Chương 7: Cuộc viễn chinh
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
12:59
Đó là một ngày bận rộn ở Koahl. Đã nhiều thập kỷ nay họ chưa phải hứng chịu hai trận bão tuyết liên tiếp và ngay sau đó là trăng non lần nào. Hiện tượng ấy hiếm hơn cả hiếm, trong một đời người chỉ xảy ra một hay hai lần, vậy nên việc chuẩn bị cho nó được cho là không cần thiết ở một thị trấn hỏa xa với ngành khai thác than đang mang lại lợi nhuận như ở đây. Họ phải trả tiền bảo trì đường ray, dọn dẹp những con đường liên kết, và duy trì những bức tường cũng như cơ sở vật chất căn bản. Trên vùng đất hoang lạnh cóng này, cho dù Koahl là thị trấn lớn nhất trong vòng bán kính 15 mastance, nơi đây vẫn có rất ít người qua lại. Đó là còn chưa kể những vấn đề mà chính Luna đang gây ra. Người sống ở đây cần phải cứng cỏi, và chỉ những người can đảm mới dám ra khỏi thị trấn. Khách lãng du rất hiếm, những đoàn xe thương nhân lại còn hiếm hơn, và những đoàn tàu là phương tiện duy nhất để thoát khỏi đây an toàn. Người dân ở đây phải tự tay giải quyết mọi vấn đề.
Thêm một đám tuyết nữa rơi đè lên đường ray từ trên bức tường bao xung quanh thị trấn. Bức tường bằng đá xây cách những căn nhà gần nhất một mastance rưỡi, cao 5 pace và rộng 3 pace, đủ chỗ cho người đi lại trên đỉnh của nó. Những người mặc áo choàng, đội mũ giáp tròn có gọng mắt và khăn bịt mặt, đang trèo bức tường trên những cái thang, chân thang nghiến vào mặt đất phủ tuyết. Họ chọc đỉnh tường bằng chổi và cuốc, dọn sạch tuyết và những thứ rác rưởi khác đọng lại ở đó. Bức tường này không được xây dựng đồng đều, một số đoạn vững chắc hơn và có mái che để chống chọi với thiên nhiên tốt hơn, trong khi những đoạn khác thì đã suy yếu và rất cần được sửa chữa. Thế nhưng, người dân ở Koahl có những mối quan tâm khác, chưa kể kinh phí của họ vẫn hạn hẹp. Bức tường quả là quan trọng, nhưng độ quan trọng của từng đoạn thì khác nhau.
Đâu đó ở rìa phía tây của bức tường vĩ đại này, hai người mặc đồng phục của những người dọn dẹp tường di chuyển một cái thang gỗ cũ đến từng khúc tường chưa dọn xong và còn phủ tuyết. Họ lấy chổi chọc vào lớp tuyết, cứ mỗi đoạn sạch tuyết thì cây chổi lại mất vài cọng lông. Bất chấp sự im lặng đáng sợ và nguy hiểm, hai người tiếp tục làm việc, thở hổn hển và để lại những làn khói trong không khí.
Công việc của họ rất đơn giản: đặt thang xuống, một người trèo lên và dọn tuyết, dịch sang một bên 5 pace, rồi làm lại. Một người không phải leo trèo gì, chỉ đứng dưới giữ vững thang cho người kia. Anh ta có đôi tay vạm vỡ và đôi mắt buồn chán đằng sau mũ giáp, lưng hơi chùng xuống trong khi nhìn người kia làm việc. Anh tránh một đám tuyết rơi lên áo choàng, hay tệ hơn là thấm xuống bên dưới lớp áo, nơi có một vật bằng kim loại lấp lóa phản chiếu ánh trăng. Đột nhiên, lớp bịt mặt của anh động đậy.
"Eirik à?"
Trên thang, người thứ hai, cao hơn và không được vạm vỡ bằng người bên dưới nhưng vẫn rất khỏe khoắn và mạnh mẽ, tiếp tục làm việc với cây chổi. Anh trả lời, nhưng rõ ràng không có nhã hứng nói chuyện.
"Thôi đi Frode, mày bỏ lỡ cơ hội rồi."
"Chậc, tao chỉ định hỏi mình còn bao nhiêu tường chưa dọn thôi mà."
Eirik ngừng lại và nhìn đoạn tường dày mà cứ chạy vô biên... Anh công nhận rằng nhìn thêm thì chỉ tổ phát ốm, vì cả nỗi sợ công việc nặng nhọc lẫn nỗi kinh ngạc trước một công trình vĩ đại mà anh thường vẫn coi là điều đương nhiên. Thay vào đó, anh nhìn sang bên kia bức tường, ngắm vùng đồng bằng trắng toát rộng lớn, những ngọn đồi và những khu rừng thưa.
"Còn nhiều lắm." Anh đẩy một phần tuyết nữa xuống khỏi bức tường. "Chắc là phải làm đến lúc đổi ca còn chưa xong."
"Phán như đúng rồi, làm như có thằng nào trên cả cái thế giới trắng xóa này lại muốn đi canh bờ tường ấy.
"Ai bảo mày lỡ cơ hội. Mà càm ràm gì, đây có phải là nhiệm vụ tệ nhất đâu."
"Cái này chỉ hơn được đi dọn nhà xí chút đỉnh."
"Hai đứa bốc thăm, và bốc được cái việc tệ thứ nhì. Mày ngậm mồm vào và ít nhất là hãy mừng vì không xui xẻo như thằng Magnus cho tao nhờ được không?"
Người đứng dưới thang tựa vào tường, tay vẫn giữ cẩn thận một bên chân thang gỗ.
"Tao vẫn cứ than đấy, vì cái việc này là rác rưởi! Tao thà đi tuần bên ngoài bức tường vì, tao chẳng biết nữa, biết đâu nó thú vị hơn chăng? Nhưng mà nếu không làm được gì thì mình lại bị kêu là phí tiền thuế! Tao đi lính là để giết quái vật và hưởng vinh quang! Không phải để... đi dọn tuyết và càm ràm về nó."
"Được rồi, nghe này, việc của tao không phải là nghe mày than." Eirik thả chổi xuống. "Mày có muốn lên đây mà dọn không? Vì theo tao thấy thì một khi bắt đầu dọn, mày sẽ chẳng còn muốn quan tâm đến những thứ của nợ khác và chỉ muốn làm cho xong việc thôi."
"Tại mày cứ suy nghĩ như thế nên hai thằng mới chết thối ở đây làm cái việc này! Đừng để tao bắt đầu than tiếp về việc lũ tôn thờ mặt trời ấy ít coi trọng chúng ta đến đâu! Chúng nó cứ... ngang nhiên dẫn theo mấy thằng vào thị trấn và đòi báo cáo tình hình á?"
Frode thả thang ra, dang rộng tay và bỏ đi.
"Từ bao giờ mà chúng ta lại phải nhún nhường mấy lão linh mục ngoại bang vậy? Tao bảo mày nghe, thần thánh đang mắc sai lầm đấy."
"Mày giữ chắc cái thang chết tiệt này và ngậm mồm vào cho... hả?"
Có gì đó từ đằng xa bỗng chặn họng Eirik, bay chơi vơi trên bầu trời không trăng, chỉ được những vì sao chiếu sáng. Một khi người trên thang đã để ý đến nó thì đã quá muộn, anh chỉ kịp lấy tay che người. Một thứ sắc bén đâm phập vào tay áo anh, may có lớp áo da là đủ dày để chặn nó lại. Nó tấn công anh với một lực đủ mạnh để đẩy anh ngã ra phía sau, cảm giác chống chếnh hiện ra trong chốc lát.
"Lạy thần Sol! Cho tao xuống trước khi nó xé xác tao!"
Frode vớ lấy cây lao, nhắm và ném nó đi. Nó bay trong không khí, vừa bay vừa xoáy vun vút. Đầu nhọn đâm vào cơ thể con quái thú, làm gãy cái gì đó của nó và buộc nó phải rơi xuống. Không may, Eirik ngã theo, rơi vào đống tuyết thụp một tiếng êm ái, nhưng vẫn phải rên rỉ vì đau.
"Ổn chứ?" Frode vội lại gần.
Eirik giằng con thú ra khỏi tay áo mình, và thấy đó là một con chim to bằng cả thân người, mỏ khoằm, vuốt sắc, mắt vừa tập trung vừa hung tợn, lông thì ấm. Anh vội đẩy nó ra, làm máu từ bên cánh gãy do bị trúng lao phun bẩn cả lớp lông, rồi đạp lên thân nó.
"Má, con chim ưng cắn tao! Mà gần đây sao mà lắm mấy cái con này thế! Hẳn là chúng nó... bỏ mẹ rồi."
Anh đang định nói "đang nhập đàn", thì có tiếng cánh vỗ vang vọng trong không trung. Hai người nhìn lên và thấy một đàn năm con đang bay trên đầu họ. Cánh của chúng đập nhanh và mạnh mẽ. Eirik thở dài, rút thanh đoản kiếm ra khỏi bao. Frode nhìn quanh tìm chi viện và xem xét tình hình.
"Được rồi... mày cầm chân chúng nó trong khi tao tìm càng nhiều..."
Viiiuuuuu...
