The boy
Thằng bé nhỏ hơn tôi khoảng một hoặc hai tuổi, người gầy nhẳng, tay chân như mấy cái que, da thì đen nhẻm, chỉ có ánh mắt là mang lại cho nó một vẻ lanh lợi khác thường. Tôi gặp nó lần đầu sau một buổi học bị cô cho điểm kém, không dám về nhà bèn chạy lên đê, nào ngờ thấy cái gì đó sục sạo dưới chỗ mấy bụi lau ven bờ, chạy xuống xem thì thấy nó đang rình bắt mấy con châu chấu. Nó mặc một cái áo sơ mi trắng dài tay đã ngả màu cháo lòng, cái quần vải pha màu tím than dài chỉ đến nửa bắp chân, trông rõ ngộ nghĩnh.
Bốn mắt chạm nhau, rồi hai cái miệng đồng thanh phát ra tiếng "ơ". Cuối cùng là cả tôi và nó cùng phá ra cười ngặt nghẽo.
-----
Thằng bé làm thân với tôi rất nhanh, bằng cách rủ tôi cùng bắt châu chấu với nó, mặc dù nó thì lão luyện trò này còn tôi thì ba ngơ. Nó có một cái cũi nhỏ, nó khoe là nó tự đóng, có tới vài ngăn liền, châu chấu bắt được đều bỏ cả vào đó. Chúng tôi, hoặc ít nhất là đám bạn tôi quen, chẳng mấy đứa còn chơi trò này nữa, từ hồi trong làng mở tới hai cái quán net liền. Nhìn cái kiểu xem xét kĩ càng của thằng bé, tôi còn tưởng nó bắt châu chấu để buôn cho mấy đứa trẻ khác, như trong những cuốn sách mà tôi từng đọc. Ấy vậy mà đến cuối buổi, nó mở cũi, thả hết bọn châu chấu đi, cẩn thận thả từng con một vào đúng những chỗ nó bắt được chúng.
Tôi nghĩ, chính hành động đó của thằng bé, hay đúng hơn là cử chỉ ân cần của nó mỗi khi đặt một con châu chấu vào trong một bụi cỏ, đã thuyết phục tôi về nhà chịu trận với bố mẹ hôm đó. Dù tôi không hiểu vì sao.
-----
Sau lần gặp gỡ đầu tiên đó, tôi không còn lần nào trốn nhà vì điểm kém nữa. Nhưng tôi vẫn ngày ngày lang thang ra bờ đê, cốt để gặp được thằng bé nọ. Chiều nào tôi cũng thấy nó ở đó, vẫn chiếc áo màu cháo lòng ấy, vẫn chiếc quần dài nửa bắp chân, và vẫn đôi mắt làm sáng bừng cả khuôn mặt. Và nó luôn vui vẻ bày cách bắt châu chấu cho tôi.
Chỉ là, ngoài những lần gặp ngoài bờ đê ra, tôi không bao giờ gặp được thằng bé ở bất cứ nơi đâu trong làng. Ở trường cũng không. Trường tiểu học làng tôi mỗi khối có hai lớp, tôi đi dò hỏi từ lớp một đến lớp năm đều không thấy nó ở trường. Nhưng cái bộ quần áo nó mặc, rõ ràng là quần áo để đi học mà nhỉ?
Tôi đem chuyện đó ra hỏi nó. Nó chỉ đáp gọn lỏn:
- Em người làng bên mà anh.
Nhưng làng bên là ở bên kia con sông đang mùa nước chảy xiết. Tôi không nghĩ nó lại mạo hiểm bơi sang bên này bờ chỉ để rình bắt châu chấu, rồi lại thả hết chúng đi.
-----
Bắt châu chấu chán, một hôm tôi rủ thằng bé chơi trò gì đó khác. Nó suy nghĩ một thôi một hồi, rồi nói một cách đầy cảnh giác:
- Trò gì cũng được, nhưng đừng có đi xa quá đấy nhé. Đến chập tối là em phải về nhà rồi.
