Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

bên em,

15:00 ngày 7 tháng 9 năm 2025, âm hưởng của tình yêu được vọng lại từ:

dây chuyền ánh lửa.


────୨ৎ────




1,

"Chết tiệt, anh biết điều gì là kinh khủng nhất khi ra chiến trường không?"

Giọng nó vọng vào lớp học trống hoảnh, mỗi chữ như lưỡi dao rạch ngang vách tường ẩm mốc.

"Trả lời, Hàn Vương Hạo."

Câu kế tiếp tràn tới, mạnh mẽ như báng súng gõ vào ngực. Đó là giọng em trai tôi, Phác Đáo Hiền; một kẻ không học được cách im lặng là gì khi trong lòng nó đang gào thét. Tiếng nó vang lên bằng chất giọng nhiều người ngoài kia kính nể hết mực, còn tôi thấy phiền phức cực độ, nghe như tiếng sư tử đói réo vang suốt cả đêm rừng, chỉ vì không vừa ý bữa ăn được dâng tới.

"Em không phải Chỉ huy ở đây, đừng ra lệnh bất kỳ điều gì với anh."

Tôi không ngẩng lên nhìn nó. Có một quyển sách do bọn trẻ đề xuất trước tầm mắt và tôi chọn nhìn vào đó. Bìa sách đã nhàu, gáy sách long mép, một trang trong còn vương cả vệt phấn trắng tụi nhỏ vô tình quệt vào. Tôi giả vờ chăm chú, như thể đọc được điều gì ghê gớm hơn là thứ đang gào lên oai oái trước mặt mình.

Phác Đáo Hiền không phải đứa dễ bỏ cuộc.

Nó im lặng một nhịp. Tiếng bước chân tiến lại gần, nặng nhọc di chuyển giẫm lên bùn đỏ chiến hào. Gió lùa qua cửa sổ lớn sau lưng tôi, mang theo mùi khói súng và hơi người chưa lấm nước; mùi mà tôi từng rất quen.

"Anh thích giả vờ với em à?" Giọng nó nhỏ dần, dù ý trong đó vẫn sắc bén như cũ. "Anh nghĩ ngồi đây đọc sách, đi dạy bọn trẻ, là lừa được em về việc chọn Thủ kỳ mới?"

Tôi không trả lời.
Tôi ghét nó như thế này.

"Anh nghĩ em không biết? Cho rằng em là thằng ngu hay như nào?"

Tôi lật một trang sách. Nó không đủ dày để che chắn ánh mắt tôi lúc này, nhưng ít nhất cũng ngăn tôi phải đối diện với cơn bốc hoả.

"Vương Hạo, trả lời."

Phác Đáo Hiền có một tật xấu, nó hay nghiến răng mỗi khi tức giận, mang theo thanh âm ken két. Đôi giày quân đội cọ vào nền xi măng xám xịt, tạo nên thứ tiếng ồn nặng nề và lạnh buốt.

Tôi chậm rãi đặt quyển sách xuống, hình như cuốn sách cũ mèm này còn quan trọng hơn những lời nó vừa nói. Có lẽ với tôi, thật sự vậy.

"Anh không nghĩ em ngu, đừng gán buộc anh vào điều vô lý đến thế. Em là em trai anh, chuyện Thủ kỳ mới là chuyện vừa được chỉ định."

"Anh không nghĩ phải báo tin em ngay."

Tôi nghe tiếng Đáo Hiền bật cười; ngắn ngủi, sặc mùi giễu cợt. Nó luôn mang khuôn mặt của một kẻ máu lạnh, tôi không hiểu vì sao nó phải cố gáng gồng mình lên kiên cường làm gì.

"Chỉ định?" Nó lặp lại, từng chữ tựa như bị bẻ gãy giữa kẽ răng. "Anh làm như mình không có quyền lựa chọn vậy, Vương Hạo. Anh có quyền nhưng anh lại nhận lời. Và anh không nói với em vì biết em sẽ không để yên."

Tôi thở dài, không rõ là vì chán nản bởi nó càm ràm quá nhiều hay mệt mỏi vì nó vừa trở về đã hăng hái muốn tranh cãi đến thế.

"Đúng. Anh không nói vì anh biết em sẽ làm ầm lên như bây giờ."

Đáo Hiền bước thêm một bước, giọng nó chùng xuống rõ rệt: "Xin lỗi anh, em là đứa không phép tắc và ích kỷ. Mong anh không tha thứ."