Một vật to bằng quả bóng đồ chơi nhưng sáng đến mức làm lóa cả quang cảnh xung quanh bay đến, làm cả người cả chim tập trung vào nó. Những đôi cánh ngừng vỗ mạnh trong một khoảnh khắc, quả cầu lửa bay thẳng đến chỗ mấy con chim ưng, lướt đi trong không khí và rít lên một tiếng đinh tai.
Bùm!
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, quả cầu lửa phình ra, sáng lóe lên và phát nổ làm hai người nhăn nhó và quay mặt tránh đi. Đến lúc quay lại nhìn, ba con chim đã bị bắn rơi, những cái xác cháy đen thui của chúng rơi xuống chân hai người. Rồi sau đó họ nghe tiếng gì đó từ bên ngoài bức tường.
"Chán thật, pháo xịt."
"Cô Schwee..."
"Ôi dào, Cha lo làm quái gì! Đợi con một giây và con sẽ..."
"Hah..."
Trong một giây tiếp theo, có thứ gì đó văng bụp vào tường, rồi thêm tiếng nữa, và tiếng nữa... bụp bụp bụp, âm thanh đó cho thấy thứ đó đang trèo lên tường, trước khi thình lình xuất hiện trước mặt hai người lính. Đó là một gã đen bóng, to và nặng. Gã chùn gối, nhắm rồi phóng về phía hai con chim ưng còn lại. Gã dễ dàng áp sát hai con chim, làm chính chúng cũng phải sững sờ. Hai con quái thú nghĩ đến khả năng bỏ chạy, nhưng một vệt mờ lướt qua mắt chúng. Bóng đen đó cầm vũ khí chém một nhát, cử chỉ thanh lịch đến vô thực, và tiêu diệt cả hai con chim gây hại còn lại.
Ông đáp xuống cạnh hai người lính, theo sau là những tiếng lộp bộp ướt nhẹp phát ra từ các bộ phận cơ thể chim rơi xuống đất. Bộ áo giáp kẽo kẹt, ông đứng thẳng người lên, cao hơn hẳn những người lính phàm trần kia. Không hẳn chỉ là người, ông là một thứ gì đó to lớn và đáng sợ hơn. Ông mặc áo choàng đỏ bầm, màu như màu của máu khô, bay phấp phới trong gió. Đầu ông đội mũ giáp nhọn màu đen viền vàng. Huy hiệu mặt trời tỏa ra nhiều tia nắng được khắc vào một bên má cho thấy ông thuộc phe phái nào.
Là người Solstice.
"Xin chào."
Giọng ông trầm nhưng bình thản. Ông tiến lại gần hai người lính và gọn gàng tra kiếm vào bao cạch một tiếng, lưỡi kiếm đen với những vệt da cam phát sáng đầy uy lực. Ông đứng sừng sững trước hai người lính, đưa mắt lừ lừ nhìn họ đằng sau lỗ mắt trên mũ giáp.
"Các con có thể cho ta xin chút thời gian không?"
Eirik và Frode nhìn nhau, rồi cùng gật đầu.
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
13:03
Ở một thành phố bận rộn như Koahl, người dân thường không có nhã hứng đón khách đến thăm. Thế nhưng, nếu những vị khách đó là một toán lính thuộc một đế quốc mà họ biết rõ, chẳng ai dám ho he nửa lời.
Bảy con dương mã hí nhè nhẹ ngay bên ngoài cánh cổng, bị buộc vào cột đèn đang tỏa ánh sáng lên bờ tường, chúi mũi xuống lớp tuyết. Chữ "dương mã" ở đây là gọi tạm thời của những người lính gác, những người tạo nên vòng phòng thủ thứ hai của thị trấn bên ngoài những bức tường, cũng như đảm bảo trị an cho người dân. Họ đã quen với nhiều giống ngựa khác nhau, nhưng mấy con này thì chắc chắn không phải ngựa đơn thuần. Làm gì có ngựa nào mà chân thì vạm vỡ như những thanh gỗ trên cánh cổng thành, thịt dày hơn cả cột nhà, cao đến mức một người có thể đứng thẳng bên dưới chân nó. Ngựa thì tính khí phải thất thường, kiểm soát được nó là cả một sự cố gắng, nhưng mấy con dương mã này chỉ đứng và nhìn mà không hề có dấu hiệu muốn vùng vẫy. Dù chúng là con gì, với vóc dáng khổng lồ và ánh mắt thông minh tinh tế, chúng cũng không thể được gọi là ngựa, mà là một bản sao được cải thiện của ngựa.
Trên lưng năm con thú này là những người lính đội mũ giáp, khá giống những người lính gác ở Koahl. Đỉnh mũ tròn, một mảnh kim loại đặt chéo bảo vệ phẩn gáy. Tấm che mặt có lỗ mắt khá lớn, hai người có giáp che miệng còn những người còn lại thì để miệng trần. Bên dưới mũ giáp, đôi mắt của họ như những quả cầu lửa da cam đang rực cháy, mãnh liệt như một trận cháy rừng. Phần da để hở của họ đều rám nắng, như thể họ được nung trong lửa, không như những người thường dân da trắng xung quanh. Giáo của họ có mũi đen như đá basalt, những đường kẻ da cam phát sáng và để rơi ra những tàn lửa mỗi khi chuyển động hay có gió thổi qua. Trên lưng họ là những chiếc áo choàng hoặc áo trùm đầu màu vàng nhạt, bảo vệ cả thân thể khỏi ảnh hưởng của môi trường xung quanh, ấy vậy họ vẫn run rẩy như thể chưa quen với thời tiết nơi này. Bất chấp điều đó, tư thế của họ vẫn rất bình tĩnh, kỷ luật, và thậm chí là hơi đáng sợ. Cảnh tượng ấy không hề làm đội lính canh thị trấn lo lắng.
Lính canh thì không được hoảng sợ, họ tự bảo mình như vậy. Một số người nhận ra được những vị khách này trong quá khứ. Họ tự giới thiệu là người Solstice, thần dân của Đế quốc Mặt trời cổ đại, và cũng là quốc gia mà vùng đất này và các lãnh chúa của nó là chư hầu. Ảnh hưởng của quốc gia đó rộng và sâu đến mức họ đã thuyết phục được Nam tước cai quản vùng này cắt cho họ một khoảng đất nhỏ để xây dựng một đồn gác để bảo vệ đường ray xe lửa cũng như những khu vực xung quanh khỏi vùng núi phía bắc và những con quái thú phương ấy. Họ làm điều này không vì lý do gì hơn là từ thiện. Đương nhiên là chẳng ai tin điều đó là do lòng tốt đơn thuần và, đúng như họ đã nghi ngờ, những người truyền giáo của thần Sol bắt đầu tràn vào trong thị trấn. Và thế là quân lính trong đồn đó trở thành cai ngục của họ theo mọi phương diện một cách không chính thức. Nói rằng những thành viên theo chủ nghĩa truyền thống trong thị trấn thấy khó chịu vì các diễn biến này quả thực là đang làm nhẹ quy mô của nó.
Đám người Solstice này lúc nào cũng rất là phiền phức theo nhiều cách - nào là sợ lạnh, lúc nào cũng kêu ca, yếu đuối theo nhiều kiểu trước sự khắc nghiệt của vùng đất hoang lạnh giá này. Tuy thế, trước hôm nay thì chưa ai trong số họ tỏ ra đáng sợ.
Chỉ trừ người đàn ông đó.
Eirik và Frode đứng bên ngoài tháp canh nhỏ bên cạnh bức tường, bên dưới là một doanh trại kiêm văn phòng xử lý giấy thông hành và, trong trường hợp này, tổ chức liên lạc giữa quân đội của thị trấn và của người Solstice. Họ đứng im, đảo mắt nhìn qua lại giữa những con dương mã ngay ngoài cổng thành và đổ mồ hôi tay dưới lớp găng da hở ngón. Đối với người dân vùng Havnfest này, sự dũng cảm nơi chiến trường là điều làm nên một người đàn ông. Ấy vậy mà họ run như cầy sấy trước nhóm người Solstice kia.
"Này." Frode gọi, nhưng Eirik không trả lời. "Tao gọi mày đấy..."
"Yên cho tao nghĩ, Frode. Bọn đó muốn gì từ chúng ta chứ?"
"Thì tao đang định nói đây! Có lẽ có liên quan gì đến mấy vụ nổ lúc khoảng một tiếng trước đó."
"Từ khi nào chúng nó quan tâm đến vấn đề của chúng ta vậy?"
"Thì tao chỉ đang cố không đoán bừa thôi! Hay là mày ra kia hỏi lão người thiếc khổng lồ ấy xem nào? Biết đâu lão trả lời tử tế cho mày..."
Cánh cửa bật mở, làm cả hai người lính gác kêu rít lên và lùi lại. Frode bị dập ngón tay, xuýt xoa mút cái ngón bị đau. Người đàn ông mặc giáp xuất hiện, theo sau ông là cô gái mặc áo cam. Ông ta để ý đến hai người lính đang sợ sệt kia, dừng lại và tỏ ra... hối lỗi. Ông vội lật mũ giáp lên, sẵn sàng nói chuyện với hai người nhưng lại bị chen ngang. Điều phối viên gọi ra từ bên trong, giọng rõ ràng là đang bực mình.
"Cha nhớ đem theo người. Lạy thần Sej đừng có mà đi lạc... Frode, Eirik, hai anh dẫn đường cho người ta!"
"SAO?" Mệnh lệnh đó làm họ hết choáng, cả hai cùng thét lên.
