Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

2

Chiều muộn vừa có một cơn mưa rào, mọi thứ vẫn còn ẩm ướt, ánh trăng mới lên tắm cảnh vật trong vầng hào quang bàng bạc loang loáng, có gì đấy hư ảo như một thế giới thần tiên.

Bộ guốc lướt trên trảng cỏ nhẹ nhàng gần như không chút tiếng động. Thân ảnh dẻo dai uyển chuyển và bước chân nhịp nhàng khoan thai tựa vũ công. Bộ lông nâu vàng khoang trắng êm ái và cặp sừng đen nhánh dài uốn cong như mũ miện. Giống linh dương sừng nhánh là loài động vật ăn cỏ nhanh nhẹn và bền bỉ, chúng không có thiên địch và thừa cảnh giác để là con mồi dễ dàng.

Kẻ săn mồi ngồi vắt vẻo trên một trong những cành thông cao nhất, chân khẽ đung đưa qua lại, tay chống cằm, mắt chăm chú dõi theo từng nhất cử động của con mồi bên dưới, mải mê gặm cỏ, không mảy may chút nào về mối nguy hiểm rình rập. Một thoáng tội nghiệp vụt qua trong cậu. Linh dương có thể bỏ chạy khỏi vuốt chó sói hay đại bàng, nhưng cái tốc độ đáng tự hào ấy chẳng là gì với một thực thể siêu nhiên.

Vươn vai một cái thật dài và bẻ tay răng rắc mấy tiếng thật kêu, tất cả đều không cần thiết âu mà là những thói quen khó bỏ, một hành vi đóng giả con người, giả làm một thứ có nhân tính chứ không phải là một thú săn mồi lỗ mãng, cậu co một chân lên gối gót lên cành cây, đổ nghiêng người về phía trước chuẩn bị cho một màn đột kích chớp nhoáng. Con mồi thậm chí sẽ không kịp cảm nhận cái chết ập đến, và ấy, cậu nghĩ thầm, liếm môi, cũng là một hành động từ bi.

.

.

.

Đại dịch cúm Tây Ban Nha chính thức bùng phát đầu năm 1918 và nhanh chóng lan rộng khắp đất nước và toàn thế giới. Tuy nhiên phải đến đợt thứ hai vào cuối tháng Tám mức độ tử vong mới thực sự nhảy vọt, với tháng Chín-tháng Mười Hai là thời kì đỉnh điểm. Tiêu đề các tờ báo Chicago năm 1918 phản ánh các chiến lược phòng ngừa như tăng cường thông gió, đeo khẩu trang, tiêm chủng theo trình tự, hạn chế tụ tập quy mô lớn, đóng cửa một số cơ sở doanh nghiệp, giờ giới nghiêm và cách ly. Sau khi các biện pháp ngăn chặn vào tháng Mười cho thấy kết quả, các hoạt động kỷ niệm Ngày Đình chiến tháng Mười Một và thái độ buông lỏng dịp Lễ Tạ Ơn khiến dịch bệnh tái phát. Thế giới lâm vào tình cảnh bấp bênh một thời gian dài, cho tới mùa hè năm 1919, tình hình có vẻ bình yên trở lại.

(Đấy không hẳn là kết thúc. Đợt thứ tư bùng lên vào mùa xuân 1920. Riêng trên đất Mỹ, Thành phố New York, Detroit, Milwaukee, Thành phố Kansas, Minneapolis và St. Louis bị ảnh hưởng đặc biệt nặng.)

Nhưng mặc cho đại dịch, các trường học ở Thành phố New York và Chicago vẫn mở cửa, quan niệm rằng tụi trẻ tốt hơn hết là đến trường, thay vì ngồi nhà hay lang thang ngoài phố, với ít giám sát hơn hẳn. Ngay cả vậy, nhiều phụ huynh vẫn chọn giữ con em mình ở nhà, các lớp học tại thời điểm cuối tháng Mười 1918 vắng mặt tới một nửa.

Carlisle để cậu tùy chọn. Cậu chọn đến trường, sau một thời gian dài đấu tranh nội tâm dữ dội.

Đã hơn ba năm kể từ lần cuối cậu mặc đồng phục. Cho dù, với Edward Masen, thực tế chỉ là ba tháng.

(Cậu nên ngừng mấy cái so sánh này được rồi.)

(Ít nhất cậu không còn nhầm lẫn đại từ nhân xưng cho bản thân mình nữa.)