Nói rồi, nó mở cửa, mất hai bước chân để tiến ra ngoài hành lang, từ tốn khép cửa lại. Phác Đáo Hiền luôn vậy, quân đội đã nuôi dạy nó không được phát tán lửa giận bừa bãi. Và nó thật sự là một hình tượng chuẩn mực cho người đứng đầu.

Còn đứa em trai ngoan thì không.

Tôi gập quyển sách, cẩn thận nhét nó vào khoảng hở ra của tủ sách. Không biết vì sao, tôi hối hận vì không nhìn thẳng vào mắt Đáo Hiền, lớn tiếng bảo rằng nó nên về Sở Chỉ huy, chứ đừng ở đây lên giọng dạy bảo tôi phải thế này thế kia. Phải làm theo ý nó, phải nghe lời nó răm rắp.

Tôi ước mình đã nói thế.

Chắc tôi sẽ để dành cho một dịp đụng độ nào đó, căng thẳng hơn cả lần gặp mặt thoáng qua này.

Lần sau, Phác Đáo Hiền sẽ khác. Có thể nó còn quá quắt hơn lần này, hay muốn đấm tôi ngay khi tôi vừa mở mồm. Để rồi, nó vẫn là em trai tôi, vẫn ở đó ngay cả khi tôi quay đầu bỏ đi.























2,

Đế Đô là một thành phố chẳng bao giờ ngủ đúng nghĩa. Vào mùa đông, lớp sương mỏng phủ lên từng mái nhà kẽ ngói như thể ai đó vừa cẩn thận trải bột mì lên ổ bánh chưa nướng. Mùa hè oi ả, tiếng rao hàng vang khắp các ngã phố, lẫn trong tiếng chuông tàu điện kẽo kẹt chạy qua quảng trường trung tâm.

Tôi kể cho tụi nhỏ nghe về Đế Đô như thể kể về một người thân cũ. Nơi có thư viện lớn hơn ba ngôi làng gộp lại, có đường tàu dài tới mức phải ngồi ngủ gật ba lần mới tới ga cuối, và có một chiếc ghế đá gần bưu cục, nơi người ta thường ngồi đọc thư rồi không viết lại bao giờ.

Một đứa nhỏ giơ tay: "Thầy Hạo ơi, sao thầy không sống ở Đế Đô nữa?"

Tôi mỉm cười, xếp gọn tập bản đồ bọn trẻ vừa tô màu nguệch ngoạc. "Vì có vài người, vài chuyện, thầy không thể để tụi em ở lại mà không ai dạy bảng cửu chương tử tế cho tụi em."

Tôi là thầy giáo, một cách không chính thống. Tôi được học hành đầy đủ tại Đế Đô, nhưng không theo khuôn mẫu chuẩn chỉnh của một người truyền đạt kiến thức.

Nơi làng tôi dạy cách Đế Đô gần bốn trăm cây số. Ở đây không có tiếng còi tàu, không có đèn đường lấp lánh hay rạp chiếu bóng, chỉ có tiếng gà gáy sáng sớm và tiếng lật sách rì rào khi bọn nhỏ bắt đầu học buổi đầu tuần. Tôi mừng rằng chúng không phải nghe tiếng bom đạn vì chiến tranh đã rời đi, hay trong tôi chưa thật sự tin.

Tôi yêu đám trẻ, chúng hay hỏi tôi về quê hương mình, như để nhắc nhở tôi rằng không được quên nguồn cội. Tôi kể về chiếc tháp đồng hồ khổng lồ, có bánh rán bán vào buổi sáng và những đoàn xe buýt màu xám khói. Tôi kể nhiều lắm, chắc mẩm rằng Đế Đô trong mắt chúng là hình ảnh của thư viện ngập ngụa giấy mục của những học giả ngủ quên trên bàn đọc, là nơi hùng vĩ tôi thuộc về.

Một phần mộng tưởng trong tôi.

Song, tôi không kể chúng về một Đế Đô khác.

Một Đế Đô mà tôi từng bước qua những ngày mất điện toàn thành phố, đứng giữa quảng trường nghe tiếng loa phát thanh lặp lại tin thắng trận như một đoạn băng bị tua lỗi. Tôi không thể kể về mùa đông khi người ta gom áo len cũ, ga trải giường để đổi lấy túi than tổ ong, rồi co ro trên bậc thềm bưu điện chờ thư hồi âm từ mặt trận. Càng không kể về người bạn ngồi cạnh tôi trong lớp học năm cuối - người đã rơi lại sau một tấm chắn sụp đổ trong vụ đánh bom kho đạn năm nào. Tên cậu lưu trong danh sách đã hi sinh vì tổ quốc, còn tôi thì nhớ mãi mùi xăng cháy vương trên cổ tay trái suốt nhiều tháng sau đó.

