việt bắc
Đề bài: Bàn về thơ Tố Hữu có ý kiến cho rằng: "Nghệ thuật trong thơ Tố Hữu có tính dân tộc đậm đà". Lại có ý kiến cho rằng: Thơ Tố Hữu mang màu sắc trữ tình - chính trị. Hãy phân tích đoạn thơ dưới đây để làm sáng tỏ ý kiến trên:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
( Trích "Việt Bắc" - Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 109 )
Bài làm:
"Mỗi công dân có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn"
(Lê Đạt)
Nếu một tác phẩm ra đời là kết quả của việc sao chép, rập khuôn sáo rỗng thì sớm muộn sẽ tan biến bởi sự đào thải khắc nghiệt của thời gian. Chỉ những tác phẩm mang dấu ấn cá nhân, có giá trị thực sự mới được lưu truyền mãi mãi. Ví như "Việt Bắc" của Tố Hữu - một áng văn bất hủ về nghĩa tình cách mạng - dẫu nội dung thuộc về quá khứ nhưng vẫn được đón nhận đến ngày hôm nay. Đó là nhờ ngòi bút tài hoa, đặc sắc của Tố Hữu mà bàn về thơ ông, có ý kiến cho rằng:"Nghệ thuật trong thơ Tố Hữu có tính dân tộc đậm đà." Lại có ý kiến cho rằng: "Thơ Tố Hữu mang màu sắc trữ tình - chính trị." Cả hai ý kiến đều nói lên những nét đặc trưng trong phong cách thơ Tố Hữu, được thể hiện qua 2 đoạn thơ trong "Việt Bắc":
"Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
...
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Như một người thư kí trung thành, tận tụy của cách mạng, Tố Hữu luôn hướng ngòi bút của mình bắt kịp với mọi khoảnh khắc của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bởi thế, thật không ngoa khi ông được mệnh danh là "lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam", luôn hiên ngang giữa bầu trời. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình - chính trị đậm nét. Ngoài ra tính dân tộc đậm đà cũng là nét đặc sắc trong ngòi bút Tố Hữu. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 10/1954 các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử trọng đại ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ "Việt Bắc" - khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
Hai ý kiến phía trên đã nêu lên hai nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị, đó là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn rất đậm nét trong thơ ông. Thơ trữ tình - chính trị không phải đến Tố Hữu mới xuất hiện. Trên thế giới, trước Tố Hữu đã có những nhà thơ trữ tình - chính trị nổi tiếng. Ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Trần Tuấn Khải... và phong trào thơ ca Xô viết - Nghệ Tĩnh là những sáng tác mang cảm hứng chính trị, tuy vẫn nằm trong thi pháp cổ điển nhưng đã có những đổi mới nhất định. Tố Hữu vừa kế thừa truyền thống vừa nâng thơ trữ tình chính trị lên một trình độ nghệ thuật cao hơn. Tố Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một tiếng nói trữ tình với những cảm xúc của một cái tôi hoàn toàn mới mẻ. Trữ tình và chính trị là hai khái niệm khác biệt hoàn toàn nếu không muốn nói là trái ngược. Trữ tình là bộc lộ trực tiếp ý thức, tình cảm, cảm xúc, nghĩa là con người cảm thấy qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan đối với thế giới và nhân sinh. Miêu tả ngoại cảnh chỉ để phục vụ tình cảm trữ tình. Mặt khác, cái tôi trữ tình luôn cảm xúc trước thực tại trên tư cách phổ quát, động chạm tới những vấn đề chung của tồn tại con người (cái chết, tình yêu, nỗi buồn, lẽ sống...). Cho nên, trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi người. Chính trị là những khái niệm khô khan được thể hiện dưới hình thức những câu khẩu hiệu mang tính chất cổ vũ, kêu gọi như: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do...", "Tất cả cho tiền tuyến", "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"... Vấn đề của chính trị là vấn đề của lí tưởng, là gắn với những nhiệm vụ của sản xuất, chiến đấu... Các khái niệm đó tưởng không có gì là thơ cả. Nhưng với Tố Hữu, trước những vấn đề chính trị của đất nước, trái tim nhà thơ xúc cảm thật sự, tâm hồn nhà thơ chan chứa tình cảm và vô cùng nồng nhiệt. Chính vì thế, lí tưởng cách mạng, đời sống cách mạng, những sự kiện chính trị đã trở thành nguồn cảm xúc lớn, được biểu hiện bằng giọng tâm tình ngọt ngào tha thiết từ điệu hồn của người con xứ Huế hay rắn rỏi, dõng dạc mang âm hưởng sử thi hùng tráng. "Tố Hữu đã đưa thơ chính trị đạt đến trình độ rất đỗi trữ tình" (Xuân Diệu).
