chết trong lòng em,
6,
Tôi mơ một giấc mộng.
Có một khoảng thời gian dài, tôi sống ở quân ngũ. Tôi từng là triển vọng sáng trong trường học đào tạo chuyên biệt dành cho con cái của viên chức cán bộ cấp cao. Tôi luôn sống với niềm tin đặc biệt mọi người dành cho mình.
Tôi là con trai của Thống đốc, chắc chắn tôi sẽ làm nên hàng tá chuyện thành danh Đế Đô.
Ai cũng nghĩ vậy, chính tôi cũng tự cho rằng mình sẽ như vậy. Tôi luôn có thành tích xuất sắc nhất, từ bài kiểm tra lý thuyết đến những cuộc thi thể lực khó nhằn. Trong mắt thầy cô, tôi là khuôn mẫu để mang ra so sánh; trong mắt bạn học, tôi là đích đến họ phải đuổi kịp.
Tôi quen với việc đứng đầu, quen với tiếng vỗ tay vang lên sau lưng, quen với ánh mắt đầy mong chờ dõi theo mỗi bước chân. Lúc đó, Phác Đáo Hiền hướng đến tôi bằng cái nhìn ngưỡng vọng đổ đầy đôi mắt của một đứa trẻ.
Nó từng bảo, tôi như mặt trời rực rỡ đỏ thẫm, sinh ra để toả sáng trên bầu trời Đế Đô cao ngất.
Nhưng Phác Đáo Hiền không hề biết, đỏ thẫm là màu máu nhuộm ướt bàn tay.
Năm đó tôi mười tám tuổi, mới ra quân trường, còn đang đeo trên vai quân hàm sĩ quan tập sự. Đêm ấy, còi báo động hú vang khắp doanh trại, từng hồi dài như xé rách tai.
"Có loạn ở biên giới! Toàn bộ đội hình chuẩn bị xuất phát!"
Bọn tôi vừa khoác vội súng, vừa chạy theo hàng ngũ. Không ai kịp hỏi chi tiết, chỉ nghe lệnh là lập tức làm theo. Khi ấy, trong tôi dâng lên sự phấn khích và căng thẳng như trước một trận đánh thật sự. Tôi nghĩ mình sắp chứng minh được bản lĩnh, sắp trở thành niềm tự hào của trường, của cha tôi, của cả Đế Đô.
Chúng tôi tiến về một ngôi làng. Từ xa đã thấy ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt, nhuộm đỏ nửa bầu trời. Càng tới gần, tôi càng cảm nhận rõ mùi khói cay xè quấn lấy mũi. Trong ánh lửa ấy, tôi nhìn rõ từng mái nhà sập xuống, từng bóng người chạy hoảng loạn như đàn chim vỡ tổ.
"Bắn! Không được để sót một ai!" Khẩu lệnh vang lên, dõng dạc, không một khe hở cho sự phản đối.
Tôi khựng người. "Không một ai"? Kẻ địch đâu? Tôi không thấy quân nổi loạn nào, chỉ thấy phụ nữ, người già, trẻ con. Thế mà không ai ngập ngừng dừng lại. Tiếng lên đạn, tiếng súng nổ xé toạc bầu trời. Cả đơn vị tràn vào làng như bầy sói đói.
Tôi đứng giữa dòng người, tay ôm chặt khẩu súng, ngón tay run run đặt trên cò. Tôi nghe tiếng trẻ con khóc thét, tiếng phụ nữ kêu gào, tiếng một ông lão gào lên trong tuyệt vọng: "Chúng tôi không làm gì cả! Xin tha cho chúng tôi!"
Tiếng kêu ấy nhanh chóng bị át đi bởi tiếng súng. Ông ngã gục ngay trước mắt tôi, máu chảy loang trên nền đất, tràn đến tận giày tôi.
Một đứa bé gái, chừng sáu, bảy tuổi, áo vá chằng vá đụp, lao về phía tôi. Khuôn mặt em lấm lem tro bụi, đôi mắt đen láy mở to trong veo. Em níu lấy vạt áo tôi, bàn tay nhỏ bé run lẩy bẩy, giọng nấc nghẹn:
"Chú... cứu mẹ cháu... Mẹ cháu còn trong kia..."
Tôi chết lặng.
Tôi muốn gỡ súng ra, muốn bế em chạy. Nhưng ngay giây sau, một viên đạn từ sau lưng đồng đội bay tới, xuyên thẳng qua ngực em. Thân hình nhỏ xíu đổ sập xuống, bàn tay trượt khỏi vạt áo tôi. Máu từ lồng ngực em phun ra, bắn tung toé lên tay tôi. Nó nóng rực.
Tôi ngồi sụp xuống, ôm lấy cái thân thể đã mềm oặt kia. Nhưng em đã không còn thở nữa. Đôi mắt trong veo kia vẫn mở, như trách móc, như cầu cứu, nhưng vĩnh viễn không khép lại.