Đế Đô sẽ hiện ra hoàn toàn tàn nhẫn trong ánh mắt bọn trẻ con nếu tôi kể về con đường gạch đỏ loang lổ máu người đêm đảo chính, hay hàng cây bị mất nửa thân vì mảnh pháo; hoặc vào mùa đông hai năm trước, tuyết rơi dày trên xác người, nhưng người dân vẫn lặng lẽ xếp hàng mua củi, vờ không nhìn thấy thì hơn.

Tôi lựa chọn không kể. Vì không muốn biến ký ức của lũ trẻ thành điều gì đó thảm hại trong sách sử, hay tạo nên một nỗi sợ trong chúng.

Có người sẽ bảo tôi tốt bụng, ca ngợi tôi là người thầy giáo thiện lương. Tiếc rằng tôi không nghĩ vậy.

Thật ra tôi ích kỷ hơn. Tôi giữ Đế Đô đẹp đẽ, sống động, vì một ngày nào đó, tôi còn muốn trở về nơi tôi từng giam mình suốt chục năm. Nơi tôi lưu giữ khoảng thời không bên em trai mình.

Nơi Phác Đáo Hiền đã trưởng thành rực rỡ, đang sống huy hoàng, mỗi ngày tỉnh dậy đều chọn ý niệm bảo vệ nơi này.

Nơi tôi và nó, cùng chung nhịp đập.























3,

'Bản tin ngày 10 tháng Sáu năm 917:

Sở Chỉ huy Trung ương thông qua đối sách giữ biên giới phía Đông, tập trung củng cố tuyến tiếp tế dọc dãy Phong Lĩnh và tái lập liên lạc giữa các đơn vị đóng quân xa. Đối sách có hiệu lực từ đầu tuần tới.

Ở một diễn biến khác, Chỉ huy trưởng Phác Đáo Hiền được trao Huân chương Bạch Kim vì những đóng góp nổi bật trong chiến dịch cứu viện miền Bắc đầu năm. Sở Chỉ huy xác nhận anh là người trực tiếp tái lập hành lang vận tải chỉ trong 36 giờ, giữa điều kiện thời tiết khắc nghiệt và thiếu thốn nhân lực.'

Tặc.

Tôi với tay, tắt radio như người ta quyết tâm đóng lại một trang báo đầy rẫy tin tức dở tệ.

"Hiền giỏi quá, phải không bố?"

Tôi xới một muôi cơm vào chén, cố giấu đi sự rạng rỡ không cần thiết trong giọng. Tôi biết mình đã lỡ đong thêm một chút tự hào, dù vô tình hay cố ý. Và tôi khó kiềm chế điều đó.

"Đừng nói chuyện hiển nhiên thế với người nuôi dạy nó là ta."

Người ngồi đối diện nói, giọng trầm trầm toát ra từ tiếng vọng trong rừng sâu, nơi ông hay đóng quân ngày trẻ. Ông không ngẩng lên, tiếp tục xé bánh mì bằng tay trái và gắp rau bằng tay phải. Mỗi cử chỉ đều tuân theo một lịch trình cài sẵn.

Bố tôi, Thống Đốc của Đế Đô hùng mạnh.

"Con nghĩ người nuôi nó là dì Bích."

Có tiếng rớt thìa trong bếp, tôi cười phì vì tiếng động lớn xé toạc bầu không khí mang hơi hướm yên tĩnh bất thường. Một loại trạng thái không nên tồn tại giữa tôi và người bố đáng kính.

Một điềm gở xấu sắp tới.

"Đừng trêu dì nữa."

Ông nói, vẫn không chịu ngẩng lên. Một khoảng lặng vô hình tiếp tục bao trùm lấy bố con tôi.

Bố tôi ít khi thế này, vì bố là người tôi cung kính dõi theo bằng tất cả ngưỡng vọng đời mình. Ông liêm chính, trung thực, hội tụ trọn vẹn mọi đức tính cần có của một người đứng đầu trong hệ thống quân đội. Tôi lớn lên dưới bàn tay thô ráp hằn sẹo, trưởng thành giữa những lời lẻ ngắn gọn hô hào phải mạnh mẽ, không được chùn bước. Tuổi thơ của tôi đóng khung trong từng lớp câu hỏi khó nhằn của Thống đốc Đế Đô:

"Con có làm nên chuyện không? Đứng dậy, ngẩng cao đầu lên và cho người khác thấy đi."

