3
Trước khi đề xuất cải cách chế độ bản vị vàng, Franz đã cân nhắc vấn đề dự trữ vàng. Lựa chọn tối ưu nhất chắc chắn là chiếm giữ các mỏ vàng và tự tổ chức nhân lực khai thác.
Đáng tiếc, phần lớn các mỏ vàng chính trên thế giới đều không liên quan gì đến Đế quốc La Mã Thần thánh Mới (New Holy Roman Empire). Phần lớn những khu vực này nằm trong tay người Anh.
Vào thời đại này, các mỏ vàng dễ khai thác chủ yếu phân bố ở Nam Phi, Nga, Canada, Úc, Hoa Kỳ, Zimbabwe, Ghana, Brazil, Colombia, Philippines, và Papua New Guinea. Không có cách nào khác, toàn bộ lục địa châu Âu đều thiếu mỏ vàng, và những mỏ hiện có hầu hết đã được khai thác cạn kiệt. Những mỏ vàng còn lại đều nằm sâu dưới lòng đất, mỏ lộ thiên không còn tồn tại nữa.
Franz không phải là một cuốn bách khoa toàn thư, không thể nhớ rõ vị trí của từng mỏ vàng, vì vậy ông không thể tìm ra tất cả các mỏ vàng trong nước. So với sản lượng thấp của vàng, sản lượng bạc của Áo tốt hơn nhiều. Dưới chế độ bản vị kép (vàng-bạc), giá trị đồng tiền Áo được hỗ trợ bởi bạc.
Sau một cuộc đấu tranh khó khăn, cuối cùng Đế quốc La Mã Thần thánh Mới miễn cưỡng thông qua cải cách chế độ bản vị vàng. Đây là kết quả mà Franz không can thiệp, và ngay trong nội bộ chính phủ Áo cũng có người bỏ phiếu phản đối.
Dù sao đi nữa, cải cách bản vị vàng là điều sớm muộn sẽ xảy ra. Khởi động sớm có thể giúp giành trước một phần vàng. Nếu chậm trễ, khi mọi người bắt đầu đổ xô đi mua vàng, chi phí phải trả sẽ cao hơn rất nhiều.
Các mỏ vàng lớn không nằm trong tầm kiểm soát, nhưng vẫn còn những mỏ nhỏ. Ngoài lãnh thổ trong nước, hai thuộc địa của Áo là Guinea và Congo cũng có khá nhiều mỏ vàng.
Không nói đến các mỏ vàng dưới lòng đất, các mỏ lộ thiên hình thành do sự bồi tích của lòng sông chắc chắn có thể khai thác được.
Franz không kỳ vọng quá cao, chỉ cần mỗi năm sản xuất được vài tấn vàng để bù đắp cho sự thiếu hụt trong nước là đủ.
Còn về các khu vực mỏ vàng khác, hãy chờ đến khi người Anh đàn áp cuộc nổi dậy ở Ấn Độ rồi mới hành động. Hiện tại, tốt hơn hết là nên an phận, tránh trở thành mục tiêu.
Khi tàu chiến đường sắt của Áo ra đời, họ sẽ chiếm ưu thế ban đầu. Chỉ cần triển khai vài tàu giáp sắt đến thuộc địa, sau khi nắm quyền kiểm soát hải quân khu vực, việc giành lấy tiếng nói trong các thuộc địa sẽ khác hẳn.
Mặc dù hải quân Anh đứng đầu thế giới, nhưng họ cũng phải bảo vệ nhiều thuộc địa. Khi lực lượng bị phân tán khắp nơi, ngoài việc chiếm ưu thế ở các vùng biển quan trọng, các khu vực còn lại phụ thuộc vào mức độ đầu tư của các quốc gia.
Trước khi phát hiện mỏ vàng, giá trị của các khu vực này hoàn toàn khác so với sau khi phát hiện mỏ vàng. Chúng không đáng để các cường quốc tranh giành quyết liệt.
