Mệnh / Thân Không – Kiếp
Đau mắt, mù.
38. Âm – Dương hãm. Ách có Kình / Đà
Bị mắt lé.
39. Hình - Riêu – Hà – (Kiếp Sát)
Tổn mục, lòa hay mù.
40. Đà – Nhật
Mắt mờ.
41. Tật Ách: Kình / Đà
Mục tật đa sầu, mắt bị bệnh tật.
42. Âm – Dương – Đà – Kỵ
Đau mắt, có hột cườm.
43. Âm – Dương cư Mộ + Sát tinh
Đau mắt triền miên.
44. Liêm – Tham đồng cung
Mắt kém.
45. Kình – Kỵ đồng cung Hợi / Tý (Ách)
Mù lòa, đau mắt nặng.
46. Hình – Kỵ đồng cung Hợi / Tý (Ách)
Đau mắt nặng, mắt có tật, tù tội.
47. Âm / Dương – Riêu – Kỵ
Hỏng 1 mắt. Nếu chiếu cả Âm-Dương thì mù cả 2 mắt.
48. Kỵ chiếu Nhật – Nguyệt. Không – Kiếp cư Thân / Mệnh
Mù 2 mắt.
49. Không – Kiếp chiếu Âm – Dương. Thân / Mệnh có Đà – Kỵ
Mù 2 mắt.
50. Kình cư Ách. Âm – Dương có Cô – Quả
Hỏng 1 mắt.
51. Âm – Dương hãm + Riêu – Kỵ
Mù 2 mắt.
52. Âm – Dương hãm + Kỵ
Cận thị.
53. Âm – Dương hãm ngộ Tuần Mắt sáng ra.
Nếu về già lòa hay cận thị.ngộ Kỵ
54. Âm – Dương đắc địa + Kỵ
Cận thị.
55. Hình – Riêu – Kỵ ngộ Tuần / Triệt
Không việc gì, không bị đau/bệnh mắt.
56. Thái Dương hãm – Long Trì
Mắt hay bị đau, chảy nước mắt.
28. Đau Ốm – Bệnh Tật – Ách Cung
1. Thất Sát – Vũ đồng cung
Chảy máu cam, bao tử, trĩ, chân tay thương tích.
2. Thất Sát – Kỵ - Đà
Bệnh hay Tật ở tay chân.
3. Kình – Linh – Hỏa
Chân tay có tật, gù. (Mệnh) Nghèo và chết thảm nếu xấu.
4. Cơ ngộ Tuần / Triệt
Cũng (?) tay chân, cây cối đè.
5. Lương – Kỵ
Cũng (?) tay chân, cây cối đè.
6. Cơ – Kình – Đà
Yếu gân (chân / tay).
7. Kỵ - Kình / Đà hay Kình – Đà – Kỵ
Điếu? – hay có tật tay chân.
8. Đồng – Cự - Kỵ
Có tật ở chân.
9. Kình – Liêm – Cự - Hỏa – Kỵ
Có tật ở tay chân hay tù tội.
10. Liêm Trinh
Tỳ vết tay chân.
11. Cơ – Kình – Đà
Yếu gân (chân tay).
12. Vũ Khúc
Chân tay bị sẹo, bệnh ngoài da,? </STRONG>
13. Cự - Nhật cư Dần / Thân hạn ngộ Sát – Kình – Kiếp – Kỵ (+ Mã)
Què gãy tay chân hay tê liệt hay tim / phổi (?). Có Song Hao khả giải.
11. Liêm – Phá
Tay chân bị thương, sẹo.
12. Thất Sát – Vũ
(xem #1). Đau bộ phận tiêu hóa. Tay chân thương tích.
13. Cự - Hỏa – Kình
Chân tay bị yếu, mắt có tật, bệnh tửu sắc.
14. 1. Mã – Đà
2. Kình – Kỵ (què, tê liệt chân).
Có tật ở tay.
15. 1. Mã – Hình
2. Mã – Hình – Triệt (chân tay bị tật).
3. Mã – Hình – Việt (chân tay gãy).
Thương tích ở tay.
16. Mã – Tuần / Triệt
Trật xương, gãy tay chân.
17. Hình – Đà
Yếu tay chân.
18. 1. Liêm cư Tật Ách
2. Cơ – Đà – Hình (què chân / gãy tay).
3. Cơ – Phá – Triệt (què chân / chặt cây).
Tỳ vết tay chân.
19. Tham cư cung Thân (Mệnh / Ách)
(Không phải Thân / Mệnh mà là Thân / Dậu).
Bệnh ở chân.
20. Kình – Đà – Linh – Mã – Sứ hay Kình – Đà – Linh – Mã hội Ách cung
Chân tay có tật.
Ung Thư - Ác Tật
34. Thất Sát – Hao – Mộc – Kỵ
Bị ung thư + Tang Hổ Không Kiếp thì càng chắc, có khi thiếu Thất Sát.
35. Bệnh – Hao – Sát – Hình – Kỵ
Ung thư, ác tật, nan y.
36. Không – Kiếp – Kỵ
Ung thư, tự tử vì uống thuốc độc, ngộ độc.
37. Hỏa / Linh – Hình + Bệnh Phù (hay Phá Toái)
Ung thư, ác tật.
38. Phá – Hao – Mộc – Kỵ hay Phá – Sát – Hao – Kỵ - Lực
Ung thư hay bệnh phải mổ xẻ.
39. Kình – Đà – Không – Kiếp
Ung thư tràng nhạc
Tả - Hữu ngộ Hung tinh.
Bệnh nguy nan.
40. Cự hãm ngộ Kình / Đà
Bệnh nan y, người yếu đuối.
Quyền – Tả - Hữu – Địa Kiếp
Phát bệnh ác hóa và chết.
41. Khôi – Việt ngộ Lục Sát (Mệnh)
Bị nan y, tàn tật, bần, yểu.