Tôi ngẩng lên, nhìn quanh, chỉ thấy những hình dáng quen thuộc trong bộ quân phục đang lạnh lùng bóp cò, không chút do dự. Một người lính trẻ đứng cạnh tôi cười khẩy: "Sao cậu còn chưa bắn? Mệnh lệnh đấy."
Mệnh lệnh.
Tôi muốn hét lên, muốn cãi lại, nhưng cổ họng nghẹn cứng. Tôi chỉ có thể nhìn ngôi làng bị nghiền nát trong biển lửa, xác người nằm ngổn ngang, tiếng kêu gào dần dần chìm vào im lặng.
Đêm ấy, tôi nôn thốc nôn tháo đến mật xanh mật vàng. Đầu óc quay cuồng, lồng ngực như bị xé nát.
Tôi biết rất rõ. Đó không phải "phản loạn". Đó chỉ là một cuộc thanh trừng chính trị. Bọn tôi được đưa đến không phải để bảo vệ, mà để che giấu sự thật. Để biến dân thường thành "kẻ địch" trên báo cáo.
Kể từ hôm ấy, mỗi lần nghe tiếng súng, tôi lại nhớ đến bàn tay nhỏ bé đã rời khỏi vạt áo mình. Mỗi khi thấy màu cờ tung bay, tôi lại nhớ đến màu máu đỏ loang dưới chân.
Người ta bảo tôi sinh ra là để toả sáng. Nhưng tôi biết, ánh sáng mà tôi có, chỉ là thứ tia sáng phản chiếu từ biển máu rực màu tàn nhẫn.
Tôi mở mắt.
Ánh sáng mờ của buổi sớm len qua khe rèm cửa, quét thành những vệt dài trên tường. Lưng áo ướt đẫm, mồ hôi dính bết như vừa bị dội cả chậu nước lạnh. Tôi chớp mắt vài lần, hít một hơi sâu, cố gắng ghìm lại nhịp tim dồn dập còn sót lại từ giấc mơ.
Trên giường còn một nửa lớp chăn lạnh. Phác Đáo Hiền không còn nằm cạnh tôi nữa. Đã một khoảng thời gian dài tôi mới mơ lại, không ngờ mơ thấy viễn cảnh tồi tệ nhất.
"Anh dậy rồi à?"
Tôi nghe loáng thoáng giọng Phác Đáo Hiền vang từ ngoài cửa. Tôi ngẩng lên, bắt gặp nó đang bước vào, tay còn cầm một phần thức ăn đơn giản của quân đội còn bốc khói.
Tôi quay lưng, kéo chiếc áo cũ hôm qua khoác vào người. Động tác hơi khựng lại một nhịp, bởi lớp vải chạm vào vùng da nhạy cảm ngay bên sườn trái. Nơi viên đạn từng xuyên thẳng.
"Xong việc rồi à?"
Tôi hỏi, không muốn để ý đến ánh mắt dán lên vết sẹo dính chặt trên làn da tái nhợt.
"Vẫn còn đau sao?"
Tôi đón lấy khay thức ăn, bày ra dáng vẻ thong thả nhất: "Không, lâu lắm rồi không đau nữa."
Tay Phác Đáo Hiền ôm lấy phần sườn bên trái, quen thuộc chạm vào vết sẹo qua một lớp áo. Áp lực ấm nóng truyền qua vải mỏng, khiến tôi bỗng dưng thấy nhói buốt ở vết sẹo.
"Anh nói dối." Giọng nó chắc nịch.
Tôi bật cười khan, khay thức ăn suýt trượt khỏi lòng bàn tay. Tôi giả vờ trách móc: "Em ấn vào thì hỏi xem nó có đau không?"
Tay nó không rời, ngược lại chậm rãi miết nhẹ dọc theo đường sẹo. Lòng bàn tay ấm áp vỗ về từng chút, như thể có thể xua tan được cơn nhức buốt đang len lỏi trong xương tủy tôi.
Ngón tay nó ấn thật khẽ, rồi lại vuốt ra, vòng quanh vết sẹo theo quỹ đạo quen thuộc, giống hệt cách người ta dỗ dành một đứa trẻ vừa vấp ngã. Mỗi nhịp vuốt qua, hơi thở của nó cũng chậm dần, đều đặn, tựa như muốn tôi tin rằng chỉ cần kiên nhẫn một lúc thôi, cơn đau sẽ biến mất.
Tôi đưa tay lên, chặn lấy bàn tay đang mải miết xoa nơi sườn trái của mình, rồi áp lòng bàn tay còn lại lên gương mặt Phác Đáo Hiền. Làn da nó vẫn còn chút se lạnh của buổi sớm, nhưng ở đuôi mắt lại hằn rõ mỏi mệt.