Về "Việt Bắc", Tố Hữu lấy bối cảnh là một cuộc chia ly giữa người ở lại và người ra đi, giữa nhân dân đồng bào Việt Bắc và các cán bộ cách mạng - mang đậm chất chính trị nhưng lại thổi vào đó cái dư vị nồng nàn tỏa ra từ trái tim, khiến từng câu từng chữ từng dấu chấm lửng thấm đẫm hơi thở và tràn đầy xúc cảm. Lẽ ra cuộc chia tay kia mang tính phổ quát, là một sự kiện chính trị nhưng hóa ra lại gần gũi, thân thương như bao cuộc chia ly bình thường giữa những con người bình thường. Việt Bắc là khúc tình ca cách mạng giữa người ở lại và người ra đi, là tình cảm quân dân gắn bó như máu thịt. Trong cuộc sống này, có khoảnh khắc nào lưu luyến bằng khoảnh khắc chia xa sau 15 năm vẹn nghĩa nồng tình. Dẫu biết rằng xa xôi đến đâu, chỉ cần lưu giữ trong tim mình là đủ, nhưng lại không thể ngăn nổi sự hụt hẫng, bâng khuâng. Cái riêng và cái chung đã hòa vào làm một, vừa thấm đẫm hơi thở, xúc cảm cá nhân, xúc cảm quân dân, vừa nồng đượm tâm lí, nỗi lòng chung của con người. Tố Hữu viết "Việt Bắc", thật tinh tế khi chọn những câu chữ đặt và vần thơ, gửi trọn bao nỗi niềm tâm sự:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Câu thơ Tố Hữu phảng phất chất liệu ca dao, chất liệu dân tộc kết hợp với lối xưng hô "mình-ta" đầy ý nhị. Tiếng lòng của người ở lại đã được gói ghém và thể hiện trọn vẹn ở hai câu thơ. Câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng linh hoạt, rất phù hợp để thể hiện những nỗi niềm sâu kín của người ở lại. Câu thơ có phần lớn là vần bằng, thêm vào đó, từ kết thúc được lựa chọn là từ "ta" mang âm "a", đây là một âm có sức lan tỏa bởi là âm tiết mở, tạo nên sự ngân vang và dư ba cho câu thơ để tình thương mến thương giữa người với người lan tỏa khắp nơi đây, không gian này, trong khoảnh khắc lưu luyến ấy. Câu hỏi khơi dậy kỉ niệm, sợi dây nghĩa tình giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền xuôi. Câu hỏi bỏ ngỏ liệu người đi rồi, với thủ đô sao vàng nắng Ba Đình rồi, có còn nhớ tới tình nghĩa mười lăm năm qua hay không? Giọng khởi đầu đã là giọng yêu thương trìu mến, vấn vương bao nỗi niềm, lưu luyến. Điểm rơi thấp nhất của câu thơ là tiếng "về" gợi cảm giác về khoảng trống, về sự hụt hẫng trong lòng người ở lại. Câu hỏi hương về khoảng thời gian mười lăm năm. Mười lăm năm không phải một khoảng thời gian ngắn, có thể đó là khi những người cán bộ này mười tám đôi mươi đến khi hóa người trưởng thành. Ta đã từng bắt gặp con số này trong kiệt tác "Truyện Kiều":
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Tố Hữu và Nguyễn Du đã gặp nhau ở con số mười lăm năm. Tự bao giờ con số này không còn vô tri vô giác trong tâm thức mỗi con người mà trở thành khoảng thời gian chứa đựng bao niềm vui nỗi buồn, biết bao gian khổ hi sinh, biết bao ân nặng nghĩa tình của đôi bờ miền xuôi miền ngược. Nhà thơ đã rất tinh tế khi chọn cách thêm vào sau mốc thời gian "ấy" để cá nhân hóa, trữ tình hóa, cảm xúc hóa khoảng thời gian này. Theo tâm lí bình thường, người ở lại vẫn thường rất nhạy cảm với các cuộc chia xa, người đi thường háo hức vì được khám phá những điều thú vị ở chân trời mới. Chính vì vậy, cảm xúc bao trùm trong hai câu thơ này là cảm xúc hụt hẫng, nhớ mong. Biết bao nghĩa tình sâu nặng được gói gọn trong hai từ "thiết tha mặn nồng" - thường được dùng khi nói về tình yêu lứa đôi, ở đây lại được Tố Hữu sử dụng để đưa vào giây phút chia li giữa đồng bào miền ngược và cán bộ miền xuôi. Quả tình cảm ấy phải mãnh liệt và gắn bó đến nhường nào! Chưa dừng lại ở đó, người ở lại tiếp tục tỏ bày:
