Van de max 2
VẤN ĐỀ 2
QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT. PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác
Việc khám phá ra bản chất và cấu trúc tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước hết là thế giới của những vật hữu hình là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay cách khác giải quyết vấn đề này. Và bởi vậy trong triết học phạm trù vật chất xuất hiện.
Phạm trù là gì? Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định gọi là phạm trù.
* Khái quát quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan. Cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự kết hợp” những cảm giác của con người.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất:
+ Talét (Thales): nước
+ Anaximen (Anaximenus): Không khí
+ Hê-ra-clít (Heraclitus): Lửa
+ Anaximanđrơ cho rằng, thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định được về mặt chất và vô tận về mặt lượng.
+ Lơ-xíp và Đê-mô-crít: Nguyên tử. Các ông coi đây phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, truyệt đối không thâm nhập được, không quan sát được và nói chung không cảm giác được, chỉ có thể nhận biết nhờ tư duy. Đê-mô-crít hình dung nguyên tử có nhiều loại, sự kết hợp hoặc tách rời giữa chúng theo các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới.
+ Triết học Ấn Độ: Đất, nước, lửa, gió
+ Thuyết Âm dương - Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối lượng.
Tóm lại, các nhà triết học trước Mác đại đều không trả lời được câu hỏi, bản chất của thế giới là gì? Mà họ lại đi vào nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất. Do vậy, họ đã khẳng định, vật chất là cái bất biến, cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ trong lịch sử triết học.
2. Định nghĩa vật chất
* Bối cảnh lịch sử khi V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học như:
+ Năm 1895 W.Conrad Roentgen (1845 – 1923) phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng từ 0,01 đến 100.10-8 cm
+ Năm 1896 Antoine Henri Becquerel (1852-1908) phát hiện ra hiện tượng phóng xạ trong chất uranium và sau đó Marie Curie (1867-1934) tiếp tục phát triển. Với phát hiện này, người ta hiểu ra rằng quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác.
+ Năm 1897 Sir Joseph Thomson (1856 – 1940) phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh.
+ Năm 1901 Kaufman, nhà bác học người Đức đãchứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà nó sẽ thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
+ Năm 1905 Albert Eisntein (1879-1955) đã phát minh ra thuyết tương đối hẹp (E=mc2) là nền tảng cho sự phát triển năng lượng nguyên tử và là một trong những cơ sở khoa học của các lý thuyết hiện đại về vũ trụ.
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý: vật chất tiêu tan mất. Các nhà triết học duy tâm chủ quan đã lợi dụng quan điểm này để tấn công, phủ nhận vật chất và chủ nghĩa duy vật. Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.
* Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất; nội dung và ý nghĩa.
* Định nghĩa
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX về mặt triết học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác”.
* Những nội dung cơ bản
- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan....
Phạm trù vật chất là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức. Do đó:
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ triết học chứ không phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
+ Chúng ta không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt nhận thức luận, theo V.I.Lênin, chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong mối quan hệ đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức.
Khi định nghĩa phạm trù vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, V.I.Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến nhấtcó ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó chính là “thực tại khách quan”.
Thực tại khách quan đó chính là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất – cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Phạm trù vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin phải được hiểu là bao gồm tất cả những gì tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức.
Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Còn vật chất với tư cách là một phạm trù khoa học cụ thể, đó là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể qui vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà triết học trước Mác.
- “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Điều này khẳng định với chúng ta rằng, vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau, vật chất là cái đóng vai trò quyết định đến nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi vì, thực tại khác quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con người chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Điều này đã khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin tiếp tục giải quyết được mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Điều này chứng minh rằng:
+ Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện dưới các dạng sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, về nguyên tắc không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng vật chất chưa thể nhận thức được mà thôi.
+ Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới bên ngoài, khi sự vật tác động vào giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương pháp nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
* Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác, chống lại chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất, định hướng và cổ vũ họ ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu vào khám phá những thuộc tính mới của thế giới vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
- Định nghĩa còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
*Vận động và đứng im
- Khái niệm vận động: Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến hóa nói chung”. (Tập 20, tr742). “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
“Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất.
“Vật chất không có vận động, cũng như vận động không có vật chất, đều là điều không thể hình dung nổi”
+ Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
Ví dụ: Thuộc tính của kim loại là: dẫn điện, dẫn nhiệt, có khả năng dát mỏng, kéo thành sợi... Nhưng những thuộc tính này chỉ được biểu hiện thông qua sự vận động của sự vật đó là: Thuộc tính dẫn điện của kim loại chỉ được bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong sự chênh lệch về điện áp. Thuộc tính dẫ nhiệt của sự vật chỉ được bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong sự chênh lệch về nhiệt độ.
Tiền chỉ đẻ ra tiền khi chúng ta đưa nó vào trong quá trình sản xuất. (Bản thân tiền không tự đẻ ra tiền, ngay cả khi chúng ta đưa nó vào quá trình lưu thông).
“Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả” (Ph.Ăngghen)
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh ra và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa”
* Các hình thức vận động của vật chất
Theo Ph.Ăngghen, có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa.
- Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình thái kinh tế -xã hội từ thấp đến cao.
* Vận động và đứng im:
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
- Đứng im chỉ xảy trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ.
- Đứng im chỉ xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới).
- Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
* Sự khác nhau giữa quan niệm duy vật biện chứng và quan niệm duy vật siêu hình về vận động.
Quan niệm duy vật biện chứng về vận động
Quan niệm duy vật siêu hình về vận động
- Vận động gắn chặt và phụ thuộc vào vật chất.
- Vận động là tự thân vận động do các mâu thuẫn bên trong sự vật gây ra
- Đứng im là trường hợp đặt biệt của vận động có tính chất tương đối và tạm thời.
- Vận động không chỉ bảo toàn về lượng mà còn bảo toàn về chất.
- Các hình thức của vận động khác nhau về chất, đồng thời có quan hệ biện chứng với nhau. Không thể qui hình thức vận động cao về thức vận động thấp.
- Vận động có thể tách rời và không phụ thuộc vào vật chất.
- Vận động do nguyên nhân bên ngoài gây ra.
- Vận động và đứng im là những mặt đối lập hoàn toàn tách biệt.
- Vận động chỉ bảo toàn về lượng.
- Không thấy sự khác nhau giữa các hình thức vận động khác nhau.
- Qui vận động cao về vận động thấp duy nhất là vận động cơ giới.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com