42. Hình – Kỵ - Kình – Đà – Không – Kiếp (Mệnh / Hạn / Ách)
Nan y, bệnh nặng / chết.
43. Kình (Mệnh) ngộ Tứ Sát
Nan y, yểu.
44. Phá / hay Sát thủ Tật Ách. Hạn ngộ Song Hao – Mộc – Kỵ
Ung thư,?, mụt nhọt phải mổ xẻ.
45. Kiếp – Cơ
Ung tật, bệnh hôi thối.
Lao – Phổi – Phong Cùi
21. Âm –Khốc – Hư
Ho lao, đau phổi.
23. Phù – Hình
Ưa bị bệnh phong sàng.
23. Phù – Hình – Kỵ
Cùi, hủi, phong sang, ác bệnh.
24. Phù – Hình ngộ Sát tinh
Cùi, hủi, phong sang, ác bệnh.
25. Địa Không – Địa Kiếp
Đau phổi, ho, suyễn, ung thư. Mụt ghẻ, xấu máu.
26. Thất Sát – Không – Kiếp
Ho lao, phổi yếu.
27. Thái Âm hãm
Đau phổi, đau bụng.
28. Cơ – Khốc – Hư hay Khốc – Hư
Ho ra máu, phong đàm, cùi hủi.
29. Mã – Hỏa / Linh – Tang
Ho lao.
30. Tang – Hổ - Khốc – Hư
Ho lao.
31. 1. Thất Sát ngộ Không – Kiếp
2. Hình – Bệnh / Tử (Lao, Kinh phong).
Sưng phổi có mủ, ho lao, phổi yếu, sưng phổi.
32. Phi Liêm – Đào / Hồng – Thiên Không
Ho lao, hủi, cùi. bệnh lao,
33. Liêm – Sát đồng cung ( tàn phế) + Thiên Khốc
Phổi yếu, ho vặt hay thận kém.
Hoa Liễu – Giang Mai
46. Không – Kiếp – Tang – Mã
Hoa liễu, giang mai.
47. Thai – Hổ (Ách cung)
Băng huyết, hậu sản.
48. Tham – Riêu
Bệnh phong tình hay thủy ách.
49. Cự Môn (Ách)
Bệnh ở hạ bộ, bộ phận tình dục.
50. Cơ – Lương
Bệnh ở hạ bộ.
51. Kỵ - Riêu
Dương hư, thận suy.
52. Đào / Hồng – Riêu – Bệnh
Bệnh phong tình.
53. Mộc – Cái
Thủ dâm, mộng phi tinh. Bệnh về sinh dục (ở Tử sinh khó).
54. Riêu – Mộc
Thủ dâm, mộng phi tinh. Bệnh về sinh dục (ở Tử sinh khó).
55. Tham cư Tý / Ngọ (Ách)
Bệnh về phong tình.
56. Tham – Riêu
Bệnh về phong tình.
57. Cự - Kình – Hỏa
Bệnh do tửu sắc.
58. Kỵ - Kình – Đà – Riêu
Huyết hư, đa dâm (đàn bà).
59. Hình – Riêu – Không – Kiếp
Phong tình, ly dị, lậu.
60. Bệnh – Đào – Riêu hay Bệnh Phù – Đào – Riêu
Phong tình như Đào / Hồng – Riêu – Bệnh.
61. Thai + Sát tinh
Phạm phòng, 2 thùy.....?
62. Thất Sát cư Ngọ ngộ Kiếp Sát – Riêu – Mộc
Đồng tính luyến ái.
63. Mộc – Cái
Mộng tinh, thủ dâm.
64. 1. Hình – Riêu – Đào
2. Phá – Riêu – Hồng
Mộng tinh.
65. Hồng / Đào – Riêu – Hỷ
Mộng, di tinh.
66. Kỵ - Hình – Thai – Mộc – Hồng / Đào
Phạm phòng.
67. Đào / Hồng – Thai – Mộc
Phạm phòng.
68. Đào / Hồng – Kỵ – Mộc
Phạm phòng.
68. Hồng – Đào
(Tùy theo Bộ, công thức mà luận)
Bệnh ...? đến hoa liễu.
69. Tham ngộ Kình – Đà hay Tham ngộ Kình / Đà (đồng cung càng chắc)
Thủ dâm, dương suy, suy thận.
70. Thiên Hư
Thận suy, răng hư.
71. Tham / Sát ngộ Kình / Đà
Bệnh phong tình, ghiền rượu.
72. Thai ngộ Sát tinh
Tử cung, tiểu sản (đàn bà), phạm phòng (đàn ông) (thượng mã phong).
73. Nhật – Kỵ - Hư
Dương hư. Đàn bà có bệnh, không đẻ..
74. Nguyệt hãm
Âm hư, kinh không đều.
75. Nguyệt – Kỵ
Âm hư, kinh không đều.
76. Riêu – Hồng – Phá Quân
Mộng tinh.
77. Tham – Đà cư Dần / Thân hay Tý / Ngọ
Tham dục quá độ, bệnh bao tử, trúng thực, tửu sắc.
78. Đào / Hồng – Riêu – Hỷ
Di tinh, mộng tinh, dâm dật.
79. Kỵ - Mộc
Sa dạ con. Kỵ (Mệnh)???? (Ách).
80. Kỵ cư Tật Ách
Âm hư nên hiếm con. Đau bụng. Đàn ông: dương hư.
81. Thai – Không – Kiếp
Đau tử cung, sa / lệch tử cung. Hóa Kỵ cư Dương cung (Ách) – Đẻ khó
82. Đào / Hồng – Hình – Kỵ - Mộc
Tiểu sản, hậu sản.
83. Kỵ - Nhật – Hư (Đàn bà bệnh không đẻ)
Mộc – Không – Kiếp hay Mộc – Kỵ
Khó đẻ, sản thai, đau dạ con.