Đồng phục của học viện Lake Forest bao gồm sơ-mi trắng cổ Đức, quần dài màu be, áo gi-lê đen bằng len sợi nhỏ và giày bệt bằng da đen thoải mái. Học sinh niên khóa khác nhau được phân biệt qua màu cà-vạt; cậu là học sinh năm cuối, thế nên màu đỏ. Màu đỏ thực sự hợp với mái tóc ánh đồng của cậu.

Ký ức về thời phổ thông của cậu thật sự không có gì đặc biệt. Cậu là một học sinh giỏi, đứng trong nhóm đầu lớp, có một hội bạn chơi thân nho nhỏ cùng bốc bỏng ngô thưởng thức kịch nghệ mỗi khi các phe phái khác trong lớp cấu xé nhau. Nói chung, ngoại trừ một vài giải thưởng nho nhỏ khi tham gia các cuộc thi cấp quận và cấp thành phố ra, cậu là một cá nhân trầm lắng, không có gì nổi bật, không có gì đáng nhớ.

Edward Masen cũng là một học sinh giỏi, thuộc thành phần hướng nội hơn và không có thói quen lo chuyện bao đồng, tuy nhiên điểm tương đồng giữa hai bản thể chỉ dừng lại ở đấy.

Sự khác biệt đáng chú ý nhất—và quan trọng nhất—là ngoại hình. Khác biệt giới tính là một chuyện, cơ mà không phải ngày nào bạn cũng thức dậy, nhìn vào gương và có một gương mặt tuyệt sắc giai nhân trông lại. Edward cao, dáng dong dỏng có thể có phần hơi quá gầy và những đường nét của cậu có thể hơi mảnh mai tinh tế so với tiêu chuẩn "nam tính", tuy nhiên mọi thứ hài hòa cân đối và cậu là kiểu càng nhìn càng thấy đẹp, càng hút hồn. Vẻ đẹp thánh thiện băng lãnh như thế này cũng có sức mê hoặc của nó. Cậu có thể kiếm bộn tiền chỉ với cái mặt này.

Không phải cậu cần lo nghĩ quá nhiều về chuyện tiền nong lúc này. Edward Cha là một luật sư thành đạt, ông và vợ qua đời tức cậu con trai duy nhất của họ mặc định là người thừa kế cho cái gia sản kếch xù ông tích lũy được suốt bao năm qua. Dinh thự nhà Masen là một thứ khổng lồ nguy nga mà cậu vẫn thường thấy trên mấy thước phim cũ, và trong cuộc gặp với luật sư hôm bữa, cảm ơn vẻ khắc kỷ đã ngấm sâu vào DNA của Edward Masen nên mắt cậu đã không lòi khỏi tròng khi nhận ra có bao nhiêu con số không trong bản kiểm kê tổng giá trị tài sản của nhà Masen—tất cả, thuộc về cậu, sẽ được bàn giao tận tay cho cậu một khi cậu đủ tuổi.

Tổng kết lại, Edward Masen là một nam thiếu niên đẹp mã, con nhà trí thức gia giáo có điều kiện, thành tích học tập luôn luôn đứng đầu khối, lại còn chơi dương cầm cực siêu.

Mọi người chắc hẳn cũng đã đoán được thành quả đến từ phương trình ấy là gì.

Tay chỉnh lại cà-vạt sao cho nó vừa đủ lỏng để không siết chặt khí quản mà vẫn trông nghiêm chỉnh không vi phạm nội quy (cậu biết cậu đang làm quá vấn đề lên, bởi ma cà rồng không thở, thế nên không thể chết vì thiếu khí được, nhưng chiều cậu chút, được chứ), cậu chắt lưỡi, cảm thấy đời sao quá đỗi bất công, rằng bà mụ nặn ra những củ khoai tây nhưng cũng tạo nên những cực phẩm như thế này.

Nó cũng đồng nghĩa với việc cậu phải cố gắng gấp bội để giữ gìn hình tượng hoàn mỹ của Edward Masen.

(Thật sự, cậu nên ngừng việc này lại.)

Khi Carlisle đưa cậu đến cổng và nói rằng cậu vẫn còn đường lui nếu muốn, cậu xém nữa đã đồng ý.

Chưa đến mười giây trong khuôn viên và cậu ước gì cậu đã làm vậy. Mặc kệ tốt nghiệp, mặc kệ con đường tiến thủ, mặc kệ giao tiếp xã hội, cậu ước gì cậu có thể cuộn mình trong chăn trên giường ở nhà, nghiền ngẫm nốt cuốn Tâm lý của Vô thức của Carl Jung, ấm áp và dễ chịu.

Nói cách khác—không cần phải đối mặt với mấy thứ phiền phức gọi là đời học sinh cấp ba này.