Tôi gật đầu vui vẻ:
- Ừ, thiếu gì. Bắn bi nè, đánh khăng nè, thả diều nè. Hoặc nếu em muốn thì anh có thể mang bộ cờ ở nhà anh ra chơi nữa - tôi nháy mắt. - Hay em muốn chơi game? Quá net ở ngay gần đây thôi, có gì chơi xong em lại chạy về, dễ ợt...
- Không được. - Thằng bé nghiêm nghị. - Mẹ bảo em không được chơi game.
Đến lượt tôi hết cười nổi:
- Nhà em bên kia sông, em qua bên này chơi game, mẹ em làm sao mà cản được?
Thằng bé nhún vai, thở ra một tràng nghe người lớn hết sức:
- Mẹ em bảo chơi game hại lắm. Lời mẹ dạy lúc nào cũng phải. Em sẽ nghe lời mẹ. Và anh cũng nên như vậy.
-----
Những buổi chiều cuối cùng của tuổi thơ tôi trôi qua như vậy, bên một thằng bé tôi chỉ biết mang máng, nhưng lại sẵn sàng kể cho nó mọi điều. Tôi phát hiện ra rằng nó có thể rất trẻ con và ham chơi, nhưng những lúc cần suy nghĩ nghiêm túc thì nó lại cực kì sâu sắc.
Tôi đã mong những ngày tháng ấy có thể kéo dài mãi mãi. Nhưng tuổi thơ là thứ ngắn chẳng tày gang. Trước khi tôi có thể nhận thức được, tôi đã học hết lớp năm và chuẩn bị thành cậu học trò cấp hai đến nơi. Cùng lúc đó, bố tôi tìm được một công việc khá tốt ở trong thành phố. Bố mẹ tôi bàn tính sẽ chuyển nhà đi nơi khác.
Tất nhiên là tôi không chịu. Tôi không nhìn được những lợi ích mà bố mẹ tôi chỉ ra. Tôi chỉ thấy rằng mình sắp phải xa cái làng duy nhất mà từ nhỏ đến lớn tôi gọi là quê hương, xa đám bạn tôi đã thân quen lâu ngày, và nhất là phải xa thằng bé ngoài bờ đê nọ, giờ đây đã được tôi coi là đứa bạn thân nhất trần đời. Nhưng tất nhiên mấy lý lẽ ấy của tôi không thuyết phục được bố mẹ, thậm chí còn có tác dụng ngược, khiến bố mẹ nghĩ rằng gia đình tôi càng nên sớm chuyển đi hơn vì ở lại làng thì tôi kiểu gì cũng thành đứa lêu lổng.
Tôi trút hết những bực dọc ấy ra trước mặt thằng bé. Nó im lặng lắng nghe từ đầu đến cuối, không nói một lời. Mãi tới khi tôi ngừng kêu ca được một lúc lâu, nó mới chậm rãi cất tiếng:
- Anh nghe lời bố mẹ đi. Hai bác nói đúng chứ không sai đâu.
- Chuyện chuyển đi thì ừ, anh biết rằng anh không thay đổi được rồi. Anh đang bực mình vì họ nghĩ rằng anh chơi với em là lêu lổng đó.
Thằng bé nhìn tôi rồi bật cười:
- Em lêu lổng thật mà. Chiều nào em chẳng rủ anh lêu lổng cùng em.
- Nhưng đâu phải anh học được từ em toàn tật xấu. Nè, nói thật là từ lúc chơi với em anh học được nhiều điều lắm đó. Anh cũng tự thấy bản thân mình biết suy nghĩ nhiều hơn, cho gia đình, cho những người thân xung quanh...
Thằng bé cắt ngang lời tôi, lại bằng cái giọng người lớn muôn thuở:
- Những điều đó, đi đâu cũng sẽ có người dạy cho anh thôi.
Chiều hôm đó, tôi ngồi với thằng bé tới tận lúc chiều tà. Khi không gian xung quanh đã nhập nhoạng tối, thằng bé mới giục tôi đi về.