"Tôi bảo là hai anh phải dẫn họ đến nơi đến chốn! Đưa họ ra bờ hồ cổ ấy!"
Eirik cãi lại.
"Nhưng mà Đại úy, giờ đã là nửa đêm rồi! Bọn em không..."
"Cách đây có mấy chục phút ấy mà! Đừng có cãi, đi mau đi!"
Trước khi họ có thể tiếp tục tranh cãi, "linh mục" vẫn đứng sừng sững trước mặt họ. Ông nhận ra nỗi lo lắng và cơ thể run rẩy của họ, và lùi lại vài bước.
"Cảm ơn các con đã giúp đỡ bọn ta. Nhờ các con chuẩn bị ngựa."
Trước đang lơ đãng, giờ cả hai người cùng nhìn chằm chằm vào gã linh mục mắt đảo qua đảo lại về phía nhau như thể đang tự hỏi liệu những chuyện này có thực sự đang xảy ra hay không. Trước khi họ kịp đồng ý với nhau, tiếng cười của cô gái vang lên như vả vào mặt họ, lôi họ trở về thực tại.
"Ha, ha ha! Hí hí hí–"
Cô nhoẻn miệng, nín lại một tràng cười nữa rồi quay người và gạt những lọn tóc màu tro ra khỏi mặt mình. Giọng cô nửa mỉa mai nửa an ủi, nhưng luôn luôn chứa đựng nụ cười tinh quái.
"Ý tức là, ông ấy vui vì được các anh dẫn đường đó."
"Và... uh... cô tên là..."
Frode hỏi, và cô gái sấn đến trước mặt họ. Mũ trùm của cô bị thổi ngược lại, để lộ đôi hốc mắt hõm sâu, quấn băng của cô. Ấy vậy, cô lại chúi mặt vào thật gần hai người lính gác, như thể đang giám sát họ.
"Tôi là Schwee. Tôi là Ngự hỏa sư của Giáo hội."
Cô trả lời như thể đang trêu đùa với họ. Hai người lính gác lập tức thấy căng thẳng, cố gắng tìm hiểu tình hình và không giấu nổi sự hoang mang trong mắt họ. Hẳn là cảnh đó buồn cười lắm đối với cô gái, vì cô cười mãi không thôi, đến mức phải vỗ ngực vì đau mới dừng lại được.
"Thoải mái đi! Các anh sẽ được đi cùng với một số người rất quan trọng, Cả một vinh dự đấy. Chuẩn bị đi trước khi có người bỏ đi mất.
Cô đi theo linh mục, bỏ lại Frode và Eirik đứng nuốt khan và nhìn chằm chằm. Họ đều ước có một ngày bình thường nữa, nhưng không được nữa rồi.
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
13:07
Wyatt không hiểu làm sao mà anh lại lết được trở lại vào nhà lão Hubbs trên đôi chân bị thương của mình, bất chấp bao nhiêu cám dỗ của việc nằm xuống và lịm đi mọi lúc có thể. Đó là nơi duy nhất chắc chắn không có cái xác hay vũng máu nào. Nói cách khác, nơi đó an toàn trước những điều đáng sợ mà anh vừa thấy.
Anh lết vào trong và nhìn xung quanh. Vẫn như lúc trước, các thứ đồ đều đã bị anh và Willem thu gom và lột sạch để lấy nhiên liệu cho lễ tang, ngoại trừ một cái rương lớn đầy những thứ linh tinh. Hai người lúc đó chưa muốn dỡ chúng ra, có lẽ vì biết rằng chúng có giá trị thế nào đó đối với lão Hubbs và ném chúng xuống một cái hố lửa không phải ý hay nếu muốn tôn trọng cuộc đời của lão.
Tinh thần suy sụp đã giải phóng anh khỏi những gò bó ấy, Wyatt quỳ xuống trước cái rương, tay lần sờ bề mặt gỗ của nó. Phải mất một lúc anh mới dám thử mở, thấy rằng cái rương không khóa. Một cục cứng mọc ra trong họng anh, đầy lo lắng và tuyệt vọng buộc anh phải hành động chứ không khóc.
Kẽo kẹt, cái rương cũ rền rĩ. Hẳn là từ hàng chục năm nay rồi chưa ai mở nó ra. Khi Wyatt thấy những vật bên trong rương, anh thấy chúng khó mà đáp ứng được hết kỳ vọng của anh. Đương nhiên, ngay từ đầu anh đã không mơ màng gì đến kho báu khổng lồ, nhưng bên trong đó thì đến một đồng tiền vàng hay một viên ngọc duy nhất cũng không có. Chính xác hơn, những vật bên trong buồn tẻ đến mức Wyatt chẳng thấy được cái gì dưới ánh sáng lờ mờ. Tuy thế, sự trống rỗng thì vẫn rõ ràng, vì trong rương chẳng có mấy đồ.
Như thể cảm nhận được nỗi thất vọng của anh, những bức tường đen xung quanh ầm ầm sống dậy, từng mảng tường rũ bỏ những vảy vật liệu, chúng rơi xuống sàn và biến thành tro. Wyatt lùi lại và loạng choạng, ngã ngửa xuống sàn. Khi những bức tường cuối cùng cũng yên, những vết nứt màu cam phát sáng xuất hiện trên chúng, tỏa ra nhiệt đủ nóng để xua tan không khí lạnh cóng. Túp lều phát sáng như có ánh đuốc.
Ma thuật, hẳn là vậy. Nuốt cho cục nghẹn trôi khỏi cổ, Wyatt lại đứng dậy và quyết định tạm thời sẽ đi xem xét cái rương, những thứ bên trong nó vẫn lộ ra rõ ràng. Đúng như anh kỳ vọng, ở đây không có nhiều để nhặt nhạnh. Tệ hơn, không có cái gì rõ ràng là có giá cả. Một cuốn sách bọc da đầy vết bẩn và đã mòn, hai khối giao dịch hình quả trám bằng gỗ mài nhẵn, một cái áo choàng da cam có vẻ là giống như cái mà lão Hubbs dùng, có vẻ là vì lý do tôn giáo, và cuối cùng là...
Tay của Wyatt với đến món đồ cuối cùng dường như tuân theo bản năng, những ngón tay bọc găng của anh gập xung quanh nó. Nếu tính sơ sơ ra, vật này dài khoảng 12 dimiter, nhẹ hơn một con dao cùng kích thước một chút. Nó màu đen, phần chuôi tròn và dày và Wyatt cầm vào đó một cách máy móc, tiết diện nhỏ dần thành một mũi nhọn ở đầu bên kia. Nó rất ấm, bề mặt rung động và ngân nga không rõ nguyên nhân. Hơn nữa, bên dưới lớp vỏ ngoài có cái gì đó đang chuyển động như thể nó có sự sống và đang thở vậy.
Wyatt nuốt khan, đặt cái que ấy xuống. Anh cầm lại hai khối giao dịch và cắn vào chúng bằng hàm răng run rẩy, vị của chúng vừa nhạt vừa giống mùi đất. Mỗi khối đều làm anh cảm thấy tim mình đập nhanh hơn trong một giây, chứng tỏ rằng chúng vẫn dùng được, và khi tiếng thình thịch ấy chậm lại thì anh vứt chúng vào lại trong hòm. Người chết không cần đến tiền nữa đúng không? Vậy còn ai trách được anh nữa?
Không suy nghĩ gì, miệng anh bất ngờ cong lên, vẻ mặt biến thành điệu cười nhếch mép. Trong vô thức, anh bắt đầu thở lại được, tạo ra những âm thanh mà không ngờ anh còn có thể tạo ra lúc này. Anh đổ gục xuống sàn, thở và cười khúc khích rồi kéo sụp mũ trùm xuống. Anh không kìm được, nỗi lo lắng đã xâm chiếm toàn bộ cơ thể và anh chỉ còn có thể cười được mà thôi. Giờ anh định làm gì cơ chứ? Anh đã bị bỏ rơi theo đúng nghĩa đen. Tệ hơn nữa, anh còn không thể buộc tội Willem vì những gì thằng bạn đã làm. Wyatt thì hiểu được gì về mất mát để biện minh cho việc đổ mọi việc lên đầu bạn mình chứ? Tim đập đau đớn trong lồng ngực, anh nằm im trên sàn. Khi tràng cười kết thúc, cơn sốc tạm thời biến mất, môi anh chùng xuống và anh cắn mạnh răng hàm, mặt nhăn lại thành cái cau mày thầm lặng, và anh rên rỉ... nhưng vẫn phải tiếp tục đi.
Ngoài kia sẽ có sự giúp đỡ, và ngay giờ anh cần tất cả mọi hỗ trợ mà mình có thể nhận được. Anh không thể phụ thuộc vào ai cả, kể cả chính mình cũng không vì chân đã bị thương. Anh phải đến được thị trấn hỏa xa đó, bằng không thì... không có gì đảm bảo anh sẽ sống sót được hết ngày hôm nay.
Wyatt đã không còn quan tâm đến sự mệt mỏi từ lâu lắm rồi, giờ anh phải di chuyển. Anh chống cùi chỏ dựng người dậy nghiêng người sang bên chân lành. Lúc đầu anh ngã, kêu "úi" một tiếng rồi chống tay tựa vào bức tường ấm đang phát sáng. Chúng nổ lách tách khi anh vuốt tay qua đó. Anh nhăn mặt vì mệt nhọc, cố gắng tập trung bằng những hơi thở run rẩy.