Sự tái xuất của quý tử Masen, thuộc những ca nhiễm nặng nhất của dịch bệnh tại Chicago và thoát chết trong gang tấc một cách diệu kì, là một bất ngờ tuyệt vời cho Lake Forest, dựa vào những tiếng xì xầm xuýt xoa theo sát gót cậu—giờ cậu có thể nghe rõ mồn một từng từ họ nói, nguyền rủa khả năng siêu thính. Bộ mấy con người này không có việc gì khá hơn để làm hay sao? Bộ họ không hiểu rằng bàn tán về một người trong khi người ta vẫn còn trong tầm tai nghe sờ sờ ra đấy là cực kỳ bất lịch sự à?

Chưa bao giờ cậu thấy nhớ công nghệ thời hiện đại, nhớ điện thoại di động, máy nghe nhạc và tai nghe hơn lúc này. Tất nhiên, với cái thứ năng lực phiền nhiễu mà cậu không thể vô hiệu hóa được nọ, chốn nào cậu bước vào cũng sẽ là một căn phòng nơi có hàng chục hàng trăm cái miệng lải nhải cùng một lúc, nhưng ít nhất chúng có thể át được âm thanh thật sự.

Đã từng là một thiếu nữ mới lớn, cơ mà cậu chưa bao giờ thấy cái kiểu cười khúc khích giả thẹn thùng đầy mời gọi của đám thiếu nữ mới lớn có thể gây đau đầu đến muốn phát rồ phát dại ngay tại chỗ như lúc này.

(Có thể bởi cô—cậu—cô—mẹ nó, sao cũng được—cũng chẳng phải kiểu thiếu nữ mới lớn thường thấy cho lắm.)

Ồ, là Edward kìa.

Trông cậu ấy gầy xanh hơn hẳn.

Nghe bảo cậu ấy bị cúm nặng lắm, gần chết. Chậc chậc, đáng ra cậu ấy nên ở nhà nghỉ ngơi dưỡng sức chứ.

Học sinh gương mẫu mà.

Thật may mắn. Sẽ uổng lắm nếu một con người tài sắc vẹn toàn như vậy chết yểu.

Nói sao thì nói, cậu ấy vẫn đẹp trai như hồi nào.

Là do tớ, nhưng sao tớ có cảm giác cậu ấy trông càng quyến rũ hơn trước thế?

Ý thức về sự hiện diện của bản thân còn rõ rệt hơn, cậu kéo chiếc măng-tô quấn kỹ thân mình và mũ trùm kín mặt hơn. Là một thực thể với bản năng săn mồi luôn thường trực, như một chỗ ngứa gãi hoài không đỡ hay một cơn đói ăn bao nhiêu cũng không hết, trở thành tâm điểm của những ánh mắt đầy dục vọng như vậy khiến cậu sởn da gà.

Ai đó giết cậu đi.

(Ma cà rồng chỉ có thể bị giết bằng cách chặt đầu hoặc thiêu sống.)

"Edward. Tớ không biết là cậu đã trở lại."

Cậu chớp mắt lia lịa, ngó trân trối kẻ vừa ngáng đường cậu một chốc. "Theodore." Ký ức của Edward Masen đẩy nhẹ một cái tên khỏi miệng cậu như vậy; và không như sự khó chịu phiền hà cậu dành cho đa số, nó nghe có gì đấy thân thuộc, và nhẹ nhõm.

Vẻ ngoài lạnh lùng kiêu hãnh băng hàn ngàn năm tức không có mấy ai đủ gan tiếp cận Edward Masen, chứ chẳng nói gì đến chuyện chai mặt bám dính với cậu đủ lâu để có được một thứ gì đấy gần gần một mối quan hệ bằng hữu. Theodore Leveson là một trường hợp cá biệt. Edward Masen và Theodore Leveson luôn tranh giành nhau hạng nhất—với phần thắng nghiêng rất mạnh về phía Edward—nên có thể lúc đầu hắn tiếp cận cậu với sự hậm hực cay đắng của một kẻ thường xuyên về nhì, nhưng dần dà, hai thằng gây dựng nên một tình bạn quái đản bất đắc dĩ, với sự chai mặt của Theodore và sự thờ ở của Edward coi như dung túng cho những tràng lảm nhảm liên hồi của hắn.

Theodore vẫn đang nói. "Trông cậu vẫn xanh xao nhợt nhạt lắm." Cái bặm môi đầy quan ngại của hắn đẩy cặp má phúng phính trông tròn trịa hơn nữa, một ngón tay mập mạp đưa lên đẩy cặp kính cận ngay ngắn lại trên sống mũi. Vị trí mới đúng góc chiếu ánh sáng khiến mắt kính hắn lóa lên, đôi mắt trong veo như rượu rót ra từ chai bourbon lâu năm nhất trong bộ sưu tập của cha cậu đảo mấy lượt từ đầu tới chân cậu đầy đánh giá. "Cậu có chắc là cậu hoàn toàn bình phục rồi không đấy?"