Tôi cố công đứng lại trên bờ đê, chợt nhận ra rằng mình chưa bao giờ thắc mắc thằng bé ra về bằng cách nào.
Tôi thấy cái bóng nhỏ bé gầy gò của nó lội xuống nước, rồi chậm rãi bơi qua sông. Khi nó ra đến giữa dòng thì bóng tối đã buông hoàn toàn, tôi không nhìn thấy nó đâu nữa.
Từ buổi chiều muộn hôm ấy đến lúc nhà tôi chuyển đi một tuần sau, tôi không còn gặp lại thằng bé nữa.
-----
Nghe mẹ kể rằng khu đất ven đê ở ngôi làng cũ sắp được xây thành một đô thị, tôi vội vã đặt vé máy bay trở về.
Lần cuối cùng tôi ở làng là năm mười một tuổi. Từ khi gia đình tôi chuyển vào thành phố, tôi chưa một lần nào trở lại. Có rất nhiều lý do khiến cho điều đó không thể, một phần là vì ngay mùa hè sau đó tôi đã vào nam cùng bố. Lần này nghe tin, tôi lập tức đặt vé về thăm.
Thấm thoắt thế mà cũng mười năm rồi.
Ngôi làng đã thay đổi, nhiều đến mức tôi suýt thì không nhận ra được lối vào làng, chỉ vừa kịp huých người tài xế rẽ vào khi nhận ra mái đình làng cũ lấp ló sau một căn nhà hai tầng. Khắp làng giờ đây, ngoài mặt đường đâu đâu cũng là nhà mới và những cửa hàng cửa hiệu, chỉ hiếm hoi lắm tôi mới thấy được một hình ảnh quen thuộc khi xưa, như là một cái sân gạch cũ, một mảnh vườn cũ, một dải bờ ao cũ nay đã bị lấp ba phần tư để dành chỗ xây những khu tái định cư mới.
Còn bờ đê năm xưa tôi từng chơi đùa lang thang không biết bao nhiều tháng ngày, giờ đây đã biến thành một công trình xây dựng kiêm bãi phế liệu ngổn ngang. Tôi tiến đến nơi tôi vẫn hay đứng năm xưa. Những khung thép, những rầm cột, những tòa nhà bê tông trơ trọi chưa được quét vôi đã chắn đứt tầm nhìn của tôi, bờ sông năm xưa chỉ còn có thể thoáng thấy qua những ô cửa sổ. Tôi đã đi xa đến thế sao, trong khoảnh khắc ấy tôi tự hỏi lòng như vậy, xa đến độ giờ đây đường về bị bịt kín tới mức này, tới mức chỉ cách có vài trăm mét thôi mà tôi cũng không nhìn được những tháng ngày năm xưa.
Chân tôi dẫm lên những mảnh gạch vữa, đầu óc quay cuồng trong kỉ niệm. Đến mức, khi nhìn thấy bui lau lách ven sông ấy, tôi còn nghĩ mình đã trở về với quá khứ. Có tiếng sột soạt, những thân lau khẽ đung đưa.
Rồi thằng bé bước ra.
Vẫn chiếc áo ngả màu cháo lòng, vẫn chiếc quần vải pha sờn, vẫn bàn tay tung tẩy những chiếc cũi châu chấu ấy. Nó chính xác là cái hình ảnh mà tôi đã nhìn thấy trong lần đầu hai đứa tôi gặp gỡ. Tôi bất giác nhìn lại mình, nhưng cơ thể tôi vẫn là của một chàng trai hai mươi mốt tuổi.
Thời gian, bằng một cách nào đó, đã bỏ qua người bạn thời thơ ấu của tôi.
-----
Một lúc lâu, tôi và thằng bé chỉ đứng đó, lặng người nhìn nhau. Thế rồi, khi sự im lặng đã trở nên quá sức nặng nề, tôi đành phá vỡ nó bằng một câu hỏi có phần vô nghĩa:
- Em đấy à? Có đúng là em không? Là anh đây nè.