Giờ anh lại thấy cái rương lần nữa, bên trong chỉ còn quyển sách và cái gậy đen. Anh thở hổn hển, tiện tay nhặt lấy chúng trên đường ra cửa, rời khỏi hơi ấm và ánh sáng của túp lều, nhắm đến thị trấn gần hỏa xa. Ngay khi anh nghĩ không còn gì có thể làm mình phân tâm, những vật trong tay anh dịch chuyển khi anh vừa ra đến cửa, để lộ thân mình ra bên ngoài chỉ vừa mới giây lát.
CẠCH.
Cây gậy đen rơi ra, để lộ những vết nứt tỏa sáng màu vàng cam giống như những bức tường, nhưng không chỉ tỏa ra hơi ấm mà nó còn làm Wyatt bỏng tay như thể anh đang cầm một cái quai ấm vừa sôi. Anh vội ném cái gậy xuống đất, nhìn nó chằm chằm rồi lùi lại. Tự nó rung lên bần bật, lăn qua lăn lại và phun ra những tia lửa từ trên đỉnh. Rồi đột nhiên nó dừng lại, kêu vo vo.
Cái quái gì vậy?
Anh quay sang quyển sách, nghĩ rằng cũng nên vứt nó đi nhưng lại thấy dòng tựa đề đã mờ nhạt.
TỔNG HỢP VỀ CUỘC SỐNG VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG BÍ ẨN VÀ TỰ NHIÊN
Ký tên: HUBBS MULLARCH
Wyatt nuốt khan. Bất chấp mọi chuyện, sự tò mò đã thao túng anh, buộc anh phải mở đến một trang ngẫu nhiên ở nửa đầu cuốn nhật ký cỡ vừa. Như thể là định mệnh, anh đã giở đúng chủ đề mà mình vốn vẫn tò mò.
Chương II: MA THUẬT VÀ NGUỒN GỐC CỦA NÓ
Nhịp thở của Wyatt đều dần, mắt anh dán vào những dòng chữ viết, giọng của Hubbs vang lên trong đầu anh.
Về cơ bản, ma thuật chỉ là một kĩ năng. Chỉ cần mày tập luyện cho thành thục.
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
13:16
Thịch, thịch, thịch.
Cỗ máy kim loại khổng lồ có bốn chân có thể được miêu tả theo nhiều cách như đáng sợ, ấn tượng, theo một cách nào đó thì có nội tâm, nhưng nó hoàn toàn không yên lặng bất chấp những cố gắng của nó. Dưới lớp tuyết, từng bước chân đạp xuống của nó như những cái cọc bị đóng vào trong đất. Thịch, thịch, thịch....
Dù gì thì nó cũng là bạn đồng hành duy nhất của Willem, và cũng là thứ duy nhất mà anh nghe được ngoại trừ những lời nhắc nhở liên tục về ngày hôm nay. Trước mắt anh, cảnh ngôi nhà của anh ngập trong máu me vẫn còn hiện ra, ngay cả khi anh đã cách nó rất xa. Mũi anh như vẫn còn ám mùi sắt, trên tay vẫn còn nổi da gà vì cái lạnh đột ngột đi đôi với tuyệt vọng. Anh vẫn còn nhớ những lời van xin của Wyatt. Anh bị ám ảnh bởi những linh hồn vô hình, độc ác và đầy hận thù.
Trên đầu cỗ máy, Willem lắc lư qua lại nhưng không thể khóc hay suy nghĩ. Anh bắt đầu chán ghét sự im lặng khi anh bỏ đi. Anh không ngờ rằng nó lại bắt anh tự vấn nhiều đến thế, và tự vấn là điều tệ nhất anh có thể làm bây giờ. Hối hận nổi lên từ đâu đó sâu trong tim anh.
Thịch
Tiếng bước chân cuối cùng làm Willem quên đi nỗi lo của mình. Đến cả anh cũng thấy rằng mình phải cương quyết. Chầm chậm, cỗ máy gập những cái chân mảnh dẻ của mình lại và cúi đầu, để Willem nhẹ nhàng trượt xuống lớp tuyết bên dưới. Trước mặt anh là cánh cửa đá hoa cương quen thuộc, được chạm khắc những họa tiết tinh xảo bằng đôi tay của những thợ thủ công lành nghề, và đằng sau nó là một nơi có sách, hơi ấm và sự an toàn. Anh nuốt trôi số dịch mật vừa trào lên cổ và gõ cửa.
Ngay lập tức hơi ấm phả vào mặt anh, đến nỗi da anh cảm giác như bị bỏng. Phải mất vài giây anh mới quen lại được, nhưng Willem ngay lập tức bỏ khăn che mặt ra và hít một hơi dài. Anh không cần phải thở từ tốn để không bị bỏng phổi vì lạnh ở đây. Và điều đó làm anh vui lên đôi chút.
Kẽo kẹt
Tiếng động phát ra bên trên Willem làm anh chú ý đến nó. Anh thoáng thấy một bóng đen lớn giữa những ánh đèn, di chuyển rất nhanh nên không kịp nhận ra. Anh vội vã lùi lại, cho đến khi nhìn rõ bóng người đó.
"Chào..." Anh cúi mặt, thở dài. "Thủ thư."
Như một con thú, Thủ thư nghiêng đầu, cơ thể ông di chuyển nhẹ nhàng dưới lớp áo choàng. Ông quan sát Willem với vẻ nghiêm túc trong một lúc, gật đầu với cỗ máy hình nhện và ra lệnh cho nó đóng cửa mà không cần nói. Rồi ông trả lời bình tĩnh, nhưng vẫn có ý khiển trách.
"Cậu trông có vẻ mệt. Có thể nói cho tôi lý do không?"
"Cái này... Mọi chuyện phức tạp lắm."
Thủ thư cúi gập lưng, tỏ vẻ tò mò. Tuy thế, ông vẫn không hỏi gì thêm, thay vào đó chỉ giơ một bên cánh dài lêu nghêu lên và gõ vào cỗ máy bốn chân kia.
"Còn người kia? Wyatt?"
"Thằng đó... không có ở đây. Tôi... tôi bỏ nó lại rồi."
Móng vuốt của Thủ thư cắm sâu hơn vào cỗ máy hình nhện.
"Hai cậu cãi nhau à?"
Willem tiến sâu hơn vào thư viện, nhưng vẫn không biết trả lời thế nào.
"Ý tôi là... nó..."
Thủ thư đợi thêm vài giây nữa mà vẫn không nhận được câu trả lời thỏa đáng. Móng vuốt của ông hạ xuống tầm mắt của Willem và dẫn cậu vào trong. Rồi ông chạm xuống sàn nhà, làm cả tòa nhà rung lên.
"Không cần phải xấu hổ. Loài người các cậu rất dễ gây hấn. Đó là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy nhất của giống loài các cậu. Tuy nhiên, ta cho rằng điều đó đã không còn chính xác nữa."
Ông nhấc móng vuốt lên, và những cuốn sách bay ra khỏi giá sách, lượn vòng quanh cỗ máy. Ông xem xét hết cả cơn lốc xoáy toàn sách này, nhặt ra một cuốn sách duy nhất rồi ấn nó vào tay Willem, làm anh loạng choạng lùi lại. Người thanh niên khó nhọc lắm mới nâng được cuốn sách khổng lồ, bề dày bằng nửa chiều dài cẳng tay anh, trong đầu tự hỏi phải mất bao lâu anh mới đọc xong được nó.
"Đây... đây là?"
"Thành thực mà nói, tôi hiểu chuyện đã xảy ra." Thủ thư cúi nhẹ đầu. "Tôi rất tiếc."
"Tôi... ông không cần phải nói thế..."
"Như thường lệ, nhiệm vụ của tôi vẫn là bảo tồn kiến thức, nhưng tôi cũng phải truyền bá kiến thức nữa." Thủ thư lật từng trang sách. "Tôi không thể cho cậu vũ khí, nhưng tôi có thể giáo dục cậu, một điều cũng thiết yếu không kém và có thể ngăn chặn điều này xảy ra lần nữa trong tương lai. Chính xác thì tôi muốn dạy cậu về ma thuật."
Ông dừng lại ở một trang sách cụ thể, đánh giá phản ứng của Willem. Anh không chắc chắn, nhưng Thủ thư cho rằng như vậy tốt hơn là thờ ơ.
"Tôi đã dịch sách trong thời gian cậu không ở đây. Nếu sẵn sàng, tôi sẽ giúp cậu học tập."
Willem lại nhìn quyển sách. Nó rất nặng, như thể sức nặng của mọi kiến thức bên trong dồn lên đôi tay đang cầm lấy nó. Anh nghĩ sức nặng ấy là một bài kiểm tra, để chắc chắn rằng anh có đủ nghị lực và quyết tâm để tiếp thu nó. Nuốt khan, Willem gật đầu.
"Làm ơn."
"Rất hân hạnh." Thủ thư cúi đầu.
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
13:28
Vó ngựa chạy rầm rầm trên mặt đất phủ đầy tuyết, móng ngựa nện xuống con đường lát đá cứng thành những ổ gà và cát bụi. Những cột đèn lồng lắc lư trong gió, tốc độ của những con thú chạy ngang qua chúng phá vỡ mọi giới hạn của thực tế.