Cậu gật đầu một cái chắc nịch. "Chắc."

Một bên chân mày nhướng lên, hắn trông không có vẻ gì là tin tưởng với nhận định của cậu hết. Sự dữ dội chăm chú trong cái nhìn của hắn vẫn chưa hề giảm bớt khi hắn chỉ ra, "Thế thì cái áo khoác dài với mũ xùm xụp này là sao vậy?"

Cậu chắt lưỡi một cái đầy ngao ngán. "Được rồi, tớ vẫn còn hơi nhạy cảm, tuy nhiên không có gì đáng lo ngại cả. Tớ có cả giấy thẩm định của bác sĩ đây, muốn xem không?" cậu lúc lắc cái cặp sách.

Theodore vẫn chỉ tiếp tục ngó cậu chòng chọc. Cậu muốn thở dài. Hắn đúng là một tên ương ngạnh. Nhưng một kẻ ương ngạnh tới vậy mới chịu đựng được Edward Masen suốt ba năm ròng. Cả Edward lẫn Theodore đều thuộc thể loại đứng đắn nghiêm chỉnh, không bộc lộ quá nhiều tình cảm hay sự quan tâm, thế nên việc Theodore đang trực tiếp thăm hỏi như thế này cũng có khiến cậu bất ngờ. (Và ít nhiều cảm kích, mặc dù có chết Edward Masen cũng không chịu thừa nhận.)

(À phải rồi, Edward Masen thực sự đã chết.)

Đầu hơi nghiêng qua, cánh tay nới lỏng khỏi tư thế bắt chéo trước ngực chút ít, "Tớ sẽ không lăn quay ra giữa tiết học đâu, hứa đấy," cậu thở ra, thổi một lọn tóc hơi quá dài chườm qua mắt sang bên. "Tớ cá tớ vẫn thừa sức đánh bại cậu trên đường chạy đua. Muốn thử ngay chiều nay không?"

Tức thì Theodore chun mũi nhăn nhó liền. "Không, cảm ơn." Cả Edward lẫn Theodore đều không có thể lực tốt nhất và chúng cũng không phải thể loại ưa vận động (ấy là một vòng tròn luẩn quẩn). Nhưng Edward chân dài hơn, lại nhẹ cân hơn Theodore tức cậu vẫn có lợi thế tương đối. Cậu cố kìm cái nhếch mép đểu giả xuống. Edward Masen là một thiếu niên lầm lũi u ám, cậu tin cậu đã hơi phá nhân cách với câu nói mỉa mai táo tợn vừa rồi. "Có lẽ hơi quá trễ, cơ mà xin chia buồn về chuyện phụ huynh nhà cậu."

"Tớ ổn. Cảm ơn vì đã tham dự tang lễ của họ." Khá hơn là cậu, thằng con trai duy nhất mà vắng mặt; cho dù quằn quại hấp hối là một lý do chính đáng. Cậu đưa tay lên kéo mũ xuống thấp hơn nữa. "Đi nào. Tớ cần qua giáo vụ trước khi lên lớp, nếu cậu muốn đi cùng. Trong lúc đấy cậu có thể tường thuật lại về những thứ tớ đã bỏ lỡ."

Cậu cố chỉnh lại độ dài sải chân để Theodore có thể bắt kịp, tập trung vào giọng nói lanh lảnh của Theodore nhằm lấn át những tiếng ồn phiền nhiễu xung quanh. Sau ba tháng thích nghi với những chuyển biến mới, màn độc thoại tràng giang đại hải của hắn sát bên khiến mọi thứ gần như trở về bình thường.

.

.

.

Chướng ngại vật lớn nhất, theo ý kiến cá nhân của cậu, của việc học phổ thông ở một nền văn hóa khác hẳn, trong một thời đại khác hẳn, ấy là mảng văn học và lịch sử.