Theo mô hình kinh doanh của Áo, chỉ cần đầu tư vài chục năm tại địa phương, đưa hàng trăm nghìn người di cư đến, thì không cần lo lắng về đối thủ cạnh tranh.
Chiến tranh cũng cần chi phí. Trừ khi đó là mỏ vàng khổng lồ như ở Nam Phi, nếu không, trữ lượng vài trăm tấn vàng thực sự không đủ để trang trải cho một cuộc chiến tranh cục bộ giữa hai cường quốc.
Ngay cả khi vàng ở Nam Phi chiếm một nửa trữ lượng vàng thế giới, thuộc địa quan trọng nhất của Anh vẫn là Ấn Độ. Lý do rất đơn giản: việc khai thác vàng cũng có chi phí.
Ngay cả trong thời kỳ đỉnh cao, lợi ích mà người Anh thu được từ Nam Phi vẫn chưa bằng một phần năm so với Ấn Độ. Hai nơi này không thể so sánh được.
Franz đương nhiên không thể đảo lộn thứ tự ưu tiên. Ông không thể chạy theo vàng mà bất chấp tất cả. Nói trắng ra, vàng chỉ là một biểu hiện cụ thể của tài sản, các nguyên liệu công nghiệp khác cũng là tài sản.
Yếu tố cốt lõi nhất vẫn là phát triển công nghiệp trong nước. Trong lịch sử, Đức thiếu hụt vàng dự trữ nghiêm trọng, nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ.
Trong thời đại công nghiệp, tốc độ tạo ra của cải của con người vượt xa những gì vài mỏ vàng có thể so sánh. Phát triển bản thân mới là điều quan trọng nhất.
Sau hai cuộc chiến tranh thế giới, người Anh vẫn nắm giữ Ấn Độ, Nam Phi, Úc, Canada và các khu vực khác, nhưng cuối cùng vẫn phải nhường lại quyền bá chủ thế giới.
Sau khi xác định cải cách bản vị vàng, Franz giao những việc còn lại cho nội các xử lý.
...
Franz vẫn đánh giá thấp tác động của cải cách bản vị vàng. Không chỉ gây tranh luận sôi nổi trong nước, nó còn tạo ra tiếng vang lớn trên lục địa châu Âu.
London
Việc Đế quốc La Mã Thần thánh Mới đột ngột bắt đầu cải cách bản vị vàng ngay lập tức thu hút sự chú ý của chính phủ Anh. Từ góc độ phát triển kinh tế thị trường tư bản, chế độ bản vị vàng sẽ có lợi hơn cho thương mại quốc tế.
Đối với người Anh, chỉ cần Đế quốc La Mã Thần thánh Mới gia nhập hệ thống bản vị vàng do họ dẫn đầu, thì quyền bá chủ tiền tệ của đồng bảng Anh sẽ tiến thêm một bước lớn.
Trong thời đại này, người Anh sở hữu dự trữ vàng lớn nhất thế giới, và London là trung tâm tài chính lớn nhất toàn cầu. Một khi các quốc gia áp dụng chế độ bản vị vàng, hệ thống thanh toán bảng-gold của họ sẽ trở thành xu hướng chủ đạo trên thế giới.
Các quốc gia thiếu vàng dự trữ sẽ buộc phải mua bảng Anh để làm dự trữ ổn định giá trị tiền tệ. Trong thanh toán quốc tế, việc sử dụng bảng Anh là điều không thể thiếu.
Khi bảng Anh trở thành tiền tệ thế giới, lợi ích mang lại không hề nhỏ, điều này sẽ đặt nền móng cho quyền bá chủ thế giới của Anh.
Biết thì biết, đây là một kế hoạch công khai. Dù biết rõ kế hoạch của người Anh, Franz vẫn phải chịu đựng và chấp nhận.
Không thể vì tránh việc Anh xây dựng quyền bá chủ mà bỏ mặc sự phát triển kinh tế trong nước được. Tỷ lệ đổi vàng-bạc thường xuyên thay đổi, rõ ràng không có lợi cho sự phát triển công thương nghiệp.