84. 1. Lưu Hà
2. Lâm Quan – Hỏa / Linh (xuất huyết / máu cam).
Băng huyết, máu loãng, hoại huyết.
85. Tang – Hổ
Băng huyết, máu loãng, hoại huyết. Đau xương, đẻ khó, khí huyết kém.
86. Mệnh có Hóa Kỵ, Ách có Mộc Dục
Sa dạ con.
87. Hình – Kỵ - Bệnh Phù
Âm hư.
88. Hổ - Kỵ - Thai – (Không – Kiếp)
Bệnh sản và chết (?).
89. Tham – Đào (hay Đà) ngộ Linh – Riêu (hội Tật Ách / Phu Thê và Mệnh)
Lãnh cảm. Hội Tiểu, Đại hạn cũng vậy.
90. Cơ – Lương
Bệnh ở hạ bộ.
91. 1. Thất Sát – Vũ Khúc đồng cung chảy máu cam, bao tử, trĩ.
2. Lâm Quan – Hỏa / Linh (máu cam) chân tay thương tích.
92. Thái Âm hãm
Đau bụng, phổi.
93. Thất Sát – Hao
Bệnh tật, đau nặng.
94. Sát – Kỵ
Bệnh, mang tiếng.
95. Thiên Tướng – Hình
Mặt có thẹo.
96. Bạch Hổ (Tiểu hạn)
Đau ốm vặt, xanh xao, thiếu máu, bệnh về xương.
97. Thiên Phủ cư Tật Ách
Ít bệnh hoạn.
98. Vượng – Kình – Đà – Hình
Kình – Vượng – Liêm – Phá
Lưng tôm, gù lưng, đau lưng.
99. Kình / Đà – Linh – Hỏa
Gù, chân tay có tật, có bướu. Nghèo, chết thảm.
100. Kình / Đà thủ Mệnh / Thân. Hỏa / Linh hợp chiếu
Đau lưng, bệnh ở lưng.
Nếu có thêm Không – Kiếp: nặng, có Hình / Việt: giải phẫu.
101. Thái Dương + Sát – Kỵ - Bệnh Phù
Thất Sát trùng phùng Tứ Sát (Kình – Đà – Linh - Hỏa)
Yêu đà bối khách hay trận trung vong (?), gù lưng.
102. Kình – Linh – Hỏa gù lưng
Đế Vượng – Không – Kiếp
Đau lưng, xương sống (trật / gãy...). Nếu Không – Kiếp miếu địa thì không sao.
103. Long – Khốc – Hư
Đau mũi.
104. Long – Khốc – Hư – Hình
Đau mũi, giải phẫu mũi.
105. Toái – Khốc – Hư – Không – Kiếp
Đau cuống họng, khàn tiếng, nói & quặng??? ra tiếng, tắc tiếng.
106. Phá Toái – Khốc – Hư ( hay Toái – Hình – Khốc – Hư)
Đau cuống họng, khàn tiếng. (Có khi nói không ra tiếng).
107. Toái – Không – Kiếp Đau cuống họng, khàn tiếng.
Âm / Dương hãm ngộ Đà – Kỵ: Khàn tiếng, mù, què??
108. Phượng – Kiếp – Kình (hay Hình?)
Lãng tai, điếc, ù tai.
109. Kình – Phượng hay Phượng – Kình – Đà – Hư – Khốc
Lãng tai, điếc, cứng tai.
110. Phượng – Kỵ - Kình - / Đà hay Phượng – Kình / Đà
Lãng tai, điếc hay chân tay có tật. Đau tai (Đà la: nhất là Tỵ / Hợi)
thính tai.Phượng – Tấu
111. Long – Kình Mũi lệch, mũi sống trâu.
Kình Dương cư Tật Ách Có thể là điếc, hay có tật, đa bệnh.
Bạch Hổ - Hình Trĩ mũi, viêm xoang mũi.
112. Kình / Đà – Không – Kiếp hội Mệnh
Có thể điếc lác.
113. Bệnh – Hình Nói ngọng chút ít.
Phượng – Kiếp – Kình Lãng tai, điếc.
114. Bệnh – Riêu – Đà – Tuế
Nói ngọng nhiều.
115. 1. Kình – Đà Điếc, trĩ.
2. Hình – Khốc Điếc.
3. Kình – Đà – Kỵ Điếc và nói lắp.
116. Toái cư Thân phùng Riêu, Phúc cung có Việt – Kỵ - Vũ
Bị câm.
117. Thái Âm hãm
Đau bụng, phổi, kinh nguyệt không đều.
118. Thái Âm cư Dần / Mão
Đau bụng, phổi, kinh nguyệt không đều.
119. Âm – Kỵ
Đau bụng, phổi, kinh nguyệt không đều. Bần huyết, máu xấu, đau mắt.
120. Kiếp – Không Máu xấu.
Kình – Phượng
Phượng – Kình – Đà
Phượng – Kỵ - Kình – / Đà
Lãng tai, điếc,?????
121. Vũ – Riêu – Toái + Việt – Kỵ Câm điếc.
Vũ – Riêu – Kỵ - Toái - Việt hay
Vũ – Riêu – Việt – Toái hay
Riêu – Việt – Toái hay
Vũ – Riêu – Toái
Câm, bệnh cấm khẩu, nói ngọng.
122. Việt – Kỵ
Nói ngọng.
123. Toái – Kình – Kỵ - Phá
Nói ngọng hay có tật.
124. Kỵ - Riêu đồng cung Sứt môi.
Cự - Kỵ đồng cung Méo mồm.
125. Tuế - Phá – Kình (Miệng hô, răng vẩu).
Cự - Hỏa - / Linh hay Cự - Kình – Hình – Linh – Hỏa
Méo mồm.