Cậu vẫn luôn có ít nhiều hứng thú với lịch sử phương Tây, đặc biệt là hai cuộc Thế chiến—chỉ là một cuộc Thế chiến vẫn còn đang tiếp diễn, và Chiến tranh Thế giới Thứ Hai vẫn là một thứ thuộc về tương lai (cho dù là một tương lai thảm thương xám xịt mà cậu không trông ngóng chút nào). Cậu biết về cuộc cách mạng của mười ba thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ dẫn đến sự thành lập đất nước mới mang tên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, biết về cuộc Nội chiến giữa Chính phủ và các tiểu bang phía Nam những năm 1860; nhưng nếu có thứ gì cậu không muốn biết nhiều hơn những gì đã sẵn biết, ấy là hệ thống đa đảng và thói quen trâu bò đánh nhau người chăn nuôi gặt lợi của người Mỹ. Chủ nghĩa tư bản là một thứ uy quyền và đáng sợ. Có thể là vì cậu chỉ muốn có một cuộc đời bình an mà phong phú thỏa mãn của một học giả và càng tránh xa được đấu đá và xâu xé quyền lực càng tốt, rằng ngay cả cái đất nước này có sụp đổ, cậu, là một sinh vật bất tử, sẽ tiếp tục sống.

(Cậu biết, cậu biết, đấy là một suy nghĩ ngớ ngẩn và khiến cậu trông như một kẻ ngơ ngác vô học. Ý cậu muốn nói là, cậu không có ý định tham gia chính trường hay thay đổi lịch sử, cậu không rảnh rang, cũng không nhân từ tới mức đấy. Nước Mỹ cứ làm việc của nước Mỹ, cậu sẽ lo việc của thân cậu, vậy là đủ công bằng.)

Nếu cậu nghĩ cậu đã đủ đau đầu với lịch sử và các thể loại chủ nghĩa xã hội, văn học còn chứng tỏ là một đợt sóng thần thông tin khổng lồ gấp bội, đổ ụp xuống cậu và nhấn chìm cậu dưới trăm vạn khối nước. Lớn lên bị nhồi nhét với thơ thất ngôn tứ tuyệt, thơ lục bát, Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm Khúc, Nam Cao và Kim Lân và Xuân Diệu, thỉnh thoảng lắm mới động tới những tác phẩm ngoại văn như Romeo và Juliet hay Những người khốn khổ, thế nên bảo cậu gần như mù tịt với nền văn chương Mỹ đầu thế kỷ XX là một hiện thực không thể tránh khỏi mà đầy cay đắng. Cậu có đọc Mark Twain, H.P.Lovecraft, Arthur Conan Doyle hay Edgar Allan Poe trước đây, thế nên nếu có bắt gặp họ cậu đoán cũng không có vấn đề gì cho lắm; nhưng chủ đề hiện tại của họ là Nét chữ màu đỏ của Nathaniel Hawthorne, và cậu buộc phải dành toàn bộ thời gian nghỉ quý giá giữa các tiết học để đọc thần tốc nó, thay vì tiếp tục chiêm nghiệm Nghiên cứu về Chứng Cuồng loạn của Freud.

Nhận thấy sự chật vật của cậu, lúc tiết Ngữ Văn kết thúc và học sinh đổ dần ra khỏi phòng học, thầy Thorpe, người cũng đồng thời là giáo viên phụ trách khối Mười Hai, giữ cậu lại hỏi han. "Em theo kịp bài giảng chứ, Edward?"

Sự lo lắng của ông giáo không phải là không có căn cứ. Môn học giỏi nhất của Edward Masen là Ngữ Văn, thấy cậu tự dưng gặp khó khăn như vậy thật không bình thường chút nào.

Cậu nhét nốt cuốn Nét chữ màu đỏ vào cặp sách và chỉnh lại dây đeo, khẽ thở ra. "Em chậm gần ba tháng so với các bạn khác. Sớm muộn gì em cũng sẽ theo kịp thôi, thầy chớ lo."

Thorpe gật đầu hài lòng. "Thế thì tốt. Em là một cậu bé xán lạn." Ông mỉm cười. "Ta có nghe là em làm rất tốt ở lớp của thầy Hargrave và thầy Westbrook."

Một cách đáng kinh ngạc ấy chứ. Edward là một học sinh toàn diện, tuy nhiên cậu bé bỗng dưng đặc biệt xuất chúng, đến mức lão già Hargrave khó tính cũng phải tấm tắc.

Cậu chỉ cong môi cười nhạt. Có kiến thức đi trước hẳn một thế kỷ tức các môn khoa học tự nhiên thành ra dễ như ăn bánh, đặc biệt là khi bạn là người ngành kỹ thuật. Einstein mới trình bày thuyết tương đối vào năm 1915, mô hình nguyên tử của Bohr-Sommerfeld chỉ mới được đề xuất năm 1916, và đến năm 1924 định nghĩa "vật lý lượng tử" mới xuất hiện trong bài viết của Max Born. Khảo sát năm 1908 chỉ ra phần lớn các trường trung học trên đất Mỹ cung cấp ít nhất một năm đại số và hình học, một nửa trong số đấy thêm một học kỳ nữa mảng đại số, và ít hơn một phần năm có chương trình toán học cao cấp hơn.