Ngón cái tôi miết một vòng nhỏ, xoa phần đuôi mắt nó. Động tác chẳng khác gì dỗ dành, cũng chẳng phải trả lời cho câu hỏi vừa rồi. Tôi chỉ muốn nó biết, tôi không sao; hoặc ít nhất là tôi đang muốn nó tin như vậy.
Đôi mắt Phác Đáo Hiền khép hờ, hàng mi dài rũ xuống, như buông bỏ hết phòng bị. Gương mặt nghiêng nghiêng, nó để mặc sức nặng của mình tựa vào lòng bàn tay tôi. Cái dựa rất nhẹ, nhưng khiến tim tôi dội lên từng nhịp khó lường.
Tôi giữ nguyên bàn tay áp sát, ngón cái vẫn chậm rãi vuốt ở đuôi mắt nó. Trong thoáng chốc, khoảng cách giữa hai chúng tôi chỉ còn là khoảng trống ngập hơi thở, bình yên đến mức tôi ước gì cơn nhói ở sườn trái kia cũng được xoa dịu theo.
7,
Tôi và Phác Đáo Hiền về nhà.
Hôm trước ngủ một giấc dài, lên xe tôi lại ngủ thêm một giấc, hại Phác Đáo Hiền liên tục kiểm tra xem sức khoẻ tôi có bị làm sao không.
Tôi mơ mơ tỉnh tỉnh, nghe tiếng mưa lất phất gõ cửa kính xe. Con đường về nhà dài, êm đềm đến mức mắt tôi tự động díp lại, ngủ ngon hơn trên chiếc giường cứng ngắt ở Sở. Khi xe dừng, tôi lờ mở mắt, thấy nó đã xuống trước, còn che ô đợi tôi xuống cùng.
Tôi lười biếng nở một nụ cười, giọng khàn khàn vì vừa tỉnh: "Xíu để bố mắng em vì lâu rồi không về nhà."
Nó khom người, một tay giữ ô, một tay chìa ra trước mặt tôi. "Để bố mắng cũng được."
Giọng nó pha nửa đùa nửa thật: "Bố không mắng anh là được tất."
Tôi cười dài, cố tình không nắm lấy tay nó, tự mình lồm cồm bước xuống. Nước mưa bắn lách tách lên giày, hơi lạnh ập vào mặt khiến tôi vội rụt cổ, lắc đầu:
"Mắng em thì anh sẽ đau lòng lắm."
Phác Đáo Hiền đánh mắt sang, chiếc ô nghiêng về phía tôi nhiều hơn, làm vai nó ướt một mảng.
"Anh nói nhiều quá." Thằng nhóc này chửi người không có tí sát thương nào, tôi bĩu môi.
Bước vào gian nhà chính, bố tôi sẽ thường hay ngồi trên chiếc ghế gỗ quý hiếm mà ông thích nhất. Lưng ông thẳng tắp, sẽ luôn cố đọc một quyển sách mỗi ngày vì sợ chứng quên lãng. Y như dự đoán, vừa thấy tôi cùng Phác Đáo Hiền bước vào, ông liếc mắt sang, điềm đạm nói:
"Biết mấy giờ rồi không?"
Tôi nhanh nhảu bước tới, ngồi xuống cạnh, nịnh nọt bóp bóp vai ông: "Mưa gió lắm bố ạ, thương bố nên tụi con tức tốc về nhanh nhất luôn."
Ông hừ một tiếng, chuyển hướng sang Phác Đáo Hiền, ánh mắt dịu đi rõ rệt:
"Sao hôm qua con không đuổi anh về sớm? Ở đó chỉ tổ quấy rối công tác tập luyện."
Tôi bất bình ra mặt: "Bố!"
Phác Đáo Hiền nhanh chóng thích ứng với nhịp của bố, thản nhiên tung hứng: "Anh về sớm thì con sợ anh làm phiền giấc ngủ bố dì mất."
Khuôn miệng ông giật giật, bất ngờ bật cười thành tiếng. Bố tôi rất thiên vị Phác Đáo Hiền khoản làm ông vui, tiếng cười sang sang vang khắp gian nhà, át cả tiếng mưa rơi ngoài hiên.
"Con nói có lý đấy." Ông gật gù, tôi đoán ông khoái trá với mấy trò trêu ghẹo tôi lắm.
Tôi tỏ ra mình yếu thế, than thở một hai câu làm vẻ tội nghiệp: "Bố thương nó đến vậy thì mốt con đuổi nó ra khỏi nhà, không thèm đi thăm nữa."
Ông nhấp một ngụm trà thanh giọng, thong thả đáp: "Ôi giời, bố lại sợ con khóc mất."
Lần này Phác Đáo Hiền cười rạng rỡ, vai rung lên nhè nhẹ. Đôi mắt nó sáng ngời, không có ý định che giấu chút niềm vui nhỏ nhặt. Tôi vùng vằn đứng dậy, kêu ca rằng sẽ mách dì cho bằng được, nhường chỗ cho Phác Đáo Hiền và bố.