126. Liêm – Phá
Đau lưng, chân tay bị thương sẹo.
127. Lâm Quan – Địa Kiếp
Đau yết hầu, thịt dư.
128. Vượng – Kình – Đà – Hình hay Vượng – Kình – Đà
Đau lưng, lưng có tật.
129. Phục – Hình
Nói ngọng.
130. Tuế - Đà – Riêu – Cái
Nói lắp, câm?, cà lăm.
Phượng – Kình đồng cung Điếc, lãng tai,???
131. Cự - Cơ đồng cung
Bệnh tâm linh, đồng bong.
132. 1. Vũ (Khúc) – Riêu đồng cung
2. Thiên Cơ
3. Liêm – Kỵ - Hỏa
Tê thấp, phù thủng.
133. Cự - Cơ – Giải Thần hay Mộc Dục
Tê thấp.
134. Kỵ - Riêu hay Khốc – Hư
Thận suy, đa dâm, dương hư, bệnh thận.
135. Phá – Kình – Đà – Hình – Kỵ
Điên, thần kinh, điên cuồng.
136. Vũ Sát tại Mão hay Liêm – Phá tại Mão
Điên, thần kinh hay Điện / lửa / sét.
137. Vũ Khúc tại Mão
Hình – Bệnh / Tử - Kình
Bệnh thần kinh, khí huyết, phong, ho lao.
138. Phá – Hỏa đồng cung
Điên.
139. Phá – Hỏa cư Ngọ
Điên, rối trí.
140. Hỏa Tinh hãm (Mệnh VCD)
Bệnh thần kinh, thiếu máu.
141. Đà – Riêu – Linh – Hỏa hay Kình – Tuế
Bệnh ma làm, điên, nói lảm nhảm.
142. Kỵ nhập Mệnh / Thân / Tật
Đa bệnh.
143. Thương – Sứ nhập hạn
Hay đau ốm.
144. Long – Kình
Mũi lệch, mũi sống trâu.
145. Kỵ - Riêu
Sứt môi, thận suy, dương hư.
146. Liêm – Phá – Hình – Kỵ
Điên, thần kinh.
147. Nhật – Cự
Bệnh khờ, ngây ngô, suy luận bất bình thường.
148. Phá – Hỏa – Linh
Bệnh thần kinh.
149. Nhật – Không – Kiếp
Bệnh thần kinh.
150. Nhật – Hỏa (tại Hỏa cung)
Bệnh thần kinh.
151. Tả - Hữu – Xương – Khúc + Kình – Đà
Loạn trí, ngớ ngẩn (lưỡng sinh ám trí).
152. Cơ – Kình – Đà
Yếu gân, yếu chân tay.
153. Cơ – Hình – Không – Kiếp
Bệnh, tai nạn.
154. Bệnh Phù – Hình
Bệnh phong (cùi).
155. Đồng – Kỵ
Trúng độc, trúng thực, đau bụng.
156. 1. Riêu – Đà – Kỵ (Bao tử, ruột).
2. Đồng – Khốc – Hư
3. Đồng – Kỵ (Đau bụng, ruột gan)
Đau bụng, bao tử.
157. 1. Nhị Hao
2. Âm hãm
3. Hóa Kỵ
4. Âm – Trì – Sát
Đau bụng.
158. 1. Đồng – Không – Kiếp – Hình Đau bao tử, lở bao tử.
2. Tham – Đà cư Dần / Thân (Bao tử, trúng thực, tham dục).
159. Vũ – Sát đồng cung
Đau bộ máy tiêu hóa. Trĩ. Chân tay bị thương.
160. 1. Thiên Trù – Nhị Hao (Bội thực, bao tử)
2. Kỵ - Song Hao
3. Thiên Trù – Không – Kiếp (Bội thực, sung lở bao tử)
Đau bụng, bao tử, tiêu chảy.
161. Đồng – Không – Kiếp hay Vũ – Sát (Bệnh nhẹ ruột dư + gan, máu cam)
Ruột dư, Thận, Mật có sạn hay trĩ, bao tử.
162. Kình Dương
Tang (?) thương, thương tích.
163. Cự - Tang – Linh – Hỏa
Đau ốm, tán tài, tang ma, cháy nhà, chia ly.
164. Nguyệt hãm ngộ Sát tinh
Đa bệnh.
165. Kình – Đà
Bệnh tật, gầy yếu, đau bụng.
166. Thiên Không (Hạn)
Khỏi bệnh. Nếu bị Tuần / Triệt án ngữ thì chưa khỏi bệnh.
167. Tang Môn
Thiếu máu, căng mạch máu, yếu tim, đẻ khó.
168. Tham Lang
Mắt, tiêu hóa, sinh dục, ho.
169. Thái Âm (hãm)
Mắt phải, thần kinh, kinh nguyệt.
170. Cự - Kình – Đà
Hay đau ốm.
171. 1. Nhị hạn ngộ Bạch Hổ
2. Hạn có Bệnh phù – Thái tuế
Hay đau ốm.
172. 1. Bệnh Phù tọa Mệnh / Thân
2. Bệnh Phù – Tang – Hổ
3. Hình – Phù (dễ bị bệnh)
4. Mệnh VCD.
5. Bạch Hổ cư Mệnh
Thuở nhỏ hay đau ốm.
173. Cự - Thương – Sứ
Cự - Tang
Đau ốm, khẩu thiệt, có tang.
174. Cô – Quả (Ách)
Ít bệnh tật. Khi bệnh, ít người lui tới. Bị tả lỵ.
175. Dưỡng / hay Trường Sinh + Sát tinh (Ách)
Đau ốm lâu khỏi. Đa bệnh.
176. Quyền – Tả - Hữu
Ngộ cát: tốt. Ngộ ác: xấu.
177. Quyền – Tả - Hữu (Ác tật) + Địa Kiếp (Ách)
Phát bệnh ác hóa và chết.