Thằng bé vẫn đứng im lặng, nhưng tôi thấy trên mắt nó có cái gì long lanh. Trong lòng tôi có cả nghìn câu hỏi, nhưng tôi chỉ chọn nói lên cảm xúc của mình.
- Gặp lại được em thật mừng quá.
Thằng bé khóc và chầm chậm tiến về tôi. Tôi dang rộng vòng tay, ôm nó vào lòng. Cuối cùng, nó cũng lên tiếng:
- Em nhớ anh quá.
Câu nói của nó không hề mang ý trách cứ. Nhưng tôi bỗng thấy trong lòng mình hối hận ngập tràn. Bao năm qua, dù đi xa, không phải tôi không có cơ hội trở lại. Nhưng rồi tôi cứ lần lữa lấy hết lý do này đến lý do khác để không trở lại. Khi thì bận học, khi thì bận đi chơi, khi thì nghĩ rằng mình còn khối thời gian.
-----
Tôi ngồi nói chuyện với thằng bé cả buổi chiều hôm đó. Sau khi tôi rời làng, gia đình tôi cũng xảy ra hơi nhiều chuyện. Tôi kể hết cho thằng bé, không hề giấu diếm, kể cả những lần bố rủ tôi về nhưng tôi lấy cớ từ chối. Thằng bé chỉ ngồi im lặng lắng nghe, cũng như ngày xưa vậy, không cố chen ngang, cũng không tỏ vẻ phán xét. Kết thúc câu chuyện dài, tôi quay sang nó:
- Đó là chuyện của anh. Giờ đến lượt em đó.
- Em làm sao? - Thằng bé hỏi lại, không rõ là hồn nhiên hay chỉ đang lảng tránh.
- Anh nghĩ rằng em cũng nên giải thích vì sao anh đã lớn lên thế này, còn em vẫn là một đứa bé như thế, - tôi nói thẳng.
Thằng bé ngừng lời một lúc, như thể đang suy nghĩ xem nên nói gì. Cuối cùng, nó thở dài:
- Anh nghĩ vì sao em lại thành ra thế này?
- Nếu anh đoán được thì đã đâu cần phải hỏi em, - tôi nhún vai. - Em là một hồn ma chăng? Nhưng em chẳng dọa dẫm như những câu chuyện anh từng nghe về những hồn ma bên bến sông. Hay em đang sống ở một nơi nào đó mà thời gian ngừng lại? Dòng thời gian ở bên bến sông này không trôi đi như bình thường ư?
Thằng bé lắc đầu. Rồi nó khẽ chạm vào tay tôi. Nó ra hiệu cho tôi kéo ống tay áo của nó lên.
Tôi làm theo lời thằng bé, và rồi không kịp ngăn một tiếng thốt lên đầy sửng sốt phát ra từ miệng mình.
Bên dưới ống tay áo, cánh tay của nó hiện ra, không hề đen nhẻm như tôi tưởng tượng. Phần cánh tay ấy trắng ởn, đầy những mạch máu tím bầm, sưng phù lên, hoàn toàn tương phản với đôi bàn tay trông rất bình thường của nó. Rồi thằng bé mở hai cái cúc trên cổ áo của nó ra, và tôi thấy rằng phần cổ và ngực của nó trông cũng đáng sợ tương tự; thậm chí, ở nơi lẽ ra là vai của nó, phần thịt đã bị gặm mòn, đầu xương trắng ởn nhô ra. Trước khi kịp ngăn mình, tôi bất giác lùi lại.
Thằng bé có vẻ bị tổn thương vì phản ứng của tôi. Nó nhanh chóng cài lại cúc áo và kéo ống tay xuống, rồi lặng lẽ đứng dậy. Tôi vội vã kéo tay nó, rối rít:
- Anh xin lỗi, anh xin lỗi!