Bảy con dương mã và hai con ngựa thường phóng nhanh trên đường; hai con thú tầm thường thở hổn hển, cơ thể chúng hầu như không thể bì được với những bản sao vượt trội kia. Những nỗ lực hết sức mình của chúng đối với bảy con quái thú kia chỉ như cuộc đi dạo, và một cảm giác khó chịu xuất hiện trong bản năng dã thú của chúng. Giờ chúng chỉ chạy vì sự tôn trọng đối với kỵ sĩ của chúng, nhờ họ mà vượt qua nỗi sợ.
Eirik và Frode, cưỡi trên hai con ngựa thường, cảm thấy ngày càng kinh ngạc trước những khác biệt đáng kể giữa họ và nhóm lính Solstice. Cả ngựa lẫn người đều cảm thấy mình như cục chì, chỉ tổ làm vướng chân cả đoàn mà chẳng đóng góp được bao nhiêu. Chẳng ai nói với ai câu nào, trừ những lúc cần gọi nhau để đổi hướng. Những thứ trang bị bằng kim loại gõ vào nhau lanh lảnh, như một bản giao hưởng đệm cho những người lính hành quân.
Chẳng mấy chốc, hai con ngựa thường kiệt sức, đột ngột dừng lại và không chịu chạy tiếp bất chấp bàn đinh thúc ngựa của những kỵ sĩ của chúng. Không còn cách nào để đi tiếp, Eirik lo lắng gọi toán lính Solstice.
"Chậm thôi! Này! Bọn tôi theo không kịp!"
Như thể đã tập dượt trước, những con dương mã dừng bước, quay về phía hai người lính. Các kỵ sĩ Solstice cũng ăn ý với thú cưỡi của họ - yên lặng, quá nghiêm khắc, hoàn toàn vô cảm. Người đàn ông mặc giáp đen vung tay ra mệnh lệnh, không nói một câu nào, và toán lính của ông xuống ngựa. Họ dắt thú cưỡi đến một cái cây gần đó và buộc chúng vào đó. Thánh Binh cũng xuống theo, tiến lại gần họ và dắt theo ngựa của ông. Kích thước của cả người và thú làm hai người lính gác giật nảy mình, và cả giọng nói thanh thản bất thường của ông cũng vậy.
"Chúng ta đi được bao xa rồi?"
Eirik nuốt khan, những lo lắng trước đây của anh tan biến. Frode, vốn không bị những cảm xúc đó gây ảnh hưởng, trả lời bằng giọng chậm rãi và thấm mệt.
"Được hai phần ba đường rồi. Thường thì... đến đó phải mất hơn nửa tiếng, tôi không nghĩ chúng ta sẽ..."
"Tốt lắm!"
Linh mục nói, đưa dây cương cho một người lính dưới trướng ông. Ánh mắt ông không bao giờ rời hai người lính gác kia.
"Các con mau chỉnh đốn lại ngựa, nếu không thì chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối trên đường đi."
Ông quay đi nhìn đoàn người của mình. Những người lính gác cảm thấy rất bối rối vì cuộc nói chuyện ngắn ngủi (và nói thật là rất bất lịch sự) vừa rồi. Họ nhìn nhau, lại tự hỏi xem những điều vừa rồi có thực sự xảy ra hay không. Thế nhưng, tiếng ngân nga lanh lảnh vang lên từ đâu tới, làm gián đoạn những hoang mang của họ.
Schwee, áo trùm kín người và nhí nhảnh như thường lệ, ngân nga một bài hát kỳ lạ và huýt sáo theo điệu nhạc đó ngay khi cô buộc họ phải để ý đến mình. Trong tay cô cầm một cái đồng hồ khá lớn, dài bằng nửa thân người cô, có phần khung làm bằng gỗ vân sam. Nó không được trang trí nhiều, nhìn như một cái hộp đỉnh tròn có cái mặt đồng hồ gắn lên và phát ra tiếng tích tắc. Chỉ có từ số I đến X trên mặt đồng hồ, và tiếng tích tắc ấy vừa bất thường vừa chậm chạp. Nó hoàn toàn không chỉ đúng giờ, chắc chắn đáng lẽ ra phải đem sửa từ lâu lắm rồi.
Một thoáng lo lắng bao trùm hai người lính gác. Họ quay sang cầu cứu năm người lính Solstice đi cùng, nhưng lại bị họ phớt lờ. Hai người cho rằng thế này là bình thường, và Eirik huých Frode một cái.
"Mày đi mà hỏi."
Frode nhướn mày nhìn lại, vỗ lên vai thằng bạn.
"Tao ăn gan hùm mới dám đi hỏi. Mày hỏi đi."
"Tao không liều mạng vì một câu hỏi đâu."
"Vậy sao tao phải liều?"
"Mày đàn ông lên một tí rồi..."
"Hỏi gì tôi?"
Schwee cười toe toét nhưng mặt vẫn đơ như tượng, nghiêng đầu sang trái.
"Ờ... thôi bỏ qua." Frode lùi lại, và Eirik cũng lùi theo.
Đột nhiên, cô gái ấn cái đồng hồ vào tay hai người lính còn đang hoang mang, làm họ thấy khó chịu vì tiếng tích tắc sai nhịp ấy. Cô bắt đầu lèo nhèo, luôn mồm kêu như chính cái đồng hồ của cô vậy.
"Đây là đồng hồ mặt trời. Mở thử xem! Mở đi!"
Hai người tự hỏi xem liệu họ có nên tiếp tục nói chuyện với cô gái hay không. Bất chấp điều đó, họ vẫn đón lấy cái đồng hồ, sờ tìm bản lề đánh dấu chỗ mở được và cả cái tay nắm bằng đồng nữa. Frode nuốt ực một tiếng, còn Eirik thì không may tìm được cái tay cầm trước, buộc anh phải tháo chốt và mở nó ra.
Nhiệt tỏa ra từ bên trong cái đồng hồ làm họ loạng choạng lùi lại, sau đó là đến một luồng sáng chói làm họ suýt đánh rơi nó. Phải vận dụng tất cả kỷ luật quân đội của mình họ mới không buông tay, giữ cái đồng hồ xa mặt mình nhất có thể. Khi thị giác trở lại, họ thấy một quả cầu chứa chất lỏng màu vàng cam sóng sánh và bập bùng sáng bên trong, trạng thái ổn định nhưng khả năng thì không rõ ràng. Nó tỏa ra nhiệt và ánh sáng một cách ngẫu nhiên, như đang cáu kỉnh và có ý độc ác. Luồng ánh sáng thứ hai làm hai người loạng choạng lùi lại.
Một người lính Solstice vội vàng chạy tới và đóng cái đồng hồ lại bằng đôi tay bọc găng. Frode giật bắn mình, quay lại nhìn anh ta và kịp thấy đôi tay đang vội vàng giật lại cái đồng hồ rồi ôm nó vào mình như thể đang bảo vệ nó vậy.
"Ê bọn Bắc phương các anh đang làm cái quái gì vậy?"
Đến lúc đó hai người lính gác mới định thần lại. Eirik và Frode nhanh chóng nhận ra họ đang bị những người lính Solstice lăm lăm mũi giáo bao vây. Thì ra họ vừa bị ả kia xúi giục làm điều gì đó cực kỳ gây xúc phạm, cùng nhau giơ tay xin hàng và đồng thanh kêu.
"Không phải tại tôi! Tại..."
Con ả đó biến đâu mất rồi?
Những tên lính Đế quốc sấn đến, hai người tựa lưng vào nhau mà mặt đầy lo lắng. Họ cho rằng đưa tay chịu trói thì không đủ, và cả hai cùng tuốt vũ khí ra. Eirik hằm hè.
"Nếu tao chết, tao muốn mày biết một điều. Tao..."
"Tao cũng quý mày lắm!"
"Ờ... không. Ý tao là tao đánh đổ sữa chua ở nhà ăn mấy hôm trước rồi đổ tội cho mày."
"Gì?"
"Tao biết, chơi thế là xấu. Thú thật được mà nhẹ cả người."
"Mày đã làm cái gì!?"
Những tên lính Solstice đã tiến đến rất gần rồi, và cả hai đã sẵn sàng chiến đấu vì mạng sống của mình. Đột nhiên, một giọng nói nữ tính làm gián đoạn tình thế căng thẳng. Cô nín cơn ngáp của mình như một đứa trẻ đang thấy chán trước trò tiêu khiển của mình.
"Ê này... đừng có giết họ được không? Thế không hay đâu."
Những người lính trông cũng bối rối không kém gì hai lính gác, nhưng vẫn nghe lời và nhường đường cho cô. Schwee bước vào, tay cầm dây cương dắt hai con ngựa còm, cười khúc khích trước phản ứng của lính của cô và cả của hai người lính canh. Cô thì thầm.
"Hai anh nghịch hư gì rồi phải không? Định ăn trộm hay gì đó à? Sao mà cứ như đi săn phù thủy vậy?"
"..."
"Sao chẳng ai nói gì thế?"
Schwee nhìn qua nhìn lại tìm cái đồng hồ khi thấy cả Eirik lẫn Frode đều không cầm nó. Cuối cùng, cô thấy nó trong tay một người lính của mình, cười khúc khích như thể cô chỉ lỡ quên mất điều gì đó.
"À ra thế. Đáng lẽ phải bảo hai anh mở xong phải đóng lại ngay. Tôi ngốc quá! Tôi bận đi dắt mấy con ngựa lùn đáng yêu của các anh lại đây và..."