Thế nên, khi giáo viên Toán—thầy Hargrave, lại thêm một cái tên nữa cậu cần ghi nhớ—bắt quả tang cậu không nghe giảng mà lơ đễnh liệt kê tất cả các công thức đạo hàm và tích phân vào vở, là một hình phạt cho sự thiếu tập trung, ông đã bắt cậu đứng tại chỗ giải nghiệm phương trình bậc hai trên bảng, và thử tưởng tượng sự mắt tròn mắt dẹt của thần dân đại chúng khi cậu đọc đúng kết quả chỉ trong một giây, sau đấy lại vanh vách trả lời chính xác một mớ những câu hỏi vặn vẹo khác ổng ném về phía cậu.

(Với một phương trình bậc hai có hệ số đầu tiên là 1, chưa kể lại còn là một thứ cậu đã bắt gặp không biết bao nhiêu lần từ cấp hai, lên cấp ba, qua Studienkolleg và sau này len lỏi vào lớp Analysis und lineare Algebra I trên đại học, những con số cứ thế bật ra, như một dạng phản ứng có điều kiện.)

"Giám hộ hiện tại của em là một bác sĩ," cậu giải thích, với vẻ hồn nhiên thảo mai mà chắc nhìn lại chính cậu cũng phải lè lưỡi kinh tởm. "Ông ấy có rất nhiều tài liệu khoa học, và ông để em đọc chúng trong lúc hồi phục."

À, ra là vậy. "Cứ tiếp tục phong độ ấy, Edward." Thorpe vỗ vai cậu mấy cái. "Nếu có gì khó khăn, cửa văn phòng của ta luôn rộng mở chào đón."

"Cảm ơn thầy," cậu hơi cúi người trước khi nhận ra kiểu bày tỏ hàm ơn và tôn trọng ấy là thứ của người Châu Á, không phải người Mỹ. Cơ mà sự đã rồi. Không để chút lầm lỡ đó ảnh hưởng đến mình, "Em xin phép," cậu tặng ông giáo thêm một nụ cười trấn an rồi mới rời đi.

.

.

.

Một giáo viên quản lý hàng chục học sinh có thể không chú tâm quá nhiều nếu như một học trò có hành xử chút kỳ lạ—như bất ngờ giỏi ở một môn trước đấy nó không có mấy hứng thú, và bất ngờ ngắc ngoải ở một môn trước đấy là sở trường của nó—thì thằng bạn thân nhất của nó sẽ để ý.

Theodore có ánh mắt nhồn nhột này khi hắn nhóp nhép thứ salad khoai tây sốt trứng gà chỉ cần nhìn đã thấy ngấy tận cổ và cậu đương cặm cụi với bài phê bình của Herman Melville dành cho Hawthorne, bữa trưa hầu như không đụng đến. Không phải như cậu cần ăn để tồn tại.

Cậu vừa định đầu hàng và bảo Theodore khạc ra bất cứ thứ gì hắn muốn nói thì hắn đã lên tiếng, không cần cậu phải mớm lời, "Trong tất cả, tớ không nghĩ Nét chữ màu đỏ sẽ là thứ làm khó cậu."

Cậu lật sang trang kế tiếp. "Vậy à."

"Trường phái văn chương lãng mạn vốn dĩ là sở trường của cậu—mấy thứ nội tâm đầy triết lý và biểu tượng, gần như siêu thực đó," hắn chỉ ra. Đồng thời là thứ tớ khó mà thấu cảm tường tận được, không thể nào sâu sắc được như cậukể ra thì nó cũng là một trong những thứ khiến cậu đặc biệt.

"Chúng thú vị," cậu gật đầu một cái thừa nhận.

"Và đỉnh cao là Hawthorne, và đỉnh cao của Hawthorne là Nét chữ màu đỏ." Xúc salad khoai tây bỏ miệng, hắn bắt đầu khua khoắng cái thìa. "Tớ khá chắc cậu đã đọc đi đọc lại cuốn ấy nhiều đến mức thuộc lòng từng chữ một được rồi." Một điều dễ đoán—cậu không thể không bỏ qua được tình trạng cũ sờn của bản Nét chữ màu đỏ Edward Masen sở hữu ra sao. "Điều đáng chú ý, ấy là những kẻ với suy đoán táo bạo nhất thường tuân theo sự yên tịnh hoàn hảo nhất trước những điều lệ xã hội bên ngoài. Chỉ những chiêm nghiệm thôi cũng là quá đủ, chẳng cần thiết phải đắm mình vào phần máu thịt của hành động—đấy là trích dẫn văn học phù hợp nhất với con người cậu, có lần cậu bảo vậy."