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhớ người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn đường, phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ. "Nhìn cây, nhìn sông" là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa. Còn "nhớ núi, nhớ nguồn" là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc. Điều này có xảy ra hay không phụ thuộc vào sự thủy chung của người ra đi. Câu thơ thể hiện mối tương quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn một chữ "có" trăn trở...
Người ở lại cùng với những khoảng trống và những nỗi trông mong chỉ dám gửi vô định vào những câu hỏi bỏ ngỏ. Người ra đi trả lời, thế nhưng lại bộc bạch tấm lòng tri ân và đồng vọng của mình một cách thật tinh tế:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Đại từ phiếm chỉ "ai" đã vang lên một cách thảng thốt, bồi hồi. Ta có cảm giác như người ra đi đang chìm đắm, miên man trong những dòng cảm xúc, những hoài niệm, kỉ niệm về Việt Bắc rồi bất ngờ sực tỉnh, chợt nhận ra sự thực phũ phàng rằng chỉ vài phút nữa thôi, ta sẽ phải chia xa nhau chưa biết đến bao giờ mới gặp lại. Trong những biến thiên của cuộc đời, con người ta luôn mang trong mình những trạng thái tâm lí phức tạp, bất ngờ. Vừa náo nức, vừa hạnh phúc ngập tràn khi kháng chiến thành công, muốn về với thủ đô thân yêu, đoàn tụ bạn bè, gia đình. Thế nhưng bước chân cũng chững lại chẳng muốn rời đi vì nơi đây - mảnh đất này - những con người kia, mười lăm năm qua đã cùng ta cố gắng, cùng ta chiến đấu, yêu thương và chở che cho ta. Trước những câu hỏi của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời nhưng lại tự khẳng định với lòng mình mối thâm tình với mảnh đất và con người Việt Bắc. Tác giả đã rất tinh tế khi dùng từ "bâng khuâng", "bồn chồn" để diễn tả tâm trạng người đi. Thêm vào đó, cấu trúc thơ kết hợp với biện pháp đảo ngữ đã giúp cho nhà thơ thể hiện, nhấn mạnh vào trạng thái cảm xúc của người ra đi. Trong giây phút luyến lưu này, người ra đi trong tâm thế nửa muốn đi, nửa lại chẳng muốn dời, nửa không muốn xa, nửa lại phải đành xa. Cảnh chia ly diễn ra vô cùng cảm động, để rồi:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Trong giờ phút chia li, nếu "tiếng ai'' là những thanh âm mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người ở lại, là tiếng vọng từ tâm tưởng, trong cảm nhận của người ra đi thì hình ảnh chiếc áo chàm lại cụ thể đến nao lòng. Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc, vừa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ đồng thời cho thấy sự xót xa và niềm cảm phục, thương mến của người đi với những người Việt Bắc. Họ quyến luyến chẳng muốn rời xa, biết bao lời yêu thương chưa kịp tỏ bày, còn chút nữa sẽ xa nhau, cầm tay mà chẳng thốt nên lời. Trong bài "Hơi ấm bàn tay", Lưu Quang Vũ cũng có những câu thơ rất tình:
Điều chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta
Phút cầm tay của tình quân dân hay tình yêu đôi lứa, dù thế nào cũng là những giây phút để nhớ, để thương:
Khi cách nhau hàng vạn dặm không gian
Anh mới hiểu khoảng cách không đáng sợ
Anh thấy em bên mình, như nghe từng nhịp thở...