Có vẻ cô rất khoái chí với những cái nhìn của những người xung quanh. Cô ôm cái đồng hồ như một món đồ chơi, vẫy tay.
"Mọi người nghỉ được rồi! Báo động nhầm ấy mà. Xin lỗi mọi người!"
Đám đông dần tan đi, ai cũng có vẻ phát mệt với cô Ngự hỏa sư và nghi ngờ hai người lính gác. Schwee, vẫn không biết gì hoặc đang cố tình phớt lờ họ, hắng giọng và cười với Eirik và Frode.
"Tôi nói đến đâu rồi?"
"Nhân danh thần Sol!" Frode xọc ngón tay về phía cái đồng hồ. "Đó là cái của nợ gì?"
"Ừm... thì đương nhiên là ma thuật rồi."
"Làm sao mà là ma thuật được." Eirik lắc đầu. "Ma thuật chỉ là chuyện hão huyền, về những nghi lễ có thể đổi hướng sông chảy, chữa thương hay là... gì đó chứ! Đó không phải là ma thuật. Ma thuật nào mà lại bị nhốt trong hộp. Ma thuật đâu có thật..."
Schwee cười khúc khích và quăng cái đồng hồ vào túi treo bên yên ngựa của cô, ngắt lời Eirik bằng những âm thanh thất thường và kỳ quặc mà cô hay phát ra. Cô di chuyển nhẹ như lông hồng xung quanh con dương mã khổng lồ, vuốt bờm nó và làm hai người sững sờ.
"Anh nói như thể mình hiểu hết về bản chất của "ma thuật". Không chỉ về nó là gì, mà cả về ý nghĩa của từ "ma thuật" nữa. Anh nghĩ thư từ của anh được gửi đi thế nào, và làm sao mà thông điệp của anh có thể truyền đi rất xa mà không cần có người đem gửi? Làm sao mà bảo trì được những con đường? Làm thế nào để đặt được đường ray chạy qua thị trấn của các anh, và làm sao chế tạo được những đoàn tàu đó?"
"Đó chỉ là... công nghệ thôi." Frode cãi, nheo mắt nhìn Schwee.
"Sai!"
Schwee phá lên cười, gập ngón tay quanh cái đồng hồ vẫn còn thò ra khỏi túi yên ngựa của cô.
"Cái này, cùng với tất cả "công nghệ" của các anh, đều thuộc một thuật ngữ chung mà những nơi khác trên thế giới công nhận là ma thuật." Cô chầm chậm nghiêng đầu. "Chỉ vì nó đang trở nên tầm thường - như với đường ray và xe lửa của các anh - mà các anh mới không nhận ra bản chất của nó. Ví dụ, người Solstice chúng tôi tạo ra vật này vì không chịu được lạnh. Nó hoạt động bằng cách tự cung cấp năng lượng từ Tinh túy của một pháp sư. Tức là những người như tôi, những người có hiểu biết bẩm sinh về thứ ma thuật mà các anh chối bỏ này."
Cô xoay kim đồng hồ, làm không khí xung quanh nóng bỏng da trong một lúc. Mấy con ngựa hí lên vì khó chịu, trong khi hai lính gác cảm giác như muốn lột hết đồ trên người xuống vì nóng. Họ rúm ró co người lại và rên rỉ, trong khi Schwee hướng đôi hốc mắt trống rỗng về phía họ, trông có vẻ hứng thú với phản ứng của họ.
"Mùa đông vĩnh cửu này không chạm được đến đất nước của chúng tôi. Đó là lý do tại sao chúng tôi chế tạo ra những vật như thế này dựa vào nhu cầu. Chúng tôi đã sản xuất chúng từ lâu đến mức chúng không còn là ma thuật đối với chúng tôi nữa. Tôi thấy, có lẽ những cục đá đen làm nhiên liệu cho tàu hỏa của các anh giống như ma thuật hơn cả. Còn đối với các anh." Cô gõ lên cái đồng hồ. "Đây là ma thuật, một thiết bị dường như có khả năng tỏa nhiệt mà không làm bỏng những thứ chạm vào nó. Đối với tôi, đây chỉ là đồ đem theo đi đường."
Cô vặn lại kim đồng hồ, và hai người lính gác cảm thấy sự nóng bức đang dần tan biến đi, nhưng đôi mắt họ dưới lớp mũ giáp vẫn còn khô. Lần đầu tiên trong đời, họ đang đổ mồ hôi ở bên ngoài trời. Schwee cười, đưa tay lên gãi gáy.
"Cái này cũng là một thứ vô cùng quan trọng trong văn hóa chủng tôi, cần phải được xử lý cẩn thận. Có lẽ vì thế mọi người mới căng thẳng như vậy! Xin lỗi xin lỗi, đáng lẽ ra tôi phải báo trước."
"Không..." Frode cởi mũ giáp ra để lau trán. "Không phải thế."
"Xin lỗi?"
"Vụ nổ lớn vừa rồi." Eirik rũ bộ giáp cho khô mồ hôi. "Bọn tôi đã thấy các người làm gì lúc mới đến. Bọn tôi đã thấy cách gã mặc giáp đen kia di chuyển như thể gã không phải người. Bọn tôi biết những cái đó khác xa những đoàn tàu và bức tường của chúng tôi. Vậy tôi hỏi cô lần nữa. Chúng là gì?"
Schwee quay qua quay lại, xoay người theo hướng ngược hẳn lại so với nơi mà Eirik đã chỉ và đáp lại bằng nụ cười như thể đang chế nhạo họ.
"Anh hỏi câu thế khó trả lời quá, nên tôi nói thẳng luôn. Không có câu trả lời duy nhất nào cả."
Một ngọn lửa nhỏ bùng lên giữa các đầu ngón tay cô, và Schwee xoay nó như thể một món đồ chơi.
"Đây, thứ mà anh cho là khác biệt, chỉ là một cách thể hiện của ma thuật. Nhưng chúng tôi thì gọi là huyễn thuật."
"Vậy chính xác nó là gì?" Frode hổn hển thở.
"Nếu tôi nhớ sách giáo khoa, thì nó bắt đầu từ cơ bản thế này."
Cô hít một hơi, và...
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
13:29
Wyatt dán mắt vào một câu trong sách.
Mọi sinh vật sống, miễn là có trí óc, ý chí và mong muốn, đều tạo ra một dạng năng lượng sống gọi là "tinh túy".
Anh thở dài, ngừng đi khập khiễng trên con đường đất trong khi tâm trí anh quay cuồng để hiểu được hàm ý đó.
Anh nhận ra rằng cây gậy đen có đầu nhọn - thứ mà anh mang theo chỉ vì nghĩ rằng có thể nó có giá - đã hành động phần nào theo chủ ý. Khi anh muốn nó hoạt động thì nó sẽ hoạt động, và anh có thể suy nghĩ ngược lại để làm nó thôi. Anh cho rằng tâm trí đang bị áp lực của mình làm nó chớp tắt liên hồi. Anh có thể tưởng tượng nó sáng lên một phần và tối đi phần còn lại, biến nó thành một cái đuốc dùng tạm. Cỗ máy bốn chân, nguồn sáng lúc trước của anh, đã không còn ở đây nữa, nên giờ có gì thì dùng nấy.
Wyatt dùng cái gậy để soi sáng trong lúc lết đi trên con đường làng. Anh lại bắt đầu đọc khi thấy những cái xác nằm ngổn ngang ngoài cửa, cố gắng chạy trốn khỏi những thứ đã kết liễu họ. Anh chắc rằng cuộc tấn công này là do những con quái vật nhớp nháp đã tấn công anh gây ra, và chúng không phải thứ duy nhất gây ra thảm họa này. Tạm thời, anh tin rằng cỗ máy và Willem đã đuổi chúng đi. Nhưng anh không sợ chúng mà chỉ sợ những suy nghĩ miên man của mình. Anh không thể rời mắt khỏi cuộc tàn sát.
Cuốn sách là một cách tốt để làm phân tâm. Wyatt chưa bao giờ học đọc cho tử tế nên anh đọc sách không giỏi, nhưng lúc này thì những trang sách tốt hơn là phải thừa nhận mùi tanh tưởi và những cái xác xung quanh anh. Sau một vài giây chăm chú, anh cũng đọc được những dòng tiếp theo.
"Tinh túy" không có hình dáng cụ thể. Phần lớn mọi người có thể đã biết về ba dạng cơ bản của vật chất: Khí, lỏng và rắn. Vì những lý do chưa biết, Tinh túy không tồn tại ở bất cứ dạng nào trong thực tế vật chất (thường được gọi là không gian thật). Chúng ta chỉ biết được về Tinh túy nhờ những ảnh hưởng của nó cũng như hiểu biết bản năng về sự tồn tại của nó. Về ý thứ hai, trong cơ thể người tồn tại một lớp nội tạng tích trữ và tuần hoàn Tinh túy. Trong số đó, cơ quan được công nhận phổ biến nhất là Leyline, con đường tuần hoàn Tinh túy, và Linh hồn (hay "Cốt lõi), nguồn gốc của Tinh túy, có vẻ được tập trung ở phần bụng. Mọi sinh vật đều có hiểu biết trong bản năng về sự tồn tại của nó, cho dù chúng có nhận thức được điều đó hay không. Đương nhiên, sau đó còn có những biểu hiện của Tinh túy.