178. Ách ngộ Tuần / Triệt
Giảm bớt bệnh tai.
179. Quyền + Các sao cứu giải
Khỏi bệnh nhanh chóng.
180. Quyền + Sát tinh
Phát bệnh nguy hiểm.
181. Tả - Hữu + Những sao cứu giải
Gặp thầy gặp thuốc.
182. Tả - Hữu + Hung tinh
Bệnh nguy nan.
183. Hình – Việt
Liên quan đến mổ xẻ, giải phẫu.
184. Thiên Hình / hay Kiếp Sát
Mổ xẻ, giải phẫu.
185. 1. Phá – Hao – Mộc – Lưu Kỵ
2. Phá – Hao – Mộc – Kỵ
3. Sát – Hao – Mộc – Kỵ
4. Kỵ - Hình – Kiếp
Mổ xẻ, giải phẫu, ung thư, bệnh phải mổ xẻ,????
186. Sát – Hao
Bệnh tật, đau nặng.
187. Kình – Âm – Dương đồng cung
Bệnh hoạn liên miên, hình khắc vợ chồng.
188. Kình – Âm – Dương – Kỵ Ám tật, có tật lạ
Kình – Liêm – Cự - Kỵ Ám tật, kiện cáo, tù, thương tích, sang chấn (2 tuổi Thìn / Tuất).
189. Vũ – Tướng đồng cung (Ách)
Khôi – Việt ngộ Sát tinh
Ám tật.
190. Kình – Xương – Khúc – Tả / Hữu
Có ám tật.
191. 1. Hình – Kình – Đẩu (đâm cắt hay châm chích).
2. Hao – Mộc – Kỵ
3. Hình – Việt
Bệnh phải mổ xẻ, giải phẫu.
192. Lộc tồn ngộ Không – Kiếp
Ám tật, yểu.
193. Việt – Song Hao
So vai, xệ vai.
194. Việt – Hình
So vai, xệ vai, giải phẫu.
195. Hổ - Hình
Mổ xẻ, châm chích, tàn tật.
196. Bệnh – Cơ
Đau mật, gan.
197. Hình – Việt – Kỵ
Mổ xẻ, giải phẫu.
198. Ách cung ác sát trùng xung
Dương âm vô lạc do Ách cung ác sát trùng xung.
Ác sát: lục sát. Vô lạc: không có lạc thú về sex
Tổng Quát
1. Thai + Đào – Hồng – Kình – Kỵ - Mộc
Đàn ông: phạm phòng
Đàn bà: tiểu sản, hậu sản
2. Mộc Dục
Tê thấp, suy thận
3. Bệnh
Hay bị cảm sốt (Ách)
4. Bệnh Phù (Thân / Mệnh)
Hay đau ốm, sức khỏe kém (Ách), có Thiên Lương thì không sao
5. Riêu
Đau răng, suy thận, yếu về đường tiêu hóa
6. Riêu - Cái
Bênh phong tình (Ách)
7. Hỷ - Thần
Bệnh ở hậu môn, đau bụng đi rửa
8. Cô - Quả
Có sẹo, tỳ vết ở hậu môn, đi rửa, không người giúp đở khi đau ốm (Ách)
9. Đà - Hỏa
Hay bị ghẻ ngứa
Cư Ách: bị ám tật
10. Hỏa - Kình
Bị phỏng lửa, chết bỏng
11. Sát – Phá - Tham ngộ Tang – Đà – Hình - Tuế
Tàn tật, tang thương, đau ốm
12. Kiếp Sát – Hao - Hình
Đau ốm, phá tán (tài)
13. Đà - Tang
Đau bệnh
14. Thất Sát cư Ách
Lúc nhỏ hay ốm vặt, khi lớn mắc bệnh trỉ hay bệnh ở hạ bộ
15. Cự - Dương
Đầu mặt hay có mụn nhọt
16. Kình – Riêu
Mụn nhọt ghẻ lở
17. Cơ – Không – Kiếp
Mụn nhọt hôi thối
18. Hỏa – Linh – Bệnh Phù
Sốt nóng, sốt thương hàn, bệnh đậu lào
19. Đà La
Lúc nhỏ đau răng. Đầu mặt có vết sẹo
20. Tham cư Dần / Thân
Bệnh ở chân (Ách)
21. Tham cư Tý / Ngọ
Chơi bời mắc bệnh ( phong tình ở Ách)
22. Tham – Riêu
Bệnh phong tình, thủy nạn (Ách)
23. Thiên Tướng
Bệnh ở đầu, mặt (Ách)
24. Thất Sát – Kỵ - Đà
Bệnh tật ở mặt (Ách)
25. Phá – Riêu – Hồng
Mộng tinh
26. Đà - Mã
Có tật ở chân tay hay bị tai nạn xe cộ (Ách)
27. Đà – Riêu – Kỵ
Đau mắt, ruột, gan, dạ dày
28. Hỏa – Linh
Bị bệnh nóng lạnh
29. Hóa Kỵ
Hiếm con, hay đau bụng vặt
Dương - Hư: khó sinh đẻ
30. Đào – Hồng
Tim yếu, bệnh ở hạ bộ
31. Tang Môn
Bệnh ở khí huyết, thiếu máu, hay căng mạch máu. Tim yếu. Đàn bà khó đẻ
32. Bạch Hổ
Máu xấu, đau xương cốt, đàn bà sinh khó
33. Khốc
Phổi yếu, hay ho vặt, thận suy
34. Hư