Thằng bé ngồi lại xuống, nhưng lần này cách xa tôi. Và nó nói, mắt dán vào một điểm nào đó ở xa, không một lần nhìn tôi:
- Em từng bị đuối nước, trên chính dòng sông này. Chuyện xảy ra lâu lắm rồi, có lẽ là còn từ trước cả khi anh sinh ra. Hôm ấy em không nghe lời mẹ, ra sông chơi đúng lúc lũ về. Từ đó đến nay em chỉ có thể quanh quẩn trên con sông này thôi. Những năm đầu em còn đếm ngày đếm tháng, nhưng bây giờ thì chuyện đó chẳng còn quan trọng nữa. Bây giờ, kể cả nếu em có trở về tìm những người thân xưa, có lẽ họ cũng đã chết cả rồi.
- Trước đây lòng sông rộng lắm. Có lẽ phải rộng gấp ba lần con sông mà anh thấy bây giờ. Nhưng rồi nước cứ cạn dần, và sông cứ ngày một hẹp lại. Cái ngày anh còn ở đây, dòng sông có lẽ chỉ rộng bằng hai phần ba cái ngày em bị đuối nước.
Tôi im lặng nghĩ đến những tin tức tôi đã từng nghe trên đường tới đây. Về việc khu đô thị mới có thể được xây dựng bằng cách lấp toàn bộ nhánh sông này như thế nào. Trong khi đó, thằng bé vẫn đều đều kể câu chuyện của nó:
- Em đã từng sợ hãi khi nghe người ta thông báo xây khu đô thị ở đây. Em có cách để nghe ngóng được những chuyện như vậy, anh biết đó. Nhưng giờ đâu em tự dưng không sợ nữa. Từ lúc gặp lại anh - tới đây nó mới ngẩng đầu nhìn tôi - tự dưng em nhận ra rằng nỗi sợ của mình bắt nguồn từ mong muốn được gặp anh, sau bao nhiêu năm tháng như vậy.
- Em vẫn còn nhớ mãi những ngày ấy, anh có một lần nói với em rằng việc gặp em khiến anh trở nên tốt hơn - thằng bé nói với giọng gấp gáp, như thể nó sợ rằng nếu thời khắc này đi qua, nó sẽ không thể nói được nữa. Tự dưng tôi có cảm giác rằng nó đã tập dượt cho cuộc gặp gỡ này rất nhiều lần, và điều đó càng làm trái tim tôi thắt lại. - Em cũng muốn anh biết rằng anh đã thay đổi em. Qua anh, em cảm thấy như em đã sống thêm được một đoạn đời dang dở. Vậy đó. Anh sống cuộc đời của anh, vậy mà không hiểu sao em lại cảm thấy mình là một phần trong đó.
Tôi cảm giác rằng những thắc mắc của mình hầu hết đều đã có lời giải đáp. Chỉ trừ việc...
- Buổi chiều hôm cuối cùng anh gặp em mười năm trước, anh thấy em bơi ra giữa sông. Đó có phải là...
- Thủ tục hàng ngày của em đó, - thằng bé mỉm cười tiếp lời tôi. - Em phải làm vậy để sáng hôm sau mình có thể sống lại. Ban ngày em có thể tự do chơi trên bờ. Ban đêm em phải xuống giúp việc cho thần sông. Anh đừng lo, toàn việc nhẹ nhàng thôi. Nhưng đó vẫn là một phần của thỏa thuận.
- Thần sông? Vậy sự sống này của em là do thần sông mang lại?
- Đúng vậy.
- Và nếu con sông này bị lấp lại, thần sông sẽ...
- Sẽ chết. Anh đừng lo, sẽ không phải một cái chết đau đớn gì cả. Nhưng vâng, ông ấy sẽ chết. Và tất nhiên, cái đứa sống dở chết dở là em cũng sẽ chẳng còn.
-----
Tôi đã ở bên thằng bé trong suốt những năm tháng cuối cùng.