Để biểu hiện được Tinh túy cần có hai điều.
Thứ nhất, một công cụ để vận ma thuật. Cơ thể người phàm không thể làm được điều đó, cần có hỗ trợ từ bên ngoài. Trong giới ma thuật chính quy, chúng ta gọi những công cụ này là "Phương tiện phù phép". Còn nhiều cái tên khác, nhưng vì ta kiến thức hạn hẹp nên không nhắc đến ở đây.
Một cây đũa thần thường là đủ, nhưng côn phép luôn là phương tiện phù phép tốt hơn.
Wyatt ngừng đọc. Vậy cây gậy đen trong tay anh là đũa hay là côn? Đương nhiên là anh không biết, vì chưa tiếp xúc nhiều với ma thuật. Nếu thứ này có thể giúp anh phù phép thì giờ việc dùng nó như một cây đuốc quèn thật là nhục nhã cho nó... Bất chấp điều đó, anh lắc đầu rồi đọc tiếp. Lão Hubbs chỉ có tay không mà vẫn tạo ra được những vụ nổ lớn. Làm sao mà được vậy...
Trong một số cộng đồng, những pháp sư chuyên nghiệp có thể cho rằng việc mang theo phương tiện phù phép cầm tay là quá phiền phức. Họ sẽ thay đổi cơ thể để việc phù phép trơn tru hơn, gọi là phép "Vá thịt". Pháp sư sẽ đốt những đường nét bằng kim loại quý lên da mình như những hình xăm, cho phép vận Tinh túy trực tiếp từ trong cơ thể. Ta đây, với tư cách là một Ngự hỏa sư của Giáo hội, đã trải qua quá trình này.
Y học hiện đại và ma thuật trị thương cho phép thực hiện điều này mà không quá đau, nhưng ta vẫn không khuyên mấy tên pháp sư tay mơ thực hiện. Cả phẫu thuật lẫn chính quá trình Vá thịt đều gây tổn thương cho cơ thể. Không may là người phàm chúng ta không phù hợp để vận ma thuật trực tiếp.
"Nhưng như vậy chẳng lẽ không đau?"
Wyatt thì thầm lắc đầu. Chân anh lại đau, buộc anh dừng lại nghỉ bên cạnh một cột đèn và nhìn quanh. Nhà cửa bắt đầu thưa dần, và sau đó anh sẽ đến được vùng ngoại biên. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Rồi sau đó thì...
Rồi thì sao? Nếu anh trình báo về cái thư viện thì có ai thèm tin anh không? Anh chỉ là một người nhiều khả năng bị cho là suy nhược tinh thần sau khi sống sót một sự kiện đau thương như vậy. Đến bản thân anh còn không chắc mình có minh mẫn không nữa. Nói thế nào để người ta giúp đỡ anh, thay vì cho rằng anh chỉ là một người tị nạn đáng thương mà họ phải rủ lòng chăm sóc? Và rồi khi thư viện đó được tiết lộ, liệu anh có được ban thưởng hay không? Trong vô thức, cây gậy trong tay anh run lên vì sức mạnh. Wyatt thở hắt ra, rồi hít vào, rồi lại thở ra.
Bình tĩnh lại.
Khi cây gậy bắt đầu ổn định lại, anh tiếp tục đọc.
Thứ hai, và khó hơn người ta nghĩ, muốn phù phép cần phải tin tưởng và biết hình dung. Như Mictoris Kaith đã viết trong bài luận phát hành năm 261, "Nguyên tắc của ma thuật học, huyễn thuật học và ảo ảnh học hiện đại", ma thuật bắt đầu bằng việc vận Tinh túy, tạo hình nó bằng một lực chưa biết, để nó biến thành một hiện tượng trong không gian thật cho dù nó không có hình dáng cụ thể. Ông tin rằng Tinh túy được định hình bằng cả niềm tin rằng nó có thể thành hình cụ thể, và việc hình dung hình dáng ấy. Điều này có thể được thể hiện qua một trong những hình thức cơ bản của ma thuật: Phép thần. Loại ma thuật di động, có thể nhớ được để dùng bất cứ khi nào.
Là một Ngự hỏa sư của Giáo hội, kinh nghiệm của ta về ma thuật, cụ thể là với các Phép thần, cũng thể hiện ý tưởng này. Dưới áp lực tinh thần, ta không thể phù phép, cần đầu óc minh mẫn và một mức độ tự tin mới dùng được phép. Đầu tiên, cần niềm tin tuyệt đối rằng mình có thể làm được. Thứ hai, cần tưởng tượng cầu lửa được tạo ra thế nào, nó trông thế nào và gây ảnh hưởng thế nào đến thế giới xung quanh. Nếu tất cả được thực hiện hoàn hảo, phép màu sẽ xảy ra.
Tuy nhiên, đây cũng là lúc ma thuật bộc lộ những thiếu sót của nó.
Ví dụ, nếu ta tin rằng ta có thể thiêu rụi một thị trấn, sau đó hình dung nó thì ta về kỹ thuật là có thể làm được điều đó. Tuy nhiên, mọi việc không đơn giản vậy. Kể cả nếu hình dung được cảnh mình thiêu rụi từng người, con vật, nhà cửa, ruộng đồng, đường xá trong một quốc gia, ta vẫn cần đủ sức mạnh tinh thần để vận đủ lượng Tinh túy để thực hiện điều đó. Bằng không ta sẽ rơi vào trạng thái nguy kịch cận tử vì cố gắng tạo ra thứ bất khả thi trong thực tế. Trong giới chuyên nghiệp, chúng ta gọi giới hạn này là nóng não, vì làm vậy sẽ làm não tỏa nhiệt. Nếu làm đầu óc bị quá nhiệt, người ta sẽ bị nướng chín từ bên trong và cái chết là không thể tránh khỏi.
Một vấn đề thường thấy hơn, mà ta đã đề cập đến ở đoạn trước, là sự hình dung. Cụ thể hơn, nếu không hình dung được điều gì thì không thể làm nó hiện ra. Những gì không thể tin tưởng được cũng vậy. Các pháp sư đều tốn nhiều năm, thậm chí là nhiều thế kỷ rèn luyện để mở rộng khả năng hình dung, biến điều không thể thành có thể, nhưng vẫn có những giới hạn mà tâm trí một người không thể vượt qua trong cuộc đời họ. Ví dụ, ta không thể hình dung cảnh mình đốt cháy hết cả một quốc gia. Điều đó vượt quá khả năng của ta, chỉ dành cho những pháp sư cao tay nhất từng sống, nếu không phải là thần thánh.
Ngoài ra còn có nhiều cách khác nhau để nhìn nhận về ma thuật, vì chính cách nhìn này ảnh hưởng đến việc phù phép. Nhìn chung, phần lớn các học giả đã phân loại ma thuật thành 5 loại:
- Lòng tin, ma thuật có nguồn gốc từ niềm tin vào thần thánh
- Yêu thuật, ma thuật có nguồn gốc từ niềm tin vào phát hiện và khoa học
- Nguyên tố thuật, ma thuật có nguồn gốc từ việc thao túng thế giới xung quanh
- Đồi trụy thuật, ma thuật đen của bọn ngoại đạo, có đặc trưng là luật lệ không mạch lạc và có liên quan chặt chẽ nhất với bản ngã.
- Bí thuật, ma thuật không có luật lệ và không mang đặc điểm của bốn loại trên.
Wyatt ngừng đọc và nhìn lên trời. Ví dụ, nếu anh hình dung ra sức mạnh để trị thương cho mình, hay khả năng kiếm được một nghìn rương vàng, liệu anh có làm được không? Đương nhiên, chứ cho là quyển sách nói đúng, và cứ cho là là anh có khả năng chịu được tác dụng phụ. Nếu làm được, thì có lẽ một cuộc sống mới không phải bất khả thi. Giá như anh biết dùng ma thuật, nhưng mà...
Dù cố gắng hết sức, anh vẫn không tin quyển sách. Nhưng nếu có thể, thì anh sẽ làm gì? Wyatt hít một hơi, và anh muốn được ấm.
Ngày 2 tháng Benathus, năm 414 kỷ nguyên Rekindling thứ Tư
13:30
"Đã hiểu chưa?"
Schwee cười toe toét, tay vỗ bình bịch lên hai con ngựa đứng bên cạnh cô. Chúng hí lên bất mãn, hệt như kỵ sĩ của chúng vậy. Đương nhiên, Frode và Eirik cùng chung một suy nghĩ.
"Cô ta toàn nói lảm nhảm."
Họ lùi lại, trong lòng thấy sợ cả Schwee lẫn cách cô ăn nói. Cô cũng cảm thấy sự thiếu thoải mái của họ, nghiêng đầu, miệng vẫn cười toe nhưng cũng tỏ ra có chút thất vọng.
"Hẳn một phần là do chỉ có số ít người có năng khiếu về ma thuật, giống như kỹ năng chế tạo thủ công hay nghệ thuật. Người ngoài thường thấy rất khó để hiểu được chúng tôi nhưng, với bản chất pháp sư, chúng tôi buộc phải cố gắng giải thích cho họ hiểu. Ví dụ..."
Schwee vẫy tay, những đầu ngón tay của cô phát sáng. Làn da rám nắng của cô tỏa ra ánh sáng vàng cam như lửa cháy, từ mu bàn tay đến lòng bàn tay đều phát sáng. Trông vừa mê hoặc vừa huyền bí. Cô tiếp tục nói, tỏ vẻ tự mãn như thường lệ.