Tôi không ghét câu đấy, tôi cam đoan.

Cho dù nó không đi kèm một cái ôm, một cái vỗ lưng hay chút ít ấm áp nào khiến người ta sống sót giữa biển lạnh buốt hoài mong. Mỗi lần ngã, mỗi lần mếu máo, tôi đều nghe câu ấy vang lên, không sai lệch một nhịp, không đổi giọng dù chỉ một lần. Bố chưa bao giờ hỏi tôi có mệt không, hôm nay vui không, cảm thấy quyết định lựa chọn làm thầy giáo đúng sai thế nào.

Vì bố tôi không được dạy như thế.

Bố yêu tôi bằng kỷ luật thép ông được rèn giữa hàng chục năm xương máu. Một loại tình cảm không khoe khoang, không chiều chuộng, nó vốn lặng lẽ hiện diện trong mỗi bữa cơm đầy món ăn yêu thích, từng chiếc áo giặt sạch gấp vuông vức. Và vô số lần ông đứng đợi tôi ngoài hiên, bất kể trời mưa hay tuyết rơi, chỉ để nói vỏn vẹn rằng Đi vào nhà đi rồi xoay người đi thẳng.

Ông dạy tôi đứng vững chắc như rễ cây chống chịu qua mùa bão lũ, chứ không bao giờ chịu dạy tôi cách đòi hỏi người khác sự xoa dịu.

"Về việc chọn lựa Thủ kỳ mới của Sở," Ông đặt miếng bánh mì xuống đĩa, ánh mắt thoáng liếc sang tôi. "Con nghĩ đến đâu rồi?"

Tôi gắp một cọng rau, giả vờ chú ý vào chén cơm trắng tinh trước mặt. "Con nghĩ được một chút."

"Một chút?"

"Sở bảo rằng muốn có câu trả lời liền sao? Họ ép người quá đáng rồi đó."

Bố trừng mắt nhìn tôi, ý bảo tôi cẩn thận mồm miệng ít nhiều. Tôi cười xoà, lại nói thêm một câu chữa cháy: "Một tuần nữa con sẽ trả lời, lúc đó chắc thu xếp việc ở trường cũng xong."

Ông ngừng nhai, đôi đũa được gác ngay ngắn trên cái chén mẻ một góc. Tiếng đồng hồ treo tường kêu tích tắc nghe rõ mồn một. Tôi tưởng bố đang nghĩ xem nên răn đe dạo gần đây tôi mạnh miệng ra sao, vì chuyện nói năng không cẩn thận về Sở rất có thể bị bế đi bất kỳ lúc nào.

Song không phải, lần đầu tiên trong đời mình, Wangho chứng kiến bố cúi gầm thật lâu. Dường như ông đang cân nhắc một điều chưa từng nằm trong khuôn khổ sắt thép mà ông sống cả đời.

Ngón tay ông gõ nhịp ngắn trên mặt bàn, bốn nhịp rồi dừng hẳn. Giọng ông vang lên, chần chừ lộ rõ trong tông giọng:

"Nếu con không thích, cứ từ chối cũng được."

Nói không sốc chắc chắn là nói dối, đôi đũa trong tay tôi rơi cạch xuống chén cơm. Tôi ngẩng lên, muốn khẳng định mình đã nghe nhầm.

"Bố nói gì cơ?"

Bố không nhìn tôi, ông vẫn ngồi yên, hai bàn tay đan lại áp vào trán. Sự yên lặng này càng khiến câu nói vừa nãy nặng trịch hơn hòn thiên thạch bất ngờ chọn Địa Cầu làm địa điểm tiếp đất.

"Chuyện liên quan đến tính mạng, cũng đã lâu rồi con không tập luyện thể lực, thể trạng chắc chắn sẽ-"

"Bố xem thường con?"

Tôi cắt ngang, không kiềm chế được sắc thái gắt gỏng dần chiếm trọn giọng nói mình.

Ánh mắt bố khựng lại trong thoáng chốc, ông không phủ nhận nhưng cũng chẳng đồng ý. Bầu không khí vốn hoà hoãn phút trước lập tức đông cứng, như đột ngột bị ngưng đọng thời gian.

Mắt ông không tiêu cự, nhìn về một điểm mơ hồ nào đó sau đầu tôi. Lúc này, tôi mới để ý, gần đây bọng mắt bố rất dày, hình như ngủ không được.