Tôi rất thích khung cảnh này.
Phác Đáo Hiền là Chỉ huy trưởng, ở quân ngũ sẽ hoá thành chó sói đầu đàn uy nghiêm, liếc mắt một cái liền khiến người khác lạnh sống lưng. Mặt khác, Phác Đáo Hiền ở nhà là một đứa con trai ngoan ngoãn, dù ít nói nhưng hiểu thấu mọi lời răn dạy, thích nhận được lời khen của bố.
Nó ngồi thẳng lưng, một tay đặt gọn gàng trên đầu gối, một tay chỉ vào những chỗ bố ghi chú trên sách. Bố cùng Phác Đáo Hiền như là bằng hữu về sách; ngoài chiến sự, cả ngày hai người đều nói về một quyển sách nào đó. Thật khó tin đó là cùng một người đã quát tháo, dẫn đường cả trăm binh sĩ giữa thao trường rộng lớn.
"Ông ơi, Hạo, Hiền vào ăn cơm."
Tiếng dì cất lên từ gian bếp, nhẹ nhàng mà dứt khoát. Mùi thức ăn nóng hổi lan theo gió, át đi cái lạnh ẩm ướt của mưa ngoài hiên. Tôi lon ton bước vào như cá gặp nước, bỏ mặc hai người bắt nạt tôi ở ngoài:
"Vâng, con tới ngay đây."
Bố tôi thu lại dáng vẻ cười đùa, khép cuốn sách, động tác nghiêm chỉnh như đang đi bàn trò chuyện chính trị cùng Phác Đáo Hiền. Còn nó thì không vội là bao, cất giọng trả lời:
"Chúng con ra liền, dì ạ."
Tôi lườm nó, lè lưỡi trêu ngươi đứa nhóc này.
Bước vào phòng ăn, trên bàn đã bày biện đầy đủ: cá kho tộ, canh khoai mỡ nóng bốc khói, thêm đĩa rau luộc xanh mướt. Dì Bích đặt đôi đũa vào tay tôi, cười hiền hậu:
"Hạo, con ăn nhiều vào, không dì đình công."
Tôi còn chưa kịp đáp thì Phác Đáo Hiền đã gắp ngay một miếng cá bỏ vào bát tôi, giọng bình thản: "Anh ăn đi, dì nói đúng rồi đó."
Dì gật đầu phải phải, ánh mắt thoáng chút hài lòng. Bố cũng ho khan một tiếng, nhưng khóe môi dần cong cong. Đây là viễn cảnh tôi đã trải qua suốt hai năm nay. Tôi đi dạy, có thời gian sẽ về thăm nhà, cự lộn đôi ba câu với Phác Đáo Hiền, sẽ trò chuyện mấy chuyện lông gà vỏ tỏi với dì Bích, sẽ bắt bố nghe tôi than thở về mấy nhóc nhỏ nghịch ngợm thế nào.
Đế Đô với tôi đã đủ ấm rồi.
Tuy nhiên, có những chuyện không ai đoán trước, bỗng đảo lộn việc cơ bản nhất đời mình.
"Hạo, ngày mai con đi xem mắt nhé?"
"Dạ?" Tôi sặc, suýt nghẹn cơm. Mắt tôi mở hết cỡ, bứt rứt khó hiểu.
Dì vẫn điềm nhiên như không.
"Dì sắp xếp cả rồi. Người ta là chỗ quen biết, gia đình môn đăng hộ đối. Con cũng lớn tuổi, cứ coi như đi gặp gỡ bạn bè thôi, tiến tới thì càng tốt."
"Con không đi." Tôi cố không gằn giọng.
Tôi thừa biết ý định của dì Bích. Thật ra dì chẳng muốn tôi yên bề gia thất với cái độ tuổi này, dì làm điều này như một sợi xích trói buộc tôi.
"Vương Hạo, con xem đồng niên với con người ta đã có vợ có con, bố mẹ người ta đều có cháu để ẵm bồng rồi. Dì cũng muốn nhà có trẻ em."
Tôi chau mày, len lén liếc sang bố. Ông định mở miệng nhưng lại dừng, rốt cuộc bất lực với việc giải cứu tôi khỏi vòng vây của dì.
"Bố?" Tôi cố hết sức cầu cứu.
Ông lắc đầu, miễn cưỡng buông lời: "Con nghe lời dì một lần đi, gặp mặt không có gì to tát cả."
Tôi cứng họng. Dì Bích nhìn tôi với ánh mắt chắc chắn không chừa cho tôi bất cứ đường lui nào.
Tôi quay ngoắt sang Phác Đáo Hiền, cọng rơm cuối cùng cứu mạng tôi. Hẳn nó phải khó chịu hơn tôi, gấp mấy lần.
Thế mà tôi đoán sai rồi.