Số 10 Phố Downing , do ảnh hưởng của thất bại trong Chiến tranh Cận Đông, nơi này đã đổi chủ. Trong cuộc đấu tranh quyền lực trong nước, nội các George đã bị loại bỏ, giờ đây là nội các của Lord Granville thuộc Đảng Whig.
Thủ tướng Palmerston trong lịch sử đã không may mắn bị hạ bệ trong cuộc biến động chính trị trước đó, cộng thêm thất bại trong Chiến tranh Cận Đông, và ông ta là người khởi xướng chiến tranh, nên không thể phục hồi.
Là đảng đại diện cho lợi ích của giới tài chính và thương mại, Đảng Whig cũng là người tiên phong thúc đẩy chế độ bản vị vàng. Trong cải cách bản vị vàng của các nước châu Âu sau này, bóng dáng của họ luôn xuất hiện.
Thủ tướng Granville ngạc nhiên nói: "Người Áo vốn dĩ bảo thủ, lần này lại bất ngờ khởi xướng cải cách chế độ bản vị vàng.
Tôi không phủ nhận rằng việc Áo gia nhập hệ thống bản vị vàng có lợi cho Đại Anh, nhưng sự thay đổi đột ngột này vẫn khiến người ta khó chấp nhận. Các vị nghĩ rằng cải cách của chính phủ Vienna lần này có thể thành công không?"
Bộ trưởng Ngoại giao John Russell trả lời: "Thưa Thủ tướng, cải cách bản vị vàng của chính phủ Vienna phần lớn là do đấu tranh quyền lực. Chính phủ trung ương muốn tăng cường kiểm soát đối với các chính phủ bang.
Đế quốc La Mã Thần thánh Mới về bản chất đang kế thừa pháp thống của Đế quốc La Mã Thần thánh, nên không thể tránh khỏi bị hạn chế. Các chính phủ bang có tính tự chủ rất cao.
Cho đến nay, chính phủ Vienna chỉ nắm được quyền ngoại giao thống nhất và quyền chỉ huy quân đội trong thời chiến. Giờ đây, chính phủ Vienna muốn thu hồi quyền đúc tiền, nên đã khởi xướng cải cách bản vị vàng.
Mặc dù thời gian có vẻ gấp rút, nhưng trong Chiến tranh Cận Đông, Áo đã kiếm được một khoản lợi nhuận chiến tranh. Bây giờ chính phủ Vienna có lẽ có đủ vốn để tiến hành cải cách tiền tệ.
Nếu không có bất ngờ xảy ra, việc Đế quốc La Mã Thần thánh Mới gia nhập hệ thống bản vị vàng có lẽ sẽ không gặp vấn đề lớn."
Sau một lúc trầm ngâm, Thủ tướng Granville hỏi: "Cải cách bản vị vàng ngoài cần vốn, còn cần dự trữ vàng lớn. Chắc chắn chính phủ Vienna sẽ sớm mua vàng trên thị trường quốc tế.
Nhưng thị trường quốc tế đầy biến động, vàng lại là tài nguyên khan hiếm, giờ đây đã đến lúc tăng giá. Người Áo có lẽ sẽ không mua đủ dự trữ vàng.
Tuy nhiên, xét đến mối quan hệ Anh-Áo, chúng ta có thể cung cấp một khoản vay cho Áo, giúp họ thực hiện cải cách bản vị vàng. Các vị nghĩ sao?"
Không nghi ngờ gì nữa, Thủ tướng Granville đang chuẩn bị "chơi trò chơi". Là nhà cái trên thị trường vàng quốc tế, quyền định giá vàng-bạc nằm trong tay người Anh.
Chỉ cần người Anh thao túng giá vàng, Áo sẽ khó mua đủ vàng.
Nếu không có đủ vàng, chính phủ Vienna sẽ buộc phải chấp nhận khoản vay của Anh, sau đó thiết lập hệ thống "bảng-gold" làm cơ sở.