Răng xấu, răng bị sâu, suy thận
35. Hình
Bệnh phong sang, bệnh liên quan đến giải phẩu, châm chích
36. Hình – Phục
Nói ngọng, nói lắp
37. Long Trì – Nhật – Sát
Đau đầu
38. Long Trì – Nguyệt – Sát
Đau bụng
39. Long Trì – Mộc – Không – Kiếp
Thủy nạn, đau mắt, đàn bà khó đẻ
40. Vũ Khúc cư Dậu
Thường bị bệnh nội thương khó chữa
41. Thiên Không - Đào Hoa cư Ách
Bị bệnh suyễn
42. Thiên Tướng
Ngứa, bệnh ngòai da, dị ứng da (ngứa, mày đay), ban sảy, mụn
43. Kình Dương
Bệnh lãng tai, trĩ, tỳ vết (thương, sẹo) ở chân
44. Liêm Trinh
Có tỳ vết ở lưng, chân tay
45. Liêm – Kỵ đồng cung ở Dần / Thân (Ách)
Bị ngộ độc, tai nạn, bất đắc kỳ tử
46. Đồng – Kỵ đồng cung
Dạ dày, đau ruột gan
47. Vũ Khúc
Bệnh ngòai da, chân tay tỳ vết
48. Vũ – Tướng đồng cung
Ám tật
49. Vũ – Tham – Xương – Khúc
Nhiều nốt ruồi, bệnh liên quan tới lông tóc
50. Vũ – Riêu đồng cung
Tê thấp, phù thủng chân tay
51. Thái Dương (Ách)
Căng mạch máu, hay nhức đầu
52. Âm - Dương đồng cung Sửu Mùi (Ách)
Bệnh nạn liên miên
53. Âm - Dương – Riêu – Đà – Kỵ
Đau mắt, có tật ở mắt. Âm Dương mờ ám + Riêu Đà Kỵ: mù, què, đau mắt nặng, khan tiếng
54. Thiên cơ (Ách)
Bệnh ngòai da, tê thấp (Ách)
55. Cơ – Âm đồng cung
Nhiều mụn nhọt
56. Cơ – Hình – Không – Kiếp
Mắc bệnh tật, tai nạn bất ngờ (rất đáng ngại)
57. Âm
Đau phổi (nếu Âm mờ ám), đau bụng
58. Hạn: Kình – Đà – Không – Kiếp – Hình – Kỵ
Gian khổ, bệnh tật
59. Trường Sinh cư Ách
Yếu, trị liệu khỏi
60. Cô – Quả cư Ách
Ít bệnh tật, tai nạn
61. Thiên Cơ Thất Sát phùng xung (tiểu hạn)
Ôm đau day dẳng
62. Liêm – Vũ – Thất Sát
Thưở nhỏ đa bệnh
63. Cơ – Phá
Bệnh phong sang
64. Kình – Âm / Dương
Bệnh tật triền miên
65. Kình – Hình – Không – Kiếp
Bệnh thận (nặng)
66. Đà – Tang
Đau bệnh
67. Khốc – Hư
Yếu phổi, lao
68. Hình – Bệnh / Tử
Yếu phổi, lao
69. Liêm – Thất Sát đồng cung
Lao, tàn phế
70. Âm – Khốc – Hư
Ho lao
71. Không - Kiếp
Đau phổi, suyễn
72. Thất Sát ngộ Không - Kiếp
Ho lao, yếu phổi
73. Cơ – Khốc – Hư
Ho lao, sưng, cùi
74. Phi Liêm – Đào – Hồng – Thiên không
Ho lao, cùi, hủi
75. Mã – Hỏa – Linh – Tang
Suyễn, ho
76. Tang – Hổ - Khốc – Hư
Suyễn, ho
77. Liêm – Thất Sát – Không – Kiếp
??????
78. Liêm – Thất Sát cư Tật Ách
??????
79. Riêu phùng Vũ diệu (Vũ = Sát Phá Liêm Tham)
Lao bệnh triền miên
80. Thiên Đồng nhập hạn
Bệnh tương tư, ...
81. Khôi – Hình
Đầu bị thương, bị chém vào đầu
82. Khôi – Kỵ
Bị té ngã vở đầu
83. Thiên Không ngộ Tuần / Triệt (hạn)
Bệnh khó khỏi
84. Lương – Hỏa
Tai vạ, bệnh tật, tổn tài
85. Thương, Sứ nhập hạn
Bị ốm đau, tai nạn
86. Mã ngộ Triệt
Bị té ngã, thay đổi chổ ở
87. Thiên Riêu (hãm) – Đà – Sát
Bị ốm đau, gặp được thầy thuốc
88. Cự - Kình – Đà (Mệnh / Thân / Ách)
Hay ốm đau
89. Xương Khúc lâm Tật Ách
Người quê kệch, thô lỗ, không thích văn chương, thất học
90. Liêm cư Tật Ách hoặc Mệnh
Một lọai ung thư. Bị bệnh ...
91. Kỵ - Kình – Đà – Riêu
Mắc bệnh xấu máu, áp huyết
92. Hổ - Riêu
Hay mắc bệnh
93. Bệnh – Kình – Đà – Linh – Kỵ
Mắc bệnh..
94. Tả - Hửu – Liêm – Kình
Ám tật –
95. Mã – Đà
Có tật
96. Kình – Đà – Không – Kiếp
???????