Nó không hề phản đối, cũng chẳng đứng về phía tôi. Phác Đáo Hiền ngồi thẳng lưng, gắp thêm một miếng cá bỏ vào bát tôi, ánh mắt lãnh đạm như chưa từng nghe thấy cuộc đối thoại vừa nãy.
Cái im lặng của nó làm tôi nghẹn ngang cổ họng. Thà nó nổi cáu, phản bác dì ngay trước mặt bố, tôi còn cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng không, Phác Đáo Hiền chọn im lặng. Im lặng đến mức tôi thấy mình như kẻ độc thoại vô nghĩa.
Tôi hít sâu, giả vờ cười nhạt, buông đũa xuống bàn: "Mai con đi."
Không khí trên mâm cơm tức thì thả lỏng. Dì Bích gật gù hài lòng, bố nhấp một ngụm trà, coi như nhà cửa yên ổn hẳn.
Tôi, ngồi giữa một mâm cơm đủ đầy, cảm giác mình bị Phác Đáo Hiền bỏ lại.
8,
"Anh phải nghe em giải thích."
Tôi gập mạnh cuốn sách trên bàn, tiếng bộp vang lên trong gian phòng vắng.
"Giải thích cái gì? Lúc nãy trước mặt dì, em ngồi yên như tượng, không nói nổi một câu. Anh vào thế bí rồi, em hài lòng chưa?"
Phác Đáo Hiền đứng tựa vào cửa sổ, ánh đèn vàng rọi một nửa khuôn mặt đáng ghét của nó. Giọng nó sắc bén hơn bình thường:
"Anh đi gặp mặt một lần thôi, không có to tát gì đâu. Chỉ gặp thôi, chúng ta sẽ tiến hành kế hoạch, anh hiểu mà, phải không Vương H-"
Tôi bật dậy, cơn giận đẩy thẳng lên đại não. "Kế hoạch? Kế hoạch một mình em và dì biết rõ à? Từ lúc nào mà lời nói của anh không còn giá trị vậy Phác Đáo Hiền? Rốt cuộc từ lúc nào mọi người không còn xem trọng anh vậy?"
Tay nó nắm chặt, quay hẳn lại đối diện với tôi, ánh mắt loé lên tia không kiềm nén nổi.
"Hàn Vương Hạo, gia đình đang lo cho anh. Anh đừng có làm quá lên như vậy."
Gia đình. Lo cho anh.
Tôi gác tay lên trán, bỗng muốn cười lớn. Bắt đầu cảm nhận Thủ kỳ quấy rối cuộc sống mình.
Sau hai năm tập trung vào công việc giảng dạy và sau bốn năm rời khỏi quân ngũ, Sở yêu cầu tôi quay về phục vụ với lí do thiếu người đảm nhiệm chức vụ quan trọng. Tôi mở lá thư đến mấy lần, dòng chữ mực đen cũng muốn phai nhạt.
Họ muốn tôi đảm nhiệm Thủ kỳ.
Chức danh nghe hơi mơ hồ, nhưng nó đã có rất lâu đời và được đưa vào đào tạo từ những năm chiến tranh đầu tiên bùng phát. Để miêu tả đơn giản, Thủ kỳ là người cầm cờ. Ở Đế Đô, người cầm cờ mang nhiều ý nghĩa hơn công việc.
Lá cờ không đơn thuần là vải vóc, nó tượng trưng cho sinh mệnh, niềm tin và ý chí của cả một đơn vị. Người cầm cờ chính là người đứng ra hứng chịu mũi tên đầu tiên, là kẻ đi trước mở đường, là hình bóng mà hàng nghìn binh sĩ phía sau phải dõi theo.
Là Thủ kỳ, đồng nghĩa với việc trở thành tâm điểm của cả quân đội. Đứng vững thì quân ngũ còn tinh thần, ngã xuống thì cả hàng ngũ sau lưng chao đảo.
Một vai trò vừa vinh quang vừa đáng sợ.
Năm tôi còn ở quân ngũ, có gặp qua những người đào tạo cho chức danh Thủ kỳ này. Họ kể tôi nghe rất nhiều về những vị đời trước, những quy luật của riêng họ, không nằm trên sách giấy mà bắt buộc phải ghi nhớ.
Họ nói, Thủ kỳ không được phép hoảng loạn. Dù trước mặt có là biển lửa hay rừng gươm, lá cờ vẫn phải đứng thẳng. Thủ kỳ cũng không được phép lùi bước, vì mỗi bước lùi là hàng nghìn bước chao đảo phía sau. Người đó phải giữ được mình sạch sẽ cả về danh dự lẫn thân thể, như một tấm gương để binh sĩ soi vào mà không thấy vết nhơ. Trong sạch ở đây ai cũng hiểu, là không quan hệ thể xác, không hôn nhân ràng buộc.
"Nói xem, kế hoạch của em là gì?"