Tin rằng, "mình" và "ta", họ cũng thấy nhau bên nhau, "nghe từng nhịp thở", bởi hồi ức mười lăm năm chẳng ít ỏi gì để lãng quên. Huống chi là hồi ức về những năm tháng kiêu hùng của dân tộc. Nếu như câu thơ đầu hiện lên với từ "thiết tha", thì đến đây lại nghe "tha thiết". Cảm xúc kẻ ở người đi như đồng vọng, dành cho nhau quyện hòa nồng thắm. Nhà thơ sử dụng tinh tế hệ thống từ láy dồn dập, làm nổi bật những cảm xúc đang dâng trào. Cảm nhận buổi phân li thắm đượm ân tình, ta bỗng nhớ câu thơ trong cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều:
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Như vậy, từ tình cảm gắn bó giữa quân và dân, giữa người ra đi với con người và mảnh đất Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã chạm tới trái tim người đọc bởi tình cảm lớn, lẽ sống lớn và bất cứ ai cũng có thể có, đó chính là sự buồn thương, luyến tiếc đối với mảnh đất đã từng gắn bó như máu thịt. Chất trữ tình chính luận cũng từ đây mà được biểu tỏ thật cụ thể. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Chế Lan Viên từng thủ thỉ:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Có ai mà không nhớ về một thời đã qua? Có ai mà không xót xa tiếc nuối khi những khoảnh khắc đẹp đẽ kia sắp sửa tan vào hư vô, chìm lấp trong quá khứ? Có ai mà không bâng khuâng, trăn trở với bước chân nặng trĩu tâm tình khi sắp phải rời xa nơi đã từng chứng kiến bao nụ cười, giọt nước mắt, bao tiếng nói cười ấm áp thấm tình người? Có ai mà không nhớ, không khắc khoải về sự nồng nàn nơi trái tim của từng gương mặt tự bao giờ đã trở nên quá đỗi thân thuộc? Than ôi... Bước chân này sao có thể rời đi khi cơn bão tố trong lòng không ngừng cồn cào da diết, khi những mảng kí ức xa xôi kia cứ liên tiếp dội về, ùa vào cõi lòng đang lắng chìm những khoảng không mênh mang? Mảnh đất kia gắn bó hơn chục năm, dường như cái mùi nồng nồng thân thuộc của nó đã quá quen với ta tựa hơi thở. Đó là tâm lí của bất cứ ai khi phải rời xa những thứ đẹp đẽ hằng gắn bó. Cũng bởi lẽ đó mà truyền thống đạo lí uống nước nhớ nguồn ngân lên trong khúc tình ca. Dẫu có xa cách nhau về không gian, dẫu bụi thời gian có giăng mờ kín lối, trong tâm khảm mỗi người đi kẻ ở vẫn một lòng đau đáu hướng về người kia. Họ là "mình", là "ta", tuy hai mà là một.
Không chỉ mang chất trữ tình chính trị ở nội dung, nghệ thuật thơ Tố Hữu còn "có tính dân tộc đậm đà". Tính dân tộc trong văn học là thuộc tính, là bản chất xã hội của văn học. Đây là khái niệm chỉ mối quan hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể hiện qua những đặc điểm độc đáo trong các sáng tác của một quốc gia, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử, là cơ sở để phân biệt với văn hóa dân tộc khác. Tính dân tộc được thể hiện mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác, "Việt Bắc" thấm nhuần tính dân tộc, nhuần nhị hơi thở quê hương. Ở đây, nghệ thuật mang tính dân tộc đậm nét, khác biệt với những bài thơ cùng giai đoạn.