97. Âm / Dương hãm – Kình – Đà – Kỵ
Có tật lạ
98. Cách giải bệnh tật:
1. Hóa lộc hay Lộc Tồn: giải bệnh, trị bệnh
2. Tả - Hữu: ốm gặp thuốc
3. Tam Hóa (Tật Ách): tai nạn có người giúp
4. Hóa Khoa
5. Tử - Phủ: ít bệnh tật
6. Đồng – Lương: giải ách
7. Tuần / Triệt: ít tật, giải ách
8. Thiên Không: ít bệnh tật
99. Tam Hóa – Thanh Long
Không có tai nạn lớn, gặp rủi hóa may
100. Kình – Hình – Sát (Ách)
Tàn tật, tù tội
101. Kiếp sát ngộ Tứ Sát (hoặc Thất Sát)
Phong sang, chết
102. Kình – Riêu
Ghẻ lở, mụn nhọt
103. Phá Quân
Khí huyết bất điều
104. Tang – Điếu
Đau ốm, tang chế
105. Tang – Tuế - Điếu
Ngã đau, té cao, tai nạn xe cộ
106. Cách răng hư, răng xấu, đau răng
1. Đà – Hư – Tuế Phá
2. Tuế Phá – Khốc – Hư
3. Khốc Hư
4. Tuế Phá – Kình
5. Riêu – Đồng – Phá (Tuế Phá) – Triệt – hư răng
107. Tử Vi ngộ Kình – Đà – Kiếp – Kỵ
Ốm đau
108. Tử Vi – Địa Kiếp
Ốm đau, bị lừa
109. Thai – Kiếp
Khó sinh, thai nghén bệnh tật
110. Thai – Hỏa – Linh
Động thai, sinh quái thai
111. Âm Dương (Ách) ngộ Đà Kỵ (hãm)
Mù lòa, què quặt, khản tiếng
112. Âm – Cự
Đàn bà sinh đẻ phòng bụng đau
113. Cơ – Kình – Không - Kiếp - Kỵ
Bệnh họan, tai nạn bất thường
114. Cơ – Thương / Sứ
Đau ốm, tai nạn đánh nhau, bị đánh đập
115. Cơ – Tang – Khốc
Đau ốm, tang chế
116. Riêu – Toái (Hạn)
Ốm đau, khẩu thiệt
117. Sát – Phá – Tham (Mệnh/Hạn) đến hạn cung có sao thuộc Thổ
Hay nôn mửa
118. Quan Đới – Tang – Hổ hay Lâm Quan / Quan Đới ngộ Tang – Hổ
Đứt gân máu, stroke
119. Bị stroke:
1. Lâm Quan – Hỏa – Linh
2. Tang – Hổ - Hình – Kỵ
120. Quang – Quý
Đau ốm gặp thầy giỏi
121. Bệnh tại hạn
Hay đau ốm
122. Cự môn
Mặt có vết seo. Tứ chi ...
123. Kình – Đà
Điếc, trĩ
124. Nguyệt – Cự (đẻ khó, đau đẻ lâu)
Hóa Kỵ cư Dương cung (Ách): đàn bà đẻ khó
125. Kỵ - Nhật – Hư
Đàn bà có bệnh không sinh đẻ được
126. Kỵ - Hình - Kiếp
Bị bệnh phải mổ xẻ, bị đao thương
127. Hỏa – Linh – Kình – Đà</STRONG>
Đau, nhức đầu
128. Quan Đới – Tang – Hổ</STRONG>
Đứt gân máu (stroke)
129. Long Trì – Nhật – Sát
Đau đầu
130. Khôi ngộ Kỵ (Ách): có tật ở đầu, hay não bộ
Tướng – Hình: bị thương ở đầu
Hỏa – Linh: đau nhức đầu
Tướng ngộ Tuần/Triệt: đầu mặt bị thương, tai nạn
131. Kình – Đà – Kỵ (Lưu Kình Đà hội chiếu hay giáp)
Đau ốm, hao tốn tiền bạc
132. Liêm Tham cư Tỵ Hợi ngộ Xương Khúc Kỵ
Bạch tạng, lang ben,
133. Mệnh có Kình Dương và Ách có Hoa Cái
Đậu mùa, lên ban
134. Kình – Cái – Không – Kiếp hoặc Kình – Cái – Dưỡng
Rỗ mặt
135 Kình – Đà – Dưỡng – Cái
Kình – Đà – Thai – Riêu
Kình – Đà – Thai
Kình – Đà – Cái (bệnh đậu/sởi) + Kiếp – Cơ: Trĩ
Bệnh đậu mùa
136. Tử Vi ngộ Kình/Đà – Kỵ hoặc Tử Vi – Hình – Kỵ - Không – Kiếp
Đau ốm, mắc lừa, hao tốn
137. Tang - .... – Hình ...
????????
138. Lưu Kình - Đà ngộ Linh – Phá
Bị bệnh ban sởi
139. Mệnh Hóa Kỵ - Ác Mộc Dục
Bị bệnh âm tỳ, ...
140. Kình – Riêu
Bệnh ghẻ
141. Cự / Liêm / Nhật / Nguyệt (hãm)
Đau ốm vặt
142. Cơ – Vũ
Phong đàm
143. Đà – Hỏa – Linh
Đau nặng, mất của, tranh chấp
144. Tuế - Đà – Kỵ
Đau nặng, tang lớn, thị phi, giáng chức
145. Điếu – Tang – Hình
Bệnh tật, té ngã xe, tang chế
146. Kình / Đà cư Ách
Bệnh sài mòn, gầy yếu
147. Âm – Không – Kiếp
Bệnh phong
148. Thiên Tướng Mão / Dậu
Bệnh vàng da mặt
149. Bệnh ma làm
1. Mệnh có Thiên Riêu, ách có Hỏa – Linh: bệnh ma làm
2. Cơ – Hỏa – Linh
3. Riêu – Hỏa – Linh
4. Đà – Riêu – Linh – Hỏa (Bệnh / Tài)
Bệnh ma làm, bị ma nhập, phá phách.
150. Hoa Cái – Không – Kiếp – Hình
Mặt rỗ, có sẹo, hay có nhiều, tàn nhang
151. Thiên Riêu cư Mệnh
Hay bị đau răng
152. Không – Kiếp – Tuế - Mã
Đau nặng, bị tai nạn khủng khiếp
153. Vũ Khúc tại Dậu
Bị nội thương
154. Song Hao – Hỏa – Linh
Ghiền, như ghiền cần sa, ma túy, thuốc lá
155. Tham – Sát – Kình – Đà
Ghiền rượu, hay mắc bệnh truyền nhiểm do quan hệ tình dục
156. Lâm Quan + Hỏa – Linh
Đứt mạch máu, xuất huyết, chảy máu cam
157. Đồng – Cự: đau tim
Đào – Hồng: đau, yếu tim, bênh liên quan tới hoa liễu
158. Tang – Hổ
Khí huyết kém, đau xương, khó sinh nở
159. Địa Kiếp Mệnh cun????