Tôi thề rằng mình không gằn giọng, thế mà từng chữ phát ra như đeo thêm viên đá. Câu hỏi ấy không chỉ để nghe câu trả lời, mà còn để ép buộc Phác Đáo Hiền không còn đường lùi.
Nó im lặng vài giây, đôi mắt nóng rực như muốn xuyên thủng tôi, chậm rãi nói:
"Anh đi xem mắt. Anh kết hôn. Anh sẽ không còn đủ tư cách làm Thủ kỳ nữa."
Tôi chết lặng trong thoáng chốc. Lời giải thích mà tôi chờ đợi lại chính là cái tát thẳng vào mặt.
"Em làm đến mức này để anh từ bỏ cơ hội à?" Tiếng cười của tôi nghe khô khốc. "Dì thì không nói, nhưng em cũng đồng ý kế hoạch này?"
Phác Đáo Hiền cắn chặt môi, bàn tay co thàn nắm đấm, hình như đang kiềm chế đấm nát bất kì thứ gì. "Vương Hạo, em-"
Tôi biết phản ứng này; Phác Đáo Hiền không giỏi nói dối, càng không giỏi nói dối tôi.
Tâm trạng tôi xáo trộn, sinh ra cảm giác không muốn gặp ai ngay lúc này. Tôi tiến đến gần cửa, chỉ tay ra, hét một tiếng: "Ra ngoài!"
Phác Đáo Hiền trừng mắt nhìn tôi, rõ ràng không ngờ tôi nóng giận đến mức độ này. Dường như rất lâu rồi, tôi mới bốc hoả, muốn hất tung mọi thứ. Vì vốn dĩ tôi yêu chiều nó từ nhỏ đến lớn, nên có giận mấy cũng cố kiềm nén lại, không nỡ bộc phát trở ra.
"Tôi bảo em ra ngoài!" Tôi quát lớn, âm thanh dội lại trong căn phòng kín, đến chính tôi cũng nghe thấy sự run rẩy trong giọng mình.
Nó đứng chết lặng vài giây, đôi môi mím thành sợi chỉ, ánh mắt đổ vỡ như một con vật bị thương nặng. Ngực tôi phập phồng theo từng nhịp thở, từng mạch máu đỏ rực như muốn nổ tung dưới lớp da trắng.
"Em luôn mồm bảo em yêu, nhưng tôi kết hôn với người khác thì em chịu. Buồn cười thật đấy, Phác Đáo Hiền." Tôi nói, cố tình cười khẩy một tiếng che giấu cái nhói buốt bên trong.
Không gian vang vọng tiếng mưa rơi lộp bộp ngoài hiên. Cuối cùng, Phác Đáo Hiền hít mạnh một hơi, xoay người đi thẳng. Trước khi bước qua ngưỡng cửa, nó khựng lại, nhưng rốt cuộc vẫn không quay đầu.
Cánh cửa đóng, căn phòng rơi vào im lặng tuyệt đối. Tôi ngồi phịch xuống ghế, lòng bàn tay đè chặt lên vết sẹo bên sườn trái, nơi đau nhức như lần nữa bị viên đạn năm nào xuyên qua.
9,
Tối hôm qua trời mưa lớn, tôi trằn trọc mãi chẳng ngủ nổi. Có nhiều thứ hỗn độn trong tôi. Âm thanh mưa quất vào cửa kính như dội thẳng vào lồng ngực, mấy giọt nước nặng nề gõ nhịp, kéo tôi quay lại giấc mộng xưa cũ. Lửa cháy, khói đặc, tiếng hò hét ngã xuống của đồng đội.
Tôi trở mình liên tục, chăn gối chẳng đủ giữ ấm. Đến gần sáng, cơn mưa vẫn dai dẳng, tôi chợp mắt được một lát, tỉnh dậy đầu óc váng vất.
Sáng nay, tôi phải đi gặp một cô gái mà dì đã sắp xếp từ trước. Tôi soi gương, quầng mắt thâm đen lộ rõ. Gương mặt phản chiếu lại không khác gì bóng ma bước ra từ đêm mưa. Tôi vuốt mái tóc ẩm rối, hít một hơi thật sâu.
Phác Đáo Hiền đã đứng đợi dưới hiên từ sớm, tay cầm ô, chiếc xe đen đỗ ngay ngắn trước cửa. Thấy tôi bước ra, nó lập tức tiến tới mở cửa ghế phụ, động tác quen thuộc như bao lần trước.
Tôi không liếc nhìn, lướt ngang qua. Bàn tay đặt trên cánh cửa ghế sau. Tiếng kim loại bật lên khô khốc, rồi tôi ngồi vào, dửng dưng như Phác Đáo Hiền không hề tồn tại giữa khoảng sân rộng.
"Chú Lý." Tôi gọi.
Người tài xế trung niên vội quay đầu lại: "Vâng, thưa cậu chủ."
"Chú đưa tôi đi."