"Ta không muốn con có chuyện."

Sáu chữ khô khốc thốt ra, nặng nề đến mức tôi tròn mắt thất kinh đăm đăm nhìn vào người đàn ông hi sinh cả thanh xuân để phụng sự đất nước.

Chắc hẳn tôi bị ảo giác, nhưng nhìn vào mái đầu đã sớm bạc gần hết của bố, bất giác tôi nhớ đến hình ảnh Thống đốc từng khiến trăm nghìn binh sĩ cúi đầu. Nhưng bây giờ ông khác; bố vẫn là bố tôi, tôi được nuôi dạy để trở thành con trai ông, không phải kẻ dưới quyền.

Tôi chớp mắt, bật cười khẽ. Lòng tôi còn ấm hơn chén cơm nóng hổi lúc nãy vừa được bới đầy, tôi với tay gắp một miếng thịt bò mời bố.

"Con hiểu mà." Giọng tôi nhẹ hơn, nghe như đang dỗ dành một đứa trẻ. "Bố yên tâm, con sẽ suy nghĩ thấu đáo, không bồng bột nữa."

Ông không đáp lời, lông mày giãn ra đôi chút.

Tôi lục tìm trong trí nhớ của mình về một câu chuyện cười nào đó bọn nhỏ hay truyền tai nhau, muốn đánh lạc hướng bố. Mãi không nghĩ ra, tôi buộc mồm kể vài chuyện về Phác Đáo Hiền:

"Bố, đợt trước Hiền đến thăm con ở trường, nó định dạy bọn nhỏ leo cây, xong bày đặt làm mẫu leo cái cây cao nhất gần đó."

"Được nửa đường thì áo vướng cành, nó treo lủng lẳng như con gấu túi, miệng thì cố hét xuống: 'Trong tình huống này các em phải bình tĩnh, giữ trọng tâm' Còn mấy đứa nhỏ ở dưới cười lớn, trêu nó bám cây như tắc kè."

Tôi cười khùng khục khi nhớ lại cảnh tượng ngày hôm ấy, lũ trẻ cứ liên tục vào gọi tôi ra xem, luôn mồm bảo cứu chú Hiền mắc kẹt trên trời.

Khoé môi bố hơi cong, lông mày di chuyển trở về chỗ cũ, tôi khá chắc tâm trạng bố đã tốt lên.

"Thằng bé vẫn hay đến thăm con à?"

"Thỉnh thoảng thôi ạ. Nó bận mà, nhưng rảnh được hôm nào là lò dò đến ngay, bày đủ trò làm bọn nhỏ cười. Có lần còn giả vờ làm ngựa cho tụi nó cưỡi, bò cả sân đất đỏ."

Tôi gắp thêm một miếng thịt vào chén bố, chăm chú quan sát sắc thái gương mặt ông. "Lúc cần nghiêm túc, bọn nhỏ bảo nó còn đáng sợ hơn con. Con thấy có nó tới, lớp học đỡ trống trải hơn."

Lần này, bố im lặng thật lâu. Rồi chậm rãi, ông nhấc đũa lên, nhận miếng thịt trong chén, động tác ấy giống như vừa gỡ được canh cánh khó chịu trong lòng.

Tôi cười, lại cố lục tìm mấy câu chuyện khác kể bố nghe. Một tháng ông ở Sở nhiều hơn ở nhà, một năm mười hai tháng, từ khi tôi đi núi rừng làm công việc giảng dạy và Phác Đáo Hiền thăng cấp trở thành Chỉ huy trưởng, nhà tôi gặp nhau với số lần đếm trên đầu ngón tay. Vì vậy lần nào gặp, tôi cũng làm như mình là con vẹt, nói liên mồm không dứt nổi.

Sau cùng, bố rất thích nghe tôi nói linh tinh.

Nhà tôi còn một người, là dì Bích.

"Hạo, lần này về con ở bao lâu?"

Bữa cơm trôi qua trong yên ả. Khi bố đứng dậy ra phòng khách, tôi theo dì Bích xuống bếp. Tiếng nước chảy rì rào, dì rửa chén còn tôi ngồi ở bàn, quyết định gọt trái lê đã chín quả.

"Khoảng vài ngày ạ, nhưng mà cháu phải quay về trường sớm, bàn giao công việc nữa."