Sự thật là, nó vẫn ngây thơ như một đứa trẻ, dù cho quãng thời gian nó tồn tại trên đời này có dài đến mức nào đi chăng nữa. Nó nhắc tôi nhớ đến Peter Pan, đứa trẻ không bao giờ lớn. Nhưng khác với nhân vật trong truyện của J. M. Barrie, thằng bé không hề vô tình. Và nó cũng không bao giờ quên. Đôi khi tôi phải ngạc nhiên vì đôi vai nhỏ bé của nó lại có thể chứa đựng được từng ấy gánh nặng kí ức.
Nó kể về những năm nạn đói hoành hành ở làng. Nó kể về những trận lũ mỗi mùa mưa bão. Nó kể về những con người nó đã gặp được trên chính dòng sông này - những chuyến đò ngang chở nàng dâu về nhà chồng, những kẻ vì vỡ nợ mà ra đây tự vẫn. Quá khứ, và quá khứ bủa vây lấy những lời kể của nó.
Tôi nảy ra ý định ghi chép lại hết những điều thằng bé kể vào một cuốn sổ. Chiều nào tôi cũng ra bến sông, lúi húi ghi chép. Có những chuyện thằng bé kể, tôi không thể nào chép ngay lại được, vì quá buồn thảm, quá đau thương hay quá đẹp đẽ, nhưng vài ngày sau tôi phải tự tìm cho mình dũng khí để có thể chép lại chúng một cách chân thực và đầy đủ nhất. Một, rồi hai, rồi rất nhiều cuốn sổ đã được tôi lấp đầy bằng kí ức của thằng bé. Tôi tự nhủ với bản thân, phải ghi chép một cách chân thực nhất có thể. Nếu không, là có tội với quê hương tôi, với quá khứ của tôi, với người bạn thân thiết nhất của tôi, và với dòng thời gian bất tận mà cả tôi lẫn thằng bé đều chỉ là một phần bé mọn.
Con sông được lấp đầy vào một buổi chiều muộn chớm đông. Tôi đứng ở một góc thật khuất, nắm chặt tay thằng bé, lặng lẽ nhìn người ta đổ đất đá xuống lòng sông. Khi công việc đã gần hoàn thành, tôi thấy trước mắt tôi hiện lên một khuôn mặt hiền từ với nụ cười tôi mãi mãi không thể nào quên được. Thằng bé ôm tôi thật chặt, rồi đưa tay gạt hai hàng nước mắt, mỉm cười chạy về phía gương mặt ấy. Và rồi cả hai người họ, cả vị thần sông lẫn người bạn nhỏ bé của tôi, đều tan biến đi.
Trước mắt tôi chỉ còn ngổn ngang những bùn, sỏi đá, sình lầy, rác rến.
-----
Tôi đang biên tập lại những ghi chép của tôi về dòng sông, qua lời kể của thằng bé. Ban đầu thì thú thật là tôi không biết nên biên tập chúng theo hướng nào, bởi vì viết chúng thành những câu chuyện thì cũng chẳng hoang đường hơn bao nhiêu việc giữ nguyên lời kể của bạn tôi về những thân sông, những con người đã chết đuối để rồi linh hồn vĩnh viễn gắn bó với đáy sông này. Trong những câu chuyện được lưu truyền lại, dù hoang đường tới mức nào, cũng luôn luôn có một phần sự thật, tôi đã nghiệm ra như vậy. Những câu chuyện thêu dệt nên cuộc đời chúng ta, chúng vừa trói buộc vừa thả tự do cho ta theo những cách đầy bất ngờ. Quyết định cuối cùng của tôi là xuất bản tất cả những câu chuyện ấy, không thêm thắt. Để rồi quê hương tôi lại có thêm những huyền thoại.
Tôi đặt tên cho tập sách của mình là "Biên sử dòng sông". Ở phần đề tặng, tôi ghi rằng tôi tặng nó cho người bạn tuổi thơ của mình. Và tôi thực sự hy vọng, dù biết rằng hão huyền, là thằng bé biết không chỉ tôi, mà sẽ còn những người khác, những người đọc cuốn sách này, trong đó có tôi, sống và kể tiếp những gì mà cuộc đời ngắn ngủi của nó bỏ dở.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com