Phác Đáo Hiền còn đứng đó, bàn tay vẫn đặt trên cánh cửa ghế phụ chưa kịp buông. Một thoáng gượng cứng lướt qua gương mặt nó, nhưng tôi không quay sang nhìn thêm lấy lần nào.
Tôi không muốn đối mặt nó. Phổi tôi dấy lên cảm giác đau đớn lạ lẫm, khiến tôi hít thở không đều.
Tiếng cần gạt mưa quét qua kính, tiếng bánh xe rẽ nước. Ngoài ra, không còn bất cứ thanh âm nào lọt tai. Chiếc xe vun vút mang tôi đi, thẳng tới cuộc gặp mà tôi không mảy may mong muốn.
Phòng riêng ở tầng ba nhà hàng sáng đèn vàng ấm, rèm lụa rủ xuống che khuất một phần khung kính lớn nhìn ra vườn cây dưới mưa. Trên bàn trải khăn trắng là bộ bát đĩa tinh xảo, hoa tươi cắm trong bình thủy tinh, hơi nước còn vương. Mọi thứ đều mang nét chăm chút của người sắp xếp, có phần quá mức chỉn chu.
Cô gái ngồi sẵn ở đó, đứng dậy khi tôi bước vào. "Chào cậu Hàn." giọng cô nhỏ nhẹ, âm sắc trong, không kéo dài cuối câu.
Cô họ Lục, tên Gia Nghi. Khuôn mặt trái xoan, mày thanh, mắt đen toát lên vẻ điềm đạm. Da trắng, gò má có chút ửng hồng, không phải do trang điểm mà do khí trời se lạnh. Tóc cô buông tự nhiên, không kiểu cách cầu kỳ, nhưng nhìn vào lại thấy vừa vặn với phong thái.
Gia đình cô thuộc dạng môn đăng hộ đối, cha mẹ là nhà nghiên cứu, một người trong ngành luật, làm việc dưới quyền bố tôi một người giảng dạy. Từ nhỏ cô đã được nuôi dạy trong nề nếp, ít tiếp xúc với ồn ào xã hội hay thị phi. Nhưng điều đó không làm cô khô khan, trái lại tạo ra sự nền nã và chừng mực, phù hợp với truyền thống.
Khi ngồi xuống, cô mỉm cười, tay nhẹ nhàng đặt trên đùi, động tác đâu ra đấy. "Tôi nghe dì Bích nói anh không thích ăn đồ nhiều dầu mỡ, nên tôi gọi vài món thanh đạm trước. Không biết có hợp ý anh không?"
Tôi liếc qua bàn: rau xào dầu hào, cá hấp xì dầu, canh củ sen, một ít dimsum. Đúng loại tôi hay chọn. Tôi gật đầu, không đáp thừa.
Không khí ban đầu khá yên, có tiếng mưa ngoài cửa sổ. Nhưng khi tôi buông một câu hỏi đơn giản về sở thích đọc sách, câu chuyện liền mở ra.
Gia Nghi kể cô thích đọc tiểu thuyết lịch sử, không phải để giải trí mà để tìm hiểu tâm tư con người trong bối cảnh cũ. Cô nói chậm, rõ ràng, mỗi câu đều có đầu có cuối, không rườm rà. Tôi nhận ra mình không cần vắt óc tìm đề tài, vì cô biết cách duy trì dòng chảy câu chuyện một cách tự nhiên.
Cô cũng hỏi tôi về việc giảng dạy, không hỏi theo kiểu dò xét, mà đúng chất tò mò muốn biết thêm. Khi tôi đáp rằng học trò nhiều lúc khiến mình mệt, cô bật cười: "Tôi từng làm trợ giảng, nên hiểu chút ít. Trẻ con thì phiền, nhưng chúng nhớ mình lâu lắm."
Câu chuyện xoay quanh công việc, sở thích, đôi khi chạm đến chuyện xã hội, nhưng đều nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng cô ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt tôi, ánh mắt điềm nhiên, không có chút dò xét hay nài ép.
Tôi thấy lạ. Lạ vì buổi xem mắt vốn tưởng sẽ ngột ngạt, hóa ra lại giống một buổi gặp gỡ giữa hai người bạn tri thức. Không khí không hề bị trói buộc, cũng chẳng có cảm giác ai đó bắt tôi thử vai đối tượng kết hôn.
Chúng tôi ăn xong khi mưa ngoài kia đã ngớt. Thời gian trôi nhanh đến mức tôi phải ngạc nhiên khi nhìn đồng hồ.
Gia Nghi đặt khăn xuống bàn, giọng nhỏ nhẹ: "Anh trai tôi học cùng khoá với anh ở quân ngũ, chắc anh không nhờ anh ấy đâu."
Trí nhớ tôi khá tốt, bạn học cũ học cùng khoá đều sẽ gặp qua vài lần, cũng có thể nhớ rõ mặt. Tôi lục trong kí ức về người nào đó họ Lục, nghĩ mãi một lúc cảm thấy không nhớ được nữa, tôi đành lắc đầu, cười trừ với Gia Nghi.