Cậu khẽ ngâm nga. "Tớ không nghĩ cậu lại nhớ một thứ vặt vãnh như thế." Suốt mấy hôm vừa rồi Theodore ngắm nghía cậu quá chăm chú, cậu không nghĩ hắn tin viện cớ phẫu thuật cho sự thay đổi màu mắt của cậu (cậu cũng không mong đợi gì, đấy là một lời chống chế tệ hại), nhưng cậu cũng mừng là hắn không đào bới sâu thêm—hay bật ra thành lời bất kỳ thắc mắc nào trong cái bể bòng bong của hắn. "Bộ cậu có ý kiến khác sao?" cậu thử thả mồi

Kiểu câu hỏi đấy là gì vậy? "Nó vẫn không sai," hắn nhận định sau một hồi cân nhắc. Nhưng cũng không đúng hoàn toàn nữa. Cơ mà có gì là mới? "Cậu rõ ràng là có rất nhiều thứ trong đầu, nhưng cậu chưa bao giờ kể nhiều về chúng." Tớ luôn luôn là kẻ dẫn dắt cuộc đối thoại—nhiều lúc thậm chí nói trắng ra là tớ độc thoại. Và—

"Cậu thấy bất công?" cậu kết thúc nốt mạch suy nghĩ của thằng bạn, rất điềm nhiên.

Theodore bị khóa cứng họng ba giây, trước khi thở mạnh một cái qua mũi, không quên một cái lườm thâm sì. Mình luôn luôn quên rằng tên khốn này đọc vị người khác rất giỏi. Cơ mà không phải như cậu ta bắt mình nói. Urgh. Hắn nuốt ực thức ăn trôi xuống thực quản.

"Thật sự, có những lúc tớ không hiểu nổi cậu," hắn càu nhàu, đâm dĩa xuyên qua đĩa mì ống bò viên với nhiều lực hơn cần thiết, tiếng canh của kim loại va chạm đĩa sứ như có ai đánh kẻng ngay sát màng nhĩ cậu và cậu cố kìm cái nhăn mày xuống.

"Đừng trút giận lên đồ ăn," cậu nhắc một câu nhẹ bâng, và không ngoài dự đoán, hắn quắc mắt thêm cái nữa. Tại sao mình lại làm bạn với một thằng như thế này? là ý nghĩ đầy hậm hực của hắn khi thồn một dĩa mì lớn vào miệng, hai má hắn căng tròn lên trông như chuột sóc. Cậu thở dài. "Cậu đâu thể hy vọng thực sự thấu hiểu người khác được." Một nhịp ngừng. "... Đừng bảo tớ là cậu dỗi vì những gì xảy ra trong lớp thầy Hargrave và thầy Westbrook đấy."

Hàm dưới Theodore như đã đánh rớt đâu đấy ngang mắt cá chân. Tên khốn—cho dù mình phải thừa nhận là đề xuất của cậu ta khi đó thật sự phi thường. Ai mà nghĩ đến chuyện sử dụng chính kết quả của thao tác liền trước một cách oái oăm như vậy chứ—argh, lạc đề! "Tớ không quan tâm nếu như bị ốm thập tử nhất sinh khiến cậu bỗng dưng trở thành thiên tài toán học và khoa học." Được rồi, có lẽ là một chút, nhưng đó không phải là trọng tâm. "Tớ thấy là cậu ốm dậy thành ra táo tợn và cợt nhả hơn đấy."

Cậu lấy dĩa khều một viên thịt trong bát bò hầm. Thức ăn loài người trên vị giác ma cà rồng là một thứ nhạt nhẽo vô vị. Hàm chuyển động uể oải, mắt nhìn thẳng tỉnh quèo không chớp lấy một cái. "Cậu vẫn hay bảo tớ u ám lầm lũi quá còn gì."

Phải, nhưng nếu như cậu quyết định thay đổi theo hướng này, tớ nghĩ tớ bắt đầu thấy hối hận rồi. "Cậu biết thừa ý tớ là gì mà," hắn nheo mắt, chỉ thẳng cái dĩa vào mặt cậu. Tông giọng nghiêm nghị và ánh nhìn dừng-ngay-thái-độ-ấy-đi của hắn thật sự không ăn rơ gì hết với cái vẻ bụ bẫm đáng yêu.