Dì Bích là vợ hai của bố sau khi mẹ tôi mất, dì không đích thân sinh ra tôi, nhưng rõ ràng tôi xem trọng dì không khác gì mẹ mình. Bà rất giản dị, truyền thống và quy củ, hoàn toàn là một người vợ hoàn hảo của Thống đốc Đế Đô.

Dì đặt cái chén cuối cùng lên giá, rút khăn lau tay, vừa ngó sang tôi vừa nói:

"Hạo."

"Dạ?"

"Hay là ở trường luôn đi? Bao giờ Sở tìm được một người khác, con hẳn về Đế Đô."

Và bà là người có chính kiến rõ ràng hơn bất kì người phụ nữ nào trong thời đại này, bao gồm cả việc bàn đến vấn đề chính sự của đất nước.

Tôi cười xoà, lưỡi dao vẫn đều đặn lướt qua lớp vỏ mỏng. "Sở giao thế, nếu con không chấp thuận thì không xứng mặt con trai cả của Thống đốc gì hết."

Dì Bích nghiêng đầu, gấp gọn chiếc khăn vào kệ. Mất hai bước để bà ngồi đối diện tôi, mắt bà không một chút gợn lảng tránh, thẳng thắn muốn người khác nghe theo ý bà.

"Bố con dù sao cũng là Thống đốc, ông ấy sẽ có cách khiến Sở tìm một người khác thay thế."

Tôi sắp xếp mớ lê đã gọt vào dĩa, bày trí chúng thành dĩa lê đẹp mắt, nhìn vào lập tức muốn ăn ngay. Dì Bích rất thích ăn lê, điều này tôi biết vào năm bà mới dọn vào nhà ở; lúc đó nhà tôi trồng một cây lê rất to, ra quả nào quả nấy đều ngọt như đường, ăn vào thanh lòng mát dạ.

"Dì ăn lê trước đã, lúc nãy bảo không ăn cơm cùng con vì đầy bụng mà."

Tôi cầm bàn tay trái của dì, dùng một chút thủ thuật xoa bóp lòng bàn tay. Sờ đến vết sẹo lớn ở mu bàn tay trắng trẻo, tôi nhớ ra một số kí ức.

"Còn không phải vì chuyện của con mà dì đầy bụng sao? Khó chịu mấy ngày nay rồi." Bà thở ra, nhìn mấy miếng lê sạch vỏ, hình như không còn thích thú nữa.

"Nhưng nếu con vào quân ngũ, Hiền sẽ có người bầu bạn cùng, đỡ nhớ nhà mà dì."

Tôi dừng tay một thoáng, ngón tay miết lên vết sẹo đã từng phồng rộp trước kia. Vết sẹo đó là do tai nạn năm tôi 7 tuổi, cũng là thời điểm người dân biểu tình chống đối việc nhà nước tăng cao tiền thuế để có tiền chi trả cho vũ khí chiến tranh. Hôm đó, dì Bích dẫn tôi đến thăm bố sau một thời gian ông không thể về nhà, hôm ấy tôi rất vui, lí lắc nhảy múa suốt cả buổi đi. Chỉ là không may mắn lắm, lúc trở ra tôi liền bị người biểu tình nhắm vào, họ hắt nước sôi đến chỗ tôi, tất cả nước nóng đều bị dì cản lại. Sau đó, tôi sợ hãi khóc rống, một câu kêu đau dì cũng không nói, chỉ chuyên tâm kiểm tra xem tôi có sao không.

Kí ức ấy không phai được.

"Sở đã bắt Đáo Hiền nó cống hiến, còn muốn bắt thêm một đứa nữa. Thế là dì mất tận hai đứa con trai sao?"

Người lớn tuổi hay có cảm giác không an toàn, ngày trước dì còn bắt bố phải kí giấy thông qua cho Phác Đáo Hiền mỗi tuần về nhà một lần. Tôi hạ giọng, suy nghĩ cẩn trọng vốn từ của mình: "Không mất mà, con và Hiền vẫn ở đây, vẫn thường xuyên về thăm dì được."

Dì ngước mắt lên, đáy mắt bắt đầu ánh hơi nước. Tim tôi thoáng nhói, hấp tấp bồi thêm vài câu, muốn xoa dịu người phụ nữ dễ xúc động này:

"Thôi nào, không khóc. Dì cứ thế này, bố và Hiền nhìn thấy tưởng con bắt nạt dì mất."

Bàn tay trong tay tôi khẽ khàng run, rồi lặng lẽ siết chặt, như muốn níu lấy lời hứa nhỏ nhoi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com