Cô cười xoà: "Không nhớ là chuyện thường mà. Anh ấy tên Lục Gia Hiên, hơi nhút nhát, bảo rằng đã từng rất hâm mộ anh."
Tôi gật gù, ngả nhẹ lưng vào ghế, như chỉ tiếp chuyện xã giao. Không khí bữa ăn vốn thoải mái, món ăn nhẹ bụng, vừa vặn khẩu vị, chẳng có gì gượng gạo. Tôi tưởng đâu cuộc nói chuyện sẽ xoay quanh vài câu hỏi thăm bình thường.
Thế mà Gia Nghi nghiêng đầu, giọng nhỏ vừa đủ: "Anh trai tôi có một thắc mắc. Trước khi tiến cử đội trưởng đội Một, anh đột ngột bị thương rồi rút lui luôn. Anh ấy vẫn tiếc nuối cho anh lắm. Hôm nay tôi thay anh ấy hỏi tại sao, nếu anh thấy phiền thì không cần trả lời đâu."
Tôi thoáng khựng, rồi bất ngờ muốn cười. Không phải kiểu cười che giấu, cũng không phải để né tránh. Nụ cười đơn giản như gió thổi qua ly trà, thư thả đến lạ.
"Không sao mà." Tôi ngồi chống khuỷu tay lên bàn, xoay xoay ly nước trong tay.
Ánh đèn vàng trên trần hắt xuống, loang loáng mặt bàn, như đưa tôi trở về năm tháng cũ.
"Ngày đó tôi ứng chiến cùng đơn vị. Tình thế hỗn loạn, tôi cũng còn trẻ, máu nóng nhiều hơn sự bình tĩnh. Trong lúc giao tranh, tôi nổ súng, nhưng phát đạn đó lại cắm thẳng vào sườn trái của mình."
Tôi nói hệt như kể một trò đùa, nhún vai:
"Có người bảo tôi xui xẻo, có người thì bảo tại sơ suất. Chỉ có tôi biết rõ, đó là vì bản thân tôi không còn thích hợp để cầm quân nữa. Thương tích chỉ là cái cớ tốt nhất để rút lui."
Tôi đưa tay chạm vào phần sườn, nheo mắt cười:
"Đến giờ vẫn còn sẹo, nhưng thôi, cũng là một lời nhắc nhở. Tôi rời khỏi quân ngũ, đi dạy học, sống yên ổn hơn nhiều. Có mất mát, có tiếc nuối, nhưng thế cũng là một lựa chọn."
Lời nói ra không nặng nề, không phòng bị. Chỉ như một con người đầy hoài niệm nhìn lại chặng đường cũ, thản nhiên đến mức ngay cả bí mật cũng trôi theo giọng kể êm đềm, chẳng ai nhận ra còn tầng sâu hơn trong đó.
Không khí trong phòng sang trọng bỗng chậm lại, mùi trà thanh nhạt vương trong không khí, còn tôi chỉ thư thả xoay ly nước, không định tiết lộ thêm điều gì nữa.
Bữa ăn nhanh chóng khép lại trong không khí nhàn nhạt, chẳng quá nồng nhiệt cũng chẳng lạnh nhạt. Tôi đứng dậy tiễn cô ra cửa. Ngoài trời đã ngả chiều, ánh đèn đường vừa bật lên, hắt vàng trên mặt đường ẩm hơi sương.
Chiếc xe đỗ sẵn chờ bên lề. Gia Nghi bước chậm, bàn tay thoáng mân mê quai túi xách, như muốn nói gì rồi lại thôi. Khi cửa xe mở ra, cô nghiêng người nhìn tôi, ngập ngừng thủ thỉ:
"Chúng ta... sẽ gặp lại lần nữa chứ?"
Tôi khựng nửa giây, rồi bật cười nhẹ. Không phải tiếng cười to, cố ý phát ra tiếng thở dài pha lẫn chút bông đùa. Tôi lắc đầu, mắt cong dần, giọng trầm mà thong thả:
"Xin lỗi. Có người đang đợi tôi ở nhà."
Câu nói đơn giản, không thêm giải thích, không để lại kẽ hở. Tôi cúi nhẹ đầu như lời chào, lùi một bước.
Gia Nghi thoáng sững, nhưng nhanh chóng che giấu bằng nụ cười lịch thiệp. Cô ngồi vào xe, cửa khép lại, chỉ còn lại mùi nước hoa thoang thoảng trong không khí.
Xe lăn bánh đi mất, để lại con phố tĩnh mịch.
Cô ấy rất tốt, chắc chắn sẽ gặp được người phù hợp. Còn tôi, trong đầu loé lên gương mặt người đang chờ mình ở nhà, tôi bỗng thấy chua chát cả vòm họng. Rốt cục phù hợp có đủ không?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com