"Trong xã hội văn minh, chúng ta dùng ES - một loại Tinh túy có thể trao đổi và dự trữ chủ yếu được tạo ra từ những trải nghiệm thường đi đôi với sự theo đuổi, dù là theo đuổi thể chất hay trí tuệ - làm tiền. Phần lớn mọi người dùng nó mà không suy nghĩ, nhưng thực sự đó là một dạng ma thuật bản năng. Đương nhiên, nguyên tắc của nó..."
"ES á?" Eirik hỏi
Schwee cười với anh. "Đúng, ES... Vậy các anh không dùng..."
"Phải là Esst chứ?" Frode tiếp lời.
"Về căn bản chúng như nhau, chỉ là cách gọi khác..."
"Tức là, tôi không hiểu cái đó thì liên quan gì đến việc bắn nổ các thứ hay là ma thuật..." Frode hỏi, nắm mở bàn tay nhìn những đường vân trên đó bắt đầu phát sáng trắng đục, mờ nhạt hơn Schwee. "Đó chỉ là phương tiện trao đổi thôi phải không?"
Schwee bụm miệng lầm bầm.
"Tôi giải thích nãy giờ các anh thủng được bao nhiêu?"
Hai người lính gác nuốt khan và chuẩn bị trả lời, nhưng trước khi họ kịp nói gì thì Schwee đã ấn cái đồng hồ vào ngực Frode. Anh nhìn nó, rồi lại quay ra nhìn cô.
"Sao cô lại..."
"Vì tôi cần rảnh tay." Cô vươn mình, lấy đế giày vẽ một vòng tròn sâu xuống tuyết xung quanh hai con ngựa, vừa đi vừa vỗ lên cổ chúng cho chúng bình tĩnh. "Hẳn là có ví dụ trực quan thì dễ hiểu hơn."
Schwee lấy ra bốn cục màu bạc từ trong thắt lưng. Cô đặt chúng vào trong vòng tròn đã đào, mỗi con ngựa cho hai viên, đặt ở hai đầu đối diện nhau. Mọi hành động đều tỉ mỉ và được tính toán kỹ lưỡng, đầu óc cô hoạt động liên tục để đảm bảo mọi thứ diễn ra chính xác, bất chấp tình hình tạm bợ hiện tại. Khi đã thỏa mãn với thành quả lần mò của mình, cô ngồi xuống trước vòng tròn và lầm bầm điều gì đó trong gió.
Lửa bùng lên bao quanh vòng tròn, những cột lửa vàng nóng như thiêu phóng ra từ đầu ngón tay của Schwee, trỏ thẳng vào vòng tròn trên mặt đất. Những con ngựa bị nỗi sợ giữ chân tại chỗ, trong khi hai người lính gác chỉ biết nhìn mà kinh hãi trước cảnh một người thao túng được nguyên tố lửa theo ý mình. Họ lùi lại, suýt chút nữa thì bị lửa liếm phải.
Khi ngọn lửa đã tắt, những cục màu bạc ấy tan ra thành chất lỏng, chảy theo hình tròn mà cô đã đào và nguội đi thành hai vòng tròn lớn. Schwee nhìn quanh.
"Cha ơi, thưa Cha Linh mục!"
Từ đằng xa, người mặc áo giáp đen vẫn đang bận với công việc tầm thường là kiểm tra mấy con dương mã cũng như chỉnh đốn binh sĩ và trang bị. Ông ngoái cổ nhìn về phía cô gái, lừng lững bước lại gần và lên tiếng nhỏ nhẹ.
"Cô Schwee."
"Giúp tôi hồi sức nhanh nhất có thể cho chúng." Cô chỉ về phía hai con ngựa bình thường, trong khi chúng lo lắng nhìn Felrick.
Thánh Binh thở dài, cúi mình quỳ xuống tuyết, tay đặt lên vòng tròn màu bạc đó. Ngay khi ông chạm vào, nó liền phát sáng, ánh bạc lấp lánh nhờ quyền năng. Áo giáp của ông không đụng vẫn rung lên, bên dưới lớp giáp tỏa ra một ánh sáng dị thường. Một tia sáng màu vàng nhạt chiếu lên hai con vật, giúp chúng đỡ mệt và giữ chúng bình tĩnh hơn. Nó lịm dần sau vài giây, và vị Linh mục vạm vỡ cũng ngừng nỗ lực của mình. Ông phủi tay đứng dậy.
"Chúng chỉ bị mệt thôi. Không thương tích gì đáng kể trừ bị căng cơ, và ta đã chữa cho chúng rồi." Felrick đếm như thể ông có danh sách vậy. "Các con mau lên ngựa, chúng ta đã đến rất gần rồi."
Hai người lính gác phàm trần không biết phải nói sao. Họ nhìn vào mắt hai con thú đã cố gắng đưa họ đến được tận đây, và thấy ánh mắt chúng không còn lờ đờ như trước. Ngựa của họ không còn thở hổn hển nữa. Eirik không tin nổi mắt mình, liên tục đảo qua lại giữa mấy con ngựa và vị linh mục.
"Ông... ông đã làm gì..."
Schwee chen vào, trả lại giây cương cho hai kỵ sĩ.
"Nói theo cách thông dụng, chúng tôi gọi đó là một Phép màu. Một loại ma thuật bắt nguồn từ niềm tin tôn giáo. Tôi đã kể rồi mà đúng không? Nói chung thì nó phù hợp với những việc khó hình dung hơn như trị thương hay chữa bệnh, một điều mà ông linh mục "thân thiện tốt tính" kia vừa làm cho mấy con ngựa của các anh."
Hai người đăm đăm nhìn vị linh mục, người vẫn giữ nguyên cặp mắt hình viên đạn với Schwee. Nhờ tính chuyên nghiệp và sự khắc kỷ, cuối cùng ông cũng nguôi được những suy nghĩ cá nhân về Ngự hỏa sư này. Trong khi đó, chính cô lại đang ngả người về phía hai người lính gác, thầm thì.
"Nhưng mà nói riêng nhá... Tôi thấy phù phép kiểu đó hơi bị ngu."
Frode vội vàng trả lại cái đồng hồ và lên ngựa. Chỉ vài phút trước, con thú với bộ lông màu hạt dẻ của anh nhìn như nó sắp sửa gục đến nơi, nhưng giờ thì nó minh mẫn, thậm chí là còn hơn cả lúc trước. Nó dõi theo bàn tay của anh, dụi vào đó và đòi anh vỗ về. Không hiểu sao mà đùi nó có vẻ cứng cáp hơn trước nữa.
"Nhân danh thần Sol... Sao mà nó cơ bắp hơn hẳn vậy?"
"Ta chỉ chữa trị phần cơ bị mất lực do chấn thương và sẹo vĩnh viễn mà thôi. Phép màu cấp cao còn có thể làm mọc lại các chi bị mất, trong khi những gì ta làm chỉ là giúp cơ thể hồi phục lại trạng thái tốt nhất. Tóm lại, ta đã giúp chúng phù hợp hơn với chuyến đi này. Không tốn chút gì, nên các con đừng lo."
Eirik tiến lại gần và kiểm tra ngựa của anh. Cũng khỏe như con kia. Anh cười, ngắm nghía kết quả của phép màu.
"Cái này đâu phải "không tốn chút gì". Nó là gì vậy? Thử tưởng tượng với người thì thế nào..."
Anh ta im bặt, quay lại nhìn Frode như thể cả hai đều cùng tìm ra một ý tưởng đột phá. Cùng đan tay, họ lướt về phía vị linh mục, làm ông phải lùi lại nửa bước. Không chút ngượng ngùng, Eirik hỏi.
"Thưa ngài linh mục... Ngài có thể phù phép lên chúng tôi không?"
"Để làm gì vậy?"
"Thì, ông thấy đấy, tháng trước chúng tôi bị dây vào một vụ đánh nhau khá nghiêm trọng, cũng bị chém mấy nhát khá sâu. Vậy nên liệu ông có thể rủ lòng thương mà..."
Thánh Binh nhìn họ với vẻ khắc kỷ thường thấy. Ông cân nhắc điều đó, quay đi quay lại tìm Schwee và thấy cô đã chạy ra phía khác chơi. Nhìn Ngự hỏa sư vẫn vui vẻ như thường lệ.
"Mà nha, phép này kém hiệu quả hơn khi dùng lên người và nếu không thành công thì đau phải biết đó! Có lần tôi thấy một gã bị vặn xoắn cả người vì linh mục mất tập trung..."
Hai người lính gác lập tức lùi lại và trèo lên ngựa. Schwee phá lên cười, nghiêng người sang tựa vào Felrick. Mắt mũi cô chảy nước tèm lem vì cười nhiều, trong khi ông thì chỉ đứng nghiêm đó mà không phản ứng gì. Đột nhiên, tiếng bước chân đến gần, và ông thấy một người lính của mình đang đến. Anh ta thở hổn hển, dừng bước cách Thánh Binh vài bước chân.
"Thưa cha! Chúng con phát hiện một đốm lửa nhỏ ở đằng xa. Mờ nhạt thôi, nhưng là thứ duy nhất chúng con phát hiện được."
Felrick gật đầu.
"Chúng ta đi."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com