Việt Bắc đã kế thừa xuất sắc truyền thống thơ ca của dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển khi sử dụng đặc biệt nhuần nhuyễn thể thơ lục bát thuần túy dân tộc. Thể thơ này vốn có truyền thống trong ca dao dân ca người Việt, âm điệu ngọt ngào, tha thiết, thân thuộc, gần gũi, dễ thấm sâu vào tâm hồn con người, lại được Tố Hữu sử dụng nhiều phép đối, tạo nên vẻ cân đối hài hòa, nhịp nhàng uyển chuyển. Ngoài ra, cách xưng hô "mình-ta" của đôi lứa yêu nhau cũng được nhà thơ vận dụng linh hoạt, tinh tế trong toàn bộ bài thơ. Cách xưng hô ấy vốn rất quen thuộc trong ca dao:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ
hay
Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Với cách xưng hô như vậy, dường như Tố Hữu đã đem tất cả kí ức yêu thương tình nghĩa để phổ vào cuộc chia tay Việt Bắc giữa đồng bào kháng chiến với đồng bào chiến khu. Cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại bỗng ùa về dáng dấp của cuộc biệt li giữa những đôi lứa yêu nhau. Không những vậy, chiều sâu tính dân tộc trong nghệ thuật của "Việt Bắc" còn nằm ở nhạc điệu, đặc biệt phong phú về vần và những phối âm trầm bổng nhịp nhàng nên dễ ngấm dễ thuộc như lời ru trong ca dao. Nhạc điệu trong bài thơ còn được tạo nên qua hàng loạt cấu trúc điệp, các phép liệt kê liên tiếp, các điệp từ "nhớ", "có nhớ", "còn nhớ"... Đặc biệt trong nhều đoạn thơ có sự láy đi láy lại các điệp khúc "mình đi-mình về" tạo âm hưởng lưu luyến da diết, bịn rịn, đi vào lòng người những du dương mà mặn nồng da diết. "Thơ là đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sâu nhưng lại dễ khô khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì thơ dễ làm say đắm lòng người nhưng không khéo lại nông cạn". Tố Hữu đã đưa thơ của mình đi giữa hai vực nhạc và ý đó, vững trãi và thấm nhuần để rồi "Việt Bắc" là khúc ca của nỗi nhớ. Như Đặng Thai Mai nhận xét:"Tố Hữu là nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của Tiếng Việt một cách hết sức tài tình".
Như vậy, hai đoạn thơ đầu trong đoạn trích "Việt Bắc" đã cho thấy chất trữ tình chính trị cũng như tính dân tộc đậm đà trong nghệ thuật thơ Tố Hữu. Xuân Diệu từng khẳng định:"Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn. Thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ". Có thể thấy, dù nhìn ở góc độ nào, nhà thơ cũng gây những ấn tượng riêng không chỉ với người đọc mà còn với những đồng nghiệp của mình. Đâu phải người nghệ sĩ nào cũng sử dụng nhuần nhuyễn một ngòi bút để viết nên hai loại chữ đối lập nhau mà vẫn như hòa quyện vào nhau thật tài tình. Niềm tự hào dân tộc và tình yêu sâu nặng dành cho đất nước, cũng như sự ân tình thủy chung chắc chắn đã đọng, đã tan, đã trở thành máu huyết của "lá cờ đầu" này.
Ở cả hai ý kiến trên đã bổ sung cho nhau để nói lên những nét riêng trong thơ Tố Hữu. Chính những điều đó đã làm nên một Tố Hữu đời đời được thế hệ sau ca tụng, một Tố Hữu được ví như "lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam". Và đó chính là lí do làm nên một "Việt Bắc" vượt qua sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com