Điều này sẽ nâng cao đáng kể vị thế quốc tế của đồng bảng, đặt nền móng cho việc sử dụng bảng trong thanh toán thương mại quốc tế.
Tình bạn Anh-Áo? Đó chỉ là một trò cười. Khi phù hợp với lợi ích của Anh, đó là tình bạn sâu sắc; nhưng khi lợi ích mâu thuẫn, tình bạn sâu đậm đến đâu cũng có thể trở thành kẻ thù.
Trong lịch sử, Anh và Áo luôn duy trì quan hệ đồng minh không chính thức. Hỗ trợ Áo chống lại Nga là chính sách của Đế quốc Anh trong gần một thế kỷ.
Đến đầu thế kỷ 20, để kiềm chế Đức, người Anh quay sang thỏa hiệp với Nga, bỏ rơi đồng minh truyền thống này.
Sau một lúc im lặng, Bộ trưởng Tài chính George Grey trả lời: "Đề xuất của Thủ tướng rất hay. Khi Đế quốc La Mã Thần thánh Mới gia nhập hệ thống tiền tệ của chúng ta, mọi việc sau này sẽ dễ dàng hơn."
Rõ ràng, việc Áo có chấp nhận khoản vay hay không chỉ là vấn đề nhỏ. Điều quan trọng nhất là chính phủ Vienna phải công nhận "hệ thống bảng-gold" và gia nhập hệ thống thanh toán quốc tế do bảng Anh dẫn đầu.
Để đạt được lợi ích to lớn từ việc đồng bảng trở thành tiền tệ quốc tế, từ giữa đến cuối thế kỷ 19, người Anh bắt đầu tung bảng ra nước ngoài một cách điên cuồng, sử dụng mọi biện pháp để buộc các chính phủ công nhận quyền bá chủ của bảng.
Quyền bá chủ thế giới của Đế quốc Anh thực tế được xây dựng trên quyền bá chủ tiền tệ của bảng Anh. Người Anh đã thu được lợi ích khổng lồ thông qua biện pháp tinh vi này.
Sau này, khi đế chế thuộc địa của Anh sụp đổ, điều đầu tiên sụp đổ cũng chính là quyền bá chủ tiền tệ. Để giành quyền bá chủ tiền tệ, người Mỹ cũng tung ra chiêu bài xuất khẩu đô la.
Từ đầu tư vào châu Âu sau Thế chiến I, bơm máu cho Đức để họ phục hồi; đến kế hoạch viện trợ châu Âu sau Thế chiến II, tất cả đều nhằm giành quyền bá chủ tiền tệ.
Người Anh có thể từ bỏ các thuộc địa rộng lớn, nhưng quyền bá chủ tiền tệ luôn được họ nắm chặt trong tay. Lợi ích từ đó có thể thấy rõ.
Thủ tướng Granville quan tâm hỏi: "Sir Russell, ông nghĩ xác suất chính phủ Vienna chấp nhận thiện chí của chúng ta là bao nhiêu?"
Sau một lúc suy nghĩ, John Russell mỉm cười trả lời: "Điều này phụ thuộc vào mức giá chúng ta đưa ra!
Dù quy mô kinh tế của Đế quốc La Mã Thần thánh Mới rất lớn, nhưng họ đang ở thế yếu về dự trữ vàng. Trên con đường xây dựng quyền bá chủ tiền tệ quốc tế, họ không đủ tư cách để cạnh tranh.
Hiện tại, ngoài người Pháp có khả năng đe dọa chúng ta trong lĩnh vực này, không quốc gia châu Âu nào có đủ sức mạnh. Tất nhiên, nếu Nga hoàn thành cải cách nội bộ, họ cũng sẽ là một mối đe dọa."
Sau một lúc do dự, Thủ tướng Granville đưa ra quyết định: "Vậy chúng ta phải nhanh chân hơn. Phải tranh thủ kéo thêm nhiều quốc gia về phía mình trước khi đối thủ kịp phản ứng."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com