Khó thở,..
160. Bạch Hổ - Hình
Trĩ mũi, chảy nước mũi hòai, hoặc viêm xoang mũi
161. Thất Sát hoặc Cự môn
Mặt có vết, lúc nhỏ sức khỏe kém
162. Phá Quân cư Ách ngộ Lục Sát – Kỵ
Bệnh hô hấp, SARS
163. Kỵ - Riêu
Thận suy, ....
164. Khốc – Hư
ở Ách: thận suy
ở mệnh: phổi yếu, đau ..., ho vặt
165. Tham – Kình – Đà
Thận sụy, ...
166. Thiên Khốc: phổi yếu, ho vặt;
Thiên Hư: thận suy, hư răng
167. Hỏa – Linh – Bệnh Phù
Sốt thương hàn, nóng sốt, bệnh đậu lào
168. Khốc – Hư
Ăn không tiêu
169. Kình – Đà – Hình – Kỵ
Tỳ thương (tay/chân)
170. Cơ – Kiếp – Sát – Kình
Tỳ vết
171. Kình/Đà – Mã – Hổ
Tứ chi có tỳ vết
172. .....?????
173. Tham hãm tại Mệnh hay Tử Tức
Đà bà bị hư thai và ho đến nửa năm
174. Kiếp – Cơ hoặc Bệnh – Kiếp – Cơ
Đau mật, đau gan, vàng da
175. Không - Kiếp – Bệnh – Cơ
Đau mật, gan
176. Kình – Hỏa
Nhức đầu
177. Thái Dương hoặc Long Trì – Thất Sát – Thái Dương
Nhức đầu
178. Liêm – Phá
Chân tay bị thương, sẹo
179. Thất Sát – Kình – Đà – Linh – Hỏa
Chân tay bị thương, sẹo
180. Thái Dương – Cự Môn
Mụn nhọt đầu, mặt
181. Cơ – Không – Kiếp
Mụt nhọt độc
182. Hỏa – Linh
Bệnh nùng huyết
183. Cự môn:
Mụn nhọt
184. Âm – Dương phùng Nhận
Bệnh tật triền miên
Kình Dương = Nhận????
185. Phá Quân độc thủ
Mụn nhọt, máu nóng, chốc lở
186. Cự Cơ đồng cung
Bệnh khí huyết, bệnh tâm linh
187. Hỏa – Linh – Thất Sát (phong sang) hoặt Thiên Tướng (Ách)
Bệnh ngoài da
188. Phá Quân + Sát tinh (Ách)
Ghẻ lở, mụn nhọt, máu nóng
189. Vũ Khúc độc thủ, hay Cơ – Nguyệt, hay Kình – Riêu (ghẻ lở)
Bệnh ngoài da
190. Địa Kiếp hoặc Không – Kiếp
Mụt nhọt, chốc lở (vì máu xấu), phổi, suyễn, ...
191. Hỷ thần - Không – Kiếp hay Kiếp – Cơ (Trĩ)
Trĩ, mụt nhọt lớn
192. Kình – Đà
Trĩ, điếc???
193. Thất Sát – Vũ Khúc
Tiêu hóa
194. Hình – Kiếp – Hỉ Thần
Trĩ bị cắt, chân tay thương tích
195. Không – Kiếp – Cơ
Mụn nhọt hôi thối
196. Cự môn cư Tật Ách
Lúc nhỏ hay bị mụn nhọt
197. Riêu – Đồng – Tuế phá – Triệt:
Hư răng
198. Riêu tọa Mệnh, hay Đà – Hư – Tuế Phá, hoặc Hư tọa Mệnh / Ách
Đau răng
199. Thiên Cơ (Ách) hay Hình – Phù (phong sang, lở chốc)
Mụn nhọt, sạng độc, bệnh ngủ tạng
200. Khôi – Hình
Đầu bị thương, bị chém vào đầu
201. Tướng – Tuần / Triệt
Đầu bị thương, kinh phong
202. Khôi – Không – Kiếp
Đau đầu
203. Hình – Bệnh / Tử
Lao, kinh phong
203. Khôi – Kỵ
Bị té ngã vỡ đầu, có tật ở đầu hay não bộ
204. Không – Kiếp – Kỵ hoặc Đồng – Kỵ
Ngộ độc, trúng độc, ung thư
205. Đồng – Kình – Đà – Linh – Hỏa hoặc Hổ cư Ách
Huyết hư, thiếu máu
206. Lực Sĩ ngộ Tuần / Triệt
Đau ốm
207. Dưỡng cư Tật Ách
Đau ốm luôn khỏi
208. Long Trì – Thất Sát – Thái Dương: Nhức đầu
Thái Dương: Mất ngủ
Kình – Hỏa: Nhức đầu
209. Đồng – Lương
Hàn nhiệt, nóng lạnh. Lương cư Hợi / Tý / Sửu: thương hàn
210. Đồng – Cự
Bệnh tâm khí, bệnh tim, đau tim
211. Bệnh – Không – Kiếp hay Hỏa – Hư:
Bệnh huyết xấu. Đồng – Âm hoặc Cự Cơ: bệnh huyết xấu
212. Hóa Kỵ cư Ách: Huyết khí kém, hiếm con
Tang – Hổ: Khí huyết kém
Bạch Hổ: Bệnh huyết hư, thiếu máu
(Nguồn: sưu tầm)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com