Nhìn kỹ lại, ngoại hình Theodore Leveson không phải là tệ. Chính ra hắn rất có nét, tóc đen nhánh trông mềm như tơ và mắt bồ câu tròn xoe, dư sức trở thành nam thần mới của Lake Forest phải chăng hắn quyết định giảm dăm chục pounds.

"Biết sao không—mặc xác nó, quên sạch tất cả những gì tớ vừa nói đi." Hắn xiên dĩa qua miếng thịt viên. "Có thể bất cứ thứ thuốc thang nào họ cho cậu uống có làm đầu óc cậu hâm hâm dở dở một chút, nhưng điều quan trọng nhất là cậu khỏi bệnh, và sống tiếp được," hắn kết luận.

Vẻ dằn dỗi trẻ con của hắn làm cậu nhớ đến Hannah. Nhỏ là một cô gái trẻ tươi tắn và phóng khoáng, bộc lộ cảm xúc và quan tâm một cách tự nhiên như việc hít thở, một thái cực tương phản với cái cứng nhắc và tỉ mỉ chau chuốt của Theodore. Có thể là sự khác biệt giữa các thời đại. Tuy nhiên cả hai đều có nhiều điều muốn nói, muốn chia sẻ và có trái tim bao la, cho dù một người chọn đeo nó ở cổ tay áo và kẻ còn lại bao bọc nó trong một mớ diễn đạt vòng vo hoa mỹ không cần thiết.

Cậu muốn bật cười, cơ mà nó sẽ để lộ cặp răng nanh sắc nhọn hơn người thường, thế nên cậu tin một cái kéo môi mềm mại cân xứng là đủ.

.

.

.

Kẻ săn mồi loạng choạng đứng dậy sau khi đã xử lý xong bữa ăn của mình. Đúng là người nông cạn máu cũng nhạt nhẽo.

Gary dặn dò nó phải cận thận tối đa, và nếu khát không chịu được nữa thì liên lạc ngay với anh, nhưng tình thế thực eo hẹp. Cảnh sát và quân lính đi tuần khắp chốn, chưa kể thứ dịch bệnh truyền nhiễm vất vưởng khiến con người hạn chế ra ngoài. Một bận khát cùng khát kiệt nó đã thử uống máu một tên xấu số hấp hối và buộc phải nhổ toẹt ra. Bất kể thứ gì khiến con người chết như ngả rạ, nó cũng khiến máu chúng có vị hôi hám tởm lợm kinh khủng. Tất nhiên, thứ hàng hạ phẩm lần này không đời nào sánh nổi với những gì Gary có thể cung cấp cho nó, nhưng lúc cấp bách, hàng vô vị hơn hàng ôi thiu hoặc không có gì hết.

Nó đoán, nếu có gì có lợi ở thời điểm hiện tại, thì nếu số người chết có tăng lên bất ngờ quần chúng cũng chẳng ngạc nhiên mấy nữa.

Nó lấy mu bàn tay quẹt miệng. Chân gạt cái xác không hồn sang bên rồi biến mất, để lại chàng trai trẻ bất động đổ gục giữa những túi rác, đầu ngửa trong một tư thế kỳ cục, đôi mắt trống rỗng trong suốt như bầu trời y đương trông lên.

.

.

.

note

Học viện Lake Forest (Lake Forest Academy, a.k.a LFA) là một trường dự bị đại học tư thục từ lớp 9 đến lớp 12, cách Chicago chừng 30 dặm. LFA được đánh giá là một trong những trường dự bị đại học tốt nhất toàn quốc, nhiều học sinh tốt nghiệp được nhận vào Ivy League cũng như các trường đại học danh giá khác.

Đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 (The Spanish flu, or 1918 influenza pandemic) là đại dịch cúm chết người diện rộng đầu tiên gây ra bởi virus cúm A H1N1. Kéo dài từ tháng Hai 1918 đến tháng Tư 1920, số người nhiễm cúm tổng cộng lên tới 500 triệu—chừng một phần ba dân số thế giới tại thời điểm đó—qua bốn đợt liên tiếp, số người chết ước tính trong khoảng 20 đến 50 triệu người. Mặc cho tình hình dịch bệnh, các trường học ở New York, Chicago và những địa điểm khác ở Hoa Kỳ vẫn mở cửa, như một biện pháp kiểm soát.

Studienkolleg là một dạng trường dự bị đại học dành cho học viên ngoại quốc ở Đức. Một khóa học kéo dài từ 1-2 kỳ, kết thúc bằng một bài Feststellungsprüfung (FSP)một dạng Hochschulzugangsberechtigung (HZB, ngang với giấy tốt nghiệp phổ thông / kết quả thi đại học ở Việt Nam).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com